congk44h4
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA
CON NGƯỜI KINH TẾ
−1−
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của quý vị độc giả
để sách ngày càng hoàn thiện hơn.
Góp ý về sách, liên hệ về bản thảo và bản dịch: [email protected]
Liên hệ về dịch vụ bản quyền: [email protected]
THE MIND OF THE MARKET
Copyright © 2008 by Michael Shermer. All rights reserved.
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
Bản quyền tiếng Việt © 2010 Công ty Sách Alpha
Không phần nào trong xuất bản phẩm này được phép sao chép
hay phát hành dưới bất kỳ hình thức hoặc phương tiện nào
mà không có sự cho phép trước bằng văn bản của Công ty Sách Alpha.
Bìa: Nguyễn Đức Vũ
Biên tập viên Alpha Books: Đào Quế Anh
−2−
MICHAEL SHERMER
SỰ TUYỆ T CH Ủ NG
C ỦA C ON NG ƯỜ I KINH T Ế
Khương Duy dịch
NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI
−3−
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
Đàn nhím quây quần bên nhau để sưởi ấm trong mùa đông
giá rét; nhưng khi những chiếc gai trên người chúng đâm
vào nhau, chúng buộc phải tản ra... Sau nhiều lần sát lại rồi
tản ra, chúng buộc phải tản ra... Tương tự, nhu cầu hình
thành xã hội cũng đưa con người đến gần nhau hơn nhưng
rồi bản tính gai góc và khó ưa lại đẩy họ ra xa nhau. Cuối
cùng con người cũng hiểu cần giữ một khoảng cách vừa
phải mới mong giao tiếp được với nhau, khoảng cách đó
cũng chính là chuẩn mực của phép lịch sự và hành xử.
ARTHUR SCHOPENHAUER,
Tặng phẩm và cặn bã, II, 31, 1851
−4−
Mụ c lụ c
Lời Nhà xuất bản
Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, triết học của Chủ nghĩa Mác
– Lênin chỉ ra rằng: Chủ nghĩa Tư bản là hình thái kinh tế - xã
hội xuất hiện sau chế độ phong kiến, trong đó các tư liệu sản
xuất do giai cấp tư sản chiếm hữu và dùng làm phương tiện để
bóc lột làm thuê của người lao động.
Đại chiến thế giới Thứ nhất và Đại chiến thế giới Thứ hai
do Chủ nghĩa Tư bản gây ra để xâm chiếm thuộc địa, tranh
giành thị trường không ngoài mục đích bóc lột được nhiều
hơn. Sự tàn khốc của hai cuộc đại chiến là không thể chối cãi,
khiến nhân loại ngày càng cảnh giác với Chủ nghĩa tư bản. Do
vậy, nhiều nhà kinh tế học tư bản đã viết nhiều luận thuyết
biện minh cho Chủ nghĩa Tư bản và cho rằng bản chất của
Chủ nghĩa Tư bản đã thay đổi.
Cuốn Sự tuyệt chủng của con người kinh tế của Michael
Shermer là cuốn sách được bán rất chạy trên thế giới ngay từ
khi mới xuất bản. Tác giả, với những ví dụ được chọn lọc, dẫn
dắt người đọc từ lòng trắc ẩn (phi giai cấp), tới sự tuyệt chủng
của con người kinh tế đặt mục đích kinh tế lên trên hết, cuối
cùng là sự tự do lựa chọn (có đạo đức?!)… trong nhu cầu đời
−5−
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
sống của cá nhân, chính là lời cổ súy khôn khéo và nồng nhiệt
cho thị trường tự do thuần túy – hay cụ thể hơn là lời biện
minh Chủ nghĩa Tư bản đã khác trước và sẽ là tương lai của
nhân loại.
Trước thời buổi hội nhập kinh tế toàn cầu, nước ta kiên
định xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đây chính là một cuốn sách cần đọc để hoà nhập
mà không hòa tan.
Cuối cùng, xin được trích một câu trong Nghị quyết của Bộ
Chính trị ĐCSVN về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay
(Số 01/NQ-TN 21/3/92): “Đối với các học thuyết khác –
ngoài Chủ nghĩa Mác – Lênin, về xã hội, cần được nghiên
cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng”.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI
−6−
Mụ c lụ c
MỤC LỤC
Lời giới thiệu ....................... Error! Bookmark not defined.
Dẫn nhập: Kinh tế học cho mọi người.................................9
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Bước nhảy vọt ......................................................29
Trực giác kinh tế trong ta ........................................49
Chủ nghĩa tư bản nhìn từ dưới lên .......................65
Gấu trúc, sản phẩm và con người .........................96
Học cách chăm nom đồng tiền ............................128
Sự tuyệt chủng của Con người kinh tế ................173
Giá trị của đạo đức ..............................................205
Vì sao tiền không mua được hạnh phúc?............242
Lòng tin và minh xác độ tin cậy ...........................286
Khoa học về những quy tắc tốt ........................322
−7−
10.
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
11.
12.
Không làm điều xấu..........................................342
Tự do lựa chọn .................................................378
Lời kết: Mở cửa thế giới...................................................407
Chỉ mục ...........................................................................429
−8−
D ẫn nhậ p
Dẫn nhập
KINH TẾ HỌ C CHO
MỌ I NGƯỜI
húc âm thánh Matthew, trang 25, dòng 14-29, thuật
lại lời dạy của Jesus Chúa cứu thế về tài năng như
sau: “Vì phàm ai đã có thì sẽ được cho thêm và sẽ có dư thừa;
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.” Nếu
không xét đến ngữ cảnh, câu nói trên không thể hiện chút trí
tuệ nào của một nhà tiên tri vĩ đại, người từng tuyên bố rằng
lòng nhân từ sẽ ngự trị thế giới; song nếu xét trong ngữ cảnh
phù hợp, có thể hiểu Jesus cho rằng nếu biết cách đầu tư tiền
của (tính bằng đơn vị “talents” 1) thì con người sẽ trở nên giàu
có hơn. Một người đầy tớ được trao cho năm talents nếu biết
P
1
“Talent” vừa mang nghĩa tài năng, vừa là một đơn vị tiền tệ và trọng lượng cổ
(ta-lăng).
−9−
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
cách đầu tư sẽ đem về cho chủ mười talents. Một người đầy tớ
được trao cho hai talents nếu biết cách đầu tư sẽ đem về cho
chủ bốn talents. Nhưng nếu được trao cho một talent và người
hầu đó đem cất kỹ vào hộp thì cuối cùng cũng chỉ có thể trả lại
một talent duy nhất cho chủ. Khi đó, ông chủ sẽ yêu cầu người
đầy tớ ngại rủi ro này trao một talent đó cho người biết cách
biến năm talents thành mười talents – nghĩa là người kiếm
được nhiều tiền nhất lại được ban thêm của cải. Vậy là kẻ giàu
càng giàu thêm.
Hẳn lời dạy của Chúa Jesus thâm sâu hơn câu chuyện
mang tính kinh tế về lựa chọn phương cách đầu tư đúng đắn,
song tôi muốn xem lời dạy này như một ngụ ngôn về tâm hồn
của thị trường. Vào những năm 1960, nhà xã hội học Robert
K. Merton đã tiến hành một nghiên cứu quy mô lớn về cách
thức các ý tưởng khoa học được khám phá, công nhận trong
một thị trường ý tưởng – ông coi khoa học như một thị
trường. Merton nhận thấy các khoa học gia lỗi lạc thường có
uy tín lớn hơn mức xứng đáng đơn giản bởi họ là những tên
tuổi lớn, trong khi các cộng sự giúp việc và các nghiên cứu
sinh – những người đảm nhận phần lớn công việc – lại chẳng
hề được biết đến. Một hiệu ứng phổ biến tương tự cho thấy
những ý tưởng sáng tạo và những câu danh ngôn thường được
nâng tầm và đem lại sự vẻ vang cho cá nhân nổi tiếng nhất
liên quan đến chúng.
Merton gọi đây là Hiện tượng Matthew. Các chuyên gia
về thị trường xem đây là Lợi thế tích lũy. Trong ngữ cảnh
kinh tế rộng hơn, tôi sẽ đề cập đến nó như Hiệu ứng bán
chạy nhất. Một sản phẩm bán chạy khi vừa được tung ra thị
− 10 −
D ẫn nhậ p
trường sẽ khiến những người khác tin đây là một sản phẩm
tốt và mong muốn sở hữu nó, điều này sẽ kéo thêm nhiều
người đến mua, và thông điệp cứ thế lan tỏa đến vô số khách
hàng khác. Sản phẩm này lập tức trở thành món hàng bán
chạy nhất. Trên thương trường ai cũng biết hiệu ứng này, thế
nên nhiều tác giả và nhà xuất bản quyết tâm đặt bằng được
cuốn sách của họ vào danh mục sách bán chạy nhất của New
York Times. Khi sách của bạn nằm trong danh mục này, các
hiệu sách sẽ lập tức xếp nó vào giá sách bán chạy nhất (đôi
khi còn ghi rõ “Danh mục sách bán chạy nhất theo xếp hạng
của New York Times”).
Cuốn sách sẽ được đặt ngay bên ngoài, các ẩn bản xếp ngay
ngắn như một khối gỗ. Điều này giúp các khách hàng tiềm
năng vừa bước vào hiệu sách đã nhận ra đây là một cuốn đáng
đọc. Lượng mua tăng lên khiến cuốn sách lập tức được các
biên tập viên mục New York Times Book Review nâng hạng
trên danh mục sách bán chạy, điều này như một thông điệp
tích cực gửi đến độc giả khiến số ấn bản bán được ngày càng
tăng thêm, cuốn sách trụ hạng lâu hơn, doanh số bán tiếp tục
tăng cao hơn nữa. Tất cả xoáy quanh như một vòng tròn, và
các tác giả giàu nhất lại càng giàu thêm.
Để lượng hóa Hiệu ứng bán chạy nhất, nhà xã hội học
Duncan Watts, công tác tại Đại học Columbia, cùng với hai
cộng sự Matthew Salganik và Petter Dodds đã tiến hành một
thí nghiệm trong đó 14 nghìn người đăng ký làm thành viên
một trang web, nơi họ có thể nghe, xếp hạng và tải về các ca
khúc do các ban nhạc vô danh trình bày. Một nhóm thành
viên được cho biết tên của các ca khúc và ban nhạc, trong khi
− 11 −
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
nhóm thứ hai chỉ được biết số lần mỗi bài hát được tải về. Các
nhà nghiên cứu đã gọi đây là điều kiện “ảnh hưởng xã hội”. Họ
muốn biết thông tin về số người tải một ca khúc về có ảnh
hưởng đến quyết định tải hoặc không tải nó về của các chủ thể
khác không. Đúng như dự đoán, số liệu biểu thị lượng tải về
đã ảnh hưởng đến những thành viên thuộc nhóm chịu “ảnh
hưởng xã hội”: những bài hát có số người tải về nhiều hơn tiếp
tục được các thành viên mới tải về nhiều hơn, trong khi lựa
chọn của nhóm biết tên bài hát và ban nhạc lại cho kết quả cực
kỳ khác biệt. Điều này không có nghĩa là chất lượng của một
cuốn sách, một ca khúc hay bất kỳ sản phẩm nào khác không
có ảnh hưởng tới quyết định của người mua. Tất nhiên, nó có
ảnh hưởng và ảnh hưởng đó có thể lượng hóa được. Nhưng
hóa ra khi người tiêu dùng đưa ra lựa chọn chủ quan dựa trên
đánh giá mang tính tương đối của các khách hàng khác thì
ảnh hưởng của sự xếp loại khách quan về chất lượng sản
phẩm thường trở nên mờ nhạt.
Những thị trường nơi việc buôn bán diễn ra dựa trên
những bảng xếp hạng, xếp loại và danh mục hàng bán chạy
nhất dường như vận hành theo ý muốn của riêng nó, giống
như một cơ thể chung. Thực chất, đây mới chỉ là một trong
những hiệu ứng sẽ được đề cập trong cuốn sách này, minh
chứng cho mức độ ảnh hưởng của tâm hồn tới thị trường, và
rộng hơn nữa là sự tồn tại tinh thần riêng của thị trường. Hãy
cùng suy ngẫm một câu chuyện kinh tế khác qua bài học về sự
tiến hóa có liên quan đến Hiệu ứng bán chạy nhất.
− 12 −
D ẫn nhậ p
Hãy tưởng tượng bạn là một chủ nhà băng sở hữu một
lượng tiền hữu hạn có thể cho vay. Nếu bạn cho những khách
hàng có mức độ rủi ro cao vay, thực sự bạn đang chơi một
canh bạc liều lĩnh vì con nợ của bạn có thể không trả được nợ
và tài sản của bạn cũng tiêu tán. Điều này tạo ra một nghịch
lý: Những người cần tiền chính là những người có mức độ rủi
ro cao nhất và vì thế khó lòng vay được tiền, trong khi đó
những người ít cần tiền nhất lại có mức độ rủi ro thấp nhất –
và thế là người giàu càng giàu thêm. Hai nhà tâm lý học tiến
hoa John Tooby và Leda Cosmides đã gọi đây là Nghịch lý chủ
nhà băng, và họ đã áp dụng nó vào một vấn đề sâu sắc hơn:
chúng ta nên kết bạn với ai? Họ cho rằng Nghịch lý chủ nhà
băng “cũng tương tự như một vấn đề nghiêm trọng mà tổ tiên
chúng ta gặp phải trong quá trình thích nghi với cuộc sống:
lúc một người nguyên thủy cần được giúp đỡ nhất cũng là lúc
người đó có mức độ rủi ro cao, và vì thế không còn đủ hấp
dẫn để được trợ giúp”.
Nếu xem cuộc sống giống như một nền kinh tế và những
nguồn lực là bất cứ thứ gì chúng ta sẵn có để giúp đỡ người
khác – đặc biệt bao gồm tình bạn – theo logic của Nghịch lý
chủ nhà băng, sẽ có những lựa chọn rất khó khăn khi đánh giá
mức độ tin cậy của những người chúng ta gặp. Theo thuyết
tiến hóa, lòng vị tha là vấn đề lớn hơn được đặt ra ở đây: tại
sao tôi phải hy sinh gene của tôi vì gene của người khác? Hoặc
mang tính kỹ thuật hơn, vị tha là hành động làm giảm khả
năng sinh tồn của tôi đồng thời làm tăng khả năng sinh tồn
của người khác.
− 13 −
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
Các lý thuyết chuẩn mực cho rằng có hai con đường tiến
hóa dẫn tới sự vị tha: lựa chọn theo huyết thống (một giọt
máu đào hơn ao nước lã) và vị tha tương hỗ (có đi có lại).
Giúp đỡ những người gần gũi thân thiết hoặc những người sẽ
đền đáp lòng vị tha của tôi nghĩa là tôi đang giúp chính mình.
Vì thế, sự lựa chọn sẽ hướng đến những người có xu hướng vị
tha ở mức độ nào đó. Bị giới hạn bởi các nguồn lực, chúng ta
không thể giúp đỡ tất cả mà phải đánh giá mức độ rủi ro của
mỗi người, và sẽ có một số người ít rủi ro hơn những người
khác. Một lần nữa Nghịch lý chủ nhà băng lại xảy ra: Những
người nguy khốn nhất lại ít có cơ may được giúp đỡ nhất, và
thế là người giàu càng giàu thêm. Nhưng không phải khi nào
cũng vậy, có những người bạn lúc sóng êm biển lặng giả vờ tỏ
ra vị tha, nhưng khi trời nổi giông bão thì họ chẳng buồn cứu
giúp chúng ta. Ngược lại, những người bạn thực sự là những
người luôn bảo vệ lợi ích của chúng ta mà không hề đòi hỏi sự
đền đáp. “Những bạn bè xấu thường đeo mặt nạ trung thành”,
Tooby và Cosmides phân tích, “ Nếu bạn sống ở thời nguyên
thủy và không có ai quan tâm sâu sắc đến lợi ích của bạn, khi
đó bạn rất dễ bị tổn thương trước các sự kiện bất ngờ – trở
thành con tin của số mệnh.” Môi trường sống càng tồi tệ, càng
cần thiết phải có những người bạn thực sự, và trong quá khứ,
môi trường sống của con người không hề giống một chuyến dã
ngoại êm đềm.
Tiến hóa là một quá trình chọn lọc theo khả năng thích
nghi và hành xử theo Nghịch lý chủ nhà băng, trong đó chúng
ta phải (1) cố gắng để được những người xung quanh ghi nhận
sự thành thực và đáng tin cậy, (2) trau dồi những thuộc tính
− 14 −
D ẫn nhậ p
được ưa chuộng nhất trong cộng đồng, (3) tham gia những
hoạt động cộng đồng nhằm nhận diện và củng cố những thuộc
tính thiên về xã hội, (4) tránh những hoạt động cộng đồng gây
mất uy tín và để lại tai tiếng, (5) chú ý đến những đặc điểm
đáng tin cậy ở người khác và (6) rèn khả năng phân biệt bạn
bè chân thành và bạn bè hời hợt. Vì thế, Tooby và Cosmides
kết luận, Nghịch lý chủ nhà băng, giải thích cho vấn đề thuộc
lĩnh vực tâm lý học tiến hóa: “Nếu bạn có tầm quan trọng đặc
biệt hoặc duy nhất với ai đó – dù vì bất cứ lý do nào – người
đó cũng sẽ có sự quan tâm trên mức thông thường đối với sự
tồn tại của bạn khi gặp khó khăn. Sự quan tâm ấy khiến người
đó trở nên quan trọng với bạn. Lý do ai đó “đầu tư” vào bạn
chính là vì bạn cũng “đầu tư” vào người đó. Hơn nữa, khi nhận
ra điều này ở mức độ nào đó, có thể sự quan tâm ban đầu họ
dành cho bạn sẽ gia tăng.” Với sự gia tăng này, người nghèo có
thể trở nên giàu có nhờ sự phát triển nền tảng tình bạn.
Năm 1859, Charles Darwin xuất bản cuốn Nguồn gốc các
loài. Cuốn sách gây tranh cãi đến mức vào năm 1861, Hiệp hội
vì tiến bộ khoa học Anh phải dành một phần đặc biệt trong
cuộc họp thường niên thảo luận về nó. Người ta trao đổi, phân
tích tốt xấu, và có ý kiến gay gắt chỉ trích cuốn sách của
Darwin quá nhiều lý thuyết và ông chỉ nên “đưa ra dẫn chứng
và để chúng yên”. Nhà kinh tế chính trị và hoạt động xã hội
Henry Fawcett - người bạn đồng thời là đồng sự của Darwin –
đã viết thư cho ông sau cuộc họp, miêu tả thái độ tiếp nhận
của giới khoa học với học thuyết này (Darwin thường không
− 15 −
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
tham dự những sự kiện như vậy vì lý do sức khỏe yếu và bận
bịu gia đình). Darwin đã trả lời Fawcett, giải thích mối quan
hệ khăng khít giữa lý thuyết và thực tiễn:
Khoảng ba mươi năm trước, có nhiều tranh luận cho
rằng các nhà địa chất chỉ được phép quan sát chứ không
phát triển thành lý thuyết, và tôi nhớ rõ có người đã nói cứ
đà này thì con người chỉ có cách xuống mồ đếm cát sỏi và mô
tả màu sắc của chúng. Thật kỳ lạ nếu ai đó không thấy bất
cứ quan sát nào cũng phải nhằm ủng hộ hoặc phản biện một
quan điểm nào đó, nếu muốn nó có ích.
Tôi đã dùng câu nói này để minh họa trong bài báo đầu tiên
viết cho cho tạp chí Scientific American, trong đó tôi phát
triển nó thành một nguyên tắc mang tên Châm ngôn của
Darwin, thể hiện ở ý sau cùng: bất cứ quan sát nào cũng phải
nhằm ủng hộ hoặc phản biện một quan điểm nào đó, nếu
muốn nó có ích.
Châm ngôn của Darwin trở thành triết lý khoa học của
cuốn sách này: nếu muốn các quan sát trở nên hữu ích, chúng
phải được kiểm chứng trước một quan điểm nào đó – luận đề,
mô hình, giả thuyết hay kiểu mẫu. Các sự kiện không thể tự
phát ngôn nên chúng cần được giải mã qua lăng kính ý tưởng,
vì nhận thức dựa trên quan niệm.
Khoa học là sự kết hợp tuyệt vời giữa số liệu và lý thuyết –
giữa nhận thức và quan niệm – chúng cùng nhau tạo thành
nền tảng vững chắc của khoa học, công cụ mạnh nhất con
người tạo ra nhằm tìm hiểu sự vận hành của thế giới. Nếu
không còn tách rời lý thuyết, quan niệm với số liệu, nhận thức
− 16 −
D ẫn nhậ p
chúng ta sẽ đạt đến cách nhìn nhận khách quan của
Archimede – nhìn bằng đôi mắt của Chúa – về bản thân và
thế giới.
Trong cuốn sách này tôi sẽ phản bác một quan điểm đáng
mỉa mai cho rằng Darwin và học thuyết của ông không có chỗ
đứng trong lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt khi nghiên cứu
về hành vi xã hội và kinh tế của con người. Trong khi nhiều
nhà khoa học kịch liệt phản đối việc đưa Thuyết sáng tạo hay
Thuyết thiết kế thông minh2 vào giảng dạy trong giờ Sinh học
tại các trường công, đồng thời điên đầu vì tình trạng giáo dục
khoa học thảm hại và số lượng ít ỏi những người chấp nhận
học thuyết của Darwin (chưa đầy một nửa dân số Mỹ tin vào
sự tiến hóa của con người), hầu hết các nhà khoa học khác –
chủ yếu là các nhà khoa học xã hội – đã lên án bằng tất cảm
xúc mãnh liệt dành cho Đấng sáng tạo nhằm chống lại nỗ lực
đưa tư tưởng tiến hóa vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội và tâm
lý. Giờ đây chúng ta có thể hiểu nguyên nhân của sự phản đối
này – chính sự cân bằng trong thuyết tiến hóa và các quan
điểm cực đoan về di truyền đã dẫn đến những cuộc thanh sát
người thiểu năng trí tuệ tại Mỹ, và khiến Đức Quốc xã tạo ra
Thuyết ưu sinh3 - nguồn gốc của sự thảm sát người Do Thái.
Thuyết sáng tạo (Creationism) là học thuyết chủ đạo của Thiên chúa giáo, cho
rằng Thiên chúa tạo ra thế giới. Thuyết thiết kế thông minh (Intelligent Design)
được đưa ra những năm 1980 tiếp tục khẳng định điều này. Thiên chúa giáo
kịch liệt phản đối Thuyết tiến hóa (Evolution Theory) của Darwin và ở nhiều
nơi, học thuyết này vẫn bị cấm giảng dạy theo yêu cầu của Nhà thờ.
2
Thuyết ưu sinh (Eugenics) phát sinh từ quan điểm cực đoan về di truyền. Hitler
từng tuyên bố nhiều lần: “Chúng ta phải tạo ra một giai cấp ưu việt nhất, có khả
năng thống trị trong nhiều thế kỷ. Đội quân của chúng ta phải được lựa chọn trên
3
− 17 −
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
Do đó, các nhà khoa học xã hội sau Thế chiến II đã phản đối
mọi ý tưởng dùng quan điểm tiến hóa để nghiên cứu hành vi
con người, và chỉ tập trung đưa ra những giải thích thiên về
văn hóa-xã hội.
Tôi cũng sẽ tranh luận về học thuyết Con người kinh tế,
xem con người như những thực thể kinh tế vô cùng duy lý, có
tính tư lợi và tự do ý chí luôn sống ích kỷ, chạy theo lợi ích tối
đa và biết cách đưa ra lựa chọn hiệu quả. Khi quan điểm tiến
hóa và các lý thuyết tâm lý học hiện đại được sử dụng để
nghiên cứu hành vi con người trên thị trường, chúng ta sẽ thấy
học thuyết Con người kinh tế – hòn đá tảng của kinh tế học
truyền thống – thường sai lầm và thiếu thuyết phục một cách
đáng tiếc. Hóa ra, con người là những sinh vật cực kỳ bất duy
lý, và những cảm xúc sâu thẳm, vô thức được tiến hóa cùng
thời gian vĩnh hằng chi phối con người ngang bằng (thậm chí
nhiều hơn) so với những logic và lý trí hình thành trong thế
giới hiện đại.
Quan điểm thứ ba tôi không đồng tình, vốn được nhà sử
học người Anh Thomas Carlyle đưa ra 1849, xem kinh tế
học như một “khoa học ảm đạm”. Suốt một thế kỷ rưỡi sau
đó, hầu hết mọi người đều nghĩ về kinh tế học như thế, chỉ
thấy nó là một lĩnh vực loay hoay trong những mô hình toán
học, phân tích tài chính và xem con người về mặt lý thuyết
giống như những cỗ máy cực kỳ duy lý và ích kỷ. Thực tế,
nguyên tắc của học thuyết ưu sinh, để họ và con cái trở thành tầng lớp quý tộc của
hiện tại và tương lai, không chỉ ở nước Đức mà trên toàn thế giới".
− 18 −
D ẫn nhậ p
khi xem xét cả ba quan điểm này, chúng ta sẽ thấy kinh tế
học không hề ảm đạm. Trước hết, nó đang trải qua cuộc
cách mạng vĩ đại nhất kể từ khi được Adam Smith đặt nền
móng vào năm 1776 bằng tác phẩm Sự giàu có của các quốc
gia. Sự giao thoa với các lĩnh vực khác đã thổi làn gió mới
vào môn khoa học cũ kỹ này, hình thành nên kinh tế học
tiến hóa, kinh tế học hỗn hợp, kinh tế học hành vi, kinh tế
học thần kinh và một khái niệm tôi gọi là kinh tế học đạo
đức. Thứ hai, quan trọng hơn, con người, các doanh nghiệp,
các quốc gia luôn có mối quan tâm sâu sắc về tài chính. Về
phương diện này, kinh tế học không hề ảm đạm. Hãy thử
xếp hai người cấp tiến và hai người bảo thủ vào cùng một
phòng, đề nghị họ tranh luận sòng phẳng về các vấn đề kinh
tế như chăm sóc sức khỏe toàn cầu, tư nhân cung cấp dịch
vụ công cộng, lợi – hại của vốn hỗ trợ nước ngoài, hay
những ưu điểm tương đối của việc đánh thuế ngang bằng và
đánh thuế lũy tiến, bạn sẽ thấy không khí tranh luận trở
nên nóng bỏng chứ không hề ảm đạm.
Tôi đã dành ba mươi năm trong cuộc đời nghiên cứu khoa
học để tìm hiểu những vẫn đề gây tranh cãi như tiến hóa, sáng
thế, sự nóng lên toàn cầu, thảm sát, phân biệt chủng tộc qua
chỉ số IQ, phân biệt chủng tộc trong thể thao, phân biệt giới
tính qua khả năng nhận thức, những giả thuyết về âm mưu
đằng sau các sự kiện Trân Châu Cảng, 11 tháng 9, vụ ám sát
− 19 −
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
JFK, RFK và MLK4, các loại dược phẩm thay thế và bổ sung,
sự đầu thai chuyển kiếp và cả về Chúa trời, tôn giáo. Tôi nhận
thấy khi bị chọc giận, kinh tế học cũng dễ xúc động không
thua kém gì các khoa học khác. Nếu cần sự đánh giá khách
quan về các sự việc – nhất là khi các sự việc không thể tự phát
ngôn – chúng ta có thể đến với kinh tế học. Sự cần thiết
nghiên cứu quy luật về hành vi con người trong kinh tế cũng
giống như việc các nhà vật lý, hóa học, sinh học phải nghiên
cứu các quy luật tự nhiên; và bởi kinh tế học là lĩnh vực được
hầu hết mọi người dành tình cảm, khi nghiên cứu nó chúng ta
phải cố gắng không chế giễu, than phiền hay khinh bỉ những
hành vi của con người mà phải thấu hiểu chúng. Cho phép tôi
giải thích lý do tôi bước chân vào lĩnh vực này.
Giữa những năm 1970, thời điểm mà phe tự do đang thắng
thế trên lĩnh vực học thuật, tôi trở thành sinh viên Đại học
Pepperdine – một trường đại học Công giáo theo khuynh
hướng bảo thủ. Tôi đăng ký vào đây vì bản thân tôi theo đạo
Thiên chúa giáo dòng Phúc âm, có nguyện vọng trở thành
giảng viên đại học, và thần học có lẽ là lĩnh vực phù hợp nhất
vì Đại học Pepperdine có Khoa Thần học rất nổi tiếng (việc
ngôi trường đặt trên những ngọn đồi Malibu khổng lồ, nhìn ra
Thái Bình Dương cũng không hề gì). Tôi sớm biết để trở thành
tiến sỹ thần học, cần phải thành thạo bốn tử ngữ – Hebrew, Hi
Vụ ám sát JFK, RFK và MLK: Vụ ám sát Tổng thống Mỹ John F. Kennedy vào
năm 1963 tại Dallas bang Texas; Vụ ám sát Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy
năm 1968; Vụ ám sát Martin Luther King, năm 1968.
4
− 20 −
D ẫn nhậ p
Lạp, Latin và Xyri. Với tôi, học tiếng Tây Ban Nha đã đủ khó
khăn, thế nên sự lựa chọn nghề nghiệp này quả là không ổn.
Khi các thầy cảnh báo tôi về tương lai mờ mịt của ngành thần
học và cha mẹ bắt đầu lo lắng không biết sau này tôi sẽ kiếm
sống bằng nghề gì, tôi quyết định chuyển sang lĩnh vực tâm lý
học, nơi tôi khám phá những ngôn ngữ của khoa học và đã
thành công. Thần học dựa trên những câu hỏi logic, tranh luận
triết học và phản biện văn chương. Khoa học lại dựa vào
những dữ liệu kinh nghiệm, phân tích thống kê và xây dựng lý
thuyết. Với lối tư duy của tôi, khoa học phù hợp hơn nhiều.
Tôi biết đến kinh tế học lần đầu tiên vào năm cuối đại học,
khi thấy nhiều sinh viên trong khoa Tâm lý cùng đọc một cuốn
sách dày cộp mang tên Atlas nhún vai, tác phẩm của tiểu
thuyết gia-triết gia Ayn Rand. Tôi chưa từng nghe tên cuốn
sách cũng như tác giả, vả lại độ dài đáng sợ của nó khiến tôi
nhiều tháng liền kiên quyết tránh xa bất chấp bao lời tán
dương, cho đến khi sức ép xung quanh khiến tôi miễn cưỡng
cầm nó lên. Khó khăn và kiên nhẫn lắm tôi mới vượt qua được
mấy trăm trang đầu tiên, cũng là lúc câu chuyện về chàng trai
bí ẩn dám làm ngưng động cơ của thế giới thực sự lôi cuốn tôi,
khiến tôi say mê lướt qua hàng ngàn trang sách.
Giống như nhiều người, tôi đánh giá rất cao tác phẩm Atlas
nhún vai. Năm 1991, Thư viện Quốc hội phối hợp với Câu lạc
bộ Cuốn sách của tháng tiến hành khảo sát độc giả về những
cuốn sách “tạo nên sự khác biệt” trong cuộc đời họ. Kết quả,
Atlas nhún vai xếp thứ hai chỉ sau Kinh Thánh. Triết lý chủ
nghĩa khách quan của Rand dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản:
− 21 −
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
(1) Siêu hình luận: Thực tế khách quan; (2) Nhận thức luận:
Lý lẽ; (3) Đạo đức luận: Tính tư lợi; (4) Chính trị luận: Tư bản
chủ nghĩa. Cho dù giờ đây tôi không còn đồng tình với việc bà
coi tính tư lợi là đặc điểm của phạm trù đạo đức (khoa học đã
chỉ rõ, ngoài tính ích kỷ, bon chen, tham lam, chúng ta còn có
thể di dưỡng đức vị tha, tinh thần hợp tác và nhân ái), cuốn
sách của Rand thực sự đã đưa tôi đến chân trời rộng lớn của
kinh doanh, thị trường và kinh tế học.
Tôi không dám chắc liệu những giá trị của kinh tế học
nghiên cứu thị trường tự do và sự khắt khe về tài chính đã
thuyết phục tôi tin vào tính chân xác của chúng hay do tôi có
thiên hướng tương hợp với thế giới quan này. Có lẽ là cả hai,
dù bạn nghĩ thế nào. Cha mẹ tôi chính là những người vô cùng
khắt khe về tài chính song lại hết sức tự do về mặt xã hội. Là
sản phẩm của cuộc Đại suy thoái, luôn mang trong mình nỗi
ám ảnh “tái nghèo”, hai người đã bỏ dở đại học và làm việc
cần mẫn cho đến cuối đời. Suốt thời thơ ấu, tâm trí tôi in hằn
những nguyên tắc kinh tế khắt khe: làm việc chăm chỉ, đề cao
trách nhiệm cá nhân, tính tự quyết, tự chủ về tài chính, chính
quyền nhỏ gọn và thị trường tự do. Mặc dù cha mẹ tôi không
hề sùng đạo (như nhiều người bảo thủ ngày nay), họ vẫn hết
sức hào hiệp giúp đỡ những người kém may mắn hơn – tham
lam là tốt, nhưng nhân ái còn tốt hơn.
Sau khi tốt nghiệp trường Pepperdine, tôi bắt đầu nghiên
cứu sau đại học về tâm lý học thực nghiệm tại Đại học bang
California, Fullerton. Lúc này, tôi đã từ bỏ niềm tin tôn giáo,
trở nên say mê vẻ đẹp thế tục của thời đại Khai sáng, đắm
− 22 −
D ẫn nhậ p
mình trong những phương pháp nghiên cứu chặt chẽ và
những chân lý nhất thời của khoa học. Nhưng hai năm huấn
luyện những chú chuột để chúng nhấn vào các thanh theo
đúng tần suất và cường độ của tác động, sự nhiệt tình tôi
dành cho loại khoa học này ngày một hao mòn, và khao khát
nghiên cứu thế giới thực càng lúc càng lớn dần. Tôi đến văn
phòng tư vấn việc làm của trường và hỏi xem liệu tôi có thể
làm được việc gì với tấm bằng thạc sỹ. Họ hỏi tôi: “Anh được
đào tạo để làm gì?” Tôi trả lời chua chát: “Để huấn luyện
chuột.” “Ngoài ra anh còn làm được gì nữa?” - họ căn vặn.
“À”, tôi lục tìm trong trí nhớ, “tôi có thể nghiên cứu và viết
lách.” Trong sổ giới thiệu việc làm có một công việc liên quan
đến nghiên cứu và viết lách tại một tạp chí thương mại dành
cho ngành công nghiệp xe đạp, thứ tôi hoàn toàn mù tịt.
Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là tham dự buổi họp báo do hãng
Cycles Peugeout và Michelin Tires tổ chức nhằm vinh danh
John Marino, tay đua chuyên nghiệp vừa phá kỷ lục đạp xe
xuyên lục địa từ Los Angeles tới New York. Tình yêu thể thao
lập tức bùng lên trong tôi, ngay cuối tuần đó tôi tham gia
cuộc đua đầu tiên, và suốt hai năm tiếp theo tôi học hỏi về
ngành xuất bản, các kiến thức kinh tế liên quan đến bán
hàng, marketing và môn thể thao xe đạp. Tôi viết báo, bán
quảng cáo và đạp xe tới những nơi xa nhất có thể. Cuối năm
1981, tôi rời tòa soạn, trở thành một tay đua chuyên nghiệp
được nhận tài trợ của các công ty, đồng thời hưởng lương trợ
giảng môn tâm lý học tại Đại học Glendale.
Một ngày vào năm 1981, sau buổi tập luyện dài, Marino kể
với tôi về Andrew Galambos, một nhà vật lý đã nghỉ hưu, đang
− 23 −
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
tổ chức các khóa học riêng tại Viện Doanh nghiệp Tự do, dưới
vỏ bọc mang tên “khoa học lý trí”. Khóa học nhập môn có mã
số V-50. Buổi học Econ 101 bàn về thị trường tự do, về thế giới
mạnh mẽ, đầy sức sống, phân rõ trắng đen, trong đó Adam
Smith tốt, Karl Marx xấu; sở hữu tư nhân tích cực, sở hữu tập
thể tiêu cực; nền kinh tế tự do hiệu quả, nền kinh tế hỗn hợp
phi hiệu quả. Khóa học này rất nổi tiếng ở quận Cam, bang
California (hàng xóm của tôi ở Los Angeles thường gọi đây là
“Bức màn Cam”), đây cũng là thời điểm Ronald Reagan đắc cử
tổng thống và đường lối bảo thủ đang thắng thế. Trong khi
Rand ủng hộ sự can thiệp có giới hạn của nhà nước, Galambos
lại chủ thuyết tư nhân hóa tất cả tài sản xã hội nhằm khiến
nhà nước trở nên không cần thiết và tự tiêu biến. Tài sản được
Galambos phân chia thành ba loại: nguyên thủy (bản thân
cuộc sống con người), sơ cấp (suy nghĩ, ý tưởng) và thứ cấp
(phát sinh từ tài sản nguyên thủy và sơ cấp, ví dụ quyền sử
dụng đất và hàng hóa hữu hình). Do đó, Galambos định nghĩa
chủ nghĩa tư bản như “một cấu trúc xã hội có khả năng bảo vệ
tất cả các loại tài sản cá nhân một cách triệt để.” Vậy là, để
nhận diện một xã hội tự do thực sự, chúng ta đơn giản chỉ cần
“tìm ra phương thức thích hợp để hình thành chủ nghĩa tư
bản.” Trong xã hội tự do này, chúng ta đều là các nhà tư bản.
Ý tưởng của Galambos không có gì lạ lùng trong lịch sử
vận động, phát triển của chủ nghĩa tự do. Bản ngã lớn giúp
ông thành công trong sự nghiệp giảng dạy nhưng cũng khiến
ông có những phát ngôn thổi phồng cái tôi cá nhân, như khi
ông chia tất cả các ngành khoa học thành ba loại: vật lý, sinh
học và “khoa học lý trí”. Trí tuệ tuyệt với có thể khiến ông đạt
− 24 −
D ẫn nhậ p
đến đỉnh cao sáng tạo ở nhiều lĩnh vực học thuật, nhưng
cũng thường khiến ông và học viên rối tung trong mâu
thuẫn, như việc chúng tôi vừa phải cam kết không tiết lộ ý
tưởng của ông ra ngoài, đồng thời lại được khuyến khích mời
mọc thêm học viên. (“Bạn đăng kí đi, khóa học tuyệt lắm!”
“Nó nói về cái gì thế?” “Cái này thì tôi không tiết lộ được!”)
Ông còn có khả năng giảng bài say sưa hàng giờ liền mà
không cần nhìn tài liệu, nhưng khi hai giờ kéo dài thành ba,
rồi ba lại kéo thành bốn, người nghe cũng bắt đầu phát ngấy!
Nghiêm trọng nhất, lý thuyết của ông không đảm bảo yêu
cầu tiên quyết của một nguyên lý kinh tế: nó quá xa rời thực
tế. Những định nghĩa ông nêu ra thật hay, thật tốt, nhưng
điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không thống nhất về hành vi
xâm phạm quyền sở hữu? Hiển nhiên câu trả lời sẽ là:
“Trong một xã hội thực sự tự do, tất cả những tranh chấp như
thế sẽ được giải quyết êm thấm bằng trọng tài.” Điều có vẻ
chỉ lý tưởng về mặt lý thuyết, không hơn không kém, nhưng
cái tôi cần là những số liệu thu được từ các thực nghiệm xã
hội được tiến hành ở thế giới thực tại.
Galambos có bảo trợ cho một nhà khoa học trẻ mang tên
Jay Stuart Snelson, và tôi đã có cơ hội gặp anh ngay khi kết
thúc khóa học V-50. Snelson từng giảng dạy tại Viện Doanh
nghiệp Tự do, nhưng sau một trận cãi cọ với Galambos
(trong hành xử xã hội, Galambos thường gây ra những sự cố
như vậy, khiến Ayn Rand và các nhà tự do chủ nghĩa hàng
đầu khác rất phiền lòng) Snelson tự mình lập ra Học viện vì
sự tiến bộ của con người. Nhằm tránh xa Galambos và hướng
− 25 −
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
đến gần kinh tế học chính thống hơn, Snelson đã dựa vào
danh tiếng của Trường Kinh tế Áo, nhất là các trước tác của
nhà kinh tế học người Áo nổi tiếng Ludwig von Mises. Thông
qua hàng loạt các nguyên lý kinh tế và ví dụ lịch sử, Snelson
đã chứng minh thị trường tự do tư bản chủ nghĩa chắc chắn
là phương tiện hiệu quả nhất để thúc đẩy hòa bình, thịnh
vượng, tự do và việc tư nhân hóa giáo dục, giao thông, liên
lạc, y tế, an ninh và vô số lĩnh vực khác sẽ đem lại lợi ích lớn
nhất cho đại đa số người dân.
Thời gian này tôi, Marino và một người bạn cùng đội đua tên
là Lon Haldeman đã kinh doanh niềm đam mê đạp xe bằng cách
lập ra Cuộc đua xuyên châu Mỹ – một cuộc đua xe đạp xuyên lục
địa dài gần năm ngàn ki-lô-mét không nghỉ. Chúng tôi nhận
được sự tài trợ từ nhiều công ty và ký hợp đồng với hãng ABC
Sports. Vài lần xuất hiện trên chương trình Thế giới thể thao
giúp tôi đủ nổi tiếng và tự tin mở một cửa hàng xe đạp tại
Arcadia, bang California mang tên Shermer Cycles. Tôi cũng trau
dồi sự nghiệp dạy học bằng cách mở các khóa học mới về Thuyết
tiến hóa và Lịch sử các tư tưởng kinh tế tại Đại học Glendale.
Tôi cũng lập ra một nhóm đọc sách và thảo luận hàng
tháng mang tên “Hội Mặt trăng” – đặt theo nhóm nghiên cứu
nổi tiếng hồi thế kỷ XVIII Hội Mặt trăng Birmingham. Nhóm
này tập trung thảo luận những cuốn sách như Hành vi con
người, chính nó đã truyền cảm hứng cho tôi hướng đến mục
tiêu cao cả mà tác giả Ludwig von Mises đặt ra: “Chúng ta
phải tìm hiểu quy luật về hành vi con người và sự tương tác
trong xã hội giống như các nhà vật lý tìm hiểu quy luật của tự
− 26 −
D ẫn nhậ p
nhiên”. Tôi gọi đây là Châm ngôn của Mises, đó chính là một
trong hai nguyên tắc định hướng cho tư duy của tôi khi viết
cuốn sách này.
Năm 1987, tôi quyết định từ bỏ những cuộc đua xe đạp để
hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh, với mong muốn
đem những ý tưởng của mình đóng góp cho đời. Tôi chuyển
lĩnh vực nghiên cứu từ tâm lý học sang lịch sử, và năm 1991 tôi
lấy được tấm bằng tiến sỹ lịch sử khoa học tại Đại học
Claremont. Tôi bắt đầu giảng dạy tại Đại học Ocidental, một
trường chuyên về nghệ thuật tự do, niên khóa bốn năm, tại
Los Angeles. Từ đó, tôi quan tâm đến những vấn đề khoa học
lớn lao hơn, đặc biệt là nguy cơ của sự phản khoa học và bất
duy lý trong xã hội ngày nay. Năm 1992, cùng với Kim – vợ tôi
– và họa sỹ Pat Linse, tôi thành lập Hội Hoài nghi, xuất bản
tạp chí Hoài nghi, và cùng nhau tham gia giảng dạy nhiều
chuyên đề tại Học viện Công nghệ California.
Phương châm của Hội Hoài nghi là kim chỉ nam thứ hai
cho cuốn sách này, bắt nguồn từ bài luận của Baruch Spinoza,
triết gia người Hà Lan, viết năm 1667 trước khi qua đời,
Tractatus Politicus, trong đó ông giải thích phương pháp
nghiên cứu những môn khoa học mang nhiều yếu tố cảm xúc
như chính trị và kinh tế.
Tôi nghiên cứu đối tượng của những môn khoa học này
với tinh thần tự do giống như trong toán học, tôi cần mẫn
làm việc không phải để chê bai, than vãn hay lên án những
hành vi của con người mà để thấu hiểu chúng; và vì thế tôi
− 27 −
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
nghiên cứu những cảm xúc hỷ, nộ, ái, ố, ghen ghét, tham
vọng, tiếc nuốc không phải để chứng tỏ sự đồi bại của bản
chất con người mà xem chúng như những thuộc tính cố hữu
của con người, giống như nóng, lạnh, sấm, chớp là bản chất
của tự nhiên vậy.
Diễn đạt súc tích hơn, điều cốt lõi tác giả muốn nói là: “Tôi
miệt mài nghiên cứu không phải để nhạo báng, kêu ca hay
khinh bỉ những hành vi của con người, mà để hiểu được
chúng.” Tôi nâng câu nói này lên thành Cách ngôn của
Spinoza, coi đó là chuẩn mực cần hướng đến khi nghiên cứu
các vấn đề nặng về cảm tính trong khoa học, tôn giáo và đạo
đức. Điều này thể hiện rất rõ trong bộ ba tác phẩm của tôi: Vì
sao con người tin những chuyện hoang đường, Cách thức
của đức tin và Khoa học về Thiện và Ác. Khi nghiên cứu kinh
tế học tiến hóa, tôi cũng luôn tâm niệm điều này. Vì thế, kinh
tế học dành cho tất cả chúng ta.
− 28 −
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro