Chương 1: Tiền Trần
Mấy nghìn năm trước, chân quân Bạch Hoàng vẫn chỉ là một con bạch lộc* đang tu hành trên núi Côn Luân. Tu luyện suốt năm trăm năm, cuối cùng chàng cũng có thể hóa thành hình người.
(*bạch lộc: hươu trắng)
Hôm đó, chàng như thường lệ ra hồ uống nước, nhân tiện soi bóng mình một lần. Khi quay đi, vạt áo dài vừa hóa ra bỗng nhiên bị níu lại. Cúi đầu nhìn xuống, thì ra là bị vướng vào một đóa sen còn chúm chím bên hồ. Chàng vốn định giật áo ra, nhưng lại thấy đóa sen kia run rẩy, trong lòng bỗng dâng lên một cảm giác kỳ lạ.
Núi Côn Luân vốn nhiều linh vật, có lẽ đây không phải một đóa sen bình thường, mà là một đóa hoa đã có linh thức, chỉ là chưa hóa thành hình người. Nghĩ vậy, chàng liền khom người, nhẹ nhàng gỡ vạt áo ra, rồi mới rời đi.
Đến chiều hôm sau, khi quay lại hồ uống nước, chàng phát hiện đóa sen ấy đã hoàn toàn nở rộ—chín cánh hoa xòe rộng, nhụy sen đỏ thẫm, đầu cánh trắng như ngọc phớt chút xanh nhạt, xa trông tựa như một vòng khói lam nhàn nhạt bao quanh, xinh đẹp tuyệt trần, lại mang theo nét thoát tục không thuộc về chốn hồng trần.
Lẽ nào đây chính là "Cửu Biện Đan Liên" trong truyền thuyết?
Ba trăm năm trước, từng có hai đạo nhân lên núi tìm loài hoa này. Khi ấy, chàng vẫn chỉ là một con bạch lộc vừa khai linh trí, tình cờ đi ngang qua nghe được một người trong số họ giảng giải.
Tương truyền, "Cửu Biện Đan Liên" là linh vật chí cao chốn nhân gian. Người sống ăn vào sẽ bách bệnh tiêu tan, cả đời bình an. Người chết ăn vào có thể cải tử hoàn sinh, sống thêm trăm năm. Nhưng truyền thuyết cũng chỉ là truyền thuyết, chưa ai từng tận mắt thấy qua. Không ngờ hôm nay, chàng lại có thể được chiêm ngưỡng.
Lòng vô cùng vui sướng, chàng liền ngồi xuống bên hoa, chăm chú ngắm nhìn. Càng nhìn càng thấy đẹp, càng nhìn càng yêu thích, mãi đến khi trời tối mịt mới giật mình tỉnh lại, lưu luyến trở về động phủ.
Từ ngày đó, ngoài thời gian tu hành, chàng liền thường xuyên đến bên đóa sen, ngắm mãi không chán.
Một ngày nọ, sau khi tu luyện xong, chàng rời động phủ, thấy ánh tà dương đỏ rực, nhuộm cả núi rừng rực rỡ lạ thường. Trong lòng bỗng dâng lên hứng khởi, liền hóa thành bạch lộc, tung vó phiêu du khắp chốn núi non trùng điệp. Khi ngừng lại, mới phát hiện mình đã đến bên hồ.
Lúc này, mặt trời đã lặn, vầng trăng lưỡi liềm nhàn nhạt treo cao, ánh sáng mông lung bảng lảng* giữa đất trời. Chàng vô thức nhìn ra giữa hồ, rồi không khỏi sững người.
(*bảng lảng (ánh sáng): lờ mờ, chập chờn, không rõ nét)
Trong làn nước trong veo, một bóng dáng thanh tao đứng thẳng. Mái tóc dài đen nhánh bay nhẹ trong gió, làn da trắng tựa tuyết ánh lên vẻ trong suốt như ngọc. Đôi mắt khép hờ, đầu ngón tay kết ấn*, một tầng linh khí xanh trắng giao hòa khẽ bao quanh nàng, tỏa ra vẻ thánh khiết thoát trần, mờ ảo như ảo mộng.
(*Kết ấn là một thuật ngữ phổ biến trong văn hóa Á Đông, đặc biệt trong Phật giáo, Đạo giáo, và các tác phẩm manga, anime của Nhật Bản. Nó có nghĩa là tạo ra các thủ ấn —những cử chỉ tay đặc biệt mang ý nghĩa tâm linh, phép thuật hoặc quyền năng.)
Hồi lâu sau, chàng mới hoàn hồn, đưa mắt nhìn đóa sen trên mặt hồ, liền thấy cánh hoa đã khép chặt lại như cũ. Hiển nhiên, nữ tử trên mặt hồ chính là linh thể của đóa Cửu Biện Đan Liên này hóa thành, hôm nay có lẽ là ngày đầu tiên nàng có thể hiện hình người, chọn đúng thời khắc giao thoa giữa nhật nguyệt, linh khí hội tụ.
Khi hoa cỏ tu luyện đến cảnh giới nhất định, hoa linh có thể thoát khỏi thân thể mà hóa thành hình người, còn bản thể vẫn lưu lại tại chỗ. Đợi đến khi bọn họ tu luyện đến mức linh thể và bản thể hợp nhất thì mới có thể chính thức thành tiên. Không giống như loài chim muông hay dã thú, có thể cùng mang linh thể mà rời đi, thuận lợi hơn rất nhiều.
Trong lúc chàng đang trầm tư suy nghĩ, một mùi hương thanh lạnh khẽ thoảng qua. Chàng quay đầu, chỉ thấy nữ tử kia đã đứng trước mặt. Trên người nàng khoác một bộ trường y màu trắng, bên ngoài phủ thêm một lớp lụa mỏng tựa khói xanh. Mái tóc dài như tầng sa đen tuyền buông xuống sau lưng, toàn bộ linh khí thanh khiết giữa đất trời đều tựa hồ hội tụ vào thân ảnh này.
"Đa tạ đạo hữu trăm ngày trước đã cứu mạng." Nàng cúi đầu hành lễ thật sâu.
"A... không cần." Chàng vội vàng đưa tay đỡ, lúc này mới giật mình phát hiện mình vẫn đang ở hình dạng con hươu trắng, lập tức hóa thành hình người, có phần lúng túng nói: "Không cần như vậy."
Nữ tử ngẩng đầu, đôi mắt trong veo tựa tuyết tinh khiết, mang theo chút lạnh lẽo, cứ thế nhìn thẳng vào chàng. "Ngươi biết ta là gì không?"
Giờ phút này, chàng đã bình tĩnh lại, đáp lời thản nhiên: "Cửu Biện Đan Liên."
Nàng khẽ gật đầu, ánh mắt vẫn không rời khỏi chàng, chậm rãi nói: "Ngươi chưa từng nghĩ đến việc ăn ta sao? Ngươi biết đấy, ta đã tu luyện năm trăm năm, nếu ngươi nuốt ta vào, có thể trực tiếp tăng thêm năm trăm năm công lực, hơn nữa bách bệnh bất xâm, nói không chừng còn có thể lập tức phi thăng thành tiên, không cần khổ cực tu hành nữa."
Chàng nghe vậy không khỏi sững người.
Chàng biết Cửu Biện Đan Liên là linh vật hiếm có chốn nhân gian, nhưng thực lòng, chàng chưa từng có ý niệm ấy. Có lẽ là vì khoảnh khắc đóa sen nở rộ, vẻ đẹp tuyệt trần kia đã làm chàng ngây dại, hoặc có lẽ... ngay từ đầu chàng đã chẳng hề có lòng tham. Vì vậy, chàng thành thật đáp: "Ta chưa từng nghĩ đến."
Nghe vậy, nàng không nhịn được mà khẽ cười, tựa cánh sen hé mở, hương thơm nhàn nhạt lan tỏa.
Đó là nụ cười đầu tiên chàng thấy trong thiên địa này, cũng là nụ cười đẹp nhất thế gian.
Từ đó, họ trở thành bằng hữu.
Cùng nhau tu luyện, dìu dắt giúp đỡ lẫn nhau. Khi nghỉ ngơi, họ lại trò chuyện đôi câu, chỉ là từ khi có linh thức đến nay, cả hai đều sống nơi tuyệt đỉnh Côn Luân, xa cách nhân gian, những điều mắt thấy tai nghe quả thực quá ít ỏi. Ngoài tu hành, họ cũng chẳng có đề tài nào khác, vì vậy câu chuyện giữa hai người chẳng được bao nhiêu. Nhưng dù im lặng ở bên nhau, họ cũng không thấy buồn chán hay ngại ngùng. Chàng thường cuộn mình nằm ngủ trên thảm cỏ ven hồ, còn nàng thì đứng trên mặt nước luyện công. Đôi khi, họ dùng thuật pháp, mượn hồ nước như gương soi để nhìn nhân gian. Có lúc vừa ngắm vừa trò chuyện rồi thiếp đi lúc nào không hay, cũng có lúc chỉ lặng lẽ ngồi cạnh nhau, nhìn mây trời cuộn trôi...
Một ngày nọ, chàng nói: "Nhân gian ai ai cũng có tên để xưng hô, chi bằng chúng ta cũng tự đặt cho mình một cái tên, sau này gọi nhau cũng tiện. Lỡ như có ngày gặp phải một cặp Bạch Lộc hay Cửu Biện Liên khác thì biết xưng hô thế nào đây?"
Nàng gật đầu đồng ý, sau đó bảo chàng đặt tên cho nàng. Chàng ngẫm nghĩ rồi nói: "Muội là Cửu Biện Đan Liên, vốn là một loài hoa, mà 'Hoa' (华) cũng đồng âm với 'Hoa' (花) trong từ 'rực rỡ'. Đạo gia chúng ta lại coi trọng quy tắc 'Cửu cửu quy nhất' (九九归一)*, vậy chi bằng gọi muội là Quy Hoa (归华)?"
(*"Cửu" - số 9 là số lớn nhất. Từ lúc bắt đầu ở chỗ "nhất phàm phong thuận" đi đến đây là phát triển cực điểm, lúc này lại quay trở về ban đầu, chính là "cửu cửu quy nhất". Lặp lại một lần nữa như một vòng tuần hoàn, để những điều tốt đẹp trở thành vô tận không dứt.)
Nàng đồng ý, sau đó cũng đặt tên cho chàng. Nàng nói: "Huynh là một con bạch lộc, mà động phủ của huynh lại nằm sâu trong rừng trúc, vậy gọi là Bạch Hoàng* đi." Chàng vui vẻ nhận lấy cái tên ấy.
(*Bạch Hoàng (白篁). 篁 là cây trúc)
Năm tháng trên núi cứ thế trôi qua, tựa như vĩnh hằng bất biến. Thấm thoát, mấy trăm năm lại qua đi.
Một ngày nọ, chàng tu luyện xong liền đến bên hồ tìm nàng, nhưng ven hồ vắng lặng, chẳng thấy bóng dáng nàng đâu. Nghĩ rằng nàng đang ở trong đóa sen, nhưng khi nhìn lại, cánh hoa đã khép chặt, rõ ràng nàng cũng không ở đó. Trong lòng chàng bỗng dâng lên cảm giác mất mát.
Đúng lúc ấy, chàng bỗng thấy nàng từ rừng cây bên kia hồ hốt hoảng lao ra, trên mặt hiện rõ vẻ hoang mang sợ hãi. Chàng vội bước lên đón, hỏi: "Sao thế?"
Nàng nắm chặt tay chàng, thở hổn hển nói: "Vừa nãy ta định vào rừng hái chút thảo dược, không ngờ lại gặp phải phàm nhân. Vừa thấy ta, bọn họ liền nở nụ cười đáng sợ, còn nói muốn bắt ta mang đi hiến cho vị đại vương nào đó!"
Chàng nghe vậy, tim không khỏi thắt lại. Đỉnh Côn Luân rất ít dấu chân người, kẻ đến đây hoặc là cầu đạo, hoặc là tìm kiếm linh dược, hoặc là thợ săn muốn bắt kỳ thú. Những kẻ này đều có chút bản lĩnh. Chàng vội nói: "Mau quay về trong hoa đi."
Nàng lập tức làm theo.
Nhưng khi nhìn đóa tiên liên tuyệt mỹ kia, chàng vẫn không yên tâm. Chàng bèn nhổ một nắm cỏ dại, cẩn thận phủ kín đóa hoa. Vừa che giấu xong, chàng đã nghe thấy tiếng người vọng lại, vội vàng hóa thành hình nai.
Chẳng mấy chốc, ba người từ trong rừng bước ra. Vừa trông thấy chàng, họ liền hô lên đầy kinh ngạc: "Nhìn kìa! Là bạch lộc tiên!"
"Mau bắt lấy nó! Uống máu nó có thể trường sinh bất lão, phi thăng thành tiên ngay giữa ban ngày!"
"Đúng! Đừng để nó chạy thoát!"
Ba người kia lập tức lao tới. Một kẻ đã giương cung, lắp sẵn mũi tên.
Chàng hoảng hốt bỏ chạy. Chưa bao giờ chàng chạy nhanh đến thế, mặc kệ rừng rậm, khe sâu, núi cao, vực thẳm, chàng chỉ một lòng muốn thoát khỏi tiếng la hét và lời nguyền rủa phía sau. Không biết đã chạy bao xa, cũng chẳng biết đã chạy bao lâu, đến khi không còn nghe thấy tiếng truy đuổi nữa, chàng mới dám quay về bên hồ.
Trên thân mang đầy vết thương do ngã, do cọ xát, ba mũi tên vẫn cắm sâu vào da thịt, đau đớn đến mức chàng chẳng còn sức biến lại hình người. Chàng dùng chân trước gạt lớp cỏ dại, thấy nàng vẫn đứng yên lặng như trước, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm. Chàng khẽ chạm vào cánh hoa, dịu dàng nói: "Không sao rồi."
Nàng lập tức hóa thành hình người. Vừa nhìn thấy bộ lông tuyết trắng của chàng thấm đầy máu đỏ, nàng không khỏi hoảng hốt: "Huynh bị thương nặng thế này!"
Chàng thấy nàng bình an, lòng mới nhẹ nhõm. Chàng khẽ cười, thì thào: "Không sao là tốt rồi." Rồi trước mắt tối sầm, chàng ngã xuống, hoàn toàn mất đi tri giác.
Một lúc lâu sau, chàng tỉnh lại giữa tiếng khóc nghẹn ngào và một cảm giác mát lành bao bọc quanh mình.
Vừa mở mắt, điều đầu tiên chàng nhìn thấy chính là gương mặt đẫm lệ của nàng.
Phía sau nàng là một vầng thái dương rực rỡ, đỏ thắm tựa hỏa cầu chói lọi, lơ lửng giữa không trung, bao phủ cả thân ảnh nàng trong một tầng ánh sáng hồng thắm. Những giọt lệ rơi xuống, lấp lánh như từng hạt châu đỏ thẫm.
Đó là lần đầu tiên chàng thấy nàng rơi lệ, cũng là lần duy nhất trong hàng ngàn năm qua.
Có lẽ cũng từ lần đó, hình ảnh chàng đầy máu me khiến nàng ghi khắc quá sâu, sâu đến mức nàng cứ đinh ninh rằng chàng cần được nàng bảo vệ, quên mất rằng chàng cũng là một thượng tiên đã tu luyện cùng nàng suốt hàng ngàn năm.
"Huynh cuối cùng cũng tỉnh rồi!" Nàng vui mừng kêu lên.
"Ừ." Chàng chống tay ngồi dậy, phát hiện ra vết thương trên người đã hoàn toàn hồi phục, bộ lông lại trắng như tuyết, không khỏi kinh ngạc, liền ngẩng đầu nhìn nàng.
Nàng đã thôi khóc, đưa tay lau mặt, khẽ giọng nói: "Vừa thấy huynh ngã xuống, khắp người đầy máu, ta cứ tưởng huynh sắp chết rồi. Trong lòng hoảng loạn, mắt bỗng thấy nóng lên, rồi nước cứ thế chảy ra. Sau đó ta nghĩ, có lẽ đây chính là thứ mà con người gọi là nước mắt. Không ngờ, khi nước mắt rơi xuống người huynh, vết thương liền dần dần khép lại, không còn chảy máu nữa, vì vậy ta liền..."
Giọng nàng càng lúc càng nhỏ, đến cuối cùng thì không còn nghe thấy nữa. Nhưng chàng đã thay nàng nói tiếp: "Vì vậy muội đã khóc mãi, cho đến khi ta tỉnh lại."
Chàng nghĩ, nàng vốn là linh hoa có khả năng chữa thương, lại đã tu hành gần ngàn năm, nước mắt của nàng hàm chứa linh lực, có thể trị thương cũng chẳng có gì lạ.
Nàng hơi đỏ mặt, dường như có chút ngượng ngùng. Dưới ánh dương, vẻ đẹp của nàng càng trở nên thanh tao thoát tục, rực rỡ vô ngần.
Chàng nhìn đến thất thần, chỉ cảm thấy trong lòng như có dòng nước ấm chảy qua, mềm mại mà kỳ lạ, nhưng lại không rõ đó là gì. Trên hàng mi dài của nàng, vẫn còn đọng lại một giọt lệ. Khoảnh khắc ấy, chàng bỗng rất muốn cúi đầu, dùng môi khẽ hút lấy giọt lệ ấy, giống như cách chàng từng hớp đi những giọt sương đọng trên đầu cỏ. Nhưng rốt cuộc, chàng chỉ lặng lẽ nhìn, không hề có bất cứ động tác nào. Vì sao không làm chàng không biết, mà vì sao lại có ý nghĩ ấy chàng cũng không rõ.
Chàng khẽ mỉm cười nhìn nàng, thật lâu sau mới nhẹ giọng nói: "Cảm ơn muội."
"Phải là ta cảm ơn huynh mới đúng." Nàng thở dài, ánh mắt rơi xuống ba mũi tên nhuốm máu còn vương trên bãi cỏ, trong giọng nói đã có thêm vài phần lãnh ý. "Thì ra con người lại xấu xa đáng ghét như vậy!"
Từ đó về sau, nàng càng chăm chỉ tu luyện hơn, pháp lực ngày một tinh thâm. Nàng dựng kết giới bao trùm phạm vi trăm trượng quanh hồ, khiến con người không còn cách nào đặt chân đến đỉnh tuyệt đỉnh của Côn Luân.
Nàng còn tìm đến Sơn thần Côn Luân mượn về vô số ngọc điệp, có cái ghi chép đạo pháp, có cái ghi chép võ thuật, có cái lại là y thuật... Mỗi một phiến ngọc nàng đều đọc vô cùng chăm chú, nghiền ngẫm không bỏ sót một chữ, tu vi cứ thế mà tăng tiến như gió cuốn mây trôi.
Mà tính tình nàng cũng dần thay đổi, càng trở nên lãnh đạm và kiên cường, chẳng còn vẻ dịu dàng e ấp như những hoa tiên khác. Nàng cũng ngày càng dùng thủy kính để quan sát nhân gian nhiều hơn.
Không biết là trùng hợp hay ý trời đã định, mỗi lần nàng mở thủy kính ra, những gì lọt vào mắt nàng luôn là mặt xấu của thế gian.
Hạ Kiệt*, Thương Trụ* để nàng thấy được lòng tham tàn bạo của con người; Phong hỏa hí chư hầu* khiến nàng chứng kiến sự ngu muội u mê của họ; Vệ Tuyên công* dựng đài cướp dâu, Thân Dã (?) giết con khiến nàng cười nhạo con người phóng túng vô đạo, bạc tình vô nghĩa; Nhị đào sát tam sĩ* làm nàng kinh ngạc trước tâm kế thâm sâu lạnh lùng; Ngũ Tử Tư* quật mộ đánh xác càng khiến nàng cảm thán mối thù hận nơi nhân gian quá đỗi sâu nặng...
(*Hạ Kiệt (chữ Hán: 夏桀), tên Lý Quý (履癸), là vị vua thứ 17 và cuối cùng nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc. Ông được truyền thống coi như một bạo chúa và là kẻ áp bức, người mang lại sự sụp đổ của một triều đại. Khoảng cuối thế kỉ 18 TCN Kiệt bị đánh bại bởi Thành Thang, dẫn đến chấm dứt của nhà Hạ (kéo dài khoảng 500 năm) và sự ra đời của nhà Thương.
*Đế Tân (chữ Hán: 帝辛), tên thật Ân Thọ (子受) hoặc Tử Thụ Đức (子受德), còn gọi là Thương vương Thụ (商王受), Thương Trụ, Thương Thụ, là vị vua cuối cùng đời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông được cho là ở ngôi từ 1154 TCN đến 1123 TCN, hoặc 1075 TCN đến 1046 TCN. Theo sử sách, Trụ vương không phải là một vị vua xấu ngay từ đầu. Ông là một vị vua có võ nghệ giỏi, trọng nông nghiệp, thời kỳ đầu trị vì của ông thì triều Thương khá ổn định. Nhân đó, ông đã đem quân đi chinh phạt các nơi, đặc biệt là những người Đông Di. Nhưng sau nhiều năm chinh phạt hao người tốn của, gánh nặng chiến tranh khiến tình hình nội trị của nhà Thương xấu đi, nhiều quý tộc và chư hầu trở nên bất bình, không muốn phục tùng Trụ vương nữa. Bản thân ông không xoa dịu được sự bất bình của các chư hầu, nên đã khiến họ quay sang ủng hộ cho Chu Vũ vương Cơ Phát khởi binh chống lại, nhà Thương diệt vong. Sau khi Đế Tân chết, Chu Vũ vương muốn nêu bật tư cách xấu của ông, đã gọi ông là Trụ Vương (紂王), nghĩa là tàn bạo gian ác. Trong các truyền thuyết dân gian, ông cùng với Đát Kỷ được mô tả là cặp đôi ác độc, chuyên làm những việc bạo ngược hại dân, đặc biệt là trong Phong thần diễn nghĩa, một tiểu thuyết thần thoại nổi tiếng thời nhà Minh.
*Bao Tự (chữ Hán: 褒姒), hay Tụ Tự hoặc Ly Bích (褎姒) là Vương hậu thứ hai của Chu U vương, vị Thiên tử cuối cùng của giai đoạn Tây Chu trong lịch sử Trung Quốc. Truyền thuyết kể rằng, Bao Tự là một mỹ nhân cực kỳ xinh đẹp và quyến rũ, Chu vương mê say nàng nhưng chưa bao giờ thấy nàng cười, lệnh ai làm cho nàng cười sẽ thưởng nghìn lạng vàng. Để thấy nụ cười của Bao Tự, Chu U vương nghe theo một nịnh thần, đốt lửa trên đài để lừa triệu chư hầu chạy đến. Trò đùa này đã gây ra họa mất Cảo Kinh khi quân Khuyển Nhung thực sự chiếm đánh. Nhà chu bắt đầu suy yếu từ đây. Điển tích nổi tiếng này gọi là Phong hỏa hí chư hầu (烽火戲諸侯).
*Vệ Tuyên công (chữ Hán: 衞宣公; trị vì: 718 TCN-700 TCN), tên thật là Cơ Tấn (姬晉), là vị vua thứ 15 của nước Vệ – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông mang tiếng xấu nổi tiếng là hoang dâm vô đạo, lúc chưa lên ngôi đã tư thông với vợ lẽ của cha (mẹ kế) là Di Khương, sau khi lên ngôi thì lại cướp vợ chưa cưới của con trai là Tuyên Khương. Sau khi Tuyên công chết, một người con trai của ông cũng học theo thói loạn luân vô đạo của cha, lấy Tuyên Khương (mẹ kế), tạo ra tiếng xấu loạn luân 3 đời của nước Vệ.
*Trong một dịp vua Tề mở tiệc chiêu đãi Lỗ Chiêu Công cùng quan đại phu Thúc Tôn Nhược, Án Anh đã dùng một quả đào kết hợp với thủ thuật phân chia, nói khích, khiến cho Tam Kiệt của nước Tề là Điền Khai Cương, Công Tôn Tiệp, Cổ Giả Tử thi nhau tự sát. Vụ án này được nhắc đến với giai thoại "Giết ba dũng sĩ bằng hai quả đào" (nhị đào sát tam sĩ, 二桃殺三士).
*Vua Sở Bình Vương lo sợ Ngũ Xa tranh quyền nên lập mưu giết cha con ông. Ngũ Tử Tư trốn sang nước Ngô, thề sẽ diệt nước Sở báo thù. Tại Ngô, ông giúp công tử Quang lên ngôi (vua Hạp Lư) và được trọng dụng. Sau nhiều năm phò tá, ông giúp Hạp Lư đánh bại nước Sở. Dù chiến thắng, Ngũ Tử Tư vẫn chưa nguôi hận vì Sở Bình Vương chưa bị trừng phạt. Được vua Hạp Lư cho phép, ông tìm mộ kẻ thù. Một cụ già—người từng bị bắt xây lăng mộ—chỉ chỗ chôn giấu. Sau khi đào lên, thấy xác còn nguyên vẹn, Ngũ Tử Tư sai quân lôi ra, dùng roi đánh 300 phát, dẫm đạp, khoét mắt, chặt đầu rồi phơi xác giữa đồng, hoàn thành lời thề báo thù.)
Nhìn thấu muôn mặt thế gian, nàng đối với con người đã chán ghét đến cực điểm. Suy nghĩ này không hề thay đổi dù cho nàng đã thành thượng tiên, trong mắt nàng, loài người còn chẳng đáng yêu bằng yêu quái. Khi ấy, nàng từng thở dài: "Nếu không thể tu thành tiên, ta thà vĩnh viễn ẩn cư nơi tuyệt đỉnh Côn Luân, bằng không dù có hóa thành tro bụi, ta cũng chẳng muốn đầu thai làm người."
Khoảnh khắc ấy, chàng có một thoáng ngẩn ngơ. Chàng nghĩ, nếu có thể cùng nàng vĩnh viễn trú ngụ nơi Côn Luân này, ngày ngày ngắm bình minh rực rỡ, năm năm ngắm trăng tròn hoa nở, thì dù có thành tiên hay không cũng chẳng quan trọng nữa.
Nhưng... tựa hồ vẫn có một tia tiếc nuối nào đó, tiếc nuối điều gì, chàng không rõ. Chỉ biết, nếu có thể bù đắp được sự tiếc nuối ấy, thì cuộc đời này mới là viên mãn nhất. Đôi khi, chàng cũng tự hỏi, có lẽ đây chính là lòng tham của chàng chăng?
Mang theo tiếc nuối và nghi hoặc, chàng tiếp tục con đường tu tiên của mình. Ngày tháng dài dằng dặc, chàng dần dần quên đi cảm giác này, chỉ là đôi khi, nó sẽ thoáng hiện lên trong tâm tưởng một thoáng rồi vụt mất.
Cứ thế, hai ngàn năm lại trôi qua.
Cùng trong một ngày, hai người họ được tiên sứ của Ngọc Đế triệu lên thiên đình, phong làm thượng tiên. Chàng là "Bạch Hoàng Chân Quân", được ban tiên phủ "Bạch Lộc Động Thiên". Nàng là "Quy Hoa Linh Quân", được ban tiên phủ "Quy Hoa Cung", giữa hai nơi cách nhau tầng tầng mây phủ, trùng trùng tiên sơn.
Những tháng năm trên thiên giới khác hẳn với ngày tháng tại tuyệt đỉnh Côn Luân.
Thiên giới bao la, tiên chúng đông đúc, kỳ hoa dị quả, cảnh sắc huyền diệu, nhiều không kể xiết. Quả nhiên không khác những lời đồn dưới trần, đây chính là một cõi thiên nhân hòa hợp, tươi đẹp vô ngần.
Nhưng từ đây, thời gian họ ở bên nhau lại ít đi rất nhiều.
Có bao nhiêu tiên nhân tất có bấy nhiêu người tới thăm viếng. Mỗi người đều kết giao thêm những tiên hữu hợp tính hợp ý, cứ cách mấy tháng lại tụ hội một lần, khi thì đại yến linh đình, khi lại tiểu ẩm tiêu dao*, vô cùng vui vẻ hòa hợp.
(*Tiểu ẩm tiêu dao (小饮逍遥) có thể hiểu là những buổi tụ họp nhỏ, mọi người cùng uống rượu, trò chuyện thoải mái và tận hưởng sự thư thái, tự do.)
Hơn nữa, Bạch Hoàng Chân Quân chưởng quản linh mạch vạn vật nhân gian, còn Quy Hoa Linh Quân lại cai quản khí mạch vạn vật nhân gian, mỗi người đều có trọng trách riêng, bận rộn không ít. Vì vậy, họ chỉ có thể nhân lúc rảnh rỗi mà gặp gỡ đôi lần, so với những tháng ngày ở Côn Luân, không chỉ là xa cách về khoảng cách mà thời gian bên nhau cũng ngắn ngủi đến đáng thương.
Cứ thế, lại thêm mấy nghìn năm nữa trôi qua.
Nhân gian trải qua bao lần biển hóa nương dâu*, triều đại thay đổi liên miên, mà ngay cả thiên giới cũng xảy ra không ít chuyện.
(Trong mắt người thường, sự việc biển xanh hóa thành nương dâu là một quá trình dài đằng đẵng, không biết được bao nhiêu đời người mới xảy ra.)
Hàng nghìn năm trôi qua, chứng kiến bao biến thiên nơi thiên giới, nhìn thấu muôn mặt thế gian, cuối cùng chàng cũng nghĩ thông suốt một số chuyện, cũng nhìn rõ một số điều.
Bỗng nhiên, chàng hiểu ra, những nghìn năm trước, tiếc nuối và nghi hoặc trong lòng mình rốt cuộc là gì.
Chỉ là giờ đây, họ đã mỗi người một nơi, bị ngăn cách bởi thiên giới trập trùng.
Phàm nhân luôn cho rằng thiên giới là chốn vô ưu vô lo, tiên nhân là bậc toàn năng vô hạn, nhưng lại không biết rằng thiên giới vốn chỉ là một tấm phản chiếu của nhân gian, tiên nhân cũng có những nỗi ưu phiền của riêng mình, cũng có những điều bất lực không thể với tới.
Tiên nhân không có sinh, lão, bệnh, tử, vậy nên những gì mất đi chỉ là tháng năm nơi thiên giới, cùng với những tình cảm phàm trần đã từng hiện hữu trong lòng.
"Mấy nghìn năm... không ngờ..." Bạch Hoàng cúi đầu nhìn đóa thanh liên trong hồ, khẽ thì thầm, "Mấy nghìn năm tháng cứ thế mà trôi qua..."
"Chân Quân, người đang nói gì vậy?" Một tiên tử phía sau bước tới, nhẹ giọng hỏi, "Quy Hoa Linh Quân vừa rời đi sao? Các tỷ tỷ đã chuẩn bị tiên tửu quả phẩm, vốn muốn mời ngài ấy thưởng thức."
"Ồ, muội ấy đã đi rồi." Bạch Hoàng xoay người, lại thấy đôi mắt tiên tử ấy ửng đỏ, không khỏi ngạc nhiên hỏi: "Ngươi làm sao vậy?"
Tiên tử kia thoáng đỏ mặt, vội lau khóe mắt, nói: "Vừa rồi nghe các tỷ tỷ từ Linh Tiêu Điện trở về kể lại, Ngọc Đế muốn phế bỏ đứa bé trong bụng Thất Công Chúa... Nếu vậy, Thất Công Chúa thật đáng thương quá."
Bạch Hoàng khẽ sững người. Đây vốn là thiên quy, cũng là phong cách trước nay của Ngọc Đế, luật lệ nghiêm khắc như núi, dù là thân nhân cũng không chút dung tình.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro