Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Cuộc chiến không ai thắng(trích)

Stanley Karnow

Cuộc chiến không ai thắng(trích)

Phần 1

Stanley Karnow là một trong số rất ít nhà báo phương Tây chứng kiến từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh Việt Nam. Tác phẩm Vietnam – A History của ông là một tài liệu tham khảo không thể thiếu cho những ai tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam. Cho đến nay chỉ một số người Việt đọc được tác phẩm của ông từ nguyên bản tiếng Anh. Nhân kỷ niệm 31 năm ngày kết thúc chiến tranh, talawas trân trọng giới thiệu bản dịch chương mở đầu của tác phẩm đó như là một góc nhìn về cuộc chiến cho những người chưa có điều kiện tiếp xúc với nguyên bản. Hy vọng trong một ngày gần đây chúng tôi có thể giới thiệu trọn vẹn công trình được giải thưởng Pulitzer này.

Tác giả hoàn thành chương sách này năm 1997; đến nay tình hình đã thay đổi song vẫn có nhiều vấn đề còn mang tính thời sự.

Bia tưởng niệm là một cách điệu nghệ thuật: một khối đá đen tuyền bóng láng nằm nghiêng nghiêng trên triền đồi thoai thoải. Nhưng vẻ giản dị của nó gợi lại một thực tại dữ dội. Những dòng tên của người đã khuất khắc trên đá hoa cương không chỉ ghi nhận những cuộc đời đã mất trong chiến trận mà còn biểu hiện sự hy sinh cho một cuộc chinh phục đã thất bại, cho dù động cơ của cuộc chinh phục đó là cao quý hay ảo vọng. Theo một ý nghĩa rộng hơn, chúng biểu trưng cho niềm hy vọng đã tàn phai – hoặc có lẽ là sự sinh thành một nhận thức mới. Chúng là bằng chứng cho điểm kết thúc một niềm tin tuyệt đối vào tính độc nhất về đạo đức, sự bất khả chiến bại về quân sự, và vận mệnh hiển nhiên của nước Mỹ. Chúng là cái giá phải trả, bằng máu và niềm đau khổ, cho sự thức tỉnh để trưởng thành của nước Mỹ, cho sự thừa nhận những giới hạn của nước Mỹ. Cùng với những thanh niên đã chết ở Việt Nam đã tiêu tan luôn giấc mơ về một “Thế kỷ Mỹ”. 

Hàng ngàn cựu chiến binh Việt Nam đổ về thủ đô Washington để dự lễ tưởng niệm trong một dịp cuối tuần lạnh và khô tháng 11 năm 1982. Họ đến cùng với gia đình họ và gia đình của những người đã khuất. Có những người bị bại liệt ngồi trên xe lăn, có những người cụt tay. Họ mặc áo quần lao động hoặc trang phục của doanh nhân, một số người còn mặc nguyên quần áo lính. Có những bài diễn văn, những cuộc hội ngộ, một cuộc diễu hành và một nghi lễ nghiêm trang tại Giáo đường Quốc gia, nơi những người tình nguyện đã tổ chức thắp nến nguyện cầu trong suốt tuần lễ, xướng tên từng người một của gần năm mươi tám ngàn người lính đã bị giết hoặc mất tích trên chiến trường. Nhìn từ xa, đám đông trông giống hệt những đoàn biểu tình phản đối chiến tranh đã tràn qua thủ đô trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Nhưng trong dịp cuối tuần này, những cuộc tranh cãi quá khứ đã không lộ rõ. Giờ đây người Mỹ có vẻ như đang thanh toán món nợ với những người đã chiến đấu và đã chết – ca ngợi sự đóng góp của họ, đền đáp nỗi đau khổ của họ. Những gương mặt, những lời xưng tụng và cả đài tưởng niệm nữa dường như cố chữa lành các vết thương. Hai cái tên ở dòng đầu trên bia tưởng niệm – Dale R. Buis và Chester M. Ovnand – làm tôi nhớ lại một sự kiện xa xôi.

Tôi đến miền Nam Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 7 năm 1959, ngay sau khi sang châu Á làm thông tín viên chính cho các tạp chí TimeLife. Những người nổi dậy chỉ vừa mới “đồng khởi” để thách thức một chế độ mới được sinh ra năm năm về trước, khi một hội nghị quốc tế tổ chức ở Geneva đã chia đôi đất nước này sau thất bại của người Pháp. Lúc đó vẫn chưa có danh từ Việt Cộng – một cái nhãn hàm ý miệt thị mà chính phủ Nam Việt Nam đặt ra để dán cho những người nổi dậy, xem họ là người cộng sản. Cho đến lúc đó những người nổi dậy vẫn còn được gọi là Việt Minh, lực lượng đã đánh bại người Pháp. Vài trăm cố vấn quân sự Mỹ được phái tới đây để huấn luyện và trang bị cho quân đội miền Nam Việt Nam nhưng hiếm có những dấu hiệu bất ổn nghiêm trọng. Thế rồi vào tối ngày 8 tháng 7 năm 1959, một biến cố đã xảy ra tại một trại lính gần Biên Hòa, tổng hành dinh của các sư đoàn quân đội miền Nam Việt Nam chỉ cách Sài Gòn khoảng hai mươi dặm về phía đông bắc. Ngày hôm sau tôi lái xe đến đó để thu thập thông tin chi tiết.

Sáu năm sau, khi Mỹ đổ binh lính, tiền bạc và phương tiện vào đây để mở rộng cuộc chiến, Biên Hòa trở thành một căn cứ Mỹ khổng lồ và thành phố thoái hóa thành một khu giải trí nhếch nhác đầy những quán rượu và nhà thổ. Nhưng vào năm 1959 Biên Hòa vẫn còn là một thị xã tỉnh lỵ nhỏ bé mơ màng với ngôi giáo đường, những tòa biệt thự và những con đường rợp bóng cây, tàn dư của một thế kỷ thực dân Pháp cai trị. Trong lúc lái xe suốt buổi sáng nhiệt đới nóng bức và ẩm ướt, tôi được nhìn lần đầu tiên một vùng đất chưa hề bị chiến tranh khuấy động. Nông dân mặc đồ bà ba đen đội nón lá cúi mình trên đồng lúa giữa những đám ruộng nước, nhịp điệu lao động chậm rãi của họ biểu thị đức tính kiên trì vô hạn của châu Á. Những ngôi chợ quê bận rộn dọc bên đường quảng bá cho sự trù phú của quốc gia. Nhưng khi chạy xe vào trại lính tôi gần như nếm ngay được sự bắt đầu của một cuộc chiến tranh mà quy mô cuối cùng của nó chắc chắn đã vượt quá những tưởng tượng hoang đường nhất của tôi khi ấy.

Đêm trước đó, sáu trong số tám cố vấn Mỹ đồn trú ở Biên Hòa đã trở về chỗ nghỉ sau bữa ăn tối để xem phim, bộ phim The Tattered Dress do Jeanne Crain thủ vai nữ chính. Một người trong số họ đã bật đèn lên để thay phim khi biến cố xảy ra. Quân du kích thò súng qua cửa sổ và vãi đạn khắp phòng bằng súng trường tự động – ngay lập tức giết chết thiếu tá Buis và thượng sĩ Ovnand, cùng với hai cảnh vệ Nam Việt Nam và một đứa bé tám tuổi.

Hai người này không phải là những lính Mỹ đầu tiên bị giết ở Việt Nam. Trung tá A. Peter Dewey của Văn phòng Dịch vụ Chiến lược [1] đã bị bắn hạ một cách tình cờ bởi một nhóm Việt Minh ở ngoại ô Sài Gòn tháng 9 năm 1945. Và một phi công Mỹ gan dạ, đại úy James B. McGovern - biệt danh là McGoon Động đất, theo tên một nhân vật trong bộ phim hài Li’l Abner – đã tử nạn khi lái máy bay chở hàng tiếp tế cho quân đội Pháp đang bị bao vây tại Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954. Nhưng Buis và Ovnand là những người đầu tiên chết trong “Kỷ nguyên Việt Nam”, một lối ngoa ngữ chính thức của người Mỹ để chỉ một cuộc chiến tranh không bao giờ được tuyên chiến chính thức.

Bản tin của tôi về biến cố ở Biên Hòa chỉ nhận được một khoảng không gian khiêm tốn trên tạp chí Time – nó không đáng được nhiều hơn. Bởi vì khi ấy không ai tưởng tượng được rằng sẽ có khoảng ba triệu người Mỹ phục vụ tại Việt Nam – rằng sẽ có hơn năm mươi tám ngàn người bỏ mạng trong những cánh rừng, trên những cánh đồng và tên tuổi của họ hai mươi ba năm sau sẽ được khắc trên một tấm bia tưởng niệm nằm cạnh tượng đài các tổng thống Washington và Lincoln.

Khi ấy, trong lúc xem xét khu nhà chi chít vết đạn ở Biên Hòa, tôi cũng không hình dung được cho dù rất mơ hồ cuộc tàn sát khủng khiếp sẽ hủy diệt nước Việt Nam suốt mười sáu năm chiến tranh triền miên sau đó. Hơn bốn triệu binh lính và thường dân Việt Nam ở cả hai bên – tức là khoảng 10 phần trăm dân số đã bị giết hoặc bị thương. Đa số những người Nam Việt Nam chết được chôn cất trong những nghĩa trang gia đình hoặc dòng tộc. Đi thăm miền Bắc đất nước sau cuộc chiến, tôi đã thấy hàng hàng lớp lớp những bia mộ trắng trong mỗi nghĩa trang làng xã, mỗi tấm bia mang dòng chữ Liệt sĩ. Nhưng những ngôi mộ ấy đều là mộ gió, thi hài của những người đã khuất đã bị xe ủi đẩy xuống những hố chôn chung trong những nấm mồ tập thể ở miền Nam, nơi họ ngã xuống.

Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến tranh không có người chiến thắng, ít ra là theo ngôn ngữ nhân văn – đó là cuộc chiến tranh giữa các nạn nhân. Nguồn gốc của nó cực kỳ phức tạp, những bài học của nó luôn được tranh cãi và hậu quả của nó các thế hệ mai sau sẽ tính toán. Nhưng cho dù đó là một cuộc dấn thân hợp lý hay một nỗ lực sai lầm, nó cũng là một bi kịch mang tầm vóc sử thi.

Lịch sử là một tiến trình trình hữu cơ, là một chuỗi các sự kiện có liên quan với nhau, vô tâm vô tình nhưng không phải không thể tránh được. Các lãnh tụ và người dân đi theo họ quyết định và ủng hộ các sự lựa chọn nhưng chỉ trong khung khổ những kinh nghiệm và khát vọng của họ mà thôi. Cội nguồn của sự can thiệp của người Mỹ vào Việt Nam đã được gieo trồng và nuôi dưỡng trong cái mà giáo sư Daniel Bell ở trường đại học Harvard gọi là “quan niệm của người Mỹ về tính độc nhất của mình”. 

Khi rời nước Anh để sang châu Mỹ năm 1726, nhà triết học và giám mục Anh giáo George Berkeley đã viết: “Hãy tiến về phía tây con đường của đế chế”, báo trước những chân trời mới ở phía xa. Và một thế kỷ sau đó những người Âu châu đã lặp lại lời ông tán dương xã hội mới. Đối với Hegel, châu Mỹ là “miền đất của tương lai”, vẫy gọi “tất cả những ai đã chán nản” lục địa già; trong khi Tocqueville coi nước Mỹ - nơi có những thể chế dân chủ, sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và cơ hội dành cho cá nhân - như là một cột mốc, một hình mẫu cho châu Âu suy đồi đang bị tả tơi vì nghèo đói, vỡ mộng, xung đột giai cấp và rối loạn về ý thức hệ. Ý tưởng về tính độc nhất cũng truyền cảm hứng cho chính những người Mỹ, và cụm từ “vận mệnh hiển nhiên” (manifest destiny) biểu thị niềm tin của họ vào nghĩa vụ phải xuất khẩu những lợi ích mà họ được hưởng cho những nền văn minh ít được đặc ân hơn ở nước ngoài.

Cụm từ này, được chế tác vào năm 1845 để xúc tiến việc sáp nhập bang Texas vào nước Mỹ, lúc đầu chỉ để biện minh cho công cuộc mở rộng nước Mỹ tới các biên giới tự nhiên của nó. Rồi nó trở thành khẩu hiệu của những nhà cải cách, những người bảo trợ đạo luật cấp đất cho người di cư, những người tìm cách mở mang những lãnh địa mới cho những nông dân nhỏ - trong số đó có những di dân người Đức và người Ái Nhĩ Lan, những người đã đào thoát đến nước Mỹ để tìm kiếm tự do và sự an toàn. Chẳng bao lâu sau đó nó được các nhà duy tâm mơ mộng như nhà thơ Walt Whitman phóng đại lên; ông đã thấy trước việc nước Mỹ phóng chiếu “tự do và hạnh phúc” của nó đến các nền văn hóa cổ xưa ở châu Á. Sau đó nữa những người cấp tiến như các tổng thống John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson tin rằng họ đang mở rộng nền đạo đức tự do của nước Mỹ đến Việt Nam như một thứ thuốc giải đối với chủ nghĩa toàn trị. Có lẽ họ đã mượn ý tưởng từ thơ của Whitman:

Từ bờ biển California nhìn về tây

Tôi, một đứa bé già nua,

Tò mò, không mỏi mệt, tìm kiếm những gì chưa thấy

trên những ngọn sóng, hướng về ngôi nhà của tổ phụ, miền đất của người di dân, trông thật xa vời,

Nhìn xa bờ biển Tây phương của tôi, vòng tròn dường như đã bao quanh…

Học thuyết về vận mệnh hiển nhiên rất khác với động lực đế quốc chủ nghĩa vốn bành trướng mạnh trong buổi giao thời giữa hai thế kỷ 19 và 20. Nước Mỹ đã thò tay ra nắm lấy quần đảo Hawaii, đảo Guam và một phần quần đảo Samoa; và nó cũng chiếm lấy Puerto Rico, Cuba và Philippines sau khi đánh bại Tây Ban Nha năm 1898. Nhưng trong lúc các thế lực Âu châu khi ấy cố gắng đục khoét châu Á và châu Phi, thì nước Mỹ rất ít nghiêng về phía thống trị các lãnh thổ ngoại quốc. Trái với người châu Âu cần các thuộc địa ở hải ngoại làm nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp của chính quốc, nước Mỹ có thể dựa hoàn toàn vào các nguồn tài nguyên và thị trường nội địa rộng lớn của mình. Ngoài ra, là những người khởi nghĩa chống lại sự đàn áp của chủ nghĩa thực dân Anh, người Mỹ kiên quyết cự tuyệt cái ý nghĩ thống trị các dân tộc khác. Những người dẫn dắt dư luận xuất sắc nhất của thời ấy như Andrew Carnegie và chủ tịch đại học Harvard Charles Eliot đều kiên quyết chống lại chủ nghĩa đế quốc; họ khẳng định trong các lý lẽ của họ rằng chủ nghĩa đó vi phạm tự do thương mại. 

Thế là Cuba được trao trả độc lập, yêu cầu của Haiti và San Domingo muốn đứng dưới quyền cai trị của Mỹ bị bác bỏ. Khác với châu Âu, nước Mỹ đã tự kiềm chế để không lao vào cuộc cướp bóc đất nước Trung Quốc mà hành động một cách rất đặc trưng là dùng khoản tiền bồi thường cho những thiệt hại người Mỹ phải gánh chịu trong cuộc nổi loạn Nghĩa hòa Đoàn [2] để đào tạo những người Trung Quốc sống trên đất Mỹ. Philippines, lãnh thổ chính còn nằm dưới sự bảo hộ của Mỹ, cuối cùng cũng đã bị chinh phục sau một chiến dịch “bình định” kéo dài, một chiến dịch báo trước chiến lược của Mỹ ở Việt Nam sau này. Nhưng việc người Mỹ sáp nhập quần đảo Philippines là việc làm miễn cưỡng. Như sau này tổng thống William McKinley thú nhận: “Sự thực là tôi không muốn nước Philippines. Và khi quần đảo đó đến với chúng tôi như một món quà của trời đất thì chúng tôi không có cách nào khác hơn là tiếp nhận và tiến hành giáo dục người Phi… Và, nhờ ơn Chúa, chúng tôi làm cho họ những gì tốt nhất mà chúng tôi có thể làm”.

Nhưng sẽ là một sự xuyên tạc trắng trợn nếu nói rằng sự hiện diện của người Mỹ ở nước ngoài là do họ bị thôi thúc triền miên bởi lòng vị tha nhân hậu như vậy. Các doanh nghiệp lớn đã bóc lột “những người anh em da màu nhỏ bé của chúng ta” ở Philippines cũng giống như họ đã thao túng các nền kinh tế Mỹ La-tin, họ thường ủng hộ bọn cường hào ác bá ở địa phương để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Nhưng một giọng điệu thường thấy trong chủ nghĩa bành trướng Mỹ bắt nguồn từ Kinh Thánh - trong khi hoàn tất một trách nhiệm thiêng liêng nào đó dường như nước Mỹ đã được Thượng đế chọn để thực hiện sứ mệnh cứu rỗi địa cầu. Lối nói khoa trương về sự cứu chuộc thấm sâu trong những cam kết của tổng thống Woodrow Wilson “làm cho thế giới trở nên an toàn cho nền dân chủ” dưới sự che chở của Mỹ. Tổng thống Franklin D. Roosevelt cũng đã nhấn mạnh một đề tài tương tự. Ông đã khuyến khích phong trào tự quyết mang tính chất dân tộc chủ nghĩa ở các thuộc địa của châu Âu trong khi phủ nhận rằng nước Mỹ có tham vọng bá chủ thế giới trong thời kỳ sau Thế chiến thứ II. Nhưng ông nhấn mạnh, hòa bình và sự ổn định của thế giới thời hậu chiến sẽ tùy thuộc vào vai trò lãnh đạo toàn cầu của nước Mỹ.

Trong khi đó những tuyên bố đạo đức này lại sánh đôi với sự hăng hái của các nhà truyền giáo Mỹ, nhất là ở Trung Quốc. Ở đó nước Mỹ truyền bá một chính sách Mở Cửa (Open Door), được thiết kế để nâng cao chủ quyền của Trung Quốc chống lại sự xâm phạm của chủ nghĩa đế quốc châu Âu. Nhưng các nhà truyền giáo có nhiệm vụ làm việc từ bên trong để chuyển hóa Trung Quốc thành một đất nước theo Thiên chúa giáo, bằng cách đó mà kích thích sự phát triển các thể chế dân chủ và hun đúc các quan hệ với Mỹ. Ngày nay công việc đó có vẻ kỳ quái nhưng vào lúc ấy có nhiều người Mỹ nổi tiếng nuôi hy vọng về một nước Trung Quốc Công giáo. Anson Burlingame, một nhà ngoại giao và sau này làm cố vấn cho triều đình Mãn Châu, đã từng hình dung “cây thập tự sáng rực trên mọi đỉnh đồi, mọi thung lũng” của đất nước Trung Quốc, còn William Jenning Bryan mong mỏi một “nền văn minh Trung Quốc mới… hình thành trên phong trào Thiên chúa giáo”. Những ước mơ kiểu này dâng trào vào đầu thập niên 1930, khi thống chế Tưởng Giới Thạch – lãnh đạo người Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc – cải đạo theo Tin lành Methodist, chủ yếu là để cải thiện quan hệ với phương Tây. Chẳng bao lâu sau đó nhiều người Mỹ thấy Trung Quốc đang từng bước trở thành một bản sao của Mỹ, một khát vọng mà thượng nghị sĩ Kenneth Wherry của bang Nebraska trình bày một cách nghiêm chỉnh vào năm 1940: “Nhờ hồng ân của Chúa, chúng ta sẽ nâng Thượng Hải lên cao, lên cao nữa cho đến khi nó giống như thành phố Kansas”.

Cũng tán dương cái chủ đề ấy, Henry Luce, ông chủ đầy ảnh hưởng của các tạp chí TimeLife, đã giới thiệu một bản thiết kế huy hoàng cho tương lai nước Mỹ ngay đêm trước khi xảy ra Thế chiến thứ II. Ông là con của các nhà truyền giáo và được sinh ra ở Trung Quốc. Bài xã luận của ông trên báo Life có nhan đề “Thế kỷ Mỹ” đã gây chú ý bằng một giọng giống như Chúa cứu thế: “Điều mà chúng ta cần hơn hết thảy là tìm kiếm và tạo dựng một tầm nhìn về nước Mỹ như là sức mạnh của thế giới, một nước Mỹ thật sự… Nước Mỹ như là trung tâm năng động của tinh thần doanh nghiệp luôn luôn mở rộng, như là trung tâm đào tạo những người phục vụ tài giỏi cho nhân loại, nước Mỹ như là những người Samarita tốt bụng thực sự tin tưởng rằng khi cho ta sẽ được hưởng phước nhiều hơn khi nhận và nước Mỹ như là nơi phát xuất những lý tưởng về Tự do và Công lý – từ những nguyên tố này chắc chắn chúng ta có thể gầy dựng nên một tầm nhìn cho thế kỷ 20… Thế kỹ Mỹ vĩ đại đầu tiên”.

Người ta đón nhận bài báo hùng hồn mà nhạt nhẽo này bằng thái độ hoài nghi, thậm chí chế giễu. Luce đã rút lại ý kiến của mình – nhất là sau khi đương đầu với sự phản hồi của Reinhold Niebhr, một nhà thần học nổi tiếng đã lên tiếng cảnh báo về “sự suy đồi ích kỷ” của các quốc gia được thúc đẩy bởi những mong muốn như vậy. Nhưng niềm tin mà Luce phát biểu – như là người rao giảng về nhiệm vụ của nước Mỹ là bảo vệ trật tự toàn cầu – vẫn tồn tại, và trở thành niềm thôi thúc mới ngay sau Thế chiến thứ II, khi bóng ma của chủ nghĩa cộng sản ám ảnh nước Mỹ. Các tổng thống Mỹ nối tiếp nhau giải thích đi, giải thích lại chính sách ngoại giao của họ bằng một thứ ngôn ngữ vũ trụ. Harry Truman nói: “Thế giới ngày nay mong được chúng ta lãnh đạo”; Dwight Eisenhower cũng nói những lời tương tự. Kennedy cũng vậy, trong bài diễn văn nhậm chức tổng thống ông đã thề rằng nước Mỹ sẽ “bằng mọi giá, chịu đựng mọi gánh nặng, đương đầu với mọi khó khăn, hỗ trợ mọi người bạn, chống lại mọi kẻ thù để bảo đảm sự sinh tồn và thành công của tự do”. Mục tiêu của Johnson, như ông ta miêu tả, là để “mang lại hòa bình và hy vọng đến cho tất cả các dân tộc trên thế giới”. Còn Richard Nixon tự phô diễn mình như là một kiến trúc sư của “tòa lâu đài hòa bình” quốc tế.

Bằng cách đó nước Mỹ tiến tới, dựa trên các giả thuyết được cả chính phủ và nhân dân chia sẻ trong một bầu không khí đồng thuận của cả hai đảng. Những cuộc tranh luận chiến lược lớn trong thời kỳ hậu chiến – chẳng hạn như “trả thù đại chúng” hay “phản ứng linh hoạt” – chỉ tập trung vào các phương thức chứ không phải những mục đích. Và như vậy nước Mỹ đã không vấp ngã vào vũng lầy Việt Nam một cách mù quáng; nước Mỹ cũng không bị đẩy vào cuộc chiến tranh bởi âm mưu của những kẻ hiếu chiến ở Nhà Trắng, Lầu Năm góc, Bộ Ngoại giao hoăc Cục Tình báo trung ương CIA câu kết với các tập đoàn tài chính ở Phố Wall và các công ty Mỹ. Nhiều nhóm viên chức quân sự và dân sự đã trải qua những quá trình lâu dài, cồng kềnh, và thường rất khó khăn khi nghiên cứu các dữ kiện, phác thảo các kế hoạch, đề ra các khả năng lựa chọn mà tổng thống sẽ cân nhắc cẩn thận cùng với những yếu tố chính trị quốc nội trước khi đưa ra sự chọn lựa của mình. Những quyết định của tổng thống còn bị tác động bởi các thành kiến hình thành từ kinh nghiệm quá khứ, thậm chí bởi các yếu tố khí chất riêng của ông ta. Vì thế, việc hoạch định các chính sách đối với Việt Nam không phải là việc làm bừa bãi, tùy tiện nhưng cũng không phải là khoa học. Tuy nhiên các quyết định, cho dù chúng được hoạch định thế nào chăng nữa, cũng phản ánh quan điểm của hầu hết dân chúng Mỹ đến mức họ không thể né tránh trách nhiệm của họ với tư cách một kẻ giám hộ toàn cầu.

Thảm họa ở Việt Nam đã làm mờ quan điểm đó, làm cho người Mỹ bối rối và lưỡng lự về vai trò của họ trên thế giới. Và trong những năm tiếp theo, những diễn biến trái chiều càng làm suy sụp giấc mơ về sự ưu việt của họ. Năm 1973 các nước xuất khẩu dầu mỏ ở Trung Đông đột ngột tăng giá dầu, qua đó chứng minh tính chất dễ bị tổn thương của Mỹ và các nước công nghiệp khác. Người Mỹ cũng thấy họ thua xa các nước khác trong các lĩnh vực như công nghệ, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và xây dựng đô thị. Bị đè nặng dưới khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ, hậu quả của chi tiêu lãng phí, chẳng bao lâu sau, để tránh bị phá sản, nước Mỹ trở nên phụ thuộc vào việc bán trái phiếu và cổ phiếu ra nước ngoài. Vào năm 1989, lần đầu tiên kể từ sau Thế chiến thứ I, đầu tư nước ngoài vào Mỹ đã vượt quá đầu tư của Mỹ ra nước ngoài. Một thời là chủ nợ lớn nhất thế giới, nay nước Mỹ trở thành con nợ lớn nhất thế giới.

Nhưng hơn tất cả mọi biến cố, thất bại tại Việt Nam – cuộc chiến bại duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ - đã làm suy giảm niềm tin tự cao tự đại vào sự siêu việt của nước Mỹ. Tháng giêng 1991, khi tổng thống George Bush phát động cuộc tấn công của Mỹ chống Iraq sau khi nước này xâm lược Kuwait, ông chỉ ra tay sau khi đã vận động được sự ủng hộ của Liên hiệp quốc để cho thấy rằng nước Mỹ không hành động đơn phương. Hơn thế nữa, khi công bố cuộc tấn công, tổng thống Mỹ đã tìm cách xua đuổi nỗi ám ảnh Đông Nam Á bằng cam kết rằng “đây không phải là một Việt Nam khác” – như ông Bush miêu tả, đây là cuộc chiến mà binh lính Mỹ được “yêu cầu chiến đấu với một tay đút túi quần”. Dù sao đi nữa, trước khi ông triển khai quân đội, đã có sự chia rẽ trầm trọng cả trong Quốc hội và trong công chúng Mỹ, sự chia rẽ gợi lại những cuộc tranh cãi đã chia đôi đất nước trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt nam. Và sau khi chiến cuộc đã nổ ra, nước Mỹ vẫn tỉnh táo và phân vân khi những tuyên ngôn về lòng ái quốc bị xóa nhòa bởi nỗi lo âu và hoài nghi ngày càng lan rộng. Đã qua rồi cái thời mà người Mỹ, tin ở tính chất vô địch của mình, cảm thấy thoải mái và tự tin thực hiện cái vai trò sen đầm quốc tế.

Tuy vậy vào cuối tháng 2 năm 1991, trạng thái tâm lý của nước Mỹ thay đổi nhanh chóng – từ lo sợ sang một sự pha trộn giữa tâm lý nhẹ nhõm và hân hoan khi Mỹ và các lực lượng đồng minh ở vùng vịnh Ba Tư chiến thắng một trong những chiến dịch quân sự ngoạn mục nhất trong lịch sử. Sau chỉ sáu tuần chiến tranh – và chỉ bốn ngày đụng độ trên mặt đất – họ đã giải phóng Kuwait và tiến vào miền Nam Iraq, giết, làm bị thương và bắt làm tù binh hơn một trăm ngàn binh sĩ Iraq với cái giá là chỉ hai trăm lính Mỹ chết. Tổng thống Bush tuyên bố thắng trận và trong giây phút đầy tự hào, ông tuyên bố: “Nhờ ơn Chúa, chúng ta đã đá văng cái hội chứng Việt Nam, một lần và mãi mãi”. Nhưng ông đã vội vã nói thêm rằng chiến thắng vùng Vịnh không báo trước sự hồi sinh của thời kỳ trước chiến tranh Việt Nam, khi nước Mỹ tìm cách giải quyết các cuộc khủng hoảng ở khắp mọi nơi – bởi vì, như ông giải thích, cuộc phô diễn hoành tráng sức mạnh quân sự ở vùng Trung Đông đã góp phần ngăn trở các cuộc xung đột tương lai. Ông nói: “Vì những gì đã xảy ra, chúng ta sẽ không phải sử dụng các lực lượng Mỹ ở khắp thế giới”.

Trong lúc đó, những chuyên gia chiến lược như cựu bộ trưởng ngoại giao Henry Kissinger thì lo ngại; họ không chấp nhận kết luận rằng từ nay trở đi nước Mỹ có thể trở lại vai trò trước kia của nó là cảnh sát toàn cầu chỉ từ một thành công gây xúc động trong vùng vịnh Ba Tư. Vốn là một người ủng hộ mạnh mẽ và công khai cho sự can thiệp vào Iraq, bây giờ ông ta lại cảnh báo rằng người Mỹ phải vứt bỏ cái ý nghĩ rằng họ có thể “xử lý đồng thời tất cả mọi vấn đề”. Thay vì vậy, ông viết, đất nước “phải chọn lựa cẩn thận để nuôi dưỡng những nguồn lực cũng như sự tín nhiệm của mình”. Các nhà bình luận khác cũng nhấn mạnh một cách tương tự rằng nước Mỹ đang phải đương đầu với hàng loạt vấn đề nan giải về kinh tế và xã hội cho nên không thể tự mình khoác lấy cái gánh nặng là trách nhiệm vô hạn. Thế là, trong lúc người Mỹ có đầy đủ lý do để vui mừng vì thành công ở Trung Đông thì họ có rất ít lý do để giả định rằng một lần nữa họ lại trở thành một sức mạnh quốc tế vô địch. Sự phởn phơ của người Mỹ đã không làm suy giảm cái căn cứ vững chắc trong quan sát của Daniel Bell mười lăm năm về trước: “Thế kỷ Mỹ được xây dựng trên những bãi cát ngầm của Việt Nam”.

Những lời ngợi ca mang tính chất hồi tưởng về các cuộc chiến tranh bao giờ cũng là lời kinh cầu cho “những gì lẽ ra đã được thực hiện”, sinh ra từ sự sắc sảo của những nhận thức muộn màng về các biến cố đã xảy ra trong quá khứ; trường hợp cuộc xung đột ở Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. 

Người Mỹ đã hậu thuẫn mạnh mẽ tổng thống Lyndon Johnson khi lần đầu tiên ông gửi binh lính chiến đấu Mỹ ra trận vào tháng 3 năm 1965. Về sau, sự ủng hộ chiến tranh thu nhỏ dần – và từ khi chiến tranh kết thúc, thái độ của người Mỹ trở nên lộn xộn và mâu thuẫn. Một cuộc thăm dò ý kiến của báo Time công bố tháng 4 năm 1990 cho thấy 57 phần trăm công chúng Mỹ coi sự can thiệp đó là một “sai lầm”. Nhưng cũng một tỉ lệ ngang như vậy quan niệm rằng, một khi đã tham chiến nước Mỹ cần phải sử dụng tất cả sức mạnh của mình để chiến thắng đối phương. Nhìn cuộc chiến qua một lăng kính khác, đa số các cựu binh đều coi cam kết của Mỹ là hợp lý và họ nói lên niềm tự hào được tham gia thực hiện cam kết đó. Một cuộc khảo sát ý kiến trước đó cũng cho thấy một kết quả tương tự: 83 phần trăm những người được hỏi khẳng định rằng họ đã bị ngăn cản, không cho giành thắng lợi – và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là hai phần ba những người được hỏi ý kiến nói rằng họ sẵn sàng chiến đấu một lần nữa ở Việt Nam nếu như không có những sự kiềm chế mà theo họ tố cáo, đã trói buộc chân cẳng họ trong suốt thời gian chiến tranh. Dù vậy, điều nghịch lý là gần một nửa số cựu chiến binh mà báo Time khảo sát năm 1990 đồng ý với kết quả sau cùng là thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ cộng sản ở Hà Nội.

Cho đến lúc đó, đã có nhiều cựu chiến binh trở lại thăm Việt Nam. Họ đi thăm lại những bãi chiến trường xưa, nay lại trở thành rừng hoang, và khám phá lại những phố thị, những làng mạc một thời họ đã từng sống. Cho dù bị cô lập với thế giới bên ngoài nhiều người Việt Nam cũng đã tiếp thu văn hóa Mỹ qua việc nghe các chương trình phát thanh từ Mỹ, các băng nhạc Mỹ hoặc xem các băng video-cassette ghi lại các bộ phim Mỹ. Và có cảm tưởng như thời gian đã ngừng trôi, những cựu binh Mỹ lại thấy mình được săn đón bởi đám trẻ con vừa cười toe toét vừa hét vang những câu chào thời chiến quen thuộc: “Hê, Joe!”. Tháng giêng năm 1989, tại thành phố Hồ Chí Minh – tên trước kia là Sài Gòn, một cựu du kích Việt Cộng tên là Văn Lê đã đưa cho người phóng viên truyền hình Mỹ Morley Safer một bài thơ mà ông ta viết để vinh danh sự quay lại của những “lính Mỹ”.

Bao nhiêu lính Mỹ

Chết ở đất này?

Bao nhiêu người Việt

Vùi dưới cỏ cây?

Hòa bình gặp lại,

Bên ly rượu đầy

Nào cùng nâng chén

Nước mắt tràn xuống tay.

Nhìn về quá khứ, các chuyên gia quân sự và chính trị Hoa Kỳ đã chẩn đoán chi tiết cuộc xung đột cho nên nghiên cứu về cuộc chiến đã trở thành công việc thứ yếu. Nhưng những lý giải bằng cách nào mà người Mỹ đã ngoảnh mặt với thất bại của họ ở Việt Nam thì cũng nhiều và đa dạng như số lượng các nhà phân tích. 

Như có thể đoán trước được, đại tướng William C. Westmoreland, người chỉ huy các lực lượng Mỹ ở Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968, đã tuyên bố trong hồi ký rằng nhiều ràng buộc đã phá hỏng tính hiệu quả của ông. Ông trách tổng thống Johnson đã leo thang chiến tranh quá chậm, đã từ chối cấp phép cho những cuộc tấn công bất ngờ vào căn cứ của quân thù ở Lào và Căm Bốt, đã cung cấp cho quân đội miền Nam Việt Nam những trang bị không cân xứng và hơn thế nữa, đã không dẹp yên được công chúng Mỹ. Ông cũng chê bai tổng thống Nixon và thương thuyết gia Henry Kissinger đã “bỏ rơi” chính phủ Sài Gòn qua việc chấp nhận một thỏa thuận ngừng bắn vào tháng Giêng 1973 cho phép quân đội miền Bắc được ở lại miền Nam. Trên tất cả, ông phản đối mạng lưới báo chí và truyền hình Mỹ, cho rằng những tường thuật xuyên tạc của họ đã khiến công luận Mỹ quay sang chống đối chiến tranh. Ông đã cho tôi xem bản ghi ý kiến đó vào năm 1981, khi chúng tôi tán gẫu trong bữa ăn tối ở Charleston, thành phố quê hương ông ở bang South Carolina. Ông nói, “Một bài học cần nhớ thuộc lòng là đừng bao giờ gửi thanh niên ra trận trừ phi tổ quốc ủng hộ họ”.

Nhiều sĩ quan Mỹ khác cũng chê bai báo chí; họ cáo buộc rằng các phóng viên đã đầu độc dư luận trong nước bằng cách thổi phồng những thiếu sót và hành động tàn ác của lính Mỹ. Đối với nhiều người chính các bài tường thuật trên báo chí, dù đúng hay sai, đều xói mòn chính nghĩa của người Mỹ. Trung úy Philip B. Davidson viết rằng những cảnh “tàn phá, đau đớn, máu me” xuất hiện hàng đêm trên truyền hình “đã làm dân Mỹ kinh hoàng và mất hết can đảm”. Đại tướng Fred Weyand, người chỉ huy Mỹ cuối cùng ở Việt Nam, đã nhấn mạnh hơn nữa rằng sự chống đối chiến tranh ngày càng tăng lên của dân chúng Mỹ, được báo chí cổ vũ, đã quay lại tác động vào lính Mỹ ở mặt trận, làm cho họ nản chí. “Quân đội Mỹ là quân đội nhân dân thực thụ theo nghĩa là nó thuộc về nhân dân Mỹ… Khi quân đội Mỹ dấn thân thì nhân dân Mỹ cũng dấn thân; còn khi người dân Mỹ từ bỏ sự dấn thân của mình thì mọi cố gắng duy trì sự dấn thân của quân đội đều chỉ là vô ích”.

Nhưng các tổng thống Johnson và Nixon đã chùn tay trong việc áp đặt lệnh kiểm duyệt cùng với những sự kiểm soát nghiêm ngặt về tài chính đối với báo chí; theo tính toán của họ, điều đó sẽ làm gia tăng tầm quan trọng của cuộc chiến và có thể phá họai hình ảnh chính trị của họ ở quê nhà. Thay vì vậy họ áp dụng cái mà họ gọi là “chính sách sự thực tối thiểu”, theo đó các viên chức thông tin quân sự sẽ cố gắng quản lý báo chí bằng cách pha chế ra những dữ kiện lạc quan, thể hiện sự tiến bộ giả tạo. Nhưng rồi, như William M. Hammond kết luận trong một cuốn sử chính thức của quân đội về cuộc chiến, những bản tin mà các phóng viên gửi về từ Việt Nam, tuy có sai sót nhưng “vẫn chính xác hơn nhiều” so với các báo cáo tô hồng của chính phủ. Thế là những nỗ lực che giấu sự thật là những nỗ lực chiến tranh đang suy yếu đã sản sinh ra cái gọi là sự khủng hoảng lòng tin mà theo thời gian đã xói mòn niềm tin của công chúng Mỹ vào các tuyên bố chính thức của nhà nước.

Đối với nhiều sĩ quan Mỹ, thủ phạm chính là tổng thống Johnson, người đã từ chối việc đặt đất nước vào tình trạng chiến tranh vì lo sợ rằng một cuộc chiến tranh toàn diện sẽ thủ tiêu những chương trình kinh tế và xã hội đối nội của ông. Kết quả là, như các sĩ quan này tuyên bố, họ bị chối từ chiến thắng – và nhiều người thậm chí còn cho rằng, bộ tham mưu liên quân nên từ chức hơn là chấp nhận những hạn chế áp đặt lên các lực lượng tham chiến trên chiến trường.

Từ khi chiến tranh kết thúc, những người lính chuyên nghiệp đã công bố hàng loạt nỗi bất bình sâu sắc. Một số người phát biểu rằng họ bị làm tê liệt bởi một cơ cấu chỉ huy mà các binh chủng khác nhau được hoạt động độc lập với nhau – đến mức mà, ví dụ, các đơn vị bộ binh và không quân không thể phối hợp với nhau được. Các cựu phi công của không quân khẳng định rằng, tăng cường ném bom Bắc Việt Nam ngay từ đầu chứ không phải leo thang dần dần theo kiểu Johnson hẳn đã có thể nghiền nát cộng sản trước khi Liên Xô và Trung Quốc kịp giúp họ xây dựng các đơn vị phòng không hết sức hữu hiệu. Đối với trung tướng Robert Montague, người đã phục vụ ở Việt Nam đầu thập niên 1960, sai lầm chết người là ở chỗ ném quân đội Mỹ - những người được huấn luyện để đẩy lùi các cuộc tấn công của người Nga trên đồng bằng Trung Âu, vào một mớ lộn xộn những rừng già nhiệt đới, núi non và đồng lúa, nơi không thể phân biệt quân du kích đối phương với những người nông dân bản xứ bình thường. Đại tướng Bruce Palmer Jr., nguyên là phó của tướng Westmoreland, thì buộc tội hệ thống luân chuyển quân lính, theo đó lính Mỹ được rút về nước chỉ sau một năm – không đủ thời gian cho họ hòa nhập với đơn vị. Phát biểu theo kiểu vừa nói vừa chửi, đô đốc Thomas H. Moore, nguyên là chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân, bảo tôi: “Lẽ ra chúng ta phải đánh nhau ở miền Bắc, nơi mọi người đều là kẻ thù, nơi mà bạn không phải lo nghĩ mình có bắn nhầm vào các thường dân vô tội hay không. Ở miền Nam, chúng ta phải đối phó với những phụ nữ giấu lựu đạn trong áo ngực hoặc trong xe nôi trẻ con. Tôi nhớ hai người lính thủy quân lục chiến của chúng tôi đã bị giết vì những thiếu niên mà họ đang bày cách chơi bóng chuyền. Nhưng Lyndon Johnson đã không muốn lật đổ chính phủ Bắc Việt Nam. Hừm, cái lý do duy nhất để đi đánh nhau là lật đổ một chính phủ mà ta không thích”.

Đại tá Harry G. Summers Jr., một nhà phân tích xuất sắc, thì tỏ ra ít cay cú với báo chí và các chính trị gia hơn là nhiều sĩ quan đồng sự của ông. Là cựu binh hai lần đi thăm Việt Nam, ông phê phán các nhà kế hoạch quân sự của Mỹ về việc truy lùng quân du kích – những người được bố trí để quấy rối quân Mỹ cho đến khi các sư đoàn Bắc Việt Nam có thể tiến hành những cuộc tấn công quy mô lớn. Nói tóm lại, người Mỹ đã tự làm cho mình kiệt sức vì những nỗ lực vô ích để chống nổi dậy – “giống như một con bò mộng chỉ tấn công tấm choàng màu đỏ của đấu sĩ hơn là tấn công chính người đấu sĩ”. Đây là “cuộc chiến tranh tiêu hao” của Westmoreland, căn cứ vào lý thuyết rằng hỏa lực vượt trội của quân Mỹ chắc chắn sẽ hạ gục quân thù. Nhưng như Summers đã viết, trong khi người Mỹ thành công về chiến thuật, hoạt động của Mỹ là một thất bại chiến lược. “Chắc ông biết,” ông ta khoe khoang với một đại tá Bắc Việt Nam sau chiến tranh, “các ông không bao giờ đánh bại chúng tôi trên chiến trường”. Người sĩ quan cộng sản đã đáp lại: “Có thể như thế, nhưng chuyện đó đâu có can hệ gì”.

Theo ước đoán của Summers, lẽ ra nước Mỹ nên bắt đầu tổng phản công từ cuối năm 1965 sau khi đã phá hỏng được nỗ lực của cộng sản muốn cắt ngang miền Nam Việt Nam từ cao nguyên phía tây xuống các khu vực dân cư đông đúc miền duyên hải. Có lẽ ông ta sẽ xua quân vượt qua “khu phi quân sự” chia cắt hai miền Nam – Bắc, rồi tấn công vào đất Lào đến tận biên giới Thái Lan trên sông Mê-kông để phong tỏa những con đường thâm nhập của quân thù từ Bắc vào Nam – một cách giải quyết chỉ đòi hỏi một lực lượng lính Mỹ ít hơn là những chiến dịch “tìm và diệt” của tướng Westmoreland và nhờ vậy sẽ làm giảm thương vong cho quân đội Mỹ. Trong cách nhìn của ông ta, nhiệm vụ chiến đấu với Việt Cộng phải được chuyển giao cho lực lượng miền Nam Việt nam. Tuy nhiên các phân tích gia quân sự khác lại nhìn nhận rằng quân đội của chính phủ Sài Gòn đã bỏ dở nhiệm vụ đó – bởi vì, theo lời của một cố vấn quân sự Mỹ - giới lãnh đạo của nó đã bị bắn thủng vì “thủ đoạn chính trị, tham nhũng và cục bộ”.

Về tác giả: Là một trong số ít các phóng viên nước ngoài có mặt ở Việt Nam từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh, Stanley Karnow chứng kiến tận mắt những sự kiện lớn và có mối quan hệ với nhiều nhân vật quan trọng của các bên. Ông cũng đã trở lại Việt Nam nhiều lần để tiếp xúc, phỏng vấn các lãnh tụ chính trị, quân sự. Tác phẩm Vietnam – A History của ông là một cuốn sử về nước Việt Nam hiện đại từ khi tiếp xúc với phương Tây, trọng tâm là cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam-Bắc. Đây là tác phẩm chủ yếu của Stanley Karnow, mang về cho ông giải thưởng Pulitzer danh giá của báo chí Mỹ và đã có hơn một triệu bản được phát hành. Ngoài tác phẩm này Stanley Karnow còn tham gia tư liệu cho bộ phim tài liệu nổi tiếng Việt Nam – một thiên lịch sử bằng truyền hình.

Phần 2

Nhưng những cuộc khám nghiệm tử thi cuộc chiến, cũng giống những trò chơi chiến tranh, thường rất ít tương đồng với cuộc chiến thật. Trong thực tế, những người cộng sản tỏ ra rất cuồng nhiệt trong ý đồ thống nhất nước Việt Nam dưới sự kiểm soát của họ. Họ nhìn cuộc chiến đấu chống Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam như một chương mới trong cuộc chiến đấu hàng ngàn năm của dân tộc Việt chống lại sự thống trị của Trung Quốc và sau này là Pháp. Và họ đã sẵn sàng chấp nhận những mất mát vô hạn để đạt được mục đích thiêng liêng của họ.

Ông Hồ Chí Minh, một gương mặt khổ hạnh dẫn dắt cuộc thánh chiến của họ, đã làm một sự so sánh rất rõ ràng cho người Pháp ngay trước lúc nổ ra cuộc chiến tranh Việt-Pháp năm 1946. Ông cảnh báo một sĩ quan Pháp: “Các ông có thể giết mười người của chúng tôi đổi lại việc chúng tôi giết một người của các ông, nhưng cho dù như vậy cuối cùng các ông sẽ thua và chúng tôi sẽ thắng”. Lúc ấy, đại tướng Võ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh các lực lượng cộng sản, cũng nhắc lại ý chí đó, thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Ông nói: “Mỗi phút trên trái đất này có hàng trăm ngàn người chết. Sống chết của hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn con người, kể cả đồng bào của chúng tôi, cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Khi tôi phỏng vấn ông vào tháng 3 năm 1990 tại Hà Nội, ông đã nhắc lại rằng mối quan tâm chính của ông là chiến thắng chứ không phải là số thương vong. Tôi hỏi: “Đại tướng sẽ tiếp tục chiến đấu chống Mỹ bao lâu nữa?” Ông đáp ngay: “Hai mươi năm nữa, cũng có thể là một trăm năm nữa, cho đến bao giờ chúng tôi giành chiến thắng, bằng mọi giá”.

Những chiến lược gia của Mỹ đã lầm lẫn khi gán cho người cộng sản những giá trị của mình. Westmoreland là một người như vậy. Ông ta tin chắc rằng mình biết rõ cái ngưỡng chịu đựng của người cộng sản: bằng cách làm họ “chảy máu”, ông sẽ buộc giới lãnh đạo cộng sản nhận thức rằng họ đang vắt kiệt nhân dân mình “tới mức gây ra một tai họa quốc gia cho nhiều thế hệ”, và như vậy sẽ khiến họ phải tìm kiếm hòa bình. Ngay cả sau này khi chiến tranh đã kết thúc, dường như Westmoreland vẫn còn hiểu sai kích thước sự quyết tâm của người cộng sản. Ông nói: “Bất kỳ viên tư lệnh Mỹ nào mà nướng quân như tướng Giáp sẽ bị cách chức ngay lập tức”.

Nhưng tướng Giáp không phải là một người Mỹ đang đối đầu với một dân tộc xa lạ ở một xứ sở xa lạ. Bộ đội của ông ta, và những thường dân hỗ trợ họ, chiến đấu trên đất đai quê hương mình; họ tin tưởng rằng cuộc kháng chiến trường kỳ cuối cùng sẽ quét sạch lòng kiên nhẫn của quân thù và đưa họ đến mục đích cuối cùng là thống nhất tổ quốc. Chiến lược này đã giúp ông Giáp đánh bại người Pháp và ông tin rằng nó sẽ lại phát huy hiệu quả trong cuộc chiến chống lại người Mỹ.

Ông Giáp giải thích cho tôi: “Chúng tôi không đủ mạnh để đuổi nửa triệu quân Mỹ ra khỏi Việt Nam, nhưng đó không phải là mục đích của chúng tôi. Chúng tôi tìm cách bẻ gãy ý chí kéo dài chiến tranh của chính phủ Mỹ. Westmoreland đã sai lầm khi dựa vào sức mạnh hỏa lực vượt trội của ông ta để nghiền nát chúng tôi. Các đồng chí Liên Xô và Trung Quốc của chúng tôi cũng không nắm bắt được cách giải quyết của chúng tôi khi họ cật vấn rằng, chúng tôi có bao nhiêu sư đoàn, ít hay nhiều so với quân Mỹ, làm thế nào chúng tôi đối phó nổi kỹ thuật của Mỹ, pháo binh Mỹ hoặc các cuộc tấn công của người Mỹ. Chúng tôi đang tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, à la manière vietnamienne (theo kiểu Việt Nam) – một cuộc chiến tranh toàn diện, tổng lực trong đó mỗi người đàn ông, mỗi người phụ nữ, mỗi đơn vị, dù lớn hay nhỏ, đều được duy trì từ toàn dân đã được động viên. Cho nên, những vũ khí tinh vi của người Mỹ, những thiết bị điện tử và những thứ đại loại như vậy đều vô dụng. Cho dù có sức mạnh quân sự, người Mỹ đã tính toán sai những hạn chế trong sức mạnh của mình. Trong chiến tranh chỉ có hai yếu tố - con người và vũ khí. Dù vậy, cuối cùng con người vẫn là nhân tố quyết định. Con người! Con người!”.

Điều khôi hài là nhiều sĩ quan Mỹ đồng tình với luận điểm của ông Giáp. Sau chiến tranh đại tướng Palmer đã viết: “Quân đội Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam đã bộc lộ xu hướng dựa vào hỏa lực và kỹ thuật vượt trội hơn là vào những phẩm chất người lính và kỹ năng tác chiến chuyên nghiệp… Có những quan chức Mỹ thường xuyên tìm kiếm, mong chờ một sự đột phá khoa học thần kỳ nào đó – một cái gì tương tự như Dự án Manhattan trong Thế chiến thứ II, khi quả bom nguyên tử đầu tiên được chế tạo – có thể sản sinh ra những kết quả ngoạn mục và đưa cuộc chiến đến chỗ kết thúc nhanh chóng. Nhưng đó chỉ là ước vọng hão huyền, không thể có được, một ước vọng ngu ngốc”.

Trong cuộc trò chuyện với tôi, tướng Giáp thừa nhận rằng người cộng sản nhiều phen điêu đứng trong những giai đoạn khó khăn. “Nhưng – ông lớn giọng - chúng tôi không bao giờ bi quan. Không bao giờ! Không bao giờ!” Ông nói giống y như các vị tướng lĩnh ở khắp nơi, những người thường che đậy các khuyết điểm và chỉ nhớ các thắng lợi của mình. Nhưng ít người Mỹ nào từng phục vụ ở Việt Nam mà có thể phủ nhận đức tính kiên cường của bộ đội ông Giáp.

Tướng Palmer viết: “Họ có khả năng hồi phục phi thường, họ chịu đựng những tổn thất mà chúng ta không thể nghĩ tới nổi; sau đó họ thay người, tái huấn luyện, tái giáo dục chính trị và rồi họ phản công… Ý chí kiên cường của họ quả thật không thể nào dập tắt nổi”. Konrad Kellen, một chuyên viên dân sự chuyên thẩm vấn tù binh, miêu tả những binh lính cộng sản: “Trừ phi bị hủy hoại về mặt thể chất, họ không có năng lực sụp đổ, đầu hàng hoặc rã đám”. Trung tá Stuart Herrington, một cố vấn quân sự Mỹ, nhớ lại rằng ông “không thể không thán phục sự gan lì, hung hăng và dũng cảm” của những người lính Bắc Việt Nam, những người tin tưởng một cách thành thật rằng họ đang “cứu những người anh em ruột thịt miền Nam ra khỏi nanh vuốt của chủ nghĩa đế quốc”. Một viên tướng Mỹ gọi họ là “những kẻ địch tốt nhất mà chúng tôi chạm trán trong lịch sử nước Mỹ”. Còn đại tá David Hackworth, một sĩ quan bộ binh được tuyên dương, đã miêu tả như sau về một căn cứ cộng sản bị bom Mỹ dập tơi bời: “Các vị trí vững chắc thì được điều khiển bởi các bà mẹ trung kiên không bao giờ rời chỗ cho dù màng nhĩ tai họ đã bị các cơn chấn động xé rách và máu me từ lỗ mũi của họ chảy ròng ròng”.

Tính kiên cường của bộ đội Bắc Việt và du kích Việt Cộng càng rõ ràng trước cảnh xác đồng đội của họ chất thành đống như đống củi sau mỗi trận đánh. Ở Việt Nam sau chiến tranh tôi đã phỏng vấn những cựu binh cộng sản đã từng trải qua bảy tám năm chiến đấu ở miền Nam và nhiều người đã nói rất thành thật về nỗi sợ hãi của họ khi ấy – nhất là khi bom Mỹ trút xuống các căn cứ của họ ở trong rừng. “B-52 rải thảm thì khủng khiếp lắm”, đại tá Bùi Tín nhớ lại. Ông là người sống sót sau hơn hai chục trận bom. “Máy bay bay quá cao cho nên chúng tôi không được báo động trước. Bỗng nhiên bom nổ bên cạnh chúng tôi. Chúng tôi chỉ còn cách bịt tai lại, tản ra khắp mọi hướng, tìm những chỗ trũng trên mặt đất, cố gắng tránh bị dính mảnh bom. Trận bom chỉ kéo dài vài phút, sau đó chúng tôi bò ra chôn cất thi thể của các đồng đội xấu số, nhiều thi thể không còn nhận dạng được nữa”. Bom napalm cũng khủng khiếp như vậy. Bom napalm đốt các nạn nhân của nó thành một thứ chất lỏng bầy nhầy. Một số người sống sót nhưng bị biến dạng một cách gớm ghiếc; xấu hổ vì bộ dạng của mình họ đã ẩn nấp trong những hang đá hoặc những nơi xa xôi hẻo lánh. Khi tôi trở lại Việt Nam năm 1990, tôi nghe nói có một số người lẩn trốn từ thời chiến tranh đến lúc ấy mới trở về với hy vọng được phục hồi dáng vẻ bình thường của một con người. Nhưng Việt Nam không có đủ tiền để thực hiện giải phẫu tạo hình cho những người lính ấy.

Lính Mỹ, nhìn thấy những tử thi bầm dập, bê bết máu của bộ đội Bắc Việt thường chỉ coi họ là những “người da màu”, những người xa lạ với quan niệm của phương Tây về sự sống. Cũng với một thái độ như vậy, tướng Westmoreland thường nói trong chiến tranh: “Họ là người Á châu, họ không nghĩ tới cái chết theo cách mà chúng ta nghĩ”. Thật kỳ quặc, những nhận xét sặc mùi phân biệt chủng tộc như vậy đã vô hiệu hóa lời khẳng định chính thức của Mỹ là họ đang bảo vệ nền tự do cho người Nam Việt Nam, tất nhiên cũng là người châu Á. Những nhận xét như vậy cũng khiến tôi nghĩ tới những bức ảnh cũ của Mathew Brady miêu tả những thi thể của lính Liên bang (Union) miền Bắc và lính Các bang ly khai miền Nam (Confederate) [1] trên các mặt trận ở Antietam và Gettysburg, nơi hàng chục ngàn thanh niên Mỹ đã hy sinh cho một lý tưởng. Nhưng lý tưởng của họ là cái lý tưởng mà người Mỹ có thể hiểu được.

Tất cả những cựu chiến binh cộng sản mà tôi có dịp phỏng vấn sau chiến tranh đều nói lên lý tưởng của họ. Họ nói rằng, bất chấp gian khổ hy sinh, nhiệm vụ của họ là “giải phóng Tổ quốc”. Cái khẩu hiệu mà tôi nghe như rập khuôn sáo rỗng nhưng tôi biết khá rõ về lịch sử Việt Nam đến mức tôi có thể nắm được điều họ muốn nói. Đất nước này, bãi chiến trường trong suốt hàng ngàn năm, luôn tôn kính những vị anh hùng – những anh hùng có thật và anh hùng huyền thoại – những người đã chống lại sự xâm lăng của ngoại bang, chủ yếu là Trung Quốc. Bên cạnh việc sản sinh ra một quan niệm rằng trong mỗi con người Việt Nam tiềm tàng một chiến binh, ký ức về những trận chiến đấu ấy đã tôi luyện nên một ý thức mãnh liệt về bản sắc dân tộc vẫn đập đều đặn trong văn chương, kịch nghệ và nghệ thuật dân gian ở Việt Nam. Tôi nhận thấy hiện tượng này khi thăm một ngôi chùa gần Hà Nội, nơi trẻ con quỳ lạy và thắp hương trước tượng của những vị anh hùng truyền thuyết đã chiến đấu cho đất nước. Đại tướng Giáp nói với tôi: “Cái ý thức hệ sâu sắc nhất, cái tình cảm sâu rộng nhất của nhân dân chúng tôi là chủ nghĩa yêu nước. Và trong những lúc có chiến tranh, cảm xúc đó tiến gần tới sự bài ngoại”.

Dean Rusk, bộ trưởng ngoại giao dưới thời tổng thống Kennedy và Johnson, mà cuộc trường chinh chống chủ nghĩa cộng sản của ông đã có từ thời chính phủ Truman, cuối cùng đã phải thừa nhận vào năm 1971 rằng “về mặt cá nhân ông ta đã đánh giá quá thấp” khả năng chống cự của miền Bắc Việt Nam và du kích quân Việt Cộng. Ông ta nói: “Họ chấp nhận hy sinh bảy trăm ngàn người – nếu xét về quy mô dân số thì số người đó tương đương với - cái gì nhỉ? Tương đương với 10 triệu người Mỹ chăng?” Sau này một sĩ quan cao cấp ở Hà Nội tiết lộ với tôi rằng gần một triệu bộ đội cộng sản đã hy sinh và nhiều triệu người khác bị thương. Khi tôi hỏi ông ta về số thương vong của thường dân thì ông đáp: “Chúng tôi không tính được”.

Đại tướng Maxwell Taylor, một trong các cố vấn của tổng thống Kennedy về Việt Nam và sau này là đại sứ của tổng thống Johnson ở Sài Gòn, đã từng là một kiến trúc sư chủ chốt của sự can thiệp của người Mỹ vào Việt nam. Nhưng không lâu trước khi ông qua đời năm 1987, ông thú nhận với tôi rằng cuộc dính líu của Mỹ vừa là một sai lầm vừa là một bài học. “Trước tiên chúng ta đã không hiểu được mình. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta sắp đi vào một cuộc chiến tranh Triều Tiên nữa, nhưng đây là một đất nước khác. Hai là, chúng ta không biết các đồng minh Nam Việt Nam của chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu được họ và đó là một điều ngạc nhiên nữa. Và chúng ta biết về Bắc Việt Nam còn ít hơn nữa. Ông Hồ Chí Minh là ai? Không ai biết rõ cả. Vì vậy chừng nào chúng ta chưa biết rõ về kẻ thù, về đồng minh và về chính chúng ta thì tốt hơn hết là chúng ta đừng có dây vào cái công việc bẩn thỉu ấy. Rất nguy hiểm”.

Henry Kissinger cũng bị cộng sản làm cho lúng túng và chán nản trong những cuộc hòa đàm bí mật giữa họ với ông ta. Hơn hết thảy, ông tìm cách tránh né sự lặp lại những cuộc đối thoại về ngừng bắn nhưng không kết thúc được của chiến tranh Triều Tiên – những cuộc đối thoại đã kéo dài suốt hai năm bởi vì ông tin rằng người Mỹ đã không đưa ra chính sách ngoại giao cứng rắn đi kèm với sức mạnh quân sự. Ông ta tính ra rằng Bắc Việt Nam chỉ chấp nhận thỏa hiệp một khi họ đau khổ vì một sự hủy diệt hoàn toàn – một giải pháp mà trong chốn riêng tư được tổng thống Nixon gán cho cái tên là “lý thuyết của người điên”. Nhưng rồi cũng giống những người tiền nhiệm của mình, Kissinger đã không bao giờ tìm thấy gót chân A-sin của đối thủ. Về sau thì ông đòi hỏi điều ngược lại: tháng 10 năm 1972 phía cộng sản chỉ đồng ý ký hiệp định ngừng bắn sau khi Kissinger đã trao cho họ nhiều nhượng bộ chủ yếu gây nguy hiểm cho tương lai của chính phủ Nam Việt Nam.

Áp lực thực sự buộc chính quyền Nixon phải tiến tới một sự dàn xếp ở Việt Nam đến từ công chúng Mỹ lúc đó đang mong muốn hòa bình bằng bất cứ giá nào – vì những lý do mà bản thân ông Kissinger đã hiểu được từ bốn năm trước. Đầu năm 1968, trong đêm giao thừa Tết Nguyên đán, quân cộng sản đã tiến hành một cuộc tấn công ngoạn mục vào các thành phố và đô thị khắp miền Nam – cuộc tấn công mà Kissinger coi như “bước ngoặt” của những nỗ lực của người Mỹ tại Việt Nam. “Từ lúc đó trở đi, bất kể những hành động của chúng ta có hiệu quả đến đâu đi nữa thì cái chiến lược chung cũng không còn có thể đạt được những mục tiêu giai đoạn của nó hoặc bằng những cấp độ sức mạnh mà công chúng Hoa Kỳ có thể chấp nhận được về mặt chính trị”.

Người Mỹ sẵn sàng hy sinh máu và tài nguyên đất nước như họ đã từng làm trong các cuộc chiến tranh khác. Nhưng họ phải được nhìn thấy sự tiến triển, họ phải được thông báo khi nào thì chiến tranh chấm dứt. Trong Thế chiến thứ II, họ có thể cắm lên bản đồ những cọc tiêu nhỏ để theo dõi bước tiến của quân đội Mỹ trên khắp Âu châu; ở Việt Nam – nơi cuộc chiến không có một mặt trận cụ thể, một giới tuyến cụ thể nào – họ chỉ được hứa hẹn và được cung cấp những con số vô nghĩa về “tổn thất của đối phương”. Thế là nước Mỹ, bị dẫn tới việc sử dụng sức mạnh quân sự lớn chưa từng thấy để bẻ gãy ý chí của cộng sản, cuối cùng thì chính mình lại bị tơi tả dưới sức căng của một cuộc chiến đấu có vẻ như không bao giờ kết thúc. Mục đích ban đầu của sự can thiệp vào Việt nam như tổng thống Eisenhower phát biểu, là bảo vệ toàn vùng Đông Nam Á mà các quốc gia ở đó giả định sẽ “liên tiếp xô ngã nhau như các quân cờ đô-mi-nô” nếu như cộng sản chiếm được Việt Nam. Điều trớ trêu là quân cờ đô-mi-nô thực sự bị xô ngã chính là dư luận công chúng Mỹ, theo quan sát của Leslie Gelb của tờ The New York Times.

Công chúng Mỹ, đau buồn vì số thương vong ngày càng nhiều, thuế má tăng vọt và không thấy có triển vọng về một giải pháp, đã quay sang chống chiến tranh từ rất lâu trước khi các lãnh đạo chính trị của Mỹ có thái độ tương tự. Nỗi hoài nghi đã xâm chiếm nhiều đại biểu Quốc hội. Nhưng chỉ vài nghị sĩ diễn dịch mất mát cá nhân của mình thành sự bất mãn công khai ngoại trừ một nhóm nhỏ các nghị sĩ như William Fulbright, Wayne Morse, Ernest Gruening, Gaylord Nelson và Eugene McCarthy. Cho đến tháng 3 năm 1968 khi quyết định ra ứng cử tổng thống, thượng nghị sĩ Robert Kennedy bang New York- em trai cố tổng thống John Kennedy – mới lên tiếng tố cáo sự dính líu của Mỹ với miền Nam Việt Nam, một việc mà lúc đầu ông là một trong những người nhiệt liệt ủng hộ. Cũng không có nhiều người bất đồng chính kiến trong hàng ngũ cao cấp của bộ máy hành chính, trừ ông George Ball – một viên chức ngoại giao cao cấp trong chính quyền của các tổng thống Kennedy và Johnson. Sau này Ball nhìn lại cuộc chiến “có lẽ là sai lầm lớn nhất mà người Mỹ phạm phải trong lịch sử của mình”.

Robert McNamara, người có vai trò chủ yếu trong việc hoạch định chính sách về Việt Nam với tư cách là bộ trưởng quốc phòng dưới thời tổng thống Kennedy và Johnson, đã bắt đầu mất niềm tin vào các nỗ lực của Mỹ ngay từ năm 1967 khi ông dần dần nhận ra sự phù phiếm của các nỗ lực ấy. Ông đã gần như sụp đổ về mặt cảm xúc và trong nhiều năm sau khi cuộc chiến kết thúc ông từ chối thảo luận về nó dù công khai hay trong chốn riêng tư. Ông đã nhiều lần lảng tránh yêu cầu của tôi đề nghị phỏng vấn ông để chuẩn bị cho cuốn sách này; ông giải thích rằng ông không bao giờ nói chuyện về cuộc chiến ngay cả với người trong gia đình hoặc với bạn bè thân thiết. Nhưng tại một hội nghị tổ chức ở Nhật Bản tháng 4 năm 1991, để chống lại cố gắng đầy thách thức của nhà báo Jonathan Mirsky của báo London Observer nhắc lại vai trò của ông trong cuộc chiến Việt Nam, Mc Namara đã nhất thời đánh mất thái độ điềm tĩnh vốn có. Mặt ông tái xám và căng thẳng, ông hét lên: “Tôi đã sai lầm! Lạy Chúa, tôi đã sai lầm!”.

Trước đó, tôi chưa bao giờ nghe ông thừa nhận lỗi lầm (mea culpa), dù rất là ngắn gọn – và sau cuộc hội thảo tôi đã ép buộc ông phải nói rõ hơn. Tuy vậy cuộc bùng nổ cảm xúc của ông là giới hạn cuối cùng ông có thể đi tới. Để tập hợp lại những kinh nghiệm của ông một cách chi tiết cần phải có một công trình nghiên cứu quy mô, ông nhấn mạnh như vậy. Ngoài ra, ông nói thêm rằng ông không muốn tự cho phép mình xuất hiện trong một bản hồi ký có thể được suy diễn như một việc “tự phục vụ mình”. Đó là một lời cáo lỗi không thỏa đáng và tôi đã nói thẳng với ông ấy rằng ông mắc nợ hậu thế việc kể lại câu chuyện của chính ông. Cuối cùng ông đã làm công việc đó vào năm 1995 trong cuốn sách Hồi tưởng, trong đó ông nhắc lại rằng: “Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp”. Rõ ràng, mười sáu năm sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam vẫn còn giằng xé tâm tư ông. Và theo nghĩa đó ông cũng là một nạn nhân của cuộc chiến, giống như hàng ngàn lính Mỹ đã bị tổn thương sâu sắc vì chiến tranh mà không bao giờ hồi phục được.

Người kế tục sự nghiệp của McNamara, ông Clark Clifford, trước khi đảm nhiệm chức bộ trưởng quốc phòng, đã từng là một người đề xuất mạnh mẽ giải pháp quân sự quyết liệt cho vấn đề Việt Nam. Là một con thú chính trị nhạy cảm, cái ăng-ten thu nhận tín hiệu của ông bắt nhịp một cách sắc sảo với trạng thái của dân tộc, ông thay đổi ngay tức khắc và khéo léo vận động để thay đổi con đường của tổng thống Johnson. Năm 1981 khi tôi phỏng vấn ông trong văn phòng luật sư sang trọng của ông ở thủ đô Washington ông vẫn cố gắng trình bày kinh nghiệm Việt Nam trong viễn cảnh của nó: “Các quốc gia, cũng giống như con người, cũng có lúc sai lầm. Chúng ta đã phạm phải một sai lầm thành thực. Tôi không cảm thấy xấu hổ về chuyện đó. Đất nước chúng ta cũng không nên có mặc cảm xấu hổ. Chúng tôi cảm thấy rằng mình đã làm cái cần phải làm. Có điều đó là việc tỏ ra không chính đáng”.

Những thú nhận như vậy đã không an ủi được người miền Nam Việt Nam, những người mà ngay từ năm 1973 đã đau đớn phát hiện ra rằng sau hai mươi năm, người Mỹ đã không gánh chịu cuộc chiến tranh một cách vô hạn định. Bùi Diễm, cựu đại sứ Việt Nam cộng hòa tại Washington và sau này định cư ở Mỹ, đã rút ra được một bài học có ý nghĩa rộng lớn hơn từ hiện tượng đó: “Các nước nhỏ cần phải thận trọng với người Mỹ bởi vì các chính sách của Mỹ thay đổi nhanh chóng khi chính trị quốc nội và công luận thay đổi. Đối với chúng tôi, cuộc đấu tranh là vấn đề sinh tử. Nhưng đối với người Mỹ, đó chỉ là một chương không vui trong lịch sử của họ và họ có thể lật sang trang khác. Chúng tôi đã từng là đồng minh nhưng chúng tôi có những lợi ích khác nhau”.

Điều may mắn là thất bại ở Việt Nam đã không đẩy nước Mỹ vào một cuộc tố cáo lẫn nhau gay gắt và đau đớn như lúc Trung Quốc rơi vào tay cộng sản. Không một ủy ban nào của Quốc hội tiến hành điều tra về những công dân bị cáo buộc là “Mỹ-gian”. Cũng không có một chiến dịch mị dân nào sánh được với chiến dịch của nghị sĩ Joseph McCarthy – người mà những cuộc săn đuổi cay độc của ông trong thập niên 1950 đã đẩy cả một thế hệ ra trước vành móng ngựa. Mặc dù ông hình dung cuộc chiến đấu như một “lý tưởng cao quý” bị các chính trị gia phản bội, tổng thống Ronald Reagan đã tự kiềm chế, không biến nó thành một vấn đề nghiêm trọng. Có lẽ sự hỗn loạn xáo trộn nuớc Mỹ suốt thời chiến tranh đã khiến người dân mệt mỏi đến mức không thể lao vào cuộc truy tìm ai là người phải chịu trách nhiệm. Hoặc có lẽ vụ chấn thương quá sâu sắc đến mức họ muốn quên đi. Tuy vậy, như Kissinger đã nói, “Việt Nam vẫn còn với chúng tôi. Nó đã tạo nên mối nghi ngờ về phán đoán của người Mỹ, về độ tin cậy của người Mỹ, về sức mạnh của Mỹ - không chỉ ở ngay trong nước Mỹ mà trên khắp thế giới. Nó đã đầu độc cuộc tranh luận quốc nội của chúng tôi. Thế là chúng tôi phải trả cái giá cắt cổ cho những quyết định mà chúng tôi đã đưa ra trong niềm tin tốt lành vì những mục tiêu tốt đẹp”.

Trên đất Mỹ, ít có địa phương nào phải trả giá đắt hơn là thị trấn Bardstown, một cộng đồng nhỏ ở bang Kentucky. Thị trấn có bảy ngàn dân nhưng mười sáu chàng trai của họ đã chết trong chiến tranh Việt Nam. Đầu năm 1983, đúng một thập niên sau ngày người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, một nhóm phóng viên đài truyền hình CBS đã đến Bardstown để ghi lại trạng thái tinh thần của thị trấn thời hậu chiến. Một cựu chiến binh nói: “Về phương diện cá nhân, tôi không thấy chúng ta đã làm được điều gì”. Và một người khác thêm vào: “Rất nhiều người muốn biết chắc rằng chúng ta sẽ không bao giờ lâm vào những tình trạng như vậy nữa”. Ông Gus Wilson, từng làm thị trưởng thời mà các thanh niên Bardstown tòng quân năm 1968 và nay vẫn còn là thị trưởng, cho biết: “Tôi tin rằng, việc đầu tiên mà bạn phải làm cho đất nước mình là bảo vệ nó. Điều đó không cần bàn cãi. Nhưng tôi nghĩ khi chúng ta làm công việc bảo vệ đất nước, hoặc là về sau này, ta chợt nhận ra rằng chính phủ đã chơi trò lừa đảo. Chúng ta không được tiếp cận sự thật. Đối với nhân dân, cuộc chiến tranh Việt Nam đã bị xuyên tạc – cả cái mục đích tối hậu của nó lẫn phương thức tiến hành nó. Mặc dù tôi vẫn là một người yêu nước mình, cuối cùng tôi đã hết sức thất vọng”.

Hàng triệu người Mỹ chia sẻ cái cảm xúc của Gus Wilson. Và sự tỉnh ngộ của họ vẫn thường được nói tới như là “hội chứng Việt Nam” đã ngăn cản các tổng thống Mỹ sau này, không cho họ tham gia vào các cuộc phiêu lưu quân sự nguy hiểm ở nước ngoài trong suốt một thập niên sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc.

Nếu không vì Việt Nam thì có lẽ chính quyền Carter đã hành động để ngăn chặn các phong trào cách mạng ở Angola và Ethiopia hoặc bảo vệ vương triều Shah ở Iran chống lại phe Hồi giáo chính thống. Trong cuộc vận động tranh cử năm 1980 tổng thống Reagan đã cam kết khôi phục sự vượt trội của Mỹ trên thế giới nhưng ông vẫn nhớ rằng Việt Nam là một trở ngại chính trị đối với những người tiền nhiệm của ông. Thế là, sau khi hơn hai trăm lính thủy đánh bộ Mỹ chết trong một cuộc đánh bom khủng bố vào doanh trại của họ ở thủ đô Beirut vào tháng 10 năm 1983, ông đã thận trọng cho rút phần quân lính còn lại thay vì gia tăng quân số ở đó – một việc mà có lẽ tổng thống Lyndon Johnson sẽ làm. Tuy nhiên sau đó không lâu ông đã cho quân xâm lược Grenada, hòn đảo nghỉ dưỡng nhỏ bé trên biển Caribbea, và lật đổ nhà lãnh đạo của nó – một người mà ông miêu tả là người đại diện của Cuba. Chiến dịch như một vở hài kịch, kéo dài chưa tới một tuần, đã tạo cho ông Carter cơ hội để làm co giãn cơ bắp của dân Mỹ và để thỏa mãn nỗi hoài niệm của đất nước về sự siêu việt trước kia – mà không làm tăng nỗi lo lắng ở trong nước. Ông cũng hô hào Quốc hội cung cấp viện trợ cho những nỗ lực tiêu diệt lực lượng cộng sản ở Trung Mỹ, ông dám chắc rằng Liên Xô và Cuba sử dụng các lực lượng đó để đe dọa an ninh Hoa Kỳ. Nhưng ông liên tục bị cự tuyệt bởi đa số dân Mỹ, những người đã nao núng trước khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh lâu dài trong rừng rậm Trung Mỹ, có vẻ giống như là sự tái diễn cuộc chiến tranh lâu dài trong rừng rậm Việt Nam.

Sự từ chối của công chúng Mỹ không muốn bị lôi kéo vào Trung Mỹ tương phản sâu sắc với thái độ của người Mỹ trước phong trào nổi dậy ngày càng mạnh mẽ ở miền Nam Việt Nam hai thập kỷ trước đó.

Đến cuối năm 1963, Mỹ đã chi tiêu ở Việt Nam mỗi năm 400 triệu đô la. Có khoảng mười hai ngàn cố vấn quân sự Mỹ làm việc ở Việt Nam và năm mươi người trong số họ đã bị giết trong bốn năm trước đó – mặc dù họ chính thức được cách ly khỏi các trận chiến đấu trực tiếp. Tuy nhiên một cuộc thăm dò cho thấy rằng 63 phần trăm dân Mỹ “ít hoặc không quan tâm” tới tình hình đó. Người ta cũng không quan tâm khi tháng 8 năm 1964 Quốc hội Mỹ tra vấn về “sự kiện” không rõ ràng xảy ra ở vịnh Bắc Bộ ở miền Bắc Việt Nam và với chỉ hai phiếu chống, Quốc hội đã thông qua một nghị quyết cho phép tổng thống Johnson triển khai quân đội Mỹ ở Đông Nam Á. Việc không quan tâm nhiều đến Việt Nam vào lúc đó đã phản ánh đầy đủ hơn trong sự kiện là, trước khi người lính thủy đánh bộ Mỹ đầu tiên đặt chân lên bãi biển Đà Nẵng vào tháng 3 năm 1965, chỉ có năm phóng viên làm việc toàn thời gian của Mỹ thường trú tại Sài Gòn.

Để so sánh, các cuộc thăm dò ý kiến tiến hành trong thập niêm 1980 cho thấy rằng công chúng Mỹ theo dõi rất sát những biến cố ở Trung Mỹ để ngăn ngừa bất kỳ sự dính líu nào vào các xung đột ở đó. Phần lớn người Mỹ quan niệm rằng sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản ở khu vực này là điều nguy hiểm cho Mỹ nhưng họ thà chấp nhận rủi ro đó hơn là can thiệp vào khu vực. Hay như là David Reichart, một giáo viên ở Michigan, giải thích với báo New York Times: “Tôi không muốn chủ nghĩa cộng sản xuất hiện ở Tây bán cầu nhưng tôi không nghĩ rằng người dân của đất nước này lại phải có trách nhiệm đi đến đó và chiến đấu”. Nhạy cảm với những quan điểm như vậy, Quốc hội đã hạn chế viện trợ quân sự cho các chế độ cầm quyền ở Trung Mỹ và dựa vào chính quyền Reagan để giữ các cố vấn quân sự Mỹ trong khu vực dưới sự giám sát chặt chẽ. Theo cách đó, năm mươi lăm cố vấn quân sự Mỹ tại El Salvador lúc ấy đã bị cấm tháp tùng các cuộc hành quân của quân đội Salvador, thậm chí bị cấm mang bất kỳ loại vũ khí nào lớn hơn một khẩu súng ngắn. Năm 1983, ba sĩ quan Mỹ bị phát hiện có tham gia chiến đấu đã bị cách chức ngay lập tức.

Gần như mọi cuộc nghiên cứu về dư luận Mỹ đều chỉ ra rằng người Mỹ nhìn vùng Trung Mỹ là “một Việt Nam khác”. Hai phần ba số người trả lời cuộc thăm dò của báo Washington Post năm 1982 nêu lên sự tương đồng đó; sự tương đồng đó cũng tràn ngập cuộc thăm dò của báo New York Times. Carl W. Koch, Jr., ở Collingswood, bang New Yersey nhận xét: “Việt Nam cứ tiếp tục năm này sang năm khác và tôi e rằng chúng ta sẽ bị lôi vào El Salvador theo cùng một cách như vậy”. Giữa một tâm trạng như vậy là những gợi nhớ về cái chủ nghĩa biệt lập đã thấm đẫm khắp nước Mỹ thời kỳ trước Thế chiến thứ II. Cynthia Crone ở Payne bang Ohio nhận xét: “Dường như chúng ta luôn luôn bị lôi kéo bởi những vấn đề của người khác. Chúng ta đã có quá đủ vấn đề của chính chúng ta để mà giải quyết”.

“Hội chứng Việt Nam” đã gián tiếp sản sinh ra vụ bê bối chính trị tai tiếng nhất trong nhiệm kỳ của tổng thống Reagan. Tổng thống đã cố gắng một cách tuyệt vọng để tìm ngân quỹ tài trợ cho cuộc đấu tranh của nhóm “contra” chống Cộng nhằm lật đổ chế độ Sandanista ở Nicaragua, nhưng Quốc hội Mỹ, cảm nhận được ý kiến của công chúng, đã bác bỏ đề xuất của tổng thống. Do vậy mà giám đốc cơ quan tình báo CIA William Casey đã tranh thủ sự đồng tình của các thành viên cao cấp trong bộ máy công chức Nhà Trắng, đáng chú ý là Oliver North, trung tá lính thủy đánh bộ Mỹ và phó đô đốc hải quân John Poindexter, cùng tiến hành một kế hoạch bí mật nhằm tài trợ cho nhóm contra thông qua việc bán vũ khí bất hợp pháp cho Iran. Casey chết vì bệnh u não trước khi vụ bê bối lộ ra. North và Poindexter bị truy tố và chịu những bản án nhẹ. Tổng thống Reagan bối rối và không có thông tin, đã thoát hiểm nhưng hình ảnh của ông bị hoen ố. Tuy nhiên sau này ông xác quyết rằng chính áp lực của Mỹ đối với chế độ Sandanista đã dẫn tới việc phe này bị đánh bại trong cuộc tuyển cử ở Nicaragua năm 1990.

Trước khi chấm dứt nhiệm kỳ tổng thống năm 1989, Reagan đã đạt được thỏa thuận với Mikhail Gorbachev, nhà lãnh đạo Liên Xô, nhằm cắt giảm kho vũ khí chiến lược. Những cải cách ngoạn mục của Gorbachev ở Liên Xô, cùng với việc Liên Xô rút quân ra khỏi Afghanistan và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu đã làm cho người Mỹ tin rằng họ đã “chiến thắng” cuộc chiến tranh lạnh – một chiến thắng mà theo quan điểm của họ không chỉ đền đáp cho nỗi nhục nhã họ chuốc lấy ở Việt Nam mà còn hơn thế nữa.

Cuối năm 1989 đa số người Mỹ đã hoan hô tổng thống George Bush khi ông đưa quân Mỹ vào Panama lùng bắt lãnh tụ của nước này là tướng Manuel Noriega, người mà Mỹ nghi ngờ buôn bán ma túy. Chiến dịch này, cũng giống như chiến dịch của tổng thống Reagan, diễn ra nhanh chóng và ít tốn kém. Từ tháng 8 năm 1990, ông Bush đã nhận lấy sự cam kết quân sự lớn nhất của Mỹ ở nước ngoài kể từ sau chiến tranh Việt Nam thông qua việc bố trí một lực lượng Mỹ khổng lồ tại vùng vịnh Ba Tư nhằm bảo vệ nước Ảrập Saudi sau khi tổng thống Iraq Saddam Hussein tiến hành cuộc xâm lược và chiếm đóng Kuwait. Bằng cách áp đặt lệnh cấm vận Iraq, Liên hiệp quốc buộc ông Hussein phải rút quân. Ông Hussein từ chối và tháng Giêng năm 1991, ông Bush tiến hành cuộc chiến tranh chống Iraq. Trong quá trình xung đột leo thang, ký ức về Việt Nam nung nấu tâm can người dân Mỹ và tiếp tục làm họ phiền muộn ngay cả khi cuộc chiến đã nổ ra. Nhưng mặc dù hai cuộc chiến tranh hướng tới hai mục đích khác nhau, việc nhận biết sự giống nhau của chúng vẫn là một thực tế.

Về bản chất, cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến trong đó Hoa Kỳ hỗ trợ người khách hàng chống cộng của mình chống lại một đối thủ cộng sản được sự hậu thuẫn của Liên Xô và Trung Quốc. Việc Iraq chiếm Kuwait là cuộc xâm lược hiển nhiên, ngay từ đầu đã bị cộng đồng quốc tế lên án – bao gồm cả Liên Xô, Trung Quốc và đa số các quốc gia Ả-rập. Du kích quân cộng sản hưởng lợi thế từ núi rừng, đồng lúa ở miền Nam Việt Nam, nơi lính Mỹ không thể nào phân biệt nổi trong đám nông dân kia ai là bạn ai là thù, còn miền Bắc Việt Nam không có nhiều mục tiêu để ném bom, do đó phần lớn các cuộc không kích chiến lược của Mỹ đều không hiệu quả. Trái lại ở Iraq, địa hình sa mạc rất phù hợp với các chiến thuật quy ước, quân thù có thể được nhận diện dễ dàng và căn cứ quân sự thì vừa có nhiều vừa tương đối dễ biến thành miếng mồi ngon cho những máy bay và tên lửa siêu hiện đại của Mỹ. Người Mỹ không thể nào cô lập nổi lực lượng cộng sản Việt Nam – họ nhận được rất nhiều vũ khí và trang bị từ Liên Xô, Trung Quốc đồng thời có thể rút về những căn cứ bí mật ở nước Lào và Cam Bốt láng giềng. Quân đội Iraq dựa chủ yếu vào thực phẩm và phụ tùng nhập khẩu cho nên rất dễ bị tổn thương do những cuộc cấm vận kinh tế.

Tổng thống Lyndon Johnson đi vào cuộc chiến tranh Việt Nam một cách miễn cưỡng cho đến khi phải đối mặt với sự sụp đổ của chính phủ Sài Gòn ông mới cảm thấy rằng ông không có sự lựa chọn nào khác. Ngay cả khi ấy ông cũng rón rén đi vào chiến tranh; không bao giờ ông tin tưởng hoàn toàn rằng cuộc chiến đã lên tới cái quy mô to lớn như vậy. Tổng thống Bush thì có thể lựa chọn việc duy trì lệnh cấm vận Iraq; hàng loạt chuyên gia của ông, kể cả giám đốc CIA William Webster đều dự đoán rằng cuối cùng thì cuộc cấm vận sẽ bóp chết Saddam Hussein. Nhưng ông Bush lo sợ thời gian sẽ xói mòn cái liên minh quốc tế của ông, do đó ông nôn nóng gạt bỏ sự lựa chọn ấy. Các cố vấn quân sự của ông Bush, gồm cả đại tướng Colin Powell, một cựu chiến binh Việt Nam và là chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân, từ lâu đã nói rất rõ rằng việc leo thang chiến tranh dần dần như kiểu Johnson sẽ là một tai họa. Thế là ông Bush tập trung một lực lượng mà nếu cộng với lực lượng của các đồng minh, sẽ lên tới hơn sáu trăm ngàn người – còn lớn hơn bộ máy quân sự của Mỹ ở Việt Nam trong thời kỳ cao điểm. Và cuộc tấn công đầu tiên vào Iraq của quân đội Mỹ, có mã hiệu là chiến dịch Bão Sa mạc, thực sự là một trận bão hỏa lực được dẫn dắt bằng công nghệ tinh vi; tính đa dạng và chủng loại của công nghệ đó chưa bao giờ được nhìn thấy trong lịch sử chiến tranh.

Không đợi đến khi cuộc chiến tranh Việt Nam lan rộng hết cỡ thì công chúng Mỹ mới đặt câu hỏi về tính chính đáng của cuộc chiến trong một cao trào tranh cãi chua chát đã phân liệt nước Mỹ và kéo dài rất nhiều năm về sau. Tuy nhiên khi họ suy ngẫm về xung đột ở vùng vịnh Ba Tư người Mỹ tỏ ra cảnh giác, chia rẽ và trên tất cả là lo lắng. Một cuộc thăm dò do báo Los Angeles Times công bố tháng 10 năm 1990 cho thấy rằng, trong khi 38 phần trăm dân Mỹ ưa thích một hành động quân sự chớp nhoáng thì 53 phần trăm trả lời rằng, thay vì tìm giải pháp trong chiến tranh, chính phủ Bush nên tiếp tục các cuộc cấm vận chống Iraq “bất kể thời gian bao lâu”. Trong những cuộc thăm dò này, Việt Nam nhiều lần được nêu lên, cho dù người trả lời thường rút ra được những bài học khác nhau từ kinh nghiệm đó. Bill Gay ở Marlington bang West Virginia trả lời báo Washington Post: “Điều làm tôi phiền muộn nhất về Việt Nam là chúng ta đã chiến đấu rất lâu, đã đổ xuống cống hàng chục tỉ đô-la mà không thu được cái gì cả. Nếu bạn chiến đấu thì phải đấu cho tới ngày chiến thắng”. Bill Fournier, một cựu cảnh sát ở Auburn bang Maine thì khẩn cầu Quốc hội xem xét kỹ “cái giá nhân mạng” của chiến tranh. Ông nói: “Có quá nhiều nguy cơ. Có phải chúng ta đang muốn chết vì dầu mỏ không? Có phải chúng ta đang muốn hy sinh con cái chúng ta để kích thích nền kinh tế không? Chúng ta vẫn đang trả giá đắt cho Việt Nam”.

Khác xa cuộc phản đối mới chớm nở chống lại sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam chủ yếu là từ một số các trường đại học, các nhóm nhân quyền và tôn giáo, những hoài nghi về cuộc chiến sắp diễn ra ở vịnh Ba Tư lan tràn khắp nước Mỹ. Có ít những người Mỹ nổi tiếng phản đối cuộc can thiệp ban đầu vào Việt Nam. Nhưng khi cuộc chiến ở vịnh Ba Tư lờ mờ hiện ra, tổng thống Bush được báo trước là phải kiềm chế, từ những tên tuổi nổi bật như Ross Perrot - doanh nhân tỉ phú bang Texas, nguyên bộ trưởng quốc phòng James Schlesinger, đô đốc Wiliiam J. Crowe Jr. và đại tướng David C. Jones – hai người sau đều là cựu chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân. Không giống với thái độ thụ động hờ hững của họ trong đêm trước cuộc chiến tranh Việt Nam, khi họ trao cho tổng thống Johnson tờ ngân phiếu khống chỉ để tổng thống tùy ý tiến hành chiến tranh, bây giờ các thành viên Quốc hội Mỹ đã tiến hành một cuộc tranh luận lâu dài và đầy cảm xúc về cách thức giải quyết vụ xung đột ở vịnh Ba Tư. Và cũng không giống sự phục tùng câm lặng mà họ đã giành cho tổng thống Johnson, nay họ chấp thuận yêu cầu sử dụng quyền lực chiến tranh của tổng thống Bush chỉ với sự chênh lệch rất nhỏ giữa số phiếu thuận và phiếu chống.

Nhưng mặc dù sự khác nhau giữa chiến tranh Việt Nam và chiến tranh vịnh Ba Tư, công chúng Mỹ vẫn nhận ra sự tương đồng giữa hai vụ xung đột.

Điều chủ yếu là cả hai đều thiếu một mục đích rõ ràng. Các tổng thống Mỹ từ Harry S. Truman đến Richard Nixon đều biện minh cho sự can thiệp của Mỹ tại Việt nam như là một phần của chính sách “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản toàn cầu. Họ thúc đẩy “học thuyết đô-mi-nô”, trình bày rằng thất bại ở Đông Nam Á sẽ làm sụp đổ các quốc gia khác trong vùng – và hơn thế nữa, như tổng thống Lyndon Johnson đã cảnh báo, sẽ đe dọa “những bãi biển Waikiki” [2] . Những chủ đề như vậy lúc đầu đã làm nao núng Quốc hội và công chúng Mỹ; trong nhiều thập kỷ họ đã tin vào mối đe dọa cộng sản. Nhưng khi chiến tranh Việt Nam kéo dài và lan rộng, những lập luận đó đã mất dần tính hấp dẫn, sau này hồi tưởng lại chúng có vẻ thật phi lý.

Tương tự như vậy, ông Bush đã không thể xác định được cái quan niệm nằm sau cuộc tấn công của ông chống lại Iraq. Ông ví Saddam Hussein với nhà độc tài phát xít Adolf Hitler. Ông khẳng định rằng không hành động gì cả chính là “khuyến khích xâm lược” giống như chính sách nhượng bộ phong trào Quốc xã (Nazis) đã có hồi thập niên 1930. Không đề cập chi tiết đến trữ lượng dầu mỏ khổng lồ của vùng vịnh Ba Tư – vì nó có thể làm ông bị phê phán dữ dội rằng ông đang “đổi máu lấy dầu” – ông Bush lại nhấn mạnh rất nhiều đến giá trị kinh tế của khu vực. Ông cũng tuyên bố rằng không làm gì cả thì sẽ gây nguy hiểm cho “trật tự thế giới mới” – cái công thức đầy tham vọng của ông về một sự hài hòa quốc tế trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Nhưng ông đã không giải thích một cách hợp lý và đầy đủ tại sao Iraq lại trở thành mối đe dọa trực tiếp đối với nước Mỹ. Ông cũng không làm sáng tỏ được những động cơ của việc giải phóng Kuwait trong khi nước Mỹ đã tự giới hạn không can thiệp vào nhiều vụ tranh chấp ở các quốc gia ngoại bang khác trong những năm gần đây. Thế là, bất chấp các lời lẽ hùng biện cao ngạo của ông Bush, không ai khẳng định chắc chắn được là cuộc chiến tranh vùng vịnh Ba Tư có phải là điều thật sự sống còn đối với quyền lợi của Mỹ hay không – hoặc giống như trường hợp Việt Nam, lại là một tầm quan trọng ảo tưởng.

Lúc đầu đại đa số dân Mỹ ủng hộ sự can thiệp vào Việt Nam của tổng thống Lyndon Johnson. Rồi sau đó đau buồn vì mất mát ngày càng tăng và vì cuộc chiến dường như kéo dài bất tận, họ dần dần quay ra chống lại sự dấn thân đó và cuối cùng thì gạt bỏ luôn cả tổng thống Johnson. Phần lớn người Mỹ đã vứt bỏ nỗi day dứt buổi đầu và toàn tâm toàn ý chấp nhận cuộc tấn công ban đầu của tổng thống Mỹ vào Iraq. Tuy nhiên các cuộc khảo sát cho thấy rằng thái độ của công chúng Mỹ đối với hành động của ông ta có lẽ cũng sẽ thay đổi như họ đã làm đối với các chính sách của tổng thống Johnson nếu như cuộc chiến tranh vịnh Ba Tư kéo dài và gây thương vong lớn lao cho binh lính Mỹ. Một cuộc khảo sát ý kiến của báo Washington Post xuất bản chỉ một tuần trước khi nổ ra chiến tranh vùng Vịnh cho thấy, trong lúc 63 phần trăm ủng hộ việc sử dụng vũ lực trừ phi Saddam Hussein rút quân ra khỏi Kuwait thì chỉ có 44 phần trăm muốn chấp nhận con số 1.000 lính Mỹ chết, còn viễn tượng 10.000 lính Mỹ chết thì kéo tỉ lệ chấp nhận đó xuống 35 phần trăm. Như vậy nước Mỹ vẫn còn bị ám ảnh bởi những hồi tưởng về Việt Nam, chỉ sẵn sàng để chịu đựng một cuộc chiến tranh ít đổ máu. May mắn thay, số thương vong thấp một cách kỳ diệu đã làm phấn khởi tinh thần của công chúng Mỹ.

Phần 3

Gánh nặng khổng lồ và sự phức tạp trong sự hiện diện của Mỹ tại vùng vịnh Ba Tư đã chứng tỏ những tiến bộ mà người Mỹ đạt được trong việc xây dựng lại cơ cấu quân sự của mình sau thời kỳ Việt Nam. Bởi vì cuộc chiến đấu ở Đông Nam Á không chỉ làm suy yếu niềm tự tin của quốc gia mà còn hút cạn sinh lực của nó. Năm 1980, đại tướng Edward C. Meyers, khi ấy là tổng tham mưu trưởng quân đội, đã cảnh báo Quốc hội rằng ông đang chỉ huy một đạo quân “rỗng”: thiếu lính, kinh nghiệm và trang bị.

Vào đầu thập niên 1970, quân đội Mỹ đã gần như tan rã khi cuộc chiến tranh Việt Nam lắng dần xuống. Khi Nixon quyết định rút binh lính Mỹ về nước thì không ai muốn trở thành người cuối cùng hy sinh cho một lý tưởng đã không còn ý nghĩa gì nữa. Còn đối với những người chờ rút lui thì chỉ những ai còn sống mới được tính đến. Các phong trào phản chiến trong nước đã lan tới binh lính ở chiến trường, nhiều người lính đeo các biểu tượng hòa bình và thường trốn tránh việc ra trận. Quan hệ sắc tộc trong quân đội Mỹ, ban đầu vốn thân thiện khi lính da trắng và lính da đen cùng chia sẻ ý thức về một mục đích chung, bây giờ trở nên ngày càng căng thẳng. Việc sử dụng ma túy phổ biến tới mức một báo cáo chính thức năm 1971 phỏng đoán rằng có hơn một phần ba binh lính nghiện hút. Binh sĩ không chỉ bất phục tùng mệnh lệnh cấp trên mà trong một số trường hợp còn ám sát cấp trên bằng cách cho nổ lựu đạn – một hiện tượng được biết tới như là “tội cố sát bằng lựu đạn”. Tinh thần và chí khí quân đội bị thoái hóa hơn nữa sau khi sự thật về vụ thảm sát làng Mỹ Lai bị phanh phui, trong đó một đơn vị bộ binh Mỹ đã tàn sát hơn ba trăm người dân thường Việt Nam tay không tấc sắt – vụ phanh phui này đến lượt nó đã làm cho binh lính Mỹ nghi ngờ rằng các viên chỉ huy của họ đã che giấu nhiều tội ác ghê tởm.

Tác động rộng rãi của chiến tranh Việt Nam đến các lực lượng vũ trang Mỹ còn tệ hại hơn nữa. Từ năm 1965 đến khi người lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam vào đầu năm 1973, tổng chi phí cho cuộc chiến đã lên tới hơn 120 tỉ đô-la – bình thường thì phần lớn khoản tiền này được đầu tư vào việc hiện đại hóa quốc phòng. Hậu quả là cơ cấu an ninh của Mỹ bị xói mòn; các đơn vị Mỹ tại Tây Âu không còn sánh nổi với các đối phương trong khối Warszawa. Tổng thống Johnson bị buộc phải tăng thuế hoặc đưa ra các biện pháp kiểm soát kinh tế để có tiền trang trải cuộc chiến Việt Nam và điều đó đã làm gia tăng lạm phát; lạm phát vọt lên cao trong năm 1973 khi các nước sản xuất dầu ở Trung Đông ngừng xuất khẩu dầu và sau đó nâng giá dầu lên gấp bốn lần. Chi phí xây dựng lại kho vũ khí của Mỹ vì vậy mà tăng vọt lên. Năm 1975, chi tiêu thực tế cho công tác quốc phòng của Mỹ vào khoảng 4 tỉ đô-la một năm, thấp hơn một thập niên trước đó. Rồi sau đó thì tổng thống Reagan đã hào phóng mua sắm trang bị bằng tiền vay mượn để làm hồi sinh cỗ máy chiến tranh đang hấp hối của Mỹ. Và ông đã trang bị cho tổng thống Bush những vũ khí tinh vi nhất để ông Bush tiến hành cuộc chiến tranh vịnh Ba Tư. Nhưng chi phí này góp phần tạo ra khoản thâm hụt vô cùng to lớn của ngân sách liên bang.

Không chỉ có lạm phát hủy hoại các lực lượng vũ trang Mỹ. Để ve vãn cử tri, tổng thống Richard Nixon đã chấm dứt chế độ quân dịch không công bằng và không phổ quát. Sau này ông lấy làm hối tiếc về hành động đó, cũng như nhiều chuyên viên quân sự và nhân vật chính trị, cả phe bảo thủ và phe tự do. Lấy một ví dụ, để khuyến khích thanh niên vào lính thì tiền lương, hưu bổng và các quyền lợi khác của người lính phải được nâng lên ngang bằng với giới chức dân sự và cuối cùng thì tiền lương chiếm gần hết ngân sách quốc phòng. Chỉ có thể thu hút thanh niên tình nguyện vào lính trong lớp trẻ nghèo, thiệt thòi và ít học – những thanh niên đó lại không đủ phẩm chất để điều khiển những công nghệ tinh vi của quân đội thời hiện đại. Tình cảm phản chiến cũng khuấy động các học xá đại học, phá hỏng các chương trình sĩ quan dự bị - số lượng sinh viên đăng ký các chương trình này đã rơi thẳng xuống, từ hơn hai trăm ngàn người năm 1968 xuống còn khoảng bảy mươi lăm ngàn người năm 1973. Nguồn cung cấp các sĩ quan chỉ huy sáng giá, sáng tạo đã bị thu hẹp và những tay thư lại có đầu óc cứng nhắc nắm lấy hầu hết các vị trí quản lý của quân đội.

Tuy nhiên năm tháng trôi đi, quân đội Mỹ lấy dần lại sức mạnh và hình ảnh của nó trong xã hội cũng dần dần thay đổi. Đến năm 1982, có hơn 85 phần trăm thanh niên tự nguyện đi lính đã học xong trung học, cao hơn mức 67 phần trăm hai năm trước đó. Nam nữ thanh niên, không tìm được công việc làm hoặc muốn chọn binh nghiệp, thì thích cuộc sống gò bó trong quân phục nhưng được trả lương cao hơn là bị thất nghiệp, và những người tuyển dụng tân binh đã chuyển địa bàn hoạt động từ các xóm nghèo của dân da đen sang các khu ngoại ô của dân trung lưu da trắng mà vẫn đạt được những thành quả đáng ngạc nhiên. Mướt mồ hôi vì mức học phí đại học cao ngất trời, sinh viên thường tham gia các chương trình sĩ quan dự bị như một phương cách trang trải học phí. Và mặc dù những ký ức khủng khiếp về Việt Nam chưa phai tàn hẳn, quân đội cũng đã giành lại được một phần sự kính trọng của xã hội. Thế nhưng trong danh sách các ưu tiên về quốc phòng của chính phủ Reagan, quân đội vẫn còn xếp sau rất xa so với ưu tiên phát triển vũ khí hạt nhân và những vũ khí chiến lược khác.

Những người Mỹ đã chiến đấu ở Việt Nam hoặc bị những người phản chiến lăng mạ là những tay giết người, hoặc bị những người ủng hộ chiến tranh chế giễu là kẻ bại trận. Trong rất nhiều năm sau đó, nhiều người cảm thấy dường như mình thuộc về một thế hệ lạc loài, vị trí của họ trong xã hội thật khó chịu, mơ hồ và đau khổ - dường như đất nước buộc họ phải chịu trách nhiệm về cái cảm giác tội lỗi, xấu hổ về cuộc chiến tranh mà đất nước đang trải nghiệm. Trong thực tế, phần lớn binh lính Mỹ từ Việt Nam trở về đã lặng lẽ và kín đáo hòa nhập vào nhân dân. Chân dung các cựu binh được trình bày trên phương tiện truyền thông thường là những bức vẽ méo mó hai chiều. Những cựu binh có vấn đề thường được tả như là những tay nghiện hút râu tóc bờm xờm gảy đàn guitar trên những hè phố California, những người đã tái hòa nhập thì được tôn xưng như là những tay chạy mánh đang hốt bạc trong nghề bất động sản ở Texas. Tuy vậy hình ảnh của họ đang dần dần được cải thiện khi công chúng Mỹ thể hiện một niềm kính trong mới đối với các lực lượng vũ trang. Họ được tôn vinh tại đài tưởng niệm ở Washington – một trong số các tượng đài nhiều người thăm viếng nhất thủ đô. Quan trọng nhất là họ cũng được miêu tả một cách đầy xót thương trong cả một trào lưu văn nghệ về Việt Nam nổi lên sau chiến tranh, từ tiểu thuyết, hồi ký, thơ ca, phim ảnh, truyền hình, kịch và thậm chí cả âm nhạc nữa. Họ được nhìn dưới một ánh sáng mới trong hàng loạt các trường trung học và đại học khắp đất nước nơi có chương trình giảng dạy về Việt Nam cho những sinh viên trẻ - những kẻ chưa sinh ra khi người lính Mỹ đầu tiên đặt chân đến Đông Nam Á. Trong nhiều trường hợp, bản thân các giảng viên là cựu chiến binh.

Nhưng chiến tranh đã làm hư hỏng một bộ phận lớn các cựu chiến binh, cả về tinh thần và thể xác. Hàng ngàn người bị nhiễm chất độc màu da cam, một hóa chất diệt cỏ được sử dụng để làm trụi lá những cánh rừng, được xác định là một nguyên nhân gây ung thư, khuyết tật bẩm sinh và nhiều căn bệnh khác. Một nghiên cứu của Ủy ban Cựu chiến binh công bố năm 1988 ước tính rằng có khoảng năm trăm ngàn trong số ba triệu lính Mỹ từng có mặt ở Việt Nam bị chứng bệnh “rối loạn tâm thần sau chấn thương” (post-traumatic stress disorder) – tỉ lệ này cao hơn nhiều so với những người bị “sốc đạn pháo” (shell shock) trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất hoặc bị “nỗi khổ chiến trường” trong Thế chiến thứ II – cách gọi một chứng bệnh tương tự trong các cuộc xung đột đó. Những triệu chứng của nó có khi phải mươi mười lăm năm sau mới xuất hiện, thay đổi từ hoảng sợ đến giận dữ tới bồn chồn, chán nản, thậm chí tê liệt cảm xúc. Trong thành phần cựu chiến binh Việt Nam, tỷ lệ ly hôn, tự tử, nghiện ma túy, tội phạm và đặc biệt là nghiện rượu đều vượt mức bình thường. Một nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Chính sách thuộc đại học thành phố New York công bố năm 1981 kết luận rằng, họ “đau đớn vì nhiều vấn đề hơn là những người cùng trang lứa”.

Chiến tranh là chiến tranh. Thế thì tại sao chiến tranh Việt Nam lại khác?

Vì hiểm nguy lan tràn và thường trực. Tôi đã trải qua ba năm binh nghiệp trong Thế chiến thứ II, phần lớn thời gian ấy tôi phục vụ trên các sân bay và căn cứ hậu cần ở vùng đông bắc Ấn Độ, thậm chí không có dịp nghe một tiếng súng nổ gần. Nhưng ở Việt Nam không có chỗ nào là an toàn cả. Một lính Mỹ được phái tới làm việc trong một văn phòng ở Sài Gòn hoặc một nhà kho ở Đà Nẵng có thể bị giết chết hoặc bị thương bất kỳ lúc nào, bất kể ngày đêm, bằng đạn súng cối hoặc phi pháo của cộng sản. Và trong suốt nhiệm kỳ công tác một năm, một người lính bộ binh hầu như phải chiến đấu liên tục – bị quấy nhiễu vì mìn của đối phương, vì những cái bẫy chông và bắn tỉa; chưa nói đến việc tham dự trực tiếp vào các trận đánh giáp lá cà. Philip Caputo, một trong những người viết biên niên sử hùng biện nhất về chiến tranh Việt Nam đã so sánh và lưu ý rằng trong suốt cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ - được ca tụng vì những chiến công lừng lẫy khi đánh Nhật trên mặt trận Thái bình dương, chỉ chiến đấu không quá sáu đến tám tuần.

Độ tuổi trung bình của người lính Mỹ ở Việt Nam là 19, trẻ hơn 7 tuổi so với cha anh họ tham gia Thế chiến II. Điều đó làm cho họ dễ bị tổn thương hơn trước sức căng tâm lý của chiến tranh mà sức căng ấy càng trầm trọng hơn do sự căng thẳng đặc thù ở Việt Nam nơi mỗi người nông dân đều có thể là một chiến binh Việt Cộng. William Ehrhart, một cựu thủy quân lục chiến, nhớ lại một khoảnh khắc quá khứ mà nhiều năm sau chiến tranh anh không thể nào quên được: “Bất cứ khi nào bạn quay đầu, bạn đều phải định thần lại. Thế rồi quân thù biến mất, và bạn chỉ còn cách trút nỗi bối rối vào các thường dân. Cái cách làm của chúng tôi là, bất cứ người Việt Nam nào bỏ chạy khỏi người Mỹ đều có thể bị tình nghi là Việt Cộng và chúng tôi có thể bắn. Đó là một nghi thức hoạt động tiêu chuẩn. Một hôm tôi đã bắn một người phụ nữ trên đồng lúa chỉ vì bà ta đang chạy – đang tránh xa những người Mỹ. Và tôi đã giết bà ấy. Một người đàn bà năm lăm hoặc sáu mươi tuổi, không vũ khí, và lúc đó tôi thậm chí không suy nghĩ về hành động của mình”.

Một nghịch lý là những diệu kỳ của khoa học hiện đại đã góp phần gia tăng tình trạng khốn cùng của cựu chiến binh Việt Nam. Các máy bay trực thăng cứu thương nhanh chóng và hiệu quả đến nỗi một lính Mỹ bị thương ngoài mặt trận chỉ mất mười lăm phút là lên được bàn giải phẫu. Số liệu thống kê sẽ kể một câu chuyện. Trong suốt Thế chiến II, bình quân cứ bốn lính thủy đánh bộ Mỹ bị thương thì có một người chết, ba người được cứu sống. Nhưng ở Việt Nam tỉ lệ người được cứu sống cao hơn nhiều, bảy trên một và những con người lẽ ra đã mục rữa trên sa trường thì nay vẫn còn sống dù rằng bị tật nguyền đến mức cần được chăm sóc suốt đời.

Lính Mỹ trong các cuộc chiến tranh khác đo lường sự tiến bộ bằng những lãnh thổ chinh phục được; việc chiếm được cái thành phố kế tiếp trên con đường chiến thắng có thể khích lệ tinh thần và ý chí của họ. Thắng lợi của họ được công chúng Mỹ hoan hô – và người Mỹ ở quê hương có thể dõi theo từng chặng đường hành quân của họ trên bản đồ. Nhưng chiến tranh Việt Nam thì trái lại, không có chiến tuyến, cho nên lính Mỹ ngày càng mệt mỏi và mất tinh thần khi cứ phải chiến đấu ở một chỗ từ ngày này sang ngày khác. Những chỉ huy của họ, có thể trong thâm tâm cũng chán nản không kém, vẫn cố nhấn mạnh vào “số xác” nhiều hơn- một thước đo thành công đầy ảo tưởng. Nhưng việc tàn sát một lực lượng quân thù đã sẵn sàng chấp nhận hy sinh vô giới hạn là một hành động không chỉ vô ích mà còn làm cho cuộc chiến tranh trở nên bỉ ổi như một lò sát sinh. Và theo kiểu đó, dân chúng Mỹ ở nhà nhìn thấy những cảnh tượng gớm guốc trên màn ảnh truyền hình, họ chỉ có thể thấy ở Việt Nam một nỗ lực vừa phù phiếm vừa là một ẩn dụ về nỗi kinh hoàng. Nhiều người từ đó đã hướng mối ác cảm và tâm trạng thất vọng của mình về hướng những người lính Mỹ hồi hương. John Kerry, sau này là nghị sĩ bang Massachussett, nhớ lại kinh nghiệm của mình sau khi phục vụ ở Việt Nam trong cương vị một sĩ quan hải quân: “Thế là tôi lên máy bay, một tuần sau khi ra khỏi rừng tôi bay từ San Francisco về New York. Tôi ngủ thiếp đi và thức dậy, la hét, có lẽ do một cơn ác mộng. Các hành khách khác tránh xa tôi – một phản ứng mà tôi còn thấy trong nhiều tháng sau này nữa. Đất nước chẳng thèm hỏi han gì những chàng trai từ mặt trận trở về, chẳng quan tâm gì tới những điều họ đã trải qua. Cái tình cảm họ dành cho chúng tôi là ‘Tránh xa ra, đừng đầu độc chúng tôi bằng những thứ anh mang từ Việt Nam về’”.

Một số cựu chiến binh kêu gào đòi công việc tốt hơn, đòi tư vấn về xã hội. Những người khác, vật lộn với những kỷ niệm bản thân, tiếp tục ủng hộ hay phản đối cuộc chiến, và nhiều người thậm chí còn không nắm bắt được những gì đã diễn ra. Trên tất cả, họ tìm kiếm công lý và sự kính trọng – món nợ mà theo truyền thống các quốc gia phải trả cho các chiến binh của mình. Các cuộc diễu hành, các đài tưởng niệm, các buổi cầu nguyện đều chưa đủ.

Sau này hồi tưởng lại, nhiều nhà kế hoạch quân sự Mỹ kết luận rằng Việt Nam là một cuộc chiến tranh sai lầm tại một nơi chốn sai lầm. Họ chắc chắn rằng trong tương lai người Mỹ chỉ nên nhúng tay vào cuộc xung đột nào mà họ hiểu rõ được – tiến hành chiến tranh trên những địa hình rộng rãi, sử dụng những đơn vị bộ binh lớn, trọng pháo nặng và xe tăng tối tân kết hợp với tên lửa đạn đạo, chiến đấu cơ siêu âm, chiến hạm siêu hiện đại và những phát minh mới nhất trong lĩnh vực công nghệ cao. Họ cất vào kho những chương trình chống nổi dậy một thời được thiết kế để kiểm soát các phong trào du kích ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tin, và trở về với những quan niệm quy ước. Năm 1987 tôi đi thăm Fort Hood, bang Texas, căn cứ của sư đoàn kỵ binh bay số Một – một đơn vị xuất sắc trong chiến tranh Việt Nam. Ngồi trên máy bay trực thăng bay qua một mô hình chiến trường, tôi quan sát thấy những đoàn xe bọc thép mò mẫm tiến qua những thảo nguyên rất giống những đồng cỏ bằng phẳng ở Trung Âu hoặc sa mạc Trung Đông. Vị tư lệnh đi cùng tôi, một trong số ít cựu chiến binh Việt Nam còn làm việc ở sư đoàn, nói với tôi sau khi chúng tôi đáp xuống: “Đây là kiểu chiến tranh của chúng ta”. Đây là kiểu chiến tranh mà các cựu chiến binh Việt Nam khác, bây giờ đã là những chỉ huy cao cấp, sẽ chiến đấu ở vùng vịnh Ba Tư.

Trong cuộc nói chuyện tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia ở Washington cuối năm 1987, bộ trưởng quốc phòng thời tổng thống Reagan, ông Caspar Weinberger cũng phát biểu những ý kiến tương tự. Mặc dầu ông ưa thích việc gia tăng kho vũ khí chiến lược của Mỹ, ông tỏ ra thận trọng chống lại những cam kết của Mỹ muốn yểm trợ cho các chế độ thiểu số, ăn hối lộ và bất tài ở các nước đang phát triển. Ông nói, can thiệp quân sự là “giải pháp cuối cùng” chỉ có thể tính tới sau khi tất cả các nỗ lực ngoại giao đã thất bại. Hơn hết thảy, nước Mỹ phải tránh những cuộc xung đột vũ trang trừ phi nước Mỹ có thể dựa vào sự ủng hộ không gì lay chuyển được của công chúng Mỹ. Nói ngắn gọn: “Không thêm một Việt Nam nào nữa” (No more Vietnams).

Những khổ đau hậu chiến của Mỹ chẳng là gì so với những khốn khổ mà Việt Nam phải chịu đựng. Từ năm 1981 đến 1996 tôi đã trở lại Việt Nam bốn lần và tái khám phá một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh liên miên suốt hai thế hệ; những vấn đề của nó càng trầm trọng hơn vì những sai lầm ngớ ngẩn của tầng lớp lãnh đạo già nua, những người không biết gì hơn là chiến tranh. Họ bị phân liệt thành những phe phái đối chọi nhau – một số người bám víu những giáo điều cách mạng lỗi thời, một số người ủng hộ những thay đổi tự do hơn và một số người tìm cách thỏa hiệp. Sau khi nghiêng ngả từ lối tiếp cận này sang lối khác, cuối cùng vì tuyệt vọng họ đã chọn thực hiện hàng loạt cải cách kinh tế có tính chất thực dụng. Những kết quả ban đầu tỏ ra khá ngoạn mục, làm dấy lên những đồn đoán rằng chẳng bao lâu nữa Việt Nam sẽ bắt kịp Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Thái Lan và Nam Hàn – những “con hổ nhỏ” năng động của châu Á. Nhưng mặc dù Việt Nam có các tiến bộ không thể chối cãi, tôi vẫn thấy rằng niềm lạc quan đã bị thổi phồng quá đáng – hoặc ít ra là quá sớm. Mặc dù các thành phố phát triển mạnh nhưng vùng nông thôn, nơi sinh sống của tám mươi phần trăm dân số, vẫn lẹt đẹt ở phía sau. Với thu nhập bình quân đầu người ít hơn 300 đô-la mỗi năm, Việt Nam đồng hạng với Bangladesh là một trong số các vùng đất cơ cực nhất trên thế giới. Tương lai của nó thật ảm đạm.

Xây dựng lại Việt Nam là một nhiệm vụ gian khó, kể cả trong điều kiện thuận lợi nhất. Nền kinh tế tơi tả, cơ cấu xã hội rã rời, dân chúng kiệt quệ, cả ở miền Bắc lẫn miền Nam. Nhiều khu vực rộng lớn hoang tàn. Cái chết và sự tàn phá làm ly tán từng gia đình – những gia đình mà lòng trung thành chính trị càng vỡ vụn hơn nữa trong cái mà về bản chất là một cuộc nội chiến. Sau khi đã chiến đấu để sống sót trong thời chiến tranh, nay người dân lại phải chiến đấu để sống sót trong một nền hòa bình không như ý muốn. Hơn một triệu người Việt bỏ chạy ra nước ngoài, thường là chịu thập phần nguy hiểm.

Những người cộng sản làm cho sự tàn phá trở nên trầm trọng hơn. Họ theo đuổi các chính sách khắc khổ đầy tai họa cũng với lòng kiên định đã truyền cảm hứng cho họ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Năm 1981, ông Phạm Văn Đồng, khi ấy là thủ tướng chính phủ, đã kết luận nhiều điều khi chúng tôi ngồi tán gẫu trong một căn phòng trang hoàng lộng lẫy trong tòa dinh thự ở Hà Nội có thời là dinh thự của các thống đốc thực dân Pháp. Đã ngoài bảy mươi nhưng vẫn còn nhanh nhẹn, ông Đồng là người hy sinh trọn đời mình cho lý tưởng cộng sản nhưng nay lại băn khoăn trước nỗi thống khổ của Việt Nam. Ông nói: “Đúng, chúng tôi đã đánh bại người Mỹ, nhưng bây giờ chúng tôi đau đớn vì những vấn đề của chính mình. Chúng tôi không có đủ ăn. Chúng tôi là một dân tộc nghèo khó, kém phát triển. Vous savez (Anh biết không), tiến hành chiến tranh thì đơn giản nhưng điều hành đất nước thì khó hơn nhiều”.

Một cố vấn hàng đầu của cộng sản, ông Trần Bạch Đằng, thì thẳng thắn hơn. Năm 1990 được một người bạn đưa tới nhà ông ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi ngạc nhiên khi thấy mình trở lại đúng cái biệt thự kiểu Pháp mà ngày xưa các quan chức Mỹ cư ngụ. Tôi có lúc ở đó một thời gian và cảm thấy dường như mình quay lại một căn nhà ma. Trong lúc ngồi uống trà ngoài vườn, tôi lại ngạc nhiên vì sự thẳng thắn của ông Đằng. Ông nói: “Niềm tin của chúng tôi vào chủ nghĩa cộng sản không tưởng không có liên quan gì đến thực tại cả. Chúng tôi đã cố gắng xây dựng một xã hội mới dựa trên những lý thuyết và những ước mơ – như xây lâu đài trên cát. Thay vì kích thích sản xuất bằng cách khuyến khích người dân, chúng tôi tập thể hóa họ. Hãy tưởng tượng xem! Chúng tôi thậm chí tập thể hóa cả người thợ cắt tóc. Thật là lố bịch và ngớ ngẩn. Chúng tôi chạy theo những thứ phù hoa. Vì chúng tôi đã đánh bại người Mỹ cho nên chúng tôi tưởng rằng mình có thể làm được mọi sự. Lẽ ra chúng tôi nên lưu ý một câu ngạn ngữ Trung Quốc: “Ngươi có thể chinh phục một đất nước từ trên yên ngựa song ngươi không thể cai trị một đất nước từ yên ngựa”.

Tôi cũng đã nghe lời phân tích độc địa như vậy từ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, một thầy thuốc nhi khoa nổi tiếng và một đảng viên cộng sản kỳ cựu, người đã góp phần sáng lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng – tên gọi chính thức của lực lượng Việt Cộng. Khi chúng tôi gặp nhau lần đầu năm 1981 bà đã tỏ ra thẳng thắn, và chín năm sau khi chúng tôi gặp lại bà còn nói thẳng hơn nữa.

Là một phụ nữ thanh lịch, bà không hề mất đi chút duyên dáng nào ở tuổi trung niên. Bà sinh ra trong một gia đình miền Nam giàu có theo Tây học. Bà đã trở thành cộng sản khi còn ở Paris nơi bà theo học ngành y vào đầu thập niên 1950. Trở lại Sài Gòn, bà bắt đầu thu thập các mẩu tin chính trị cho cộng sản thông qua những cuộc tiếp tân xã giao với những thành viên trong nội các của tổng thống miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm và những người Mỹ bảo trợ cho chính phủ đó. Không có khả năng thăm dò chiều sâu của chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam, các quan chức Mỹ không bao giờ có thể tưởng tượng nổi người phụ nữ Việt Nam quý phái thuộc tầng lớp thượng lưu này lại có thể là một Mata Hari [1] .

Đầu năm 1968 khi cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân bùng nổ, bà Hoa bỏ thành phố vào chiến khu trong rừng cùng với chồng – một nhà toán học, và đứa con duy nhất của họ. Ở trong rừng, đứa con chết vì bệnh viêm não. Đó là một tai họa khiến bà không bao giờ hồi phục được. Cho dù đặt cái chết của con trong bối cảnh những mất mát khủng khiếp của dân tộc Việt Nam, bà tâm sự với tôi với vẻ cam chịu rằng “nó chỉ là một trong hàng triệu con người”. Bà được bổ nhiệm thứ trưởng bộ y tế trong chính phủ cách mạng lâm thời của Việt Cộng do Hà Nội dựng lên để hợp pháp hóa phong trào cộng sản ở miền Nam, và được phong danh hiệu “anh hùng lực lượng vũ trang”. Ngồi trong phòng khách cái biệt thự sang trọng của bà, giữa những đồ trang trí bằng sành sứ Trung Quốc và Việt Nam quý hiếm, chúng tôi trò chuyện đủ điều. Bà nói: “Chúng tôi không có lựa chọn nào khác. Chúng tôi phải loại bỏ đám người ngoại quốc”. Rồi bà sôi nổi hẳn lên: “Tôi đã là người cộng sản suốt đời tôi. Nhưng bây giờ tôi chứng kiến những thực tế của chủ nghĩa cộng sản và đó là một thất bại – quản lý tồi, tham nhũng hối lộ, đặc quyền đặc lợi, đàn áp nhân dân. Lý tưởng của tôi đã tan biến”.

Bà chỉ trích các cán bộ của Hà Nội đang cai trị miền Nam về sự mù quáng của họ trước các đặc tính địa phương, nhất là những biện pháp cứng rắn như tập thể hóa nông dân là những người mà chính niềm khao khát có một mảnh ruộng riêng là động lực đưa họ đến với Việt Cộng hơn là đi theo Ngô Đình Diệm – một chính phủ chỉ say mê tầng lớp có ruộng đất mà không màng tới cải cách điền địa.

Tôi ngạc nhiên sao bà không bị bắt giam vì nói ngược với chính phủ. Có lẽ Đảng Cộng sản chịu đựng bà để tỏ ra nhân từ, cũng có thể họ nghĩ rằng bịt miệng bà sẽ làm cho những người ủng hộ bà xa lánh họ. Cho dù thế nào đi nữa, khi tôi gặp lại bà năm 1990, bà còn tỏ vẻ cay đắng hơn. Bà nói: “Chủ nghĩa cộng sản là một thảm họa. Các viên chức của Đảng không bao giờ hiểu nổi cái nhu cầu phát triển hợp lý. Họ bị thôi miên bởi các khẩu hiệu mác-xít đã mất hết hiệu lực – nếu cho rằng chúng đã có thời hiệu lực. Thật là kỳ quặc”.

Lời chỉ trích chế độ gay gắt nhất là do đại tá Bùi Tín đưa ra sau này. Ông nguyên là phó tổng biên tập báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản và là một gương mặt có thành tích thật sự của Đảng. Là con của một vị đại thần, ông được sinh ra ở Huế, cố đô miền Trung Việt Nam mà người Pháp đặt tên là Annam. Ông từ chối một cơ hội đi du học bên Pháp và năm 1945, khi mới mười lăm tuổi, ông đã gia nhập Việt Minh – phong trào dân tộc chủ nghĩa do ông Hồ Chí Minh thành lập – trước tiên là để chống sự chiếm đóng của quân phiệt Nhật tại Việt Nam suốt Thế chiến thứ II và sau này là chống thực dân Pháp. Bị thương trong trận đánh Điện Biên Phủ nhưng ông vẫn giữ vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Vào cuối năm 1963, ông làm cuộc hành trình gian khổ vào miền Nam để thực hiện nhiệm vụ bí mật là chuẩn bị cho cuộc thâm nhập của quân chính quy miền Bắc. Một thập niên sau đó, với tư cách người phát ngôn của nhóm cộng sản tại Sài Gòn sau hiệp định đình chiến, ông đã đưa tiễn người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Đó là một người Mỹ ở bang Oregon mà ông lờ mờ nhớ tên là Max Bielke. Ông kể với tôi: “Tôi đưa cho anh ta bản sao một bức tranh do ông Hồ Chí Minh vẽ [2] và mời anh ta trở lại một ngày nào đó với tư cách du khách”. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi ấy là một phóng viên báo Quân đội Nhân dân – tờ nhật báo của quân đội miền Bắc Việt Nam, ông đi cùng những lực lượng cộng sản tiến vào thành phố Sài Gòn – và là sĩ quan cao cấp nhất có mặt, tiếp nhận sự đầu hàng của chính phủ Nam Việt Nam đã bị đánh bại.

Sau chiến tranh tôi thường gặp ông ở Việt Nam. Một con người thấp bé, gân guốc, với một tính cách có vẻ hơi lãnh đạm ông nói chuyện bằng tiếng Pháp rất trôi chảy; và chúng tôi đã có nhiều giờ cùng uống trà, ăn tối và đàm đạo. Ông thân cận với tướng Giáp – và tôi nghĩ rằng ông Giáp đã không ngăn cản bước đi không thể thay đổi được của viên đại tá vào năm 1990.

Trong một chuyến công cán sang Paris, ông đã đưa cho các cơ quan báo chí phương Tây bản “Thỉnh nguyện của một công dân”, nguyền rủa chế độ Hà Nội. Ông cũng công bố rộng rãi những nỗi bất bình của mình trong hàng loạt bài trả lời phỏng vấn mà chương trình phát thanh tiếng Việt của đài BBC Luân Đôn phát về Việt Nam. “Chế độ quan liêu, vô trách nhiệm, tính tự cao tự đại, tham nhũng, lường gạt đã trở nên thâm căn cố đế dưới sự cai trị hỗn láo của những kẻ đặc quyền đặc lợi”, ông nói. “Có một sự suy thoái đáng báo động về đạo đức luân lý truyền thống và các giá trị tinh thần, (và) sự lầm lạc trong giới trẻ về những người mà tương lai đất nước trông cậy vào”. Ông phát biểu những bất mãn của mình trong cuốn hồi ký có tựa đề Theo bước ông Hồ Chí Minh xuất bản ở Anh, Pháp và Mỹ năm 1995.

Từ trước đến lúc đó chưa bao giờ có chuyện một đảng viên cộng sản tầm cỡ như vậy công khai chỉ trích các đồng chí của mình, đặc biệt là từ nước ngoài. Ở Việt Nam, người dân hào hứng chờ nghe các buổi phát thanh có ông tham gia và ông bị khai trừ Đảng sau nhiều cơn nguyền rủa. Sau này tôi hỏi ông tại sao, sau một đời làm người cộng sản trung kiên, kỷ luật, ông lại chọn một con đường chưa có tiền lệ như vậy. Ông đáp: “Tôi phải đi theo tiếng gọi của lương tâm”.

Năm 1981, tôi mong mỏi được gặp lại người bạn, người đồng nghiệp Việt Nam từ lâu đã thân thiết của tôi, ông Phạm Xuân Ẩn. Tôi quen ông Ẩn hai mươi năm về trước, khi ông ấy còn là cộng tác viên tại Sài Gòn của hãng tin Anh Reuters. Chúng tôi thường tụ tập ở Brodard hoặc Givral, những quán café ông ấy ưa thích, và trong khi vừa đốt thuốc liên tục ông ấy vừa kiên trì giải mã những bí ẩn của Việt Nam cho chúng tôi hiểu. Là người hiểu nhiều biết rộng, phán đoán sắc sảo, sau này ông ấy được báo Time tuyển dụng và trở thành nhà báo Việt Nam duy nhất trong biên chế phóng viên của một cơ quan báo chí lớn của Mỹ. Không hiểu được tại sao ông ấy không đào thoát khỏi Việt Nam khi Sài Gòn sụp đổ, tôi đoán rằng, cũng như nhiều người Việt khác, ông đã bị mắc kẹt. Tôi yêu cầu người phụ trách chuyến đi của tôi sắp xếp một cuộc gặp với ông Ẩn – và họ bảo tôi rằng: “Quên chuyện đó đi. Đại tá Ẩn không muốn gặp ông hoặc bất kỳ người Mỹ nào.” “Đại tá ư?” “Vâng, đúng thế” – viên sĩ quan gắt. “Ông ấy là người của chúng tôi”. Và như vậy đó, tôi sững sờ khi biết Ẩn từng là một điệp viên Việt Cộng suốt thời gian chúng tôi quen nhau.

Một người bạn cũ khác của tôi, ông Phạm Ngọc Thảo, một đại tá chói sáng trong quân đội miền Nam Việt Nam, dòng dõi một gia đình Thiên chúa giáo nổi tiếng, cũng đã từng phục vụ cho cộng sản. Ông Thảo đã không bị phát hiện cho đến một ngày, do nhiều nguyên nhân khác nhau, ông bị mật vụ Sài Gòn ám sát trong một trận chiến. Tôi được biết về vai trò song trùng của ông vào năm 1981 tại thành phố Hồ Chí Minh, chỉ một thời gian ngắn sau khi thi thể của ông được phát hiện và đưa về an táng trong nghĩa trang liệt sĩ. Thảo là một người chủ mưu miễn cưỡng trong khi Ẩn là một nhà báo tài hoa nhưng dường như cả hai đều được biệt phái. Hai người đều không bao giờ tỏ vẻ tuân phục phe cộng sản, nhưng nếu họ che mắt được giới báo chí thì họ cũng lừa được các quan chức Mỹ. Cho đến mức Thảo được phân công sang đại sứ quán Nam Việt Nam tại thủ đô Washington làm sĩ quan liên lạc giữa sứ quán với CIA và Ngũ Giác Đài.

Cuối cùng, mãi cho đến năm 1990, khi không khí ở TP Hồ Chí Minh đã trở nên thoải mái hơn, tôi mới được gặp lại ông Ẩn. Tôi lái xe đến nhà ông, len lỏi qua những đường phố chật cứng xe đạp và xe máy, rồi liếc nhìn qua cánh cổng vào khoảng sân của một ngôi biệt thự cũ kỹ và thấy một gương mặt gầy gò mặc chiếc quần soóc rộng thùng thình. Chúng tôi ôm lấy nhau và Ẩn lên tiếng xin lỗi: “Lần trước anh sang đây chính quyền đã không để cho tôi được gặp anh. Họ lo lắng. Nhưng bây giờ họ đã thoải mái hơn. Dù sao họ đã không còn ảo tưởng về những gì tôi suy nghĩ”.

Ông ngồi trong phòng khách, giữa các đống sách vở, những tờ báo ố vàng và những tủ tài liệu méo mó, bên dưới chiếc quạt trần đang quay vù vù. Ông nói: “Tôi đã làm việc cho những người cộng sản nhưng động cơ của tôi là lòng yêu nước, không phải do ý thức hệ”.

Năm 1944, ở tuổi 16, ông tham gia mặt trận Việt Minh chống Nhật và ở lại trong hàng ngũ Việt Minh suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa làm giao liên vừa đi học. Sau khi đất nước Việt Nam bị chia đôi năm 1954, ông phục vụ trong quân đội của chính phủ Sài Gòn rồi sau này được cấp học bổng theo học đại học ở miền nam California. Ông trở thành một cổ động viên bóng chày – và say mê nước Mỹ. Ông nhớ lại, “Những năm tháng ấy là quãng thời gian hạnh phúc nhất đời tôi”.

Vài năm sau khi trở về nước, Ẩn được các đồng chí cộng sản cũ bắt liên lạc. Khi ấy, là một phóng viên của hãng Reuters, ông có điều kiện tiếp cận cả chính phủ Sài Gòn lẫn các quan chức Mỹ, và cả hai bên đều muốn tiếp cận những gì ông tiếp cận được. Ông chấp nhận. Mặc dù ông tôn trọng nước Mỹ, ông vẫn cảm thấy rằng người ngoại quốc không có chỗ đứng ở Việt Nam. Và như thế ông bắt đầu cuộc sống hai mặt.

Các giao liên Việt Cộng thường lẻn vào Sài Gòn để nhận những báo cáo của ông – những báo cáo mà ông viết bằng loại mực không màu chế tạo từ bột sắn. Khi được triệu tập đi họp, ông phải lái xe suốt đêm tới một căn cứ bí mật ở phía bắc thành phố trong tâm trạng kinh hoàng vì có thể bị khám xét bởi quân lính của chính phủ - hoặc trái khoáy hơn nữa, ông có thể bị Việt Cộng phục kích. Không bao giờ mang vũ khí hoặc mặc quân phục, ông đã lên tới cấp đại tá trong hàng ngũ cộng sản.

Những tiết lộ đầu tiên về quá khứ của Phạm Xuân Ẩn, do tôi và các đồng sự khác thực hiện, đã khiến cho các nhà phê bình cánh hữu vẫn thường phê phán báo chí Mỹ sướng run lên. Họ tố cáo, đây là bằng chứng hiển nhiên cho thấy báo chí Mỹ đã tự để cho Việt Cộng xỏ mũi. Bác bỏ lời tố cáo đó, Ẩn nói “Vô lý! Như thế tôi sẽ bị lộ ngay”. Phần lớn những tin tức ông chuyển cho phía Việt Cộng cũng giống với những tin tức ông gửi về ban biên tập báo Time. “Đó không phải là những thông tin tuyệt mật – chỉ là thông tin về lực lượng quân sự của chính phủ và cách thức phân bố, tướng lĩnh nào có năng lực, viên tướng nào bất tài hoặc tham nhũng. Và có cả những tin đồn – ông nào thông dâm với vợ hoặc bồ nhí của ông nào. Tôi cũng thu thập những mẩu tin chính trị lý thú, phần lớn từ các cuộc tán gẫu trong các quán café Sài Gòn”.

Mùa xuân năm 1975, nhận thấy phe cộng sản đang chuẩn bị một cuộc tổng công kích, lo lắng cho bà vợ và bốn đứa con nếu xảy ra một trận chiến đẫm máu giành lấy Sài Gòn, Ẩn gửi họ sang New York trên chiếc máy bay thuê bao của báo Time. Ông ở lại để chăm sóc người mẹ đang đau yếu rồi đưa vợ con hồi hương chỉ một thời gian ngắn sau đó. “Đó là việc ngu ngốc nhất mà tôi đã làm,” ông buồn rầu nói.

Những người cộng sản biết rõ các mối liên hệ với người Mỹ của ông Ẩn, họ đã đưa ông ra Hà Nội học tập một năm. Sau khi trở về thành phố Hồ Chí Minh, ông gần như bị quản thúc tại gia, họ cắt đường dây điện thoại của ông và ngăn không cho những người ngoại quốc như tôi đến thăm ông. Tuy vậy họ vẫn tham khảo ý kiến của ông về những vấn đề quốc tế và trả cho ông khoản lương hưu của một thiếu tướng, mỗi tháng khoảng 30 đô-la Mỹ; ông phải nuôi chó để kiếm thêm thu nhập. Ông rất buồn. “Tôi kính phục những người cộng sản như là những người dân tộc chủ nghĩa,” ông nói. “Nhưng sự ngu dốt và kiêu căng của họ chỉ có thể đem lại cho chúng tôi sự khốn cùng”.

Trong một bữa ăn tối ở Sài Gòn ông nhắc lại cho tôi rằng tình yêu đất nước Việt Nam của ông không loại trừ tình yêu ông dành cho nước Mỹ. “Anh có nhớ bài hát cũ của Josephine Baker không?”, ông hỏi và khe khẽ hát “J’ai deux amours…” (Tôi có hai mối tình…).

Phần 4

Ngây ngất với những thành công thời chiến, những người cộng sản đưa ra một kế hoạch đầy tham vọng nhằm phát triển kinh tế ở mức 14 phần trăm mỗi năm. Kế hoạch sụp đổ thảm hại. Tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2 phần trăm mỗi năm, lẹt đẹt theo sau mức sinh đẻ 3 phần trăm, một trong những sinh suất cao nhất thế giới – một xu hướng có gốc gác từ hơn nửa thế kỷ trước. Bất chấp chiến tranh và thiên tai như bão lụt hạn hán, từ năm 1930 đến lúc đó, dân số đã tăng gấp ba trong khi sản lượng lương thực chỉ tăng gần gấp đôi. Việt Nam nhanh chóng lâm vào khốn khó mặc cho bản tính năng động của nhân dân – những người mà nếu được khích lệ thì có thể đạt được, thậm chí vượt qua, những thành tựu kinh tế của các quốc gia châu Á khác.

Lúc đầu, người cộng sản sai lầm vì bấu víu một cách mù quáng vào cái tín điều mác-xít lỗi thời rằng tăng trưởng kinh tế dựa vào sự khuyến khích các ngành công nghiệp nặng như sắt thép và hóa chất. Nhưng họ thiếu vốn và công nghệ để phát triển công nghiệp nặng, mặc dù các đồng minh Liên Xô và Đông Âu cung cấp cho họ các khoản tín dụng và cả chuyên viên kỹ thuật nữa. Họ cũng trông đợi một cách vô ích vào khoản tiền 4,7 tỉ đô-la “bồi thường chiến tranh” của Mỹ, khoản tiền mà tổng thống Nixon bí mật hứa sẽ cung cấp cho họ vào đầu năm 1973 để thuyết phục họ ký vào hiệp định ngừng bắn. Không có ngoại tệ mạnh để nhập khẩu nguyên liệu, số nhà máy ít ỏi của đất nước hoặc không hoạt động được hoặc chỉ hoạt động cầm chừng. Sản lượng than đá, một mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, suy giảm nhanh vì thiếu xe tải và băng chuyền. Ngay ở Hà Nội cũng không tìm được những mặt hàng tầm thường như xà phòng hay nến; cái cửa hàng bách hóa tổng hợp duy nhất ở đó lúc nào cũng trống rỗng, chỉ có những tủ kính bày hàng mẫu, còn trên các quầy thì chẳng có gì.

Cảng biển chính của miền Bắc là Hải Phòng gần như tê liệt. Một nửa số hàng hóa vận chuyển bằng đường biển từ Liên Xô và các quốc gia cộng sản khác tới chưa kịp bốc dỡ thì đã bị ăn cắp hoặc bị bỏ mặc cho hư thối trên bến cảng. Tôi đã tận mắt nhìn thấy những đống thiết bị chất lộn đầu xuống dưới hoặc bị rỉ sét do không ai quan tâm. Cầu cảng bị tắc nghẽn vì tàu bè neo chờ bốc hàng quá lâu do tình trạng các quan chức Việt Nam coi mặt chủ tàu giàu nghèo mà vòi vĩnh, khăng khăng đòi phải có tiền hối lộ mới cho hàng hóa thông quan. Những tàu Nhật Bản có khả năng lót tay đến năm ngàn đô-la mỗi chuyến thì được dỡ hàng và trở ra biển chỉ trong vài ba ngày trong khi các chủ hàng không chịu hào phóng như thế có thể bị giam hàng đến ba tháng. Lời tuyên bố của Hà Nội về tình đoàn kết vô sản đã bị thực tế làm ngược lại, các con tàu cộng sản thì bị gây khó dễ và phải nằm chờ dài ngày cho đến khi họ chấp nhận luật chơi.

Kế hoạch kinh tế theo chủ nghĩa Marx cũng hình dung các nguồn cung cấp lương thực thực phẩm sẽ đổ vào các thành phố, đô thị từ những nông trại tập thể, nơi giai cấp nông dân đã được giác ngộ cách mạng làm việc cho nhà nước. Nhưng dân nông thôn vốn quen với việc canh tác mảnh ruộng riêng của mình, đã không chấp nhận cái mô hình đó – nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long màu mỡ phía nam Sài Gòn. Thay vì giao lúa gạo, rau quả và thịt cá cho các đại lý thu mua của nhà nước, họ bán sản phẩm ra thị trường chợ đen. Ở một số vùng, thậm chí nông dân thà làm thịt trâu bò chứ không để nhà nước sung công, mặc dù con trâu con bò là người bạn chí thiết của họ trong công việc đồng áng nặng nề; thay vì canh tác cho chính phủ, họ thà bỏ hoang hàng ngàn hec-ta đất.

Sản lượng lúa gạo dự kiến đạt được 21 triệu tấn vào năm 1980, song thực tế ba năm sau vẫn còn thấp hơn dự kiến ấy đến 5 triệu tấn. Trong suốt thời gian tôi có mặt ở Sài Gòn, năm 1981, khẩu phần lương thực chỉ còn 30 pound (13 ki-lô-gam) mỗi tháng – phần lớn là khoai sắn và các thứ hoa màu mà người dân Việt Nam căm ghét. Thịt rất hiếm và cá – nguồn chất đạm chính trong bữa ăn của người Việt Nam, cũng thật hiếm – có lẽ một phần do hàng vạn ngư dân không có dầu chạy ghe đi đánh cá, một phần do tàu thuyền đã bỏ đi vượt biên khá nhiều. Tại bệnh viện nơi bà làm việc, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa chỉ cho tôi thấy những đứa trẻ sơ sinh chen nhau bốn năm đứa một cái nôi hoặc phải nằm trên sàn nhà, bụng chúng lép kẹp vì suy dinh dưỡng trầm trọng. Bà nói trong tiếng thở dài: “Tình hình quả là “invivable” (không sống nổi). Từ đây chúng tôi sẽ ra sao?”

Một chính sách đàn áp không khoan dung càng làm cho nền kinh tế thêm tồi tệ. Khi các quan chức của chính phủ Sài Gòn đầu hàng ông Bùi Tín năm 1975, ông quả quyết với họ: “Tất cả mọi người Việt Nam đều là người chiến thắng, chỉ có đế quốc Mỹ bị đánh bại. Nếu các người yêu đất nước mình, yêu dân tộc mình thì ngày hôm nay là ngày hạnh phúc”. Nhưng chính quyền cộng sản đã bắt giam hơn hai trăm ngàn người miền Nam là công chức, sĩ quan quân đội, bác sĩ, luật sư, giáo viên, nhà văn và các thành phần trí thức khác vào các trại tập trung được gọi một cách mỹ miều là “trung tâm cải tạo”.

Điều khôi hài, một trong các trại cải tạo tệ hại nhất chính là Côn Đảo – hòn đảo giữa biển khơi mà nhà cầm quyền thực dân Pháp đã giam cầm những người bị tình nghi là cộng sản trong suốt thập niên 1930 và chế độ Sài Gòn sau này giam cầm những kẻ chống đối. Và những người cộng sản đối đãi với tù nhân của mình không nhân đạo gì hơn những kẻ đã giam cầm họ trước kia. Đói khát, bị hành hạ vì bệnh sốt rét và kiết lỵ, người tù thường bị cùm chân phơi nắng nhiều giờ mà không được uống nước, bị tra tấn, có người bị hành quyết. Nhiều người trong số họ từng là người chống đối chính quyền Sài Gòn, có những người là cựu chiến binh Việt Cộng, nay bị những người cộng sản miền Bắc coi là phần tử có tiềm năng ly khai. Năm 1981, một cán bộ Hà Nội cố biện minh cho những vụ thanh trừng đó khi nói với tôi rằng: “Chúng tôi phải quét sạch những tàn dư tư sản”.

Không chỉ vô nhân đạo, chế độ gu-lag còn tước đoạt của quốc gia những người lao động chuyên nghiệp, những người có khả năng đóng góp vào công cuộc xây dựng lại đất nước. Nhiều người bị trừng phạt chỉ vì họ đã học tập tại Mỹ hoặc được chế độ Sài Gòn sử dụng, thường là ở các chức vụ thấp bé. Ông Trần Bạch Đằng nói với tôi rằng: “Lẽ ra chúng tôi nên tha thứ cho họ. Thay vì vậy, chúng tôi đã hoang phí một nguồn nhân tài và sử dụng những kẻ quan liêu dốt nát không có học hành gì cả. Đây là một tổn thất của đất nước – và tôi phải thú nhận rằng, tôi cảm thấy xấu hổ”.

Dưới áp lực quốc tế, cuối cùng cộng sản phải đồng ý trả tự do cho những người tù như vậy, với điều kiện là Hoa Kỳ phải tiếp nhận họ. Đa số những người này đã định cư tại “Tiểu Sài Gòn”, khu vực có đông di dân Việt Nam ở phía nam thành phố Los Angeles. Nơi đó, từ những cuộc đời tan vỡ, họ sinh sống nhờ vào trợ cấp xã hội hoặc cố gắng làm những công việc tầm thường.

Một di sản cay đắng khác của cuộc chiến tranh là số phận của khoảng năm mươi ngàn “con lai” có cha là binh sĩ Mỹ. Đại đa số chúng tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và các thành phố lớn, nơi đồn trú các đơn vị lính Mỹ. Các trại trẻ mồ côi chăm sóc được một ít, nhưng phần lớn các “con lai” bị người Việt Nam đối xử như là những sinh linh bị ruồng bỏ; chúng không được đi học, thậm chí không có khẩu phần lương thực. Tôi quan sát được một số trường hợp vào năm 1981 – một số đứa có mái tóc vàng hoe và mắt xanh, một số tóc đen và mắt đen – chúng đi bán dạo hoặc ăn xin ở các góc phố. Những bé gái xinh xắn có thể sẽ trở thành đĩ điếm. Những bà mẹ sinh ra chúng, thường đã bị gia đình từ bỏ, đã nhiều lần van nài các cơ quan di dân quốc tế giúp tìm kiếm cha của đứa con mình; thường họ chỉ biết tên của các người cha ấy đơn giản là Joe hoặc Bill hoặc Mac – những người chồng mà họ đã “kết hôn” mười sáu, mười bảy năm về trước!

Lúc đầu, những người cộng sản không muốn để cho đám “con lai” ra đi; họ hy vọng có thể sử dụng chúng làm lá bài trong cuộc mặc cả ngoại giao với chính phủ Mỹ. Vì những lý do chính trị quốc nội, tổng thống Reagan và Quốc hội Mỹ cũng chần chừ trong việc sửa đổi luật di trú của Hoa Kỳ. Nhưng cuối cùng, hai bên cũng dịu bớt lập trường. Từ năm 1990, đã có khoảng bốn mươi ngàn đứa trẻ “con lai” được đưa sang Mỹ, được cha đẻ chúng hoặc các gia đình bảo trợ đem về nuôi nấng, số còn lại cũng sẽ được giải quyết.

Nhưng không có hình ảnh nào minh họa rõ hơn về sự phản kháng của người Việt đối với tình trạng nghèo đói và dã man hơn là cuộc di tản từ Việt Nam thời hậu chiến – cuộc di cư lớn nhất trong thời hiện đại. Đã có hơn một triệu người đào thoát khỏi đất nuớc, chủ yếu bằng đường biển. Nhiều người đã chết vì phơi nắng hoặc chết đuối, hoặc bị cướp bóc, hãm hiếp, bị giết về tay những đám hải tặc vẫn thường xuyên càn quét trên vùng biển Đông Nam Á. Cũng có khoảng một nửa triệu người đào thoát khỏi nước Lào và Căm Bốt - hai lân bang ngày xưa cùng nằm trong Đông dương thuộc Pháp – sau khi người cộng sản chiếm được các nước này. Từ ba nước nói trên, đã có khoảng một triệu người đến định cư tại Mỹ nhưng vẫn còn hàng trăm ngàn người đợi chờ mòn mỏi trong các trại tị nạn đông đúc và dơ bẩn ở Hồng Kông, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines. Trừ phi họ chứng minh được rằng động cơ của họ là chính trị chứ không phải kinh tế, họ có nguy cơ bị buộc phải hồi hương trở về Việt Nam – như rất nhiều người đã bị chính quyền Hồng Kông cưỡng bức quay về. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người bất chấp hiểm nguy mà tiếp tục ra đi.

*

Năm 1985, nền kinh tế Việt Nam sụp đổ. Trên nhiều vùng ở miền Bắc vốn vẫn thường thiếu thốn lương thực, nạn đói đe dọa hàng chục triệu con người. Công nghiệp đình đốn trong lúc những người thất nghiệp hoặc thiếu việc làm lang thang khắp các thành phố. Thương mại cũng tê liệt, ngoại trừ chợ đen vẫn còn nhộn nhịp, cung cấp mọi thứ từ viên thuốc cảm đến đồng đô-la Mỹ - những mặt hàng do buôn lậu hoặc của người Việt Nam ở nước ngoài gửi về cho gia đình. Khắp nơi lan truyền lời đồn đại về một cuộc nổi dậy chống lại chế độ.

Trong tâm trạng kinh hoàng, hàng ngũ đảng cộng sản tổ chức hội nghị khẩn cấp ờ Hà Nội vào tháng 12 năm 1986 và sau nhiều cuộc tranh cãi gay gắt, ông Nguyễn Văn Linh được chọn làm tổng bí thư đảng. Ông là một nhà cách mạng từng trải, tuổi đã bảy mươi và nguyên là bí thư đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh. Đảng hy vọng những chiến lược mềm dẻo mà ông ủng hộ sẽ giúp ngăn chặn đà tụt dốc của nền kinh tế. Tuy nhiên lo sợ cải cách sẽ làm suy yếu quyền lực của đảng, đảng đã trao phần lớn quyền lực chính trị cho một nhóm các lãnh tụ theo đường lối cứng rắn do ông Lê Đức Thọ cầm đầu. Ông Thọ chính là người khiêu khích Henry Kissinger trong suốt những cuộc thương lượng hoà bình giữa hai người vào đầu thập niên 1970. Thế cân bằng mong manh này đã làm cho các chính sách của Việt Nam luôn bị chao đảo trong suốt nhiều năm về sau.

Mặc dù phe bảo thủ đã cố gắng hết sức để ngăn cản sự thay đổi, song những nguyên lý của chủ nghĩa Marx dần dần phai nhạt hoặc bị phớt lờ. Giờ đây, giám đốc các doanh nghiệp nhà nước điều hành xí nghiệp theo quyết định của chính họ, ít màng tới các khoản trợ cấp của chính phủ, mưu tìm lợi nhuận và hoặc phải hoạt động hiệu quả hoặc bị khiển trách. Giờ đây, người hướng dẫn tư tưởng cho họ là Paul Samuelson, kinh tế gia tự do người Mỹ từng được giải Nobel. Sách giáo khoa kinh tế học của ông đã được dịch sang tiếng Việt. “Thế là các ngài đã ôm lấy chủ nghĩa tư bản,” tôi trêu chọc ông Nguyễn Cơ Thạch, vị bộ trưởng ngoại giao rất tinh tế và là người cải cách có tiếng. Không chấp nhận cái thuật ngữ hồ đồ đó, ông đáp: “Tuyệt nhiên không! Chúng tôi chỉ vận dụng kinh tế thị trường và quy luật cung cầu”.

Để biện minh cho sự đổi hướng đó, các nhà tuyên huấn của đảng đã vớt lên – hoặc phát minh ra – một lời dạy của ông Hồ Chí Minh mà đến lúc đó chưa ai nghe thấy: “Người nghèo sẽ giàu lên và người giàu sẽ giàu hơn nữa”. Chương trình cải cách, được gọi là “đổi mới” chính là phiên bản Việt Nam của chương trình cải cách mà Mikhail Gorbachev thực hiện ở Liên Xô và gọi là perestroika. Nó gần như xóa bỏ chính sách hợp tác hóa nông nghiệp cực kỳ xuẩn ngốc và mặc dù quyền sở hữu tư nhân chưa được khôi phục, nông dân đã có thể thuê đất dài hạn và hoạt động sản xuất theo từng gia đình như tổ tiên họ đã làm hàng chục thế kỷ qua. Không còn bị bắt buộc phải giao nộp phần lớn sản lượng của họ cho chế độ theo một mức giá cố định, họ có thể bán sản phẩm trên thị trường tự do theo giá cạnh tranh.

Những sự cách tân này, cùng với bản chất dẻo dai bền bỉ cố hữu của người Việt, bắt đầu sản sinh kết quả.

Vào năm 1988, tốc độ lạm phát hàng năm đã tăng tới mức chóng mặt là 800 phần trăm, giá xăng dầu tăng gấp bốn lần, giá một bát phở - món ăn dân tộc của người Việt, cũng tăng gấp ba lần. Các doanh nhân hắt hủi đồng tiền Việt bản địa mà giá trị tụt giảm nhanh chóng, và tiến hành giao dịch bằng vàng, đô-la và hàng hóa buôn lậu. Thế rồi ngân hàng nhà nước đột ngột tăng lãi suất và nhân dân đổ xô đi gửi vào ngân hàng những đồng tiền từ lâu chôn giấu của mình. Chẳng bao lâu sau đó, lạm phát được kiềm chế và lãi suất cũng hạ xuống. Chế độ cũng dần dần loại bỏ được thị trường tiền tệ chợ đen thông qua việc phá giá đồng nội tệ mà tỷ giá hối đoái so với đô-la Mỹ đã ở mức khó tưởng tượng nổi. Chỉ một năm sau, khi dây trói đã được tháo gỡ gần hết, nông dân Việt Nam đã làm ra một vụ lúa đưa Việt Nam lên hàng thứ ba trong các nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới, chỉ sau Mỹ và Thái Lan.

Không ở đâu mà nỗ lực dập tắt kinh tế tư nhân lại xuẩn ngốc hơn là ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ buổi đầu thời kỳ thực dân Pháp, Sài Gòn đã là trung tâm thương mại sầm uất và phát triển đến đỉnh điểm khi người Mỹ có mặt. Vào thời cao điểm của cuộc chiến tranh, thành phố bốc mùi băng hoại. Những quán bar Sài Gòn khi ấy là nơi cung cấp ma túy, các khách sạn biến thành nhà chứa, các đại lộ biến thành chợ trời chào bán mọi thứ từ súng ống đến thuốc xịt tóc – tất cả đều do chôm chỉa từ các kho hàng của quân đội Mỹ. Các anh lính từ Illinois hoặc Georgia, da đen hoặc da trắng, túi quần rủng rỉnh tiền xanh thong thả dạo trên những đường phố đầy đĩ điếm, ăn mày, thương phế binh và đủ loại nạn nhân chiến tranh khác. Các tướng lĩnh miền Nam Việt Nam trở nên giàu có nhờ câu kết với các đối tác Hoa kiều biết giữ mồm giữ miệng, sở hữu những biệt thự cầu kỳ nằm không xa những khu xóm nghèo nàn hôi hám đông đặc dân tị nạn, các quan chức và thương nhân thì liên tục đồng lõa với nhau, họ xào qua xáo lại cái dòng chảy đô-la dường như vô tận. Đó là một thành phố để bán – thành phố bị sự tham lam ngự trị, hiển nhiên là đang chờ tới ngày diệt vong.

Đối với tôi, Sài Gòn có sức hấp dẫn đặc biệt. Những di tích của sứ mệnh mission civilisatrice (khai hóa văn minh) kiêu ngạo của người Pháp – như các giáo đường Thiên chúa giáo, nhà hát mô phỏng theo Nhà hát Opéra Paris và những chiếc bánh baguettes (bánh mì gậy) ngon nhất ở miền đông kênh đào Suez – pha trộn với bầu không khí Á châu trong một sự hoà quyện độc đáo. Sau chiến tranh, vẫn còn cảm nhận được cái môi trường ấy, cái không khí ấy, mặc dù người cộng sản dường như cố tình sửa chữa lại thành phố. Ngoài việc đặt lại tên thành phố, đóng cửa các quán bar và nhà chứa, họ dán lên đường phố, dinh thự những cái nhãn cách mạng và ái quốc chủ nghĩa. Khách sạn Majestic – một tuyệt tác về kiến trúc và nghệ thuật trang trí nội thất cổ điển của Pháp, đổi tên thành khách sạn Cửu Long, hoặc Chín con rồng. Khách sạn Caravelle, nơi cánh báo chí ngoại quốc thường tụ tập trong thời kỳ chiến tranh, bây giờ là khách sạn Độc Lập. Năm 1959 khi tôi đến, đường phố chính của Sài Gòn là đường Catinat – đặt theo tên một đô đốc hải quân của vua Louis XIV, một chiến hạm Pháp tham gia công cuộc đánh chiếm Việt Nam vào thế kỷ 19 cũng mang cái tên ấy. Trong những năm 1960, chế độ Ngô Đình Diệm đổi tên phố thành đường Tự Do và bây giờ người cộng sản lại thay đổi – lần này họ đổi thành đường Đồng Khởi, nhưng nhiều người vẫn gọi đó là đường Catinat.

Nhưng người cộng sản tiến xa hơn những thay đổi bề ngoài như vậy. Nhiều doanh nghiệp tư nhân từng bị đẩy vào trại lao động vì “hoạt động tư bản chủ nghĩa” đã được thả ra khi những nhà cải cách đánh giá cao sự hữu dụng của họ trong việc khôi phục kinh tế. Một ví dụ là ông Chun Hon, người vẫn tiếp tục điều hành xưởng làm bánh mì của mình sau ngày cộng sản chiếm được thành phố. Ông bị bắt vào năm 1978 và bị đưa đi đào mương thủy lợi một năm; cho đến khi chính quyền nhận thấy cần có bánh mì ngon thì ông được thả về. Họ cung cấp bột mì cho ông và việc kinh doanh của ông trở nên phát đạt. Đến năm 1990, ông đã có được bảy xưởng bánh mì nhỏ và có kế hoạch xây dựng siêu thị đầu tiên tại Việt Nam.

Vào giữa thập niên 1990, khi sự kiểm soát của chính quyền cộng sản được nới lỏng, thành phố bắt đầu trở lại giống như xưa, thậm chí vượt qua thành phố Sài Gòn hào nhoáng và lộn xộn trước kia. Từ trạng thái lờ đờ, cái đô thị khổng lồ với 5 triệu dân đang vươn vai đứng dậy với một sức sống mới. Người Việt mô tả cái nhịp điệu mới này là “sống vội”. Khắp nơi mọc lên những tòa cao ốc, đổ bóng xuống những vườn hoa xinh đẹp của thành phố. Những đường phố đầy ắp và lộn xộn xe hơi, xe tải, xe đạp, và nhiều hơn hết là xe gắn máy do những thanh thiếu niên mặc quần jeans lái đi với tốc độ chóng mặt, cô bạn gái mặc váy ngắn bám chặt sau lưng. Phụ nữ buồn bã chia tay những tà áo dài lụa, những chiếc áo cao cổ và quần rộng thùng thình, thay vào đó họ mặc quần bó và áo khoác mang phù hiệu của các trường đại học Mỹ. Các bảng quảng cáo giới thiệu máy tính của Hewlett-Packard, hàng điện tử của Panasonic và Samsung. Các cửa hiệu chất đầy ti-vi, đầu máy video-cassette, giàn máy hát, máy ảnh, đồng hồ nhại kiểu dáng của Rolex và Piaget và áo quần thời trang khoe ra những nhãn hiệu Lacoste và Ralph Lauren. Hầu hết là hàng buôn lậu bằng đường bộ từ Trung Quốc hoặc đường biển từ Thái Lan. Các tủ kiếng bày hàng đầy dẫy những thuốc lá Marlboro, Salem, rượu Johnnie Walker, Heinessy và Rémy Martin. Mặc dù tiền đồng vẫn là đồng bạc chính thức, song mọi người, từ vị thương gia tới anh lái tắc-xi đều khoái xài tiền đô-la. Phía sau những đường phố tấp nập xe cộ là những người Hoa ở Chợ Lớn – khu phố Tàu huyền bí. Cũng giống như người Do Thái ở châu Âu thời trung cổ, họ bị người Việt Nam ngược đãi. Nhiều người đào thoát ra nước ngoài, nhưng những người còn ở lại thao túng thị trường vàng và ngoại tệ, còn chính quyền thì dựa vào họ để thực hiện nhiều loại dịch vụ, từ thanh toán các hợp đồng nhập khẩu đến cung cấp các phụ tùng hiếm có cho xe cộ.

Một công nhân viên chức thu nhập mỗi tháng tương đương ba mươi đô-la Mỹ sẽ khó mà mua nổi một bao thuốc lá ngoại nhập với giá một đô-la mỗi bao, còn để mua một cái ti-vi, họ mất khoảng hai năm tiền lương. Vì thế, hàng hóa tràn ngập thành phố hầu như chỉ dành cho những người Việt có thân nhân ở nước ngoài gửi tiền về, những người có của cải đem ra bán đi, hoặc những ai có các nguồn thu nhập bí ẩn. Những viên chức ngồi chật các nhà hàng ăn uống tư nhân, nơi mà hóa đơn của một bữa ăn tối có khi nhiều hơn cả một tuần lương, phần lớn là những kẻ ăn hối lộ. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa bảo tôi rằng những người phụ trách bệnh viện nơi bà làm việc thường kê khống quỹ tiền lương, nhận tiền lại quả từ các nhà cung cấp dược phẩm hoặc tuồn thuốc men ra bán trên thị trường chợ đen. Phu nhân của các tướng lĩnh cộng sản thường xuyên bay tới bay lui từ Hà Nội vào Sài Gòn và ngược lại trên những máy bay quân sự để mua bán cổ vật, nữ trang và các loại đồ gia bảo từ những gia đình trước kia giàu có nhưng nay phải sống sót bằng cách bán tài sản với giá rẻ mạt. Tôi nhận ra rằng, việc lợi dụng chức quyền này nhắc tôi nhớ tới chế độ Sài Gòn thời chiến tranh, khi các bà vợ của mấy ông tướng tranh nhau đầu cơ bất động sản, vàng ngọc, giấy phép nhập khẩu và đủ thứ sinh lợi khác. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa cũng công nhận cảm giác đó của tôi, bà nói: “Đúng như vậy. Đây vẫn còn là một xã hội phong kiến cho dù được phết lên lớp sơn ý thức hệ nào”.

Một thời, các cán bộ đảng cho rằng môn tennis là một thứ trò chơi suy đồi ở Cercle Sportif, câu lạc bộ thể thao của người Pháp ngày xưa, nay được đổi tên là nhà văn hóa lao động. Môn đua ngựa thì phát triển mạnh vì nhà nước thu được tiền nhờ đánh thuế cá cược. Ngay cả môn thể thao thuần túy tư sản là môn đánh golf cũng được tôn vinh. Đã có một nửa tá sân golf hoạt động trên khắp nước, một sân golf được mở ở vùng “tam giác sắt”, một căn cứ cũ của Việt Cộng cách Sài Gòn khoảng hai mươi cây số về phía bắc. Để gia nhập câu lạc bộ chơi golf, phải mua thẻ hội viên không dưới hai mươi ngàn đô-la, nên các sân golf chủ yếu được dành cho giới doanh nhân ngoại quốc, các quan to của đảng thì được miễn hội phí.

Các khách sạn sang trọng mọc lên khắp nơi, có những cao ốc toàn bằng nhôm và kính mô phỏng theo các khách sạn Marriott và Sheraton. Với tâm trạng hoài cổ, tôi thường lưu trú tại khách sạn Continental, một di tích kiến trúc Pháp được xây từ năm 1880. Trong sổ đăng ký khách của khách sạn này có những tên tuổi nổi tiếng như André Malreaux, Somerset Maugham và Graham Green – những khi ông chưa mệt nhoài bên bàn đèn thuốc phiện. Được gán cho cái biệt danh là “Nơi trú ẩn Continental”, cái hàng hiên mở rộng của khách sạn là nơi thư giãn thời chiến tranh của các viên chức, phóng viên, kẻ môi giới, gái điếm và điệp viên. Nhiều năm sau, cái hàng hiên này đã biến thành một nhà hàng có máy lạnh.

Năm 1981, một quan chức cộng sản khẳng định với tôi rằng công cuộc “chuyển hóa xã hội chủ nghĩa” đã xóa sạch các tệ nạn trụy lạc rơi rớt lại từ thời Mỹ. Nhưng mười lăm năm sau đó, người ta dự tính có khoảng năm mươi ngàn gái điếm tại thành phố Hồ Chí Minh – một sự gia tăng đáng kể so với thời chiến tranh. Ăn vận thật bắt mắt trong những chiếc áo chật căng và váy cực ngắn, các cô lượn lờ kiếm khách trong các quán bar, quán café, điểm mát-xa và các sảnh khách sạn; thậm chí có cô còn bạo dạn kèm xe máy theo xe của khách để chào mời. Các cô phục vụ chủ yếu cho người nước ngoài nhưng nhiều người cũng phục vụ các viên chức của đảng. Ví dụ vào năm 1995, đội chống tệ nạn xã hội đã truy quét quán bar Bambi. Bà chủ của quán bar này, bà Nguyễn Thị Tốt, cũng là người có quan hệ rất phức tạp với các quan chức cao cấp. Họ che chở cho bà khỏi cặp mắt của đám cảnh sát ghen ăn tức ở cũng như cung cấp nguồn khách cho bà.

Giống như mọi nơi khác trên thế giới, Việt Nam bị cuốn hút vào làn sóng văn hóa đại chúng (pop art) của Mỹ. Các đài truyền hình địa phương chiếu các phim cũ của Tracy và Hepburn cùng với bản tin của đài Cable News Network (CNN). Ăn mặc rất hợp thời trang, các jeunesse dorée (cô cậu công tử) lắc lư thâu đêm suốt sáng trong các vũ trường disco kín mít và ngột ngạt, dưới những chùm ánh sáng đèn pha đầy màu sắc. Tôi thoáng thấy bản quảng cáo giới thiệu một cuộc thi sắc đẹp sắp diễn ra và một buổi biểu diễn ca nhạc của Elvis Phương – ca sĩ lấy nghệ danh theo một ngôi sao ca nhạc bất tử. Trên phố, những người bán hàng rong chào mời những chiếc túi đeo vai có hình Snoopy hoặc chuột Mickey, các bức ảnh Michael Jackson và những chiếc áo thun T-shirt in dòng chữ “Good Morning Vietnam” (Xin chào Việt Nam) – nhan đề một bộ phim của Robin Williams. Hai anh khổng lồ Pepsi và Coke đang cạnh tranh nhau giành lấy thị trường nước giải khát và một chi nhánh của hãng kem Baskin-Robbins đã đưa những mùi kem quen thuộc của nó đến Sài Gòn. Quán bar sinh động nhất của thành phố là Apocalypse Now, đặt theo tên một bộ phim siêu tưởng về cuộc chiến Việt Nam của đạo diễn Francis Ford Coppola. Hai mươi năm về trước, tôi thường đến ăn cơm ở quán Cheap Charlie, một quán rượu nhỏ của người Hoa. Nay quay lại, tôi thấy cửa tiệm ngày xưa đã biến thành nhà hàng thức ăn nhanh treo biển HAM-BU-GƠ CA-LI-PHO-NIA.

Khi tôi đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên, giới thượng lưu Việt Nam nói tiếng Pháp. Nay ngôn ngữ được lựa chọn là tiếng Anh, được coi là cần thiết để giao dịch kinh doanh. Các bảng quảng cáo giới thiệu lớp học tiếng Anh và nhu cầu giáo viên đã thu hút rất nhiều bạn trẻ Mỹ đến Việt Nam. Lướt qua các hiệu sách, tôi thấy từng đống sách như Common English Idioms (Thành ngữ tiếng Anh thông dụng), English Made Easy (Tiếng Anh đơn giản) và Business Correspondence in English (Giao dịch thư tín bằng tiếng Anh). Các tiệm sách cũng bày bán nhiều sách Mỹ nhập lậu, trong đó có cả cuốn sách này, do các thân nhân bên Mỹ gửi về rồi được in nhái bằng máy photocopy.

Tôi có dịp nhìn lướt qua ảnh hưởng của sự trù phú mới mẻ này ở miền quê qua một chuyến đi ra vùng Đồng bằng sông Cửu Long – một vùng đất bằng phẳng, cảnh quan đơn điệu, chỉ có những đồng lúa, những rừng dừa mà tôi đã biết khá rõ từ thời còn chiến tranh. Gần đây, nhà cửa đã được quét vôi lại, dấu hiệu cho thấy nông dân đã có thu nhập đủ để quan tâm tới vẻ bên ngoài. Nhưng tôi có ấn tượng mạnh nhất đối với rừng ăng-ten ti-vi vươn cao trên những mái rạ vẫn còn thiếu những tiện nghi tối thiểu như hệ thống ống dẫn nước vào nhà. Tôi lắc lư trên một con đường đầy bụi và ổ gà tới một ngôi làng khuất sau hàng dừa. Trẻ con và gà vịt bu quanh. Một anh nông dân mảnh khảnh mặc đồ bà ba dẫn tôi vào thăm nhà anh. Căn nhà tuềnh toàng chỉ có một ít vật dụng: bàn ghế, một cái tủ đứng, chiếc giường gỗ và một chiếc ti-vi đen trắng. Trên tường, bên cạnh bức chân dung cần phải có của cha mẹ anh và của ông Hồ Chí Minh, anh đã cẩn thận viết lên những câu châm ngôn đại loại như: “Look before you leap” (Nhìn trước khi nhảy), “A stich in time saves nine” (Sai một li, đi một dặm). Anh bảo tôi, anh học được mấy câu đó từ một chương trình dạy tiếng Anh trên truyền hình. “Tôi đang dạy các con tôi học tiếng Anh để sau này khi chúng lớn lên, chúng có thể lên sống ở thành phố, đi làm công ty, kiếm được nhiều tiền và săn sóc vợ chồng tôi lúc tuổi già”, anh nói với vẻ hãnh diện.

Tò mò muốn biết những người cộng sản lão thành suy nghĩ như thế nào về cuộc chen nhau lao vào chủ nghĩa tư bản này, tôi nêu vấn đề với đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một cuộc trò chuyện với ông tại Hà Nội đầu năm 1995. Từ những cuộc phỏng vấn trước đây, tôi biết rằng đại tướng không ngại những vấn đề có khả năng gây tranh cãi. Tôi hỏi ông, có thể với chút khiêu khích: “Điều gì đã xảy ra với chủ nghĩa Marx?” Ông bình tĩnh trả lời: “Marx là nhà phân tích vĩ đại nhưng ông ấy không bao giờ truyền lại cho chúng tôi một công thức để cai trị đất nước”. Tôi cố đẩy vấn đề đi xa hơn một chút. “Thế còn chủ nghĩa xã hội? Tôi được dạy rằng, chủ nghĩa xã hội biểu thị cho quyền kiểm soát của nhà nước đối với mọi phương tiện sản xuất và phân phối”. Ông Giáp nhếch mép cười: “Cher ami, (Bạn ơi,) chủ nghĩa xã hội là bất cứ cái gì mang lại hạnh phúc cho người dân”.

Phu nhân của tướng Giáp, bà Đặng Bích Hà là một giáo sư sử học và cũng là một đảng viên lão thành, hưởng ứng quan điểm của ông theo cách riêng của bà. Tôi chắc rằng chỉ một thập niên trước, bà cũng đã lên án chủ nghĩa tư bản Mỹ như là nguồn gốc của mọi điều ác. Nhưng trong một buổi chiều bên tách trà, bà bảo tôi rằng, “Những hình ảnh về nước Mỹ chiếu trên truyền hình thật thú vị - xe hơi, tủ lạnh, nhà riêng. Thật là thừa mứa! Lẽ ra nước Mỹ phải là mẫu mực của chúng tôi”.

Cho đến năm 1995, đã có khoảng mười ngàn người Mỹ đến thăm Việt Nam. Một số người là thân nhân của những lính Mỹ mất tích trong chiến tranh – mà cuối cùng chính phủ Việt Nam đã cố gắng thống kê đầy đủ. Phần lớn những người đến Việt Nam để du lịch giải trí hoặc chỉ đơn giản do tò mò. Một nhóm các vận động viên lướt ván đã đến lướt sóng trên bãi biển Đà Nẵng, nơi mà lính Mỹ thường gọi là China Beach, một nhóm khác thì đạp xe vòng quanh đất nước. Nhiều du khách là cựu chiến binh. Họ lang thang qua những cánh đồng, những thôn làng một thời là bãi chiến trường, đôi khi hướng dẫn viên của họ chính là những chiến binh cộng sản cựu thù. Có người còn bị mấy tay bán hàng rong lừa mua những tấm thẻ bài giả, những chiếc bật lửa Zippo có khắc phù hiệu của các đơn vị quân đội Mỹ. Nhưng đa số những người Mỹ đến Việt Nam đều rất hài lòng với tính hiếu khách của người Việt. Một viên cựu trung sĩ nhận xét: “Với tư cách một cựu chiến binh Mỹ trở lại Việt Nam, tôi được chào đón nồng nhiệt hơn là với tư cách cựu chiến binh Việt Nam quay về nước Mỹ”.

Hàng chục ngàn người Việt đi tị nạn trước kia nay cũng lần lượt trở về, phần lớn là từ Mỹ. Họ được người dân gọi là Việt kiều – người Việt sinh sống ở nước ngoài. Trong số họ, có những người đã tốt nghiệp các đại học về kinh tế và luật danh tiếng của Mỹ. Nhờ khả năng ngôn ngữ và kiến thức về phong tục tập quán, họ trở thành những nhà môi giới được giới đầu tư nước ngoài thèm muốn. Những người khác thì cố gắng tìm cách tự đầu tư, thường là vào các doanh nghiệp nhỏ. Vẫn còn những người khác nữa được biết tới như là “spaceman” thường xuyên bay qua bay lại trên Thái Bình Dương để ráp nối các thương vụ lại với nhau. Đóng vai những kẻ khôn khéo gặp thời, một vài người đã dụ dỗ phụ nữ vào các cuộc hôn nhân giả tạo. Người Việt trong nước nhìn họ với cặp mắt thán phục, ghen tị hoặc khinh ghét, tùy thuộc vào cách cư xử của từng người.

Di sản của người Mỹ ở Việt Nam sâu nặng hơn là người Mỹ nghĩ. Tôi thường gặp những người Việt từng làm việc cho Mỹ trong thời gian chiến tranh. Ví dụ, trong một thành phố nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long, tôi có dịp tiếp xúc với một phụ nữ trung niên. Bà hỏi tôi bằng một thứ tiếng Anh khá lưu loát rằng tôi có quen biết trung sĩ McNeil, trước kia làm quản lý cái câu lạc bộ sĩ quan nơi bà làm tiếp viên hay không. Bà không thể chứng minh về công việc ngày xưa của mình, bởi vì bà đã đánh mất thẻ nhân viên. Tôi thì ngờ rằng bà đã tiêu hủy cái thẻ đó để tránh bị những người cộng sản chụp mũ là cộng tác viên của Mỹ và đưa bà đi học tập cải tạo.

Mỗi người Việt Nam, dù ở bên này hay bên kia, đều đã mất một người cha, người anh, một đứa con hoặc bạn bè thân thiết trong cuộc chiến tranh đã qua, chưa kể rằng có vô số phụ nữ và trẻ em đã chết hoặc trở nên tàn phế. Có thể họ đã quên nỗi đau đớn cùng cực của chính họ, nhưng tôi thì choáng váng trước thái độ không muốn nhớ nhiều về cuộc chiến của họ. Có lẽ đúng là như vậy, bởi vì họ thường xuyên phải chiến đấu, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác cho nên xào xáo quá khứ không phải là một công việc ưu tiên của họ. Hoặc cũng có thể do họ quá bận tâm với việc cải thiện cuộc sống hàng ngày. Dù thế nào đi nữa, họ cũng bộc lộ rất ít ác cảm đối với người Mỹ. Ở thủ đô Hà Nội, mảnh vỡ của những chiếc xe tăng và máy bay Mỹ được phô ra ngay cổng vào bảo tàng chiến tranh cách mạng, nhưng bên trong bảo tàng, phần trưng bày chính là những tranh ảnh và hiện vật về cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông năm 1287.

Tiểu thuyết, thơ và hồi ký của các cựu chiến binh Mỹ lúc nào cũng tập trung vào những nỗi kinh hoàng của chiến tranh, trong khi văn học nghệ thuật cộng sản ca ngợi cuộc chiến như là một thiên anh hùng ca. Nhưng vào đầu những năm 1990, một vài cựu chiến binh cộng sản đã bắt đầu viết về con đường đau khổ của họ. Tôi có một buổi tối uống bia trong một quán cà phê ở Hà Nội với nhà văn Bảo Ninh, một trung sĩ trong quân đội miền Bắc, tóc tai bờm xờm, anh vừa bị nhà nước khiển trách vì đã quá nhấn mạnh đến khía cạnh “bi thảm cực độ” hơn là niềm vinh quang của cuộc chiến trong cuốn tiểu thuyết rất sinh động của anh Nỗi buồn chiến tranh. Anh nói: “Tôi đã chiến đấu 6 năm và nếu như cuộc chiến kéo dài thêm thì chắc tôi cũng đã bị giết. Nó buộc tôi phải suy nghĩ về những tổn thất của chúng tôi. Đành rằng chúng tôi phải chiến thắng nhưng không nên hồi tưởng về chiến tranh chỉ như một sự kiện anh hùng hoặc không nên nghĩ mình là những siêu nhân”.

Phần 5

Các thông báo chính thức của Mỹ và báo chí thường chuyển tải cái ý tưởng rằng những cuộc ném bom của không quân Mỹ đã tàn phá nặng nề miền Bắc Việt Nam. Người Mỹ đã ném bom các cơ sở quân sự, các con đường tiếp tế và nhiều mục tiêu khác. Và trong chuyến đi đầu tiên ra miền Bắc, tôi nghĩ rằng mình sẽ chứng kiến cảnh tàn phá tan hoang. Nhưng Hà Nội, Hải Phòng và vùng nông thôn lân cận gần như còn nguyên vẹn. Tôi nhớ lại rằng đại tướng Curtis LeMay từng kêu gào “ném bom để đưa miền Bắc trở về thời đại đồ đá”. Nhưng trong những chuyến lang thang khắp miền Bắc tôi nhận ra rằng vùng đất này đã ở trong thời đại đồ đá nhiều thập kỷ rồi.

Trong suốt thời kỳ chiến tranh, những người cộng sản không cấp thị thực cho tôi đến Hà Nội. Thế rồi khi tôi được đặt chân đến đó, đối với tôi cái khối dân số ba triệu người của Hà Nội dường như đang lờ đờ trong một khoảng thời gian sai lệch. Hà Nội là một trong những thành phố cổ kính nhất châu Á, những đền đài bia đá hoang tàn chứng thực cho sự huy hoàng của thành phố như là thủ đô phong kiến của vùng Tonkin, miền Bắc Việt Nam. Vào cuối thế kỷ 19, người Pháp đã chọn Hà Nội làm nơi đặt bộ máy cai trị thực dân. Như họ đã làm ở Sài Gòn, người Pháp xây dựng vỉa hè cho các đường phố, trồng cây xanh hai bên đường, thiết lập các công viên, quảng trường, xây dựng hàng loạt biệt thự quét vôi vàng nhạt lợp ngói nâu với những mái hiên cong cong và các hành lang rộng rãi – một kiểu kiến trúc lai tạp thường bị chế giễu là “ngôi chùa xứ Norman”. Họ dựng nên một tòa nhà bưu điện oai nghiêm giữa vườn cây tươi tốt và một bản sao của nhà hát opera của Paris. Dù vậy bây giờ cuộc khủng hoảng kinh tế đã đẩy Hà Nội rơi xuống sự bần hàn. Người dân bỏ nhiều giờ lục lọi để tìm chút thực phẩm hoặc vài que củi. Nông dân từ các vùng quê đói kém bò vào thành phố để ăn xin trước cửa các khách sạn dành cho người ngoại quốc và xúm xít vào nhau tránh rét trên hè phố vào những đêm đông lạnh cắt da. Những biệt thự Pháp cũ thì mốc meo, hư hỏng. Trong thực tế, trong gần nửa thế kỷ qua Hà Nội không có công trình mới nào được xây dựng, ngoại trừ hai dinh thự kệch cỡm bằng đá hoa cương – một là viện bảo tàng nơi trưng bày những vật kỷ niệm về ông Hồ Chí Minh và hai là khu lăng tẩm bằng đá trưng bày cái thi hài đã ướp tẩm của ông, do các kiến trúc sư Xô Viết thiết kế, bắt chước hệt lăng ông Lenin ở Mạc-tư-khoa.

Nếu còn tại thế, hẳn ông Hồ cũng kinh hoàng. Ông đã nói rõ trong di chúc của mình rằng, tro thi hài của ông phải được cất trong ba cái bình sứ và chôn trên đỉnh ba ngọn đồi vô danh trên ba miền đất nước. Ông nói: “Hỏa táng không chỉ tốt xét về phương diện vệ sinh mà còn tiết kiệm được đất canh tác”. Ấy vậy mà những người kế tục ông đã vi phạm lời di chúc ấy vì họ gắng tìm kiếm chút ảnh hưởng từ niềm vinh quang của ông. Khi người cựu thư ký của ông Hồ tiết lộ cái di chúc ấy vào năm 1989, hai mươi năm sau khi ông mất, việc phanh phui những gì những người kế tục ông đã làm đã khiến công chúng cảm xúc mạnh. Dù vậy một quan chức cao cấp bảo vệ cho sự vi phạm đó. Ông ấy bảo tôi: “Chúng tôi trưng bày Bác Hồ vì Bác thuộc về nhân dân”. Ông ta có lý. Mỗi ngày từng đám đông người Việt lê bước vào lăng, nhiều người trong số họ bồng theo con dại, nhiều người khóc thút thít khi họ nhìn ngắm cái thi hài phủ sáp của vị cứu tinh.

Trong lần viếng thăm Hà Nội đầu tiên, tôi nghỉ tại khách sạn Thống Nhất – nguyên là khách sạn Metropole lộng lẫy do một công ty Pháp lập nên vào năm 1911. Từ trên trần phòng rơi xuống từng mảng sơn, ống nước trong phòng tắm thì bị rò rỉ, chuột chạy nhốn nháo ngoài sảnh đón khách, nơi các chính trị gia cánh tả lỗi thời của châu Âu trao đổi những biệt ngữ cách mạng ngốc nghếch với những người nổi dậy ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh thường được huấn luyện tại Việt Nam. Sau đó khách sạn được một tập đoàn của Pháp hợp tác với ngành du lịch Việt Nam tiến hành nâng cấp một cách tỉ mỉ và khánh thành trở lại vào tháng 3 năm 1992. Mặc dù được bảo trợ chủ yếu bới du khách ngoại quốc, những người có đủ tiền thanh toán giá phòng cao chót vót ở đây, dù sao nó cũng biểu thị rằng Hà Nội, tuy không nhiệt thành bằng thành phố Hồ Chí Minh, cũng đang nhấc từng bước tới chủ nghĩa tư bản.

Cái cửa hàng bách hóa tổng hợp trống rỗng hồi năm 1981 nay đã đầy hàng hóa. Không phải nó đang vào thời kỳ phát triển tươi đẹp nhất nhưng người quản lý, bà Mê Lai Bảo Khánh, đã phải né tránh các phương pháp xã hội chủ nghĩa. Để cạnh tranh, bà phải thường xuyên cải tiến chất lượng sản phẩm, thay đổi giá từng ngày, tăng thời hạn bảo hàng các thiết bị gia dụng và cho nhân viên đến lắp đặt tận nhà khách hàng mà không tính thêm chi phí. Các nhà hàng và quán bar tư nhân, một thời hoạt động lén lút cứ như kinh doanh lậu thì nay mọc lên như nấm. Các biệt thự Pháp đổ nát bây giờ được tân trang lại và cho người ngoại quốc thuê mướn với giá cắt cổ. “Hanoi Hilton”, nơi giam giữ các tù binh Mỹ - sở dĩ có cái tên ấy vì nhà tù kéo dài cả một dãy phố, đã bị phá dỡ một phần lấy mặt bằng xây dựng một khu phức hợp văn phòng khổng lồ bằng tiền của một công ty Singapore. Một buổi sáng, người hướng dẫn của tôi đưa tôi ra ngoại thành để nhìn thoáng qua cái mà anh ta gọi là “Đồi Beverly của Hà Nội”. Từ một vùng đất rộng bùn lầy đã mọc lên rất nhiều ngôi nhà sặc sỡ, trang trí bằng những mái vòm kỳ quái, và những chiếc cầu thang xoắn dẫn lên các ban-công bao bọc trong dãy chấn song được chạm trổ tỉ mỉ. Công cuộc xây dựng hỗn loạn đe dọa nghiêm trọng mạng lưới đê điều bảo vệ thủ đô trước nguy cơ lũ lụt thường niên của sông Hồng, nhưng người ta chẳng làm gì để hạn chế những kẻ đầu cơ bất động sản. Được sự dung túng của các quan chức chính quyền, những kẻ đầu cơ này thuê mướn đất đai của nhà nước, xây nhà hoặc tân trang nhà cũ, thu trước tiền thuê nhà vài ba năm rồi dùng số tiền đó tái đầu tư vào các bất động sản khác nữa. Cứ như vậy, nếu miền Bắc đã chinh phục được miền Nam trong cuộc chiến thì tinh thần của miền Nam đã chinh phục miền Bắc sau cuộc chiến.

Nhưng phần lớn Hà Nội vẫn còn giữ vẻ cổ kính. Tôi đã thử ngồi trên vỉa hè cho một bác thợ cắt tóc cạo râu và trả một đô-la cho một bà già để được cân trọng lượng cơ thể trên một cái cân cũ kỹ. Tôi đã lang thang vào các ngõ phố, ngồi húp phở soàn soạt với người lao động Việt Nam. Tôi cũng dạo quanh khu phố cổ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, nơi mỗi đường phố được đặt tên theo sản phẩm đặc trưng hoặc theo cái ngành nghề mà cư dân phố đó thực hiện – phố Hàng Bạc, phố Hàng Gai, phố Thợ Nhuộm, phố Hàng Đường, phố Hàng Đào… Bây giờ khi người thợ thủ công không còn bị ngăn trở bởi những quy định hạn hẹp, các khu phố đều mở ra hoạt động mạnh.

Trong một lần đi dã ngoại ra ngoài thành phố, tôi có dịp dừng chân ở làng Bát Tràng; ba ngàn cư dân của làng đều tham gia nghề làm gốm như tổ tiên họ đã làm trong suốt bảy thế kỷ qua. Ông Lê Văn Cam là một nghệ nhân gốm sứ sáu mươi lăm tuổi nhưng còn khỏe mạnh rắn chắc và có chòm râu dài, đã mất một chân trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông chống nạng đưa tôi đi xem cơ sở làm ăn của ông. Phần lớn lợi nhuận ông thu được là từ việc sản xuất ngói lợp nhà nhưng ông thích sao chép các đồ gốm sứ cổ với nước men mà chính ông đã nghiên cứu hoàn thiện được. Đến trước bàn thờ người chị gái đã khuất ông thắp hương và cúi lạy trước khi dẫn tôi vào nhà. Trong phòng khách chúng tôi ngồi đàm đạo trong bộ ghế bành rộng, dưới những tấm bằng khen và giấy chứng nhận đảng viên của ông Cam. Sau khi rót đầy các chén trà như một thông lệ, ông bắt đầu đả kích những người cộng sản. Ông Cam nói: “Họ cho chúng tôi y tế và các phúc lợi xã hội khác nhưng họ trói buộc chúng tôi bằng các tay quản lý khắt khe và bất tài. Chỉ mới mấy năm trước tôi còn phụ trách một hợp tác xã chuyên sản xuất chén bát. Cả gia đình tôi sống chen chúc trong một gian phòng và toàn bộ tài sản chỉ là chiếc xe đạp. Công cuộc đổi mới đã tạo điều kiện cho tôi điều hành công ty riêng của mình. Bây giờ thì tôi có nhà lớn, có ti-vi, máy nghe nhạc xem phim, có cả máy giặt nữa. Nếu tôi có một cái ga-ra, có lẽ tôi đã mua xe hơi”.

Có lần vào năm 1990 tôi bị giật mình vì cái điện thoại do Nhật Bản sản xuất lắp trong phòng khách sạn. Thay vì reo chuông, nó phát ra bản nhạc “Ông già Noel đang xuống phố”. Bản nhạc này có lẽ là một thông điệp mang tính tượng trưng: Việt Nam đang rất cần những nguồn vốn khổng lồ từ bên ngoài. Nhưng đâu phải ngày mai đã là lễ Giáng sinh!

Trong thời chiến tranh, Liên Xô và Trung Quốc đã viện trợ cho miền Bắc nhiều khoản tiền lớn khi hai nước này cạnh tranh nhau biểu lộ nhiệt tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống “chủ nghĩa đế quốc” Mỹ. Nhưng sau nhiều năm căng thẳng gia tăng giữa hai nước, cuối cùng vụ xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc bùng nổ thành chiến tranh biên giới năm 1979, khiến Việt Nam chỉ còn trông cậy vào Liên Xô. Tuy nhiên vì có những vấn đề riêng tích tụ từ năm này sang năm khác, cuối cùng thì Liên Xô cũng hết quan tâm tới vùng Đông Nam Á. Thế rồi Liên Xô sụp đổ, và Việt Nam rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Họ không thể quay lại với Trung Quốc, còn Hoa Kỳ thì vẫn đặt ra những điều kiện cứng nhắc trước khi chấp nhận cung cấp cho họ viện trợ và quan hệ thương mại.

Quan hệ giữa Việt Nam với các đồng minh của mình luôn luôn là quan hệ nhiều gai góc, hun đúc trong họ những bóng mờ của chủ nghĩa hoài nghi. Việt Nam đã chống lại những cuộc xâm lược của Trung Quốc trong gần hai ngàn năm. Sau khi đánh bại nước Pháp, tại Hội nghị Geneve năm 1954 người cộng sản tin rằng họ sẽ được giao quyền lãnh đạo toàn cõi Việt Nam nhưng Nga và Trung Quốc buộc họ phải chấp nhận một đất nước bị chia đôi. Trong những năm tháng kế theo đó, hy vọng rằng việc kéo dài chiến tranh sẽ khiến nước Mỹ kiệt quệ, Trung Quốc đã cổ vũ Việt Nam tiếp tục chiến đấu và thậm chí Trung Quốc còn giảm viện trợ cho miền Bắc vào năm 1968 khi miền Bắc đồng ý đàm phán với Hoa Kỳ tại Paris. Thế rồi vào năm 1972, những người cộng sản Việt Nam một lần nữa cảm thấy mình bị phản bội: trong lúc họ đang tiếp tục cuộc chiến đấu chống Mỹ thì cả Trung Quốc và Liên Xô đều bước vào đối thoại với tổng thống Richard Nixon. Sau đó nữa, khi những đơn vị chiến đấu của Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam đầu năm 1973, người Trung Quốc còn cố gắng ngăn cản miền Bắc tiến công chiếm lấy toàn miền Nam. Đối với lãnh tụ Trung Quốc Mao Trạch Đông sự thống nhất hai miền Việt Nam cũng xa vời như giấc mơ của chính ông về sáp nhập Đài Loan vào đại lục. Ông ta lưu ý ông Phạm Văn Đồng rằng: “Tôi không có cây chổi đủ dài để vươn tới Đài Loan và đồng chí cũng không có cây chổi đủ dài để quét tới Sài Gòn”.

Sau chiến tranh đã có bốn ngàn kỹ thuật viên Xô Viết được phái tới Việt Nam để giúp khôi phục hệ thống đường sắt cổ lỗ, xây dựng các nhà máy điện và nhiều nhiệm vụ khác; họ thật tương phản với những người Việt duyên dáng và thanh tú. To con lớn xác, nhễ nhại mồ hôi, mặc những bộ trang phục xấu xí và không phù hợp với khí hậu nhiệt đới, họ trông giống một cách kỳ lạ với những người Mỹ to béo và đầy mồ hôi đội những chiếc mũ cứng được các công ty xây dựng thuê làm việc ở Việt Nam thời chiến tranh. Nhưng người Mỹ thì lúc nào trong túi cũng rủng rẻng tiền bạc, còn những người Xô Viết thì trông như những anh muzhik (nông dân Nga) không có lấy hai đồng xu teng. Người Việt chế giễu những người Nga này là “người Mỹ không có đô-la”; họ truyền miệng nhau câu chuyện tiếu lâm phản ánh nỗi bực dọc của họ trước sự keo kiệt của người Xô Viết cũng như tình cảnh nghèo hèn của chính mình. Để từ chối lời cầu viện, Mạc-tư-khoa đánh điện cho Hà Nội: “Hãy thắt lưng buộc bụng”. Hà Nội đáp: “Thì hãy viện trợ dây thắt lưng đã”.

Nga tài trợ cuộc xâm lăng vũ trang của Việt Nam vào đất nước Căm Bốt, kéo dài từ cuối năm 1978 đến mùa thu năm 1989. Nhưng để nhận được viện trợ, Việt Nam phải đồng ý cho Nga sử dụng căn cứ quân sự của Mỹ trước đây tại vịnh Cam Ranh – một điều kiện mà Việt Nam né tránh bằng cách chỉ cho họ sử dụng một phần rất giới hạn. Trợ giúp của Nga cũng bao gồm những khoản tiền cho vay mà Việt Nam phải thanh toán chủ yếu bằng nguyên liệu thô và hàng hóa. Đó là một tình thế khó xử cho Việt Nam. Việt Nam không thể xuất khẩu hàng hóa sang phương Tây để thu ngoại tệ mạnh; nếu không có ngoại tệ mạnh họ không thể mua được các công nghệ mà Liên Xô không có. Mạc-tư-khoa còn hạ đo ván Hà Nội bằng cách bán những hàng hóa do Việt Nam cung ứng ra thị trường toàn cầu với giá thấp hơn giá bình quân trên thế giới.

Năm 1991, được khích lệ bởi sự hòa hoãn mới thiết lập được với Mỹ và sự bất đồng với các đồng minh Đông Âu, Nga cắt đứt viện trợ cho Hà Nội. Từ đó trở đi, Việt Nam phải mua hàng hóa từ Mạc-tư-khoa, tính giá theo đồng đô-la Mỹ mà tất nhiên là họ không có sẵn để thanh toán. Họ đã mắc nợ Liên Xô khoảng 15 tỉ đô-la, khoản nợ mà không biết họ sẽ xử lý như thế nào.

Phương án thay thế duy nhất cho Việt Nam lúc ấy là tìm cách tái lập quan hệ với Hoa Kỳ - quốc gia đã hứa cung cấp quan hệ thương mại, viện trợ và đầu tư. “Chiến tranh đã là quá khứ, chúng ta hãy là bạn bè của nhau,” một quan chức Việt Nam cao cấp ở Hà Nội nói trong lúc chỉ cho tôi xem ngôi biệt thự Pháp đẹp đẽ được chọn làm nơi đặt tòa đại sứ Hoa Kỳ. Ông nói thêm rằng, biệt thự đã được diệt hết chuột. Một số quan chức khác đề nghị các tàu chiến Mỹ có thể sử dụng lại căn cứ hải quân tại vịnh Cam Ranh.

Nhưng công cuộc hòa giải giữa Việt Nam và Mỹ bị giẫm chân tại chỗ do số phận của binh lính Mỹ mất tích trong chiến tranh và tình trạng của nước Căm Bốt láng giềng.

Quan chức Mỹ tố cáo rằng Việt Nam vẫn giữ hài cốt của gần hai ngàn lính Mỹ mất tích làm công cụ để mặc cả việc chính phủ Mỹ công nhận Việt Nam. Lời tố cáo này không hoàn toàn bịa đặt. Thông thường người Việt chỉ hợp tác tốt khi điều đó phù hợp với mục tiêu của họ. Các nhà nghiên cứu phát hiện trong một trường hợp, hài cốt được cho là của lính Mỹ thì lại là xương người châu Á. Nhưng nhiều chính trị gia và các nhóm lợi ích ở Mỹ lợi dụng vấn đề này và sở dĩ họ lợi dụng thành công được một phần vì cuộc chiến Việt Nam không giống với mọi cuộc chiến tranh khác mà giằng xé tâm can người Mỹ.

Trong số gần ba trăm ngàn lính Mỹ chết trong Thế chiến thứ II, hơn hai mươi phần trăm không tìm được hài cốt. Và cuộc chiến tranh Triều Tiên cũng có tỉ lệ như vậy. Nhưng ở Việt Nam đến năm 1996 chỉ có rất ít hài cốt của những người đã chết chưa được tìm thấy, một phần nhờ vào công nghệ hiện đại sử dụng trong công tác tìm kiếm. Công nghệ cũng cho phép xác định từng người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Các viên chức Lầu Năm góc được lệnh phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình xác định binh sĩ mất tích ở Việt Nam, chỉ chấp nhận những cỗ quan tài nào mà căn cước của hài cốt đã được biết rất rõ.

Không thể nào tìm kiếm hết những binh sĩ đã mất tích trong chiến tranh. Thi hài tan rữa rất nhanh trong khí hậu nóng ẩm vùng nhiệt đới và địa hình của đất nước này quá gồ ghề đến mức ngay cả người Việt cũng không xác định nổi vị trí chôn cất khoảng hai hoặc ba trăm ngàn chiến sĩ đã ngã xuống trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.

Nhưng thay vì hiểu được thực tế đó, nhiều chính trị gia Mỹ, kể cả các tổng thống, vẫn cố ý thổi bùng vấn đề lên vì những mục đích riêng của họ. Họ cũng từ chối tuyên bố công khai những điều mà trong chốn riêng tư phần lớn họ đều tin tưởng – rằng không còn người Mỹ sống nào bị cầm giữ ở Việt Nam. Thái độ hai mặt của những người này làm sản sinh ra một nghề chuyên bịa “những điều trông thấy” giả mạo. Thế là không thể nào từ bỏ hy vọng gặp lại người thân, nhiều gia đình thân nhân của những người lính mất tích đặt niềm tin vào các cuộc vận động hành lang chỉ có tác dụng kéo dài trò lừa đảo tàn bạo này. Hơn thế nữa, các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy đa số người Mỹ - kể các các cựu chiến binh – tin rằng Hà Nội đang giam cầm những tù binh Mỹ ngoài ý muốn của họ.

Những nỗ lực hàn gắn quan hệ Mỹ-Việt còn bị trắc trở do việc Việt Nam xâm lăng Căm Bốt vào mùa Giáng sinh năm 1978 – một biến cố gợi nhớ những kỷ niệm về quá khứ phức tạp của vùng Đông Nam Á.

Liên tục trong nhiều thế kỷ, Căm Bốt là miếng mồi của các lân bang hùng mạnh Thái Lan và Việt Nam. Quốc trưởng Căm Bốt, hoàng thân Norodom Sihanouk thường than thở với tôi, ông bị ám ảnh bởi cơn ác mộng rằng một ngày nào đó đất nước của ông sẽ bị xóa tên và người ta chỉ nhớ tới Căm Bốt nhờ những đền tháp uy nghi ở Angkor. Liên tục luồn lách để ngăn cuộc chiến tranh Việt Nam không lan vào đất nước chùa tháp, ông đã ngầm ưng thuận cho Việt Cộng lập căn cứ trên đất nước mình nhưng phủ nhận sự tồn tại của các căn cứ đó vì sợ người Mỹ sẽ tấn công. Sau này, nhìn thấy trước thắng lợi của phe cộng sản, ông cho phép Mỹ ném bom các căn cứ của Việt Cộng và quân đội miền Bắc Việt Nam. Tháng 3 năm 1970, Sihanouk bị lật đổ trong lúc ông đang ở Paris trong chuyến đi chữa bệnh béo phì hàng năm. Phe đảo chính đã cung cấp cho tổng thống Nixon cái cớ để gửi quân chiến đấu Mỹ vào Căm Bốt – đất nước mà bây giờ đã trở thành một bãi chiến trường mới.

Người kế tục hoàng thân Sihanouk là viên đại tướng bất tài và hay đau yếu Lon Nol chỉ lo giữ gìn an ninh của thủ đô Phnompenh, trong lúc không quân Mỹ mặc sức ném bom các căn cứ Việt Cộng và lực lượng Khmer Đỏ - những đồng chí Căm Bốt của Việt Cộng – tăng cường sự kiểm soát của họ trên khắp vùng nông thôn rộng lớn. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Khmer Đỏ chiếm Phnompenh, trong lúc các binh đoàn Bắc Việt Nam đang tiến như vũ bão về phía Sài Gòn. Chỉ trong 5 năm chiến tranh đã có nửa triệu người Căm Bốt chết và bị thương, phần lớn do bom Mỹ. Nhưng điều tồi tệ nhất vẫn còn ở phía trước.

Được tổ chức và huấn luyện ở miền Bắc Việt Nam, lực lượng Khmer Đỏ bắt đầu lớn mạnh từ đầu thập niên 1970. Cũng giống như đa số người Căm Bốt, họ ghét người Việt và sự căm ghét đó giúp cho họ tranh thủ được sự ủng hộ của Trung Quốc, khi ấy đang tranh cãi ầm ĩ với Việt Nam. Họ bị ảnh hưởng bởi lời truyền phán của Mao Trạch Đông về cách mạng thường trực nhưng họ cũng cố gắng xúc tiến học thuyết riêng của mình. Lãnh tụ của Khmer Đỏ là Saloth Sar, con trai của một viên chức cấp thấp, đã từng du học ở Paris. Tại Paris, ông ta đùa nghịch với cái ý tưởng thuần hóa người nông dân trong một thiên đàng nông nghiệp – một kiểu mơ mộng mà Lenin từng phê phán là “ấu trĩ tả khuynh”. Quay về nước, ông ta khoác cái nom de guerre (tên chiến trường) nghe bùi tai nhưng vô nghĩa là Pol Pot. Việc lính Mỹ vào Căm Bốt năm 1970 tạo động lực cho phong trào của Pol Pot và 5 năm sau đó với tư cách người chiến thắng ông ta bắt đầu biến những quan niệm của mình thành hiện thực.

Khi họ tiến hành di tản dân chúng ra khỏi Phnompenh và các thành phố khác, có vẻ như các binh đoàn của Pol Pot đang cố gắng làm giảm áp lực dân số lên các đô thị đã bị phình to bởi dòng người tị nạn chiến tranh đổ về. Nhưng những nấm mồ tập thể, những đống sọ người, những báo cáo tỉ mỉ và những câu chuyện kể của người sống sót sau này lại nói lên một câu chuyện hoàn toàn khác và hết sức ghê tởm. Khmer Đỏ đã tàn sát khoảng hai triệu người Căm Bốt – khoảng một phần tư dân số. Dân chúng bị lùa thành từng đàn vào các dự án sử dụng lao động nô lệ, phần lớn gục ngã vì đói khát, bệnh tật, bị đánh đập và kiệt sức, thậm chí có những trường hợp bị ăn thịt. Những người mang kiếng hoặc nói được một ngoại ngữ thì bị coi là trí thức ăn bám, hàng ngàn người đã bị hành quyết. Trường học và công sở bị biến thành phòng tra tấn, trang bị những thiết bị điện và những công cụ tra tấn khác. Ở Toul Sleng – một trường lycée (trung học) của Phnompenh, trong suốt nửa đầu năm 1977 việc giết người diễn ra với mức bình quân mỗi ngày một trăm người, bất kể đàn ông đàn bà hay trẻ nhỏ - các nạn nhân đều được chụp hình trước và sau khi bị hành quyết. Khmer Đỏ đánh dấu sự khởi đầu chế độ của họ là Năm Zê-rô, bắt đầu của một “cộng đồng mới”, xóa sạch những “văn hóa suy đồi và tệ nạn xã hội”.

Sau khi đánh đuổi Khmer Đỏ ra khỏi thủ đô Phnompenh, Việt Nam thiết lập một chính phủ đại diện. Họ ngăn chặn được nạn diệt chủng và tự tôn vinh mình như người cứu rỗi, nhưng ý định của họ không phải là cứu giúp người Căm Bốt. Cái chính là họ sợ rằng Khmer Đỏ do Trung Quốc giật dây sẽ chiếm lại những vùng đất Việt Nam mà nhiều thế kỷ trước tổ tiên họ đã chiếm của Căm Bốt. Những vụ đột nhập cướp phá của Khmer Đỏ vào Việt Nam đã diễn ra rất sớm từ năm 1977 và tháng 2 năm 1979 quân đội Trung Quốc tấn công vào biên giới phía bắc Việt Nam. Cuộc tấn công nhanh chóng bị đẩy lùi nhưng đối với người Việt vụ đánh lén này cho thấy họ bị Trung Quốc bao vây như thế nào. Một quan chức ở Hà Nội nói với tôi: “Khi chúng tôi nhìn sang Căm Bốt, chúng tôi chỉ thấy Trung Quốc, Trung Quốc, Trung Quốc.”

Khi ấy có khoảng hai trăm ngàn binh lính Việt Nam chiến đấu chống các phe nhóm Căm Bốt – kỳ quặc là ngay cả ông hoàng Sihanouk cũng liên minh với Khmer Đỏ bất chấp sự kiện nhiều thành viên hoàng gia đã bị giết trong cuộc diệt chủng dưới tay Pol Pot. Đối lập với các mục tiêu của Trung Quốc, Mạc-tư-khoa ủng hộ Việt Nam trong khi Trung Quốc có sự hợp tác của Thái Lan, cung cấp vũ khí cho Khmer Đỏ. Nghiêng về phía Trung Quốc, Hoa Kỳ phản đối chính quyền bù nhìn do Việt Nam dựng lên ở Phnompenh, và thậm chí còn tán thành cho Khmer Đỏ làm đại diện hợp pháp của Căm Bốt tại Liên hiệp quốc.

Tình trạng hỗn độn đó kéo dài hơn một thập kỷ, trong đó Khmer Đỏ và chính quyền Phnompenh cứ vừa đánh vừa đàm. Cuối cùng vào mùa hè năm 1990 họ bằng lòng để cho một lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc triển khai tại Căm Bốt để giám sát công cuộc bầu cử. Việt Nam đã rút quân khỏi Căm Bốt vào tháng 9 năm trước, một phần để xoa dịu Hoa Kỳ, phần khác vì viện trợ của Liên Xô đã giảm sút trầm trọng. Một chính quyền mới được dựng lên ở Phnompenh, trong đó hoàng thân Sihanouk làm vua nhưng chỉ có vai trò danh dự. Dù sao chính quyền đó cũng tồn tại đến bây giờ.

Năm 1977 tổng thống Jimmy Carter tán thành một sáng kiến mở một mối liên hệ giữa Mỹ và Việt Nam. Ông ủy quyền đàm phán cho Richard Holbrooke, trợ lý bộ trưởng ngoại giao phụ trách châu Á, người đã phục vụ ở Việt Nam trong thời chiến tranh nhưng với tư cách một nhân viên dân sự. Các cuộc đối thoại diễn ra ở Paris và nhanh chóng đình trệ do Việt Nam nhấn mạnh rằng lời hứa của Nixon về khoản “bồi thường chiến tranh” phải được thực hiện. Họ đã tính toán số tiền đó vào kế hoạch kinh tế của mình. Nhưng do không được ai bày vẽ về hệ thống chính trị của Mỹ, họ không hiểu rằng chỉ Quốc hội Hoa Kỳ mới có quyền bỏ phiếu phân bổ ngân sách. Vào cuối năm 1978, nhận ra rằng mình đã lầm lẫn, họ bỏ qua cái yêu cầu đó. Nhưng đã quá muộn. Cố vấn về an ninh quốc gia của tổng thống Carter, ông Zbigniew Brzezinski đang tìm kiếm phương cách để tăng sức ép đối với Nga, đã kết luận rằng, “bình thường hóa” mối quan hệ gần như chính thức với Trung Quốc là điều quan trọng hơn. Các chuyên gia chính trị ở Nhà Trắng cũng đồng ý như vậy; họ lưu ý rằng quan niệm của công chúng Mỹ đang ác cảm với Việt Nam do vấn đề người Mỹ mất tích. Thế rồi đến hiện tượng di tản ồ ạt của “thuyền nhân”, song song là cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt. Việc công nhận chính phủ Hà Nội thế là bị gác lại và giữ nguyên tình trạng đó trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của Reagan và Bush.

Đến thời tổng thống Bill Clinton, việc công nhận chính phủ Hà Nội vẫn còn là vấn đề ít được ưu tiên. Tuy nhiên bị hấp dẫn bởi những dự báo sáng sủa về Việt Nam, rất nhiều doanh nhân Mỹ đã khẩn cầu tổng thống xem xét mối quan hệ giữa hai nước. Ông Clinton là một người đã từng trốn quân dịch, lại là người phản đối chiến tranh Việt Nam nên ông cảm thấy e ngại trước sự phê phán của đảng Cộng hòa đối lập cũng như từ các thế lực ngay trong đảng Dân chủ của ông. Và như ông thường làm mỗi khi gặp vấn đề có thể gây tranh cãi, ông áp dụng cách câu giờ. Và có lẽ ông Clinton còn tiếp tục câu giờ nữa nếu không có hai thành viên Quốc hội với thành tích chiến đấu không chê vào đâu được thúc giục ông hành động. Đó là thượng nghị sĩ John McCain, đảng Cộng hòa bang Arizona – nguyên là phi công trong lực lượng hải quân đã từng bị giam giữ sáu năm tại Hà Nội với tư cách tù binh chiến tranh; và John Kerry, nghị sĩ đảng Dân chủ bang Massachusett, một cựu binh hải quân được tuyên dương. Vào tháng 2 năm 1994, Bill Clinton bãi bỏ cấm vận thương mại và đầu tư với Hà Nội – và tại một bữa tiệc nhỏ tổ chức ở Nhà Trắng ngày 11 tháng 7 năm 1995, ông công bố công nhận hoàn toàn chính phủ Việt Nam. Ông nói với cử tọa gồm các thành viên chính phủ, các lãnh tụ quốc hội, các tướng lĩnh và lãnh đạo các nhóm cựu chiến binh đứng bên cạnh mình rằng: “Giây phút này đem lại cơ hội hàn gắn những vết thương của chúng ta… Hãy cất vào quá khứ những gì chia rẽ chúng ta ngày trước. Hãy để cho giây phút này, theo như lời Kinh Thánh, trở thành thời kỳ hàn gắn, thời kỳ xây dựng”.

Những người ủng hộ vỗ tay hoan nghênh cử chỉ đó nhưng Việt Nam tỏ ra chưa đáp ứng được mong đợi của họ. Được người cộng sản dán cho cái nhãn “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, cơ cấu mới ở Việt Nam là một cách nói trại về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Sự can thiệp của chính phủ vào doanh nghiệp lan tràn khắp nơi. Quân đội cũng tham gia đủ mọi lĩnh vực, từ xây dựng khách sạn đến điều hành sân chơi golf. Bộ nông nghiệp thì bán phân bón, bộ công nghiệp thì quản lý các nhà máy dệt. Bộ ngoại giao thu của các phóng viên nước ngoài đến làm việc mỗi ngày năm mươi đô-la một người để cung cấp những hướng dẫn viên mà lương tháng chỉ có một trăm đô-la. Theo lệ, các quan chức thường dành riêng cho thân nhân của mình hợp đồng cung cấp những hàng hóa mà các cơ quan của đảng và nhà nước sẽ mua sắm.

Càng khám phá Việt Nam, càng nhiều doanh nhân nhận ra, như một người nói với tôi, “đây là sự trêu ngươi lớn lao nhất về đầu tư ở Á châu”. Chủ nghĩa quan liêu là một bãi lầy, luật pháp là một mớ bòng bong những quy định không biết đằng nào mà lần. Người ngoại quốc bị cấm sở hữu bất động sản; điều đó cho phép người Việt nắm giữ cổ phần chính trong các công ty liên doanh chỉ bằng cách góp quyền thuê mướn một mảnh đất với giá trời ơi. Để có được tấm giấy phép đầu tư cần phải có sự phê chuẩn của một tá các bộ và các ủy ban, đến cấp nào cũng phải tốn tiền. Các quan chức ở địa phương thì thường phớt lờ các cải cách do chính phủ ở Hà Nội ban hành, có thể do ghen ghét vì đặc quyền, hoặc có thể do tính trì trệ. Có lần, khi Phòng thương mại Hoa Kỳ tại Sài Gòn có kế hoạch tổ chức một buổi họp mặt, họ đã bị Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cấm trên cơ sở rằng Phòng thương mại không có giấy phép tổ chức hội họp đông người. Một doanh nhân Mỹ nhận xét: “Cái đầu của con rồng thì biết mình đang đi đến đâu nhưng tôi không chắc cái đuôi có biết điều đó hay không”.

Vì thế, đầu tư nước ngoài cứ chập chờn. Các chuyên gia dự tính rằng, để duy trì tốc độ tăng trưởng, cho đến cuối thế kỷ 20 Việt Nam cần có 20 tỉ đô-la vốn đầu tư nhưng cho đến cuối năm 1996, chỉ có 3 tỉ đô-la trong số vốn đăng ký đầu tư được giải ngân. Điều lạ lùng là các nhà đầu tư hàng đầu đều đến từ Đài Loan và Hàn Quốc, những quốc gia chống cộng kiên định nhất châu Á. Các công ty Mỹ, mặc dầu được dự đoán là sẽ ồ ạt đổ vào, chỉ mới đầu tư khoảng 200 triệu đô-la, chủ yếu vào các dự án dầu mỏ ngoài biển khơi. Michael J. Scown, một luật sư Mỹ ở Sài Gòn, nhận xét với tôi rằng người Việt đang tự lừa dối mình khi nghĩ rằng thế giới đang đua nhau kéo tới Việt Nam. Ông nói: “Doanh nhân là thành phần khó tính. Họ sẽ không chịu đau đầu nhức óc khi họ có thể chọn lựa làm ăn ở nơi khác”.

Năm 1996, một nhóm các kinh tế gia của đại học Harvard được chính phủ Việt Nam đặt hàng một cuộc nghiên cứu về tiến bộ của đất nước, đã cảnh báo rằng mặc dù sự trỗi dậy của Việt Nam có vẻ ngoạn mục song “những gì đã gặt hái được xem ra rất đỗi mong manh”. Họ nói thêm rằng: “Công cuộc cải cách là đầu voi đuôi chuột”. Trong số những đề xuất của mình, họ khuyên rằng những luật lệ mơ hồ cần phải được làm sáng tỏ, những quy định cứng nhắc đối với đầu tư nước ngoài phải được nới lỏng, bộ máy quan liêu trì trệ phải được sắp xếp hợp lý và độc quyền nhà nước phải bị giải thể để khuyến khích cạnh tranh chân thực. Sự đánh giá của họ đi đến kết luận: “Vấn đề không phải là ở chỗ Việt Nam có thể thành công hay không, bởi vì Việt Nam có thể. Điều nghi ngờ là ở chỗ Việt Nam có sẽ thành công hay không”.

Nhưng một số người Mỹ vẫn lạc quan. Eugene Matthews, một người tốt nghiệp trường luật ở đại học Harvard, định cư ở Hà Nội từ năm 1990 vì cho rằng Việt Nam cuối cùng sẽ trở thành một cánh đồng chín rộ cho hoạt động đầu tư. Ông học tiếng Việt và sau này được thuê mướn bởi các công ty như Revlon, Lehman Brothers và American Express. Khi chiến tranh nổ ra ông ta còn quá trẻ, không thể tham gia cũng không thể phản đối, cho nên ông nhấn mạnh rằng các doanh nhân nước ngoài có thể thành công ở Việt Nam nếu họ bỏ thời gian tìm hiểu những chỗ mạnh chỗ yếu của nó – và trên hết là hãy nhìn về phía trước hơn là ngoái lại đàng sau. Ông bảo tôi: “Đây là một đất nước, không phải là một cuộc chiến tranh. Đừng làm cho họ thất vọng sớm”.

*

Cho đến Thế chiến thứ II nước Mỹ vẫn chưa bắt đầu quan tâm đến vùng Đông Nam Á – chỉ vì mối quan hệ hời hợt tới cuộc xung đột với Nhật Bản. Vài người Mỹ quen thuộc với Việt Nam thường biết tới dân tộc này như là những người thiết tha với nền độc lập và căm ghét Trung Quốc. Tuy nhiên lời khuyên của họ đã không được chú ý đến vào năm 1950 khi tổng thống Truman quyết định giúp người Pháp giành lại quyền cai trị ở Đông Dương. Ông ta bị thôi thúc bởi bộ trưởng ngoại giao của mình là Dean Acheson, người luôn nghĩ rằng nước Pháp hết sức cần thiết cho chính sách của Mỹ ở Âu châu. Acheson cũng là người đề cao học thuyết “đô-mi-nô” với quan niệm rằng nếu người Pháp không được bảo vệ, chủ nghĩa cộng sản sẽ nuốt chửng toàn khu vực. Ý nghĩ của ông ta bắt nguồn từ niềm tin ngờ nghệch rằng Hồ Chí Minh là một quân cờ của Nga và Trung Quốc mà không chịu xem xét cái khả năng rằng, ông Hồ cũng giống như thống chế Tito của Nam Tư là một nhà dân tộc chủ nghĩa, gắn bó sâu nặng với nền độc lập của Việt Nam hơn là với chủ nghĩa cộng sản toàn cầu. Thế là những giả thuyết mơ hồ đã đẩy nước Mỹ vào một khu vực chẳng mấy liên quan đến lợi ích chiến lược thật sự của nó.

Khi cuộc chiến tranh lạnh leo thang, vùng Đông Nam Á trở thành bãi chiến trường quốc tế. Nhưng trong nhiều thế kỷ qua, các thế lực nước ngoài đã thâm nhập vào vùng này để tìm kiếm của cải hoặc ảnh hưởng hoặc để chống lại những tham vọng của các đối thủ. Không có cuộc tấn công nào để lại dấu ấn sâu sắc hơn là sự can thiệp của thực dân phương Tây, đã chuyển hóa những thể chế mới, những ý tưởng mới trong công cuộc thử thách các phong tục truyền thống và những giá trị cổ xưa. Sự va chạm giữa phương Đông và phương Tây kích thích người châu Á, họ vừa tiếp thu vừa chống lại, truyền cho họ cái sức mạnh nhằm khôi phục lại bản sắc của mình, sửa chữa các lề lối cổ lỗ và xác định những cảm hứng mới mẻ. Kinh nghiệm đó cũng lay động người Việt Nam – gieo mầm cho một cuộc đấu tranh mà cực điểm của nó là hơn năm mươi tám ngàn tên tuổi người Mỹ được khắc trên đài tưởng niệm bằng đá hoa cương tại thủ đô Washington.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: