củng cố liên tục bằng cách được lập đi lập lại
nếu tư tưởng có bản chất tâm linh, nếu nó thấm đượm tình thương và đạo tâm hoặc một xúc cảm vị tha sâu sắc thì nó cũng có thể thu nhập một số điều huy hoàng và vinh quang của cõi Bồ Đề.
Mọi tư tưởng xác định đều tạo ra hai hiệu quả: một là rung động bức xạ, hai là một hình tướng trôi nổi.
Rung động được xây dựng và bức xạ (phóng ra) từ thể Trí có kèm theo tác động của màu sắc mà người ta đã miêu tả là giống như tia nước phun ra từ thác nước lấp lánh dưới ánh mặt trời, được nâng lên lũy thừa n lần về màu sắc và mức độ tinh vi sống động.
Rung động bức xạ này có khuynh hướng làm cho bất kỳ thể Trí nào chịu tác động của nó cũng mô phỏng lại nhịp độ rung động của chính nó; điều này nghĩa là tạo ra các tư tưởng cùng loại hình với tư tưởng nguồn cội của rung động. Ta nên lưu ý rằng, rung động bức xạ không mang theo chủ đề của tư tưởng mà chỉ chuyển tải đặc tính của nó. Như vậy các làn sóng tư tưởng xúc động bức xạ ra từ một người Ấn Độ đang ngồi thiền ngất ngây sùng tín đấng Krishna ắt có khuynh hướng kích thích xúc động sùng tín nơi bất kỳ kẻ nào chịu ảnh hưởng của mình, không nhất thiết hướng về đấng Shri Krishna, mà trong trường hợp một Ki Tô hữu lại hướng về đấng Ki Tô, còn trong trường hợp một Phật tử ắt hướng về Đức Phật v.v. . .
Khả năng của rung động tạo ra những hiệu ứng tùy thuộc chủ yếu vào độ trong sáng và xác định của tư tưởng-xúc động (the thought-emotion) cũng như dĩ nhiên tùy thuộc vào số lượng thần lực đầu tư vào đó.
Những rung động bức xạ này càng ít có hiệu lực tỉ lệ với khoảng cách tính đến nguồn phát, mặc dù có lẽ độ biến thiên tỉ lệ với lũy thừa 3 của khoảng cách thay vì tỉ lệ với bình phương khoảng cách (như trong trường hợp lực hấp dẫn và các lực vật lý khác) bởi vì ta dính dáng tới chiều đo thứ tư thêm nữa.
Khoảng cách mà một làn sóng tư tưởng bức xạ hữu hiệu tới đó còn tùy thuộc vào sự chống đối mà nó gặp phải. Các làn sóng của loại hình chất trung giới thấp chẳng bao lâu sau thường bị chệch hướng hoặc đè bẹp bởi vô số những rung động ở cùng mức độ với nó, cũng giống như một âm thanh nho nhỏ ắt đắm chìm trong tiếng ồn ào của một đô thị náo nhiệt.
Tác dụng thứ nhì là một hình tư tưởng trôi nổi do thể Trí tạo dựng bằng cách phóng ra một bộ phận của chính mình được định hình theo bản chất của tư tưởng; bộ phận này thu thập xung quanh mình vật chất có mức độ độ tinh vi tương ứng bắt nguồn từ tinh hoa ngũ hành xung quanh đó (xem trang 6) của cõi trí tuệ. Đây là một hình tư tưởng đơn thuần chỉ gồm có chất trí tuệ thôi.
Nếu được tạo thành từ các vật chất tinh vi hơn thì nó ắt có năng lượng và khả năng lớn lao hơn, ta có thể dùng nó làm một tác nhân dũng mãnh nhất khi ta dùng ý chí mạnh mẽ và kiên định điều khiển nó.
Khi một người điều khiển năng lượng của mình hướng về các đối tượng bên ngoài của ham muốn hoặc khi y bận tâm với những hoạt động đam mê hay xúc động thì một tiến trình tương tự cũng xảy ra trong thể Vía của y: một bộ phận thể Vía được phóng ra, thu thập xung quanh mình tinh hoa ngũ hành của cõi Trung giới. Những hình tư tưởng dục vọng ấy vốn do Kāma Manas gây ra, đó là cái Trí chịu sự khống chế của bản chất thú tính, Manas bị Kāma chế ngự.
Một hình tư tưởng dục vọng như thế có cơ thể là tinh hoa ngũ hành và có thể gọi là giác hồn của nó chính là lòng ham muốn hoặc đam mê thôi thúc nó phóng ra. Cả những hình tư tưởng dục vọng này lẫn hình tư tưởng thuần túy đều được gọi là tinh linh nhân tạo. Đại đa số hình tư tưởng bình thường đều thuộc loại hình tư tưởng dục vọng bởi vì chẳng mấy khi tư tưởng của kẻ phàm phu dù nam hay nữ lại không thấm đượm sự ham muốn, đam mê hoặc xúc động.
Cả tinh hoa ngũ hành cõi trí lẫn tinh hoa ngũ hành cõi trung giới đều có một sinh hoạt bán thông tuệ của riêng mình, chúng đáp ứng rất dễ dàng với ảnh hưởng của tư tưởng và ham muốn con người; vì vậy mọi lực thôi thúc được tuôn ra hoặc từ thể Trí hoặc từ thể Vía của con người đều ngay tức khắc khoác lấy một hiện thể tạm bợ bằng tinh hoa ngũ hành. Thế là các tinh linh nhân tạo nhất thời trở thành một loại sinh vật, một loại thực thể hoạt động mãnh liệt do một ý tưởng thôi thúc vì đã sinh ra chúng. Thật vậy, những nhà thông linh hoặc thần nhãn không lão luyện thường nhầm lẫn chúng là các sinh vật có thức.
Thế là khi một người nghĩ tới một vật cụ thể - một quyển sách, một căn nhà, một phong cảnh v.v. . . – thì y bèn xây dựng một hình ảnh nhỏ chút xíu của vật ấy bằng chính vật chất trong thể trí của mình. Hình ảnh này trôi nổi nơi phần trên của thể trí, thường ngay trước mắt người ấy vào khoảng tầm nhìn của mắt. Nó vẫn còn ở đó chừng nào người này còn đang chiêm ngưỡng đối tượng ấy và thường thường còn sống sót thêm một thời gian ngắn sau đó; tuổi thọ của nó tùy thuộc vào cường độ và sự trong sáng của tư tưởng. Hình tư tưởng ấy hoàn toàn thuộc ngoại giới và bất cứ người nào khác có thần nhãn trí tuệ đều có thể thấy được nó. Nếu người ấy nghĩ tới người khác thì y cũng tạo ra một chân dung nhỏ xíu của người kia theo phương cách giống hệt như vậy.
Người ta đã rất hữu ích khi so sánh hình tư tưởng với một bình Leyden (một bình chứa có tích tĩnh điện), bản thân bình Leyden tương ứng với tinh hoa ngũ hành còn điện tích tương ứng với tư tưởng xúc động. Và cũng giống như một bình Leyden khi chạm vào một vật khác bèn xả điện tích dự trữ sang cho vật kia; cũng vậy một tinh linh nhân tạo khi đập vào một thể Trí hoặc thể Vía cũng xả năng lượng trí tuệ và xúc động dự trữ sang cho thể Vía và thể Trí ấy.
Sau đây là những nguyên tắc làm cơ sở cho việc tạo ra mọi hình tư tưởng xúc động.
1- Màu sắc được xác định bởi phẩm tính của tư tưởng hoặc xúc động.
2- Hình tướng được xác định bởi bản chất của tư tưởng hoặc xúc động.
3- Sự rõ ràng về đường nét được xác định bởi sự đích xác của tư tưởng hoặc xúc động.
Tuổi thọ của một hình tư tưởng tùy thuộc vào 1)- cường độ ban đầu của nó, 2)- sự cấp dưỡng sau đó mà nó được tiếp tế do tư tưởng được lập đi lập lại hay do một máy phát năng lượng hoặc do những phương tiện khác. Tuổi thọ của nó có thể được củng cố liên tục bằng cách được lập đi lập lại, một tư tưởng được suy đi gẫm lại ắt thu được một hình tướng rất ổn định. Lại nữa, các hình tư tưởng đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu đều thu hút nhau và củng cố lẫn nhau tạo thành một hình tư tưởng có năng lượng và cường độ rất lớn.
Hơn nữa, một hình tư tưởng như thế dường như có bản năng muốn kéo dài tuổi thọ của mình và sẽ phản tác động lên người tạo ra mình, nó có khuynh hướng khơi dậy nơi người ấy việc lập lại xúc cảm tạo ra nó. Nó cũng phản tác động theo một kiểu giống như vậy (mặc dù không được hoàn hảo như trên) đối với bất kỳ người nào khác mà nó tiếp xúc được.
Màu sắc mà hình tư tưởng biểu hiện qua đó đồng nhất với màu sắc mà ta thấy trong hào quang (Xem trang 11-12).
Sự chói sáng và sẫm màu của màu sắc thường đo lường cường độ và hoạt động của xúc cảm.
Xét theo mục đích hiện nay, ta có thể phân các hình tư tưởng ra thành ba loại: 1)- những hình tư tưởng chỉ liên quan tới người sản sinh ra nó, 2)- những hình tư tưởng có dính dáng tới người khác, 3)- những hình tư tưởng không rõ ràng mang tính cá nhân.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro