COn nhà giàu 11-14
Thiệt cô Ba Ngọc có gia thế của cô, không lẽ cô ở hoài với em được. Cô về rồi, Thượng Tứ hết sức buồn bực. Ban ngày ở nhà chỉ có thằng Ngộ với con Mang, đứa lo ngoài vườn, đứa lo coi dưới bếp. Ban đêm thì có ông Ba Nở với Hương hộ Huy, là hai người tá điền ở gần, lại ngủ giùm, mà người thì già cả, người thì thiệt thà, không biết chuyện gì mà nói cho cậu giải khuây được.
Một buổi sớm mai, Thượng Tứ, tính để ăn cơm rồi đen hai ngàn đồng bạc mà trả phứt cho Chà -và, vì cậu muốn quên hết các việc cũ nên tuy bạc vay chưa tới ngày trả, song cậu nhứt định trả đặng rảnh rang trong trí mà lo bề cư xử khác. Cậu rửa mặt chải đầu rồi, cậu bước ra trước thềm đứng ngó ngoài lộ. Cậu vừa ngó thì thấy có một người con gái chừng 17, 18 tuổi, ở ngoài xăm xăm đi vô sân, mình mặc áo vải đen dài còn mới, quần lãnh nhụt nhụt, chơn không mang giày guốc, đầu không đội khăn, một tay bưng rổ, một tay đánh đòn xa, nước da trắng trong, gương mặt sáng rỡ. Người con gái ấy vô tới sân, cúi đầu chào cậu rồi bưng rổ đi dọc theo vách tường thẳng vô nhà sau. Cậu không biết người ấy là ai, đứng ngó theo, thì lại có một cái xe kéo ở ngoài lộ quẹo vô sân nữa. Cậu day lại thấy thầy thông Hàng thì cậu chưng hửng.
Thầy thông Hàng bước xuống xe liền hỏi rằng:
- Nghe nói bác gái mất rồi phải hôn?
- Phải. Sao thầy hay?
- Toa thiệt tệ quá! Anh em mà toa có việc như vậy, toa không cho mỏa hay. Hồi hôm mỏa lên thăm ông giáo, ổng nói có thầy Ban lên trả bạc lại trả luôn giùm cho toa nữa; thầy Ban nói bác mất nên ổng mới hay. Mỏa nghe như vậy, nên sẵn bữa nay chúa nhựt, mỏa chạy xuống thăm toa.
Vì Thượng Tứ nhớ lời bàn của chị hôm nọ, nên cậu gặp thầy thông cậu không vui, song cậu cũng giữ lễ, mời thầy vô nhà. Thầy thông vừa ngồi thì hỏi rằng:
- Bác mất bây giờ toa ở nhà có một mình. Toa tính rước ma đầm về bên nây hay là làm sao?
- Tôi tính rước vợ tôi về bên nây, mà ông gia tôi còn dục dặc chưa chịu cho.
- Té ra bây giờ toa ở nhà có một mình? Chắc toa buồn lắm há?
- Thì buồn chớ sao.
- Sao toa không lên chợ chơi?
- Còn vui sướng gì nữa mà đi chơi?
- Buồn phải đi chơi cho khuây lãng chớ.
- Tôi ngán tình đời lắm; tôi hết muốn đi chơi nữa. Đi ra thì bị người ta gạt gẫm, chớ đi có ích gì.
Thầy thông Hàng nghe Thượng Tứ trả lời câu đó thì thầy cúi mặt xuống, song thầy là một tay lanh lợi, một câu nói như vậy chưa dễ làm cho thầy phải hổ thẹn đến đỗi để bại lộ cái tánh tình thầy ra được, bởi vậy thầy vừa cúi xuống thì thầy liền ngước lên mà nói rằng:
- Ối! Con Hẩu là đứa khốn nạn, nó có đáng gì mà toa phải thất chí. Toa lên trển chơi, mỏa sẽ ráng làm cho toa hết buồn.
- Tôi cũng có tính ăn cơm rồi đây tôi sẽ lên chợ đặng trả bạc cho Chà-và.
- Bạc chưa tới ngày mà trả cái gì?
- Thây kệ, trả phứt cho rồi.
- Trời ơi, mỏa có lấy trong đó hết 300. Toa trả thình lình quá, mỏa đâu có tiền mà đưa cho toa.
- Sau rồi thầy sẽ trả lại cho tôi.
- Nếu vậy thì được... Nè, mà nếu toa đi chợ, thì để mỏa thả xe kéo rồi lát nữa mỏa đi xe hơi với toa.
- Được, thầy cho xe kéo về đi, ở ăn cơm chơi rồi tôi đi với.
Thầy thông ra trả tiền xe. Thượng Tứ bước vô trong nhà mà dặn con Mang nấu cơm, cậu thấy người con gái hồi nãy còn ngồi chơi dưới nhà bếp. Cậu muốn hỏi coi người ấy ở đâu, đến có việc gì, ngặc vì thầy thông kêu hỏi om sòm ở phía trước, cậu đứng lâu không được, nên cậu phải lui ra.
Ann cơm rồi, Thượng Tứ thay đổi áo quần, mở tủ sắt lấy bạc bỏ túi rồi đem xe ra đi với thầy thông Hàng lên chợ Mỹ Tho. Xe ngừng trước cửa tiệm Chà-và cho vay rồi hai người đi vô.
Tào kê(#1) tưởng thầy thông Hàng dắt Thượng Tứ tới vay bạc nữa, nên hỏi khách vô lễ rằng: "Đi đâu? Lại làm cái gì?" Thầy thông Hàng bất bình, nên dùng lời thô bỉ mà đáp rằng:
- Thằng Chà nầy vô phép quá! Tao lại trả bạc cho mày chớ làm cái gì.
- Trả bạc cái gì?
- Trả bạc chớ trả cái gì.
- Bạc của anh nầy vay hả? Chưa tới ngày mà.
- Chưa tới mà người ta trả. Mầy mọi lắm không ai thèm vay của mầy nữa đâu.
- Mọi cái gì? Anh nầy hỗn quá mà.
- Vậy chớ mầy ăn nói có phép lắm hay sao?
- Mập-lê cái nầy không thuộc tiếng Annam mà.
- Không thuộc tiếng Annam, sao biết lấy tiền của Annam.
Thượng Tứ móc bốp phơi lấy ra 20 tấm giấy xăng, vừa biểu Tào kê đưa giấy nợ và bằng khoán lại, Tào kê thấy cậu vay đã chịu tiền lời trước một năm mà mới vài tháng cậu trả vốn, thì biết cậu là người tử tế, nên không trả, muốn để hoài đặng lấy tiền lời. Anh ta nói dối rằng tài phú đi khỏi, không biết giấy để đâu, phải chờ tài phú về rồi sẽ lại.
Thượng Tứ muốn dứt việc cụ cho rồi; tuy hồi vay cậu lấy có một ngàn sáu, lại cho thầy thông Hàng hết 300, cậu còn có một ngàn ba, mà bây giờ cậu phải trả 2 ngàn, song cậu cũng không phiền. Đến chừng cậu thấy Chà-và muốn làm khó cậu, thì cậu nổi giận, bởi vậy cậu trợn mắt mà nói rằng: "Thằng Chà chó nầy nhiều chuyện nà! Đưa giấy đây cho mau. Mầy muốn tao kêu Cò lại nắm đầu mầy hôn? Chuyện gì tao trả bạc mà mầy không chịu?".
Tánh của bọn Chà Xã-tri không giống tánh tình của các dân tộc khác. Hễ chúng nó cho ai vay mà thấy người ấy trả không nổi, thì chúng ní khinh bỉ nhiếc mắng đến nước. Còn nó liệu người nào nó lột da được, thì dầu mắng chưởi nó đi nữa nó cũng không giận. Thượng Tứ nói hỗn như vậy, mà Tào-kê cười và đáp rằng: "Thôi mà anh, Chưởi mập lê làm chi. Mập lê biểu anh để bạc đó mà xài, chớ phải mập-lê đòi hay sao mà anh chưởi".
Thượng Tứ không chịu, cứ biểu phải đưa giấy ra đặng cậu trả bạc. Thầy thông Hàng lại tiếp mà buộc phải trả và phải tính tiền lời trong mấy tháng lấy bạc mà thôi. Tào-kê không bằng lòng nói nếu muốn trả bây giờ thì cũng phải trả tiền lời trọn năm, bằng không thì để tới hạn kỳ rồi sẽ trả. Hai đàng cãi lẽ với nhau rất lâu, thầy thông hăm kiện, Tào-kê không sợ, một người một tiếng trỗi giọng om sòm, con nít ở chợ tưởng gây lộn, nên xúm nhau đứng ngoài cửa mà coi đông nức. Thượng Tứ bực mình, quyết trả phứt cho rồi, nên đưa hai ngàn đồng bạc, không thèm bớt đồng nào hết, Tào-kê nghĩ cho trả như vầy thì có lời, nếu dục dặc nữa cũng không ích gì nên đếm bạc bỏ vào tủ rồi lấy giấy nợ với tờ tương phân mà trả lại cho Thượng Tứ.
Chừng ra xe, thầy thông Hàng cứ theo mời Thượng Tứ lại nhà chơi. Thượng Tứ hết muốn gần gũi với người đã làm cho mình tốn hao hết mấy ngàn, nhưng vì tánh cậu không được cứng cỏi, cậu sợ từ ngang thì mích lòng, nên cực chẳng đã cậu phải đi.
Xe vừa ngừng trước cửa, cô thông ra chào hỏi lăng xăng, cô hỏi thăm bà Kế hiền đau bịnh gì, mất bữa nào, sao đã lâu không thấy cậu Tư lên chơi. Thượng Tứ trả lời lơ là, coi không được mặn mòi như hồi trước. Cậu bước vô nhà thì thấy có một cô chừng 19, 20 tuổi, mặc áo tím, quần trắng, cổ đeo một sợi dây chuyền nhỏ, tay trái đeo một chiếc huyền, nước da trắng, gương mặt tròn, cô đương ngồi trên ván mà giỡn chơi với hai đứa con của thầy thông. Cô thấy cậu Thượng Tứ thì lật đật đứng dậy cúi đầu chào. Cô thông hỏi rằng: "Con Ba, mầy biết cậu Tư đây hay không? Cậu Tư Mỹ Hội là cậu đây". Cô lại day ra mà nói với với Thượng Tứ rằng: "Con Ba đây là em tôi, nó ở trong Vĩnh Tường".
Cô Ba liền cúi đầu mà chào nữa, miệng lại cười chúm chím, thiệt là hữu duyên, nhưng vì cậu Tư đương chán ngán tình đời, mà lại lo lắng gia đạo, nên cậu không để ý đến. Cô Ba đi rót một tách nước đem lại để trước mặt cậu Tư mà mời cậu uống. Thượng Tứ gặt đầu tạ ơn, mà coi bộ không vui. Thầy thông Hàng thấy vậy bèn nói rằng: "Con Ba đây nó ca tuyệt diệu đa toa. Nó có thinh mà có sắc nữa; mấy bầu gánh cải lương họ mê nó quá, cứ theo năn nỉ với dì Hai mỏa, xin để cho nó theo hát giúp, người thì chịu 500, người thì chịu một ngàn, mà dì Hai mỏa (chỗ nầy thiếu trong bản in lần tái bản) biểu nó thử "vọng cổ" cho toa nghe. Mây con ca mà toa khen, như con Tám Bộn, con Tư Chợ Cũ, sánh với nó 10 phần không có một".
Thượng Tứ lắc đầu đáp rằng: "Chuyện nhà tôi còn lộn xộn quá, tôi có vui gì mà ca xướng, thầy". Thầy thông tưởng Thượng Tứ không đẹp cô Ba Vĩnh Tường, nên thầy không dám nói vô nữa. Thượng Tứ ngồi chơi một chút rồi từ mà về, nói nhà không có ai, nên không thể ở chơi lâu được.
Xe chạy rồi, thầy thông ngó cô Ba Vĩnh Tường và cười và nói rằng: "Mầy ngồi trơ trơ, không thèm nói giống gì hết, khờ quá mà".
Cô Ba cười mà đáp rằng:
- Ai mà biết nói giống gì.
- Thì hỏi thăm chuyện nầy chuyện kia, nói giống gì cũng được; mầy cứ ngồi lặng thinh, cậu buồn quá nên cậu về.
- Không có quen thì ai biết chuyện gì mà hỏi.
Cô Thông chen vô mà nói rằng: "Không phải. Mình gấp quá sao được. Bà già cậu mới mất nên cậu còn buồn. Thủng thẳng để ít bữa đây rồi coi mà. Tôi đã coi tướng rồi. Cái mặt đó là mặt mê gái, chạy đâu cho khỏi".
Thầy thông cười mà nói rằng:
- Bà già cậu chắc là để tiền lại cho cậu nhiều lắm. Cậu mượn anh cậu đi trả bạc cho ông Giáo Chuột rồi, mà hồi nãy cậu lại cũng trả hai ngàn đồng bạc cho Chà rồi nữa.
- Bạc Chà mới hỏi mà trả giống gì?
- Mà cậu trả trước.
- Còn 300 đồng bạc của mình, cậu có đòi mình hay không?
- Tôi có nói với cậu để sau rồi tôi sẽ trả cho cậu. Nói đó nghĩa là huề, biết hôn?
Cô Thông cười.
Thượng Tứ lên xe mà về, mà cậu cũng tức cười, cậu cười thầy thông Hàng đã gạt cậu một lần rồi, bây giờ cũng tính dùng mỹ nhơn kế mà móc túi cậu nữa. Cậu dặn lòng đừng có nghe lời cám dỗ mà xiêu theo, cậu quyết chí không thèm để bước vào đường quấy nữa.
Hồi trước cậu ham chơi bời, hay vụt chạt bao nhiêu, bây giờ cậu càng sợ hư nhà, lo giữ phận bấy nhiêu. Cậu đổi tánh được đây, một là nhờ vợ chồng thầy thông Hàng, hai là nhờ có mẹ chết, hai việc ấy đều làm cho cậu ăn năn hết thảy.
Cậu về nhà cứ đi ra đi vô mà suy nghĩ việc đời. Cậu thấy con Mang chế nước trà đem lên rót cúng thì cậu hỏi rằng:
- Hồi sớm mơi tao thấy có con nào bưng rổ đi vô nhà bếp nói chuyện với mầy đó, Mang?
- Thưa, con Quế, là con của Hương hộ Huy, cậu không biết hay sao?
- Vậy hay sao? Hương hộ Huy có con gái tới bây lớn, tao có hay đâu.
- Thưa, cậu mắc đi học hoài, nên cậu không thấy.
- Nó lại chi đó?
- Thưa, Hương hộ sai nó đem cho một con cá lóc. Hồi sới mơi cậu mắc có khách nên không dám nói.
- Phải mầy nói thì tao cho nó ít cắc bạc. Người ta nghèo, người ta bắt được con cá lớn, người ta không dám ăn để đem cho mình, nếu mình không trả tiền lại cho người ta, té ra mình lường của nhà nghèo.
- Hương hộ là tá điền của cậu mà.
- Tá điền của tao thì tao được phép lường hay sao? Đừng có nói bậy.
- Tá điền của cậu hễ có món ngon vật lạ tự nhiên phải đem kiến cậu. Cái đó là lẽ thường thuở nay. Hồi còn bà cũng vậy, bà có trả tiền bao giờ.
- Tao không chịu vậy.
Tối lại, Hương hộ Huy với ông Ba Nở cũng đến ngủ giữ nhà giùm. Thượng Tứ bèn hỏi Hương hộ Huy rằng:
- Chú làm giống gì có cá lóc mà hồi sớm mơi chú sai đem cho tôi?
- Thưa, hồi hôm thằng con tôi nó đi chận đăng(#2), nó bắt được một con cá trộng quá, nên ở nhà tôi biểu đem kiến cậu.
- Con cá đó đáng bao nhiêu tiền?
- Thưa, trên chợ họ bán chừng ba bốn cắc.
- Để tôi trả tiền cho chú.
- Thưa không. Tôi kiến cậu, chớ bán chác gì mà trả tiền.
- Con chú đi đăng đêm hôm lạnh lẽo, bắt được con cá mừng húm, lẽ nào tôi giành tôi ăn mà tôi không đền cái công cho người bắt.
- Thiệt tôi không dám lấy tiền. Nếu cậu trả tiền thì cậu không thương tôi. Thuở nay tôi nhờ ông bà để ruộng cho tôi làm mới có cơm mà ăn. Chẳng may ông bà mất rồi, bây giờ cậu cũng vậy, phận tôi là kẻ bề dưới, xin cậu thương.
- Ruộng chú làm thuở nay thì tôi để cho chú làm, có chi đâu mà không thương. Tôi trả tiền con cá, là trả tiền công cho người con chú lội lặn mà bắt đêm hôm cực khổ đó chớ.
- Xin cậu thương. Tôi mang ơn cậu nhiều quá. Tôi kiến cậu có một con cá mà nghĩa gì.
- Có ơn gì mà mang. Tôi cho chú mướn ruộng thì chú phải đong lúa mướn cho tôi, chớ phải tôi cho chú làm mà chú khỏi đong lúa mướn hay sao?
- Thưa cậu, ai cũng vậy, làm ruộng thì phải đong lúa cho chủ điền chớ sao.
- Hễ đong lúa thì có ơn gì?
- Cậu nói kỳ quá! Thuở nay có ai nói như vậy đâu.
- Chú làm ruộng của tôi bao nhiêu?
- Thưa, tôi làm 3 dây. Hồi trước ông để cho tôi có 2 dây. Năm kia, thằng Hoàn cưới vợ rồi, tôi mới năn nỉ với ông, nên ông để thêm một dây nữa cho nó làm.
- Chú đong lúa ruộng bao nhiêu?
- Ba dây của tôi đó 2 thiên bảy.
- Mỗi năm chú gặt đập rồi được chừng bao nhiêu lúa mà chú đong hai thiên bảy?
- Năm nào trúng lung thì được bốn thiên rưỡi. Năm thường thường thì được 4 thiên; có năm thất thì vừa đủ đong lúa ruộng, có khi hụt nữa.
- Té ra chú làm cực khổ cả năm, rồi đong lúa ruộng hết, có lợi gì đâu?
- Mỗi năm té được một thiên, hoặc năm bảy chục giá đủ ăn vậy thôi.
- Làm ruộng ai cũng vậy hết thảy hay sao?
- Ai cũng vậy.
Thượng Tứ ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói rằng: "Nếu vậy thì người làm ruộng khổ quá! Làm cả năm mà té được có một thiên lúa. Cơm gạo, áo quần, trầu thuốc, cũng trong đó thì còn giống gì".
Ông Ba Nở đáp rằng: Ở xứ mình hẹp đất nên lúa ruộng cao quá. Cùng chẳng đã, ở ruộng thì phải làm ruộng, chớ có lời lóm gì, cậu. Cậu coi đó mà coi, thuở nay có ai làm ruộng mướn mà được làm giàu bao giờ. Đủ ăn như chú Hương hộ đây là may".
Thượng Tứ nghe nói như vậy thì châu mày, ngồi lặng thinh. Chẳng hiểu cậu nghĩ nghị thế nào, mà cách một hồi rồi cậu dặn Hương hào Huy ngày mai dắt giùm cậu đi coi hết thảy mấy cái nhà ở trong đất cậu.
Mặt trời mới mọc, chim trong vườn đương kêu lảnh lót, cỏ dựa bờ chưa ráo mù sương thì Thượng Tứ đã biểu Hương hộ Huy dắt đi dạo xóm. Cậu ra lộ rồi quẹo qua tay mặt, đi một khúc hết ranh vườn của cậu thì tới một cái nhà lá nhỏ. Cậu hỏi nhà ai, thì Hương hộ Huy nói nhà nầy là nhà của tên Kim. Cậu bước vô sân thấy một bên có một đống tàu dừa khô chặt từ đoạn vắn vắn bỏ phơi đó đặng làm củi mà chụm; một bên có một cái giàn làm để cho bầu leo, bầu đã có trái lòng thòng bằng bắp cẳng. Một bà già mặt mày nhăn nhíu, quần áo lang thang, đương lum khum dựa bên hè mà hái rau; ba con vịt lông trắng nõn, mỏ vàng khè, kêu nhau đi lại vũng, đập cánh nghe bạch bạch.
Hương hộ Huy kêu bà già mà hỏi rằng: "Thằng Kim đâu, bà Hai? Có cậu Tư lại đây". Bà già ngước lên, thấy cậu Tư thì chào hỏi, rồi kêu con om sòm. Thằng Kim, chừng 30 tuổi, cao lớn vậm vỡ, trên ở trần bày ngực đen thi, dưới bận quần vắn chí đầu gối, ở nhà sau lơn tơn bước ra. Anh ta thấy chủ đất thì liền lột cái khăn bịt trùm trên đầu xuống mà xá. Thượng Tứ hỏi bà già hái rau làm chi, thì bà cười mà đáp rằng:
- Hái vài nắm mà luộc đặng lát nữa chấm mắm.
- Chớ chấm giống gì nữa không được hay sao mà phải chấm mắm?
- Nghèo mà có giống gì đâu cậu. An rau cỏ mắm muối vậy thôi.
- Ăn vậy mà ngon hay không?
- Cũng ngon chớ.
Thượng Tứ day qua hỏi thằng Kim làm nghề gì. Thì nó nói làm mướn, còn vợ nó mua bầu, mướp, hành rau, mỗi bữa gánh ra chợ mà bán. Thượng Tứ bước lại cửa dòm vô nhà thì thấy nhà xịch xạt, trống trước trống sau, phía trước có một bộ ván dầu nhỏ, một cái chõng tre, một cái cối giã gạo, với cái quần nhụt nhụt, nhét lưng vào vách lá mà phơi, hai ống xổ lòng thòng. Cậu chỉ cái quần và cười và nói với thằng Kim rằng: "Anh thấy nhà người ta treo màn thêu anh bắt chước, nên anh cũng treo màn thêu đó phải hôn?" Thằng Kim lật đật chạy vô lấy cái quần xấp ôm trên tay và nói rằng: "Hôm qua giặt rồi lỡ tối phơi không khô, nên bà già tôi mới phơi đó, sợ để ngoài sân họ lấy".
Thượng Tứ cười rồi bỏ ra đi. Tới một cái nhà nữa là nhà của Bảy Thiện. Vợ chồng Bảy Thiện đi khỏi bỏ bầy con ở nhà, đứa lớn hơn hết chừng 14, 15 tuổi thì giữ năm sáu đứa nhỏ, đứa ở trần, đứa ở truồng, mặt mày có lươm, bụng coi binh rỉnh. Sắp nhỏ thấy Thương Tứ, đứa lớn biết nên bước ra mà xá, đứa nhỏ sợ nên bỏ chạy vô nhà. Thượng Tứ day lại nói với Hương hộ Huy rằng: "Có con sao không săn sóc, để chúng nó ở trần ở truồng coi dơ dáy quá". Hương hộ Huy đáp rằng: "Vợ chồng thằng Bảy Thiện nghèo mà con lại đông. Nó làm trối chết, mà có khi còn không đủ cơm cho sắp con nó ăn, có đâu sắm áo quần cho tử tế được".
Nghèo đến nỗi không thể sắm quần áo đủ cho con bận! Thượng Tứ nghe nói điều ấy thì cậu châu mày.
Đi một khúc nữa thì tới một cái bờ nhỏ. Hương hộ Huy nói: "Bờ nầy vô nhà tôi". Thượng Tứ gặt đầu rồi quẹo vô bờ ấy. Chừng bước tới cái cửa ngõ gài bằng tre thì Hương hộ Huy chen đi trước mà mở cửa và nói rằng: "Trưa rồi mà sao bầy trẻ chưa mở cửa thả trâu đi ăn vậy kìa".
Bước vô sân, Thượng Tứ thấy một cái nhà lá ba căn thấp thấp mà sạch sẽ, phía bên tả lại có một cái nhà ngang để nấu ăn, đựng lúa, phía bên hữu có một cái chuồng nhốt hai con trâu lớn sừng cong vòng với một con nghé sừng chưa lú. Dựa bên chuồng trâu có một đống rơm quến(#3) bầy gà xúm bươi kiếm lúa đổ.
Hương hộ Huy mời khách vô nhà và kêu vợ kêu con om sòm biểu trải chiếu, biểu nấu nước. Thím Hương hộ ra chào cậu Tư. Thằng Hoàn, là con trai lớn của Hương hộ, ở trong buồng ôm ra một chiếc chiếu trắng, nó lột khăn xá cậu rồi trải chiếu trên bộ ván gõ cũ lót căn giữa. Thương Tứ ngó quang quất, thấy nhà cũng chẳng có đồ đạc chi lắm, chính giữa dọn một bàn thờ, trong treo tượng 4 tấm, chữ đen giấy đỏ, trên bàn để một tấm bình phong với một cặp chưn đèn bằng cây vàng vàng. Vách buồng thì dựng bằng lá chằm, cửa thì làm khuôn cây rồi cặp bằng lá xé. Thượng Tứ hỏi Hương hộ rằng:
- Chú được mấy đứa con?
- Tôi có 4 đứa. Thằng Hoàn đây là lớn, tôi cưới vợ cho nó rồi. Kế con Quế, nó bưng cá lên cho cậu hôm qua đó. Còn hai đứa nhỏ nữa thì trai hết, một đứa 14 tuổi, một đứa 12 tuổi.
- Chú có cho 2 đứa nhỏ đi học hay không?
- Tôi cũng muốn cho con đi học quá, ngặc vì nhà nghèo, bây giờ biết làm sao.Thằng trộng thì nó mắc đi coi trâu; còn thằng nhỏ thì nhỏ quá, phần thì nhà trường xa, nó không dám đi một mình.
- Chú nói tôi mới nhớ. Thằng Hoàn chận đăng bắt cá đây phải hôn? Để tôi cho nó tiền.
Cậu Thượng Tứ và nói và móc bóp phơi lấy ra một đồng bạc mà đưa cho thằng Hoàn. Vợ chồng Hương hộ năn nỉ xin cậu đừng cho tiền. Thằng Hoàn cũng từ chối không dám lấy bạc. Thượng Tứ rầy biểu phải lấy vì cậu không chịu lường của nhà nghèo. Cậu bỏ đồng bạc trên ghế rồi đứng dậy bước ra cửa và biểu Hương hộ đi giùm với cậu nữa. Ra tới sân, cậu thấy con Quế, đầu bịt trùm khăn, áo vắt ngang lưng quần, đương bưng thúng lúa đổ trên chiếc đệm mà phơi. Cậu chỉ nó mà nói rằng: "Phải con em nầy bưng cá lên hồi sớm mơi hôm qua hay không?". Hương hộ gặt đầu chịu phải. Con Quế đứng xa không nghe Thượng Tứ nói chuyện gì, song nó thấy chỉ nó mà nói thì nó mắc cỡ, nên cúi mặt mà lại cười múm mím.
Thượng Tứ đi quan sát chơi tới 10 giờ, trời nổi nắng cậu mới trở về và biểu Hương hộ theo lên nhà ăn cơm với cậu.
Tuy Thượng Tứ sanh trưởng nơi chốn nầy, nhưng mà hồi nhỏ bị mẹ cưng không cho ra khỏi nhà, chừng khôn lớn thì mắc đi học, lúc bãi trường về nhà mẹ cũng không cho tới nhà tá điền tá thổ mà chơi, bởi vậy cậu không biết nhà ai, không quen với ai, cậu chỉ thấy nhà cậu cao lớn sung sướng, chớ cậu không dè nhà của người ta lúm túm nghèo khổ. Hôm nay cậu đi vòng trong xóm, cậu thấy quang cảnh khó khăn của con nhà nghèo, già cả mà còn lụm cụm đi làm, con nít mà phải trần truồng không quần áo, người trải nắng dầm mưa mà không đủ cơm nuôi vợ con, kẻ chai tay nám mặt mà không dám than phiền mệt nhọc. Cậu thấy như vậy cậu lấy làm đau lòng, nên chừng ngồi ăn cơm với Hương hộ, cậu thở ra mà nói rằng: "Tôi nghĩ lại thiệt tôi dại quá. Tôi đi chơi bậy bạ mấy tháng tốn bốn năm ngàn đồng bạc. Chớ chi tôi để số tiền ấy tôi phát cho mỗi người nghèo trong xóm, mỗi người năm bảy chục hoặc một trăm, thì họ mừng biết là chừng nào".
Hưong hôộ đớp rằng: "Thuở nay có ai mà làm được như cậu nói đó bao giờ. Chẳng cần gì phải cho, miễn là cho mượn đừng ăn lời thì họ cũng mang ơn quá rồi".
Thượng Tứ chống đũa, ngồi ngó sững ngoài sân, trí cậu lộn xôn, lòng cậu bức rức, nên cậu ăn cơm không biết ngon.
Chú thích: (1-) hay thầu kê, tiếng Hoa giọng Triều Châu: người chủ, như chủ tiệm, chủ ổ điếm ... (2-) dụng cụ đan bằng tre cắm ngang dòng nước để bắt cá (3-) rù quến, thu hút
Xem Tiếp Chương 12 Xem Tiếp Chương 17 (Kết Thúc)
Lật đật tới cúng thí thất thứ nhì cho bà Kế hiền. Cô Ba Ngọc lên trước một bữa, cô bày rước thầy chùa, cô lãnh đi chợ, cô biểu mời làng xóm, cô lo sắp đạt hết thảy cho em. Thượng Tứ cầm bánh xe(#1) đi qua Ông Văn mà rước vợ, vì vợ có nghén năm sáu tháng rồi, cậu không muốn đi xe ngựa.
Vợ chồng ông Hội đồng bằng lòng để cho con theo chồng về lo cúng tuần cho mẹ chồng. Nhưng mà khi cô Ba Mạnh ra đi thì ông Hội đồng kêu mà dặn rằng: "Hễ cúng tuần cho chị xong rồi con phải về, chớ đừng có ở miết ở bển đa, nghe hôn".
Thượng Tứ đã quyết cãi sửa thói cũ, không thèm chơi bời xài phá nữa để tử tế với vợ mà lo lập thân. Mà ông Hội đồng không hiểu ý của rể, ông cố chấp lời giao kết lúc bình thường, ông không dung chế cho người trong khi nguy biến, ông muốn được phần ông, ông không kể phần rể, ông làm như vậy chẳng khác nào rể toan bước chưn vào đường phải, mà ông giăng tay ngăn cản, buộc nó phải đi trong đường quấy hoài.
Thượng Tứ nghe cha vợ dặn vợ phải về thì cậu lấy làm buồn, song buồn thì để bụng chớ cậu không dám thổ lộ ra như ngày trước nữa.
Rước vợ về nhà rồi, tối lại thừa lúc người trong nhà ngủ im lìm, Thượng Tứ ở trong buồng vặn đèn lên cho tỏ và nói với vợ rằng: "Hồi trước tôi khờ dại lắm. Tôi ham chơi bời xài phí, tôi hủy bạc mình, tôi làm buồn thầy má bên nhà, mà tôi lại làm sầu não cho má bên nây nữa. Bây giờ tôi nghĩ lại, thiệt tôi ăn năn biết chừng nào. Đã biết tôi chơi bời mấy tháng tốn hao hết mấy ngàn đồng bạc; song tôi ăn năn đây là ăn năn sự lỗi đạo làm chồng, làm rể, làm con, chớ không phải tại tốn hao đó mà tôi ăn năn, bởi vì nhờ có tốn hao đó tôi mới biết khôn, tôi mới thoát ra khỏi con đường quấy được. Tôi đã ăn năn cái lỗi cũ rồi, tôi đã có lạy thầy má mà xin dung thứ. Chẳng hiểu vì cớ nào thầy cứ ghét tôi hoài, nói thế nào thầy cũng không chịu cho mình về ở bên nây. Mình nghĩ đó mà coi, nhà cửa vườn đất của tôi như vầy, nếu tôi về bển mà ở, thì công cuộc bên nây bỏ cho ai? Còn nếu tôi ở bên nây, thì vợ chồng cách bứt nhau đã khó lòng, mà trong nhà không có đàn bà thì lấy ai coi sóc. Tôi buồn quá. Nếu mình thương tôi, mình không phiền tôi nữa, thì mình phải tính thế nào đặng về bên nây ở mà xem sóc việc nhà giùm cho tôi. Đã biết đạo làm con thì tùng quyền cha mẹ, nhưng mà gái có chồng cũng có đạo vợ chồng. Việc ở bên nây hay là ở bển, quyền quyết định tại nơi mình. Nếu mình muốn về bên nây thì cha mẹ cản sao được".
Cô Ba Mạng nghe chồng nói như vậy thì cô ứa nước mắt mà đáp rằng: "Nhà cửa như vầy mình bỏ đi về bển mà ở sao được. Tôi cũng biết lắm chớ. Phận tôi thì tôi ở đâu cũng được hết. Theo lẽ thì tôi phải về ở bên nây đặng lo trông nhà trông cửa, chớ nhà mà không có đàn bà thì hư hao chịu sao cho nổi. Ngặt vì tánh ý thầy khó lắm. Thầy nói như rựa chém xuống đất. Việc gì cũng vậy, thầy nhứt định một lần mà thôi, ai cãi cũng không được. Thầy nói bởi vì thầy không có con trai nên hồi gả tôi, thầy có giao bắt rể, bây giờ dầu thế nào thầy cũng không chịu cho tôi về ở bên nây. Thầy nói như vậy, tôi biết làm sao. Mà tôi nghĩ, nếu tôi về bên nây thiệt cũng khó cho thầy má lắm, bởi vì trong nhà có một mình tôi, nếu tôi đi rồi làm sao".
Thượng Tứ nghe vợ nói như vậy, cậu ngồi buồn hiu. Cậu ngó trân ngọn đèn một hồi rồi cậu nói rằng:
- Tôi biết mình còn phiền tôi lắm, mình chưa hết giận tôi đâu.
- Không, tôi có phiền giận chi đâu.
- Mình nói như vậy đó đủ chỉ rõ là mình không thiệt tình. Cách tôi ở với mình hồi năm ngoái đó, làm sao mà mình không phiền được. Mà mình phiền đáng lắm, tôi có dám trách mình đâu, nên mình sợ mà phải giấu.
- Thiệt a, chẳng phải bây giờ mà thôi, năm ngoái lúc mình đánh chưởi đuổi xô tôi đó, tôi cũng không giận mình nữa. Tôi tủi phận riêng cho tôi vô duyên thiểu phước mà thôi.
- Nếu mình không giận tôi, mà sao bây giờ tôi ăn năn rồi, tôi nhứt định lo sắp việc nhà không thèm chơi bời nữa, mà mình cũng không muốn về ở bên nây với tôi?
- Tôi muốn sao được. Tại thầy má, chớ phải tại tôi đâu. Thầy má không cho, tôi đâu dám cãi.
- Nếu vậy thì tình vợ chồng không có nghĩa gì hết!
- Vậy chớ đạo cha con tôi trái được hay sao?
- Xin mình nói dứt một lần. Vì thầy má không cho, nên mình không dám trái ý cha mẹ mà theo chồng phải hôn?
Câu hỏi thiệt là rõ ràng, mà vì sự rõ ràng ấy làm cho cô Ba Mạnh bối rối, nên cô không dám trả lời vội. Cô ngồi ngẫm nghĩ một chút, rồi cô cúi mặt mà đáp rằng: "Xin mình nghĩ lại mà thương giùm phận tôi. Không phải tôi không muốn theo mình về bên nây. Tại thầy không bằng lòng, tôi biết làm sao. Phận tôi thiệt là khổ quá. Thầy biểu tôi ở bển, mình muốn tôi về bên nây; tôi ở giữa, tôi không biết liệu làm sao cho vừa ý hai bên hết được. Mà thôi, mình đừng có buồn. Tuy thầy không chịu cho tôi về bên nây, song thầy có hứa cho tôi với mình qua lại. Được như vậy thì cũng chẳng hại chi lắm. Tuy tôi ở bển, song lâu lâu tôi cũng chạy qua thăm bên nây, chớ phải thầy má cấm tuyệt không cho tới lui hay sao mà ngại".
Thượng Tứ thở dài đáp rằng:
- Vợ chồng mà phải phân rẽ mỗi người ở một nơi, lâu lâu mới đợc hiệp nhau một vài ngày, chẳng khác nào một người khách, thì có bàn tính với nhau được việc gì được. Tôi muốn có mình ở bên nây đặng hiệp với tôi mà làm - Mình tính làm việc gỉ?
- Tôi tỏ thiệt với mình, từ hồi nhỏ cho tới chừng cưới vợ, tôi ăn no rồi tính chơi cho vui, tôi muốn có tiền nhiều mà xài chớ không kể tới ai, tôi không thèm để ý vào việc gì hết. Từ hôm má mất tới nay, tôi chán ngán việc đời, tôi không thèm chơi bời nữa. Tôi ở nhà tôi nói chuyện với mấy người tá điền, rồi tôi đi dạo xóm tôi thấy bề ăn ở của mấy người ở trong đất nữa, thì tôi xốn xang trong lòng, tôi thương xót phận con nhà nghèo quá. Người giàu ở không ăn chơi sung sướng, mà lúa thóc bạc tiền có thêm hoài, không biết làm giống gì cho hết. Còn người nghèo là từ đầu năm chí cuối, chai tay nám mặt, mà ăn ở cực khổ, áo quần lang thang, già cả lụm cụm cũng chưa được nghỉ ngơi, con nít lớn lên thì không thể đi học. Tôi thấy như vậy tôi khó chịu quá. Tôi muốn tính từ rày sắp lên tôi không thâu tiền thổ cư của mấy người ở trong đất nữa. Còn mấy người mướn ruộng thì mùa tới đây tôi biểu họ đong phân nửa lúa ruộng mà thôi, còn phân nửa thì tôi cho họ đặng họ khá một chút, chớ để họ nghèo quá tôi nghiệp. Tôi tính như vậy đó, mình nghĩ thử coi được hay không?
Cô Ba Mạnh tánh tình hiền hậu, thuở nay cô ở với tá điền tá thổ thiệt là tử tế, cô chẳng hề khinh khi ai, chẳng hề hiếp đáp ai, chẳng hề khổ khắc ai; nhưng mà con nhà giàu, chỉ lo làm ra tiền chớ không ưa làm thất lợi, tuy cô không chịu độc ác, song cô cũng không biết cứu giúp, bởi vậy cô nghe chồng nói bỏ tiền đất, bớt lúa ruộng, thì cô chưng hửng, nhướng mắt ngó chồng mà đáp rằng:
- Mình tính như vậy sao được? Ở trong đất thì phải đóng tiền đất, ai có đất mà cho thiên hạ ở không bao giờ? Còn cho mướn ruộng, hễ người ta cho sao thì mình cho vậy, mình không tăng lúa ruộng là may, chớ sao lại bớt?
- Người ta làm sao tự ý họ, mình bắt chước họ làm chi. Tôi thấy người ở trong xóm họ nghèo cực tôi thương quá.
- Như ai nghèo thì mình cho họ đôi ba đồng bạc, hoặc năm mười giạ lúa mà thôi chớ.
- Cứu giúp như vậy cũng được; nhưng mà cho đôi ba đồng bạc hoặc năm mười giạ lúa, bất quá đỡ vớt họ trong ít ngày mà thôi, chớ làm sao cho họ bớt nghèo được.
- Trời ơi, ai làm sao cho họ hết nghèo cho được! Họ phải làm ăn thì họ mới hết nghèo chớ.
- Ở xứ mình, hễ nghèo thì có thế nào mà hết nghèo được. Mình nghĩ đó mà coi, làm ruộng tới mùa gặt đập được chừng 500 giạ lúa, phải đong lúa ruộng hơn ba trăm giạ, phải trả lúa trâu, lúa cấy, lúa gặt, lúa đập, lúa đất mạ, rồi còn giống gì đâu mà ăn?
- Tại họ nghèo thì họ phải chịu, chớ biết làm sao. Mà mình thương tá điền tá thổ của mình mình làm như vậy, mình chắc họ hết nghèo hay không? Tôi sợ mình tử tế quá, rồi họ dễ ngươi, họ không làm ăn, càng hại hơn nữa. Huống chi không phải nội tá điền của mình đây nghèo mà thôi. Thiên hạ nghèo xứ nầy qua xứ kia, mình làm sao mà làm cho hết thảy đều hết nghèo được?
- Mình thấy người ta nghèo khổ trước mắt mình đây, mình chịu không được, thì mình giúp cho họ, chớ lo cho hết thảy thiên hạ sao được? Nếu mình nói "thiên ha nghèo khổ nghèo lắm, tôi không có sức mà giúp hết thảy được, nên tôi không thèm cứu giúp ai hết", thì té ra có một người nào được nhờ mình đâu? Không phải vậy, ở đời hễ mình có thế làm phải được chút nào thì mình làm chút nấy, chớ không nên nói: "Tôi không làm phải nhiều được, bởi vậy tôi không làm phải ít".
- Mình làm theo mình tính đó, tôi sợ trong vài năm, họ không hết nghèo, mà mình phải nghèo theo họ.
- Dầu nghèo tôi cũng vui. Mà có sao đâu mà nghèo? Tiền đất thâu mỗi năm chừng một trăm, bỏ số đó cũng không hại gì bao nhiêu. Còn lúa ruộng của tôi gần bảy ngàn giạ, nếu tôi cho tá điền phân nửa thì tôi cũng còn phân nửa là ba ngàn rưỡi giạ xài không hết. Huống chi bây giờ tôi nhứt định không thèm chơi bời nữa, nội huê lợi miếng vườn cũng đủ ăn xài trong nhà, có chuyện gì mà phải tới nghèo?
- Không được. Mình bày chuyện trái đời quá, tuy tôi không dám cản mình, song tôi không dám dự vào.
- Tôi muốn trong việc gì cũng vậy, phải đồng vợ đồng chồng mới vui.
- Không. Mình làm sao thì làm, tôi không biết tới.
Thượng Tứ thấy vợ không hiệp ý thì cậu ngồi buồn hiu, hết muốn nói chuyện nữa, không thể bàn tính việc gì được.
Chú thích: (1-) lái xe
Xem Tiếp Chương 13 Xem Tiếp Chương 17 (Kết Thúc)
Đi chơi bời thì ai nấy không vui lòng, nói đi chơi phải hư nhà hại thân. Muốn hòa hiệp với vợ, thì vợ không bằng lòng, nói không dám cãi lịnh cha mẹ. Tính ở phải với người nghèo khổ, thì vợ lại không chịu dự, nói làm như vậy là trái đời. Làm người có tiền sẵn mà không được xài đồng tiền, có vợ sẵn mà không được ở với vợ, muốn làm phải cũng không được làm, thế thì cái thân khốn nạn nầy trời sanh ra để giữ tiền bạc, phải chịu quạnh hiu, phải chìu phong tục cho đến mãn đời mãn kiếp hay sao?
Đám cúng tuần xong rồi, cô Ba Mạnh trở về cha mẹ, cô Ba Ngọc cũng trở về nhà chồng. Thượng Tứ ở một mình, cậu buồn bực chịu không nổi. Tuy mỗi ngày hoặc cậu xuống nhà thầy Ban biện, hoặc thầy Ban biện lên nhà cậu mà nói chuyện chơi, song thầy Ban biện là người làm quan, thầy chẳng nói chuyện chi khác hơn là thúc thuế, đi tuần, xét sổ công nho, bắt giải trộm cướp, là những chuyện không thích hiệp với trí ý của cậu, bởi vậy không giải buồn bực cho cậu được. Chớ chi cậu tuổi lớn, ngơ tai danh lợi, ưa thú thanh nhàn, trên đường đời ai dại khôn cực sướng mặc ai, cậu ẩn thân trong tòa nhà ngói, cậu an phận với thớt vườn dừa nầy, thì không đến nỗi gọi mình là vô phước. Ngặt vì cậu còn đương buổi thanh niên, tánh cường, huyết nhiệt, trí còn hăng hái, tình còn dồi dào, mà biểu cậu mỗi ngày nằm co trong nhà mà chờ hai bữa cơm, mỗi đêm phải chong đèn trong buồng mà ngồi nghe dế gáy, thì có thế nào cậu chịu cho kham. Thói nhà giàu là như vậy hay sao? Thú vợ chồng là vầy hay sao?
Thượng Tứ luôn buồn lòng trách phận, bỗng tiếp được một bức thơ của thầy Huỳnh văn Khả, là anh em bạn học ngày trước, gởi cho hay rằng thầy được cấp bằng làm ký lục tại Tòa bố Gia Ðịnh mấy tháng rồi, mà mời cậu ngày mùng 10 lên chung vui với thầy, vì ngày ấy là ngày thầy cưới vợ. Ấy là một dịp tốt cho Thượng Tứ đi thăm một người bạn thiết và giải buồn chút đỉnh nữa, bởi vậy đọc thơ rồi thì cậu liền nhứt định cậu sẽ đi.
Đến ngày mùng chín, cậu căn dặn thằng Ngộ với con Mang ở nhà coi nhà, và cậu mượn Hương hộ Huy với ông Ba Nở tối ngủ giùm, ngày xem xét, rồi cậu sắp áo quần vào hoa ly lên xe mà đi Gia Định. Vì trong thơ thầy Ký Khả không có nói nhà thầy ở chỗ nào, bởi vậy lên tới Gia Định, Thượng Tứ phải ghé Tòa bố mà hỏi thăm. Bếp hầu thấy cậu bận y phục tử tế, đi xe hơi rột rạt, nên lật đật chỉ nhà thầy Ký Khả ở dãy phố ngó qua lăng Ông, căn thứ ba.
Thượng Tứ vô nhà, thầy Ký Khả hết sức mừng rỡ. Cha mẹ bà con thầy Ký ở Gò Công đã lên đủ rồi, mà cuộc đám cưới cũng đã sắp đặt sẵn sàng rồi hết. Thượng Tứ hỏi thăm thầy Ký coi cưới con ai ở đâu, thầy Ký đáp rằng: "Tôi cưới con gái ông Phán Hương ở trong Xóm gà. Ông gia tôi biết tôi nghèo, nên không đòi vật gì hết. Tôi cũng không nhóm họ. Chiều nay 3 giờ, đàng trai vô làm lễ rồi ở luôn trỏng, đến tối ông gia tôi đãi tiệc. Tôi ở phố chật hẹp quá rước dâu không tiện, nên tôi ở luôn bên vợ 3 bữa, rồi vợ chồng mới dắt nhau về ngoài nầy".
Thầy Ký Khả nói tự nhiên mà Thượng Tứ ngồi ngơ ngẩn, vì thuở nay cậu trầm trồ cô Thái Thị Thiên Kim, lúc mẹ tính đi nói vợ cho cậu, thì cậu có đòi cưới cô nọ, cậu không dè ngày nay anh em bạn của cậu lại được cái hạnh phước làm chồng người cậu đã mớ ước. Cậu thương thấy Ký Khả lắm, bởi vậy cậu mới nghe tin thì cậu ngơ ngẩn, nhưng mà cậu nghĩ lại, anh em của cậu được cái hạnh phước ấy còn tốt hơn là người khác được, nên cậu cười mà nói rằng: "Toa có phước lắm. Mỏa mừng cho toa vì mỏa nghe nói con gái của ông Phán Hương thiệt là đứng đán. Đời nầy cưới vợ chẳng cần lựa con nhà giàu, miễn là được người đồng tâm hiệp ý thì quí hơn. Mỏa có đi trước cái đường đó rồi mỏa thạo hơn toa, nên mỏa nói đây không phải là nói dóc đâu".
Thầy Ký Khả là người chơn chất thiệt thà, nghe Thượng Tứ nói mấy lời ấy mà không hiểu cậu uất về việc vợ chồng, thầy lại nói rằng:
- Tôi mới lên làm việc trên nầy mấy tháng nay, tôi không biết con vợ tôi. Anh cũng hiểu phận tôi nghèo, tôi không đèo bồng chỗ giàu có sang trọng. Ông gia tôi ổng thấy tôi ổng thương, nên ổng kêu ổng gả. Còn anh có vợ chỗ nào rồi hay chưa?
- Mỏa cưới vợ hồi năm ngoái lận mà. Thôi học về ít tháng thì mỏa cưới.
- Sao anh không cho tôi hay? Anh cưới vợ ở đâu?
- Cưới bên chợ Ông Văn, cũng ở trong hạt Mỹ Tho. Mà cưới rồi cũng như chưa, bởi vì nhà ai nấy ở.
- Ủa! Sao vậy?
- Ông gia mỏa buộc mỏa phải về bển mà ở. Bà già mỏa mất rồi, mỏa biết bỏ nhà cho ai mà về bển được. Ổng nhứt định không cho vợ mỏa về bên nây, bởi vậy mỏa ở có một mình, buồn quá.
- Bác gái cũng mất rồi nữa sao?
- Phải, mất hơn một tháng nay.
Hai anh em nói chuyện mới tới đó, kế ông thân của thầy Ký xen vô mời Thượng Tứ đi họ giùm qua đàn gái, bởi vì bà con ở xa lên không được nên họ đàng trai coi thưa thớt lắm. Thượng Tứ lên đây đã sẵn lòng ở chung vui với thầy Ký cho đến cùng, mà nghe thầy Ký cưới con ông Phán Hương, thì cậu lại càng muốn ở đi họ hơn nữa, bởi vậy nghe mời thì cậu chịu lời liền.
Đến ba giờ chiều, Thượng Tứ mời chàng rể và ông sui bà sui lên xe của cậu mà đi qua đàng gái; còn sáu bảy người đi họ thì lên hai xe lô-ca-xông đã mướn sẵn cho đàn ông một cái, đàn bà một cái.
Qua tới đàng gái, Thượng Tứ ngồi chim bỉm, không muốn nói chuyện với ai hết, chỉ trông nàng dâu ra làm lễ đặng coi năm nay dung nhan có khác hơn năm trước hay không. Cách chẳng bao lâu nàng dâu bận áo rộng xanh trong buồng bước ra hiệp với chàng rể mà làm lễ ông bà rồi chào họ và ra mắt bà con bên chồng.
Thượng Tứ ngồi nhìn gương mặt rỡ như hoa vừa mới nở, tướng đi đứng yểu điệu mà có vẻ nghiêm trang, sánh với cô Hai hẩu thì nhan sắc cô Thiên Kim có phần hơn, mà lại có nét ôn hòa từ thiện nữa.
Làm lễ xong rồi, nàng dâu cởi áo rộng và mặc một mớ áo chẹt đi đãi khách. Cô sai trai dọn chế nước, cô mời họ đàn bà ăn trầu, cô đứng nói chuyện với chồng, cô đi coi chặt nước đá, cử chỉ nào cũng tự nhiên, câu nói nào cũng thanh nhã. Có lẽ thầy Ký Khả được vợ vừa thông thạo, vừa xinh đẹp thì thầy phỉ tình đắc ý, nên thầy đi vô đi ra miệng chúm chím cười hoài, mà một lát lại nói chuyện nhỏ nhỏ với vợ không ai nghe rọ nói chuyện gì, duy thấy chồng nói mà ngó vợ rất hữu tình, vợ gặt đầu mà cười rất hữu duyên.
Thượng Tứ liếc thấy anh em bạn của cậu say sưa với hạnh phước, thì cậu mừng thầm trong lòng mừng cho bạn có vợ được vui thú với chồng, mà cũng mừng cho ai có chồng khỏi tủi thầm duyên phận. Tuy mừng thì mừng, nhưng mà cậu thấy đám cưới nầy, rồi cậu nhớ đám cưới của cậu hồi năm ngoái, thì cậu khó chịu nhiều ít trong lòng. Thầy Ký Khả là con nhà nghèo mà vợ thầy cũng con nhà nghèo, sao bữa cưới, vợ chồng lại hân hoan như vầy? Còn mình là con nhà giàu mà vợ mình cũng là con nhà giàu, sao ngày mình cưới vợ mình không vui, mà coi bộ mình cũng không vui chút nào hết? Rõ ràng lời người ta nói "vợ chồng vui là bởi tâm đầu ý hiệp, chớ không phải tại ruộng rộng bạc nhiều" là lời nói trúng lắm mà.
Tiệc đám cưới mãn rồi, Thượng Tứ từ thầy Ký Khả mà về. Thầy Ký Khả đưa cậu ra xe; lúc bắt tay từ biệt nhau, cậu nói với bạn một lần nữa rằng: "Toa cưới vợ như vầy mỏa mừng cho toa lắm. Như vầy là hạnh phước, chớ không phải kiếm chỗ giàu có sang trọng mới gọi là hạnh phước được đâu".
Khi ra đi, Thượng Tứ tính lên mừng bạn rồi ra Sài Gòn ở chơi ít bữa, mà chừng trở ra Sài Gòn cậu không muốn ở, nên tuy trời đã tối rồi, song cậu chạy thẳng về nhà.
Hồi ở nhà trường mới ra, Thượng Tứ liến xáo nóng nảy bao nhiêu, bây giờ cậu thấy thế cuộc, cậu hiểu nhơn tình, nên cậu trầm tĩnh ôn hòa cũng bấy nhiêu. Chuyện gì đáng nói cậu mới nói, chuyện gì đáng cười cậu mới cười. Từ ngày cậu đi đám cưới trên Gia Định rồi, thì cậu lại càng ít nói hơn nữa. Ở trong nhà nhiều khi đến hai ba giờ đồng hồ mà cậu không nghe cậu nói một tiếng chi với con Mang hoặc thằng Ngộ. Mỗi bữa cậu cứ nằm trên võng mà coi sách hoặc coi nhựt trình. Sớm mới cậu thường đi dạo một vòng trong vườn. Buổi chiều thì cậu đi vòng trong xóm, gặp con nít cậu thường cho xu hoặc bạc cắc, thấy người lớn cậu hay hỏi thăm công cuộc làm ăn. Vì cử chỉ cậu đổi khác xưa, nên ngày trước không ai được nói chuyện với cậu, mà bây giờ từ già chí trẻ ai cũng thân cậu, ai cũng kính yêu cậu hết thảy.
Cậu hết mong rước vợ về nữa được, nên cậu lo sắp đạt việc nhà. Cậu giao con Mang quản suất dưới nhà sau, coi cơm nước, coi gạo củi, giữ dầu hôi nước mắm, lo đi chợ mua ăn. Cậu giao cho thằng Ngộ xem xét cây trái trong vườn, coi mướn làm cỏ vét mương, coi bán dừa cau chuối mít. Cậu lại nói với Hương hộ Huy cho thằng con út, 12 tuổi, tên thằng Lạc, ở với cậu đặng cậu sai vặt như quét nhà, lau ghế, chế nước, đốt đèn, cậu hứa mỗi tháng cậu sẽ thưởng công cho nó ba đồng bạc.
Ngày 12 tháng 5 tới ngày làm tuần bá nhựt cho bà Kế hiền Lý Thị Nho. Cô Ba Mạnh gần ngày khai hoa, cô ột ệch quá, nên cô qua không đặng. Thượng Tứ cậy chị ruột với chị dâu lo lắng giùm cuộc cúng quảy.
Đêm vào đám, thầy chùa ngồi tụng kinh Kim cang Bác nhã trước bàn thờ, Hương chức trong xóm ngồi uống nước nói chuyện phía ngoài cửa. Thượng Tứ cúng rồi bước vô nhà trong thấy hai vợ chồng thầy Ban biện với cô Ba Ngọc đương ngồi trên bộ ván, cậu bèn ngồi lại đó mà chơi.
Cô Ban biện ngó thấy Thượng Tứ thì cô nói rằng: "Con Tư nằm chỗ nằm nơi rồi thế nào cũng phải rước nó về bên nây, chớ ở bển luôn hay sao? Vợ chồng mà ở một người một nơi vậy sao được".
Thầy Ban biện đáp rằng: "Bác Hội đồng kỳ quá. Nói hết sức mà bác cũng không chịu, ai biết làm sao bây giờ".
Thượng Tứ châu mày nói rằng: "Tại ông gia tôi mà cũng tại vợ tôi nữa. Nếu nó biết đạo vợ chồng, gái có chồng đi theo chồng, thì ai làm sao mà cản nó được. Tôi biết nó không có thương tôi. Nó cứ nói tại hồi trước có lời giao, bây giờ ông gia tôi không cho nó về bên nây, nên nó là con, nó không dám cãi. Anh chị cũng hiểu, hồi trước má tôi giao kết, thì có dè cuộc lỡ dở như vầy đâu. Bây giờ rủi má tôi mất, nhà cửa minh mông, ai cũng biết tôi không thế nào bỏ đi đâu được, mà nó làm ngặt không chịu về bên nây, tức thị là nó không thương tôi chớ gì. Thôi, tôi không cần nữa. Nó muốn ở bển nó ở. Tôi ở một mình tôi cũng được. Vậy chớ mấy tháng nay không có nó đó, tôi lại chết chóc gì".
Cô Ba Ngọc cười mà nói rằng:
- Em giận em nói lẫy như vậy, chớ chị biết con Tư nó thương em lắm. Ngặt vì một bên thì chồng, một bên thì cha, có lẽ nào nó bỏ bụng cha mà theo ý chồng. Em nói em cũng phải xét lại cho nó chớ.
- Vậy mà chị còn binh nó nữa!
- Không phải chị binh. Nói phải quấy cho em nghe chớ binh giống gì. Em để đó em coi, không lẽ bác Hội đồng lột da mà sống đời. Để chừng bác trăm tuổi già rồi coi con Tư nó về bên nây hay không mà.
Cô Ban biện nghe nói như vậy bèn hớt mà đáp rằng:
- Dữ hôn! Vợ chồng còn nhỏ mà cách bức nhau, nói như cô vậy thì đợi biết mấy mươi năm nữa mới sum hiệp.
- Đây đó mà xa xắc gì! Qua lại với nhau cũng được mà. Mấy tháng nay không có cỏn, mà thằng Tư nó sắp đặt trong nhà coi cũng xong quá.
- Coi chớ nhà không có đàn bà, không ai xem xét trong ngoài, nghĩ cũng khó lắm chớ. Phần chú Tư nó còn nhỏ, chú ở một mình chú cũng buồn.
Thượng Tứ bèn nói rằng: "Chị Hai nói phải. Tôi buồn thiệt, mà dầu vợ tôi về bên nây đi nữa, sợ tôi cũng không hết buồn được, bởi vì vợ chồng tôi không giống ý nhau. Thà là nó ở bển, tôi ở bên nây một mình tôi muốn làm việc gì tự ý tôi".
Cô Ban biện cười mà nói rằng: "Bộ chú nầy muốn cưới vợ bé hay sao, nên chú nói như vậy?" Thượng Tứ chưng hửng, cậu ngó ngay chị dâu mà hỏi rằng: "Vợ bé đâu mà cưới? Không, tôi không có tính việc đó đâu. Cưới vợ bé làm chi? Một vợ đó đủ mà làm cho tôi ngán rồi, cưới thêm nữa chịu sao nổi. Cái đời của tôi hư rồi, bây giờ tôi không còn biết cái gì là vui nữa hết. Các sự mơ ước của tôi mấy năm trước đã tiêu tan, đã rời rã hết rồi. Bây giờ sở thích của tôi là sớm mới dạo vườn, buổi chiều dạo xóm, tối nằm coi sách mà thôi".
Thầy Ban biện cười mà nói rằng: "Em còn nhỏ tuổi mà em nói chuyện nghe như ông già. Phải, mấy tháng nay qua thấy em không chơi bời nữa thì qua cũng mừng. Nhưng mà ở đời cái gì cũng vừa vừa vậy thôi, thái quá không nên, mà bất cập cũng không tốt. Em cũng phải đi chơi chút đỉnh mà giải khuây, miễn là mình đừng có chơi mấy việc hư thì thôi chớ".
Thượng Tứ ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng: "Ở đời nầy có việc nào là việc hư, còn việc nào là việc nên. Có nhiều người nhơ nhuốc mà thiên hạ áp xưng tụng, còn nhiều kẻ thanh cao mà thiên hạ lại khinh khi. Có nhiều việc mình cho là phải, mà họ cho là bậy, thế thì dầu làm việc gì, dầu chơi cách nào, hễ thích chí thì thôi, cần gì phải dò miệng thiên hạ. Như hôm trước tôi tính chuyện giúp đỡ nhà nghèo mà vợ tôi nó nói làm như vậy là trái đời. Anh nghĩ đó mà coi, giúp nhà nghèo mà gọi là trái đời, thì còn giống gì nữa mà nói".
Hai vợ chồng thầy Ban biện với cô Ba Ngọc không rõ việc của Thượng Tứ đã tính, mà cũng không hiểu ý Thượng Tứ chán đời, nên nghe em nói như vậy thì cười với nhau rồi bỏ nói qua chuyện khác.
Có đám làm tuần, bà con chòm xóm tụ lại đông, thì Thượng Tứ giải khuây được chút đỉnh. Chừng mãn đám rồi, ai về nhà nấy thì cậu lại buồn hiu.
Một buổi chiều, vừa lúc mặt trời chen lặn, cậu đi xóm về, còn đứng ngoải cửa ngõ mà ngó mông. Mấy đám mạ ở giữa lộ đã gần đúng lứa rồi, nên phơi màu xanh lè, lại gió thổi đùa ngọn coi như sóng giợn. Xa xa, thấy có một người đầu đội nón lá, vai vác cái cày, lùa cặp trâu đi trong ruộng, người vác nặng đi cáng náng, trâu lội nước văng túa sua.
Người buồn mà thấy cảnh không vui thì trong lòng càng thêm buồn, bởi vậy Thượng Tứ đứng tiu hiu, dạ ngậm ngùi, trí viễn vọng. Cậu nhớ chuyện nầy qua chuyện nọ, rồi nhớ hôm trước chị dâu nói cậu muốn có vợ bé, thì cậu mỉm cười. Cưới vợ bé làm gì? Mình đã dại quá, hồi cưới vợ mình không kén chọn, chớ chi hồi đó mình lựa người như con ông Phán Hương hay là con ông Giáo Chuột mà cưới, thì bây giờ có đâu mà buồn như vầy.
Thiệt, từ khi vợ chồng phân rẽ, Thượng Tứ chẳng hề có tính kiếm vợ bé bao giờ, mà bây giờ cậu cũng không có tính tới việc đó. Lúc cậu mê mẩn cô Hai Hẩu thì cậu có tính để vợ rồi sẽ cưới cô. Ấy là cậu đương giận vợ, nên cậu muốn đổi vợ, chớ không phải muốn hai vợ. Bây giờ vợ cậu đã gần ngày khai hoa, mà cậu lại biết cái lỗi trước là lỗi của cậu, bởi vậy cậu không dám tính bỏ vợ nữa, thế thì cưới vợ bé sao được. Mà tuy là cậu không tính cưới vợ bé, song câu chuyện vợ bé đã chạm vào trí cậu rồi. Nếu lúc nầy mà có người như cô Thiên Kim hoặc cô Hai Hẩu vẩn vơ trước mắt cậu, thì cũng chưa ắt cậu giữ vẹn lòng son cùng vợ lớn cậu được.
Cậu đứng nghĩ quanh nghĩ quất rồi cậu vừa xây lưng sắp đi vô nhà, thì nghe có tiếng xe hơi ở trên phía Mỹ Tho chạy xuống. Cậu đứng nán lại mà ngó coi xe của ai. Cách chẳng bao lâu, cái xe hơi gần tới thì tốp máy chạy chậm chậm rồi ngừng ngay cửa ngõ.
Thượng Tứ dòm lại, té ra thầy thông Hàng ngồi trước với sớp-phơ, còn phía sau thì cô thông ngồi với hai cô nữa.
Thầy thông Hàng mở cửa xe nhảy xuống và hỏi Thượng Tứ rằng: "Ê! Toa làm gì đứng đó?" Thượng Tứ bước lại đưa tay mà bắt tay thầy thông, và cúi đầu chào mấy cô rồi hỏi rằng: "Thầy đi đâu đây?" Thầy thông Hàng hân hoan đáp rằng:
- Chiều trời tốt quá, nên mướn xe chạy bậy một vòng hứng gió chơi. Toa làm giống gì xưa rày không thấy lên chơi vậy?
- Tôi mắc chuyện nhà.
Cô thông ngồi trên xe vọt miệng hỏi rằng:
- Bộ cậu giận vợ chồng tôi hay sao, cậu Tư? Chớ sao mấy tháng nay cậu không thèm tới nhà tôi nữa?
- Thưa, có chuyện chi đâu mà giận. Tại tôi bận việc nhà chớ.
- Thôi, chối làm chi. Tôi biết mà. Con Hai Hẩu nó phụ tình cậu, nó bỏ đi lấy chồng; cậu phiền nó rồi cậu phiền luôn tới vợ chồng tôi chớ gì.
- Bây giờ tôi không phiền cô Hai Hẩu mà tôi cũng không phiền ai hết. Tại tôi chớ có phải tại ai đâu mà tôi phiền.
- Có mợ Tư ở nhà hay không?
- Thưa không, vợ tôi ở bên Ông Văn chớ đâu có ở bên nây.
- Rủi dữ hôn! Phải có mợ ở bên nây, tôi ghé thăm một lần chơi cho biết. Thuở nay chớ tôi chưa biết nhà cậu. Tôi ghé chơi được hôn?
- Thưa, được chớ. Tôi mời thầy Thông với mấy cô ghé chơi.
- Mà cậu sẵn lòng tiếp rước hay không? Chớ ghé mà cậu không vui thì ghé làm chi.
- Tôi sẵn lòng lắm chớ.
Có một cô nhỏ hơn hết, ngồi giữa, mặc áo xanh dương, choàng khăn sạt(#1) màu trắng, cô cười và hỏi rằng: "Chúng tôi ghé thì cậu phải đãi trái cây, hoặc mận, hoặc ổi, hoặc cam, hoặc giống gì đó mới được. Cậu vui lòng mà đãi chị em tôi hay không?" Thượng Tứ cũng cười lại mà đáp rằng: "Vật quí thì thiệt tôi ở nhà quê nên tôi không có, chớ trái cây thì vườn tôi có đủ thứ, mấy cô muốn dùng thứ nào tôi cũng có sẵn mà đãi luôn".
Thầy thông Hàng bèn nói rằng: "Mấy người muốn ăn dừa khô thì vô đây leo lên bẻ mà ăn. Vườn cậu Tư thứ đó nhiều lắm. Ghe chở hoài mà cũng không hết".
Mấy cô nghe nói giểu như vậy thì cười ngất rồi mở cửa leo xuống xe. Cô thông Hàng hỏi Thượng Tứ có biết hai cô kia hay không. Thượng Tứ ngó hai cô thì nhớ mạy mạy có gặp cô lớn bận áo trắng một lần, còn cô nhỏ bận áo xanh thì thiệt là không biết. Cô thông bèn nói rằng: "Con lớn đây là con Ba, con của dì tôi ở trong Vĩnh Tường. Cậu có gặp nó một lần ở trên nhà tôi, cậu quên hay sao?" Thượng Tứ gặt đầu, tỏ ý cậu nhớ. Cô thông bèn chỉ cô mặc áo xanh mà nói luôn rằng: "Còn con nhỏ đây là con Tư, con ông cả trên Xoài Hột, nó thi đậu bằng cấp sơ học, có làm cô giáo vài năm, bây giờ nó xin nghỉ đặng đi kiếm chồng".
Cô Tư mắc cở vỗ vai cô thông một cái bẹp mà nói: "Chị quỉ nầy, khéo nói kỳ cục", rồi cô kéo tay cô Ba đi vô cửa ngõ. Thượng Tứ ngó theo miệng chúm chím cười và mời khách đi vô.
Dọc theo đường đi vô sân, hai bên trồng mận xen lộn với cam, lại có mấy cây đu đủ đứng bên sau lá bủa sum sê, trái đeo dày chật. Vì không nhằm mùa, nên mận mới trổ bông, cam chưa có trái. Cô Tư thấy đu đủ còn thấp mà trái sai, lại có trái chín đỏ rồi mà chưa ai hái, thì cô chạy riết lại, hai tay rờ rẩm, hỏi cậu Tư hái được hay không. Thượng Tứ bước lại lựa trái chín hơn hết mà hái rồi trao cho cô Tư, miệng mỉm cười. Cô đưa tay lấy trái đu đủ, mắt liếc, miệng cười rất hữu tình. Cô vừa cầm trái đu đủ thì cô liền để xuống đất rồi đưa hai tay ngay mặt Thượng Tứ mà nói chún chím rằng: "Cậu làm mủ đu đủ vấy tay tôi đây, cậu phải chùi cho tôi". Thượng Tứ móc túi lấy khăn mu soa ra mà chùi tay cho cô Tư. Thầy thông Hàng với hai cô kia đương trầm trồ mấy cây mận, thầy day lại ngó thấy Thượng Tứ đương chùi tay cho cô Tư thì la lớn lên rằng: "Ê! Làm cái gì mới gặp nhau mà đã nắm tay nắm chưn nhau đó? Không có đặng vô phép như vậy đa!" Thượng Tứ mắc cở, nên bỏ khăn vô túi mà đi. Cô Tư lượm trái đu đủ cầm đi theo và cười và nói rằng: "Thầy đó hay la quá! Cậu Tư chùi tay cho ta mà".
Chủ khách kéo nhau vô nhà. Lúc ấy trời đã chạng vạng tối. Thượng Tứ mời khách ngồi, kêu thằng Ngộ đốt đèn, biểu thằng Lạc bưng nước lăng xăng. Cô Tư quen tánh vô ngại, tới nhà lạ mà cô không ké né chi hết, cô mượn một cái dao rồi xẻ trái đu đủ mời người nầy người kia ăn, còn mời luôn chủ nhà nữa. Không ai chịu ăn hết, cô giận cô ngồi ăn một mình và nói rằng: "Đu đủ của cậu Tư hái mà họ chê chớ. Thôi, tôi ăn một mình, vì cậu Tư thương nên cậu cho tôi, tôi dại gì mà chia cho người khác". Cô Ba thiệt thà, nên cô nghe mấy lời lả lơi như vậy thì cô lấy khăn che miệng mà cười.
Cô Tư ăn ít miếng rồi cô đòi rửa tay. Lúc ấy thằng Ngộ với thằng Lạc đều không có tại đó. Cô thông Hàng bèn nói rằng: "Con làm rộn quá! Muốn rửa tay thì đi ra đàng sau mà rửa, chớ nước đây đâu có". Cô Tư ngó Thượng Tứ và cười và hỏi rằng: "Đi ngã nào cậu Tư? Cậu dắt giùm tôi đi một chút chớ. Nhà lạ ai biết đường đâu mà rờ".
Thượng Tứ đứng dậy đi trước dắt đường cho cô Tư đi theo. Cô vừa đi vừa cười và nói: "Ta đi rửa tay mà mấy người cười giống gì vậy không biết". Thượng Tứ thấy khách xầm xì thì cậu ái ngại, nên cậu chỉ chỗ cho cô Tư rửa tay rồi thì cậu lật đật bỏ đi ra trước liền. Cách một hồi, cô Tư đi ra; lúc cô tới cửa song môn thì cô dừng lại cúi đầu chào khách và nói rằng: "Tôi chào thầy thông, cô thông. Ủa! Có cô Ba đây nữa mà. Thầy cô xưa rày mạnh giỏi há, mấy cháu chơi? Thầy cô dùng cơm chiều rồi chưa? Để tôi biểu bầy trẻ nấu cơm ăn nghe?" Ai nấy nghe tiếng pha lửng mà có duyên thì cười rộ. Cô thông Hàng thừa dịp ấy cô cũng pha lửng mà đáp lại rằng: "Mợ Tư cũng mạnh giỏi há? Ờ, vợ chồng tôi chiều đi chơi, chưa ăn cơm. Như mợ có hảo tâm, thì biểu trẻ làm vịt làm gà nấu cơm cho ăn cũng tốt". Cô Tư day vô trong kêu om sòm mà nói rằng: "Bầy trẻ, có đứa nào đó coi bắt một con vịt cho thiệt mập làm thịt dọn cơm ăn nghe không bây, cho mau, tối rồi khách đói bụng đa".
Lúc ấy Hương hộ Huy với ông Ba Nở đi lại ngủ giùm, hai người bước vô tới cửa, thấy khách chộn rộn, mà lại nghe biểu dọn cơm om sòm thì chưng hửng nên đứng khựng lại đó.
Thượng Tứ nghe cô Tư với cô Thông nói chơi như vậy, nếu làm lơ thì mất lịch sự, bở vậy cậu kêu Hương hộ mà nói rằng: "Chú Hương, chú biểu con Mang coi gà vịt gì đó bắt làm thịt dọn cơm ăn chơi. Chú mượn đứa nào đó phụ làm giùm với nó cho mau".
Cô Tư cười ngất mà nói rằng: "Mấy người thấy hôn? Tôi nói hễ tới nhà tôi thì ăn gà ăn vịt mà".
Cô Ba nói rằng:
- Mầy nói bậy bạ mợ Tư mợ hay rồi mợ nổi ghen lên đây mà chết chớ.
- Đâu có. Mợ Tư có ghen hay không cậu Tư?
Thượng Tứ gặt đầu nói rằng: "Ở nhà tôi ghen lắm; bởi nó ghen nên tôi không dám đi đâu hết đó, không thấy hay sao".
Cô Tư le lưỡi rồi ngồi im, làm tỉnh mà nói rằng: "Thôi, tôi không dám nói chơi nữa. Nói bậy rủi mợ Tư rình đâu ngoài hè, mợ Tư vô mợ rượt chạy không kịp". Tuy cô mới nói cô không dám nói chơi nữa, song cô ngó quanh quất rồi cô lại hỏi Thượng Tứ rằng:
- Cậu là người tân học, mà nhà cậu ở sao dọn theo xưa quá vậy, cậu Tư? Ta mua ghế sa lông, ta mua bàn rửa mặt, ta sắm giường đồng đỏ, ta sắm ghế xích đu, cửa cái ta treo màn tụi cườm, cửa sổ ta treo màn ren hàng, ta dọn chỗ vợ chồng ngồi nói chuyện, ta sắm phòng trưa nằm đọc nhựt trình. Tôi mà ở được nhà như vầy, tôi dọn dẹp coi đúng lắm.
- Tôi cũng biết mua sắm dọn dẹp theo cô nói đó lắm chớ. Nhưng vì có hai lẽ làm cho tôi không muốn lo đến sự sung sướng tấm thân: một là vợ tôi không có ở chung với tôi, tôi phải qua lại bên Ông Văn, nên không cần phải dọn dẹp nhà cửa làm chi; hai là tôi nghĩ có nhiều người nghèo khổ, ăn không đủ cơm, ngủ không có chỗ, mình ăn ở cho thái quá mà chi.
- Té ra mợ Tư không có ở chung với cậu hay sao?
- Không.
Cô thông Hàng chen vô mà nói rằng: "Bộ khi con Tư nó muốn ở đây với cậu Tư hay sao, nên nó hỏi rút tới. Con nầy quá rồi! Hồi nãy nó nói nếu nó ở nhà cậu Tư thì nó dọn đúng lắm. Bây giờ nó hỏi tới gia đạo cậu Tư nữa. Thế con nầy nó muốn làm bé cậu Tư mà. Ủa! Mà phải đa. Hai người cũng thứ tư hết, trời khéo khiến cũng kỳ chớ".
Thượng Tứ cười và day mặt chỗ khác. Còn cô Tư thì đáp với cô Thông rằng: "Chị nói bậy bạ mất duyên tôi còn gì. Con gái mới lớn lên mà làm bé cái gì. Chị nói xui xẻo quá!".
Trong lúc chờ cơm thì mấy cô khách cứ nói pha lửng như vậy hoài; cô thông Hàng cứ kiếm lời mà cột cô Tư hết sức rồi cột cô Ba cho Thượng Tứ. Tuy Thượng Tứ cũng có lời qua tiếng lại với mấy cô, nhưng mà xét cho kỹ thì những lời cậu đối đáp, lời nào cũng ăn trợt, không có câu nào hữu tình hoặc có ý gắn vô chi hết.
Cô thông Hàng trọng tuổi, mà cô lại lịch duyệt về khoa ái tình, cô dòm thấy cử chỉ của Thượng Tứ như vậy thì cô thấy làm lạ, chẳng hiểu vì cớ nào Thượng Tứ là người ham chơi bời, có sự nghiệp, không hòa với vợ, tiu hiu một mình, mà thấy gái đẹp cậu không động tình, coi bộ bơ lơ bảng lảng.
Cơm dọn xong rồi, Thượng Tứ mời khách đi ăn. Cô Ba với cô Tư lãnh sắp chỗ ngồi, hai cô bắt Thương Tứ ngồi giữa, hai cô kềm hai bên, còn phía bên kia thì chừa cho hai vợ chồng thầy thông Hàng ngồi. Thượng Tứ liếc coi thì cô Tư ngồi bên tay mặt liến xáo, cô Ba ngồi bên tay trái nghiêm chỉnh, mà mỗi cô thiệt cũng có cái vẻ đẹp riêng. Tuy vậy mà cậu không có lộ một nét chi cho người ta hiểu ý cậu quyến luyến cô nào, cậu cứ giữ lễ, cậu nói chuyện với hai cô, cũng như cậu nói chuyện với cô thông hoặc thầy thông vậy.
Bữa cơm gần mãn thì Hương hộ Huy bước vào thưa với Thượng Tứ rằng có thầy Ban biện lên lại có một người trai ăn mặc tử tế đi theo nữa. Thượng Tứ ngó ra thì quả thiệt thấy anh ruột là thầy Ban biện Chí với người anh em bạn rể của cậu là chú Thôn Châu bước vô, thầy Ban thì mặc đồ mát, còn chú Thôn thì khăn đen áo dài.
Hai người mới tới ngó thấy cuộc tiệc như vậy thì chưng hửng. Thượng Tứ đứng dậy chào và hỏi rằng: "Hai anh ăn cơm rồi chưa? Anh Hai qua bên nây hồi nào? Qua có chuyện chi mà khuya dữ vậy?".
Chú Thôn Châu đáp rằng: "Bữa nay hai vợ chồng tôi qua thăm thầy má. Hồi tối tôi sửa soạn về, kế dì Ba âm ỷ chuyển bụng, nên má biểu tôi chạy xe luôn qua bên nây mà cho dượng hay".
Mấy lời huỡn đãi ấy gieo giữa cái tiệc vui chẳng khác nào như cục đá liện giữa bầy vịt đương lội tắm giỡn nhau dưới ao. Thượng Tứ ngẩn ngơ buông đũa, sắc mặt coi mất vẻ tự nhiên. Thầy thông Hàng với mấy cô thấy chủ nhà hữu sự, không còn lòng nào mà vui nữa được, nên và riết cho hết chém cơm rồi đứng dậy.
Thượng Tứ trình diện vợ chồng thầy thông với hai anh và mời hai anh ngồi. Cậu đi uống nước rồi chạy vô buồng mở tủ thay quần đổi áo lăng xăng. Cậu biểu anh rể cho xe ngựa về trước rồi đi xe hơi với cậu. Cậu kêu Hương hộ Huy dặn coi nhà. Cậu xin lỗi vợ chồng thầy thông Hàng và hai cô khách vì cậu có việc nên phải qua chợ Ông Văn.
Thầy thông Hàng nói rằng: "Toa có việc thì cứ sửa soạn riết cho rồi mà đi. Tụi mỏa đi chơi mà hại gì, chừng nào toa đi thì mỏa về".
Mấy cô đã mất thú mà lại có sắc xẻn lẻn, hồi nãy liến xáo, bây giờ êm ru. Lại thêm thầy Ban với chú Thôn theo ngó hoài, nên mấy cô khó chịu hết sức.
Thượng Tứ sửa soạn xong rồi mới từ biệt khách và biểu Thôn Châu ra xe hơi mà đi.
Thầy Ban biện dặn Hương hộ Huy coi biểu trẻ ở đóng cửa, rồi thay mặt cho Thượng Tứ mà đưa thầy thông Hàng với mấy cô lên xe. Chừng xe chạy rồi, thầy thông cười ngất mà nói rằng: "Xui xẻo quá! Đẻ nghiệp gì mà nhè bữa nay nó đẻ không biết! Làm mình tốn mấy đồng bạc xe, ăn được có một bữa thịt vịt, mà ăn chưa no nữa chớ".
Cô Tư nói rằng: "Thầy nói vợ chồng cậu Tư bỏ nhau rồi, bỏ giống gì mà cậu nghe nói vợ chuyển bụng cậu lính quýnh, coi bộ cậu lo quá mà kêu là bỏ. Không được đâu. Vợ chồng người ta còn thương nhau, thầy rù quến bậy bạ, phá gia cang người ta, thầy có tội chết đa".
Thầy thông cười mà đáp rằng: "Con nầy nó nói điên quá. Thuở nay làm mai dong là làm phước chớ sao mà có tội. Ngày sau tao chết, bây đóng trang mà thờ tao mới phải".
Chú thích: (1-) (tiếng Pháp écharpe): khăn quàng vai hay băng choàng vai của quan chức lớn như băng choàng của vua chúa.
Xem Tiếp Chương 14 Xem Tiếp Chương 17 (Kết Thúc)
Thượng Tứ qua tới Ông Văn thì vợ đã sanh rồi, sanh được một đứa con trai rất ngộ nghĩnh. Cậu chạy vô phòng mà thăm vợ rờ con; cậu hỏi thăm lăng xăng, coi bộ cậu thiệt là vui, mà mợ trả lời dịu ngọt, trong ý mợ cũng không hờn giận.
Con gái lớn của ông Hội đồng là cô Hai Khỏe, vợ của Thôn Châu, đã có sanh hai lần rồi, nhưng mà cả hai đứa đều là con gái. Nay cô Ba Mạnh sanh con trai thì hai vợ chồng ông Hội đồng mừng rỡ, đến nỗi ông quên cái lỗi cũ của rể nhỏ, ông không vị chút tình rể lớn, ông đứng nhìn cháu ngoại trai mà nói rằng:
"Con Khỏe không nên thân, nó đẻ thứ con gái hoài. Coi con Mạnh nó giỏi hôn ? Nó mới đẻ một lần, mà được con trai liền. Thằng nhỏ nầy tao coi tướng nó được lắm. Để tao nuôi nó lớn rồi lập tự cho nó".
Thượng Tứ đã có ý tính đợi vợ sinh sản cứng cát rồi cậu sẽ nói với cha mẹ vợ một lần nữa mà rước vợ về. Nay cậu nghe cha vợ tính bắt luôn con của cậu nữa thì cậu ngẩn ngơ, tuy cậu không dám cãi, song cậu phiền trong lòng.
Còn cô Hai Khỏe thấy cha trọng con của em hơn là con của mình thì cô cũng hờn, nên cô day mặt chỗ khác mà nói rằng: "Con nít mới đẻ, biết nó làm sao mà thầy dám nói nó được. Được giống gì ?".
Ông Hội đồng cười gằn mà đáp rằng: "Mầy giỏi đâu mầy sanh một đứa con trai như con Mạnh cho tao coi thử coi".
Cô Hai Khỏe liền xây lưng bỏ đi ra, cô không thèm nói chi nữa hết. Đến khuya, hai vợ chồng cô lên xe mà về Bình Cách.
Qua ngày sau có hai vợ chồng thầy Ban biện Chí qua thăm. Thượng Tứ đặt tên con là Trần Thượng Thọ, mời Chánh lục bộ lại lập khai sanh, vợ chồng coi rất thuận hòa, mà cha con coi cũng hiệp ý. Cậu ở luôn ba bữa, rồi nói với vợ rằng cậu bỏ nhà lâu quá không tiện, nên cậu tính về rồi mỗi bữa cậu chạy qua thăm. Cô Ba Mạnh là người kỹ lưỡng về việc nhà, cô nghe chồng nói như vậy thì cho là nói phải, nên cô cũng khuyên chồng về mà xem xét việc nhà.
Thượng Tứ sửa soạn về thì có chị là cô Ba Ngọc qua thăm. Cậu phải ở nán lại hơn một giờ đồng hồ cho chị thăm chơi rồi cậu mời chị lên xe hơi về với cậu. Xe qua tới Chợ Gạo, cô Ba Ngọc không cho đưa về nhà, cô biểu chạy luôn lên Mỹ Hội đặng cô thăm thầy Ban biện.
Về tới thầy Ban biện thì đồng hồ vừa đúng 3 giờ chiều. Thượng Tứ cũng ghé lại đó mà chơi với chị một lát.
Thầy Ban biện thấy có đủ hai em thì thầy mừng, nên hai em vừa mới ngồi thì thầy nói rằng: "Hổm nay qua có ý trông thằng Tư về đặng qua nói chuyện. Bữa nay nó về mà lại có con Ba nữa, thiệt là may quá".
Cô Ba Ngọc nghe nói có chuyện thì cô muốn biết cho mau, nên hỏi rằng:
- Anh muốn nói chuyện gì đó ?
- Chuyện của thằng Tư đây.
- Chuyện thằng Tư là chuyện gì chớ ?
- Thủng thẳng vậy mà. Hôm trước con Tư chuyển bụng. Bác Hội đồng biết xử phải, nên bác sai anh em bạn rể nó, là Thôn Châu, chạy qua kêu nó. Thôn Châu qua ghé đây trước. Qua nghe tin lật đật dắt Thôn Châu lên trển đặng hối nó đi cho mau. Con Ba, em biết qua với Thôn Châu đến đó thấy giống gì hay không ? Bước vô nhà thì thấy thằng Tư đương đãi tiệc, nó ngồi giữa, hai bên kềm hai cô nho nhỏ, mặt dồi phấn, môi thoa son, còn phía bên kia thì hai vợ chồng thầy thông Hàng, mấy cô ăn uống giởn trững om sòm. Chớ chi qua gặp một mình qua thì không hại gì, ngặt có Thôn Châu sờ sờ đó nên qua sượng trân, không biết nói sao được hết.
Cô Ba Ngọc nghe rõ chuyện rồi thì cô ngó Thượng Tứ mà nói rằng: "Trời ơi, em chơi như vậy em không sợ mang tiếng hay sao, Tư ? Em có vợ chớ phải tay không chưn rồi hay sao mà em làm lộng như vậy ? Chú Thôn Châu chú gặp đây đố khỏi chú học đi học lại thấu tai con Tư rồi sanh rầy cho mà coi. Qua nhớ hôm trước em thuật chuyện thầy thông Hàng làm mai làm mối cho em thì qua đã có nói thẩy là người không tốt, sao em còn gần thẩy làm chi nữa ? Qua dám chắc, em nghe lời vợ chồng thẩy, em chơi bời như vậy đó thì gia đạo em phải hư hết".
Lúc thầy Ban biện thuật chuyện thì Thượng Tứ ngồi cười, mà đến chừng cô Ba Ngọc khuyên dứt, thì cậu cũng không cãi. Cậu đợi anh chị nói hết rồi cậu mới trả lời rằng: "Phải, chuyện anh Hai thuật đó thiệt có y như vậy chớ anh Hai không có thêm bớt chút nào hết. Mà chị Ba nghe rồi chị Ba rầy em, thì cũng đáng lắm. Nhưng mà em xin tỏ cho anh chị biết rằng cái việc đó bề ngoài coi thì em quấy lắm, song bề trong xét lại em không có lỗi gì. Khi má mất rồi, em nhờ chị Ba vạch giùm con mắt cho em, nên em thấy tánh tình của vợ chồng thầy thông Hàng. Mấy tháng nay em sợ thẩy lắm, em tránh xa, em không dám tới nhà thẩy. Hôm tháng hai, thẩy có xuống nhà thăm em một lần. Em nhơn dịp lên chợ mà trả bạc cho Chà và, em đưa thẩy về. Thẩy mời quá, nên em ghé nhà thẩy. Em ghé lần đó là lần chót. Vợ chồng thẩy cho một cô ra bẹo em, tưởng em như hồi trước, tè ra em hiểu ý rồi, em không thèm ngó ngàng tới, coi bộ vợ chồng thẩy mắc cở. Xưa rày em tưởng thẩy bỏ em rồi, nào dè thẩy còn muốn cạo đầu em nữa, thẩy chưa chịu thôi, nên hôm đó vợ chồng thẩy làm bộ mướn xe hơi đi hứng gió chiều, lại có dắt theo hai cô nữa. Thẩy thấy em đứng ngoài cửa ngõ, thẩy ngừng xe lại, mà em chắc dầu không có em đứng đó thẩy cũng ghé. Thẩy mừng rỡ, tỏ ý muốn vô nhà thăm em. Mình là người biết điều, lẽ nào mình cản không cho người ta vô nhà. Em mời vợ chồng thẩy vô, tự nhiên hai cô kia phải vô theo. Vô nhà rồi, họ mưu sự túc gáy đòi ăn cơm. Anh chị nghĩ lại mà coi, khách người ta đòi như vậy, lẽ nào mình là chủ nhà, mình nói hết gạo hay sao ? Em phải ép bụng biểu làm vịt làm gà dọn mà đãi họ một bữa.
Chuyện thiệt như vậy đó chớ có gì đâu. Phải, người ngoài dòm vô thì cũng tưởng em dắt mèo chuột về nhà ăn uống vui chơi, mà kỳ thiệt thì không phải như vậy. Em không để ý đến mấy cô đó một chút nào hết. Mấy cổ pha lửng, thì em cũng phải pha lửng lại, đặng mấy cổ khỏi khi em là đứa ngu vậy thôi. Em hiểu tư cách, thái độ của mấy cô đó hết. Hạng người như vậy em biết chán rồi, em gần làm chi. Huống chi lửa ái tình của em đã tắt rồi, có phải mấy cô như vậy đó mà nhúm lại được hay sao, nên chị sợ em mê sa mà hư gia đạo".
Cô Ba Ngọc là một người đàn bà được hưởng thú đầm ấm trong đạo cang thường, còn Ban biện là một đàn ông chơn chất, từ nhỏ chí lớn thầy chưa lội vào biển tình lần nào, hai người không rõ tâm sự của em, thấy em đã có vợ rồi mà còn gần gũi với đàn bà khác thì đề quyết là em lỗi niềm phu phụ, bởi vậy em nói giọng nghe rất thành thiệt, nhưng mà hai người không tin một chút nào hết. Cô Ba Ngọc đợi Thượng Tứ nói dứt lời rồi cô cười mà đáp rằng:
- Em nói nghe thiệt xuôi rót. Ai đời đàn ông con trai chơi bời với đàn bà con gái mà nói rằng không có ý gì chớ. Nói như vậy ai mà tin cho được.
- Em cũng biết khó cho chị tin lắm, mà dầu vợ em hay là người nào khác họ nghe em nói họ cũng không tin được. Họ không tin là vì họ không biết chuyện em, họ không thấu lòng em. Em nói thiệt với chị, thuở nay có hai cô gây mối ái tình cho em mà thôi, mà ái tình ấy bây giờ hết hy vọng, vì hai cô đã có chồng rồi hết, lại một cô là vợ của một người bạn thiết của em. Tại như vậy nên hồi nãy em nói lửa ái tình của em đã tắt rồi, em coi đàn bà con gái khác không có nghĩa gì hết.
- Em nói kỳ quá ! Vậy chớ vợ em đó, em không có tình gì với nó hay sao ?
- Thiệt không có tình gì hết, có cái nghĩa vợ chồng mà thôi. Cái nghĩa ấy gây ra là bởi cha mẹ cầm trầu cau cưới nó cho em, nó kêu má em bằng má, nó chịu tang chế cho má em, nó đẻ con cho em. Nhờ mấy điều ấy nên gây được chút đỉnh nghĩa đó, chớ nếu không có như vậy thì em không biết vợ chồng em ra làm sao.
- Em nói khó nghe lắm. Vợ chồng sao lại không có tình.
- Em không hiểu vợ chồng người ta có tình với nhau hay không, chớ vợ chồng em khó nói có tình được lắm.
- Em đừng có nói như vậy. Em có vợ như con Tư đáng gọi là có phước đa em. Tuy nó còn nhỏ mà việc nhà giỏi giắn, ăn nói nhỏ nhoi, tánh nết hiền lành, cử chỉ đằm thắm, vợ như vậy chớ đợi sao nữa em mới thương nó. Vợ chồng ở với nhau có con rồi, em đừng có xao lãng không nên.
- Không. Em có xao lãng chi đâu. Tại chị nói, nên em cắt nghĩa cho chị nghe mà thôi chớ. Tuy em nói vợ chồng em không có tình với nhau, song em có tính việc phân rẽ bao giờ đâu mà chị sợ. Mấy tháng nay chị không thấy em hay sao ? Vợ chồng em mà ở mỗi đứa một nơi là tại ai, chớ nào có phải tại em. Anh Hai có thấy tận mặt, em năn nỉ hết sức, mà ông gia em ổng không động lòng, còn vợ em nó cũng không dám trái ý cha mẹ, tại như vậy nên vợ chồng lôi thôi, chớ có phải em bỏ vợ em đâu.
Thầy Ban biện thấy cậu chỉ thầy mà phán chứng nên thầy nói rằng: "Thiệt, bác Hội đồng làm cha mẹ, bác có gắt gao một chút. Bác không biết xét cho con rể. Thằng Tư nhà cửa ruộng đất chàm nhàm mà bác cứ buộc nó phải về bển mà ở. Về làm sao được ? Bác cố chấp quá như vậy tự nhiên vợ chồng nó phải xa nhau. Thiệt, việc vợ chồng thằng Tư mà ngày sau có lôi thôi là tại bác Hội đồng, chớ không phải tại nó".
Thượng Tứ thỏ dài mà nói rằng: "Cũng tại con vợ của em nữa. Nếu nó biết nghĩ đến phận em, nó về bên nây mà giúp đỡ việc nhà cho em, thì ai cản nó được. Mà thôi, tại hồi đi nói vợ má em giao kết lỡ rồi, bây giờ em không phép trách ai hết".
Anh em nói chuyện với nhau cho đến chiều mà thầy Ban biện với cô Ba Ngọc cũng không hiểu tại sao Thượng Tứ nói vợ chồng không có tình với nhau, còn Thượng Tứ cũng không biết nói thế nào cho anh chị hiểu được. Thượng Tứ ăn cơm chiều rồi mới về trên nhà, còn cô Ba Ngọc thì ở lại đó mà ngủ đặng sáng cô đi lên Mỹ Tho mua đồ rồi cô sẽ về Chợ Gạo.
Từ ấy về sau, mỗi bữa Thượng Tứ đều có chạy xe qua thăm vợ con, khi ở giây lát, khi ở chơi đến tối mới về. Cậu qua như vậy cho đến ăn đầy tháng cho con rồi cậu mới huỡn huỡn năm ba bữa qua thăm một lần. Cậu tính thầm trong trí để đợi 3 tháng cho vợ con thiệt cứng cát rồi cậu sẽ xin rước hết vợ con về Mỹ Hội.
Thượng Tứ tính đợi tới 3 tháng lâu quá, bởi vì có người khác tính làm cho vợ cậu phải về nhà cậu mau hơn kìa.
Số là hôm bữa cô Ba Mạnh đẻ, ông Hội đồng mừng rỡ, ông hủy bạc cô Hai Khỏe, rồi ông tỏ ý muốn nuôi thằng nhỏ đặng ngày sau ông lập tự cho nó. Cô Hai Khỏe lộ sắc bất bình liền hồi đó, mà chừng lên xe đi về Bình Cách, cô cằn nhằn với chồng rằng: "Tôi không dè con Mạnh khốn nạn như vậy. Nó ở trong nhà một mình, nó theo òn ỷ làm cho thầy má yêu nó đặng đoạt hết gia tài mà ăn một mình. Mình thấy chưa ? Chưa gì mà thầy đã tính nuôi con của nó đặng ngày sau lập tự. Vì thầy cưng nó nên coi bộ thầy thương con của nó hơn là con của mình".
Thôn Châu đáp rằng:
- Dì Ba là con út, tự nhiên thầy má cưng chớ sao. Vậy chớ mình không nghe người ta nói giàu út ăn, khó út chịu hay sao ?
- Con nào cũng con, chớ sao đứa thì thương, còn đứa thì ghét.
- Mình không hiểu. Tại dì Ba có chồng, mà chồng thì không thương dỉ cho lắm, nên thầy má phải thương bù, biết hôn ?
- À ! Nói tới chuyện đó nghe còn khốn nạn hơn nữa. Mấy năm trước nó ao ước lắm, ham lấy chồng học trò nhà trường, bận đồ Tây coi gọn gàng, nói tiếng Tây nghe lốp bốp, nó chê làng xã là quê mùa. Nó gặp ông học trò đánh chưởi nó như vậy đó cho sáng con mắt nó ra. Đáng kiếp lắm !
- Dượng Ba học hành tài năng tới bực nào tôi không biết, mà tôi thấy cách dưởng chơi bời tôi chạy ngay.
- Chơi bời xài phá dữ lắm mà. Con Mạnh cầm chìa khóa, tiền bạc thiếu gì. Dại gì mà không xài.
- Dưởng chơi thả cửa không sợ mang tiếng mang tăm gì hết. Mình biết hôm tôi qua kêu dưởng tôi gặp việc gì hôn ?
- Gặp giống gì ?
- Gặp dưởng đương vui chơi với mèo(#1). Dưởng rước ba bốn con về nhà, con nào con nấy bóng ngời. Tôi bước vô thì thấy dưởng đương ăn uống say sưa ngả ngớn với mấy con đó, coi thiệt ghê quá !
- Đồ như vậy đó mà thầy thương nó lắm, mới đẻ con đỏ lói mà thầy khen tướng tốt, thầy tính nuôi đặng nữa lập tự cho nó cúng quảy nối giòng. Hứ ! Nghĩ mà tức cười.
- Mình nói chi cho sanh rầy. Thầy làm sao thầy làm. Tại phần số mình không có con trai thì mình phải chịu ẹp, chớ nói giống gì được.
- Con trai làm chi, mà con gái lại sao ? Con trai của con Mạnh đó ngày sau nó cũng như thằng cha nó, xài tiền phá của chớ nên thân gì. Không được. Tôi phải làm sao, chớ tôi không chịu để gia tài của cha mẹ tôi cho quân đó ăn hết đâu.
Thôn Châu nghe vợ nói mấy lời châm hẩm như vậy thì thỏa ý nên tuy không dám xúi vợ, song cũng không chịu can. Thái độ của chú Thôn nầy là thái độ của thiên hạ xưa nay, trọng lợi hơn nghĩa, coi tiền tài hơn danh dự, có chi trái đời đâu mà sợ người ta dị nghị.
Cô Hai Khỏe về nhà lo liệu hoài, không biết làm thế nào mà đuổi mẹ con cô Ba Mạnh ra cho xa cái tủ sắt của cha mẹ. Cô muốn trở qua làm rầy, lại sợ nỗi cha mẹ binh con út mà ghét thêm con lớn nữa. Cô tính không ra kế, nên buồn hiu ăn ngủ không được.
Thôn Châu là người quỉ quyệt; anh ta nghĩ hái trái cấy phải đợi chín muồi rồi mới nên hái, bởi vậy anh ta để cho vợ buồn rầu mấy bữa, chừng coi hiệp thời rồi anh ta mới cười mà nói rằng: "Chuyện nhỏ mọn quá mà buồn giống gì. Tưởng là làm việc chi kìa, chớ nếu muốn cho dì Ba nó không ở trong nhà thầy má nữa thì có khó gì lắm. Mình đem chuyện dượng Ba dắt mèo chó về nhà, y như lời tôi nói với mình hôm trước đó, mình thuật lại chi dì Ba nghe; dỉ nổi ghen lên, bồng con đi về bên Mỹ Hội mà ở liền chớ gì".
Cô Hai đắc kế rồi, cô hết buồn rầu nữa; cô tính đợi vài tháng cho cô Ba Mạnh cứng cát rồi cô sẽ qua châm chích y như chước của chồng cô bày.
Cô Ba Mạnh đẻ đã được hai tháng rưỡi rồi. Thượng Tứ qua thăm, bồng con, nựng nịu, cậu mới về Mỹ Hội hồi trưa, thì chiều lại có cô Hao Khỏe ở Bình Cách qua liền.
Cô Hai Khỏe bước bước vô nhà chào hỏi cha mẹ rồi cô đi thẳng vô buồng mà kiếm mẹ con cô Ba Mạnh. Lúc ấy cô Ba Mạnh đương bồng con cho bú. Cô thấy chị về thì cô mừng rỡ hỏi thăm lăng xăng. Cô Hai Khỏe xớt bồng thằng nhỏ mà hun và nói rằng: "Mẹ kiếp nó, hổm nay lâu về, nay thấy nó trọng cảy(#2). Cha nó có qua hôn ?" Cô Ba Mạnh đáp rằng:
- Qua hoài. Bữa nay cũng có qua, mới về hồi trưa đây.
- Em tính bữa nào em về bển ?
- Cha nó tính đợi đầy 3 tháng rồi sẽ rước.
- Ờ, về bển mà ở chớ. Vợ chồng có con rồi, ở một người một nơi sao được.
- Chắc thầy má cho về ở chơi ít bữa, chớ đương(#3) cho ở luôn bển đa.
- Cho hay là không lại hại gì. Em ở luôn bển rồi thầy má giết em hay sao ?
- Dễ được đâu! Hồi trước kia còn không cho thay, bây giờ có thằng nhỏ nầy, thầy cưng như trứng mỏng, cầu về chơi vài bữa mà sợ thầy không cho đi, lựa là tới ở luôn bển.
Cô Hai Khỏe nghe nói như vậy thì cô không vui. Cô trả thằng nhỏ cho cô Ba Mạnh, cô móc túi lấy gói trầu ra mà ăn và nói rằng: "Thầy má làm như vậy sao phải. Ai có con lại không thương, nhưng mà thương rồi làm cho con phân rẽ vợ chồng hay sao. Không có được. Đã biết làm con thì phải nghe lời cha mẹ, mà nghe lời theo chuyện chớ nếu em nghe như vầy thì hại cho em lắm đa, nói cho em biết. Qua đã thấy mòi rồi, nên qua mới nói giùm cho em đó".
Cô Ba Mạnh châu mày hỏi rằng: "Sao mà hại ? Chị thấy mòi gì ở đâu ?". Cô và hỏi và ngó chị trân trân. Cô Hai Khỏe ngồi nhai trầu nhóc nhách, cô ngó sững ra ngoài cửa sổ, rồi cô thở ra mà đáp rằng:
- Nói ra thì em buồn, chớ nói mà ích gì.
- Chị có việc gì cứ nói thiệt cho em nghe mà. Có chi đâu mà buồn.
- Vì tình chị em, nên chị nói riêng cho em biết. Em ở bên nầy hoài, em để thẳng ở bển có một mình, chị sợ nó hư. Nó chơi bời tự do quá.
- Phải, ở nhà em hồi trước chơi bời lắm. Từ ngày má em ở bển mất thì thề thốt hứa chắc không chơi bời nữa, để lo làm ăn.
- Thề mớ mốc xì ! Đàn ông con trai họ thề mà nghĩa gì ! Em tin lời thề đó, em mất chồng đa, nói cho em biết.
- Từ hôm em đẻ đến nay qua bên nây ngày một, em coi không có ý gì mà.
- Nó làm bộ, em tin mà lầm ! Em biết bữa em chuyển bụng, anh Hai em qua kêu nó, anh Hai em gặp giống gì hay không ? Quá lắm, nó đương ăn uống vui chơi với ba bốn con mèo, con nào con nấy cũng lịch sự hết thảy. Qua hỏi lại thì xưa rày nó chơi thả cửa mà, mèo chó dập dều, ăn dần nằm dề trong nhà, bây giờ bác gái mất rồi, nó còn kiếng nể ai nữa. Nó lấy đứa nào nó cũng sắm đồ năm bảy trăm, mà năm ba đứa như vậy, chớ phải một đứa hay sao. Em ở riết bên nây chừng một năm nữa chắc thẳng nó bán ruộng đất hết. Vây em phải liệu coi, chớ nếu em nghe lời thầy má em ở hoài bên nây thì hại cho em lắm. Qua lại nghe nói trong đám mèo chó tới lui đó, nó yêu có một con hơn hết. Con ấy ở Mỹ Tho. Nó đương tính làm hôn thú bực nhì đặng đem con đó về ở trong nhà. Ta nói thứ đàn ông hễ họ xa vợ thì họ như vậy đó, bởi vậy lần nào qua về thăm nhà, qua có chịu ở lâu đâu.
Cô Ba ngồi nghe chị nói, mặt cô buồn hiu, song gượng cười mà đáp rằng:
- Ối ! Làm giống gì có sức thì làm. Tôi lo nuôi con tôi mà thôi; tôi không cần.
- Con nầy điên sao chớ ! Giống gì mà không cần ? Có chồng mà nói chuyện gì nghe lôi thôi vậy ?
- Vậy chớ họ không cần mình, dại gì mà cần họ.
- Có cái gì đâu nên phải cần hay là không cần. Đời nầy thiên ha yêu quỉ lắm. Mình có chồng thì phải giữ chồng, chớ hễ để hở thì họ giựt. Bây giờ em có con rồi, em phải lo gia đạo em chớ, để cho thẳng có vợ bé vợ mọn ngộ lắm hay sao ?
- Em cầu cho họ có vợ bé kia. Có như vậy em khỏi tính việc về bển nữa.
- Em nói nghe kỳ quá. Thẳng có ruộng đất nhiều, có nhà cửa tử tế, chớ phải nghèo hèn gì hay sao. Em làm chủ cái sự nghiệp như vậy thì sung sướng quá, dại gì đi giận lẩy mà để cho thứ đồ tầm bậy nó hưởng.
- Chị tưởng em màng ruộng đất nhà cửa đó lắm hay sao ? Con người ta ở đời phải cùng không chớ thứ đồ đó mà quí gì. Em không có ham đâu.
- Phải, em ỷ cha mẹ giàu, bề nào em cũng có thiếu gì tiền bạc mà lo, chị hiểu mà.
- Chị đừng có nói như vậy. Không phải tại như vậy đâu.
- Vậy chớ tại giống gì mà em cứ đeo ở nhà hoài, em không chịu về bên chồng ?
- Từ hồi trước tới bây giờ, thầy má không cho em về bển. Mà từ nầy về sau dầu thầy má đuổi về bển, em cũng không chịu đi nữa.
Cô Hai Khỏe đứng dậy bỏ đi ra, cô và đi và nói rằng: "Thôi, ở đây đặng mà ăn cho nhiều".
Cô thấy chước của chồng bày đã không thắng mà lại làm cho cô Ba Mạnh giận, không thèm về nhà chồng nữa, thì cô bối rối không biết liệu lẽ nào. Cô buồn xo, đến chiều ăn cơm cô ăn cũng không được. Tuy vậy mà tánh tình ghen gổ của cô nó làm cho cô bứt rứt, không thế bỏ qua chuyện nầy được, nên tối lại cô thỏ thẻ nói với ông Hội đồng, cô đem sự Thượng Tứ dắt mèo chó về nhà, và tính cưới vợ bé mà thuật lại cho cha nghe. Cô thêu dệt nhiều chuyện, tính làm cho cha sợ con rể rã rời, nên lúc tóm lại cô nói rằng: "Thầy phải biểu con Mạnh về bển nó ở, chớ nếu cầm nó ở bên nây hoài, đố khỏi vợ chồng nó xa nhau". Chẳng dè ông Hội đồng cũng như cô Ba Mạnh, ông nghe nói Thượng Tứ chơi bời thì ông nổi giận trợn mắt nói rằng: "Tao đã nhứt định không cho con Mạng về ở bển. Tưởng là thằng chồng nó tử tế thì tao còn cho qua lại, nếu nó sanh sự thì tao bặt luôn, có cần gì. Nó muốn cưới vợ khác thì cưới. Con tao thì tao bắt lại. Cháu tao thì tao nuôi. Ai làm sao được. Nó có giỏi thì lên Tòa mà kiện. Tao đi hầu, tao sẽ kể chuyện của nó cho quan Tòa biết".
Cô Hai Khỏe nghe vậy thì cô càng thêm giận, song cô không biết nói sao được, nên sáng bữa sau cô bỏ đi về Bình Cách.
Từ ấy về sau, Thượng Tứ qua, cô Ba Mạnh đã không vui như trước nữa, mà cô lại có ý lánh mặt, giận không chịu nói chuyện với chồng. Thượng Tứ dòm thấy cử chỉ của vợ như vậy thì cậu lấy làm kỳ, song cậu không nói ra, đợi đủ ba tháng cậu sẽ xin rước về bển coi vợ nói thế nào.
Cô Ba Mạnh đẻ đã giáp ba tháng rồi, cô thì mạnh mẽ, còn con của cô thì cứng cỏi lắm. Một buổi sớm mới, cửa ngõ vừa mới mở, gà trong chuồng vừa mới thả ra thì thấy xe hơi của Thượng Tứ qua. Thượng Tứ bước vô, thấy cha mẹ vợ đương ngồi trên ván mà uống nước trà, còn vợ thì đương ngồi một bên, con nằm lòi chòi gần đó. Cậu bước lại nắm cườm chưn của con mà nựng; vợ liền bỏ đi xuống nhà dưới, coi bộ như không vui mà thấy chồng đụng đến con mình.
Thượng Tứ lấy làm buồn nhưng cậu mỉm cười rồi bước lại đứng trước mặt cha mẹ vợ mà thưa rằng: "Thưa thầy má, vợ con nay đã cứng cát rồi. Vậy con xin thầy má cho phép con rước về bển mà ở đặng phụ coi trong coi ngoài với con, chớ con ở một mình khó quá".
Ông Hội đồng châu mày đáp rằng:
- Mầy mà cần gì vợ con. Rước vợ đặng mầy đánh chưởi nó chớ rước làm giống gì.
- Thưa thầy, con đâu có dám vậy nữa.
- Mầy mà không dám !
- Thưa thầy, hồi trước con khờ dại nên con không biết trọng vợ, mà lại làm lỗi với thầy má nữa. Từ ngày má con mất rồi thì con ăn năn lắm. Con lo làm ăn, lo sửa tánh nết, không dám chơi bời nghinh ngang như hồi trước nữa. Vợ con nó cũng biết chuyện ấy chớ chẳng không.
- Trời ơi ! Mầy mà lo làm ăn ? Mầy mà không chơi bời nữa ? Mầy khinh khi tao quá, nên mầy mới nói như vậy. Phải, mầy không đi chơi nữa. Nhà cửa có sẵn, bây giờ mầy làm chủ, đi đâu làm chi cho mất công, rước mèo về nhà chơi không tiện hơn hay sao ?
- Thưa thầy, con đâu có làm như vậy.
- Cũng còn chối ! Vậy chớ bữa vợ mầy chuyển bụng, tại sao anh Hai mầy qua kêu mầy, không phải nó gặp mầy ăn uống vui chơi với ba bốn con mèo trong nhà hay sao ?
- Thưa thầy, chuyện con ăn uống thì có. Nhưng mà mấy người ấy là khách quen đến thăm con, chớ có phải mèo chó gì đâu.
- Ờ, khách quen ! Thôi, nói bấy nhiêu đó đủ hiểu rồi. Còn mầy cưới vợ bé rồi, mầy còn rước con tao chi nữa ?
- Thưa thầy, con có vợ bé hồi nào đâu ?
- Ờ, cũng chối há ! Tao nói cho mầy biết, tao không muốn mầy bước chưn tới nhà nầy nữa. Đừng có mong rước vợ con mất công. Tao không cho đâu. Mầy có giận tao, mầy kiện tới đâu mầy kiện đi. Tao sẵn lòng đi hầu.
Thượng Tứ chưng hửng, đứng ngó cha vợ trân trân, không nói được một tiếng chi nữa hết. Thằng nhỏ nằm chòi rồi khóc hoé lên. Cô Ba Mạnh ở phía nhà sau chạy lên bồng con. Thượng Tứ thấy vợ thì day qua hỏi rằng: "Bữa nay tôi qua thưa với thầy má mà rước mình. Thầy đã không cho rước, mà lại cấm không cho tôi tới nhà nầy nữa. Trước khi tôi về, tôi muốn biết coi bụng mình ra thể nào. Vậy mình muốn về bển mà ở hay không, xin mình nói một tiếng trước mặt thầy má đây cho tôi biết, đặng cho tôi về".
Cô Ba Mạnh bồng con, day mặt vô cây cột và khóc và nói rằng: "Tôi với mình không thế ở đời với nhau được. Thôi, mình có tính cưới vợ khác thì cưới đi đặng vui chơi cho sung sướng. Không còn vợ chồng gì nữa đâu mà lui tới". Cô nói dứt lời liền bồng con đi vô buồng, nước mắt nước mũi chàm ngoàm. Thượng Tứ đứng ngó theo, cậu cũng ứa nước mắt.
Theo hồi trước thì chắc Thượng Tứ không thế không nói mích lòng cha mẹ vợ được. Bây giờ cậu đã thấy việc đời chút đỉnh, cậu đã sửa tánh được bộn rồi, bởi vậy cha vợ nói như vậy, rồi vợ lại nói như vậy nữa, mà cậu không nổi nóng, cậu lấy khăn lau nước mắt và chẫm rãi nói với ông Hội đồng rằng: "Bây giờ con mới thấy rõ vợ chồng cưới nhau vì tiền bạc ruộng đất, vì đương môn đối hộ, chớ không vì nghĩa tình, thì không có tình nghĩa mà ở đời với nhau được. Nhưng mà theo phận của con đây, con lại còn thấy vợ chồng con xa nhau cũng có tại cha mẹ hết một phần trong đó nữa. Con nói như vậy, không phải là con dám trách cha mẹ. Có lẽ tại trời khiến như vậy cũng không biết chừng. Thôi, số con làm rể của thầy má được có một năm mà thôi, thì con cũng cam lòng, chớ con không dám phiền trách chi hết. Vậy con xin gởi vợ con của con cho thầy má nuôi giùm. Chúc thầy má bên nây mạnh giỏi".
Thượng Tứ nói dứt lời rồi xá cha mẹ vợ mà bước ra.
Bà Hội đồng lấy khăn lau nước mắt, chừng bà nghe tiếng xe chạy ra cửa ngõ, bà mới nói rằng: "Ông nó nóng quá ! Việc con rể để thủng thẳng ta coi đi coi lại. Mới nghe con Khỏe nói đó, thì ông bứt liền. Ông làm như vậy, tôi sợ ngày sau ông ăn năn chớ. Tôi coi ý con Khỏe nó ganh, nó không muốn cho con Mạnh ở trong nhà nầy, nó sợ con Mạnh chuyên hết của đi, nhứt là từ hôm ông nói để ông nuôi thằng nhỏ của con Mạnh đặng ngày sau ông lập tự, thì con Khỏe nó ghét lắm. Không biết chừng nó bày chuyện đặng vợ chồng con Mạnh xào xáo chơi. Sao ông vội tin lắm vậy ? Vợ chồng nó có con rồi, ông dễ rứt ra được hay sao ? Ông làm lếu quá".
Ông Hội đồng ngồi gãi đầu ngó ra ngoài sân, ông không nói chi hết, mặt ông có sắc lo.
Chú thích: (1-) bạn gái, bồ, nhân tình (2-) to lớn (3-) không bao giờ
Xem Tiếp Chương 15 Xem Tiếp Chương 17 (Kết Thúc)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro