Chương bốn
- Lần này thuộc hạ đã không hoàn thành nhiệm vụ, xin thiếu đường chủ trách tội!
- Hừ... Đạo Toàn, ngươi là kẻ ham sống sợ chết, luôn tìm cách bỏ trốn để bảo toàn tính mạng mà làm lộ hành tung của kẻ khác! Điều này làm cho đường chủ rất tức giận, còn định tước đi bùa Thiên Lang của ngươi. Cũng may ta nể tình mà cầu xin ông ta tha tội cho ngươi! Nói đi, ông thu thập được những tin tức gì rồi!
Bên trong một căn phòng nhỏ có hai bóng người, một già một trẻ. Người trẻ tuổi chạc vừa tròn đôi mươi, thần thái bay bổng khác người, diện mạo khôi ngô tuấn tú đang ăn vận trên người một bộ đồ tây dương đắt tiền. Còn kẻ đang quỳ mọp bên đưới đất kia chẳng ai khác ngoài lão già Đạo Toàn. Chỉ cần nhìn vào điệu bộ khúm núm sợ sệt kia của lão cũng đủ biết thân phận người thanh niên kia cao quý như thế nào. Lão già Đạo Toàn vừa dập đầu vừa bẩm báo:
- Dạ thưa thiếu đường chủ, hiện tại người của ta đã phát hiện ra dấu tích người của Hoàng Kỳ Vệ đang trà trộn ở Hương Cảng, có vẻ như hắn đã tìm ra được tung tích của Thái Cực Đồ. Xin thiếu đường chủ phái kẻ thuộc hạ này đi điều tra vụ này!
Người thanh niên khẽ chau mày một giây lát rồi đáp:
- Đối với người của Thiên Lang hội chúng ra thì cả Thái Cực Đồ và Cửu Tử Lệnh đều quan trọng như nhau. Lần này ta không thể khinh suất phái ông đi được. Về việc Thái Cực Đồ ta sẽ sai Thiên Bộc đi xử lý, còn về phần ông, đi gọi ngay đệ tử của ông về, hỏi hắn tại sao Mộc Tinh phù của hắn tại sao lại không hoạt động, đến nay cũng chưa tìm được tin tức gì của Cửu Tử Lệnh. Nếu tên Mạnh Đức đó không ở Hương Cảng thì hắn đang trốn ở chỗ nào? Sống phải thấy người, chết phải thấy xác ! Nếu hắn đã rơi xuống biển rồi thì các người phải xuống tận nơi mà vớt lên có nghe không? Tốt nhất là ông nên điều đồ đệ của mình về Việt Nam mà điều tra ngay đi là hơn! Thôi, ông lui được rồi đó!
Nói đoạn người thanh niên giơ tay trái của mình ra, trên ngón giữa đeo một chiếc nhẫn ngọc xanh biếc. Đạo Toàn nhìn thấy chiếc nhẫn này thì vái lạy một cách cung kính vô cùng, sau đó lấy một chiếc kim bằng bạc trên mặt bàn chọc một nhát vào đầu ngón tay giữa của mình rồi nặn ra một giọt máu lên bề mặt chiếc nhẫn đó. Điều kỳ lạ là giọt máu được nhỏ vào ngay lập tức lan ra khắp bề mặt nhẫn, rồi như cùng một lúc lại như hòa tan, thẩm thấu vào bên trong chiếc nhẫn vậy. Người thanh niên kia thấy vậy thì nhếch miệng cười nhẹ một cái rồi nói:
- Thôi, ông ra ngoài đi!
Đạo Toàn kính cẩn để nguyên hai đầu gối quỳ dưới đất lũi từng chút một ra ngoài mà không dám quay lưng lại phía vị thiếu đường chủ trẻ tuổi kia. Chờ lão ta ra ngoài, người thanh niên đỏm dáng mới nhẹ nhàng bước qua dãy hành lang rồi đi vào trong một căn phòng nhỏ ở mé Tây Bắc. Gian phòng này từ đầu tới cuối không bày biện bất cứ một thứ gì cả, chỉ có một bộ bàn ghế được kê ở chính giữa. Trên đó có một lão già đang chậm rãi ngồi uống trà. Để miêu tả về lão già này thì chỉ có thể dùng một từ để nói, đó là "già". Chẳng thế đoán được lão ta đã bao nhiêu tuổi nữa, có thể nói là lão ta đã "thọ ngang trời đất". Trên gương mặt nhăn nhúm chảy xệ đầy đồi mồi của lão nhẵn nhụi chẳng có tý râu tóc nào, có điều hai hàng lông mày bạc trắng lại nhập lại làm một ở giữa trán và dài đến quá quai hàm, thoạt nhìn trông chẳng khác nào một vị tiên nhân trong một bức tranh cổ. Loại trà của lão ta uống cũng là loại trà thượng hạng của Lâm Vũ Đường – nơi sinh ra chỉ để sản xuất trà tiến cống vào hoàng cung, người thường cho dù có nhiều tiền đến đâu cũng không mua nổi. Bộ ấm chén của ông ta đang dùng còn quý giá hơn gấp nhiều lần, là loại bạch ngọc chỉ có ở thời Chiến Quốc. Duy chỉ có một điều kỳ quái là bộ bàn ghế của ông ta đang ngồi được làm từ loại gỗ âm trầm mộc ngàn năm. Loại gỗ này cũng lại là lõi của một cây cẩm lai đen đại thụ mọc trong khe đá hàng ngàn năm không có ánh sáng mặt trời chiếu tới, không những bóng đẹp, mà loại gỗ này còn chống được hầu hết tàn phá của tự nhiên như mối mọt, nước lửa... cho dù ngâm trong đầm lầy hay phơi dưới mưa nắng hàng vạn năm thớ gỗ vẫn không hề thay đổi, cong vênh. Khi sờ vào thì mát chẳng khác gì đá gan gà. Có thể nói là phúc tổ bảy mươi đời mới gặp được chứ chẳng thể cầu. Có điều, vì những tính chất đó, cộng thêm với việc âm khí của loại gỗ này lại quá nặng, xưa nay cho dù chỉ xuất hiện đôi lần trong lịch sử, cũng chỉ thấy người ta làm quan tài chứ chưa thấy ai lại đem gỗ này làm bàn ghế bao giờ.
Người thanh niên vừa bước vào trong phòng, liền quỳ một chân xuống một cách rất cung kính:
- Cha, người của ta nói rằng đã tìm thấy tung tích của Thái Cực Đồ!
Lão già chẳng nói gì, nhưng nhìn những biểu cảm trên khuôn mặt, có thể thấy rõ vẻ thỏa mãn của lão ta. Người thanh niên trẻ lại nói tiếp:
- Phụ thân, hy vọng lần này người cho con trực tiếp ra trận!
Lão già vẫn không hề vội vàng, chỉ từ từ rót trà từ trong ấm ra một cái chén, sau đó lấy tay trái nâng chén trà lên ngang trước mặt, tay phải cầm phần dưới đáy xoay chén trà theo chiều ngược chiều kim đồng hồ chừng hai vòng rưỡi. Sau khi thưởng thức hương thơm ngào ngạt của loại trà thượng hạng rồi mới nhẹ nhàng đưa lên miệng nhấp một ngụm nhỏ, đoạn từ tốn nói với gã thanh niên:
- Khắc nhi à, con có biết loại trà long tỉnh này phải pha như thế nào không? Nước dùng để pha trà không được quá nóng cũng không được quá nguội, thời gian ngâm trà cũng không được quá lâu, nếu quá lâu thì chát, quá nhanh thì lại nhạt. Việc tìm Thái Cực Đồ con đã nói rằng để Thiên Bộc làm thì cứ để cho hắn làm đi! Còn về phần của con, lúc nào cần khắc ta sẽ dùng tới!
Gã thanh niên được gọi với cái tên Khắc nhi kia không hề cự cãi, chỉ cúi đầu vâng lệnh:
- Dạ thưa phụ thân, con xin tuân mệnh...
- Tốt lắm!
********
Qua cả một đêm hý hoáy vẽ đủ các thể loại bùa dưới sự giúp đỡ của thầy Dương, cơ thể Đức mệt đến rã rời, tưởng như chẳng còn sót lại một chút sức lực nào khiến cho cậu ngủ một mạch đến tận mười giờ sáng mới tỉnh. Ông thầy Dương khi xưa tuy được một vị đạo sĩ là Đỉnh Thiên đạo nhân nuôi dạy vài năm, tuy nhiên hầu hết thời gian đó chỉ dành ra để nối lại kinh mạch cũng như ổn định về tâm lý. Về đạo thuật thì cũng chỉ nắm được hơn căn bản một chút. Có điều ông ta thờ Chân Võ đế quân nên lúc gặp phải những thứ không được sạch sẽ có thể miễn cưỡng làm phép thỉnh thần để chống lại.
Đến bữa trưa thì tất cả hội họp trong căn phòng hôm qua, dùng bữa xong thì sẽ cùng hành động. Nhìn nét mệt mỏi rã rời trên mặt chị Linh, thi thoảng lại còn ngáp một cái thì cũng đủ biết đêm qua chị ta trải qua một đêm ân ái mặn nồng đến thế nào. Ấy thế mà cái tên Bướm kia lại tỉnh táo phởn phơ đến khác thường, không những thế thần thái còn ung dung đĩnh đạc hơn đêm qua đến bội phần. Chẳng biết hắn ta là bậc thần thánh ở phương nào mà lại có thể lực đáng nể đến nhường vậy. Một lúc sau thì anh Đen bế đến một thằng nhóc chừng chín mười tuổi gì đó, người nó xanh rớt như tàu lá, trên mắt còn được quấn kín một lớp băng màu xanh tím than. Theo lời anh Đen kể thì tên nó là Lợi. Thằng cu này dường như là có tài cảm ứng thực sự, cho dù bị bịt mắt nhưng lại có thể khoanh tay chào từng người một cách rất lễ phép, sau đó thì tự động đi ra ghế ngồi vô cùng ngoan ngoãn đáng yêu, khiến cho ai nấy không khỏi bật cười. Sau khi bế bé Lợi vào phòng, anh Đen ngay lập tức chạy ra khỏi phòng, sau đó thì mang vào một chiếc cạp lồng nhỏ cùng một cái hộp gỗ được gói giấy hồng rất đẹp đưa cho chị Linh rồi nói:
- Chị à, biết hôm nay quan trọng như vậy rồi mà sao tối qua không chịu nghỉ ngơi đi! Đây có bát canh ba ba hầm với thuốc bắc em nhờ ông Hùng nấu đặc biệt cho chị, chị ăn xong thì nhớ uống hai viên thuốc phục hồi thể lực này vào!
Chị Linh chớp chớp đôi mắt nhìn anh ta rồi mỉm cười nhận lấy hộp thuốc cùng với cạp lồng canh. Đức bây giờ mới nhận ra là trên bàn ăn không có mặt Toàn béo, đúng là từ sáng đến giờ không nghe thấy cái giọng ba hoa của nó đúng là thấy thiêu thiếu cái gì đó. Quả nhiên nhắc đến Tào Tháo là Tào Tháo xuất hiện liền, thằng béo lao vào trong phòng chẳng khác gì một cơn gió, vừa vào đến nơi đã toác cái miệng lên:
- Chào buổi sáng tất cả mọi người, nói thì lại bảo là ba hoa chứ, trong khi các người thong thả ngồi đây đàm đạo thì tôi phải chạy đôn chạy đáo ở ngoài kia đấy có biết không? Đây, tôi đã phải nhờ ông Hùng kiếm cho mỗi người một cái móng lừa đen rồi nhé, hết sảy luôn, vừa chặt ra xong đấy!
Chị Linh nghe thấy vậy thì nhăn tít cả mặt lại, gắt:
- Cái thằng dở hơi này, móng lừa để làm cái gì? Ăn làm sao được cái này!
- Ối giời ơi, chị không biết công dụng của cái này à, nghe nói móng lừa đen là vật chuyên trị thi biến đấy! Gặp phải cương thi thì chỉ cần nhét cái này vào mồm nó là xong!
- Mẹ, đến lúc đấy thì cậu tự đi mà banh mồm nó ra mà nhét vào nhé! Mà kiếm có mấy cái móng lừa sao lại phải mất thời gian từ sáng đến giờ làm cái gì không biết nữa? – Đức gắt nhẹ.
- À thì nhân dịp có thịt lừa tớ mới bảo ông Hùng đánh thử cho bát tiết canh lừa ăn xem thế nào! Lời khuyên thật lòng nhé, lần sau ăn thì ăn tiết canh dê thôi, đừng có mà ăn tiết lừa, gây lắm...
- Suốt ngày ăn, ăn! Có mà ăn cái đầu cậu ấy! Còn không mau chuẩn bị đồ nghề đi! Mà cái bụng của cậu liệu có chui vào trong ấy được không?
- Hề hề, đào mồ đổ đấu, khai quan phát tài thì làm sao thiếu được phần của tớ cơ chứ...
Ăn uống no say, tất cả chuẩn bị hành trang lên đường. Lối vào cổ mộ ở khu Đông đã được ngụy trang cẩn thận bằng một cái nắp tầng hầm chứa đồ. Ai nấy đều mang những dụng cụ khác nhau của riêng mình. Mạnh Đức với thầy Dương là các thứ trừ tà ma như bùa chú, gạo nếp, máu chó máu gà... Trước khi lên đường Mạnh Đức cũng kiến nghị với mọi người đổi hết dao săn thành những con dao bầu chọc tiết lợn đã qua sử dụng để mượn sát khí của nó. Hai anh em Thiên Tàn - Địa Khuyết là những người mang nhiều đồ nghề nhất, người anh mang đủ các loại dây cùng với các loại móc. Anh ta sử dụng vũ khí là một sợi dây xích có đầu được đúc vào một quả nặng bằng thép, vừa có thể sử dụng để tấn công, vừa có thể dùng để đu bám trên tường. Người em Địa Khuyết sử dụng vũ khí là một cây cuốc chim làm bằng thép đặc nặng đến gần năm mươi cân, vừa dùng để đánh người, vừa có thể phá đá mở đường lúc cần thiết. Ngoài ra anh ta còn đeo thêm một chiếc sọt tre để cho thằng bé Lợi có thể ngồi vào trong đó. Trong cả đám, chỉ có tên Bướm là nhàn nhã thảnh thơi. Hắn không những không mang đồ nghề, mà chỉ mang theo bên mình một chai rượu đế, theo lời hắn nói thì hắn thà chết còn hơn không có rượu bên mình, cầm theo một chai rượu còn vững tâm hơn cả vác theo đại pháo nữa... Khi mọi người xong xuôi đâu đấy, chỉ có Đen là hơi bất ngờ, anh ta nói với một giọng đầy vẻ thất vọng:
- Chị Linh, tại sao lại không có đồ của em? Em xuống đó cũng có thể có ích mà!
Chị ta chỉ mỉm cười đầy ẩn ý rồi tháo chùm chìa khóa treo ở bên hông đưa vào tay anh ta nắm chặt lại:
- Đen à, cậu là người duy nhất mà tôi tin tưởng ở ngoài này! Chỉ có cậu mới có thể bảo vệ Hồng Kỳ Bang của chúng ta thôi! Tất cả đều phải dựa vào một mình cậu!
- Nhưng mà...
- Nào, không nhưng nhị gì hết, không lẽ cậu không nghe lời tôi nói sao?
Không thể cãi lại lời chị cả, Đen đành miễn cưỡng quay trở về, trước khi về anh ta còn dúi vào tay chị Linh một lọ thuốc bột nhỏ, nói rằng đó là thuốc kháng sinh loại mới của người tây do quân đội Anh quốc điều chế. Chuẩn bị xong xuôi, tất cả ôm đồ nghề theo đường hầm đã được người của chị Linh đào sẵn trèo dần xuống dưới. Quả thực Địa Khuyết là người rất có bản lĩnh. Chỉ sau một đêm mà anh ta đã chuẩn bị được một lối đi xuống khá rộng rãi, hai bên còn lắp đèn điện, còn có cả hệ thống quạt thông gió. Bước hết phần đường hầm là một không gian cực kỳ rộng lớn, phải to ngang một nửa cái sân bóng đá, vừa nhìn đã thấy không phải là một cái hang động tự nhiên. Bởi vì đối diện với khoảng không gian đó là một bờ vực sâu thăm thẳm không nhìn thấy đáy. Trên mép vực có một cây cầu bằng đá nối sang bờ vực bên kia. Soi đèn thì thấy ở đó có một cái cửa hang nho nhỏ. Địa Khuyết liền nói:
- Tất cả người của chúng ta, sau khi đi vào trong cái cửa hang đó thì chưa thấy có một ai từng trở ra được, bây giờ phải làm như thế nào đây?
Chị Linh trả lời ngay lập tức một cách rất cứng rắn:
- Đã đến nước này rồi, cứ xông bừa lên, mọi người chịu khó mang theo các loại bùa chú và vũ khí phòng thân là được!
Cả đoàn người nối đuôi nhau bước đi từng bước chậm rãi, đến cả hít vào cũng còn không dám chứ đừng nói đến chuyện thở mạnh. Nhưng trái với sự sợ hãi của mọi người, phía sau cửa hang lại chẳng có gì đáng sợ, chỉ là hai lối đi nhỏ, một trái một phải. Đến lúc này chị Linh mới hỏi:
- Bây giờ sao đây, đi bên nào?
Toàn béo nãy giờ ngậm hột thị, đến lúc này mới được mở máy:
- Theo tôi ấy, hình như là trái thì phải! Thôi cứ đi bên phải đi!
- Mẹ nhà cậu thế rốt cuộc là trái hay phải?
Sau một hồi tranh cãi thì mọi người chia làm hai tốp, thầy Dương, Đức cùng với anh em nhà Thiên Tàn – Địa khuyết đi bên phải, những người còn lại đi bên trái. Cuối cùng thì bao nhiêu công chọn lựa đều chẳng để làm gì, cả hai tốp người gặp nhau ở cuối đường. Thì ra đây là một con đường vòng, phía cuối còn có một cánh cửa bằng đá có vẻ như rất nặng. Mạnh Đức cùng săm soi phiến đá một lúc rồi sắc mặt cả hai đều trở nên trắng bệch:
- Hỏng rồi, đây là huyết ấn, là huyết ấn. Cánh cửa này được khắc bởi một lời nguyền bằng máu... là... là...
Thầy Dương cất giọng nhắc:
- Là Thập Bát Thiết Vệ!
Chị Linh cau mày gắt nhẹ:
- Tức là sao?
- Tức là bên trong này có chứa một thứ gì đó cực kỳ kinh khủng, không thể thả ra!
Thập bát thiết vệ chính là trận pháp sử dụng mười tám người đàn ông khỏe mạnh mang tuổi trâu. Sau đó đem các mảnh huyền thiết khâu trực tiếp lên người mười tám người này. Sau đó đem đặt vào mười tám chiếc hòm sắt. Khi làm lễ, người thi pháp trực tiếp cầm dao đâm xuyên qua tim mười tám người kia để cho máu chảy xuống một lỗ nhỏ trong hòm sắt, từ đó chảy xuống một cái rãnh. Máu trong rãnh này lại chảy xuống chân cánh cửa đá, từ đó mọc lên một loại rễ cây đặc biệt bám vào những vết lõm đã được khắc thành cấm chế trên cánh cửa. Một khi cánh cửa bị mở ra, cho dù là bên trong hay bên ngoài ngay lập tức sẽ kích hoạt trận pháp làm cho mười tám thiết vệ bên trong hòm sắt "tỉnh lại"...
Chưa kể hết thì thằng béo đã ngay lập tức nhảy vào mồm:
- Này, sao mới nhìn thấy cánh cửa mà hai người
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro