Cuộc kháng chiến chống đế Quốc Mỹ (1954-1975)
I. Tình hình Việt Nam, sau hiệp định Genève
1. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Sau hiệp định Genève, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bắt đầu chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Bắc gặp một số khó khăn nhưng đồng thời cũng có những thuận lợi cơ bản. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế lạc hậu, lại bị tàn phá nặng nề sau gần trăm năm lệ thuộc và 15 năm chiến tranh. Thuận lợi là tài nguyên đất nước vẫn còn phong phú, có nhà nước dân chủ nhân dân và Đảng lãnh đạo cùng các nước bạn bè giúp đỡ.
Tháng 9.1954, Hội nghị Bộ chính trị Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ cụ thể như sau: Đảg lãnh đạo nhândân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến; ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc.
Cuộc vận động cải cách ruộng đất được phát động rộng rãi và khẩn trương. Đến mùa hè 1956 việc cải cách ruộng đất đã hoàn thành ở đồng bằng và trung du và đạt được kết quả đáng kể: đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến, xóa bỏ quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, hoàn toàn giải phóng nông dân khỏi ách phong kiến có từ hàng nghìn năm, đưa giai cấp nông dân miền Bắc lên làm chủ nhân nông thôn.
Song song với việc cải cách ruộng đất là việc phục hồi kinh tế quốc dân. Thành phần kinh tế quốc doanh được củng cố. Sản lượng lương thực đạt trên 4.000.000 tấn, vượt xa mức trước chiến tranh.
Trên nền tảng kết quả đạt được trong cải cách ruộng đất và phục hồi kinh tế, miền Bắc tiến lên thực hiện kế hoạch ba năm về việc hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. ở nông thôn, từ năm 1959, cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp đã trở thành một cao trào. Đến cuối năm 1960, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã bậc thấp đã căn bản hoàn thành. Hơn 85% số nông hộ đã vào hợp tác xã với 68,06% diện tích ruộng đất. ở thành thị, một số hộ tư sản lớn được cải tạo theo xã hội chủ nghĩa. Công nhân được giải phóng khỏi ách bóc lột của giai cấp tư sản. Hơn 26 vạn thủ công đã gia nhập các hình thức hợp tác xã.
Kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa đã đạt kết quả khả quan về kinh tế và xã hội, xác lập được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ được về cơ bản chế độ người bóc lột người trên miền Bắc. Ngày 1.1.196, bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của Việt Nam được công bố, khẳng định con đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
2. Miền Nam giữ gìn lực lượng cách mạng, tiến tới cuộc Đồng Khởi (1954-1960)
Sau khi quân Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết, đế quốc Mỹ gạt hẳn thực dân Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, trực tiếp thực hành ý đồ xâm lược của mình. Tháng 6.1954 đế quốc Mỹ ráo riết tiến hành việc hất cẳng thực dân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về thành lập chính phủ bù nhìn, triển khai kế hoạch phá hoại việc thi hành Hiệp định Genève.
Đế quốc Mỹ không đạt bộ máy cai trị trực tiếp như thực dân Pháp trước đây mà với một hệ thống cố vấn Mỹ, dùng quyền lực viện trợ quân sự và kinh tế để điều khiển chính quyền tay sai. Về quân sự, đế quốc Mỹ trực tiếp xây dựng, huấn luyện, trang bị và chỉ huy quân ngụy. Về kinh tế, miền Nam dần dần biến thành thị trường tiêu thụ của Mỹ.
Một chế độ độc tài, tàn bạo được thành lập tại miền Nam. Mỹ-Diệm ra sức đàn áp các cuộc đấu tranh yêu nước bằng nhiều đợt "tố cộng, diệt cộng". Tháng 5.1959 chúng ra luật 10/59 để công khai chặt đầu những người yêu nước với những hình thức man rợ thời trung cổ. Từ 1954 đến 1959 ở miền Nam có đến 466.000 người yêu nước bị bắt, 68.000 người bị giết.
Nhiệm vụ trước mắt của miền Nam lúc ấy là giữ gìn lực lượng cách mạng. Các tổ chức yêu nước rút vào bị mật. Những căn cứ cách mạng được duy trì. Những hình thức hợp pháp, bán hợp pháp làm bình phong cho hoạt động cách mạng được phát triển. Đồng thời, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành những cuộc đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà.
Đấu tranh tự vệ, trừ gian, diệt ác cũng được phát động. Đến cuối năm 1957, tại chiến khu Đ, đơn vị vũ trang đầu tiên được thành lập làm nòng cốt cho bộ đội chủ lực Nam Bộ.
Cuối năm 1959 cuộc đấu tranh của miền Nam chuyển hướng thành cuộc đấu tranh vũ trang. Tại nhiều nơi, quần chúng vũ trang nổi dậy diệt ác, phá kìm. Bến Tre phát động một tuần lễ toàn dân đồng khởi nhằm dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại ách kềm kẹp của địch, xây dựng chính quyền cách mạng (1960). Dân chúng nhất tề đứng dậy diệt ác ôn, đánh đồn bót, cướp súng địch, phá vỡ từng mảng lớn bộ máy cai trị của địch ở thôn xã. Từ Bến Tre, làn sóng Đồng Khởi lan ra các tỉnh khác ở Nam Bộ, Tây Nguyên và một số tỉnh ở miền Trung.
Trong cao trào nổi dậy của quần chúng miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập nhằm đánh đổ, chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập để tiến tới việc thống nhất nước nhà.
3. Miền Bắc thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, miền Nam chống "chiến tranh đặc biệt"
Cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc thành công, đưa đất nước vào một bước tiến tới. Trước yêu cầu của tình hình mới. Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Hà Nội vạch ra con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miềN Bắc và con đường đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trên ba lĩnh vực: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, đồng thời xác định khoa học kỹ thuật là then chốt. Thực hiện kế hoạch năm năm cho đến năm 1964 miền Bắc đã bảo đảm được lương thực cơ bản và tự giải quyết được 90% hàng tiêu dùng, đồng thời bắt đầu có tích lũy từ trong nước.
Trong khi ấy ở miền Nam, trước sự phát triển của cuộc cách mạng nhân dân, Mỹ-Diệm gây ra cuộc "chiến tranh đặc biệt". Đó là thứ chiến tranh "dùng người Việt đánh người Việt" kết hợp vũ khí, kỹ thuật hiện đại cùng những biện pháp khủng bố, đàn áp.
Để tiến hành "chiến tranh đặc biệt", Mỹ-Diệm đề ra kế hoạch Staley-Taylor với ba biện pháp chiến lược: Một là, tăng cường quân ngụy do cố vấn Mỹ chỉ huy, sử dụng nhiều máy bay, xe tăng để nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng vũ trang cách mạng. Hai là, giữ vững thành thị, đồng thời dập tắt cách mạng ở nông thôn bằng "bình định" và lập "ấp chiến lược". Ba là, ra sức ngăn chặn biên giới kiểm soát ven biển, cắt đứt nguồn chi viện từ miền Bắc vào, cô lập cách mạng miền Nam.
Mỹ-Diệm xem "quốc sách ấp chiến lược" là xương sống của "chiến tranh đặc biệt". Vì vậy, chúng huy động mọi lực lượng để càn quét, cốt thực hiện cho được quốc sách đó, dự tính trong một thời gian ngắn có thể lập xong 17.000 ấp chiến lược, biến miền Nam thành một trại tập trung khổng lồ.
Nhưng ngay từ đầu, việc dồn dân của Mỹ-ngụy đã gặp phải sự chống đối. Quân giải phóng cùng nhân dân đẩy mạnh đấu tranh, nổi dậy tiến công bằng cả ba mũi chính trị, quân và binh vận. Một số "ấp chiến lược" bị phá hủy, có số biến thành làng chiến đấu của nhân dân.
Chiến thắng oanh liệt của quân dân ở ấp Bắc (Cai Lởy, Mỹ Tho) vào ngày 2.1.1963 chứng minh khả năng chiến thắng của lực lượng cách mạng. Lần đầu tiên với số quân ít hơn địch 10 lần, quân và dân miền Nam đã đánh thắng trận càn quét của trên 2.000 tên địch trang bị hiện đại, sử dụng hàng chục máy bay lên thẳng và xe bọc thép. Quân dân loại khỏi vòng chiến đấu hơn 450 địch (trong đó có 19 xe cốvấn Mỹ), bắn rơi 8 máy bay, bắn cháy 3 xe bọc thép M.113. Mặt trận Dân Tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phát động phong trào "thu đua ấp Bắc, diệt giặc lập công". Nhân dân phá hoàn toàn 2.895 "ấp chiến lược" trong số 6.164 ấp do địch lập ra, số còn lại bị phá đi phá lại cả 5.000 lần, vùng giải phóng lan rộng, làm phá sản chiến thuật "trực thăng vận" và "thiết xa vận" của chúng.
Song song với đấu tranh quân sự, các cuộc đấu tranh chính trị nổ ra ở các thành thị. Tháng 5.1963, tăng ni, phật tử Huế biều tình phản đối lệnh cấm treo cờ Phật, gặp sự đàn áp của chính quyền Diệm, đã lan đến Đà Nẵng, Sài Gòn mà đỉnh cao là cuộc biểu tình vào ngày 16.6.1963 tại Sài Gòn với sự tham gia của 70 vạn quần chúng.
Trước khí thế đấu tranh của nhân dân, đế quốc Mỹ buộc phải làm đảo chính, lật đổ Ngô Đình Diệm, đưa Dương Văn Minh rồi Nguyễn Khánh lên thay. Nhân lúc Diệm đổ, nhân dân ở vùng nông thôn còn bị kềm kẹp đã vùng dậy phá hàng loạt "ấp chiến lược".
Đầu năm 1964, đế quốc Mỹ thực hiện kế hoạch mới, đó là kế hoạch Johnson-Mac Namara nhằm bình định miền Nam trong vòng hai năm (1964-1965). Chúng lập ra bộ chỉ huy liên hợp Việt Mỹ,tăng thêm 6.000 cố vấn Mỹ và đưa quân Mỹ vào miền Nam lên đến hai vạn rưỡi vào cuối năm 1964.
Kế hoạch Johnson-Mac Namara gặp phải sức chống cự mãnh liệt của quân dân mà điển hình là chiến thắng Bình Giã (12.1964). Nơi đây, lần đầu tiên chủ lực quân giải phóng (đã được thành lập từ 15.2.1961) chủ động tiến công quân chủ lực ngụy liên tục sáu ngày đêm, diệt gọn hai tiểu đoàn cơ động và một chi đoàn xe bọc thép M.113, bắn rơi và bắn hỏng 37 máy bay. Chiến dịch Bình Giã là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng làm phá sản "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam.
II. Cả nước chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược
1. Miền Nam chống "chiến tranh cục bộ". Miền Bắc đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ I (1965-1968)
Sau khi thất bại trong "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ chuyển sang "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và đồng thời gây ra chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
Cuối năm 1965 số quân Mỹ và chư hầu đưa vào miền Nam lên đến hơn 20 vạn cùng với vũ khí, phương tiện chiến tranh tối tân. "Chiến tranh cục bộ" bắt đầu tư giữa năm 1965, được tiến hành bằng lực lượng của quân viễn chinh Mỹ, quân chư hầu và quân Ngụy, trong đó quân Mỹ giữ vai trò chủ động. Tại Vạn Tường (Bắc Quảng Ngãi), ngày 18.8.1965, cuộc ra quân đầu tiên của 8.000 quân Mỹ có xe tăng, thiết giáp, không quân, hải quân hỗ trợ đã bị lực lượng cách mạng phản công quyết liệt, loại 900 quân Mỹ, 22 xe tăng và xe bọc thép, 13 máy bay. Chiến thắng Vạn Tường mở đầu cao trào diệt quân xâm lược Mỹ. Hàng vạn chiến dũng sĩ diệt Mỹ lập chiến công. Khắp nơi dâng cao làn sóng tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt.
Mỹ mở cuộc phản công mùa khô, bắt đầu từ tháng 1.1966 kéo dài trong 4 tháng với tất cả 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, chủ yếu nhằm đánh vào miền Đông Nam Bộ và đồng bằng khu V, thực hiện ý đồ "bẻ gãy xương sống Việt cộng". Với thế trận chiến tranh nhân dân, quân dân ta đã chặn đánh địch trên mọi hướng. Sau thất bại, Mỹ-Ngụy lại mở cuộc phản công chiến lược mùa khô thứ hai vào tháng 10-1966 đến tháng 4.1967, tập trung lực lượng đánh vào miền Đông Nam Bộ, nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của cách mạng. Lần này, cuộc phản công cũng bị thất bại. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ đã cùng toàn dân tiêu hao và tiêu diệt địch trên khắp chiến trường. Kết quả là qua hai mùa khô, nhân dân miền Nam đã loại ra ngoài vòng chiến 190.000 địch quân trong đó có 128.000 quân Mỹ và chư hầu, làm thất bại một phần "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.
Tết Mậu Thân, vào ngày 30 và 31.1.1968 quân và dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 64 thành phố và thị xã. Chính quyền cách mạng được thành lập ở Huế và nhiều vùng nông thôn mới được giải phóng. Ngày 20.4.1968 "Liên Minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam" được thành lập, mặt trận thống nhất dân tộc Mỹ được mở rộng. Nhưng lực lượng của địch còn đông với hơn nửa triệu lính Mỹ và gần một triệu lính ngụy. Chúng tổ chức phản công tại các thành thị và nông thôn. Lực lượng cách mạng bị tổn thất lớn. Tuy thế, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" buộc chúng phải nhận đàm phán với lực lượng cách mạng.
Song song với việc tiến hành "chiến tranh cục bộ" tại miền Nam, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại tại miền Bắc. Từ tháng 2.1965, đế quốc Mỹ liên tục dùng không quân và hải quân tăng cường đánh phá ác liệt miền Bắc, nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam ruột thịt. Với mục tiêu "đẩy lùi Bắc Việt Nam về thời đồ đá", không quân và hải quân Mỹ tập trung đánh vào các thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Nguyên, Việt Trì, Vinh đều bị đánh đi đánh lại nhiều lần. Không loại trừ các thủ đoạn man rợ, đế quốc Mỹ còn cho đánh bom các đê điều, các công trình thủy lợi, bắn phá các trường học, bệnh viện, nhà thờ, đền chùa.. nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Hồ Chủ Tịch ra lời kêu gọi: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn
Để chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, việc quân sự hóa toàn dân được thực hiện, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Miền Bắc dấy lên cao trào chống Mỹ cứu nước, vừa sản xuất vừa chiến đấu.
Sau bốn năm chiến đấu, nhân dân miền Bắc đã giành thắng lợi. Tính đến ngày 1.11.1968 có 3243 máy bay Mỹ bị bắn rơi, trong đó có sáu "pháo đài bay" B.52, hàng ngàn giặc lái bị diệt và bắt sống. Mỹ phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc và phải nói chuyện với Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị bốn bên ở Paris.
2. Miền Nam chống chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh"miền Bắc đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ II (1969-1973)
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, đế quốc Mỹ bị tấn công từ nhiều phía, ngay cả trong nội bộ nước Mỹ. Phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam dấy lên khắp nước Mỹ. Hạ nghị viện Mỹ đòi phải rút tất cả quân Mỹ ở Việt Nam về nước trong thời gian ngắn nhất. Nixon phải hứa sẽ chấm dứt chiến tranh trong vòng sáu tháng, cho ra đời cái gọi là "Học thuyết Nixon" và chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Theo chiến lược này, lúc đầu quân Mỹ và quân ngụy vẫn là hai lực lượng chiến lược rồi sau đó Mỹ rút dần quân viễn chinh và chư hầu, tăng thêm quân ngụy để thực hiện việc thay đổi màu da trên xác chết. Mỹ tăng viện trợ quân sự và kinh tế và đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc thêm một lần nữa.
Ngày 1.1.1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào". Hưởng ứng lời kêu gọi, quân dân ở miền Nam mở mấy đợt tiến công, tiêu diệt hàng chục vạn quân Mỹ-ngụy. Đầu năm 1971, sau 43 ngày chiến đấu, quân và dân ở miền Nam lập chiến thắng đường 9-Nam Lào, đập tan ý đồ cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh của Mỹ để cô lập cách mạng miền Nam, diệt trên 25.000 địch, bắn rơi và phá hủy gần 500 máy bay các loại. Đến năm 1972, cuộc tiến công chiến lược của quân dân miền Nam bắt đầu từ Quảng Trị và sau đó lan ra khắp miền, cùng với trận "Điện Biên trên không" của quân dân miền Bắc (bắn rơi 735 máy bay Mỹ) buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Hiệp định Paris được ký vào ngày 27.1.1973 công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt nam, Mỹ phải rút hết quân và chư hầu ra khỏi miền Nam.
III. Cuộc thắng lợi cuối cùng
Dù đã ký Hiệp định Paris và đã thực hiện việc rút quân, nhưng đế quốc Mỹ vẫn bám lấy Việt Nam, tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ để đưa miền Nam thành thuộc địa kiểm mới của Mỹ. Chúng ra sức xây dựng quân đội ngụy thành một đội quân "mạnh nhất Đông Nam á" với số quân trên một triệu mười vạn người. Mỹ đã cút nhưng ngụy chưa nhào, quân dân Việt Nam lại tiến hành chiến dịch mùa xuân 1975 bắt đầu từ Tây Nguyên (10.3 đến 24.3.1945). Sau chiến dịch Tây Nguyên là chiến dịch Huế-Đà Nẵng. Các tỉnh miền Trung lần lượt được giải phóng. Cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 30.4.1975 với sự hiệp đồng chiến đấu của các lực lượng tinh nhuệ, biệt động, tự vệ vùng ven và nội đô, cùng với sự nổi dậy đều khắp của quần chúng, các cánh quân cách mạng thần tốc thọc sâu vào chiếm các mục tiêu quan trọng của thành phố Sài Gòn như dinh Độc Lập, bộ Tổng Tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, bộ Quốc phòng ngụy.. Đại sứ Mỹ chuồn lên máy bay trốn khỏi Sài Gòn, Tổng thống ngụy là Dương Văn Minh đầu hàng. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Đất nước Việt Nam thoát khỏi vòng bị lệ thuộc với bao nhiêu hy sinh của thế hệ anh hùng đã qua. Thế hệ mai sau mãi mãi noi gượng những người đi trước để tiến tới xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bình, phát triển và hạnh phúc.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro