Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Con đường của Phật (Tập 9)

OSHO

Dhammapada: Con đường của Phật

Đây là con đường đi tới chân lí tối thượng

The Dhammapada: The Way of the Buddha

This is the Path to the Ultimate Truth

Tập 9

Mục lục

1 Cảnh giác

2 Có sống trước chết không?

3 Chư phật chỉ trỏ đường thôi

4 Tự do là cái gì đó bên trong

5 Rủi ro là đáng nhận

6 Chân lí không thể bị mất

7 Nó ngọt làm sao

8 Bản chất của mọi sự

9 Khỉ trong rừng

10 Người thông minh là nguy hiểm

Về Osho

Bài nói ngẫu hứng cho các đệ tử và bạn bè của Osho tại Thính phòng Phật Gautam Poona, Ấn Độ

*************************************************************************************************************

#1 Cảnh giác

Vì nếu trong từ bỏ của mình

Ông coi thường và nuốt lời,

Nếu mục đích của ông lung lay,

Ông sẽ không thấy ánh sáng.

Làm điều ông phải làm

kiên quyết, bằng cả tấm lòng.

Lữ khách ngần ngại

chỉ tung bụi trên đường.

Không làm gì là tốt hơn

làm điều sai trái.

Vì bất kì cái gì ông làm, ông làm cho bản thân

mình.

Như thị trấn biên giới được canh gác cẩn mật,

Canh gác bản thân ông bên trong và bên ngoài.

Không để một khoảnh khắc trôi qua

sợ rằng ông rơi vào bóng tối

Cảm thấy xấu hổ chỉ ở nơi xấu hổ là nghĩa vụ.

Chỉ sợ cái đáng sợ.

Thấy cái ác chỉ trong cái là ác.

Sợ ông sai con đường đúng

và rơi vào trong bóng tối.

Thấy cái đang có.

Thấy cái không có.

Theo đường đúng.

Vươn lên.

Phật Gautama đã cho thế giới một tôn giáo mang

tính tâm hồn nhất. Nó là vô song; ngay cả các tôn giáo

khác đều không tới gần được điều đó. Chiều cao của

nó, chiều sâu của nó, là vô cùng. Và lí do tại sao Phật

đã thành công trong việc cho tầm nhìn đẹp thế về cuộc

sống là rất đơn giản: ông ấy đã không tin; ông ấy truy

tìm, ông ấy thám hiểm. Ông ấy đã không tin vào

truyền thống, ông ấy đã không tin vào kinh sách, ông

ấy đã không tin vào tu sĩ.

Đây là một trong những nền tảng của ông ấy: rằng

chừng nào bạn chưa biết, bạn không biết. Bạn có thể

vay mượn tri thức, bạn có thể trở nên thông thái, biết

nhiều, là học giả, bác học, giáo sư, nhưng bạn sẽ

không là người thấy. Sâu bên dưới dốt nát sẽ còn dai

dẳng và sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của bạn. Sâu bên

dưới bạn sẽ vẫn còn là cùng cái ta ấu trĩ, chưa chín

chắn, không được bắt rễ, không được định tâm, không

được tích hợp. Bạn sẽ không là cá nhân, bạn sẽ không

có sự đích thực nào. Bạn sẽ giả, rởm, giả mạo

Nó là bước nhảy lượng tử vào cái không biết. Khi

bạn không tin vào truyền thống, khi bạn không tin vào

kinh sách, khi bạn không tin vào bất kì cái gì ngoại trừ

kinh nghiệm riêng của bạn, bạn đang đi vào trong cái

không biết tất cả đều một mình. Điều đó cần bạo dạn,

điều đó cần dũng cảm. Và chỉ người dũng cảm mới có

thể có tính tôn giáo thực sự.

Kẻ hèn nhát có đó trong nhà thờ, trong đền chùa,

trong nhà thờ Hồi giáo, có cả triệu, nhưng họ không

tạo ra cái đẹp tôn giáo nào, hương thơm tôn giáo nào

trên thế giới này. Họ không làm cho thế giới đẹp hơn,

sống động hơn, nhạy cảm hơn. Họ không tạo ra cái gì.

Họ chỉ làm những nghi thức, thánh lễ. Bản thân họ

chết và họ cứ lừa người khác; bản thân họ bị lừa.

Tri thức vay mượn tạo ra lừa dối lớn bởi vì bạn bắt

đầu cảm thấy dường như bạn biết - và cái "dường như"

đó là cái "dường như" lớn.

Chân lí giải thoát, tin tưởng gây mù. Chân lí giải

thoát bởi vì nó phải là của bạn; nó phải là kinh nghiệm

bên trong, sự đương đầu với cái đang đó.

Phật là người không tin. Ông ấy không là người vô

thần như Karl Marx hay Friedrich Nietzsche; ông ấy

cũng không là người hữu thần như tất cả các tu sĩ của

mọi tôn giáo. Ông ấy là người không thể biết được.

Ông ấy không tin mà cũng không không tin; ông ấy

mở. Đó là món quà vĩ đại của ông ấy cho thế giới: mở

với chân lí.

Đi hoàn toàn trần trụi, không có kết luận nào,

không có ý thức hệ nào, định kiến nào. Bằng không có

mọi khả năng là bạn sẽ phóng chiếu ý tưởng riêng của

bạn. Bạn sẽ không thấy cái đang đó, bạn sẽ chỉ thấy cái

bạn muốn thấy. Bạn sẽ tạo ra thực tại riêng của mình

điều nhất định là giả. Thực tại phải không được bịa ra,

nó phải được khám phá ra. Nó đã có đó rồi. Và nhớ, nó

không phải là thực tại bị giấu kín, chính đôi mắt của

bạn bị che phủ bởi tầng tầng bụi.

Phật đã cho thế giới một tôn giáo phi siêu hình, tôn

giáo tâm hồn. Ông ấy đơn giản giúp bạn vượt ra ngoài

tâm trí. Ông ấy giúp bạn hiểu tâm trí bởi vì chính chỉ

qua hiểu biết mà điều siêu việt xảy ra.

Nhưng khi tôi nói rằng Phật đã cho thế giới tôn

giáo tâm hồn nhất, đừng hiểu lầm tôi. Ông ấy đã không

cho tâm lí; ông ấy đã cho tôn giáo tâm hồn, điều là

hiện tượng hoàn toàn khác. Ông ấy đã không cho tâm

lí như Sigmund Freud, Carl Gustav Jung, Adler,

Pavlov, Skinner, vân vân. Những người này bị giới

hạn vào tâm trí; họ nghĩ tâm trí là tất cả. Không có gì

bên ngoài tâm trí, cho nên phân tích tâm trí thôi. Nếu

bạn đã tìm thấy tâm trí bạn đã tìm thấy chân lí, theo

họ. Đó là bắt đầu với thái độ sai.

Con người không là thân thể không là tâm trí. Con

người là nhận biết bên trong, cái có thể nhìn vào thân

thể, cái có thể nhìn vào tâm trí, cái có khả năng chứng

kiến tất cả. Bạn là nhân chứng.

Do đó tôi nói, Phật đã không cho tâm lí. Tâm lí là

hiện tượng rất bình thường. Nó không đem biến đổi

cho cuộc sống của bạn bởi vì nó không thể đem tới bất

kì siêu việt nào. Nhiều nhất nó giúp bạn được điều

chỉnh thêm chút ít theo bản thân bạn và theo thế giới

bao quanh bạn, theo xã hội, theo những người mà bạn

phải sống cùng. Nó giúp bạn trở nên được điều chỉnh

thêm chút ít

Tâm lí về căn bản là chính thống; nó không mang

tính cách mạng, nó không thể thế được. Nó phục vụ

cho nguyên trạng, nó phục vụ cho thể chế. Nó giữ bạn

ở bên trong các biên giới; nó không giúp bạn vượt ra

ngoài các biên giới. Nó không trong phục vụ cho bạn.

Nó bị kiểm soát bởi những người đương quyền - bởi

nhà nước, bởi nhà thờ, bởi xã hội. Theo một cách rất

trá hình nó giữ bạn bị buộc vào tâm trí tập thể. Nó

không giúp bạn trở thành cá nhân, bởi vì là cá nhân là

có tính nổi dậy, là cá nhân là đi theo cách riêng của

bạn, là cá nhân là thành kẻ nguy hiểm cho xã hội. Tư

bản, cộng sản, dù xã hội là bất kì cái gì - Hindu giáo,

Ki tô giáo, Mô ha mét giáo - không thành vấn đề; cá

nhân là nguy hiểm bởi vì cá nhân cố gắng sống từ ánh

sáng riêng của mình. Người đó không theo ai cả.

Người đó không là tín đồ, người đó không là người bắt

chước.

Phật cho một tôn giáo tâm hồn. Tôn giáo theo

nghĩa ông ấy giúp bạn hiểu tâm trí để cho bạn có thể

vượt ra ngoài nó - không phải để cho bạn có thể được

điều chỉnh theo tâm trí tập thể mà để cho bạn có thể

vươn lên những tầm cao của tính cá nhân của bạn, tới

các đỉnh cao của định mệnh của bạn.

Tâm lí tin rằng con người thiếu nghĩa trong cuộc

sống của mình và nghĩa có thể tới chỉ qua trị liệu. Tâm

trí về bản chất nghĩa là nghĩa qua trị liệu. Còn tôn giáo

chính là cái đối lập; tôn giáo nghĩa là trị liệu qua

nghĩa. Tôn giáo cho bạn nghĩa trước và rồi tự động

nghĩa trở thành lực chữa lành, nó trở nên có tính trị

liệu.

Phật nói đi nói lại rằng, "Ta là thầy chữa," rằng

"Ta là ông lang trị liệu," rằng "Chức năng của ta không

phải là chức năng của triết gia mà là chức năng của

thầy chữa trị. Ta giúp mọi người trở nên lành mạnh

hơn, trở thành toàn thể." Và quá trình của ông ấy là gì?

Quá trình của ông ấy là truyền đạt ý nghĩa cho cuộc

sống của bạn. Điều đó nữa ông ấy cũng làm theo cách

mới sâu sắc; nó chưa bao giờ được thực hiện trước đây

như thế. Ông ấy không cho bạn bất kì nghĩa tuỳ tiện

nào bởi vì nghĩa tuỳ tiện sẽ được thấy là tuỳ tiện sớm

hay muộn, và khoảnh khắc nó sụp đổ bạn sẽ rơi vào

trong bóng tối sâu sắc. Bóng tối sẽ còn tối hơn nhiều

so với nó trước đây. Bây giờ bạn đã mất nghĩa. Bạn sẽ

cảm thấy như tự tử; bạn sẽ cảm thấy cuộc sống chả

đáng sống chút nào. Ngay cả thở cũng sẽ trở thành khó

khăn, vất vả. Câu hỏi sẽ nảy sinh: Tại sao? Tại sao tôi

cứ sống nếu không có nghĩa?

Phật không cho bạn ý nghĩa tuỳ tiện nào. Do đó tôi

nói ông ấy không có siêu hình. Ông ấy giúp bạn khám

phá nghĩa bản chất của cuộc sống của bạn. Ông ấy

không cho bạn nghĩa, nhưng ông ấy cho bạn phương

pháp và phương tiện để khám phá ra nghĩa mà bạn đã

mang bên trong bản thân mình như hạt mầm.

Các nhà tâm lí cứ nói: Thứ nhất tìm kiếm cho bạn

vương quốc của Freud, Jung, Adler, Pavlov, Skinner

và toán người đó, và rồi mọi thứ khác sẽ được thêm

vào cho bạn. Điều đó chưa bao giờ xảy ra; điều đó

chưa bao giờ xảy ra cho một cá nhân. Nó không thể

xảy ra được theo chính bản chất của mọi sự. Ngay cả

Freud cũng biết chẳng có nghĩa nào, sống không

nghĩa, sống sâu trong thất vọng. Ông ấy nói rằng

không có hi vọng nào cho con người cả, rằng con

người chưa bao giờ hạnh phúc, điều đó là không thể

được. Điều đó phải là hiểu biết của riêng người đó,

kinh nghiệm riêng của người đó về cuộc sống. Ông ấy

nói rằng nhiều nhất chúng ta có thể giúp cho con người

đỡ khổ hơn, có vậy thôi. Đây là loại mục đích gì? -

giúp con người chút ít đỡ khổ hơn! Nó chẳng hấp dẫn

gì mấy.

Con người cần phúc lạc, không phải là khổ. Con

người cần cái gì đó tích cực - cái gì đó để sống và cái

gì đó để chết, cái gì đó đầy giá trị mà thậm chí cuộc

sống có thể được hi sinh vì nó. Nhưng nó không nên là

tuỳ tiện. Có nhiều nghĩa tuỳ tiện.

Adolf Hitler đã cho nước Đức một nghĩa tuỳ tiện:

Sống vì giống nòi Aryan, sống vì dòng máu thuần

chủng Bắc Âu, bởi vì bạn được sinh ra để cai trị thế

giới. Ông ấy đã cho niềm hi vọng lớn, nhưng nó đã

thất bại. Điều đó nhất định xảy ra. Bản thân ông ấy đã

tự tử; điều đó đã gần như là định mệnh.

Các tôn giáo cứ cho nghĩa giả cho cuộc sống của

bạn. Họ cứ nói về kiếp sống khác, cõi bên kia: "Sau cái

chết có thiên đường dành cho những người đức hạnh

và có địa ngục cho những người không đức hạnh." Và

ai đức hạnh? Người đi theo các tu sĩ là người đức

hạnh. Người không đi theo truyền thống, qui ước,

người không phải là kẻ tuân thủ, nhất định xuống địa

ngục.

Vâng, từ sợ và tham bạn có thể cho cuộc sống chút

ít nghĩa, nhưng nó tuỳ tiện, nhân tạo tới mức không

một cá nhân nào trên thế gian, người ngu tới mức sớm

hay muộn người đó sẽ không thấy cái giả của nó.

Và bây giờ con người đã đến tuổi trưởng thành; do

đó các tôn giáo đang biến mất. Không có khả năng nào

trong tương lai cho Ki tô giáo, cho Hồi giáo, cho

Hindu giáo, cho Do Thái giáo tồn tại. Và nếu họ muốn

tồn tại họ sẽ phải thay đổi toàn thể cái nhìn của họ,

chính nền tảng của họ.

Nhưng có mọi khả năng cho Phật và các thông

điệp của ông ấy thành phổ biến. Thực ra, thời của ông

ấy đã tới. Ông ấy trước thời của mình hai mươi nhăm

thế kỉ. Bây giờ mới là thời đó, đúng thời cho ông ấy.

Ông ấy không nói về sợ, ông ấy không nói về tham,

ông ấy không nói về địa ngục và cõi trời, ông ấy thậm

chí không nói về Thượng đế. Ông ấy hiện đại thế,

đương đại thế; ông ấy thuộc về thế kỉ của chúng ta.

Ngay cả chúng ta cũng không đương đại được như ông

ấy. Ông ấy phá huỷ mọi cấu trúc cũ. Ông ấy giải

phóng tôn giáo khỏi mọi ý thức hệ đông cứng. Ông ấy

đem nhiều thay đổi cách mạng vào cái nhìn tôn giáo.

Trước hết ông ấy nói không cần phải thông thái;

người ta phải hồn nhiên. Chính là qua hồn nhiên mà

chân lí được biết tới, không qua tri thức.

Một hàng xóm nói, "Đêm qua mèo nhà bác kêu

kinh quá."

Người kia đáp, "Bác nói đúng. Cứ khi nào nó ăn

chim hoàng yến, nó nghĩ nó có thể hát."

Bạn có thể cứ ăn kinh sách; bạn sẽ không có khả

năng hát chút nào. Bạn có thể biết tất cả Vedas,

Upanishads, Gitas, Korans, Kinh Thánh, nhưng bạn sẽ

vẫn còn ngu xuẩn như bao giờ. Tất nhiên bạn sẽ bắt

đầu ba hoa về thông thái của mình. Bạn sẽ bắt đầu

khoe khoang về nó, bạn sẽ trở thành kẻ trưng bày.

Ngay cả khi bạn không biết gì bạn sẽ giả vờ rằng bạn

biết.

Tài sản đáng tự hào nhất của cô Spinster Peabody

là con Count, con mèo cực kì đẹp. Không may, nó bị

mất hai ngày rồi. Khi cô ấy mở cửa tủ lạnh, cô

Peabody choáng gần chết. Con Count đông cứng trong

đó.

Cô ấy lập tức gọi tu sĩ tới, ông ấy nói vẫn có thể có

cơ may cứu con vật đáng thương này. "Cho nó hai thìa

xăng đi," ông ta bảo cô ấy.

Tay run rẩy, cô Peabody cậy mồn Count ra và cẩn

thận đổ thìa xăng theo kê đơn kì lạ của tu sĩ.

Vài giây trôi qua và chẳng cái gì xảy ra cả. Cô ấy

đã toan từ bỏ hi vọng thì bỗng nhiên con mèo mở mắt,

kêu ré lên nhức tai và nhảy qua phòng với tốc độ một

trăm dặm một giờ, chạy qua các đồ đạc, tường, thậm

chí trần nhà. Count cứ giữ tốc độ này trong hai phút và

rồi bỗng nhiên dừng lại chết giữa đường chạy, không

một cử động cơ.

Cô Peabody lại gọi tu sĩ.

"Ông nghĩ điều gì đã xảy ra?" cô ấy hỏi.

"Đơn giản," tu sĩ nói. "Nó bị hết xăng ấy mà."

Các tu sĩ có mọi câu trả lời. Hỏi họ bất kì cái gì,

bất kì cái gì ngu xuẩn mà xem. Họ không thể nói,

"Chúng tôi không biết," điều đó là không thể được.

Các tu sĩ không bao giờ nói rằng họ dốt; toàn thể kinh

doanh của họ phụ thuộc vào thông thái của họ.

Socrates nói: Tôi chỉ biết một điều, rằng tôi không

biết gì. Đó đích xác là cách tiếp cận của Phật nữa - và

Socrates và Phật là đương đại; họ có nhiều cái chung.

Nếu Socrates được sinh ra ở Ấn Độ ông ấy chắc đã

được gọi là phật. Ông ấy cũng tin cậy vào hồn nhiên,

hồn nhiên của đứa trẻ chẳng biết gì. Nếu bạn có thể lại

trở thành đứa trẻ, chỉ thế thì cánh cửa tới điều huyền bí

có thể mở ra cho bạn. Bạn có thể thấy. Bụi trong mắt

bạn không là gì ngoài tri thức, thông tin, kinh sách.

Các nhà trị liệu tâm lí được mọi người gọi là "kẻ

co"; họ là vậy! Toàn thể nỗ lực của nhà trị liệu tâm lí

là thu bé bạn; ông ấy là kẻ giản lược. Ông ấy nghiên

cứu chuột, và bất kì cái gì ông đi tới biết về chuột ông

ấy áp dụng cho bạn. Điều đó kinh tởm thế, nhục nhã

thế, ngớ ngẩn thế, phi logic! Ông ấy nghiên cứu cái

thấp nhất để biết cái cao nhất.

Bạn có thể chẳng biết gì về hoa bằng việc nghiên

cứu hạt mầm, bằng việc mổ xẻ hạt mầm, bằng việc

phân tích hạt mầm. Trong hàng nghìn năm bạn có thể

cứ phân tích hạt mầm; bạn sẽ không bao giờ bắt gặp

mầu sắc của hoa hồng, hoa sen, hay hương thơm. Bạn

sẽ không bao giờ biết hương thơm nào ẩn trong hạt

mầm. Việc phân tích không thể đem nó cho bạn.

Nghiên cứu chuột và thế rồi áp dụng tri thức đó

cho người đơn giản nói rằng người không là gì ngoài

một loài vật, chút ít phức tạp hơn, nhưng chẳng gì

nhiều hơn thế. Qui giản luận bao giờ cũng có nghĩa là

đem mọi thứ về "những cái không là gì."

Hiểu biết thực của con người là khả năng duy nhất

không phải bởi nghiên cứu chuột mà bởi nghiên cứu

chư phật, christ, krishna - những người cao nhất. Bằng

việc nghiên cứu các đỉnh cao bạn sẽ biết đích xác bạn

là ai, không phải bởi mẫu số nhỏ nhất mà bởi việc biểu

lộ cao nhất. Khi bạn nghiên cứu vị phật, khao khát lớn

nảy sinh trong bạn để đạt tới những đỉnh cao đó. Khi

bạn nghiên cứu chuột, thế thì không có khao khát.

Thực ra, bạn cảm thấy rất được thoả mãn bất kì cái gì

bạn đang là. Thực ra, bạn cảm thấy hài lòng lớn lao là

bạn có chút ít tốt hơn chuột, chút ít phức tạp hơn, chút

ít láu cá hơn. Bạn cảm thấy vừa lòng. Tôn giáo biến

mất.

Tôn giáo sống trong khao khát của bạn để đạt tới

đỉnh, để đạt tới những chiều cao tối thượng, để đem

toàn bộ tiềm năng của bạn ra biểu lộ, vào thực tại. Tôn

giáo là khoa học về hiểu cái ta.

Nếu nhà trị liệu tâm lí có thể bị gọi là "kẻ co," thế

thì người tôn giáo thực nên được gọi là "người duỗi."

Người đó kéo duỗi bạn tới tới những khả năng tối

thượng.

Bây giờ là lời kinh:

Vì nếu trong từ bỏ của ông

Ông coi thường và nuốt lời,

Nếu mục đích của ông lung lay,

Ông sẽ không tìm thấy ánh sáng.

Phật sẽ nói đi nói lại về sáng và tối; do đó hai từ

này phải được hiểu. Chúng là các biểu dụ. Phật phải

dùng biểu dụ. Mọi chư phật, mọi người thức tỉnh, đều

phải dùng biểu dụ. Ngôn ngữ thông thường là không

đủ, là rất không thích hợp. Khi bạn bắt đầu diễn đạt cái

gì đó bên trong, bạn cảm thấy khó. Ngôn ngữ không có

lời cho nó, hay cho dù lời có đó chúng quá nhỏ bé và

kinh nghiệm là quá lớn. Kinh nghiệm không thể được

chứa trong những lời đó, do đó mới có việc dùng biểu

dụ.

Biểu dụ đơn giản là phương tiện, đừng bám lấy

nghĩa của lời đúng theo từng từ. Hiểu nó như ngón tay

chỉ trăng ấy. Đừng bám lấy nghĩa từng lời; bằng không

bạn sẽ gặp khó khăn bởi vì thế thì bạn sẽ chỉ hiểu lầm.

Biểu dụ là biểu dụ. Nó là thơ ca, nó không phải là văn

xuôi. Bạn phải có tính thơ ca chút ít, tưởng tượng chút

ít, thông cảm chút ít để hiểu nó. Lấy nghĩa đúng theo

từng lời đã từng là thảm hoạ.

Nhưng đó là cách chúng ta bao giờ cũng đọc.

Ngay cả đọc vị phật chúng ta vẫn cố gắng đọc ông ấy

đúng theo từng lời. Thế thì sáng nghĩa là sáng và tối

nghĩa là tối. Điều đó không phải vậy.

Jack về nhà từ đại học nhân kì nghỉ. Một hôm anh

ta hỏi người mẹ thất học của mình là liệu anh ta có thể

tường thuật cho mẹ không. Mẹ anh ta, không quen với

những từ lớn lao như thế, hỏi anh ta về nghĩa của

'tường thuật'.

"Tường thuật là câu chuyện," Jack nói.

Đêm đó, khi lên giường, Jack hỏi mẹ liệu anh ta có

thể giảm chiết áp đèn được không. Bà ấy muốn biết

nghĩa của 'giảm chiết áp'.

"Bỏ đèn ra," Jack nói.

Vài ngày sau mẹ Jack tổ chức bữa tiệc ở nhà họ,

và con mèo đi vẩn vơ vào phòng. Mẹ Jack lên giọng và

nói một cách tự tin, "Jack, lấy con mèo bằng tường

thuật và giảm chiết áp nó."

Cảnh giác với ảo tưởng đó.

Khi Phật dùng từ 'sáng' ông ấy ngụ ý trạng thái của

vô trí, bởi vì trạng thái của vô trí là trạng thái của sáng

vô cùng, cứ dường như hàng nghìn mặt trời đã mọc ra

đồng thời trong linh hồn bạn. Và bất kì khi nào Phật

nói 'tối' ông ấy đều ngụ ý trạng thái của tâm trí. Tâm

trí tối, nó là đêm tối, thậm chí không có một tia sáng.

Và chúng ta tất cả đều sống trong tâm trí, chúng ta tất

cả đều sống trong đêm tối, và chúng ta chẳng có ý

tưởng nào về bình minh bởi vì chúng ta chưa bao giờ

ra khỏi tâm trí. Chúng ta bám lấy tâm trí. Tâm trí là sự

mù loà của chúng ta.

Một người có mắt chỉ khi người đó đi ra ngoài tâm

trí. Thế thì người đó bắt đầu thấy mọi thứ như chúng

vậy. Tâm trí bóp méo. Tâm trí chưa bao giờ cho phép

bạn nhìn thực tại như nó vậy; tâm trí phóng chiếu. Nó

không cho phép toàn thể thực tại thấm vào tim bạn. Nó

chỉ cho phép hai phần trăm; chín mươi tám phần trăm

bị bác bỏ. Và hai phần trăm được phép này lại bị bóp

méo theo cả nghìn lẻ một cách - được diễn giải, tô mầu

- và đến lúc nó đạt tới bạn nó không còn là thực nữa.

Cho nên bạn sống trong một thế giới rất không thực.

Nếu bạn sống trong tâm trí mình bạn sống trong mơ,

bạn sống trong giấc ngủ.

Cho nên bất kì khi nào Phật nói 'tối', ông ấy đều

ngụ ý trạng thái vô ý thức, trạng thái máy móc trong

đó bạn đang vận hành nhưng bạn không nhận biết điều

mình làm, trong đó bạn di chuyển nhưng di chuyển của

bạn không có phẩm chất của tỉnh táo trong nó. Bạn

nói, bạn nghe, bạn ăn, bạn bước, bạn đi ngủ, nhưng

như người dở sống dở chết, vô ý thức. Đây là bóng tối.

Khi bạn bắt đầu trở nên nhận biết hơn về điều bạn

đang làm, về điều bạn đang nghĩ, về điều bạn đang

cảm, khi bạn trở nên ngày một nhận biết hơn, ngày

càng nhiều ánh sáng thấm vào bạn. Khi bạn một trăm

phần trăm nhận biết bạn tràn đầy ánh sáng.

Điều đó đích xác là nghĩa của từ 'chứng ngộ'. Từ

'chứng ngộ - enlightened' là việc dịch cho từ 'phật'.

Phật nghĩa là người đã chứng ngộ, người đã thức tỉnh,

người nhận biết. Ông ấy nói: Vì nếu trong từ bỏ của

mình, ông coi thường và nuốt lời, nếu mục đích của

ông lung lay, ông sẽ không thấy ánh sáng.

Từ bỏ nghĩa là tính chất sannyas. Từ bỏ có thể có

hai kiểu. Kiểu thứ nhất - kiểu sai - là từ bỏ xảy ra qua

sợ hay tham. Bạn đã được bảo rằng nếu bạn từ bỏ thế

giới này thế thì bạn sẽ đạt tới hoan lạc của cõi trời.

Bạn đã được bảo nếu bạn không từ bỏ bạn sẽ chịu đau

khổ vĩnh viễn và địa ngục. Nhiều người trở nên sợ địa

ngục và nhiều người trở nên tham cõi trời, và họ từ bỏ

thế giới này. Đây là từ bỏ sai.

Bất kì cái gì bạn làm từ sợ và tham đều nhất định

sai bởi vì sợ và tham là trạng thái vô ý thức. Từ sợ bạn

đã mơ về địa ngục, từ sợ bạn đã mơ về cõi trời. Không

có địa ngục, không có cõi trời đâu. Đây tất cả đều là

mơ của bạn. Khi bạn không mơ chút nào, khi ngủ đã

biến mất và bạn thức, không có cõi trời, không có địa

ngục. Trạng thái đó Phật gọi là "giải thoát": giải thoát

khỏi tham, giải thoát khỏi sợ.

Và nếu bạn hành động từ nhận biết, nếu từ bỏ của

bạn xảy ra từ nhận biết, nó là từ bỏ đúng bởi vì thế thì

bạn thực sự không làm gì cả, mọi sự bắt đầu xảy ra.

Bạn thấy cái gì đó sai; nó rơi rụng đi, nó đơn giản rơi

rụng đi. Bạn không phải làm nỗ lực nào. Bạn thấy cái

xấu của giận dữ và giận dữ bay hơi; chính việc thấy trở

thành việc biến đổi. Bạn hiểu ham muốn của bạn và

cái vô tích sự của ham muốn của bạn - rằng nó không

thể được hoàn thành, rằng nó là không thể đáp ứng

được, rằng bạn đang trong cái vòng luẩn quẩn. Thấy ra

điều đó - rằng bạn đang đi trong vòng tròn - bạn nhảy

ra. Đây cũng là từ bỏ, nhưng bạn không nhảy ra khỏi

ham muốn vì ham muốn khác: để được vào cõi trời, để

tránh địa ngục. Bạn không nhảy ra khỏi ham muốn;

bạn chỉ thay đổi ham muốn này thành ham muốn khác.

Bạn đang tráo đổi ham muốn trần tục bằng ham muốn

không trần tục, nhưng ham muốn là ham muốn. Bạn có

thể thay đổi đối tượng, nhưng bản chất của ham muốn

là như nhau.

Đây là đóng góp lớn lao của Phật cho tâm thức tôn

giáo. Ông ấy nói: Đừng từ bỏ, để từ bỏ xảy ra. Nếu nó

xảy ra theo cách riêng của nó, nó có cái đẹp riêng của

nó, nó có cái duyên đáng, và bạn không bao giờ ăn

năn, bạn không bao giờ nhìn lại. Nếu bạn từ bỏ, nếu

bạn nỗ lực, việc từ bỏ của bạn sẽ đem buồn rầu về cho

bạn. Và nhiều lần bạn sẽ bắt đầu nghĩ liệu bạn làm

điều đúng hay sai. Nhiều lần tâm trí bạn sẽ vẩn vơ,

nhiều lần ham muốn về cái bị từ bỏ sẽ bao quanh bạn

như đám mây. Nhiều lần bạn sẽ đầy thèm khát và tham

lam và sợ hãi. Nhiều lần thế giới sẽ lại hấp dẫn bạn.

Điều đó là tự nhiên.

Do đó Phật nói: Vì nếu trong từ bỏ của mình, ông

coi thường và nuốt lời, nếu ông do dự ông sẽ không

thấy ánh sáng.

Điều đó chỉ có thể xảy ra trong loại từ bỏ sai là

mục đích của bạn do dự, bởi vì khi bạn từ bỏ bằng nỗ

lực nó bao giờ cũng là chuyện nửa vời. Một phần tâm

trí bạn nói, "Từ bỏ đi, bởi vì nếu mình không từ bỏ

mình sẽ thiệt." Một phần tâm trí bạn nói, "Đừng từ bỏ.

Ai biết liệu có kiếp sống sau cái chết hay không? Và ai

biết liệu từ bỏ có được thưởng hay không? Chẳng ai

quay lại từ bờ bên kia để nói ra chân lí. Nó có thể tất

cả chỉ là tưởng tượng, nó có thể tất cả chỉ là chiến lược

của các tu sĩ. Ai mà biết được?"

Nghi ngờ nhất định vẫn còn dai dẳng, và khi nghi

ngờ có đó sẽ có do dự, và khi hoài nghi có đó bạn bị

chia chẻ. Khi hoài nghi có đó bạn không bao giờ có thể

toàn tâm trong bất kì cái gì; bạn vẫn còn bị phân chia.

Bạn không bao giờ có thể là cá nhân, không phân chia.

Và người từ bỏ vì động cơ nào đó là đang từ bỏ qua

tâm trí - và điều đó là không thể được. Bạn không thể

từ bỏ qua tâm trí được.

Tâm trí là cái đầu tiên cần bị từ bỏ - và bạn đang

cố gắng dùng tâm trí cho từ bỏ sao? Tâm trí sẽ đầu độc

mọi thứ. Nó sẽ tạo ra những ham muốn mới trong bạn,

nó sẽ tạo ra tham lam mới, nó sẽ tạo ra tham vọng mới,

nó sẽ tạo ra bản ngã mới trong bạn. Cứ nhìn cái gọi là

người linh thiêng, cái gọi là thánh nhân và mahatmas.

Họ trông còn bản ngã hơn bất kì ai khác. Mặt họ trông

buồn, cứ dường như họ đang trong nỗi đau lớn, chịu

đựng lớn. Và mắt họ thì sao? Họ nhìn vào bạn bao giờ

cũng với thái độ của "thánh thiện hơn ngươi." Họ là

những kẻ kết án; họ sẽ gọi bạn là tội nhân. Họ sẵn sàng

ném bạn vào địa ngục và ngọn lửa địa ngục. Với bản

thân mình họ đang hi vọng rằng họ sẽ ở cõi trời tận

hưởng những hoan lạc cõi trời mãi mãi và mãi mãi.

Đây là loại từ bỏ gì vậy? Đây là loại từ bỏ sai và

bạn không thể đạt tới ánh sáng qua nó; bạn sẽ cứ rơi

vào trong bóng tối ngày một sâu sắc hơn. Bạn đã lấy

bước đầu tiên theo hướng sai, và bước đầu tiên là bước

quan trọng nhất bởi vì bước thứ hai sẽ đi theo bước thứ

nhất, và cứ thế tiếp diễn mãi. Và bạn sẽ cứ đi ngày

càng xa hơn khỏi chân lí.

Do đó tôi không bảo các sannyasin của tôi từ bỏ,

mặc dầu từ bỏ xảy ra. Nhiều người trong các

sannyasins của tôi viết thư cho tôi, "Thầy kính yêu,

thầy lừa chúng tôi. Chúng tôi cứ tưởng chẳng cái gì

phải từ bỏ cả, và bây giờ nhiều điều đơn giản biến

mất."

Mới hôm nọ có một bức thư. Một sannyasin đã

viết rằng ham muốn dục của anh ta hoàn toàn biến mất

- và anh ta đã cố cả đời để từ bỏ và nó và anh ta chưa

bao giờ thành công. Và ở đây chúng ta không dạy từ

bỏ cái gì, thậm chí không từ bỏ ham muốn dục, cho

nên thư của anh ta có liên quan. Anh ta nói, "Thầy giở

thủ đoạn với chúng tôi. Tôi cứ tưởng rằng tôi đã tới

đây để tận hưởng ham muốn dục của mình lần đầu

tiên, bởi vì cả đời tôi đã cố là sư. Mệt mỏi với nó, hoàn

toàn thất bại trong từ bỏ nó, tôi đã tới đây - và bây giờ

nó đã biến mất!"

Điều này thật hay, nếu nó biến mất theo cách riêng

của nó. Nếu bạn đã không vứt bỏ nó, nó sẽ không quay

lại nữa. Nếu bạn đã vứt bỏ nó, nó nhất định quay lại

bởi vì vứt bỏ nó đơn giản nghĩa là kìm nén nó. Vứt bỏ

không có nghĩa gì khác; nó đơn giản nghĩa là bạn đã

kìm nén nó một cách cưỡng bách. Sớm hay muộn, vào

khoảnh khắc yếu đuối nào đó, nó sẽ quay lại - và với

việc trả thù. Nhưng nếu nó vứt bỏ theo cách riêng của

nó... bạn đã không làm gì để vứt bỏ nó, thậm chí

không một quyết định; bạn đã không hành động một

cách có chủ ý về nó, đó là qua hiểu biết. Thấy ra cái vô

tích sự của nó, thấy rằng nó không đáp ứng gì, rằng nó

là một loại đồ chơi.... Bạn có thể vẫn còn tham gia

trong nó, nó giữ cho bạn bận rộn. Nó giữ bạn nhiều

bận rộn tới mức bạn không có thời gian nhìn vào

trong. Nhưng nó chưa bao giờ đưa bạn đi đâu cả; bạn

bao giờ cũng vẫn thế. Nó không đem tới tính toàn vẹn,

nó không đem tới vui vẻ. Bạn càng biết nó, nó càng trở

thành hiện tượng nhàm chán. Bạn càng biết nó, nó

càng mang tới nhiều chán hơn.

Nếu bạn thực sự muốn tận hưởng dục, là sư đi, là

ni đi. Thế thì bạn sẽ tận hưởng nó. Thế thì bạn sẽ

không nghĩ về cái gì khác cả; hai mươi bốn giờ bạn sẽ

tận hưởng nó. Trong tu viện còn cái gì khác có đó để

mà tận hưởng đâu? Tất nhiên nó sẽ chỉ là tưởng tượng.

Tưởng tượng là loại hành động khiêu dâm cá nhân.

Không ai khác có thể thấy được điều bạn đang thấy và

bạn có thể cứ cười khúc khích và tận hưởng. Bạn có

thể cứ đọc Kinh Thánh, Koran, nên mọi người đều

nghĩ bạn tôn giáo thế, ngoan đạo thế - và không ai biết

điều bạn thực sự làm bên trong.

Cái gọi là người tôn giáo là rất khiêu dâm; họ nhất

định như thế. Bạn càng nỗ lực trốn thoát khỏi đàn ông

và đàn bà, điều càng không được đáp ứng, càng bị kìm

nén, nhất định trở thành hoạt động trí não. Nó sẽ trở

thành tưởng tượng trong tâm trí bạn, nó sẽ bắt giữ

tưởng tượng của bạn. Bạn sẽ mơ về nó, bạn sẽ nghĩ về

nó, bạn sẽ bị bao quanh bởi nó. Bạn có thể nhìn vào

ghi chép về tất cả các sư và ni trên thế giới và bạn sẽ

ngạc nhiên: mọi sự đã xảy ra cho họ mà không xảy ra

cho bất kì ai .

Vào thời Trung cổ các xơ đã báo cáo hàng nghìn

lần rằng quỉ tới và làm tình với họ. Bây giờ điều gì đã

xảy ra cho quỉ? Quỉ không tới thêm nữa. Quỉ thường là

đủ rồi. Nhưng các xơ này, họ đã tưởng tượng. Và khi

trong nhiều năm bạn bị bỏ đói, bạn đã cố ý làm cái gì

đó, tưởng tượng thu lấy sức mạnh. Một khoảnh khắc

tới khi bạn bắt đầu mơ bằng mắt mở; bạn có thể thấy

quỉ đang đứng đó.

Và các xơ đó đã có những tưởng tượng làm sao!

Nếu bạn chỉ nhìn vào tài liệu ghi chép bạn sẽ ngạc

nhiên. Quỉ có chim chẽ ra! Nó không phải là cơ quan

sinh dục bình thường - mà chẽ ra, cho nên nó có thể đi

vào cả hai lỗ! Bây giờ những xơ này phải đã điên rồi,

hoàn toàn điên. Việc mang thai giả đã xảy ra... chẳng

có gì ngoài không khí nóng trong bụng, nhưng bụng sẽ

cứ trở nên ngày một to hơn. Tưởng tượng lấy nhiều

bám giữ của tâm trí, của thân thể tới mức xơ đó nghĩ

mình đã mang thai, cho nên cô ấy bắt đầu tích luỹ khí

trong bụng. Với mọi người cô ấy trông cứ dường như

là đang có mang. Cô ấy bước đi như đàn bà có mang.

Và tất nhiên, cô ấy có thể làm được gì? Nếu quỉ tới, cô

ấy phải nhường thôi. Ai biết được? - quỉ có thể không

tới nữa thì sao!

Và đây không chỉ là về một tôn giáo; đây là trường

hợp với mọi tôn giáo. Ở Ấn Độ, kinh sách kể nhiều

chuyện về các sư vĩ đại, các nhà khổ hạnh, làm việc

hành xác mình trong rừng. Và khi họ sắp tới bờ thành

công, đàn bà đẹp giáng xuống từ cõi trời để làm sao

lãng anh chàng đáng thương này. Họ đã không làm

điều gì sai với bất kì ai và cho dù họ có làm điều sai,

thì đây là loại trừng phạt gì vậy? Đây là cái gì đó như

phần thưởng chứ! Đàn bà đẹp tới từ cõi trời, các nữ

thần, tiên nữ, và họ nhảy múa trần truồng trước các sư,

và họ làm mọi loại cử chỉ dâm dục với các anh chàng

đáng thương này. Chi tiết được nêu trong kinh sách,

những mô tả rất chi tiết, điều họ làm, cách họ làm,

cách họ cám dỗ những anh chàng đáng thương này. Và

thế rồi anh ta sa ngã từ đỉnh cao vĩ đại của mình, trở

thành người hữu tử bình thường. Thế rồi họ không tới

thêm nữa. Điều này không là gì ngoài thủ dâm tâm trí,

nhưng điều này nhất định xảy ra nếu bạn kìm nén. Đây

là loại từ bỏ sai. Nó đã chi phối toàn thể quang cảnh

tôn giáo trong nhiều thời đại, nó đã rất mang tính phá

huỷ.

Loại từ bỏ đúng là rất tự nhiên và tự phát. Nó

không chống lại cái gì. Nó cho phép bạn quan sát,

nhìn, hiểu, có tính thiền nhiều hơn, để cho bạn có thể

đem nhiều hiểu biết vào hành động của mình, vào ý

nghĩ của mình, vào tình cảm của mình. Từ hiểu biết

được tích luỹ đó, mọi sự bắt đầu xảy ra. Thế thì tâm trí

không có đó để vẩn vơ. Chẳng cái gì bị kìm nén cho

nên chẳng cái gì quay lại. Thế thì mọi sự đơn giản bắt

đầu biến mất như giọt sương trong ánh mặt trời buổi

sớm. Đó là khả năng duy nhất để tìm ra ánh sáng.

Và nhớ lấy, ngay cả những người đã từng dạy kìm

nén, họ không gọi nó là kìm nén - họ gọi nó là sức

mạnh ý chí. Họ cho nó cái tên mĩ miều. Những điều

xấu có thể được che giấu rất dễ dàng đằng sau cái tên

mĩ miều. Sức mạnh ý chí chẳng là gì ngoài sức mạnh

bản ngã. Khi bạn gọi nó là sức mạnh ý chí nó có vẻ

hay; khi bạn gọi nó là sức mạnh bản ngã bạn thấy cái

xấu của nó.

Người tôn giáo là người không còn hữu dụng cho

bản ngã. Bản ngã nghĩa là bạo hành với bản thân bạn.

Nó có thể rất tinh vi, nó có thể không có vẻ như bạo

hành. Bạn có thể cứ làm điều bạo hành cho bản thân

mình theo cách thức rất duyên dáng. Và các tu sĩ đã

từng ép bạn làm mọi điều, nhưng họ không nói rằng họ

áp đặt. Họ đã từng ước định trẻ con, thôi miên toàn thể

xã hội, làm những điều nào đó. Và một khi bạn bị thôi

miên và bị ước định bạn nghĩ bạn đang làm nó theo

cách riêng của mình, từ tự do riêng của mình. Và điều

đó là cực kì vô nghĩa. Người Hindu đã từng bị ước

định trong ba mươi năm là người Hindu không thể làm

được gì bên ngoài tự do riêng của mình trừ phi người

đó vứt bỏ tất cả các cái vô nghĩa Hindu của mình. Và

cùng điều đó cũng là trường hợp với người Ki tô giáo

và người Do Thái và người Jaina và người Mô ha mét

giáo và người Parsi và người Sikh.

Bước đầu tiên là vứt bỏ cái đã từng bị áp đặt lên

bạn. Nó có thể gần như là chưa từng bị áp đặt bởi vì

lâu quá rồi, bạn đã hoàn toàn quên lãng. Ba mươi năm,

bốn mươi năm, năm mươi năm ước định - ai nhớ khi

nào nó bắt đầu, làm sao nó đã bắt đầu? Bạn trẻ thế, ba

hay bốn tuổi... và thế rồi giảng dạy bắt đầu và điều đó

cứ ước định bạn. Nó có thể ước định bạn vì bất kì cái

gì, bất kì điều ngu xuẩn nào. Mọi người khác sẽ thấy

cái ngu xuẩn; chỉ bạn không thấy. Bạn sẽ nghĩ bạn

đang làm cái gì đó lớn lao, cái gì đó tôn giáo, cái gì đó

thiêng liêng.

Stalin trao chỉ dẫn cho Mao Trạch Đông về chủ

nghĩa cộng sản thực hành. "Đồng chí," ông ta nói, "làm

sao đồng chí làm cho con mèo ăn hạt tiêu cay?"

"Có hai cách," Mao nói. "Tôi có thể nhồi hạt tiêu

ớt vào mồm nó hay tôi có thể làm con cá bằng hạt tiêu

và đem con cá cho mèo."

"Sai toét," Stalin đáp. "Nó không hợp với ý thức

hệ của chúng ta. Phương pháp thứ nhất là ép buộc,

phương pháp thứ hai là lừa dối. Đồng chí biết chúng ta

chưa bao giờ ép buộc hay lừa dối mọi người."

"Thế đồng chí làm bằng cách nào?" Mao hỏi.

"Tôi sẽ xát hạt tiêu vào đuôi mèo. Khi điều này bắt

đầu trở thành đau nhức, mèo sẽ quay lại và liếm đuôi,

do vậy ăn hạt tiêu một cách tự nguyện."

Điều này đã được các tu sĩ làm trong nhiều thế kỉ.

Họ xát hạt tiêu vào đuôi bạn, và một ngày nào đó bạn

bắt đầu liếm đuôi mình và bạn nghĩ bạn đang làm điều

đó một cách tự nguyện.

Bước đầu tiên hướng tới tôn giáo thực là vứt bỏ Ki

tô giáo, Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Phật giáo, Jaina

giáo; vứt bỏ mọi ý thức hệ, tháo dỡ điều đã từng bị áp

đặt lên bạn - lại là đứa trẻ nhỏ. Thế thì bạn có thể bắt

đầu thấy mọi thứ trong mầu thực của chúng, thế thì

bạn có thể bắt đầu thấy mọi thứ như chúng vậy. Trẻ

con nhận biết về thực tại còn nhiều hơn bạn nhận biết.

Bạn càng trở nên già hơn, bạn càng ít nhận biết hơn

bởi vì bạn càng trở nên bị nặng gánh bởi kinh nghiệm,

tri thức, ý kiến, ý thức hệ.

Làm điều ông phải làm

một cách kiên quyết, bằng cả trái tim ông.

Lữ khách ngần ngại

chỉ tung bụi trên đường.

Phật nói: Làm điều ông phải làm một cách kiên

quyết.... Nhưng bằng kiên quyết ông ấy không ngụ ý ý

chí, như điều đó thường vẫn được ngụ ý trong các từ

điển. Phật bị bắt buộc phải dùng từ của bạn, nhưng ông

ấy cho nghĩa mới với các từ của mình. Với 'kiên quyết'

ông ấy ngụ ý từ trái tim kiên quyết - không từ sức

mạnh ý chí mà từ trái tim kiên quyết. Và nhớ, ông ấy

nhấn mạnh từ 'trái tim', không phải tâm trí. Sức mạnh

ý chí là một phần của tâm trí. Trái tim kiên quyết là

trái tim không có vấn đề, trái tim không còn bị phân

chia, trái tim đã đi tới trạng thái tĩnh lặng, im lặng. Đó

là điều ông ấy gọi là trái tim kiên quyết.

Làm điều ông phải làm một cách kiên quyết, bằng

cả trái tim ông. Nhớ nhấn mạnh vào trái tim. Tâm trí

không bao giờ có thể là một; bởi chính bản chất của

nó, nó là nhiều. Và trái tim bao giờ cũng là một; bởi

chính bản chất của nó, nó không thể là nhiều được.

Bạn không thể có nhiều trái tim được nhưng bạn có thể

có nhiều tâm trí. Tại sao? - bởi vì tâm trí sống trong

nghi ngờ và trái tim sống trong tình yêu. Tâm trí sống

trong nghi ngờ còn trái tim sống trong tin cậy. Trái tim

biết cách tin cậy; chính tin cậy làm cho nó thành một.

Khi bạn tin cậy, bỗng nhiên bạn trở nên được định

tâm.

Do đó mới có ý nghĩa của tin cậy. Không thành

vấn đề liệu tin cậy của bạn đặt vào người đúng hay

không. Không thành vấn đề liệu tin cậy của bạn sẽ bị

khai thác hay không. Không thành vấn đề liệu bạn có

bị lừa bởi tin cậy của bạn hay không. Có mọi khả năng

bạn có thể bị lừa - thế gian này đầy những kẻ lừa dối.

Điều thành vấn đề là ở chỗ bạn tin cậy. Chính từ tin

cậy của mình mà bạn trở nên được tích hợp, điều còn

quan trọng hơn nhiều so với bất kì cái gì khác. Vấn đề

không phải là trước hết bạn phải chắc chắn liệu một

người có xứng đáng tin cậy hay không. Làm sao bạn

chắc chắn được? Và ai sẽ điều tra?

Đó sẽ là tâm trí, và tâm trí chỉ biết cách nghi ngờ.

Nó sẽ nghi ngờ. Nó sẽ nghi ngờ ngay cả người như

Christ hay Phật. Nó không thể đừng được.

Judas đã nghi ngờ Jesus. Ông ấy không thể nào tin

cậy được - ngay cả một người như Jesus. Và Jesus đã

tin cậy Judas; Jesus không thể nghi ngờ ngay cả người

như Judas. Thấy ra vấn đề đi. Ai là người được lợi?

Nếu bạn nhìn hời hợt, thế thì dường như Jesus đã thua

bởi vì ông ấy đã bị đóng đinh. Nếu như ông ấy không

tin cậy Judas ông ấy đã cứu được mạng mình. Nhưng

đấy chỉ là hiểu biết nông cạn. Thực ra người thua là

Judas, không phải Jesus. Người ta phải chết đi ngày

này hay ngày nọ, và người ta không thể chết một cái

chết tốt hơn Jesus được. Chính cái chết của ông ấy đã

đem tới cách mạng trong tâm thức nhân loại.

Nếu Phật cũng bị đóng đinh chúng ta chắc đã giầu

có hơn nhiều. Chết trên giường sẽ không có mấy giúp

đỡ. Và Jesus đã làm ra khác biệt gì ở chỗ ông ấy chết?

Nhưng người như Jesus dùng ngay cả cái chết của

mình làm tình huống, làm phương cách. Ông ấy dùng

nó và ông ấy dùng nó một cách rất tài tình. Socrates có

thể đã không dùng được cái chết của mình tài đến thế.

Có thể bởi vì cái chết của Socrates mà Jesus đã học

được bài học: cách dùng cái chết. Có những người ngu

không thể dùng được cuộc sống của họ một cách hữu

dụng, một cách tài tình, một cách duyên dáng, một

cách đẹp đẽ, và có những người như Jesus thậm chí có

thể dùng cái chết của họ. Cái chết của họ cũng là

phương cách.

Người thua thực sự là Judas, và ông ấy hiểu ngay

lập tức. Khi Jesus bị đóng đinh ông ấy cảm thấy xấu

hổ tới mức ông ấy tự tử ngày hôm sau. Bây giờ, tự tử

là xấu; bị đóng đinh có cái đẹp. Nó là hi sinh, hi sinh

tối thượng, cúng dường tối thượng người ta có thể làm

cho Thượng đế. Và Jesus đã làm điều đó. Lời cuối

cùng của ông ấy là, "Vương quốc của ngài tới, ý của

ngài được thực hiện." Ông ấy buông xuôi toàn bộ: "Để

cho vương quốc của ngài tới." Ông ấy đã xoá bản thân

mình toàn bộ, ông ấy vứt bỏ bản ngã của mình một

cách toàn bộ: "Ý của ngài sẽ được thực hiện." Ông ấy

đã tin cậy Judas tuyệt đối. Ông ấy ôm ghì ông này, ông

ấy hôn ông này, ông ấy rửa chân cho ông này. Ông ấy

biết rằng con người này sắp phản bội ông ấy - và dẫu

vậy, tin cậy của ông ấy vẫn toàn bộ.

Cho nên nhớ lấy, tin cậy không có nghĩa là trước

hết bạn phải điều tra, là trước hết bạn phải làm mọi

điều cho chắc chắn, được đảm bảo, và thế rồi bạn tin

cậy. Điều đó không phải là tin cậy, điều đó là nghi ngờ

thực sự: bởi vì bạn không có khả năng nào để nghi

ngờ, do đó bạn tin cậy. Nếu khả năng khác nảy sinh về

nghi ngờ, bạn sẽ lại nghi ngờ. Tin cậy có mặc cho mọi

nghi ngờ, mặc cho người này là gì hay người này sẽ

làm gì. Nó là từ trái tim, nó là từ tình yêu.

Khi bạn tin cậy và yêu với trái tim kiên quyết, điều

đó đem lại biến đổi. Thế thì bạn không bao giờ ngần

ngại. Ngần ngại đơn giản giữ bạn trong mảnh mẩu.

Lấy bước nhảy lượng tử, không ngần ngại hay mặc

cho tất cả ngần ngạn, bạn trở nên được tích hợp. Ngần

ngại biến mất; bạn trở thành một. Và trở thành một là

được giải thoát - được giải thoát khỏi đám đông ngu

xuẩn riêng của bạn mà đã từng tồn tại bên trong bạn,

được giải thoát khỏi ý nghĩa và ham muốn và kí ức của

bạn, được giải thoát khỏi bản thân tâm trí.

Lữ khách ngần ngại

chỉ tung bụi trên đường.

Không làm gì còn tốt hơn

làm điều sai trái.

Vì bất kì cái gì ông làm, ông làm cho bản thân

mình.

Không làm gì còn tốt hơn... nhưng không làm gì là

rất khó. Khi bạn nghĩ bạn đang không làm gì... đó

không phải là điều Phật nói. Không làm gì nghĩa là

tĩnh lặng, im lặng tới mức không có hành động nào

bên trong hay bên ngoài, thậm chí không ý nghĩ,

không ham muốn.

Không làm gì còn tốt hơn - người ta sẽ phải rất ý

thức để không làm gì - làm điều sai trái. Điều sai có

thể được làm chỉ khi bạn vô ý thức. Định nghĩa về điều

sai và đúng theo Phật là định nghĩa rất khác; nó không

có tính đạo đức. Ông ấy sẽ không nói, "Cái này đúng

và cái kia sai." Ông ấy sẽ không cho bạn danh sách

mười lời răn; ông ấy đã không cho lời răn nào. Thay vì

thế ông ấy cho bạn tiêu chí để cho bạn có thể phán xét

trong cuộc đời của mình cái gì đúng, cái gì sai. Ông ấy

đã không quyết định điều đó. Điều đó không thể quyết

định được bởi vì cuộc sống cứ thay đổi hoài. Cái sai

hôm này có thể đúng vào hôm khác; cái sai khoảnh

khắc này có thể đúng ngay khoảnh khắc khác. Cho nên

bạn không thể dán nhãn các hành động là đúng hay sai.

Tình huống thay đổi, bạn thay đổi, mọi người thay đổi.

Cho nên không có khả năng nào cho bạn một danh

sách nói, "Làm những điều này và không làm những

điều này."

Tất cả các tôn giáo khác đều đã làm điều đó; Phật

đã không làm điều đó. Ông ấy cho bạn tiêu chí, ông ấy

cho bạn sáng suốt. Ông ấy cho bạn hòn đá thử để cho

bạn có thể thấy cái gì là vàng và cái gì không phải là

vàng. Tâm thức là hòn đá thử của ông ấy. Nếu bạn có

ý thức và không làm gì, điều đó còn tốt hơn nhiều việc

làm cái gì đó sai, bởi vì làm cái gì đó sai nghĩa là bạn

vô ý thức. Làm bất kì cái gì từ vô ý thức đều sai và làm

bất kì cái gì, cho dùng là không cái gì, từ ý thức đều

đúng.

Khi chai rượu Scotch vỡ toé trên sàn, ba con chuột

nhắt nốc ừng ực. Bây giờ chúng thực sự say bí tỉ.

"Tớ sẽ đi tìm Muhammad Ali và đấm đầu anh ta

ngã dúi dụi," con thứ nhất nói.

Con thứ hai nói, "Cứ để tớ ở chỗ Idi Amin đó đi!

Tớ sẽ cho anh điều xảy tới cho anh ta!"

"Các chàng cứ làm điều các chàng muốn đi," con

thứ ba nói. "Tớ á, tớ lên lầu trên và làm tình với con

mèo!"

Đó là điều đang xảy ra cho mọi người, bởi vì mọi

người đều sống trong trạng thái vô ý thức. Bạn vô

nhận biết về điều bạn đang làm, tại sao bạn làm, bạn là

ai, tại sao bạn hiện hữu, bạn đi đâu. Mọi thứ dường

như trong bóng tối, và dầu vậy bạn cứ làm mọi thứ.

Phật nói tốt hơn là đừng làm gì cả. Yên tĩnh, im

lặng, tĩnh lặng, trong trạng thái vô làm, bởi vì điều đó

là có thể chỉ nếu bạn mang vào ngày một nhiều tỉnh

táo. Và thế thì từ im lặng đó, từ nhận biết đó, từ cái

không đó, từ việc không làm đó, bất kì cái gì nảy sinh

cũng đều tốt, đều đức hạnh.

Vì bất kì cái gì ông làm, ông làm cho bản thân

mình. Nếu bạn làm hại mọi người, cái hại sẽ quay lại

bạn. Nếu bạn yêu mọi người, tình yêu sẽ quay lại bạn.

Thế gian cứ vọng lại, phản xạ lại. Thế gian cho bạn chỉ

cái bạn đã cho thế gian ngay chỗ đầu tiên.

Như thị trấn biên giới được canh gác cẩn mật,

Canh gác bản thân ông bên trong và bên ngoài.

Đó là điều ông ấy gọi là nhận biết: Cảnh giác.

Không để một khoảnh khắc trôi qua

sợ rằng ông rơi vào bóng tối.

Thậm chí không một khoảnh khắc nào bị bỏ không

canh chừng. Từng khoảnh khắc bạn đều phải tỉnh táo,

có ý thức. Bước đi, bước có ý thức. Thở, thở có ý thức.

Ăn, ăn có ý thức. Làm bất kì cái gì bạn đang làm,

nhưng đem phẩm chất của tâm thức vào trong việc của

bạn. Ngồi, ngồi có ý thức. Để ý thức trở thành dòng

chảy ngầm, thường hằng, để cho bạn cứ làm những

việc thông thường, nhưng có dòng chảy ngầm của ý

thức. Điều đó sẽ làm cho cuộc sống của bạn có tính tôn

giáo - không đi tới nhà thờ, không đi tới đền chùa,

không cầu nguyện với Thượng đế tưởng tượng nào đó,

không lặp lại kinh sách.

Cảm thấy xấu hổ chỉ ở nơi xấu hổ là nghĩa vụ.

Chỉ sợ cái đáng sợ.

Thấy cái ác chỉ trong cái ác.

Sợ ông sai con đường đúng

và rơi vào trong bóng tối.

Phật nói: Cảm thấy xấu hổ chỉ ở nơi xấu hổ là

nghĩa vụ. Đừng bận tâm điều người khác nói. Chừng

nào tâm thức bạn còn chưa nói điều đó là đáng xấu hổ

thì chả cần lo nghĩ. Cho dù cả thế giới nói rằng điều

bạn đang làm là đáng xấu hổ, cứ để họ nói điều đó;

bạn không cần lo nghĩ về nó.

Đây là thông điệp rất cách mạng. Bình thường bạn

được bảo phải theo người khác, theo tập thể, theo tôn

giáo chính thức, theo bất kì cái gì đã được bảo từ hàng

thế kỉ. Phật nói điều người khác nói là không quan

trọng. Điều thực sự thành vấn đề là ở chỗ nếu tâm thức

của bạn nói điều đó là đáng xấu hổ, thế thì vứt nó đi.

Thực ra, sẽ không cần vứt bỏ nó; nó sẽ rơi rụng theo

cách riêng của nó. Cứ để tâm thức bạn quyết định

trong mọi vấn đề.

Chỉ sợ cái đáng sợ... và đừng sợ địa ngục và đừng

sợ trừng phạt sau cái chết. Đây là chiến lược của các tu

sĩ để khai thác mọi người, khai thác sợ hãi của họ. Mọi

người sợ bởi vì mọi người đã trở thành bản ngã và bản

ngã bao giờ cũng sợ. Bản ngã nghĩa là bạn nghĩ về bản

thân mình tách rời khỏi cái toàn thể; thế thì sợ hãi nảy

sinh bởi vì bạn không tách rời khỏi cái toàn thể. Và khi

bạn nghĩ bạn tách rời, câu hỏi nảy sinh: Mình có thể

vẫn còn tách rời được bao lâu? Cái chết sẽ tới; thế thì

cái gì sẽ xảy ra cho mình?

Bản ngã làm cho bạn ích kỉ thế, định tâm vào cái

ta tới mức bạn quên mất hoàn toàn rằng bạn thuộc về

vũ trụ vĩnh hằng. Không cần sợ rằng bạn chỉ là một

con sóng trong đại dương; bạn sẽ ở đây, dù như con

sóng hay không như con sóng, nhưng bạn sẽ ở đây.

Không ai có thể tiêu diệt được bạn. Không cái gì đã

bao giờ chết đi và không cái gì đã bao giờ được sinh

ra. Sóng nảy sinh và biến mất. Ngay cả trước khi nó

phát sinh nó đã có đó và khi nó đã biến mất nó vẫn có

đó. Việc nảy sinh và biến mất này chỉ là hiện tượng

nhất thời: cái gì đó không biểu lộ trở thành biểu lộ.

Nhưng chúng ta rất sợ, và nỗi sợ nảy sinh bởi vì

chúng ta đã tin, chúng ta đã được bảo lặp đi lặp lại, bị

thôi miên để tin vào bản ngã. Toàn thể cấu trúc xã hội

này mãi cho tới giờ, cho tới nay, đã từng làm sâu sắc

thêm thái độ sống bản ngã. Thế thì sợ hãi, thế thì tham

lam, thế thì tham vọng, đều là tự nhiên. Và bản ngã

được dạy cho mọi đứa trẻ; bản ngã của nó được làm

mạnh để cho bạn có thể làm cho nó tham vọng. Từ

tham vọng nảy sinh chính trị. Bản ngã được tạo ra để

cho bạn có thể làm cho nó sợ. Từ nỗi sợ nảy sinh tôn

giáo - cái gọi là tôn giáo.

Bé Sheldon có vẻ thích thú đi vườn bách thú cùng

bố nó. Tuy nhiên khi họ nhìn vào hổ, một thoáng băn

khoăn hiện lên trên mặt cậu bé. Bố nó hỏi có chuyện gì

vậy.

"Con tự hỏi, bố ơi. Trong trường hợp con hổ phá

chuồng ra và ăn thịt bố, con đi xe bus nào về nhà?"

Ngay cả trẻ nhỏ cũng bị đầu độc bởi ý tưởng về cái

ta. Phật nói không có cái ta, không bản ngã. Sâu bên

dưới bạn không tách rời. Bạn không là hòn đảo; bạn là

một phần của lục địa vạn vật. Cho nên: Chỉ sợ cái

đáng sợ. Thấy cái ác chỉ trong cái là ác. Đừng tin vào

người khác; chỉ tin vào mắt riêng của bạn, sáng suốt

riêng của bạn... Sợ ông sai con đường đúng và rơi vào

trong bóng tối.

Tin vào ý tưởng của người khác, bạn đang rơi vào

trong bóng tối. Họ đang trong bóng tối và đi theo họ

bạn sẽ đi vào bóng tối. Nếu bạn muốn đạt tới ánh sáng

bạn sẽ phải đi một mình.

Thấy cái có.... Phát biểu đơn giản thế, nhưng nó

chứa chính điều tinh tuý của tôn giáo.

Thấy cái có.

Thấy cái không có.

Đi theo đường đúng.

Vươn lên.

Thấy cái đang có.... Cái đó là thiền. Gạt tâm trí

bạn sang bên. Đối diện trực tiếp với thực tại. Đương

đầu với nó, mặt đối mặt. Gạt tâm trí sang bên. Nhìn

vào thực tại một cách im lặng, không ý nghĩ nào, để

cho ý nghĩ không thể là cản trở, rào chắn, việc bóp

méo. Đó là điều thiền là gì: thấy cái có và thấy cái

không có.

Quá khứ không có, nhưng tâm trí vẫn còn trong

quá khứ. Tương lai không có, nhưng tâm trí vẫn còn

trong tương lai. Và hiện tại có đó, nhưng tâm trí không

có tiếp xúc với hiện tại. Và bất kì khi nào bạn trong

tiếp xúc với hiện tại, quá khứ không còn đó, tương lai

không còn đó. Khi bạn tuyệt đối ở đây và bây giờ, toàn

bộ, hoàn toàn ở đây và bây giờ, cuộc sống của bạn sẽ

có phẩm chất mới của nó. Đó là tính thiêng liêng thực

- bởi vì bạn sẽ biết cái toàn thể và bạn sẽ trở thành cái

toàn thể.

Phật gọi nó là con đường đúng, con đường của

người đã thức tỉnh. Bạn cũng có thể vươn lên những

đỉnh cao này. Vươn lên đi! Thức dậy đi!

Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

#2 Có sống trước chết không?

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Tất cả những điều này có thực sự có đó không?

Đời tôi dường như vô nghĩa và trống rỗng thế. Tôi

cứ nghĩ phải có cái gì đó thêm nữa. Tôi muốn có

cái gì đó thêm nữa.

Prem Barkha, có thêm hơn vô hạn, nhưng cái

muốn của bạn, nó là rào chắn trong việc đạt tới cái

thêm hơn đó. Ham muốn giống như bức tường bao

quanh bạn; vô ham muốn trở thành cánh cửa. Đây là

một trong những luật ngược đời nhất nhưng rất nền

tảng của cuộc sống: ham muốn và bạn sẽ lỡ, đừng ham

muốn và nó là của bạn.

Jesus nói: Tìm và ông sẽ thấy. Phật nói: Đừng tìm;

bằng không ông sẽ lỡ. Jesus nói: Hỏi và nó sẽ được

trao cho ông. Phật nói: Đừng hỏi; bằng không nó sẽ

không bao giờ được trao cho ông đâu. Jesus nói: Gõ

cửa và cửa sẽ được mở ra. Phật nói: Đợi... nhìn... cửa

không đóng chút nào đâu. Nếu ông gõ, chính việc gõ

của ông chỉ ra rằng ông đang gõ vào đâu đó khác - lên

tường - bởi vì cửa bao giờ cũng mở.

Jesus chứng ngộ cũng như Phật - bởi vì không có

vấn đề chứng ngộ nhiều hơn hay chứng ngộ ít hơn.

Nhưng thế thì sao có khác biệt này?

Khác biệt tới từ người nghe Jesus nói. Ông ấy nói

cho những người còn chưa được điểm đạo, chưa được

điểm đạo vào các điều huyền bí của cuộc sống. Phật

nói cho một loại nhóm người hoàn toàn khác, những

người đã được điểm đạo, những người lão luyện,

những người có thể hiểu được điều ngược đời. Ngược

đời nghĩa là điều huyền bí.

Barkha, bạn nói, "Đời tôi dường như vô nghĩa và

trống rỗng thế...."

Nó dường như vô nghĩa và trống rỗng thế bởi vì

bạn thường xuyên khao khát thêm nữa. Vứt việc khao

khát đó đi, và thế thì bạn sẽ trải qua biến đổi triệt để.

Trống rỗng biến mất ngay lập tức khi bạn dừng đòi

thêm nữa. Trống rỗng là sản phẩm phụ của việc đòi

thêm nữa. Nó là cái bóng đi theo ham muốn thêm nữa.

Để ham muốn biến mất và nhìn lại mà xem: không còn

cái bóng nào nữa.

Đòi thêm nữa chính là điều tâm trí là gì đấy -

thường xuyên đòi thêm nữa. Bạn có bao nhiêu cũng

chả khác biệt gì, nó sẽ cứ đòi thêm nữa. Và bởi vì nó

cứ đòi thêm nữa bạn cảm thấy bạn trống rỗng, bạn

thiếu nhiều thế. Thấy ra vấn đề đi: trống rỗng được tạo

ra bởi đòi thêm nữa. Trống rỗng không có đó, nó là hư

huyễn, nhưng nó sẽ có vẻ rất thực khi bạn bị mắc vào

mạng của việc ham muốn.

Thấy ham muốn đó là nguyên nhân của trống rỗng

của bạn đi. Quan sát việc ham muốn của bạn, và trong

việc quan sát nó biến mất, và cùng với nó cái trống

rỗng biến mất. Thế thì sự hoàn thành sâu sắc, sâu lắng

tới. Bạn cảm thấy tràn đầy, tràn ngập tới mức bạn bắt

đầu trào ra. Bạn có nhiều tới mức bạn bắt đầu chia sẻ,

bạn bắt đầu cho - cho vì niềm vui vô cùng của việc

cho, chẳng vì lí do nào khác. Bạn trở thành giống như

đám mây trĩu hạt mưa: nó phải mưa rào xuống đâu đó.

Nó sẽ mưa rào xuống ngay cả tảng đá nơi chẳng cái gì

sẽ mọc lên; nó sẽ mưa rào xuống một cách vô điều

kiện. Nó sẽ không hỏi liệu đây có là đúng chỗ để mưa

rào xuống hay không. Nó sẽ trĩu nặng với hạt mưa tới

mức nó phải mưa rào xuống để tự làm nhẹ gánh mình.

Khi ham muốn biến mất bạn tràn đầy phúc lạc,

tràn đầy mãn nguyện, tràn đầy sự đầy đủ tới mức bạn

bắt đầu chia sẻ. Nó xảy ra theo cách riêng của nó. Và

thế thì có nghĩa trong cuộc sống, thế thì có ý nghĩa

trong cuộc sống. Thế thì có thơ ca, cái đẹp, duyên

dáng. Thế thì có âm nhạc, hài hoà - cuộc sống của bạn

trở thành điệu vũ.

Barkha, cái trống rỗng và cái vô nghĩa này là việc

làm của bạn đấy, cho nên bạn có thể hoàn tác nó được.

Bạn nói, "Tôi cứ nghĩ phải có cái gì đó thêm nữa."

Đó là điều đang tạo ra rắc rối. Và tôi không nói

không có gì đó thêm, có chứ - còn nhiều hơn là bạn có

thể hình dung đấy. Tôi đã thấy điều đó! Tôi đã nghe

thấy điều đó! Tôi đã kinh nghiệm điều đó! Có thêm

hơn vô hạn! Nhưng bạn sẽ không bao giờ đi vào tiếp

xúc với nó nếu việc ham muốn tiếp tục. Ham muốn là

bức tường, vô ham muốn là cây cầu. Đây là chính tinh

hoa của giáo huấn của Phật. Đây là thông điệp cơ sở

của ông ấy cho thế giới. Phúc lạc là trạng thái của vô

ham muốn, khổ là trạng thái của ham muốn.

Bạn nói, "Tôi muốn có cái gì đó thêm nữa."

Bạn càng muốn thêm nữa bạn sẽ càng bỏ lỡ nữa.

Bạn có thể chọn. Nếu bạn muốn vẫn còn khổ, cứ muốn

nữa, nữa và nữa, và bạn sẽ bỏ lỡ ngày một nhiều hơn.

Đây là chọn lựa của bạn, nhớ lấy, đây là trách nhiệm

của bạn. Không ai ép buộc bạn cả. Nếu bạn thực sự

muốn thấy cái đang đó, đừng khao khát về tương lai,

về thêm nữa. Chỉ thấy cái đang đó.

Một hôm khác Phật đã nói: Thấy cái đang đó và

thấy cái không đó. Đó là thiền, và thiền đưa bạn vượt

ra ngoài tâm trí. Tâm trí thường xuyên đòi hỏi, ham

muốn, yêu cầu và tạo ra thất vọng bởi vì nó sống trong

mong đợi. Toàn thế giới đang khổ sở qua cái vô nghĩa,

và lí do là ở chỗ lần đầu tiên con người đang đòi hỏi

nhiều hơn con người đã từng đòi hỏi. Lần đầu tiên con

người ham muốn nhiều hơn con người đã từng ham

muốn. Khoa học đã cho con người nhiều hi vọng thế,

nhiều hỗ trợ thế để ham muốn thêm nữa.

Lúc bắt đầu của thế kỉ này đã có lạc quan lớn trên

khắp thế giới bởi vì khoa học đã mở ra những cánh cửa

mới và mọi người đều nghĩ, "Thời đại vàng đã tới, nó

chỉ ngay góc này thôi. Chúng ta đã đạt tới nó. Trong

chính cuộc đời mình chúng ta sẽ thấy nó - rằng thiên

đường đó đã giáng xuống thế gian này." Một cách tự

nhiên mọi người đều bắt đầu ham muốn thêm nữa và

nữa và nữa. Thiên đường đã không giáng xuống thế

gian. Thay vì thế, thế gian đã trở thành địa ngục.

Khoa học đã thả ra việc ham muốn của bạn, nó hỗ

trợ cho ham muốn của bạn. Nó hỗ trợ cho hi vọng của

bạn rằng những ham muốn đó có thể được hoàn thành.

Và kết quả là ở chỗ toàn thế giới đang sống trong khổ

sở sâu sắc. Khổ chưa bao giờ như vậy trước đây. Điều

đó rất kì lạ, bởi vì lần đầu tiên con người có nhiều của

cải hơn bao giờ. Lần đầu tiên con người có nhiều an

toàn hơn, nhiều an ninh hơn, nhiều công nghệ khoa

học hơn, nhiều thoải mái hơn trước đây. Nhưng nhiều

vô nghĩa hơn cũng có đó. Con người chưa bao giờ

trong thất vọng thế, trong nỗ lực tuyệt vọng để có được

nhiều hơn.

Khoa học cho bạn việc ham muốn; tôn giáo cho

bạn cái nhìn sáng suốt vào việc ham muốn. Sáng suốt

đó giúp bạn vứt bỏ ham muốn. Và thế rồi bỗng nhiên

cái gì đó đã bị giấu kín mãi cho tới giờ trở nên không

bị che giấu nữa, trở nên biểu lộ. Cái gì đó trào lên từ

bên trong bản thể bạn, và mọi thứ mà bạn đã từng ham

muốn đều được đáp ứng... và còn hơn nữa. Nhiều thứ

nữa là sẵn có hơn điều bạn có thể tưởng tượng, hơn bất

kì ai đã từng tưởng tượng. Phúc lạc không thể hình

dung được giáng xuống bạn. Nhưng chuẩn bị nền đất

đi. Chuẩn bị đất đúng đi. Vô ham muốn là cái tên của

mảnh đất đúng này.

Tôi đã cho bạn cái tên Prem Barkha. Nó nghĩa là

"mưa rào tình yêu." Vâng, đích xác điều đó có thể xảy

ra. Tình yêu có thể mưa rào, phúc lạc có thể mưa rào,

Thượng đế có thể mưa rào lên bạn. Ở trong tâm trạng

cảm nhận đi. Bạn đang hùng hổ, bạn muốn thêm nữa -

đó là hùng hổ, hùng hổ tinh vi. Cảm nhận, cởi mở, sẵn

có, và thế thì bạn được quyền có mọi phép màu có thể

có.

#2Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi cảm thấy như tôi đang được tách rời khỏi dục.

Bây giờ cái tiếp theo là gì?

Sant, điều đó chỉ là cảm giác thôi. Nó xảy ra cho

hầu hết mọi người ở đây. Và lí do đơn giản không phải

là bạn đã trở nên được tách rời, nhưng bạn đã trở nên

sợ hãi.

Cho nên nhiều người viết thư cho tôi, "Sao trong

công xã của thầy đàn ông sợ chúng tôi thế?"

Đàn ông bao giờ cũng sợ rồi. Điều này chẳng gì

mới cả. Nhưng một đàn ông sống cùng một đàn bà;

anh ta sợ nhưng bằng cách nào đó có khả năng xoay

xở. Bây giờ ở đây anh ta thấy toàn đàn bà và đàn bà và

đàn bà. Anh ta trở nên thực sự sợ. Có lí do sinh học

cho nỗi sợ.

Đàn bà có khả năng đa cực thích, đàn ông không

có. Về mặt dục đàn ông rất nghèo nàn nếu so với đàn

bà. Không đàn ông nào có khả năng thoả mãn cho bất

kì đàn bà nào. Nếu đàn bà được phép tự do cô ấy sẽ

làm cho bất kì ai cũng phải sợ, bởi vì cô ấy sẽ làm cho

bạn cảm thấy rất kém cỏi. Cô ấy có khả năng đa cực

thích: trong vài giây cô ấy có nhiều cực thích còn bạn

chỉ có một cực thích thôi. Và với một cực thích bạn bị

kết thúc! Cô ấy thậm chí chưa bắt đầu còn bạn bị kết

thúc - điều đó rất gây lúng túng. Bởi vì nỗi sợ này, đàn

ông đã kìm nén đàn bà trên khắp thế giới. Không phải

là đàn ông mạnh hơn, đó là lí do tại sao đàn ông đã

kìm nén đàn bà. Không, đó là từ sợ hãi.

Đàn ông đã phá huỷ năng lực cực thích của đàn bà.

Trong hàng thế kỉ đàn ông đã bảo đàn bà rằng cực

thích là có thể chỉ cho đàn ông, không cho đàn bà. Đàn

ông đã dạy đàn bà tuyệt đối không sống động trong

quan hệ dục. Đàn ông đã bảo đàn bà, đã ước định họ,

thôi miên họ trong hàng thế kỉ rằng để nhiều tính đàn

bà hơn, uỷ mị như đàn bà, thì cứ im lặng, bất động.

Làm mọi chuyển động là đàn ông, làm mọi chủ động.

Do đó đàn ông làm tình, không phải đàn bà. Đàn bà

chỉ ở đó, đối tác im lặng. Và lí do là nỗi sợ lớn bởi vì,

nếu cô ấy trở thành đối tác tích cực, cô ấy sẽ thu đàn

ông thành gần như không là gì cả. Nếu cô ấy trở nên

tích cực đàn ông rất sợ. Làm sao anh ta sẽ thoả mãn

cho cô ấy được? Tất cả nam tính của anh ta sẽ lâm

nguy. Anh ta sẽ không còn có khả năng ba hoa rằng

anh ta là đàn ông, cái gì đó cao hơn, siêu hơn. Về mặt

dục anh ta không cao hơn; về mặt dục anh ta rất thấp

kém. Về cơ bắp anh ta có thể mạnh hơn đàn bà, nhưng

về mặt dục anh ta không mạnh hơn.

Có những nước ở châu Phi họ làm tiểu phẫu thuật

cho bé gái nhỏ. Âm vật bị cắt khi chúng còn rất nhỏ -

một phẫu thuật rất đau đớn - chỉ để chắc rằng họ

không có ý tưởng nào về cực thích. Ở Sudan bạn sẽ

không tìm thấy một đàn bà nào biết gì về cực thích bởi

vì chính cơ chế cho cực thích đã bị làm hỏng; âm đạo

của họ giống như vết thương hơn là cơ quan lành

mạnh. Sợ làm sao! - cắt âm vật. Thế thì họ bao giờ

cũng thấp kém. Ở Ấn Độ tôi đã hỏi nhiều đàn bà, "Bạn

có bao giờ đạt tới cực thích không?", và họ nói, "Nó là

cái gì?" Tôi chưa bao giờ bắt gặp một người đàn bà Ấn

Độ biết cực thích là gì, bởi vì đó là chính tính không

Ấn Độ, với người đàn bà Ấn Độ, cảm thấy cực thích,

hân hoan trong làm tình.

Tôi nghe nói rằng một người đàn ông đã làm tình

với một người đàn bà trên bãi biển. Và thế rồi cảnh sát

tới và nói, "Ông có điên hay cái gì không? Cô ấy chết!

Ông đang làm gì?"

Ông ta nói, "Trời đất! Tôi cứ tưởng cô ấy là người

Ấn Độ!"

Đàn bà Ấn Độ chỉ phải ở đó, không làm gì cả. Cô

ấy phải không biểu lộ dấu hiệu vui thích nào. Nếu đàn

bà thực sự trở nên cực thích cô ấy sẽ đánh thức toàn

thể hàng xóm! Cô ấy sẽ la hét và ca hát và nhảy và

múa. Cô ấy sẽ làm Thiền Động! Và toàn thể hàng xóm

sẽ biết điều gì đang xảy ra.

Sợ đàn bà, đàn ông đã kìm nén họ theo cách tinh vi

- và đôi khi cũng không tinh vi gì mấy, kiểu như người

Sudan. Ở châu Phi nhiều nước Mô ha mét giáo làm

điều đó - mổ cắt, giải phẫu âm vật. Không chỉ điều đó,

họ khâu âm đạo của đàn bà nhiều tới mức làm tình với

đàn bà trở thành gần như không thể được. Và việc sinh

con đau đớn tới mức đàn bà đã làm tình với đàn ông,

cô ấy quyết định không bao giờ làm lại điều đó nữa, nó

đau đớn thế! Một khi cô ấy đã sinh con cô ấy quyết

định không bao giờ mang thai nữa; toàn thể kinh

nghiệm này là ác mộng. Và điều này đã được đàn ông

làm, và các tu sĩ đứng đằng sau nó.

Sant, trong đạo tràng của tôi đó là hiện tượng hoàn

toàn khác. Những điều kiêng kị cũ hàng thế kỉ bị phá

vỡ, những ức chế cũ hàng thế kỉ bị ném đi theo gió.

Tôi tất cả vì tự do, đặc biệt tự do dục, bởi vì tất cả

những tự do khác đều được bắt rễ trong điều đó. Nếu

đàn ông hay đàn bà không cực thích, anh ấy không

sống động, cô ấy không sống động - họ chết. Họ thở,

họ ăn, họ bước, nhưng đó không phải là cuộc sống. Họ

chỉ sống dật dờ.

Một nhà khoa học làm một thực nghiệm lên một

loài cá nào đó. Trong loài cá đó con cái, bất kì khi nào

bị con cá đực tiến tới, bắt đầu bơi ra xa theo cách rất

điệu, quyến rũ, duyên dáng, mời chào, nhưng bắt đầu

lẩn trốn - không trốn thực nhưng giả vờ rằng nó đang

trốn. Điều đó kích động con đực; nó bắt đầu đuổi theo

con cái. Nó càng đuổi theo con cái, nó càng trở nên

kích động, đam mê của nó nổi lên. Thế rồi, tất nhiên

theo cách rất ngoại giao, con cá cái cho phép con đực

làm tình.

Một nhà khoa học, Lorenz, đã huấn luyện con cá

cái làm điều đối lập lại: rằng bất kì khi nào nó bắt gặp

con cá đực, tiến tới, lấy bước chủ động, lao vào con cá

đực. Và Lorenz ngạc nhiên: bất kì khi nào điều này

được làm, con cá đực sợ lắm; con cá đực không thể

nào tin được vào mắt mình, điều đang xảy ra! Và con

cá đực không thể nào làm tình được - sự bất lực bất

ngờ! Cơ chế này làm việc theo cách nào đó: con cái

phải dụ dỗ nhưng không sẵn có - không tuyệt đối

không sẵn có bởi vì điều đó sẽ phá huỷ toàn thể trò

chơi, chỉ giả vờ không sẵn có thôi. Điều đó kích động

năng lượng đực. Điều đó làm cho con đực ngày một

quan tâm hơn, ám ảnh hơn. Nó hoạt động ở mức tối

đa, và khi nó hoạt động ở mức tối đa nó làm tình dễ

dàng - bởi vì tâm trí con đực, dù trong con người hay

trong chuột, đều như nhau. Tâm trí con đực muốn

chinh phục.

Và, Sant này, bạn đang ở trong cùng tình huống

như con cá đực đấy. Bây giờ cá cái đang nhảy lên bạn,

làm cho bạn sợ, và bạn đang cố gắng che giấu sự kiện

này trong thuật ngữ tôn giáo hay ho: tách rời. Nó

chẳng là gì cả! Nếu bạn cảm thấy nó là tách rời, cứ đi

lên Himalayas trong một tháng mà xem - ngồi trong

hang động, và bạn sẽ chỉ nghĩ về đàn bà và đàn bà!

Tôi cũng giống như Lorenz khác đấy. Công xã này

là cái ao, và tôi đang huấn luyện cá cái ôm lấy mọi cá

đực!

Khi người ta thực sự được tách rời - từ hiểu biết,

từ thiền - thế thì không có tách rời nữa; điều đó phải

được hiểu. Khi người ta thực sự được tách rời người ta

không bị gắn cũng không bị tách. Toàn thể vấn đề trở

nên không liên quan cứ dường như không có vấn đề gì

nữa về hấp dẫn, về không hấp dẫn. Toàn thể vấn đề bị

bỏ đi. Bạn đơn giản là bản thân mình. Bạn không nghĩ

về đàn bà, đàn bà không nghĩ về đàn ông. Nghĩ, "Mình

bị gắn bó" - hay "được tách rời" - đều có nghĩa bạn vẫn

nghĩ về đàn bà.

Tách rời thực - cái tới từ hiểu biết - không có tham

chiếu tới người khác. Bạn đơn giản là bản thân mình,

hoàn toàn vui vẻ, sung sướng, phúc lạc tới mức bạn

không cần người khác. Người khác đã bị quên đi hoàn

toàn, người khác không tồn tại thêm nữa. Đàn bà sẽ đi

qua và bạn sẽ không nghĩ liệu cô ấy là đàn ông hay

đàn bà. Đó là siêu việt lên trên sinh học của bạn, và đó

là một trong những điều vĩ đại nhất trong cuộc sống -

siêu việt lên trên sinh học của bạn - bởi vì chỉ thế thì,

lần đầu tiên, bạn trở thành cái gì đó cao hơn các con

vật. Bằng không sẽ không có mấy khác biệt, có thể có

khác biệt nào đó về lượng nhưng không khác về chất.

Chừng nào bạn còn chưa siêu việt lên trên sinh học

bạn vẫn còn là một phần của vương quốc con vật, một

loài vật khác, có vậy thôi.

Sant, bây giờ quan sát việc tách rời của bạn, liệu

nó là sợ hãi hay hiểu biết. Bạn có hiểu cái ngu xuẩn

của toàn thể trò chơi này không? Nếu bạn đã hiểu, thế

thì bạn sẽ không hỏi, "Bây giờ cái tiếp theo là gì?"

Chẳng có gì tiếp theo cả. Bạn đã siêu việt lên trên sinh

học và bạn sẽ thực sự nghỉ ngơi với bản thân mình.

Bạn sẽ trở thành cực thích mà không có sự giúp đỡ của

người khác. Và cực thích sẽ trở thành tự nhiên thế, tự

phát thế, nó sẽ không có tham chiếu tới dục chút nào.

Vị Phật là cực thích hai mươi bốn giờ một ngày

bởi vì ông ấy đang hân hoan từng khoảnh khắc trong

tính toàn bộ của nó; không có gì hơn nữa. Nếu bạn đã

siêu việt lên trên sinh học, nếu dục đã biến mất - qua

hiểu biết, nhớ lấy, không qua loại kìm nén hay sợ hãi

nào đó - thế thì bạn đã đi vào trong Thượng đế, bạn đã

trở thành thiêng liêng.

#2Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu,

Bất kì cái gì tôi làm, tôi đều cố gắng quá vất vả.

Xin thầy nói cho chúng tôi về "chính tinh tiến" của

Phật.

Anand Nagaro, Phật Gautama đã dạy chỉ một điều

thôi, và đó là trung đạo. Đừng bao giờ đi tới cực đoan.

Tất cả mọi cực đoan đều như nhau. Ở đích xác chỗ

giữa và bạn sẽ được tự do, bạn sẽ được giải thoát.

Có những người bị ám ảnh với dục; đó là một cực

đoan. Thế rồi có những người trốn khỏi đàn bà, và nếu

họ là đàn bà, họ trốn khỏi đàn ông; họ trốn vào tu viện,

vào hang động. Họ cũng bị ám ảnh - tất nhiên, theo

hướng đối lập. Đó là cực đoan khác. Có những người

tham, tham quá nhiều; cả đời họ chẳng là gì ngoài

tham. Và thế rồi có những người từ bỏ, người trở nên

sợ việc chạm vào bất kì cái gì.

Có các sư Jaina; vào thời Phật họ rất có ảnh

hưởng. Toàn thể đấu tranh của Phật là với sư Jaina, bởi

vì họ là những người cực đoan. Họ vẫn còn trần truồng

bởi vì nếu bạn mặc quần áo, bạn có thể bị gắn bó với

quần áo. Họ sẽ không mang theo mình cái gì cả, thậm

chí không dao cạo râu; khi tóc họ quá dài, họ sẽ dứt

tóc ra. Họ sẽ không đi giầy, họ sẽ đi chân trần, bởi vì

giầy là xa xỉ phẩm. Trần truồng, không vật sở hữu nào,

họ gây ấn tượng rất lớn tới mọi người.

Những người cực đoan bao giờ cũng rất ấn tượng.

Bạn tham, bạn theo đuổi tiền, theo đuổi quyền, danh;

họ đã từ bỏ tất cả. Chắc chắn, kính trọng lớn với họ

nảy sinh trong tim bạn bởi vì bạn biết bạn không thể

làm được điều này; trời quá lạnh không thể ở trần

được. Và sống mà không có tiền.... Sư Jaina không thể

chạm được vào tiền; ông ấy không được phép chạm

vào nó, ông ấy thậm chí không được phép nhìn vào

tiền. Làm sao bạn có thể sống mà không có tiền? Kính

trọng lớn lao nảy sinh trong bạn. Bạn sống ở cực đoan

này và bạn kính trọng cực đoan kia. Sớm hay muộn,

khi bạn trở nên chán với cực đoan của mình, bạn sẽ bắt

đầu đi sang cực đoan kia. Nhưng không thay đổi cơ sở

nào xảy ra cả. Người sợ chạm tiền vẫn ở trong trạng

thái dốt nát, vô nhận biết.

Phật nói: Dừng ở giữa. Không cần mê đắm, không

cần từ bỏ. Cứ ở chỗ giữa, đích xác ở giữa. Ông ấy có

luận cứ lớn ở đó: nếu bạn vẫn còn ở giữa, đó là điểm

từ đó siêu việt xảy ra.

Điều đó giống như con lắc đồng hồ. Nó đi từ phải

sang trái, từ trái sang phải. Cố hiểu con lắc và quá

trình của nó bởi vì nó rất tương tự với quá trình tâm trí

bạn. Khi con lắc đi sang phải, về mặt thấy được, nó

đang đi sang phải, nhưng về mặt không thấy được nó

đang thu lấy đà để đi sang trái. Khi nó đi sang trái nó

đang thu lấy đà để đi sang phải.

Khi bạn mê đắm, bạn thu lấy đà cho từ bỏ thế giới,

còn khi bạn từ bỏ, bạn sẽ thu lấy đà để mê đắm lần

nữa. Và điều này có thể cứ cùng diễn ra trong nhiều

kiếp. Nhưng giữ con lắc ở giữa và đồng hồ dừng lại.

Đó là điều Phật nói: giữ con lắc ở giữa và tâm trí

dừng lại. Tâm trí là chiếc đồng hồ bởi vì tâm trí là thời

gian, tâm trí là ham muốn. Nó đem tới quá khứ và

tương lai - nó là thời gian. Giữ nó ở giữa đi. Đừng

sống trong quá khứ và đừng sống trong tương lai. Ở

trong hiện tại, đó là chỗ giữa. Đừng mê đắm và đừng

từ bỏ; ở chính giữa. Hoàn thành những điều cần thiết

của cuộc sống. Đừng bị ám ảnh bởi sở hữu mọi thứ và

đừng bị ám ảnh bởi việc từ bỏ chúng. Cả hai đều là ám

ảnh và cả hai đều là trạng thái bệnh hoạn. Tránh cả hai,

ở giữa. Ở giữa là cân bằng.

Bạn hỏi tôi, Nagaro, "Bất kì cái gì tôi làm, tôi đều

cố gắng quá vất vả. Xin thầy nói cho chúng tôi về

"chính tinh tiến" của Phật."

Chính tinh tiến nghĩa là không cố gắng quá vất vả.

Chính tinh tiến cũng nghĩa là không dừng cố gắng

hoàn toàn. Nó nghĩa là, cố gắng theo cách thảnh thơi,

không quá vất vả không quá an nhàn, chỉ theo cách

thảnh thơi, theo cách rất chơi đùa. Khi bạn cố gắng

quá vất vả bạn trở nên căng thẳng; khi bạn không cố

gắng chút nào bạn trở nên lười nhác. Khi bạn cố gắng

vui đùa bạn không lười nhác không căng thẳng. Cuộc

sống của bạn có cái đẹp, duyên dáng, cân bằng, hài

hoà. Ở giữa, điều đó đích xác là nghĩa của chính tinh

tiến.

Bất kì khi nào Phật dùng từ 'chính', nhớ lấy, ông ấy

ngụ ý cân bằng. 'Chính' là việc dịch của từ mang nghĩa

cân bằng, bởi vì cực đoan là sai, cả hai cực đoan đều

sai. Từ của Phật là samyak; sam nghĩa là cân bằng,

thăng bằng. Ông ấy dùng từ đó nhiều hơn bất kì các từ

nào khác; ông ấy dùng nó thay cho mọi thứ. Nếu bạn

đang nỗ lực làm bất kì cái gì, cứ để nó là samyak, cân

bằng, đích xác ở giữa.

Nếu bạn thiền, Phật nói, để nó là samyak - chính

thiền. Đừng làm ồn ào quá mức về nó, đừng làm ra

căng thẳng từ nó. Đừng tạo ra đau khổ. Đừng trở nên

điên. Đừng hung hăng. Và ông ấy cũng nói rằng điều

đó không có nghĩa là quên đi tất cả về nó và cứ sống

theo cách bạn đang sống. Không, cứ nỗ lực thiền đi,

nhưng theo cách vui vẻ, cách duyên dáng, bao giờ

cũng ở giữa. Cứ hoà nhã, cứ hào hoa phong nhã. Phật

là người phong nhã hoàn hảo; nhấn mạnh là về hoà

nhã. Ông ấy là người hiếm hoi theo cách đó.

Mahavira dường như là người cực đoan - người

chứng ngộ khác đương đại với Phật, nhà tiên tri cuối

cùng của người Jainas. Ông ấy dường như là người rất

cực đoan. Người ta nói rằng trong mười hai năm ông

ấy đã im lặng, không nói một lời. Bây giờ, điều này đi

quá xa. Đừng nói quá nhiều....

Tôi đã nghe một câu chuyện về Morarji Desai:

Bất kì khi nào ông ấy nói, vợ ông ấy sẽ gửi cho

ông ấy một ghi chú. Mọi người quanh ông ấy trở nên

tò mò, cũng là tự nhiên, "Ghi chú gì thế nhỉ?" Bao giờ

điều đó cũng xảy ra, không tránh khỏi.... Và trên tờ ghi

chú họ thấy chỉ mỗi một từ: Hôn.

Họ bảo Morarji Desai, "Điều này là hiếm hoi vào

cái thời không chung thuỷ này; vợ ông vẫn yêu ông

nhiều thế. Ông tám mươi tư rồi, bà ấy phải bẩy nhăm

hay hơn. Vậy mà vẫn lãng mạn tới mức bất kì khi nào

ông đứng nói bà ấy đều gửi cho ông một ghi chú luôn

đón chào ông bằng nụ hôn."

Morarji trông có vẻ giận - vì ông ấy bao giờ cũng

trông vậy, điều đó chẳng là gì mới! Khi ông ấy mỉm

cười, điều đó là hiếm hoi. Ngay cả trong nụ cười của

ông ấy cũng không có nụ cười; dầu vậy ông ấy trông

cứ có vẻ như ông ấy giận. Nụ cười dường như được tô

vẽ. Nhưng ông ấy thực sự giận. Ông ấy nói, "Các ông

không biết bà ấy ngụ ý gì đâu. Đấy là dạng vắn tắt; nó

nghĩa là, 'Nói ngắn thôi, đồ ngu.' Đó là nghĩa của

'hôn'."

Nếu bạn giữ nói ngắn, điều đó là được, nhưng

không cần trở thành câm trong mười hai năm. Cứ thấu

cảm, chỉ dùng lời cần thiết. Đừng cứ huyên thuyên hai

mươi bốn giờ một ngày, hoặc với người khác hoặc với

chính bản thân bạn. Mọi người thường xuyên huyên

thuyên, hết ngày nọ tới ngày kia. Ban ngày họ huyên

thuyên, ban đêm họ huyên thuyên.

Vợ Mulla Nasruddin tới bác sĩ điều trị và nói rằng

"Chồng tôi nói trong giấc ngủ. Cái gì đó phải được

làm. Tôi rất bị rối loạn về điều đó."

Bác sĩ điều trị nói, "Tôi có thể hiểu được. Cho

uống thuốc này và trong vòng một hay hai tuần anh ấy

sẽ dừng nói trong giấc ngủ."

Cô vợ nói, "Ông hiểu lầm tôi rồi. Tôi không muốn

anh ấy dừng nói, tôi muốn anh ấy nói rõ ràng để cho

tôi có thể nghe được điều anh ấy nói."

Mọi người nói trong giấc ngủ của họ, mọi người

nói trong khi họ thức. Mọi người thường xuyên nói;

cần, không cần, họ cứ nói hoài. Nói dường như là một

cách trốn thoát khỏi bản thân họ. Cho nên Phật nói im

lặng trong vài giờ là tốt, nhưng không cần im lặng mãi

mãi.

Người ta nói rằng Mahavira thỉnh thoảng mới ăn.

Mười ngày ông ấy sẽ nhịn ăn - hay hai mươi ngày hay

ba mươi ngày - và thế rồi một ngày ông ấy sẽ ăn.

Trong mười hai năm đó ông ấy chỉ ăn ba trăm sáu

mươi nhăm lần; điều đó có nghĩa là chỉ một năm.

Trong mười hai năm, nếu đó là tỉ lệ, thì chỉ một ngày

ăn trong mỗi mười hai ngày.

Phật nói điều đó là không cần thiết, đó là hành hạ,

đó là làm nỗ lực cực đoan mà chẳng có lí do gì. Điều

hoàn toàn tốt là bạn chỉ ăn đủ mức theo nhu cầu; mọi

người đang ăn quá nhiều, mọi người đang tống vào

bản thân mình bằng thức ăn. Điều đó lại là cách khác

giữ cho bạn xa khỏi bản thân mình, giữ cho bản thân

bạn dính líu vào.

Mọi người cảm thấy trống rỗng thế - như Prem

Barkha - mọi người cảm thấy trống rỗng. Và có ham

muốn vô ý thức để lấp đầy trống rỗng này - qua thức

ăn, qua hút thuốc, qua uống rượu, qua cái gì đó; qua

nói, qua ti vi, qua radio. Vẫn còn bận bịu để cho bạn

cảm thấy đầy.

Mới hôm nọ tôi đọc thấy rằng ở Mĩ bây giờ họ đã

phát minh ra một loại tủ lạnh mới. Bạn mở cửa và tủ

lạnh lập tức nói, "Xin lỗi, tốt với bản thân bạn đi. Xin

đóng cửa lại." Mọi người thường xuyên đi tới tủ lạnh;

điều đó dường như là luyện tập duy nhất của họ. Cả

trong đêm khi họ chẳng có gì làm hay họ không cảm

thấy buồn ngủ họ đều đi tới tủ lạnh.

Có những người, và số này là lớn... trong mười

người, một người có khả năng vừa ngủ vừa đi. Họ đi

trong giấc ngủ của họ và hướng bao giờ cũng là tới tủ

lạnh. Ngay cả trong giấc ngủ họ cũng biết tủ lạnh ở

đâu! Họ không loạng choạng ở đâu cả, họ đi thẳng tới

như mũi tên. Bây giờ đây là một cực đoan, và không

ăn trong mười một hay mười hai ngày rồi chỉ ăn trong

một ngày, đó là cực đoan khác.

Phật nói "thức ăn đúng." Ở chỗ giữa đi. Ăn đủ cho

sức khoẻ bạn, cho mạnh khoẻ của bạn, đừng ăn quá

nhiều. Và điều đó diễn ra cho mọi thứ trong cuộc sống

của bạn.

Một quí bà vào hiệu giầy để mua đôi giầy. Người

bán hàng đem tới cho bà ấy một đôi để bà ấy thử. "A,"

bà ấy nói, "Tôi không thích đôi giầy này. Chúng rộng

quá. Tôi không muốn chúng quá rộng, tôi không muốn

chúng quá hẹp. Tôi chỉ muốn chúng ở giữa."

Thế là người bán hàng đi lấy giầy và quay lại với

đôi khác để bà ấy thử. Lần này bà ấy cau mày và nói,

"Đôi này cũng không được. Lỗ ở ngón chân quá to.

Tôi không muốn chúng quá to và tôi không muốn

chúng quá nhỏ. Tôi chỉ muốn chúng ở giữa."

Thế là người bán hàng quay lại nhà kho và lấy cho

bà ấy đôi khác mà bà ấy lại kêu, "A, tôi không thích

chúng. Gót quá cao. Tôi không muốn chúng quá cao

và tôi không muốn chúng quá thấp nữa. Tôi chỉ muốn

chúng ở giữa."

Đến điểm này người bán hàng nhìn bà ấy và nói,

"Thưa bà, nếu bà đứng dậy và cúi mình xuống tôi sẽ

đưa cho bà đôi giầy không quá cao và không quá thấp

- ở chính giữa!"

Người bán hàng này dường như là phật tử: ở chính

giữa!

Trong mọi hoạt động, vẫn còn ở chính giữa. Qua

cân bằng đó mà siêu việt tới, qua cân bằng đó mà tâm

trí biến mất. Tâm trí là kẻ cực đoan. Nó sống chỉ qua

các cực đoan; nó chết nếu bạn dừng di chuyển từ cực

đoan này sang cực đoan kia.

#2Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Có cuộc sống sau cái chết không?

Nijanando, trước hết hỏi: có cuộc sống trước cái

chết không? Mọi người đều hỏi: Có cuộc sống sau cái

chết không? Mối quan ngại nào có đó cho bạn? Bạn

đang sống kia mà. Hỏi câu hỏi có ý nghĩa, thực sự có

liên quan này: Có cuộc sống trước cái chết không? Bạn

có thực sống không?

Một người đàn bà đi tới hãng bảo hiểm và nói,

"Tôi có thể lấy tiền mà chồng tôi đã được bảo hiểm

không?"

Người đàn ông trong văn phòng nói, "Nhưng ông

nhà vẫn còn sống mà. Ông ấy đã chết đâu. Bà sẽ được

tiền chỉ khi ông ấy chết."

Bà ấy nói, "Tôi biết ông ấy không chết, nhưng có

sống nào còn lại trong ông ấy đâu."

Đó là tình huống đấy: mọi người không chết và

vậy mà không sống. Họ bằng cách nào đó bước đi, nói

năng, làm mọi thứ, giữ cho bản thân họ gắn lại, nhưng

không có sống động, không có hương vị của sống

động.

Và bạn quan tâm, Nijanando này, tới điều xảy ra

sau cái chết. Quên mọi sự về nó đi. Bạn đang sống -

trước hết sống nó một cách toàn bộ đi. Và nhớ một

điều: bất kì cái gì bạn làm với cuộc sống của bạn bây

giờ, điều đó sẽ tạo ra tương lai của bạn. Tương lai của

bạn tới từ hiện tại của bạn. Nếu bạn sống khổ bây giờ

bạn sẽ sống khổ sau chết - thậm chí còn khổ hơn bởi vì

cả đời bạn đã sống trong khổ sẽ tạo ra nhiều khổ hơn

cho bạn thôi.

Tôi không quan tâm tới cuộc sống sau cái chết;

toàn thể mối quan tâm của tôi là cuộc sống trước cái

chết. Và bất kì điều gì bạn làm với cuộc sống bây giờ

sẽ tạo ra, xem như hệ quả, tương lai của bạn. Ngày mai

sẽ được sinh ra từ hôm nay, khoảnh khắc tiếp sẽ được

sinh ra từ khoảnh khắc này. Cho nên nếu khoảnh khắc

này được sống đúng, toàn bộ, có tính thiền, thế thì

khoảnh khắc tiếp nhất định sẽ toàn bộ hơn, linh thiêng

hơn, có tính thiền hơn, bởi vì cuộc sống cứ tích luỹ.

Nếu bạn sống một cách phúc lạc, phúc lạc tích luỹ.

Bạn sẽ đem đi cùng bạn khi bạn chết bất kì cái gì bạn

đã thu được trong cuộc sống này.

Nhưng trong nhiều thời đại mọi người vẫn còn bận

tâm về kiếp sống khác. Thỉnh thoảng tôi cũng nói về

kiếp sống khác, chỉ để đùa, để cười nó thôi. Nó không

phải là mối quan tâm thực.

Ở địa ngục, vì bị trừng phạt bởi tội lỗi của mình,

Ayatollah Khomeini và Jimmy Carter phải nắm tay

nhau đi vĩnh viễn. Khi họ đi dạo, họ bắt gặp Morarji

Desai khoác tay đi cùng Gina Lollobrigida.

Carter hỏi, "Ông Desai, làm sao tôi bị mắc kẹt với

con gà tây này, trong khi ông lại có được cô

Lollobrigida lộng lẫy thế?"

Morarji Desai trả lời, "Jimmy, cô ấy không phải là

sự trừng phạt của tôi đâu - tôi là sự trừng phạt của cô

ấy!"

Chỉ để đùa thôi tôi mới nói về địa ngục và cõi trời

và cuộc sống sau cái chết, nhưng nó không phải là mối

quan tâm của tôi chút nào; tôi không quan tâm. Toàn

thể mối quan tâm của tôi là vào khoảnh khoắc hiện

thời. Bây giờ là mối quan tâm của tôi, ở đây là mối

quan tâm của tôi, bởi vì Thượng đế chỉ biết một thời

gian thôi - bây giờ - và Thượng đế chỉ biết một không

gian thôi - ở đây. Nếu bạn muốn trong tiếp xúc với

Thượng đế bạn sẽ phải học cách ở đây và bây giờ.

#2Câu hỏi thứ năm:

Thưa thầy kính yêu,

Tại sao có ham muốn "không-không," nhưng khao

khát về những đỉnh cao là được? Tôi bị lạc trong

những thứ tinh vi của lời. Phật đã đưa ra lời

nguyện tối cao không vươn lên từ thiền chừng nào

chưa đạt tới chứng ngộ. Trong ba ngày đêm ông

ấy đã có linh ảnh và ảo giác, kể cả linh ảnh về địa

ngục, quỉ, vân vân. Đây là loại nỗ lực gì vậy?

Jyotirmaya, khi Phật đưa ra lời nguyện đó ông ấy

còn chưa là vị phật; ông ấy vẫn dốt nát như bạn vậy.

Trong dốt nát, bất kì cái gì ông ấy đã làm, xin tha thứ

cho ông ấy. Đừng lưu ý nhiều về nó. Trong dốt nát

mọi người cứ làm những điều ngu xuẩn. Lời nguyện

đó là ngu xuẩn.

Chân lí không phải là cái gì đó bạn có thể ép buộc

bằng sức mạnh ý chí của mình. Lấy lời nguyện rằng

"Ta sẽ không vươn lên từ thiền chừng nào còn chưa

chứng ngộ" chứng tỏ bạo hành và dốt nát. Nhưng Phật

không phải là Phật vào thời kì đó, ông ấy là Siddhartha

Gautama - loạng choạng, dò dẫm trong bóng tối như

mọi người khác dò dẫm. Ông ấy không khác bạn theo

bất kì cách nào. Bản thân ông ấy còn chưa học được

nghệ thuật ở giữa; ông ấy đã là người cực đoan. Đây là

chủ nghĩa cực đoan.

Trong sáu năm ông ấy đã cố gắng vất vả và thất

bại. Công việc vất vả đó với bản thân ông ấy đã không

cho kết quả nào; nó không thể cho được. Đó là lí do tại

sao khi ông ấy trở thành vị phật ông ấy đã rất chống lại

nỗ lực vất vả, ông ấy đã rất chống đối lại các cực đoan.

Ông ấy đã sống qua tất cả các loại cực đoan: ông ấy đã

sống như người khổ hạnh, tự hành hạ mình. Trong sáu

năm ông ấy đã chịu khổ nhiều như con người có thể

khổ - nhưng chân lí không thể được đem tới bằng việc

chịu khổ của bạn. Nó không phải là món hàng và

không thể nào đạt tới nó chỉ bằng lực vô cùng của sức

mạnh ý chí. Bạn có thể ngồi đó dưới gốc cây trong ba

ngày hay ba kiếp, và bạn sẽ không đạt tới nó.

Ông ấy đã không đạt tới nó, nhớ lấy. Điều ông ấy

đã đạt tới là ảo giác, linh ảnh về địa ngục, quỉ, vân vân.

Đó là trừng phạt của ông ấy, cho nên cảnh giác về nó.

Cách ông ấy trở nên chứng ngộ là câu chuyện hoàn

toàn khác. Sau ba ngày, khi ông ấy mệt mỏi, hoàn toàn

mệt mỏi vì nỗ lực của mình, và ông ấy thấy thất vọng,

thất bại... sáu năm đó của tự hành hạ mình liên tục, và

chẳng được lợi gì, không thành công. Ông ấy thậm chí

đã không di chuyển được một li tới gần chân lí hơn;

ông ấy vẫn ở nơi ông ấy đã bắt đầu. Chỉ một điều đã

xảy ra: ông ấy đã trở nên yếu hơn bởi vì ông ấy đã

nhịn ăn. Ông ấy đã trở nên xấu xí; ông ấy đã trở thành

chỉ toàn xương, da thịt biến mất hết. Ông ấy đã trở

thành bộ xương. Ông ấy trông như ông ấy mới từ nấm

mồ bước ra. Không lợi lộc, không thành công... mọi nỗ

lực đều đã thất bại.

Thế rồi một tối ông ấy thấy cái vô tích sự của nỗ

lực con người. Ông ấy thấy cái vô tích sự của bản ngã

con người - bởi vì mọi nỗ lực đều mang tính bản ngã:

"Tôi sẽ đạt tới." Cái 'tôi' bao giờ cũng ở sau mọi thành

tựu của bạn, ham muốn về thành tựu. Cái 'tôi' rất tham

vọng: nó muốn thành công trong thế giới này, nó muốn

thành công trong thế giới kia. Nó muốn có tiền, nó

muốn có Thượng đế nữa. Nó muốn có quyền lực; nó

muốn có giải thoát, moksha, chân lí, niết bàn. Nó

muốn có mọi thứ.

Phật thấy nó và trong việc thấy đó ông ấy đã vứt

bỏ cái nỗ lực điên khùng kia và ông ấy vứt bỏ chính

cội nguồn của tham vọng. Lúc đó là đêm trăng tròn.

Ông ấy cười vào bản thân mình, vào toàn thể cái ngu

xuẩn của sáu năm này. Ông ấy thảnh thơi, ông ấy ngồi

dưới gốc cây. Lần đầu tiên sau sáu năm, chỉ ngồi mà

không đạt tới cái gì, chỉ ngồi, không thiền. Do đó trong

Thiền, thiền còn được gọi là zazen. Zazen nghĩa là chỉ

ngồi không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.

Buổi tối hôm đó ông ấy đã ngồi dưới gốc cây

không có ham muốn, bởi vì mọi ham muốn đều đã thất

bại. Ham muốn trần tục đã thất bại, ham muốn thế giới

khác đã thất bại.

Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết: chứng ngộ không phải

là thành công. Chứng ngộ chỉ xảy ra khi bạn đã hoàn

toàn thất bại. Chứng ngộ được sinh ra từ thất bại toàn

bộ - bởi vì nếu bạn thành công, bản ngã vẫn còn lại.

Khi thất bại là toàn bộ, tuyệt đối, không đảo ngược

được, vô điều kiện, khi không còn cách quay lại, bản

ngã biến mất. Bản ngã sống, được nuôi dưỡng trên

thành công; nó không thể sống được trong thất bại. Nó

rời bỏ bạn.

Buổi tối hôm đó bản ngã biến mất. Trăng tròn mọc

lên. Ông ấy nhìn trăng tròn, ông ấy tận hưởng trăng

tròn. Trong sáu năm ông ấy đã không ngắm trăng chút

nào, ông quá bận tâm với việc đạt tới tâm linh của

riêng mình. Đêm đó mát mẻ và đẹp thế. Khu rừng im

lặng, và ngay bên cạnh là dòng chảy của con sông

Niranjana. Ông ấy tận hưởng phản chiếu của trăng

trong dòng Niranjana. Ông ấy tận hưởng cái im lặng

đó. Thế rồi ông ấy rơi vào giấc ngủ. Ông ấy đã ngủ

không mơ, bởi vì mọi giấc mơ đều là sản phẩm phụ

của ham muốn.

Đến sáng khi bình minh lên và chim chóc bắt đầu

hót ông ấy bị đánh thức dậy bởi tiếng hót của chúng.

Nằm dưới gốc cây, không đâu mà đi, không cái gì cần

làm, ông ấy quan sát mặt trời mọc trên đường chân

trời; phương đông rạng hồng và buổi sáng đẹp và làn

gió mát.... Và cái gì đó đã xảy ra, cái gì đó nhoáng lên.

Ông ấy đã trở nên chứng ngộ - không phải từ nỗ lực

của sáu năm mà chỉ từ vô nỗ lực của một đêm. Không

từ phấn đấu thường xuyên của bản ngã trong sáu năm,

mà chỉ từ trạng thái của không bản ngã, vô ham muốn

trong một đêm. Và đến sáng ông ấy đã chứng ngộ.

Thế rồi ông ấy lại cười. Ông ấy cười bởi vì ông ấy

thấy rằng ông ấy bao giờ cũng đã chứng ngộ rồi nhưng

không thể thấy được được sự kiện đó, chân lí của nó,

bởi vì ông ấy quá bận tâm tới việc đạt tới nó. Nếu bạn

quá bận tâm với việc đạt tới nó bạn sẽ không có khả

năng thấy rằng nó đã là hoàn cảnh rồi.

Tất cả các bạn đều là chư phật. Không ai được sinh

ra mà khác, mọi người được sinh ra đều là vị phật. Vấn

đề không phải là đạt tới, Jyotirmaya này, nhớ lấy điều

đó: phật tính, chứng ngộ, không phải là vấn đề của đạt

tới. Nó là vấn đề trở nên im lặng, tĩnh lặng, vô ngã, vô

ham muốn, để cho bạn có thể thấy bằng đôi mắt sáng

tỏ bạn là ai. Bạn đã là vị phật rồi, bạn chứng ngộ rồi.

Ông ấy đã cười trong đêm bởi vì toàn thể cuộc

sống của ông ấy đã thất bại; nó thật nực cười. Đến

sáng ông ấy cười bởi vì ông ấy đã tìm kiếm cái gì đó

đã có bên trong linh hồn mình rồi; không cần tìm và

kiếm nó. Thực ra, việc tìm và kiếm đã giữ ông ấy xa

khỏi nó.

Tìm, và ông sẽ không thấy; không tìm và nó là của

ông.

#2Câu hỏi thứ sáu:

Thưa thầy kính yêu,

Liệu có khả năng yêu người đàn ông Italia mà

không muốn giết anh ấy không?

Satya Bharti, điều đó là không thể được. Nhưng

nhớ lấy, khoảnh khắc bạn dừng suy nghĩ về giết anh

ấy, tình yêu cũng sẽ biến mất. Rơi vào tình yêu với

một người Italia ngay chỗ đầu tiên là rất dở hơi, và thế

rồi ham muốn này để giết người đó là tự nhiên. Yêu là

một loại tranh đấu - dù là người Italia hay không Italia.

Yêu là một loại tranh đấu; nó là vật lộn. Và khi bạn

dừng tranh đấu, khi bạn dừng vật lộn, yêu biến mất.

Tôi không nói về tình yêu của chư phật; tôi đang nói

về tình yêu mà Satya đang nói tới.

Và bạn có biết người Italia này là ai không?

Sarjano, người Italia nhất trong tất cả người Italia!

Sau khi con thuyền Ark đã được chống sào đẩy ra,

Noah tập hợp tất cả các con vật trong cabin trung tâm

và đưa ra lời phát biểu ngắn. Ông ấy chỉ ra rằng

chuyến đi có khả năng sẽ lâu dài, và rằng ba tháng

đằng nào cũng bị giới hạn. "Do đó," ông ấy nói, "tôi

muốn nhấn mạnh rằng chúng ta không thể tăng dân số

được cho tới khi nước rút và chúng ta có thể cập bờ.

Tôi chỉ định hươu cao cổ, kẻ cao nhất trong các bạn,

đứng gác và bảo đảm lệnh của tôi được thực thi."

Cuối cùng nước cũng rút xuống, con thuyền Ark

cập bờ và cửa mở ra. Các con vật bước ra, từng đôi

một, như chúng đã đi vào - không thêm loài nào. Thế

rồi mèo bước ra - theo sau là một lũ mèo con. Khi

chúng đi qua hươu cao cổ, một trong những con mèo

nhìn lên và nháy mắt. "Tôi cá là," nó nói, "anh nghĩ

chúng tôi đang đánh nhau."

#2Câu hỏi thứ bẩy:

Thưa thầy kính yêu,

Thầy có tin vào thiên văn học và chiêm tinh học

không?

Ismail Nagdum, tôi không tin tưởng vào cái gì và

tôi không không tin tưởng cái gì cả. Toàn thể nỗ lực

của tôi ở đây là để giúp cho bạn phá huỷ mọi tin tưởng

và mọi không tin tưởng, bởi vì chỉ thế bạn mới có khả

năng biết. Việc biết chỉ xảy ra khi bản thể bên trong là

hoàn toàn trống rỗng tin tưởng hay không tin tưởng,

khi bạn không là người Cơ đốc giáo không là người

cộng sản, không là kẻ vô thần không là kẻ hữu thần.

Và đó là thái độ của Phật nữa: ông ấy là bất khả tri.

Người tìm kiếm chân lí thực sự không tin vào cái

gì cả, tích cực hay tiêu cực. Người đó không tin vào

Thượng đế, người đó không tin vào không Thượng đế.

Cho nên nói gì về thiên văn học và chiêm tinh học?

Tin tưởng không phải là mối quan tâm của người đó;

việc biết, việc kinh nghiệm, việc thấy là mối quan tâm

của người đó, bởi vì chỉ qua việc thấy mà biến đổi xảy

ra.

Nhưng mọi người cứ tin vào đủ mọi thứ bởi vì tin

tưởng cho bạn ý tưởng giả tạo về tri thức. Nó làm cho

bạn cảm thấy thoải mái - nó che giấu dốt nát của bạn.

Bằng không tin tưởng là điều ngu xuẩn nhất mà người

ta có thể làm. Tin tưởng nghĩa là bạn không biết và

vậy mà bạn vẫn tin. Nhớ lấy, tin tưởng là không liên

quan khi bạn bạn không biết - và tin tưởng là không

liên quan khi bạn biết. Khi bạn không biết, tin tưởng

của bạn là giả, được bắt rễ trong dốt nát. Khi bạn biết,

không cần tin tưởng - bạn đã biết rồi.

Bạn có tin vào mặt trời, vào mặt trăng không? Có

ai đó hỏi bạn, "Anh có tin vào trái đất không?" Chẳng

ai hỏi những câu hỏi như thế. Mọi người hỏi, "Anh có

tin vào Thượng đế không? Anh có tin vào chiêm tinh

không? Anh có tin vào cuộc sống sau cái chết không?"

Những câu hỏi này dường như có liên quan bởi vì

không ai dường như biết cả.

Tôi không tin vào cái gì cả. Và nhớ lấy, nếu bạn

bắt đầu tin, thế thì không có chấm dứt cho nó; bạn có

thể tin vào bất kì cái vô nghĩa nào. Một khi bạn tin,

không có vấn đề gì.

Một chiều Harry về nhà từ chỗ làm việc sớm hơn

thường lệ. "Cưng ơi, anh về nhà đây này," anh ta kêu

lên và chạy xô vào phòng ngủ, tại đó anh ta thấy vợ

mình nằm trên giường, một vẻ ngạc nhiên trong khuôn

mặt cô ta. Màn được rủ, chăn và ga giường lộn xộn cả.

"Mọi thứ ổn chứ em?" anh ta hỏi.

"Sao, vâng... vâng, tất nhiên rồi, anh," cô ấy đáp

lại một cách ngập ngừng.

Cởi áo ghi lê ra anh ta đi tới tủ quần áo và ngạc

nhiên thấy một người đàn ông núp bên trong.

"Xin chào, anh làm gì ở đây thế?" Harry nói một

cách sững sờ.

"Ồ... tôi á... tôi là người đưa ga.... Tôi đã tới để

kiểm lại đồng hồ đo ga."

"Hừ, tôi hiểu," Harry nói và treo áo ghi lê lên.

Rồi với vào gầm giường để lấy dép, anh ta thấy

một người đàn ông khác ở đó.

"Này... và anh là ai thế?" anh ta hỏi.

"À, vâng... thế này.... tôi là … thợ điện… Tôi tới

để chữa đường dây."

"Tôi hiểu," Harry nói. "Mọi sự đều được."

Rồi cởi cà vạt vào áo sơ mi, anh ta nhận xét, "Anh

bảo, cưng này, trời hơi tối và ngột ngạt ở đây, phải

không em?" và kéo chiếc màn lại sau anh ta thấy một

người đang nghiêng người qua rìa cửa sổ.

"Xin chào," Harry nói, "còn anh đang làm gì ở

đây?"

"Này," người này nói, "nếu anh tin vào những anh

chàng kia - thực ra tôi đang đợi xe bus."

Câu hỏi thứ tám:

Thưa thầy kính yêu,

Có thực là gặp vận xui khi bắt gặp mèo đen chạy

ngang qua đường mình không?

Narendra, điều đó tuỳ vào liệu bạn là người hay là

chuột!

#2Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Sao thầy bao giờ cũng cười người thông thái?

Govindo, tôi phải làm gì nào? Tôi phải kêu và

khóc vì bình sữa vỡ sao? Nếu bạn không thể cười được

người thông thái, bạn sẽ cười ai? Họ là những người

ngu nhất trên thế giới, những kẻ lố bịch nhất.

Một đôi người Anh sau vài năm lấy nhau cuối

cùng cũng có con. Vì tóc đứa trẻ đỏ au còn tóc của cả

hai cha mẹ lại nâu, mọi sự có vẻ có chút ít đáng ngờ.

Chị vợ bối rối, bực mình với những lời nói bóng gió

hiển nhiên, gợi ý rằng họ cả hai nên tới gặp bác sĩ.

Bác sĩ, sau khi chú ý tới hiện tượng bất thường

này, thậm chí trông còn phân vân hơn cả đôi kia.

"Theo luật di truyền," ông ấy giải thích, "không thể có

chuyện đàn ông và đàn bà tóc nâu có thể sinh con tóc

đỏ được." Bác sĩ quyết định điều tra theo hướng khác.

"Anh chị có giao hợp thường xuyên không?" ông ta

hỏi.

Câu trả lời là sự im lặng gây bối rối của người

Anh.

"Một lần một ngày chứ?" bác sĩ động viên.

"Dạ, cũng không hẳn thế," là câu trả lời bối rối của

đôi này.

"Vậy một lần một tuần chứ?" bác sĩ hỏi.

"E hèm, tôi không nói điều đó," người đàn ông trả

lời.

"Một lần một tháng?" bác sĩ thăm dò.

"Dạ, e hèm, chúng tôi không làm điều đó thường

xuyên," là câu trả lời.

"A ha!" bác sĩ kêu lên. "Bây giờ tôi biết điều đó

rồi! Chẳng cái gì phải lo lắng cả - đấy chỉ là kém trí

nhớ thôi!"

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#3 Chư phật chỉ trỏ đường thôi

Ta sẽ chịu những lời gay gắt

như voi chịu giáo ngoài chiến trường.

vì nhiều người nói ngông cuồng.

Voi được thuần dưỡng ra chiến trận.

Vua cưỡi lên voi.

Người được thuần dưỡng là chủ.

Người đó có thể chịu được những lời gay gắt trong

an bình.

Tốt hơn con la

hay con ngựa hay của Sindh

hay con voi chiến to lớn

là người đã làm chủ bản thân mình.

Không cưỡi trên lưng chúng

người đó vẫn có thể tới đất nước chưa ai từng đặt

chân tới,

nhưng chỉ theo cách riêng của người đó.

Voi to lớn Dhanapalaka

là hoang dã khi nó trong động dục,

và khi bị trói nó sẽ không ăn,

vẫn nhớ về rừng voi.

Người ngu nhàn rỗi.

Người đó ăn và người đó lăn vào trong giấc ngủ

như lợn thiến trong chuồng heo.

Và người đó phải sống cuộc sống lặp đi lặp lại.

Tâm trí của riêng ta thường vẩn vơ

bất kì chỗ nào hoan lạc hay ham muốn hay thèm

khát dẫn nó đi.

Nhưng bây giờ ta đã thuần phục được nó,

ta hướng dẫn nó,

như người trông nom hướng dẫn voi hoang.

Thức dậy đi.

Là nhân chứng cho ý nghĩ của ông.

Voi kéo bản thân nó ra khỏi bùn lầy.

Theo cùng cách đó kéo bản thân ông ra khỏi lười

biếng của ông.

Vấn đề nền tảng không phải là siêu hình, nó không

liên quan tới thực tại tối thượng. Nó liên quan tới bạn,

tâm trí bạn, vận hành của tâm trí bạn, giấc ngủ của

bạn, trạng thái người mộng du của bạn.

Con người tồn tại bình thường chỉ theo máy móc.

Người đó không nhận biết mặc dầu người đó tin mình

nhận biết. Thực ra tin tưởng đó cản trở người đó trở

nên nhận biết. Con người ngủ say không chỉ trong đêm

mà cả trong ngày nữa. Người đó thường xuyên mơ.

Bạn có thể tự mình quan sát điều đó. Bất kì lúc nào

bạn nhắm mắt, thảnh thơi chút ít và bạn sẽ ngạc nhiên:

mơ bắt đầu chuyển động. Chúng đã di chuyển như

luồng chảy ngầm. Bạn bận bịu với thực tại bên ngoài,

do đó bạn không nhìn vào chúng, nhưng chúng có đó

mọi lúc. Lưng bạn hướng vào chúng. Chỉ nhìn chút ít

và bạn sẽ thấy cả nghìn giấc mơ đang chen chúc trong

bạn: có thể, không thể, nhất quán, không nhất quán.

Khi bạn thấy trạng thái này, bạn sẽ hiểu tại sao

nhân loại bao giờ cũng bỏ lỡ những người đã thức tỉnh.

Người thức tỉnh không còn dòng chảy ngầm nào của

mơ trong người đó. Người đó đầy tỉnh táo, nhận biết.

Người đó nói ngôn ngữ của nhận biết còn bạn ngủ.

Không có khả năng nào để trao đổi giữa bạn và người

đã thức tỉnh. Người đó kêu to, người đó làm mọi nỗ

lực để đạt tới bạn, để thấm vào bạn, để thấm vào giấc

ngủ và vô ý thức của bạn, nhưng nó dầy đặc, đậm đặc

và rất sâu. Hiếm khi bạn nghe người đó, rất hãn hữu,

và ngay cả khi bạn nghe người đó bạn diễn giải sai về

người đó. Ngay cả khi bạn nghe người đó bạn không

lắng nghe người đó. Bạn giống như người say có vẻ

như nghe thấy, nhưng dầu vậy vẫn cứ diễn giải tương

ứng theo trạng thái say của người đó. Toàn thể nhân

loại cần là một phần của tổ chức như Những người

nghiện rượu vô danh. Bạn có thể không uống rượu

cồn, bạn có thể không uống chất say nào, bạn có thể

không uống hay tiêm ma tuý nào, nhưng xã hội cứ

tiêm vào máu bạn, vào con người bạn, nhiều chất độc.

Chẳng hạn, từng đứa trẻ đều bị xã hội đầu độc qua

dạy nó tham vọng. Tham vọng là chất độc còn nguy

hiểm hơn nhiều so với bất kì rượu cồn nào đã từng

nguy hiểm, còn nguy hiểm hơn nhiều so với cần sa hay

LSD, bởi vì tham vọng phá huỷ toàn thể cuộc sống của

bạn. Nó giúp bạn đi theo hướng sai. Nó giữ bạn tưởng

tượng, ham muốn, mơ mộng, nó giữ bạn phí hoài cuộc

sống của bạn. Tham vọng nghĩa là việc sáng tạo tinh vi

của bản ngã, và một khi bản ngã được tạo ra, bạn ở

trong nắm giữ của bóng tối. Và toàn thể cấu trúc xã hội

tuỳ thuộc vào tham vọng. Là người đầu tiên! Dù bạn ở

bất kì chỗ nào, dù bạn làm bất kì cái gì: là người đầu

tiên! - cứ dường như là người đầu tiên có cái gì đó

thiêng liêng về nó. Bằng phương tiện nào bạn trở thành

người đầu tiên là không liên quan. Bằng phương tiện

đúng hay sai, cứ thành công đã! Dường như thành

công bản thân nó đã trở thành tương đương với cuộc

sống, đồng nghĩa với cuộc sống.

Cuộc sống chẳng liên quan gì với thành công cả.

Thành công giữ bạn chạy xô tới tương lai và điều đó

trở thành chất gây say của bạn. Hi vọng, hi vọng về

ngày mai, phí hoài cái bạn có hay cái bạn không có và

sẽ không bao giờ có cả.

Rabinowitz bước vào một cơ sở sân khấu của Gold

với một con rối kẹp nách.

"Tôi đưa tới đây một điều hấp dẫn sẽ làm cho ông

một triệu đô la. Tôi kiếm được con chó rối nhỏ này

biết chơi đàn piano điện tử và hát 'Mẹ Yiddish của

tôi'."

"Tôi không tin điều đó," Gold nói.

Rabinowitz mở va li ra, kéo ra chiếc đàn piano tí

xíu, đặt con rối lên đàn và con chó bắt đầu chơi đàn và

hát.

Nhân viên sân khấu nghiêng người và kêu lên,

"Trời đất! Chúng ta sẽ kiếm được món tiền lớn đây!"

Vừa lúc đó cánh cửa mở ra và một có chó to lớn

bước vào, ngoạm lấy cổ con rối, và chạy ra ngoài cùng

nó.

"Cái đồ chết tiệt gì thế này?" người nhân viên hỏi.

"Đấy là mẹ của con rối," Rabinowitz trả lời. "Nó

muốn con rối thành bác sĩ!"

Điều đó đã được làm cho mọi đứa trẻ. Mẹ bạn

muốn bạn là bác sĩ, bố bạn muốn bạn là kĩ sư, bác bạn

muốn bạn là nhà khoa học và vân vân, vân vân. Và

không ai hỏi bạn về bản chất được ngụ ý là cái gì. Họ

cứ áp đặt các ý tưởng của họ lên bạn. Tham vọng của

họ vẫn còn không được đáp ứng, họ phóng chiếu tham

vọng của họ lên bạn. Họ muốn tham vọng của họ và

bản ngã của họ được hoàn thành qua bạn. Và chúng sẽ

vẫn còn không được thoả mãn nữa; do đó bạn phải làm

cùng hư hỏng cho con cái riêng của mình. Chính từ thế

hệ nọ sang thế hệ kia mà chất độc được truyền qua.

Trong nhiều thế kỉ con người đã sống trong tình

huống điên khùng này. Bây giờ nó đã đạt tới cực đỉnh.

Toàn trái đất đã trở thành gần như một nhà thương

điên.

Nếu Phật đã không được hiểu trong hai mươi

nhăm thế kỉ trước, sẽ còn khó hiểu ông ấy ngày nay

hơn, bởi vì những tham vọng không được hoàn thành

của hai mươi nhăm thế kỉ đang tràn ngập ở đó, chúng

bao quanh bạn. Bạn bị ngập lụt với chúng. Tất cả

những người đã sống và chết đã bỏ lại tham vọng của

họ như thứ kế thừa cho bạn. Mắt bạn mù, tai bạn điếc,

tim bạn chỉ bơm máu, chúng không còn cảm nữa....

Cha sở lái xe về nhà một đêm thì bỗng nhiên xe

của ông ấy phát ra tiếng động khủng khiếp và dừng lại.

Cấm lấy chiếc đèn pin và hộp dụng cụ, ông ấy kéo

nắp đậy xe lên và bắt đầu nhìn qua động cơ.

Khi ông ấy đang sửa qua loa với chiếc cờ lê trong

tay, một người say địa phương choạng choạng đi qua

và dừng lại hỏi, "Có gì không ổn à cha sở?"

"Ừ. Piston bị bể."

"Tôi cũng thế," người say đáp.

Bạn không trong ý thức của mình. Do đó chư phật

đã bị hiểu lầm, và hiểu họ đã trở nên ngày một khó

hơn. Nhớ điều đó trong tâm trí bạn khi bạn thiền về

những lời hay này - những lời đơn giản, bởi vì chư

phật bao giờ cũng dùng những lời đơn giản, nhưng với

nghĩa sâu sắc vô cùng.

Phật nói:

Ta sẽ chịu những lời gay gắt

như voi chịu giáo ngoài chiến trường.

vì nhiều người nói ngông cuồng.

Ta sẽ chịu những lời gay gắt.... Phật trông đợi rằng

điều đó sẽ là phần thưởng của ông ấy. Ông ấy sẽ mưa

rào lên bạn bằng tình yêu và từ bi của ông ấy và tất cả

những điều bạn có thể làm là xúc phạm ông ấy, ném

những lời gay gắt hay ném đá vào ông ấy. Mọi điều

bạn có thể làm là một loại tổn hại nào đó. Bạn sẽ làm

tổn thương ông ấy. Do đó ông ấy nói ngay lúc ban đầu:

Ta sẽ chịu những lời gay gắt. Ông ấy trông đợi điều

đó, và mọi vị phật đều đã trông đợi điều đó qua nhiều

thời đại.

Có lần một đệ tử của Phật chuẩn bị đi thuyết giảng

lời của Phật cho quần chúng. Ông ấy đã trở nên chứng

ngộ, và Phật nói, "Bây giờ ông sẵn sàng để đi, ông

không cần đi cùng ta thêm nữa. Thỉnh thoảng ông có

thể tới gặp ta; bằng không ông có thể giúp mọi người

theo cách riêng của ông. Đi và giúp mọi người trở nên

ngày một nhận biết hơn, mang tính thiền hơn."

Nhưng Phật cũng nói, "Một điều ta muốn hỏi: Ông

muốn đi tới phần nào của đất nước?" Đã có một phần

của Bihar, nơi Phật đã sống, nơi không sannyasin nào

của Phật đã từng tới. Tên của phần này là Suka.

Sannyasin mới chứng ngộ này nói, "Tôi sẽ đi tới

Suka."

Phật nói, "Đừng đi tới đó. Không ai đã từng đi tới

đó bởi lí do nào đó. Người ở đó rất hoang dã, vô văn

hoá, ngu si, gian manh, sát hại, rất bạo hành. Đừng đi

tới đó."

Nhưng đệ tử này nói, "Nếu có những người đang

trong tình huống tồi tệ thế, họ cần chúng ta còn hơn

bất kì ai khác. Lương y được cần tới chỉ khi mọi người

ốm."

Phật nói, "Điều đó ta có thể hiểu được, nhưng

trước khi ông đi, trước khi ta ban phúc lành cho ông

đi, ta sẽ hỏi ba câu hỏi. Thứ nhất: Nếu họ xúc phạm

ông, đáp ứng của ông là gì?"

Anh thanh niên nói, "Tôi sẽ cám ơn họ là họ chỉ

xúc phạm tôi. Họ có thể đã đánh tôi. Họ là người tốt.

Họ không đánh tôi; họ đơn giản xúc phạm tôi - và lời

có thể làm được gì? Lời là lời, chúng không thể làm

hại tôi được."

Phật nói, "Câu hỏi thứ hai: Nếu họ đánh ông, đáp

ứng của ông sẽ là gì?"

Anh thanh niên nói, "Tôi sẽ cám ơn họ, tôi sẽ cảm

thấy biết ơn là họ đánh tôi. Họ có thể đã giết tôi. Họ

mới chỉ đánh tôi - họ từ bi thế, tốt thế. Giết tôi sẽ

không dễ dàng thế với họ."

Phật nói, "Bây giờ, câu hỏi cuối cùng: Nếu họ giết

ông, sắp chết, vào những khoảnh khắc cuối cùng, đáp

ứng của ông sẽ là gì?"

Anh thanh niên nói, "Dầu vậy tôi vẫn biết ơn và

cám ơn họ bởi vì họ đang lấy cuộc sống khỏi tôi mà

trong đó tôi có thể đã làm điều gì đó sai. Nếu mà tôi

sống thêm tôi có thể đã phạm phải tội ác nào đó, tội lỗi

nào đó; tôi có thể đã sa ngã khỏi đỉnh cao nhận biết

của mình. Họ đơn giản lấy đi cuộc sống vô dụng đối

với tôi. Tôi đã đạt tới kho báu này, tôi không cần cuộc

sống thêm nữa. Họ đang lấy đi cái gì đó vô dụng khỏi

tôi và tôi sẽ biết ơn bởi vì, ai mà biết được, nếu như tôi

đã sống nhiều hơn, trong tình huống nào đó tôi có thể

đã đi lạc lối."

Phật nói, "Bây giờ ông có thể đi bất kì chỗ nào ông

muốn đi với phúc lành của ta. Ông đã không chỉ trở

nên chứng ngộ, ông đã trở nên có khả năng là thầy."

Nhớ điều đó, rằng mọi người chứng ngộ không

phải là thầy, mặc dầu mọi thầy đều phải là người

chứng ngộ. Nhiều người chứng ngộ đã sống trên thế

gian này mà chưa bao giờ trở thành thầy bởi lí do đơn

giản việc là thầy cần phẩm chất nào đó mà không nhất

thiết cần cho người chứng ngộ. Chứng ngộ là quá trình

cá nhân; nó là cái gì đó nội tâm, chủ quan, nó có thể

xảy ra bên trong bạn. Là thầy nghĩa là có năng lực trao

đổi, và không chỉ trao đổi mà còn giao cảm với người

khác, những người khác gần như điên, những người

khác gần như không có khả năng thấy mọi sự.

Keller trả nhiều tiền mua con chó Buck, kẻ tìm

kiếm vàng. Một sáng Keller đi săn vịt cùng Buck.

Trong mười phút anh ta bắn một con vịt rơi xuống ao.

Buck chạy băng qua bề mặt nước, nhặt con vịt lên,

chạy trở về trên nước, và để con vịt dưới chân chủ

mình.

Cả sáng hôm đó cứ con chim nào rơi xuống ao khi

bị bắn đều được Buck chạy trên nước kiếm về mà

thậm chí không ướt gót chân.

Đến quãng trưa Keller gặp một người đánh cá. Khi

họ tán gẫu một con vịt bay qua và Keller nhanh chóng

làm nó bị thương ở giữa hồ.

Lại lần nữa, Buck chạy trên nước, kiếm con vịt, và

đem nó về.

"Tôi vừa mới mua con chó này hôm qua và tôi tốn

khá nhiều xìn cho nó," Keller nói.

"Rồi, họ kéo một con nhanh nhất cho ông," người

đánh cá nói. "Con chó thậm chí không thể bơi được!"

Trao đổi, giao cảm với cái không biết, với cái vô

hình, với điều huyền bí, là một trong những điều vĩ đại

nhất của nghệ thuật. Giúp mọi người thấy điều họ chưa

bao giờ thấy trước đây mặc dầu nó bao giờ cũng quanh

quẩn đâu đây, giúp mọi người nghe thấy điều họ chưa

bao giờ nghe trước đây mặc dầu nó bao giờ cũng có

đó, giúp mọi người im lặng, có tính thiền, là một trong

những nghệ thuật khó khăn nhất bởi vì mọi người đều

điên. Họ không biết im lặng là gì. Đánh thức họ ra

khỏi giấc ngủ của họ gần như là phép màu.

Một người điếc tới thăm bạn mình và con chó nhà

người đó sủa anh ta như điên. Không nghe được gì,

anh ta nói với người bạn mình sau khi họ đã bày tỏ

điệu bộ chào nhau, "Con chó của anh đêm qua ngủ

không ngon."

"Sao anh nói vậy?"

"Nó nhìn tôi và cứ ngáp hoài."

Người điếc không thể nghe được, người đó không

thể nghe thấy chó sủa; người đó chỉ có thể thấy cử

động, điệu bộ, môi chuyển động, mồm mở ra và khép

lại, và người đó sẽ diễn giải tương ứng với hiểu biết

riêng của mình. Người đó nói, "Nó nhìn tôi mà cứ

ngáp hoài."

Đó là cách chúng ta đã lắng nghe chư phật. Chúng

ta đã không lắng nghe chút nào, chúng ta đã nghe lời

của họ, chắc chắn. Nếu chúng ta lắng nghe họ thì đã

không cần chúng ta đóng đinh Jesus hay đầu độc

Socrates hay giết al-Hillaj Mansoor.

Phật nói - điều đầu tiên cần nhớ: Ta sẽ chịu những

lời gay gắt như voi chịu giáo ngoài chiến trường. Đó

là chiến trường giữa người đã thức tỉnh và đám đông

chưa thức tỉnh. Nó thực sự là chiến trường lớn, nó là

cuộc chiến, và người chưa thức tỉnh có nhiều còn

người đã thức tỉnh chỉ có một. Và tất cả những người

chưa thức tỉnh đều cảm thấy bẽ mặt nào đó trong sự

hiện diện của người đã thức tỉnh. Họ cảm thấy dường

như sự hiện diện của người đó chứng tỏ cho họ rằng

họ đã không vươn tới được tầm cao thực của họ, rằng

họ đã phí hoài kiếp sống của họ. Thay vì vươn lên tới

tầm cao của mình họ muốn loại bỏ sự hiện diện của

người đã thức tỉnh để cho họ có thể cảm thấy thoải

mái. Bạn bao giờ cũng cảm thấy thoải mái với người

giống như bạn; sự hiện diện của họ không làm cho bạn

thấy kém cỏi theo bất kì cách nào. Sự hiện diện của

Phật làm cho bạn cảm thấy kém cỏi và bạn nhất định

trả thù. Nó là trận chiến, và vị phật phải giống như con

voi đang chịu giáo đâm trong trận chiến.

Vì nhiều người nói ngông cuồng.... Không chỉ lời

của họ sẽ gay gắt, chúng sẽ gần như bừa bãi, điên

khùng. Tôi biết điều đó từ kinh nghiệm riêng của

mình.

Trong hai mươi năm tôi đã du hành khắp đất nước

này. Tôi đã gặp đủ mọi loại người ngông cuồng. Cần

mời họ, cần chọn người của tôi từ đám đông, do đó tôi

phải đi. Nhưng cách họ hành xử thật là lạ. Tôi không

làm hại họ; tôi đơn giản bảo họ thức dậy theo cả nghìn

lẻ một cách, nhưng họ ném đá vào tôi, họ quấy rối

cuộc gặp mặt của tôi, họ ngăn cản tôi vào thị trấn của

họ. Họ ngăn cản tôi xuống tàu hoả vào thị trấn của họ.

Họ làm đủ mọi thứ... họ thực sự ngông cuồng chẳng vì

lí do gì cả.

Họ vẫn đang làm điều đó, mặc dầu tôi không vào

thị trấn của họ; mặc dầu bây giờ tôi chưa bao giờ đi bất

kì đâu, họ vẫn cư xử theo cách ngông cuồng. Họ vẫn

cứ nói những điều dị thường, nhưng vẫn tin. Và bây

giờ không chỉ ở Ấn Độ họ mới nói những lời gay gắt

về tôi, gần như trên khắp thế giới đều thế.

Mới hôm qua tôi nhận được một bài báo xuất bản

ở London. Họ nói rằng tôi tẩy não mọi người ở đây và

khi não của họ được tẩy đi hoàn toàn, thế thì đàn ông

được cử đi buôn lậu còn đàn bà được cử đi làm mại

dâm. Đó là điều tôi đang làm cho bạn, cho nên phải

cảnh giác! Một khi não bạn bị tẩy hoàn toàn thì hai

phương án này còn lại. Và người viết bài báo đó, viết

nó với tin tưởng lớn lao cứ dường như anh ta biết.

Mới hôm nọ tôi nhận được một tin từ Bombay.

Một sannyasin đã bắt gặp vài ảnh chụp trong trường

quay. Sannyasin này có thể thấy những bức ảnh ai đó

trông giống tôi. Mới thoáng nhìn anh ấy bị choáng; khi

anh ấy nhìn kĩ hơn thì anh ấy có thể thấy đấy là ai đó

khác, nhưng với sự tương tự nào đó. Bây giờ, họ đã

hối lộ người này ở truồng giữa những đàn bà truồng,

và họ đã chụp ảnh ông ta, và bây giờ họ sẽ xuất bản

chúng trên khắp thế giới. Ý tưởng to tát! Tôi thực sự

thích điều đó. Tưởng tượng nào đó.

Nhưng đây là cách họ bao giờ cũng đã làm. Và tôi

không nói rằng họ làm điều đó một cách có chủ ý.

Không, họ có thể nghĩ rằng họ đang phục vụ nhân loại,

họ đang làm mọi người nhận biết về tôi là nguy hiểm.

Họ có thể có mọi ý định tốt đằng sau tất cả những điều

này; điều đó làm cho sự việc phức tạp hơn. Họ đơn

giản là người phục vụ nhân loại.

Phật nói: Vì nhiều người nói ngông cuồng.

Cho nên nếu bạn muốn sống trong thế giới này và

được thức tỉnh bạn sẽ phải sẵn sàng chấp nhận lời gay

gắt của họ, hành động ngông cuồng của họ một cách

kiên nhẫn, im lặng, với hiểu biết sâu sắc rằng họ có thể

làm được gì? Bất kì điều gì họ có thể làm được, họ đều

đang làm. Đấy không phải là lỗi của họ, họ đơn giản

ngủ, và trong giấc ngủ của mình họ đang nói những

điều ngớ ngẩn.

Khi ai đó say và bắt đầu nói những điều ngớ ngẩn

bạn không để ý mấy tới điều đó. Bạn nói, "Người đó là

người say " - nhưng đó là cách mọi người đang vậy.

Voi được thuần dưỡng ra chiến trận.

Vua cưỡi lên voi.

Người được thuần dưỡng là chủ.

Người đó có thể chịu được những lời gay gắt trong

an bình.

Voi được thuần dưỡng ra chiến trận.... Với "voi

được thuần dưỡng" Phật ngụ ý "người có kỉ luật." Lời

'voi được thuần dưỡng' là không thật chính xác đâu; tốt

hơn nên nói "người có kỉ luật." Có khác biệt lớn lao

giữa được thuần dưỡng và kỉ luật. Bạn có thể thuần

dưỡng qua ép buộc, bó buộc, bạo hành, nhưng bạn

không thể lập kỉ luật qua bó buộc được. Kỉ luật tới từ

hiểu biết. Bạn có thể giúp mọi người hiểu tâm trí riêng

của họ và vận hành của tâm trí của họ, trạng thái ngủ

của họ, tính máy móc. Từ hiểu biết đó thay đổi xảy ra,

thay đổi triệt để xảy ra: họ trở thành dịu dàng, từ bi, im

lặng, an bình, hiểu biết nhiều hơn, sẵn có nhiều hơn,

cởi mở nhiều hơn.

Voi được thuần dưỡng ra chiến trận.

Vua cưỡi lên voi.

Người được thuần dưỡng là chủ.

Người đó có thể chịu được những lời gay gắt trong

an bình.

Người có kỉ luật cũng trở thành người chủ, cũng

trở thành vua. Người đó cưỡi lên kỉ luật riêng của

mình, hiểu biết riêng của mình. Người đó sống trong

thế giới cùng mọi người hoang sơ, vô văn hoá, vô giáo

dục theo nghĩa thực của giáo dục: họ không biết họ là

ai. Điều đó nên là bước đầu tiên tới giáo dục đúng. Họ

không quen với lãnh thổ riêng của họ. Đây là loại giáo

dục gì mà không làm cho họ nhận biết về vương quốc

bên trong riêng của họ, điều cứ nhồi vào họ với những

thông tin vô nghĩa, vô dụng? - địa lí, lịch sử... bạn sẽ

làm gì với Genghis Khan và Tamerlane? Tất cả điều

đó phỏng có ích gì?

Nhưng chúng ta cứ nhồi vào mọi người những

thông tin không cần thiết. Phỏng có ích gì mà biết

Timbuktu ở đâu? Cứ để nó ở chỗ nó ở đi. Cho dù nó

không có ở đâu cả, chẳng thành vấn đề gì. Và lịch sử

của những kẻ sát nhân được gọi là vua, những kẻ sát

nhân được gọi là người chinh phục, Alexander Đại đế

hay Napoleon.... Và trong tương lai mọi người sẽ đọc

về Adolf Hitler, Benito Mussolini, Joseph Stalin, Mao

Trạch Đông, Ayatollah Khomeiniac. Điều đó tất cả

tuyệt đối không liên quan.

Giáo dục cơ sở bị thiếu. Điều đầu tiên cần được

dạy là thiền, nghệ thuật đi vào trong, bởi vì chỉ từ đó

mới nảy sinh ra kỉ luật. Từ 'discipline - kỉ luật' là hay;

nó nghĩa là khả năng học. Người có kỉ luật bao giờ

cũng sẵn sàng học. Người đó không bao giờ đóng,

người đó không bao giờ tuyên bố rằng mình biết mọi

điều. Người đó biết điều người đó biết, và người đó

cũng biết điều người đó không biết - và điều người đó

biết là rất nhỏ, và điều người đó không biết là mênh

mông. Người đó không thể ba hoa về tri thức của mình

được. Thực ra người đó càng biết nhiều người đó càng

trở nên nhận biết về cái chưa được thăm dò, về cái

chưa được vẽ bản đồ, về cái không biết; và không chỉ

cái không biết mà cả cái không thể biết. Càng ngày

người đó càng cảm thấy điều huyền bí của sự tồn tại,

càng ngày người đó càng ngạc nhiên hơn. Đó là tri

thức đúng, giáo dục đúng, văn hoá đúng.

Thế thì người đó trở thành người chủ, nhà vua; chỉ

thế thì người đó mới có thể làm nỗ lực để đạt tới mọi

người. Chỉ thế thì người đó mới có thể trao đổi tình

yêu của mình, hiểu biết của mình, cái biết của mình,

cái thấy của mình.

Tốt hơn con la

hay con ngựa hay của Sindh

hay con voi chiến to lớn

là người đã làm chủ bản thân mình.

Phật không quan tâm tới Thượng đế, Phật quan

tâm tới bạn. Tôn giáo của ông ấy hướng theo con

người, không hướng theo Thượng đế. Một trong những

nhà thơ lớn của Ấn Độ, Chandidas, đã cô đọng toàn

thể giáo huấn của Phật vào một câu đơn giản: sabar

upar manus satya - chân lí của con người là chân lí cao

nhất, không có chân lí nào cao hơn nó - tahar upar

nahin; không có gì cao hơn điều đó.

Phật đã cho con người chân giá trị tới mức không

ai khác đã từng làm được. Mọi tôn giáo khác đều kết

án con người, họ kết án con người để ca ngợi Thượng

đế; và "Thượng đế" của họ không là gì ngoài tưởng

tượng của họ. Do đó có nhiều thượng đế như có nhiều

tôn giáo. Có ít nhất ba trăm tôn giáo trên thế giới, ba

nghìn giáo phái của những tôn giáo này, và phải có ba

mươi nghìn giáo phái con. Và nhiều thượng đế như các

giáo phái này trên thế giới. Mọi giáo phái đều có ý

tưởng riêng của họ về thượng đế, và Thượng đế chẳng

tồn tại chút nào.

Điều tồn tại là sự tồn tại mang tính thượng đế, sự

tồn tại thiêng liêng. Thượng đế không phải là người

nhưng như sự hiện diện chắc chắn tồn tại. Nhưng để

hiểu sự hiện diện đó, bạn phải hiểu sự hiện diện bên

trong riêng của mình trước hết, bởi vì chính từ đó mà

bạn có thể cất cánh, chính từ đó mà bạn có thể có

thoáng nhìn đầu tiên về tính thượng đế là gì. Nếu bạn

không biết tới bản thân mình bạn sẽ không bao giờ biết

tới Thượng đế.

Bạn có thể cứ tôn thờ trong đền chùa, trong đền

hồi giáo, trong nhà thờ, nhưng Thượng đế của bạn là

ấu trĩ. So với giáo huấn của Phật, thượng đế được tôn

thờ có vẻ rất ngu xuẩn. Người tôn thờ có vẻ ngu xuẩn,

và thượng đế của họ, bởi vì thượng đế được những

người tôn thờ ngu xuẩn tạo ra, cũng có vẻ ngu xuẩn.

Thượng đế của bạn chẳng là gì ngoài phóng chiếu của

bạn; họ không thể nhiều hơn trạng thái tâm trí riêng

của bạn. Quan sát mà xem. Các thượng đế khác nhau

được những người khác nhau tạo ra. Nếu ngựa có thể

nghĩ về tôn giáo, thế thì thượng đế của chúng có thể là

siêu ngựa. Nó không thể là người được, đến chừng đó

là chắc chắn. Không ngựa nào có thể tin rằng người có

chân giá trị nào trong người đó. Con người dường như

là con vật man rợ nhất. Nếu ngựa mà tưởng tượng,

chúng sẽ tưởng tượng quỉ dưới dạng người. Con người

tưởng tượng Thượng đế theo hình ảnh riêng của mình;

do đó người da đen có thượng đế của họ như người da

đen. Bạn có thể thấy tóc của thượng đế da đen, họ là

người da đen; bạn có thể thấy môi của thượng đế

người da đen và chúng dầy. Thượng đế của người

Hindu là người Hindu, và thượng đế của người Trung

Quốc là người Trung Quốc, lưỡng quyền nổi cao và

mũi tất nhiên là của người Trung Quốc.

Mọi nước, mọi giống nòi, mọi tôn giáo đều nghĩ về

Thượng đế tương ứng với ý tưởng riêng của họ về con

người phải thế nào. Nhưng đấy tất cả đều là phóng

chiếu của chúng ta. Phật không quan tâm chút nào tới

chúng. Phật muốn bạn trở thành thượng đế. Ông ấy

muốn bạn trở thành thiêng liêng. Bạn là thiêng liêng;

ông ấy muốn bạn nhận ra sự kiện này. Không có ai cao

hơn bạn. Tuyên bố này là cái gì đó siêu phàm, cái gì

đó duy nhất. Không ai đã dám nói điều đó trước Phật

để kính trọng con người nhiều như vậy.

Cha O'Reilly đã cầm gậy chơi golf lên và đang

chơi trên thảm cỏ nhà thờ trong khi xơ McCarthy đứng

xem. Cha O'Reilly vung gậy lên, và đánh vào quả

bóng.

"Ôi, cứt thật! Trật rồi," ông ấy kêu lên.

"Cha O'Reilly ơi," xơ McCarthy nhắc nhở,

"Thượng đế sẽ giận lắm nếu cha dùng từ như thế."

"Vâng, xơ ạ," cha O'Reilly đáp. "Tôi sẽ cố gắng

kiểm soát ngôn ngữ của mình." Ông ấy giơ gậy lên thử

lần nữa đánh vào quả bóng. "Ôi, cứt thật! Trật rồi,"

ông ấy kêu lên.

"Cha O'Reilly ơi, tôi chắc chắn Thượng đế sẽ

trừng phạt cha nặng đấy nếu cha nói điều đó lần nữa!"

xơ nói.

"Vâng, tôi sẽ đặc biệt cố gắng lần sau, xơ

McCarthy à," linh mục nói. Ông ấy lại giơ gậy lên và

đánh vào quả bóng. "Ồ, cứt thật! Trậtt rồi," ông ấy kêu

lên.

Ngay lúc đó một tia sét nhoáng lên từ trên trời và

xơ McCarthy biến mất trong ngọn lửa huỷ diệt. Thế rồi

một giọng nói ồm ồm cất lên từ trên trời. "Ôi, cứt thật!

Trật rồi."

Thượng đế của chúng ta không thể rất khác nhau

được; họ đều là thượng đế của chúng ta, họ sẽ phản xạ

lại chúng ta. Do đó Phật nói: Gạt bỏ mọi thượng đế đi.

Điều bạn tôn thờ trong đền chùa chẳng là gì ngoài hình

ảnh riêng của bạn. Sẽ tốt hơn nếu bạn để cái gương và

tôn thờ sự phản xạ của mình trong nó. Điều đó sẽ tốt

hơn nhiều, ít lừa dối hơn.

Nhấn mạnh của Phật là vào con người. Đó là tôn

giáo hướng con người duy nhất trên thế giới. Và tất

nhiên nó làm biến đổi con người, nó không làm bạn

thành mê tín, nó không cho bạn tin tưởng nào. Nó cho

bạn chìa khoá để mở các cánh cửa của bản thể riêng

của bạn. Và khi bạn biết mình là ai, bạn sẽ biết toàn

thể sự tồn tại này là gì và cái đẹp của nó và sự duyên

dáng của nó và sự huy hoàng của nó.

Không cưỡi trên lưng chúng

người đó vẫn có thể tới đất nước chưa ai từng đặt

chân tới,

mà chỉ theo cách riêng của người đó.

Nhớ lấy, bạn không thể tới được đất nước chưa

từng ai đặt chân tới trên lưng của bất kì ai khác. Bạn sẽ

phải tới theo cách riêng của bạn. Lời cuối cùng của

Phật là: Là ánh sáng lên bản thân mình - bởi vì không

có ánh sáng nào khác.

Ông ấy cho bạn tự do toàn bộ, ông ấy muốn bạn tự

do với mọi loại tù túng. Ông ấy không muốn bạn là tín

đồ, là người bắt chước; ông ấy muốn bạn đích thực là

cái ta riêng của bạn.

Voi to lớn Dhanapalaka

là hoang dã khi nó đang động dục,

và khi bị trói nó sẽ không ăn,

vẫn nhớ về rừng của voi.

Cho dù đó là con voi huyền thoại, Dhanapalaka

được coi là con voi to lớn nhất đã từng có trên trái đất,

con voi khôn ngoan nhất. Đó chỉ là câu chuyện hay.

Nhưng ngay cả Dhanapalaka với sức mạnh như thế,

với khôn ngoan như thế, cũng sẽ thành hoang dã khi

nó đang động dục; khi nó bị khuấy động về dục nó

không còn trong ý thức của nó nữa, nó trở thành điên.

Dục thực sự là quá trình bên trong gây ngất ngây

cho bạn. Nó là hoá chất. Bạn chẳng liên quan gì tới nó.

Nó là hoá chất thân thể bạn, nó là sinh lí của bạn, cái

tiết ra hoá chất nào đó trong thân thể bạn và thế rồi

trong trạng thái dục bạn có thể làm cái gì đó mà vì nó

bạn sẽ ăn năn. Về sau bạn sẽ nói, "Tôi không thể nào

tin được làm sao điều đó đã xảy ra. Điều đó đã xảy ra

bất chấp tôi." Và điều đó không chỉ là dục; nhiều thứ

thế đang xảy ra trong bạn qua sinh lí của bạn. Khi bạn

giận, đấy không phải là bạn. Lại chất độc nào đó đang

được tiết ra trong máu bạn và bạn ở dưới tác động của

những chất độc này.

Phật nói: Nếu ông quan sát các quá trình dâm dục,

giận dữ, tham lam, ông sẽ có khả năng thấy rằng

những điều này được sinh ra không phải từ ông. Bạn

chỉ là nhân chứng. Những điều này được sinh ra trong

thân thể bạn, trong tâm trí bạn; và thân thể và tâm trí

không phải là hai thứ, chúng là một. Bạn là thân tâm.

Tâm trí là thân thể bên trong của bạn, và thân thể là

tâm trí bên ngoài của bạn. Do đó thân thể ảnh hưởng

tới tâm trí và tâm trí ảnh hưởng tới thân thể. Bạn là lực

thứ ba.

Lực thứ ba đó được biết tới chỉ qua thiền; không

có cách khác để biết nó, bởi vì chính qua thiền mà bạn

trở nên không bị đồng nhất với cơ chế thân tâm. Bằng

không bạn có thể rất mạnh mẽ, rất thông thái, thậm chí

đôi khi trong vài khoảnh khắc rất khôn ngoan, nhưng

tất cả những điều đó có thể đi vào trong một giây.

Thân thể bạn có thể sở hữu bạn, sinh lí của bạn có thể

trở thành mạnh trên bạn tới mức bạn trở thành nô lệ.

Bạn mất quyền làm chủ. Bất kì khi nào bạn giận dữ,

bất kì khi nào bạn ở trong cơn dục, bạn không còn là

người chủ nữa, bạn đơn giản là nô lệ.

Phật không chống lại dục, nhớ lấy. Phật không

chống lại giận dữ hay tham lam, ông ấy chống lại sự

nô lệ. Bất kì cái gì tạo ra sự nô lệ trong bạn, ông ấy

muốn bạn siêu việt lên trên nó. Nhớ khác biệt này. Có

những người chống lại dục - họ chống dục bởi vì dục

là khoái lạc, họ nói vậy; họ chống dục bởi vì dục làm

bạn sướng. Họ chống lại sung sướng. Họ không thể

dung thứ bất kì hạnh phúc nào ở bất kì đâu. Họ là

những kẻ bạo ác, họ muốn toàn thế giới ở trong khổ;

họ tận hưởng khổ. Họ không chỉ muốn người khác

khổ, họ làm cho bản thân họ khổ nữa. Khổ là niềm vui

của họ. Đó là trạng thái đồi bại, trạng thái bệnh hoạn.

Phật không chống lại dục bởi vì nó cho bạn hoan

lạc; ông ấy đơn giản cố gắng làm cho bạn nhận biết về

sự kiện đây là những điều làm cho bạn bị trói buộc vào

một loại nô lệ bên trong nào đó. Bạn là nô lệ của hoá

chất riêng của mình, bạn là nô lệ của sinh lí riêng của

mình - và sự nô lệ này phải được siêu việt lên.

Voi to lớn Dhanapalaka là hoang dã khi nó đang

động dục, và khi bị trói nó sẽ không ăn, vẫn nhớ về

rừng voi. Khi nó bị dưới tác động của dục, nó không

thể ăn được; nó chỉ nghĩ về rừng voi, nó nghĩ về voi

cái. Toàn thể tâm trí của nó bị choán bởi tưởng tượng -

và điều đó là đúng về bạn nữa. Bất kì khi nào bạn ở

dưới tác động của bất kì quá trình hoá chất nào bạn

không còn là bản thân mình nữa, bạn bị sao lãng khỏi

bản thể thực của mình. Bạn không còn được định tâm.

Bạn trở thành người lập dị. Điều đó đích xác là nghĩa

của từ lập dị: bạn mất trung tâm của mình, bạn đi khỏi

trung tâm.

Người ngu nhàn rỗi.

Người đó ăn và người đó lăn vào trong giấc ngủ

như lợn thiến trong chuồng heo.

Và người đó phải sống cuộc sống lặp đi lặp lại

mãi.

Phật muốn bạn được nhắc nhở rằng bạn sống như

người ngu - nhàn rỗi, lười biếng, không làm nỗ lực nào

để biến đổi bản thể bạn, không làm nỗ lực nào để siêu

việt lên trên sự nô lệ của bạn, không làm nỗ lực nào để

trở thành người chủ - nếu bạn muốn như kẻ ngu, chỉ ăn

và lăn vào trong giấc ngủ của mình, như lợn thiến

trong chuồng heo, bạn sẽ phải sống đi sống lại trong

cùng cuộc sống ngu xuẩn. Bạn sẽ phải lặp lại nó. Thực

ra bạn đã lặp lại nó nhiều lần rồi, và bạn vẫn chưa hiểu

tại sao bạn lặp đi lặp lại nó. Bạn phải học bài học này.

Bài học này là tự do. Nếu bạn không học nó bạn sẽ bị

gửi lại về cùng trường, về cùng lớp lặp đi lặp lại mãi.

Đó là một trong những đóng góp vĩ đại nhất của

tâm linh Ấn Độ cho thế giới. Ấn Độ đã đóng góp vài

điều; đây là một trong những đóng góp có ý nghĩa vĩ

đại. Ý tưởng là ở chỗ sự tồn tại là cơ hội cho hiểu biết,

cho siêu việt, cho trải qua thay đổi triệt để. Nó là

trường học. Cuộc sống là trường học. Nếu bạn học

đúng, nếu bạn lập kỉ luật đúng cho bản thân mình bạn

sẽ không quay lại nữa, bạn sẽ tồn tại trong vũ trụ. Bạn

sẽ không bao giờ trở lại thành cá nhân tách rời; bạn sẽ

không bao giờ phải là bản ngã lần nữa. Bạn sẽ sống sự

tồn tại vô ngã, như sóng đã tan biến trong đại dương.

Điều đó đã từng là mục đích tối thượng của các

nhà huyền môn: biến mất vào trong vũ trụ, không tách

rời; tan chảy và hội nhập vào trong vũ trụ. Tách rời

đem tới lo âu, tách rời đem tới cái chết, tách rời đem

tới khổ sở. Chúng ta khổ bởi vì chúng ta cảm thấy tách

rời khỏi Thượng đế hay vũ trụ. Phúc lạc nảy sinh bất kì

khi nào bạn cảm thấy là một với vũ trụ; khi bạn ở

trong hài hoà với vũ trụ, phúc lạc nảy sinh. Có vui vẻ

lớn lao, hân hoan; bạn biến mất, bạn chết đi theo cách

này, nhưng bạn được tái sinh. Bạn được tái sinh như

đại dương, bạn chết đi như giọt sương.

Nhưng nếu bạn không học bài học này bạn sẽ phải

quay lại lần nữa. Chừng nào bạn còn chưa học bạn sẽ

phải lặp lại cùng quá trình.

David, một sinh viên đại học, nhận được một cú

điện thoại từ anh của mình Blake, trở về nhà.

"Chào, David," Blake nói. "Mèo của em chết rồi."

David sụp xuống. Anh ta bắt đầu khóc không kiềm

chế nổi. Rồi cuối cùng anh ta cũng có thể trấn tĩnh lại

mình, anh ta trách móc anh mình.

"Đồ khốn kiếp, Blake," anh ta nói với Blake. "Anh

biết em yêu con mèo đó thế nào rồi. Anh đã không gọi

điện cho em và tiết lộ tin tức, đó là điều thứ nhất -

'Mèo của em chết rồi.' Anh đáng phải thông báo cho

em một cách dịu dàng chứ. Anh đáng ra có thể nói,

'Dave ơi, con mèo nhảy ra khỏi cửa sổ hôm nọ và leo

lên máng nước mưa rồi leo lên mái và trượt chân và

ngã,' và thế rồi anh có thể nói nó chết."

"Anh rất xin lỗi," Blake xin lỗi.

"Thôi được, quên điều đó đi," David nói. "Mẹ thế

nào?"

"Thế này, mẹ trèo ra ngoài cửa sổ hôm nọ và bò

lên máng nước...."

Học khó thế, chúng ta cứ lặp đi lặp lại cùng sai

lầm mãi - có thể theo cách mới, theo kiểu cách mới,

theo phong cách mới, nhưng nó vẫn cứ là cùng sai lầm

đó. Bạn quan sát cuộc sống của bạn mà xem: bạn đã

không phạm nhiều sai lầm đâu, bạn đã phạm cùng sai

lầm lặp đi lặp lại thôi. Bạn đi theo vòng tròn. Làm sao

bạn học được? Tôi không chống lại việc phạm sai lầm.

Cứ phạn nhiều sai lầm như bạn có thể phạm, nhưng ít

nhất xin đừng phạm cùng sai lầm hai lần. Thế thì chắc

chắn hiểu biết lớn lao sẽ tới với bạn. Người ta học qua

sai lầm, cho nên không cái gì sai trong sai lầm đến

chừng mực đó. Cái sai là ở việc lặp đi lặp lại. Điều đó

nghĩa là bạn không học gì cả.

Cả đời mình bạn đã từng giận dữ. Bạn đã học được

gì từ điều đó? Cả đời mình bạn đã từng ghen tị. Bạn đã

học được gì từ điều đó? Nếu bạn không học từ những

kinh nghiệm này, bạn sẽ phải lặp lại cuộc sống của

mình lần nữa. Học từ mọi kinh nghiệm, nhỏ hay lớn.

Bất kì khi nào bạn ghen tị bạn đều trong lửa cháy, trái

tim bạn bùng cháy - và bạn biết điều bạn đang làm cho

bản thân mình. Bạn biết cái sai của nó, nhưng bạn biết

điều đó chỉ bởi vì người khác nói vậy. Đó không phải

là hiểu biết riêng của bạn, sáng suốt riêng của bạn. Để

điều đó là sáng suốt riêng của bạn đi, để cho lần sau

khi tình huống nảy sinh cho ghen tị, bạn có thể cười

vào nó, để cho lần sau cùng tình huống nảy sinh bạn

không cư xử theo cùng hình mẫu cũ; bạn có thể thoát

ra khỏi hình mẫu cũ.

Với tôi đây là tính chất sannyas: bao giờ cũng

thoát ra khỏi hình mẫu cũ, bao giờ cũng trở nên mới,

bao giờ cũng vẫn còn tươi tắn, trẻ trung, học hỏi. Thế

thì cả đời bạn sẽ dạy cho bạn cái gì đó có giá trị mênh

mông và bạn sẽ có khả năng chết đi trong im lặng sâu

sắc, an bình, vui vẻ. Thế thì không có việc quay lại.

Thế thì bạn trở thành một phần của cái toàn thể. Đó là

niết bàn, đó là moksha.

Trong các tôn giáo phương Tây không có từ nào

có thể dịch cho moksha hay niết bàn. Trong các tôn

giáo phương Tây - Ki tô giáo, Hồi giáo là các nhánh

của một tôn giáo, Do Thái giáo - có hai từ, địa ngục và

cõi trời. Trong các tôn giáo Ấn Độ có ba từ: địa ngục,

cõi trời và moksha. Địa ngục không ngụ ý gì khác

ngoài khổ; nó là trạng thái tâm lí của khổ, trạng thái

của tiêu cực, trạng thái của bóng tối, của đơn độc hoàn

toàn. Còn cõi trời là vui vẻ, hạnh phúc, mạnh khoẻ,

ánh sáng. Nhưng có từ thứ ba, moksha. Moksha nghĩa

là tự do, tự do khỏi cả cõi trời và địa ngục, tự do khỏi

đau đớn và hoan lạc - bởi vì đau trói buộc bạn nhiều

cũng như hoan lạc trói buộc bạn. Đau có thể là xiềng

xích xấu và hoan lạc có thể là xiềng xích đẹp, được

trang trí, có thể làm bằng vàng, nhưng nó xiềng xích

bạn. Địa ngục có thể là chỗ nghèo nàn và cõi trời có

thể là chỗ rất giầu nhưng nghèo và giầu là hai mặt của

cùng một đồng tiền. Người ta phải tự do với cả hai.

Khi bạn tự do với cả hai, bạn tự do với tâm trí, bởi

vì tâm trí sống trong nhị nguyên của cõi trời và địa

ngục, của tối và sáng, của khổ và sướng, của ngày và

đêm, của sống và chết. Khi bạn đã siêu việt lên trên cả

hai và đạt tới cái thứ ba ở bên ngoài, cái siêu việt, đó là

moksha. Moksha nghĩa là niết bàn; nó là việc dừng lại

của bản ngã, và gặp gỡ và hội nhập vào trong vũ trụ.

Điều đó đã từng là mục đích của huyền môn phương

Đông.

Cũng như khoa học đã đạt tới những đỉnh tối

thượng của nó ở phương Tây, tôn giáo đã đạt tới các

đỉnh tối thượng của nó ở phương Đông. Bất kì khi nào

Đông và Tây gặp gỡ sẽ có gặp gỡ lớn lao của khoa học

và tôn giáo. Và điều đó sẽ là một trong những khoảnh

khắc vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, bởi vì thế thì

con người có thể sống bên ngoài một cuộc sống giầu

có và bên trong một cuộc sống tràn đầy. Thế thì không

cần nghèo như Ấn Độ đang vậy hay trống rỗng bên

trong như Mĩ đang vậy. Người ta có thể giầu có bên

ngoài, và người ta có thể giầu có bên trong đồng thời.

Người ngu nhàn rỗi.

Người đó ăn và người đó lăn vào trong giấc ngủ

như lợn thiến trong chuồng heo.

Và người đó phải sống cuộc sống lặp đi lặp lại

mãi.

Một ông già người Đức ngồi trước đống lửa và

trong một khoảnh khắc trầm ngâm nói với con chó của

mình, "Mày chỉ là một con chó, nhưng tao ước tao

được là mày. Xi mày di ngủ, mày xẽ quay vòng pa lần

rồi nằm xuống; xi tao di ngủ, tao pải khoá cửa, và xẽ

vặn tồng hồ, và đuổi mèo ra, và tự mình cởi tuần áo, và

vợ tao thức dậy và giao chợp, và dồi con nhỏ thức dậy

và khóc và tao pải pế nó đi quanh nhà, và dồi tao mới

có thể chui vào giường đúng lúc để dậy lần nữa.

"Xi mày dậy, mày xẽ duỗi người mày ra, gãi cổ

một chút, và mày dậy. Tao phải nhóm lửa, làm pếp, cãi

cọ chút ít với vợ tao, và cho tao ăn sáng. Mày nằm đó

cả ngày và có nhiều hoan lạc. Tao pải làm việc cả ngày

và gần như thân tâu ngựa. Xi mày chết, mày chết; xi

tao chết, tao lại pải đi đâu đó."

Bạn không cần đi đâu đó nếu bạn học; nếu bạn học

bài học bạn không cần đi đâu nữa. Bạn biến mất vào

trong cái toàn thể, bạn ở mọi nơi và không ở đâu cả.

Bạn không còn là một thực thể, bị giới hạn trong các

biên giới.

Tâm trí của riêng ta thường vẩn vơ

bất kì chỗ nào hoan lạc hay ham muốn hay thèm

khát dẫn nó đi.

Nhưng bây giờ ta đã thuần phục được nó,

ta hướng dẫn nó,

như người trông nom hướng dẫn voi hoang.

Đây cũng là cái gì đó mới trong Phật. Người Ki tô

giáo tin Jesus là đặc biệt; ông ấy là đứa con duy nhất

của Thượng đế. Người Hindus tin Krishna là đặc biệt;

ông ấy là hoá thân hoàn hảo của Thượng đế. Người

Mô ha mét giáo tin Mohammed là đặc biệt; ông ấy là

nhà tiên tri duy nhất của Thượng đế, sứ giả duy nhất.

Người Jaina tin Mahavira là đặc biệt; ông ấy là

tirthankara cuối cùng, thứ hai mươi tư, nhà tiên tri cuối

cùng của Jaina giáo; sẽ không có thêm nhà tiên tri nữa

sau Mahavira. Họ là duy nhất, những người này, đặc

biệt, không phải là sinh linh bình thường như bạn và

tôi.

Phật lại khác. Ông ấy nói, "Ta là sinh linh bình

thường." Ông ấy nói, Tâm trí của riêng ta thường vẩn

vơ.

Sách phúc âm chưa bao giờ nói điều gì như điều

đó, không kinh sách Hindu nào đã từng nói điều gì

giống như điều đó về Krishna hay Rama bởi vì điều đó

sẽ làm cho họ thành bình thường như bạn. Họ được

sinh ra là thượng đế.

Phật đơn giản nói, "Ta là sinh linh cũng hệt như

các ông. Ta đã dò dẫm trong bóng tối cũng như các

ông thôi. Ta đã làm đủ mọi thứ như các ông đang làm;

ta chẳng đặc biệt theo bất kì cách nào. Mọi điều đã xảy

ra cho ta đang xảy ra cho các ông và cái gì đó còn hơn

thế đã xảy ra cho ta mà có thể xảy ra cho các ông nếu

các ông cho phép nó xảy ra. Ta bình thường như các

ông vậy; chỉ mỗi một điều đã xảy ra cho ta mà đã tạo

ra mọi khác biệt. Ta đã trở nên nhận biết còn các ông

vô nhận biết. Các ông đang mang chân lí trong các ông

cũng như ta vậy. Ta nhận biết về nó; các ông không

nhận biết về nó.

"Nhưng nhớ lấy, dù các ông biết tới chân lí hay

các ông không biết, điều đó chả tạo ra khác biệt gì cho

chân lí. Chân lí vẫn còn đúng. Biết hay không biết

không tạo ra khác biệt gì. Chân lí là chân lí. Nó ở bên

ngoài các ông," Phật nói, "nó ở trước ta. Ta đã quay

vào trong; ta đã quay một trăm tám mươi độ, có vậy

thôi. Chẳng có gì nhiều để mà ba hoa. Các ông cũng có

thể làm được điều đó."

Đây lại là điều rất đặc biệt về Phật. Ông ấy chưa

bao giờ tuyên bố rằng ông ấy là duy nhất; do đó ông ấy

giúp được cho nhân loại nhiều hơn bất kì ai khác. Bởi

vì ông ấy nói: ta cũng giống như các ông.... Tâm trí

của riêng ta thường vẩn vơ bất kì chỗ nào hoan lạc

hay ham muốn hay thèm khát dẫn nó đi.

Ông ấy không phủ nhận rằng đã có thèm khát

trong ông ấy từ chính lúc ban đầu. Ông ấy không phủ

nhận rằng đã có ham muốn, ông ấy không nói rằng ông

ấy được sinh ra thuần khiết. Ông ấy đơn giản nói, "Ta

cũng theo đuổi hoan lạc - ta cũng đầy những ham

muốn như các ông đang vậy, và ta cũng đầy thèm khát

như các ông đang vậy. Cho nên chẳng cái gì sai trong

thèm khát, trong ham muốn, trong hoan lạc; nếu cái gì

sai đó là trong vô nhận biết của các ông. Nhận biết đi;

và thèm khát biến mất, và ham muốn biến mất và tham

lam thường xuyên về hoan lạc biến mất."

Khi bạn trở nên nhận biết, bạn thoải mái thế, đầy

phúc lạc thế, ai bận tâm tới hoan lạc? Khi bạn có kim

cương ai quan tâm tới đá cuội? Khi bạn có cội nguồn

không cạn của phúc lạc nội tâm ai còn đi ăn xin những

hoan lạc nhỏ bé, hoan lạc xấu xí? - chúng đơn giản

biến mất.

Phật nói: Nhưng bây giờ ta đã thuần phục được

, ta đã đặt kỉ luật cho tâm trí ta, ta đã thiền, ta đã đi

vào trong sự vận hành của tâm trí, ta đã nhìn thấy nó

thấu suốt. Bây giờ ta đã trở thành người chủ. Thấy nó

ta đã trở thành người chủ. Biết nó ta đã trở thành người

chủ. Hiểu biết làm bạn thành người chủ. Bây giờ ta

hướng dẫn nó, như người trông nom hướng dẫn voi

hoang.

Cho nên đừng cảm thấy mặc cảm - đó là thông

điệp của Phật - đừng cảm thấy mặc cảm vì tham của

bạn, đừng cảm thấy mặc cảm vì giận của bạn, đừng

cảm thấy mặc cảm vì thèm khát của bạn. Tất cả những

điều bạn cần làm là trở nên nhận biết về tham của bạn,

trở nên nhận biết về thèm khát của bạn, trở nên nhận

biết về ham muốn của bạn, và nhìn phép màu xảy ra.

Cũng như bạn đem ánh sáng vào trong phòng và bóng

tối biến mất, đích xác giống điều đó, chính xác giống

điều đó, khi bạn mang nhận biết vào, mọi ham muốn,

mọi tham, mọi giận, mọi thèm khát đơn giản biến mất

cứ dường như nó chưa bao giờ có đó. Đừng cố chạy

trốn, đừng cố từ bỏ, bởi vì nếu bạn từ bỏ bạn đơn giản

từ bỏ cơ hội này.

Một người trốn khỏi vợ mình, đi lên Himalayas

hay vào tu viện.... Có những tu viện không đàn bà nào

đã bao giờ được phép vào; có những tu viện nơi một

khi bạn vào rồi, bạn không được phép đi ra lần nữa

trong cả đời bạn. Bây giờ, đây không phải là biến đổi,

đây đơn giản là trốn khỏi cơ hội.

Dick đem Sally lên giường mình. "Em muốn làm

gì?" anh ta hỏi.

"Em muốn xem báo hôm nay," cô ấy nói.

"Rồi," Dick nói, "Anh sẽ bảo con chó đi làm điều

đó. Nó khôn lắm nó sẽ đem cả tiền trả lại về." Dick

đưa cho con chó mười đô la và bảo nó đi mua báo.

Trong một giờ con chó vẫn không về, Dick và Sally đi

ra kiếm nó. Họ thấy con chó đang làm điều đó với con

chó xù Pháp.

"Nó đã bao giờ làm điều này trước đây chưa?"

Sally hỏi.

"Không," Dick nói, "đây là lần đầu tiên nó có tiền

mà."

Cơ hội.... Bạn có thể trốn khỏi cơ hội, điều đó sẽ

không thay đổi bản thể bạn. Bên ngoài bạn sẽ trở thành

sư; bên trong bạn sẽ vẫn còn là cùng con người cũ.

Bên ngoài bạn sẽ trở thành ni; bên trong bạn sẽ vẫn

còn là cùng con người đó. Và câu hỏi thực là về tâm

thức bên trong của bạn, không về chu vi bên ngoài của

bạn. Tâm trí không xấu nếu nó được dùng như cái máy

và bạn là người chủ. Tâm trí là đẹp khi là người hầu.

Khi nó trở thành người chủ thế thì nó là xấu. Để tâm

thức là người chủ, người hướng dẫn, và để tâm trí như

con voi được thuần dưỡng, vào kỉ luật. Làm sao bạn có

thể làm được điều đó?

Phật nói:

Thức dậy đi.

Là nhân chứng cho ý nghĩ của ông.

Trong những lời đơn giản này ông ấy đã cho thế

giới việc thiền vĩ đại nhất: Vipassana. Nhiều người đã

trở nên chứng ngộ qua Vipassana hơn qua bất kì

phương pháp nào khác. Có cả nghìn phương pháp

nhưng Vipassana dường như là dễ nhất, hoàn hảo nhất,

và rất tự nhiên. Nó không đòi hỏi điều phi tự nhiên nào

từ bạn.

Đức cha Johnson, nhà thuyết giáo già da đen, đang

cảnh báo cho các giáo dân về tội lỗi.

"Tội lỗi," ông ấy nói, "giống như con chó lớn. Có

con chó lớn về kiêu căng, và con chó lớn về ghen tị, và

con chó lớn về háu ăn, và cuối cùng có con chó lớn về

dục. Bây giờ, các con, các con hãy giết những con chó

lớn đó trước khi các con lên cõi trời. Điều đó có thể

được làm - ta biết - bởi vì ta đã làm điều đó. Ta đã giết

con chó lớn về ghen tị, và con chó lớn về kiêu căng, và

con chó lớn về háu ăn - và vâng, các đạo hữu, ta đã

giết con chó lớn về dục!"

"Thưa anh!" một giọng nói vang lên từ phía sau

nhà thờ, "Anh có chắc rằng con chó cuối cùng đã

không chết cái chết tự nhiên không?"

Bạn không thể giết chết các con chó này. Hoặc

chúng chết cái chết tự nhiên - nhưng điều đó không

đem tới biến đổi nào cho bạn - hoặc bạn phải trở thành

người chủ. Không cần giết... Phật sẽ không gợi ý bạn

giết cái gì cả. Tại sao phải giết cái gì? Nếu bạn giết

giận dữ, bạn sẽ không bao giờ từ bi trong cuộc sống

của bạn, bởi vì nó là giận đấy, và năng lượng được

tham gia vào giận dữ, cái đó trở thành từ bi. Nếu bạn

giết dục bạn sẽ đơn giản bất lực, có vậy thôi; bạn sẽ

không đạt tới tình yêu. Chính dục được biến đổi tạo ra

năng lượng yêu. Năng lượng yêu được chứa trong dục.

Khi bạn đem nhận biết vào nó, dục biến mất nhưng

năng lượng yêu được thoát ra. Giận dữ biến mất nhưng

từ bi được thoát ra. Tham lam biến mất và chia sẻ tới

thay chỗ của nó.

Vấn đề không phải là giết; đây là năng lượng.

Đừng ngu thế mà đi giết cái gì, bởi vì nếu bạn giết bạn

sẽ bỏ lỡ cái gì đó rất bản chất trong cuộc sống của bạn.

Biến đổi đi. Tôn giáo phải là giả kim thuật thực, khoa

học của biến đổi. Nó không sát hại.

Nhưng những người tôn giáo ngu xuẩn cứ sát hại,

phá huỷ. Họ mang tính huỷ diệt, tự huỷ diệt. Do đó

cho dù họ vứt bỏ giận của mình họ cũng không trở nên

duyên dáng, họ không đạt tới sáng tạo, họ không đóng

góp cho thế giới và cái đẹp của nó. Họ là gánh nặng,

họ không phải là sự giúp đỡ theo bất kì cách nào. Họ là

cản trở cho tiến bộ của nhân loại. Phật sẽ không gợi ý

cho bạn giết bất kì cái gì. Ông ấy nói: Thức dậy đi.

nhân chứng cho ý nghĩ của ông.

Giận là ý nghĩ, dục là ý nghĩ. Quan sát, tỉnh táo, để

chúng trôi trên màn ảnh - giận, tham, thèm khát - và

bạn vẫn còn tách rời, bình thản, chỉ là nhân chứng. Lúc

đầu điều đó rất khó, nhưng chỉ lúc đầu thôi. Nếu bạn

bền bỉ thế thì trong vòng ba tới chín tháng bạn sẽ có

khả năng làm điều không thể được.

Một hôm điều xảy ra là việc chứng kiến của bạn đã

trở nên hoàn hảo tới mức màn vẫn còn ảnh trống rỗng,

không cái gì trôi qua - không ý nghĩ, không ham

muốn. Ngày đó bạn đã đạt tới trạng thái đầu tiên của

samadhi, tỏ ngộ đầu tiên. Và tỏ ngộ đầu tiên là cái bắt

đầu; nó lẩy cò nhiều tỏ ngộ trong bạn, chung cuộc nó

lên tới đỉnh trong samadhi, trong niết bàn.

Khi tâm trí trở nên chỉ là cái máy thuần khiết... khi

bạn muốn dùng nó, bạn dùng nó, khi bạn không muốn

dùng nó, nó vẫn còn im lặng.

Voi kéo bản thân nó ra khỏi bùn lầy.

Theo cùng cách đó kéo ông ra khỏi sự lười biếng

đi.

Phật lại nhấn mạnh: không ai có thể kéo bạn ra

khỏi vũng bùn của bạn, không ai có thể giúp bạn được.

Cho nên đừng tin rằng Jesus sẽ tới và mọi thứ sẽ được

giải quyết. Jesus đã có trước đây rồi và chẳng cái gì

được giải quyết cả. Đừng tin vào cứu rỗi qua ai đó;

không vị cứu tinh nào có thể giúp được bạn. Chư phật

chỉ chỉ ra con đường. Bạn phải làm mọi điều theo cách

riêng của bạn. Không ai có thể làm điều đó cho bạn

được. Tôi không thể nhìn hộ bạn được, tôi không thể

nghe hộ bạn được; bạn phải làm nó theo cách riêng của

bạn.

Có vài điều mà không thể được bất kì ai khác thực

hiện cho bạn, nhân danh bạn, và đấy là những điều quí

giá nhất mà chỉ bạn mới có thể làm được. Nhận biết là

một trong những điều quí giá nhất đó.

Phật nói: Voi kéo bản thân nó ra khỏi bùn lầy.

cũng giống điều đó, theo cùng cách đó kéo ông ra khỏi

sự lười biếng đi.

Với nhận biết Phật không ngụ ý sự hiện diện của

tâm trí. Nhiều người hiểu lầm. Bất kì khi nào Phật

dùng từ 'thức tỉnh', 'nhận biết', mọi người đều nghĩ ông

ấy đang nói về hiện diện của tâm trí. Hiện diện của

tâm trí là hiện diện của tâm trí; nhận biết không liên

quan gì tới tâm trí cả. Nhận biết là cái gì đó bên ngoài

tâm trí.

Sự hiện diện của tâm trí là rất bình thường. Trong

bất kì nguy hiểm nào nó đều tới với bạn. Nếu ai đó

định bắn bạn, bạn sẽ có sự hiện diện của tâm trí trong

khoảnh khắc đó. Nếu con hổ đột nhiên nhảy ra trước

bạn, bạn sẽ có sự hiện diện của tâm trí; bạn sẽ làm cái

gì đó mà bạn chưa bao giờ làm trước đây.

Frank và Gene uống rượu trong quán rượu hàng

xóm.

"Anh bạn, tớ có cuộc nói chuyện thân mật với

Angie đêm qua đấy," Frank nói.

"Có chuyện gì vậy?" Gene hỏi.

"Thế này, tớ về nhà thực muộn, cho nên tớ cởi

giầy ra, trèo lên cầu thang, mở cửa phòng ngủ, đi nhón

chân, và đóng cửa không gây tiếng động nào. Ngay khi

tớ sắp vào giường, vợ tớ thức dậy và nói, 'Mày đấy à,

Toto?'"

"Cậu đã làm gì?"

"Một lần trong đời tớ thực sự dùng cái đầu của

mình," Frank nói. "Tớ liếm tay cô ấy."

Đây là sự hiện diện của tâm trí. Cô ấy nghĩ anh ấy

là con chó, Toto. Nhưng sự hiện diện của tâm trí

không phải là nhận biết; điều đó là hiện tượng nhỏ

nhoi, một thứ tí xíu. Tâm trí có thể làm điều đó.

Nhận biết là cái gì đó bên ngoài tâm trí. Bạn phải

quan sát tâm trí, bạn phải quan sát sự hiện diện của

tâm trí cũng nhiều như sự vắng bóng của tâm trí. Bạn

phải quan sát cả hai, bạn phải vượt ra ngoài cả hai. Nó

tới, chắc chắn nó tới, và khi nó tới, nó lấy đi mọi thứ là

khổ sở của bạn, bản ngã của bạn, sự không nhạy cảm

của bạn, độc ác của bạn. Nó lấy đi tất cả bùn lầy khỏi

bạn... và từ bùn đó nảy sinh hoa sen, hoa sen một

nghìn cánh của samadhi trong bạn.

Đủ cho hôm nay.

***************************************************************************************************************

#4 Tự do là cái gì đó bên trong

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Sáng nay khi thầy nói về thức dậy và vươn lên từ

lười biếng, tôi cảm thấy ngu xuẩn thế - và tôi nghĩ

tôi đang ngày càng ngu hơn! Phải làm gì... chỉ ở

đây với thầy có đủ không? Tôi cảm thấy rất vô

vọng. Và điều đó làm cho tôi buồn.

Krishna Gopa, dấu hiệu tốt là bạn cảm thấy rằng

bạn đang trở nên ngày một ngu hơn. Điều đó đơn giản

nghĩa là tri thức vay mượn đang biến mất, do đó mới

có cảm giác này. Bạn đang dỡ bỏ bất kì cái gì bạn đã

từng học mãi cho tới giờ. Dỡ bỏ là quá trình cơ bản

của việc lại trở thành hồn nhiên.

Nhưng đừng gọi nó là trở thành ngu xuẩn; đừng

dùng từ đó - điều đó mang tính kết án. Và thế rồi

người ta bắt đầu cảm thấy buồn. Bạn đang trở nên hồn

nhiên hơn đấy. Bạn đang trở nên ngày một đỡ nặng

gánh hơn khỏi tri thức, thông tin không cần thiết. Bạn

đang trở nên tự nhiên hơn, giống trẻ con hơn, đầy ngạc

nhiên hơn. Và nếu bạn gọi nó là ngu xuẩn bạn sẽ bỏ lỡ

toàn thể vấn đề.

Tâm trí bạn có thể gọi nó là ngu xuẩn bởi vì tâm trí

đang mất mảnh đất của nó. Tâm trí đang chết đi, và

tâm trí nhất định làm mọi nỗ lực để cứu bản thân nó,

để sống sót. Và bước đầu tiên là kết án trạng thái

không biết, cái đang trưởng thành trong bạn. Mọi thiền

nhân đều bắt gặp nó và mọi thiền nhân đều thấy rằng

tâm trí kết án nó. Nó chống lại tâm trí; bạn trở thành

vô trí. Và ai muốn chết? Tâm trí không muốn chết; nó

muốn giữ sự sở hữu của nó với bạn. Do đó mới có kết

án. Cẩn thận về nó đi.

Để cho tri thức biến mất. Đừng lo chút nào bởi vì

tri thức đó đã không cho bạn cái gì cả. Ngay chỗ đầu

tiên, tri thức vay mượn chỉ tạo ra tù túng, không tự do.

Nó làm nặng gánh bạn; nó không cho bạn đôi cánh. Nó

không làm cho bạn nhẹ nhàng, nó làm bạn thành nặng

nề. Nó làm bạn thành cứng queo, nó làm cho bạn ngày

một máy móc hơn, bởi vì qua bức tường dầy của tri

thức bạn không thể thấy được điều huyền bí bao quanh

bạn. Và khoảnh khắc bạn không thấy điều huyền bí

bạn gần như chết.

Cuộc sống là trong hài hoà với điều huyền bí.

Cuộc sống đầy những điều ngạc nhiên. Cuộc sống biết

tới nghệ thuật của ngạc nhiên, của kính nể. Người

thông thái là người nghèo, rất nghèo, hoàn toàn bần

cùng hoá - và bản thân người đó chịu trách nhiệm.

Người đó nghĩ mình rất giầu bởi vì người đó biết về

hoa hồng, mặc dầu người đó đã không nhìn một bông

hồng riêng. Người đó biết tất cả về yêu, mặc dầu người

đó chưa bao giờ yêu bản thân mình. Người đó biết về

Thượng đế, nhưng biết về Thượng đế không phải là

biết Thượng đế. Biết về ánh sáng không phải là biết

ánh sáng.

Người mù có thể biết tất cả mọi thứ có đó để biết

về ánh sáng, nhưng người đó sẽ vẫn còn mù. Người đó

sẽ không kinh nghiệm niềm vui mà ánh sáng đem tới,

niềm vui mà buổi sáng đem tới, niềm vui mà mặt trời

mọc đem tới. Người đó sẽ không thấy mầu sắc của cầu

vồng, của hoa, của bướm. Người đó sẽ vẫn còn hoàn

toàn mù tịt về thế giới của ánh sáng và mầu sắc. Người

đó mù! Người đó biết về... nhưng việc biết về ánh sáng

chẳng hữu dụng gì nếu bạn mù. Và nếu bạn có mắt, dù

bạn biết về ánh sáng hay không, không khác biệt gì cả.

Cho dù không biết ánh sáng bạn vẫn kinh nghiệm nó -

và điều đó là việc biết đúng. Tri thức không phải là

việc biết đúng, nó không phải là trí huệ. Tri thức tới

qua thông tin; trí huệ tới qua kinh nghiệm.

Gopa, đừng kết án trạng thái hồn nhiên của bạn,

cái đang lớn lên trong bạn. Đừng gọi điều đó là ngu

xuẩn. Đấy là tâm trí đang giở thủ đoạn với bạn; nó bao

giờ cũng giở thủ đoạn. Trong các kinh sách cổ, cùng

tâm trí đó được gọi là quỉ; không có quỉ khác. Chính

tâm trí cám dỗ bạn đi sai bởi vì tâm trí chỉ có thể tồn

tại khi bạn sai. Tâm trí không được cần tới chút nào

khi bạn đi thẳng tới chân lí, khi bạn đúng. Khi bạn

đang trên đường đúng, tâm trí không có tiện ích nào;

nó đơn giản mất quyền lực của nó trên bạn. Và đó là

điều đang xảy ra.

Bạn nói, "Sáng nay khi thầy nói về thức dậy và

vươn lên từ lười biếng, tôi cảm thấy ngu xuẩn thế - và

tôi nghĩ tôi đang ngày càng ngu hơn!"

Bạn được phúc lành đấy. Cứ trở nên ngày một ngu

hơn đi - ngu theo nghĩa hồn nhiên.

Jesus bị gọi là đồ ngu. Thánh Francis bị gọi là đồ

ngu; thường ông ấy tự gọi mình là "đồ ngu của

Thượng đế." Sao Jesus và Francis và mọi người như

những người này được gọi là đồ ngu? Ngay cả bản

thân học cũng tự gọi mình là ngu bởi lẽ đơn giản là có

cái gì đó mà kẻ ngu có thể biết và người thông thái

không bao giờ có thể biết. Người ngu hồn nhiên.

Người ngu không ngu xuẩn như người thông thái đâu.

Đôi khi người đó dường như khôn ngoan hơn cái gọi

là người khôn ngoan của bạn.

Có một tục lệ cổ đại trong hầu khắp các nước trên

thế giới là mọi nhà vua lớn đều có một anh hề trong

triều đình. Tại sao? - bởi lẽ đơn giản là đôi khi anh hề

nói những điều mà người khôn - cái gọi là người khôn

- không thể nói được. Anh hề hồn nhiên tới mức người

đó đơn giản thốt ra chân lí. Cái gọi là người khôn thì

tinh ranh; họ sẽ không nói chân lí, họ sẽ nói cái hấp

dẫn. Nó có thể là dối trá - và dối trá có hấp dẫn lớn bởi

vì mọi người sống trong dối trá. Và đặc biệt trong triều

đình, mọi loại dối trá đều thịnh hành. Vua bị bao

quanh bởi đủ mọi loại lừa dối, đủ mọi loại người tinh

ranh; do đó anh hề được cần tới, để cho vua có thể phụ

thuộc vào anh hề. Anh hề sẽ không tinh ranh và anh ta

sẽ nói bất kì cái gì đang trong hoàn cảnh. Anh ta ngu

tới mức anh ta sẽ không bị bận tâm về hậu quả của nó.

Điều này là kì lạ, nhưng cái gì đó có ý nghĩa cần

được hiểu. Anh hề là phần cần thiết trong triều đình

của mọi vua lớn, và anh hề đã cứu nhiều vua nhiều lần.

Họ đã cứu vương quốc của họ bởi vì lời khuyên của họ

tới từ trạng thái không biết, hoàn toàn hồn nhiên. Họ

có sự sáng tỏ, điều người thông thái không thể có

được, người đó bị che mờ.

Gopa, tri thức của bạn đang biến mất. Đây thực sự

là satsang; đây là điều được ngụ ý ở cùng thầy. Thầy

lấy đi tri thức của bạn và thầy cho lại bạn sự ngạc

nhiên. Thầy làm cho bạn lại thành trẻ con. Và chừng

nào bạn còn chưa là trẻ con, bạn sẽ không đi vào trong

vương quốc của Thượng đế đâu.

Nhưng bởi vì bạn đang gọi nó là ngu xuẩn, kết án

nó, cho nó cái tên tiêu cực, bạn cảm thấy buồn, vô

vọng. Chúng ta sống qua lời; chúng ta đã trở nên bị

gắn bó vào lời nhiều tới mức chúng ta bị lừa bởi lời.

Cứ đổi lời và bạn sẽ thấy thay đổi trong bầu khí hậu

bên trong của mình. Gọi nó là hồn nhiên và cảm thấy

hình hái, hương vị đi. Gọi nó là ngu xuẩn và bạn cảm

thấy hình hái và hương vị. Khi bạn gọi nó là ngu xuẩn

bạn đột nhiên cảm thấy bị bao quanh bởi bóng tối; khi

bạn gọi nó là hồn nhiên, dường như hoa bắt đầu nở bên

trong tim bạn, hương thơm bao quanh bạn.

Cẩn thận về lời, lời nào bạn dùng, bởi vì chúng ta

đã sống lâu thế bằng lời, qua lời....

Tôi đã nghe:

Một thợ săn bị lạc đường trong rừng rậm. Đến tối

anh ta đi tới một mảnh đất tư, nhưng anh ta sợ đi vào

bởi vì ngay ngoài cổng có một bảng hiệu lớn viết: Cẩn

thận với lũ chó nguy hiểm. Nhưng đêm đang buông

dần xuống và rừng đầy những thú hoang. Đương đầu

với lũ chó còn tốt hơn là bị thú hoang ăn thịt. Và anh

ta mệt mỏi thế, cực kì mệt; anh ta muốn nghỉ. Và có hi

vọng nào đó: nếu có chó, có thể có ai đó - người chủ

của lũ chó, người chủ đất, người đã đặt tấm biển lớn

này.

Anh ta đi vào, hơi chút sợ hãi, run rẩy, nhưng

chẳng có cách nào khác, không có phương án khác.

Mới đi vào thêm vài bước lại có một tấm biển, và thậm

chí là tấm biển còn lớn hơn: Cẩn thận với lũ chó nguy

hiểm. Tim anh ta thót lại, nhưng không có cách nào

quay lại, không chỗ nào để quay lại, cho nên anh ta

phải đi vào. Lần nữa, thậm chí lại có một tấm biển lớn

hơn.

Và thế rồi... chỉ mỗi con chó nhỏ, một con chó rất

nhỏ, đứng trước túp lều của người chủ. Nhỏ tới mức

bạn có thể đơn giản túm chân nó và quẳng nó đi ít nhất

cũng hàng trăm bước!

Người thợ săn phân vân lắm. Anh ta hỏi người

chủ, "Chó lớn nguy hiểm đâu rồi?"

Ông ấy nói, "Có con nào đâu. Đây là con chó duy

nhất của tôi."

Người thợ săn hỏi, "Con chó này mà có thể ngăn

cản mọi người vào sao?"

Người này nói, "Không, nhưng tấm biển thì có

đấy. Ông là người đầu tiên trong nhiều năm đã bước

vào. Ngay cả không có chó, những tấm biển đó vẫn có

tác dụng."

Mọi người sống qua lời. Trong rạp hát đông đúc,

nếu ai đó bỗng nhiêu kêu lên, "Cháy! Cháy!" mọi

người sẽ bắt đầu chạy tán loạn. Không ai bận tâm liệu

có đám cháy nào không. Chính từ 'cháy' và trí tưởng

tượng của bạn bắt đầu làm việc.

Gopa, đừng gọi nó là ngu xuẩn, bằng không bạn

tạo ra nỗi buồn riêng của bạn và bạn là nạn nhân của

tâm trí bạn. Tâm trí bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc bởi vì

nó làm cho bạn buồn. Nếu bạn buồn bạn sẽ bắt đầu thu

thập tri thức đã rơi đi từ bạn; bạn sẽ để nó lại về chỗ cũ

của nó. Bạn sẽ lại bắt đầu thu thập thông tin để cho

bạn không cảm thấy ngu xuẩn. Gọi nó là hồn nhiên đi.

Phải rất cẩn thận dùng lời. Lời có những liên

tưởng, liên tưởng sâu. Chúng đã trở thành gần như

thực tại cụ thể trong cuộc sống chúng ta; chúng không

còn là lời nữa, chúng là vật.

Bạn nói, "Tôi cảm thấy rất vô vọng. Và điều đó

làm tôi buồn."

Vô vọng bao giờ cũng tới nếu bạn đã từng hi vọng

quá nhiều; nó tới theo cùng tỉ lệ. Mong đợi và bạn sẽ

bị thất vọng. Hi vọng và sớm hay muộn bạn sẽ cảm

thấy vô vọng. Do đó toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là

làm cho bạn tự do khỏi hi vọng. Nếu bạn trở nên tự do

khỏi hi vọng bạn sẽ không bao giờ bị mắc bẫy trong

bất kì trạng thái vô vọng nào. Vô vọng là sản phẩm

phụ của hi vọng. Thất vọng là sản phẩm phụ của mong

đợi. Nhưng điều đó là tự nhiên, theo một cách nào đó.

Khi bạn tới tôi, bạn tới với những niềm hi vọng

lớn lao; bạn muốn trở nên chứng ngộ, bạn muốn trở

thành vị phật. Nhưng vấn đề là, tôi không thể giúp

được bạn trở thành vị phật vì bạn đã là vị phật rồi!

Không cần bạn trở thành vị phật. Trở thành không phải

là vấn đề chút nào - phật là bản tính của bạn. Và bất kì

khi nào bạn vứt bỏ cái ý tưởng này về việc trở thành,

đột nhiên bạn sẽ nhận ra vị phật bên trong.

Điều tôi đang làm ở đây không phải là giúp bạn trở

thành ai đó, mà chỉ nhận ra bạn là ai. Mọi phương cách

ở đây chỉ là phương cách làm cho bạn nhớ lại - không

phải là phương cách giúp bạn trở thành, mà chỉ nhắc

nhở bạn.

Gia đình chuyển từ thành phố sang ngoại ô và

được bảo phải kiếm một con chó giữ nhà để canh gác

đồ đạc trong đêm. Cho nên họ mua con chó to nhất họ

có thể tìm được.

Ngay sau đó ngôi nhà bị bọn trộm phá vào, cuỗm

được món hời - trong khi con chó ngủ.

Người chủ nhà đi tới người chủ bán chó và kể cho

ông ta điều đó. "Này," người bán chó nói, "điều ông

cần là con chó nhỏ để đánh thức con chó lớn."

Đó là điều bạn cần đấy! Phật đang ngủ say trong

bạn. Chỉ một phương cách nhỏ bé, con chó nhỏ sẽ có

tác dụng - để đánh thức con chó lớn!

Bà Mulla Nasruddin và bà hàng xóm đang tán gẫu

về con của họ.

"Con chị khó ra khỏi giường buổi sáng phải

không?" bà hàng xóm hỏi.

"Không," bà Mulla Nasruddin đáp. "Tôi mở cửa và

ném mèo vào giường nó."

"Làm sao điều đó đánh thức được?"

"Nó ngủ cùng con chó."

Công việc của tôi bao gồm những điều như vậy,

ném mèo vào giường bạn.... Đó không phải là công

việc gì lớn - nó cực kì vui!

#4Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Thầy nói gì về nghệ thuật hiện đại?

Asang, điều đầu tiên là, nó không phải là nghệ

thuật. Lần đầu tiên cái gì đó tồn tại nhân danh nghệ

thuật mà lại không phải là nghệ thuật chút nào. Nó

nhiều tính trị liệu hơn là nghệ thuật. Cứ nhìn vào tranh

hiện đại và bạn sẽ được thuyết phục về điều tôi đang

nói. Các hoạ sĩ phải mất trí rồi; họ đã đổ cái mất trí của

họ lên vải vẽ. Điều đó giúp họ bởi vì nó cho thoát ra

dồn nén nào đó bên trong con người họ. Nó là việc

thanh tâm, nhưng nó không phải là nghệ thuật. Nó là

trị liệu qua nghệ thuật, nhưng không phải là bản thân

nghệ thuật.

Nếu Picasso bị ngăn cản không được vẽ, ông ấy sẽ

phát điên. Vincent van Gogh đã phát điên trước khi

ông ấy tự tử. Và tôi đã nhìn vào trong cuộc đời của

ông ấy sâu sắc và cảm giác của tôi là ông ấy đã phát

điên bởi vì ông ấy không thể vẽ được nhiều như ông

ấy muốn. Ông ấy không có tiền để vẽ. Anh ông ấy đã

cho ông ấy tiền chỉ để sống sót, và ông ấy đã không ăn

trong bốn ngày mỗi tuần. Ông ấy sẽ ăn chỉ trong ba

ngày và bốn ngày ông ấy sẽ nhịn để dành tiền cho vẽ.

Bạn có thể làm điều điều đó được bao lâu? Nhưng việc

vẽ còn quan trọng với ông ấy hơn là thức ăn - và nó

chấm dứt trong điên khùng. Ông ấy không thể vẽ được

nhiều như ông ấy muốn, và khi ông ấy thấy rằng chẳng

còn khả năng nào để vẽ nữa - người anh mệt mỏi, gia

đình mệt mỏi và không ai muốn giúp ông ấy và không

ai muốn mua tranh của ông ấy - ông ấy tự tử.

Cùng vấn đề sẽ là trường hợp với Picasso nếu ông

ấy bị ngăn cản không được vẽ: ông ấy sẽ phát điên hay

ông ấy sẽ tự tử. Tự tử là điều tối thượng trong mất trí.

Nhưng tranh của ông ấy là sự giúp đỡ lớn lao, sự thảnh

thơi lớn lao.

Và điều đó không phải chỉ là vậy cho việc vẽ; điều

đó là vậy với thơ ca, âm nhạc, múa. Mọi thứ hiện đại

đều có chút ít điên khùng bởi vì con người hiện đại có

chút ít điên khùng, xa rời trung tâm.

Gurdjieff đã chia nghệ thuật ra làm hai loại. Nghệ

thuật hiện đại ông ấy gọi là nghệ thuật chủ quan. Nghệ

thuật cổ đại - nghệ thuật thực - những người đã làm ra

kim tự tháp, những người đã làm ra Taj Mahal, những

người đã làm ra các hang động ở Ajanta và Ellora, họ

đã là những người thuộc loại hoàn toàn khác. Ông ấy

gọi đó là nghệ thuật khách quan. Nghệ thuật chủ quan

giống như nôn mửa. Bạn cảm thấy buồn nôn, mửa;

việc nôn mửa tốt giúp bạn cảm thấy thoải mái. Chất

độc được tống ra ngoài, bạn cảm thấy được giảm nhẹ.

Nó là tốt cho bạn, nhưng không tốt cho người khác.

Bây giờ, nhân danh hội hoạ hiện đại, bạn đang treo

những thứ nôn mửa, ốm yếu trong phòng của mình.

Nhân danh âm nhạc hiện đại bạn đơn giản đi vào

không gian điên khùng hơn bên trong mình. Nó là

nghệ thuật chủ quan.

Nghệ thuật khách quan nghĩa là cái gì đó giúp bạn

trở nên được định tâm, cái giúp bạn trở nên mạnh khoẻ

và toàn thể. Ngắm Taj Mahal trong đêm trăng tròn,

bạn sẽ rơi vào trong chính không gian rất mang tính

thiền. Ngắm tượng Phật, chỉ ngồi im lặng cùng bức

tượng Phật, cái gì đó trong bạn sẽ trở nên im lặng, cái

gì đó trong bạn sẽ trở nên tĩnh lặng, cái gì đó trong bạn

sẽ trở thành giống phật. Đó là nghệ thuật khách quan,

nó cực kì có nghĩa.

Nhưng nghệ thuật khách quan đã biến mất khỏi thế

giới bởi vì các nhà huyền môn đã biến mất khỏi thế

giới rồi. Nghệ thuật khách quan là có thể chỉ khi ai đó

đã đạt tới bình diện cao hơn của bản thể; nó được tạo

ra bởi những người đã đạt tới đỉnh. Họ có thể thấy

đỉnh và họ có thể thấy thung lũng, cả hai. Họ có thể

thấy chiều cao của nhân loại, cái đẹp của nhân loại, và

cái ốm yếu và cái xấu xí của nhân loại nữa. Họ có thể

thấy sâu bên dưới trong thung lũng tối tăm nơi mọi

người đang lê lết và họ có thể thấy những đỉnh cao đầy

ánh mặt trời. Họ có thể xoay xở để tạo ra phương cách

nào đó sẽ giúp cho mọi người đang lê bước trong bóng

tối đạt tới những đỉnh cao đầy ánh mặt trời. Nghệ thuật

của họ sẽ chỉ là phương cách cho sự trưởng thành bên

trong của bạn, cho sự chín chắn.

Nghệ thuật hiện đại là ấu trĩ - không như trẻ con,

nhớ lấy, ấu trĩ; không hồn nhiên mà ngu xuẩn, mất trí,

bệnh hoạn. Chúng ta phải gạt bỏ xu hướng này. Chúng

ta phải tạo ra một loại nghệ thuật mới, một loại tính

sáng tạo mới. Chúng ta phải đem lại cho thế giới điều

Gurdjieff gọi là nghệ thuật khách quan.

Bác nông dân nhìn một trong những bức tranh trừu

tượng, hiện đại đó. "Đó là bức ảnh hoàn hảo về những

anh chàng kia ở New Delhi," bác ta nói. "Chẳng thành

vấn đề về việc anh nhìn vào nó theo cách nào, đằng

nào thì nó cũng chẳng có nghĩa gì."

Nhưng bác nông dân này đang nói điều gì đó mà

bản thân Picasso đã nói. Picasso đã nói, "Thế giới ngày

nay chẳng có nghĩa gì, cho nên tại sao tôi phải vẽ

những bức tranh có nghĩa?"

Nếu thế giới ngày nay không có nghĩa, điều đó

nghĩa là nhiều tranh hơn, nhiều âm nhạc hơn, nhiều

thơ ca hơn là được cần tới để làm cho có nghĩa - để

giúp nhân loại vượt qua trạng thái ngớ ngẩn này. Đó là

chức năng của nghệ thuật khách quan: giúp bạn đi ra

khỏi trạng thái ngớ ngẩn của mình. Nhưng Picasso nói,

"Thế giới ngày nay chẳng có nghĩa gì..." cứ dường như

nó đã có nghĩa trong quá khứ. Nó chưa bao giờ được

làm có nghĩa gì cả; thế giới bao giờ cũng vẫn như vậy

thôi. Nhưng ông ấy tìm ra cách hợp lí hoá. Ông ấy

đang nói, "Nếu bản thân thế giới mà không có nghĩa,

sao tôi phải vẽ tranh có nghĩa?"

Nếu bạn hỏi tôi, điều đó nên đích xác là lí do để

làm ra tranh mà làm ra nghĩa. Bằng không, làm sao thế

giới sẽ được giúp đây? Nó cần âm nhạc, nó cần thơ ca,

nó cần điệu vũ. Nó cần tranh vẽ có thể giúp nó vươn

cao trên khổ sở, trên tinh thần phân liệt, trên chứng

thần kinh, trên chứng rối loạn tâm thần.

Nhưng bản thân Picasso chỉ là đại diện của tâm trí

thần kinh. Picasso trở nên nổi tiếng bởi lẽ đơn giản là

ông ấy đại diện cho chúng ta rất rõ ràng.

Bà mối giới thiệu một cô gái cực xấu cho một

thanh niên. Nạn nhân này phản đối rằng bà cô này có

mắt không đúng chỗ, mũi gãy và khuôn mặt biến dạng.

"A," bà mối nói, "dường như là anh không thích

Picasso."

Nhìn tranh của Picasso, bạn không cảm thấy điều

đó sao? Mọi thứ đều bị méo mó, sai chỗ.

Tôi đã nghe nói rằng một quí bà rất giầu muốn

được Picasso vẽ chân dung. Ông ấy đồng ý với một số

tiền cực lớn. Quí bà này sẵn sàng trả. Ông ấy mất sáu

tháng để vẽ bức chân dung.

Khi bức chân dung đã xong, quí bà này nhìn nó và

nói, "Mọi thứ đều được; tôi chỉ không thích cái mũi.

Ông sẽ phải làm cải tiến nó."

Picasso nhìn quí bà này, thế rồi ông ấy nhìn vào

bức tranh và ông ấy nói, "Không thể được đâu."

Quí bà nói, "Sao vậy? Tôi sẵn sàng trả tiền cơ mà.

Nếu ông muốn nhiều tiền hơn, tôi sẵn sàng trả."

Picasso nói, "Vấn đề không phải là tiền. Tôi không

biết cái mũi ở đâu cả."

Tranh của ông ấy là ác mộng. Và điều đó không

chỉ là Picasso; Picasso đơn giản biểu tượng hoá cho

toàn thể nghệ thuật đương đại. Ông ấy là nghệ sĩ hiện

đại tiêu biểu nhất. Ông ấy là đúng, theo một nghĩa nào

đó, bởi vì thế giới chẳng tạo ra ý nghĩa gì.

Thế giới chưa bao giờ tạo ra ý nghĩa gì, nhưng đã

có những người tạo ra nghệ thuật tới mức nó giúp cho

mọi người tìm ra nghĩa nào đó trong thế giới vô nghĩa.

Và việc tìm ra ý nghĩa đó giúp bạn vô cùng để trở nên

được định tâm.

"Thật là khủng khiếp khi nhìn đàn ông trông như

con gái, với tóc dài và đủ mọi thứ. Người ta không thể

nào biết được khác biệt. Tôi ngồi trong tiệm ăn thì một

cô gái bước vào. Tôi quay sang người ở bàn bên cạnh

và nói, 'Chẳng khủng khiếp sao mà con gái trông như

con trai vào những ngày này?'"

"Đó là con trai tôi đấy," bà này nói, vừa chỉ vào

đứa con gái.

"A, tôi xin lỗi. Tôi không biết bà là mẹ nó."

"Tôi đâu có là mẹ nó," người ngồi bên nói một

cách phẫn nộ. "Tôi là bố nó đấy!"

Mọi sự đều lộn nhào. Mọi sự đều trở nên ngày một

bát nháo hơn. Thế giới dường như kém hài hoà bây giờ

và nhiều hỗn độn hơn.

Trong triết học cổ đại, hài hoà là một trong những

điều quan trọng nhất được thảo luận. Bây giờ dường

như chẳng có hài hoà gì, không có trật tự. Toàn thế

giới dường như là mớ hỗn độn, dường như là ngẫu

nhiên. Chẳng cái gì dường như là bản chất, có giá trị

cố hữu; mọi thứ đều dường như chỉ xảy ra như sự tình

cờ. Và điều này được phản xạ trong mọi thứ. Nó được

phản xạ trong nghệ thuật, nó được phản xạ trong khoa

học, nó được phản xạ trong tôn giáo.

Chúng ta lại cần hài hoà. Tôi biết thế giới là mớ

hỗn độn; thách thức cho tâm thức con người là tạo ra

sự hài hoà từ hỗn độn đó. Tạo ra hài hoà là cơ hội cực

kì quí giá. Chỉ nói rằng thế giới là mớ hỗn độn, vẫn

còn ở cùng nó như nó vậy, là rơi xuống thấp hơn chân

giá trị con người; điều đó là không chấp nhận thách

thức. Thách thức thực sự lớn lao là thay đổi bản thân

bạn và thế giới. Đó là câu đố, nhưng nó là câu đố chỉ

nếu bạn đã đi tới kết luận rằng không thể có nghĩa nào

cả; bằng không nó là điều huyền bí, không phải câu

đố.

Điều huyền bí có thể không có nghĩa gì, nhưng nó

có ý nghĩa. Và có khác biệt lớn lao giữa nghĩa và ý

nghĩa - và ý nghĩa là có nghĩa hơn nhiều bản thân

nghĩa; ý nghĩa là quan trọng hơn nhiều. Có nghĩa gì

trong bông hồng? - nhưng ý nghĩa chắc chắn có đó. Cứ

nghĩ về một thế giới không hoa hồng mà xem. Nó sẽ là

thế giới nghèo nàn; ý nghĩa nào đó sẽ bị mất. Ý nghĩa

nào có đó khi bạn nghe tiếng nước chảy? Bạn không

cảm thấy ý nghĩa nào đó sao? Vâng, nghĩa bạn không

thể chứng minh được.

Nghĩa dường như là bị áp đặt bởi tâm trí lên sự tồn

tại; ý nghĩa dường như là một phần của bản thân sự tồn

tại. Chúng ta đã mất tiếp xúc với ngôn ngữ mà có thể

hiểu được ý nghĩa; chúng ta chỉ hiểu nghĩa. Nghĩa

mang tính trí tuệ, ý nghĩa mang tính tồn tại. Không có

nghĩa trong tình yêu, nhưng có ý nghĩa lớn lao; không

có nghĩa trong Thượng đế, nhưng có ý nghĩa lớn lao;

không có nghĩa trong thiền, nhưng có ý nghĩa lớn lao,

huy hoàng vĩ đại.

Tôi muốn nói với các sannyasin của tôi, Asang

này, rằng sannyasin của tôi phải không chỉ có tính

thiền, họ cũng phải có tính sáng tạo nữa. Và họ phải

sáng tạo điều Gurdjieff gọi là nghệ thuật khách quan.

Họ phải sáng tạo cái gì đó có thể giúp nhân loại đang

vẩn vơ đi tới chỗ nghỉ ngơi. Vâng, nhiều điều có thể

được tạo ra mà có thể cho chỗ trú ngụ, mà có thể trở

thành kinh nghiệm sâu, sâu sắc về giao cảm với tự

nhiên.

Đó là chức năng thực của nghệ thuật: giúp mọi

người giao cảm với tự nhiên, bởi vì từ giao cảm đó tôn

giáo nảy sinh. Khoa học là nỗ lực trí tuệ để hiểu tự

nhiên, nghệ thuật là nỗ lực tình cảm để hiểu tự nhiên,

còn tôn giáo là nỗ lực tồn tại để giao cảm với tự nhiên.

Nghệ thuật cao hơn khoa học, tôn giáo cao hơn nghệ

thuật. Khoa học phải mang tính khách quan; nếu khoa

học mà mang tính chủ quan nó sẽ chỉ là hư cấu - hư

cấu khoa học. Nghệ thuật cũng phải mang tính khách

quan; bằng không nó sẽ là hư cấu. Và đó là điều nghệ

thuật hiện đại là gì - hư cấu. Còn tôn giáo cũng phải

mang tính khách quan, thực sự đích thực; bằng không

nó là suy đoán, triết lí.

#4Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi muốn bỏ hút thuốc. Thầy nói gì về điều đó?

Mahendra, sao vậy? Sao ngay chỗ đầu tiên bạn lại

muốn bỏ hút thuốc? Cái gì sai với hút thuốc? Vâng, nó

có chút ít ngu xuẩn, đần độn - chỉ đầu độc sức khoẻ

của bạn, hít khói vào và nhả ra, phí tiền, cuộc sống.

Nhưng nó không phải là tội lỗi, nó không phải là tội

ác. Bạn không nên cảm thấy mặc cảm về nó. Có thể

bạn sẽ sống ít hơn một chút, ít hơn hai hay ba năm mà

đáng ra bạn sẽ sống được. Nhưng phỏng có ích gì mà

sống thêm ba năm? Bạn sẽ làm gì với việc sống thêm

ba năm nào? Bạn sẽ tạo ra chút ít rắc rối thêm trên thế

giới thôi - cho nên tốt hơn cả bạn đi sớm hơn chút ít.

Và thế giới này quá đông dân rồi.

Không ai đã từng nghĩ về kiểm soát sinh đẻ trước

đây. Bây giờ chúng ta đang nghĩ thường xuyên ở mọi

nơi về cách giảm dân số, cách ngăn cản trẻ con mới

được sinh ra. Sớm hay muộn chúng ta sẽ phải nghĩ về

đầu kia: cách giúp người già ra đi nhanh hơn, bởi vì

điều đó là tuyệt đối logic, một phần của việc giảm dân

số. Nếu chúng ta ngăn cản trẻ con khỏi tới chỉ để giữ

cho thế giới này chút ít bớt đông dân - nó đã quá đông

dân rồi - sớm hay muộn chúng ta sẽ phải nghĩ về cách

thức và phương tiện làm sao giúp cho người già ra đi

nhanh hơn, chóng hơn. Chúng ta sẽ phải làm cho điều

đó thành quyền tập ấm.

Nếu ai đó quyết định chết, điều đó không phải là

tội ác. Thực ra, người đó nên được hỗ trợ, được kính

trọng, bởi vì người đó đang tạo ra không gian cho

người mới tới. Người đó đang giúp cho thế giới -

người đó là người phục vụ vĩ đại cho nhân loại. Bạn

nói, Mahendra, "Tôi muốn bỏ hút thuốc."

Tại sao ngay chỗ đầu tiên? - bởi vì bạn đã đọc rằng

điều đó là xấu cho sức khoẻ của bạn chứ gì? Nhưng

bạn sẽ làm gì với sức khoẻ của bạn?

Có một câu chuyện hay về Jesus, không liên quan

tới sách phúc âm Ki tô giáo. Cảm giác của tôi bao giờ

cũng là nó đã bị xoá bỏ đi ở đâu đó trong nhiều thế kỉ

bởi vì nó là câu chuyện nguy hiểm. Nhưng người Sufis

đã giữ nó nguyên vẹn, được ghi lại. Có vài câu chuyện

về Jesus mà người Sufis đã gìn giữ, và họ đáng được

cảm ơn vì điều đó bởi vì chúng là những câu chuyện

hay nhất trong tất cả những câu chuyện mà sách phúc

âm chứa đựng. Câu chuyện này là hay.

Jesus tới một làng. Ông ấy thấy một người nằm

trong cống rãnh, la hét, nói lảm nhảm, làm ồn ào. Khó

mà hiểu được ông ta muốn nói gì; ông ta hoàn toàn

say.

Jesus lại gần chỉ để hiểu xem ông ta muốn nói gì -

có thể ông ta cần sự giúp đỡ nào đó. Khi lại gần Jesus

nhận ra khuôn mặt này. Ông ấy lay người này. Người

này mở mắt ra, và Jesus nói, "Ông không nhận ra ta à?

Ta nhận ra ông đấy."

Người này nói, "Tôi cũng nhận ra ông, nhưng xin

ông để tôi một mình thôi."

Jesus nói, "Như ta còn nhớ thì ông đã bị ốm, rất

ốm, gần như trên bờ vực cái chết, và ta đã chữa cho

ông. Ta đã làm phép màu - và ta không thấy biết ơn

nào trong mắt ông."

Người này nói, "Biết ơn sao? Tôi sắp chết và điều

đó sẽ là việc nghỉ ngơi khỏi cuộc sống xấu xí này. Ông

đã làm cho tôi mạnh khoẻ trở lại và bây giờ tôi lại khổ.

Ai chịu trách nhiệm? Sao ông lại làm cho tôi mạnh

khoẻ trở lại thế? Ai cho ông cái quyền ấy?"

Jesus bị choáng - ông ấy chưa bao giờ nghĩ về điều

đó cả. Jesus nói, "Nhưng ông khoẻ - ông có thể dùng

mạnh khoẻ của ông."

Và người này nói, "Đó là điều tôi đang làm đây.

Khi người ta mạnh khoẻ người ta uống, ăn, tận hưởng

mọi thứ của cuộc sống. Tôi có thể làm gì khác với sức

khoẻ của tôi?"

Đó thực sự là câu hỏi rất đúng chỗ: Bạn sẽ làm gì

với sức khoẻ của bạn? Ăn, uống, vui vẻ! Và người này

dường như giận với Jesus.

Jesus bỏ đi trong lòng rất lấy làm phân vân, và ông

ấy thấy một người khác đang chạy theo gái mãi dâm.

Ông ấy chặn người này lại và nói, "Anh thanh niên, ta

biết anh rất rõ. Anh đã bị mù và ta đã cho anh đôi

mắt."

Và người này nói, "Tôi phải làm gì khác với đôi

mắt? Mắt được ngụ ý là để nhìn và tìm cái đẹp. Và

người đàn bà kia - ông không thấy cô ấy đẹp thế sao?

Để yên tôi một mình đi! Tôi không có thêm thời gian

cho ông đâu."

Jesus rất buồn bởi vì ông ấy cứ tưởng ông ấy đã

giúp những người này. Ông ấy ra khỏi làng này và một

người đang chuẩn bị tự giết mình. Ông ấy hỏi người

này, "Cuộc sống quí giá thế! Sao ông lại tự giết

mình?"

Người này nhìn Jesus và người này nói, "Ông

không nhận ra tôi à? Tôi đã chết và ông là người đã

quấy rầy cái chết của tôi và ông đã đem tôi trở lại từ

cái chết. Điều đó là quá thể! Tôi không thể chịu đựng

được cuộc sống này thêm nữa. Thế là đủ lắm rồi! Và

xin ông, ông lại tới nữa rồi... còn tôi đang chuẩn bị mọi

thứ để tự giết mình. Ông đừng có giở phép màu ra nữa

- tôi không muốn tí nào cái phép màu của ông đâu!"

Đây là câu chuyện kì lạ, nhưng có ý nghĩa lớn lao.

Con người đến thế đấy, mù thế, tới mức người đó sẽ

làm cái gì đó sai nếu người đó mạnh khoẻ, người đó sẽ

làm cái gì đó sai nếu người đó sống động, người đó sẽ

làm cái gì đó sai nếu người đó có mắt - người đó sẽ

thấy cái gì đó sai. Chừng nào bạn còn chưa ý thức bạn

sẽ cứ làm điều sai.

Đó là lí do tại sao ở phương Đông, Phật, Mahavira,

Lão Tử và những người như họ chưa bao giờ làm phép

màu nào - hay họ đã làm mỗi một phép màu, và phép

màu đó là biến đổi vô ý thức thành ý thức - bởi vì

chừng nào điều đó còn chưa xảy ra thì mọi sự sẽ vẫn

cứ đi sai. Đó là việc đưa chiếc kiếm vào trong tay đứa

trẻ nhỏ: hoặc nó sẽ chém bản thân nó hoặc chém ai đó.

Bạn không cho trẻ con chất độc để chơi; điều đó là

nguy hiểm. Con người vô ý thức, gần như trong trạng

thái say.

Vậy bạn sẽ thu được gì từ điều đó nếu bạn dừng

hút thuốc?

O'Leary bước vào quán rượu và gọi một cốc bia và

whisky. Anh ta uống bia và rót whisky vào túi áo vét.

O'Leary lặp lại việc này vài lần, và cuối cùng người

đứng quầy thắc mắc hỏi, "Ý tưởng gì thế?"

"Không phải việc của ông đâu nhé!" người Ai rơ

len nói. "Và hơn nữa, ông quá tò mò tới mức tôi nhớ rõ

phải đấm vào mắt ông!"

Vừa lúc đó một con chuột ló đầu ra khỏi túi áo vét

của O'Leary's và nói, "Và điều đó sẽ diễn ra cho cả con

mèo chết tiệt của ông nữa!"

Con người vô ý thức. Con người chỉ dường như có

ý thức, con người không ý thức chút nào.

Cho nên thay vì hỏi tôi điều tôi phải nói về nó, bạn

nên quan sát. Điều quan trọng nhất không phải là dừng

hút thuốc; điều quan trọng nhất là quan sát tại sao bạn

hút thuốc ngay chỗ đầu tiên. Nếu bạn không hiểu

nguyên nhân của nó và nếu nguyên nhân không bị loại

bỏ, bạn có thể dừng hút thuốc - thế rồi bạn sẽ bắt đầu

nhai kẹo cao su, bởi vì nguyên nhân căn bản có đó và

bạn sẽ phải làm cái gì đó. Nếu bạn không bắt đầu nhai

kẹo sao su, bạn có thể bắt đầu nói quá nhiều.

Tôi không hút thuốc. Nếu ngày nào tôi phải dừng

nói tôi có thể phải bắt đầu hút thuốc! Bạn sẽ làm điều

gì đó....

Kẻ ăn chơi đa tình dồn cô gái vào chỗ ghế sau ô tô

và hăm hở đưa tay vào cô gái. Cô ấy chống lại và đẩy

anh ta ra, nhưng anh ta cứ tiến tới với nhiều tay hơn

con bạch tuộc.

Cuối cùng cô ấy tát cho anh ta lùi ra và la lên, "Em

không biết cái gì đã choán lấy anh. Anh bao giờ cũng

kiềm chế thế và tử tế thế."

Anh ta nói, "Vâng, anh biết, nhưng anh chỉ không

thể đừng được điều đó. Anh đang cố gắng bỏ hút

thuốc."

Hút thuốc đang giữ cho nhiều người khỏi làm

nhiều điều mà còn nguy hiểm hơn nhiều. Tay bạn được

tham gia, mồm bạn được tham gia, tâm trí bạn được

tham gia. Và bạn không làm hại người nào nói riêng,

chỉ hại bản thân mình. Đó là quyền tập ấm của bạn, đó

là tự do của bạn. Bằng không bạn sẽ làm cái gì đó

khác.

Bạn có quan sát không? Bất kì khi nào bạn cảm

thấy bồn chồn, căng thẳng, bạn bắt đầu hút thuốc. Nó

giúp cho bạn dịu xuống, thảnh thơi một chút; bằng

không cuộc sống sẽ trở thành quá nhiều. Khi bạn

không cảm thấy thần kinh, khi bạn đang tận hưởng, khi

bạn được thảnh thơi, bạn không nhớ tới hút thuốc.

Nhiều giờ có thể trôi qua và bạn có thể không hút

thuốc bởi lẽ đơn giản là không có nguyên nhân. Bằng

không bạn trở nên sợ bạn có thể làm điều gì đó sai. Tốt

hơn cả là giữ bản thân mình được dính líu.

Mahendra, gợi ý của tôi là: trước hết đi sâu vào

trong thói quen hút thuốc của bạn. Thiền về nó, tại sao

ngay chỗ đầu tiên bạn hút thuốc. Có thể mất vài tháng

để bạn đi vào trong nó, và bạn càng đi vào sâu hơn bạn

sẽ càng được tự do nhiều hơn với nó. Đừng dừng việc

hút thuốc. Nếu nó biến mất theo hiểu biết của bạn, qua

việc hiểu của bạn, điều đó là vấn đề hoàn toàn khác.

Nếu nó biến mất bởi vì bạn đã đi tới gốc rễ của nó và

bạn đã thấy ra vấn đề....

Chẳng hạn, có thể là bạn đã bị cai bú vú mẹ từ hồi

còn sớm hơn là bạn muốn và hút thuốc chỉ là thứ thay

thế.

Với nhiều người tôi đã gợi ý - và điều đó đã là sự

giúp đỡ cho nhiều người hút thuốc - tôi nói, "Nếu bạn

thực sự muốn dừng hút thuốc, thế thì bắt đầu mút ngón

tay đi." Họ nói, "Nhưng điều đó sẽ trông rất ngu

xuẩn!" Điều đó đúng... hút thuốc trông cứ dường như

bạn đang làm cái gì đó lớn lao! Bạn đang làm cùng

điều, thực ra có hại hơn chút ít. Chỉ mút ngón tay mình

chả hại gì cả, nhưng hút thuốc là có hại. Nhưng bởi vì

mọi người đều hút thuốc và điều đó là điều đã được

chấp nhận và điều đó dường như là rất trưởng thành....

Trẻ nhỏ muốn là người lớn, nếu không vì bất kì cái

gì khác hơn chỉ là được phép hút thuốc. Thấy người

lớn hút thuốc chúng cảm thấy rất kém cỏi - chúng

không được phép. Chúng được bảo, "Cháu còn nhỏ

quá - đợi thêm chút nữa đi. Đây là cái gì đó mà chỉ

người lớn mới có thể làm được." Hút thuốc thành biểu

tượng cho người lớn. Và nếu bạn thực sự hút thuốc lá

đắt, xì gà đắt, hiếm, ngoại, thế thì điều đó chứng tỏ

thành công của bạn, nó chỉ ra rằng bạn đã đạt tới. Nó

cho bạn chân giá trị.

Đi sâu vào trong nó đi. Có thể là vú mẹ bạn đã bị

lấy đi quá sớm. Thế thì gợi ý của tôi là: trong đêm

trước khi bạn đi ngủ, Mahendra này, lấy một chai sữa

với núm vú cao su gắn với nó và bú nó đi. Mọi đêm

trước khi bạn đi ngủ hãy trở thành đứa trẻ lần nữa. Cứ

bú nó. Đổ đầy chai bằng sữa ấm. Đó là điều việc hút

thuốc đang làm đấy. Khói ấm đi vào và đi ra tượng

trưng cho sữa mẹ. Bạn sẽ phải đi sâu vào trong nguyên

nhân.

Một trong những điều lớn lao trong cuộc sống là

nếu bạn hiểu căn nguyên của cái gì đó bạn có thể vượt

qua được nó mà không khó khăn gì, không cần nỗ lực

ý chí nào. Nếu bạn dùng sức mạnh ý chí để dừng nó

bạn sẽ thấy cái thay thế nào đó - bạn sẽ phải tìm ra cái

thay thế nào đó. Có thể bạn không được phép nói; ở

văn phòng ông chủ sẽ không cho phép bạn, ở nhà vợ

sẽ không cho phép bạn. Cô ấy cứ nói hoài, cô ấy

không để thời gian cho bạn nói. Và bạn cũng sợ nếu

bạn nói bạn sẽ bị rắc rối; bất kì điều gì bạn nói cũng

đều sai. Và vợ nhảy lên điều đó, lấy cớ từ điều đó và

bắt đầu kêu ca chì chiết bạn. Cho nên ở nhà bạn phải

nấp sau tờ báo. Bạn có đọc báo hay không, không phải

là vấn đề, nhưng bạn phải nấp đằng sau tờ báo. Bạn

phải có vẻ tham gia, bận bịu, để cho bạn không cần nói

và bạn không cần nghe điều vợ cứ nói mãi.

Đàn bà trên khắp thế giới, ngoại trừ ở vài nước

phương Tây, không hút thuốc, bởi lẽ đơn giản là họ

nói quá nhiều. Môi họ có nhiều tập luyện thế, không

có nhu cầu! Ở vài nước phương Tây họ đã bắt đầu hút

thuốc và lí do là phong trào Giải phóng Phụ nữ. Họ

phải cạnh tranh với đàn ông trong mọi thứ; dù nó là có

nghĩa hay vô nghĩa cũng chả thành vấn đề. Tôi rất sợ

họ có thể còn đứng đái một ngày nào đó, bởi vì họ

bình đẳng với đàn ông mà! Dù điều đó ngu xuẩn thế

nào, họ sẽ làm điều đó.

Đi vào trong nguyên nhân của nó đi, Mahendra

này, và nếu bạn có thể tìm ra nguyên nhân, nó sẽ đơn

giản tan chảy mất. Nhưng đừng dừng bằng ép buộc -

cứ để nó đi theo cách riêng của nó, qua quan sát, qua

nhận biết.

Cho nên tôi sẽ không nói dừng hút thuốc hay dừng

cái gì cả, nhưng tôi bao giờ cũng sẽ gợi ý: quan sát,

thiền, nhận biết, đi vào trong gốc rễ. Đây là luật nền

tảng của cuộc sống: nếu bạn có thể hiểu gốc rễ của cái

gì đó, nó biến mất, nó bay hơi. Chừng nào bạn còn

chưa hiểu gốc rễ, nó sẽ tiếp tục dưới dạng này hay

dạng khác.

#4Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi yêu một cô gái đẹp, nhưng cô ấy nghèo. Một

cô già xấu xí nhưng có nhiều của cải lại yêu tôi.

Tôi nên cưới cô gái giầu hay cô gái nghèo?

Narayano, cưới cô giầu đi và tốt với cô nghèo!

Câu hỏi thứ năm:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi đang yêu. Tôi phải làm gì?

Mahesh, cách chữa duy nhất cho đàn ông đang yêu

là hôn nhân. Nếu điều đó không chữa được anh ta,

chẳng cái gì sẽ chữa được.

Câu hỏi thứ sáu:

Thưa thầy kính yêu,

Suốt bốn mươi nhăm năm tôi đã sống trong tù,

phần lớn do tôi tự tôi tạo ra. Bây giờ tôi biết có thể

trở nên tự do ngày một nhiều hơn. Nhưng phải làm

gì, khi mình cảm thấy mình cần một chỗ an toàn,

bầu khí hậu tốt để trưởng thành? Nhà tù khác sao?

Làm sao được tự do ở bất kì đâu, bất kì khi nào?

Tôi cảm thấy buồn và nổi dậy trong tôi về điều đó.

Yvonne, tự do chẳng có liên quan gì với bên

ngoài; người ta có thể tự do ngay cả trong nhà tù thực

tại. Tự do là cái gì đó bên trong; nó là của tâm thức.

Bạn có thể tự do ở bất kì chỗ nào - bị xiềng xích, trong

trại giam, bạn có thể tự do - và bạn có thể không tự do

bên ngoài nhà giam, trong nhà riêng của bạn, tự do

thấy được một cách tuyệt đối, nhưng bạn sẽ là tù nhân

nếu tâm thức bạn không tự do.

Bạn đang lẫn lộn tự do bên ngoài với tự do bên

trong. Khi có liên quan tới bên ngoài bạn không bao

giờ có thể tự do tuyệt đối được - để điều đó được rõ

ràng một lần cho dứt khoát đi. Khi có liên quan tới bên

ngoài bạn không một mình, cho nên làm sao bạn có thể

tuyệt đối tự do được? Có cả triệu người quanh bạn. Ở

bên ngoài, cuộc sống phải là thoả hiệp. Nếu bạn mà

một mình trên thế gian bạn chắc đã tuyệt đối tự do,

nhưng bạn không một mình.

Trên đường bạn phải đi bên phải. Và Yvonne sẽ

cảm thấy đây là tù túng lớn lao: "Tại sao? Tại sao tôi

phải bị buộc đi bên phải? Tôi là người tự do. Nếu tôi

muốn đi bên trái tôi sẽ đi bên trái. Nếu tôi muốn đi

giữa đường tôi sẽ đi ở giữa đường." Ở Ấn Độ bạn có

thể làm điều đó - Ấn Độ là nước tự do, nhớ lấy! Nó là

nền dân chủ vĩ đại nhất trên thế giới, cho nên phải, trái,

giữa, bất kì chỗ nào bạn cũng có thể bước đi!

Nhưng tự do của một người trở thành vấn đề cho

tự do của nhiều người thế. Bạn tự do là bản thân mình,

nhưng bạn không nên là điều phiền nhiễu cho cuộc

sống của người khác.

Con người của hiểu biết sẽ kính trọng tự do của

mình nhiều như người đó sẽ kính trọng tự do của người

khác, bởi vì nếu không ai kính trọng tự do của bạn, tự

do của bạn sẽ bị phá huỷ. Đó là việc hiểu lẫn nhau:

"Tôi kính trọng tự do của bạn, bạn kính trọng tự do

của tôi, thế thì cả hai chúng ta có thể tự do." Nhưng

đấy là thoả hiệp. Tôi không làm phiền phức tới con

người bạn, tôi không tự do xâm phạm vào bạn.

Bạn muốn hát to vào giữa đêm. Tất nhiên bạn là

người tự do, và nếu bạn không thể hát to ở nhà riêng

của bạn, thì đây là cái loại tự do gì? Nhưng hàng xóm

cũng phải ngủ nữa; thế thì phải có thoả hiệp.

Bên ngoài chúng ta là liên thuộc lẫn nhau. Không

ai có thể là tuyệt đối độc lập được. Cuộc sống là liên

thuộc lẫn nhau. Không chỉ với những người bạn liên

thuộc, bạn còn liên thuộc với mọi thứ. Nếu bạn chặt

mọi cây, bạn sẽ chết bởi vì chúng thường xuyên cung

cấp cho bạn ô xi. Bạn phụ thuộc vào chúng - và chúng

phụ thuộc vào bạn bởi vì bạn thường xuyên cho chúng

các bô nic. Chúng ta lấy vào ô xi và thở ra các bô nic;

cây làm chính điều ngược lại, chúng thở ra ô xi và hít

vào các bô nic.

Cho nên khi những người như Mahendra hút

thuốc, cây phải cảm thấy cực kì sung sướng bởi vì

nhiều các bô nic đang được tạo ra cho chúng! Nghe tôi

những cây này sẽ cảm thấy rất buồn là tôi đang bảo

bạn đi tới tận căn nguyên của nó và thế thì việc hút

thuốc sẽ biến mất. Điều đó nghĩa là cây sẽ không có

được nhiều các bô mic như chúng đã có trước đây!

Chúng ta liên thuộc, không chỉ với cây - còn với

mặt trời, với mặt trăng, với các vì sao. Mọi thứ đều là

liên thuộc lẫn nhau.

Ngày mai sẽ có nhật thực, nhật thực toàn phần.

Điều đó sẽ có tác động vô cùng tới cuộc sống trên trái

đất. Nếu bạn nhìn thẳng vào mặt trời bạn có thể bị mù

vĩnh viễn. Tránh nhìn vào mặt trời - thực ra, đừng ra

ngoài. Sẽ có mọi cám dỗ để ra ngoài bởi vì ngay giữa

ban ngày, gần bốn giờ ba mươi chiều, bạn có thể thấy

sao trên bầu trời; cũng như trong đêm bạn bao giờ

cũng thấy chúng, ngay giữa ban ngày bạn có thể thấy

sao. Sẽ có cám dỗ lớn để ra ngoài và xem, nhưng tránh

điều đó đi, đừng ra ngoài. Điều đó là nguy hiểm cho

mắt, điều đó là nguy hiểm cho hệ thần kinh, điều đó là

nguy hiểm cho cơ chế tâm trí của bạn. Nhiều người sẽ

nổi cáu, nhiều người sẽ bị mù. Phụ nữ có mang nên

tránh ra ngoài tuyệt đối bởi vì đứa trẻ trong bụng là rất,

rất mong manh. Nó còn chưa có cái bảo vệ; nó mềm

mại, mềm tới mức nó có thể bị ảnh hưởng bởi bất kì

cái gì. Và trong khi nhật thực, khi nhật thực toàn phần,

các tia nguy hiểm đi vào trong bầu khí quyển.

Cho nên khi nhật thực xảy ra tôi muốn tất cả các

sannyasin đi vào bên trong phòng của họ, đóng cửa lại,

ngồi trong thiền sâu. Điều đó sẽ chỉ kéo dài vài phút

thôi. Tránh cám dỗ đi ra ngoài, và đừng thử tìm các

thiết bị qua đó bạn có thể nhìn nhật thực mà không bị

hại. Không thiết bị nào là tuyệt đối vô hại; tốt hơn cả

là tránh nó ra.

Bây giờ cuộc sống liên thuộc thế... mặt trời ở xa

thế. Phải mất mười phút để tia sáng mặt trời tới trái

đất, và tia sáng đi với tốc độ lớn vô cùng - một trăm

tám mươi sáu nghìm dặm một giây. Nhưng chúng ta

có liên quan tới các mặt trời khác và tới các hệ mặt trời

khác nữa. Mọi thứ trong sự tồn tại đều liên thuộc nhau,

cho nên bạn không thể tuyệt đối tự do ở bên ngoài

được - và không cần điều đó nữa.

Tận hưởng sự liên thuộc này đi. Đừng gọi nó là tù

túng. Nó không phải là phụ thuộc, nó là liên thuộc.

Bạn phụ thuộc vào người khác, người khác phụ thuộc

vào bạn. Đó là tình huynh đệ, đó là tính quan hệ. Ngay

cả một nhành cỏ nhỏ nhất cũng có quan hệ với vì sao

lớn nhất.

Nhưng trong thế giới bên trong, trong vương quốc

bên trong, bạn có thể tuyệt đối tự do. Cho nên toàn thể

câu hỏi là về cái bên trong. Và thế thì, Yvonne này,

bạn sẽ không cảm thấy buồn và nổi dậy; không cần.

Hiểu rằng liên thuộc bên ngoài là điều phải có, nó là

không tránh được; chẳng cái gì có thể được làm về nó.

Nó là một phần của cách mọi sự đang vậy. Chấp nhận

nó đi. Khi không cái gì có thể được làm về nó, chấp

nhận là cách duy nhất. Và chấp nhận nó một cách vui

vẻ, không như cam chịu. Chấp nhận nó đi! Đây là vũ

trụ của chúng ta; chúng ta là một phần của nó. Chúng

ta không phải là những hòn đảo, chúng ta là một phần

của toàn thể lục địa. Chúng ta không phải là các bản

ngã.

Yvonne, ý tưởng của bạn về tự do được bắt rễ đâu

đó trong ý tưởng về bản ngã. Chúng ta không phải là

các bản ngã. Bản ngã là thực thể giả tạo - bởi vì chúng

ta không tách rời, làm sao chúng ta có thể có bản ngã

được? Khi có liên quan tới ngôn ngữ thì bản ngã là tốt;

dùng từ 'tôi' là một tiện dụng, nhưng không có bản chất

trong nó. Nó là cái bóng thuần tuý, hoàn toàn trống

rỗng. Một từ hữu dụng, tiện dụng, nhưng không thực.

Nhưng tự do bên trong là có thể. Nó xảy ra khi bạn

đi ngày càng sâu hơn vào trong nhận biết. Quan sát

thân thể bạn, quan sát các quá trình ý nghĩ của bạn đi.

Mới hôm nọ Phật đã nói: Quan sát, chứng kiến

toàn thể quá trình ý nghĩ của ông. Và dần dần, dần dần

bạn sẽ thấy bạn không là giận không là tham, không là

người Hindu không là người Mô ha mét giáo không là

người Ki tô giáo, không là người Cơ đốc giáo không là

người cộng sản. Dần dần, dần dần bạn sẽ nhận biết

rằng bạn không là ý nghĩ nào - bạn không là tâm trí

chút nào. Bạn là nhân chứng thuần khiết. Kinh nghiệm

về chứng kiến thuần khiết là kinh nghiệm về tự do toàn

bộ, nhưng nó là hiện tượng bên trong. Và người tự do

toàn bộ bên trong không có khao khát tự do bên ngoài.

Người đó có khả năng chấp nhận tự nhiên như nó vậy.

Yvonne, tạo ra tự do bên trong đi, qua chứng kiến.

Tính chất sannyas chỉ dành cho tự do bên trong. Và

sống từ tự do bên trong và thế thì bạn sẽ có khả năng

thấy sự liên thuộc ở bên ngoài. Nó là đẹp và nó là phúc

lành. Không cần nổi dậy chống lại nó. Thảnh thơi

trong nó, buông xuôi theo nó. Và nhớ: chỉ người thực

sự tự do mới có thể buông xuôi.

#4Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi cũng nghĩ rằng con người của tri thức là tốt

hơn người dốt nát. Tôi có tuyệt đối sai không?

Sanatan, con người của tri thức là hiện tượng hoàn

toàn khác. Tôi đang nói rằng con người của tri thức và

người thông thái không như nhau. Con người của tri

thức chính là điều vị phật là gì: người biết. Nhưng

người thông thái không phải là vị phật; người đó

không biết. Người đó đã tích luỹ nhiều thông tin,

nhưng thông tin đó là vay mượn. Nó từ kinh sách, từ

sách vở, từ người khác. Người đó đã không kinh

nghiệm nó; toàn là về và về. Người đó có thể nói,

người đó có thể viết, người đó có thể thuyết giảng,

nhưng người đó chẳng biết gì. Người đó nói về

Thượng đế; người đó không có ý tưởng gì về Thượng

đế là gì. Người đó thậm chí không có thoáng nhìn -

còn nói gì tới kinh nghiệm.

Tu sĩ trên khắp thế giới của mọi tôn giáo đều là

người thông thái. Jesus biết, nhưng giáo hoàng không

phải là con người của tri thức. Ông ấy là người thông

thái, ông ấy có nhiều thông tin. Ông ấy có thể trích dẫn

kinh sách.

Một trong các nhà tư tưởng lớn của phương Tây là

Ingersoll. Bất kì khi nào ông ấy tới nói chuyện - và

ông ấy là một diễn giả vĩ đại nữa - ông ấy sẽ làm một

dấu hiệu huyền bí trong không trung bằng ngón tay

trước khi ông ấy bắt đầu nói. Và khi ông ấy kết thúc,

sau đó ông ấy lại làm cái gì đó bằng các ngón tay -

điều gì đó rất huyền bí trong không trung. Người ta cứ

hỏi đi hỏi lại ông ấy, nhưng ông ấy chỉ cười và ông ấy

không trả lời.

Khi ông ấy chết, ai đó hỏi, "Bây giờ xin nói cho

chúng tôi, bằng không chúng tôi bao giờ cũng tò mò

và tự hỏi - ông đã làm gì trong cả đời mình? Có phép

thần nào đó trong nó không? Sao ông làm những dấu

hiệu huyền bí nào đó trước khi ông nói và rồi lại làm

khi ông kết thúc?"

Ông ấy nói, "Chả có phép thần gì trong nó cả,

nhưng tôi không thể nói được điều đó trước đây. Bây

giờ tôi có thể nói được điều đó. Trước khi tôi bắt đầu

bài nói tôi đã làm dấu hiệu về dấu nháy, và sau khi tôi

kết thúc tôi phải đóng dấu nháy đó lại. Tôi tự nói với

mình và với các ông nữa rằng đấy tất cả chỉ là trích

dẫn thôi, đấy không phải là kinh nghiệm của tôi. Toàn

thể mọi sự chỉ là vay mượn - nó là ở trong các dấu

nháy."

Đó là người thông thái. Nhưng Ingersoll chân

thành, ít nhất cũng thực thà. Người thông thái không

tốt hơn người dốt nát, nhớ lấy, Sanatan. Con người của

tri thức chắc chắn tốt hơn người dốt nát, tất nhiên, hiển

nhiên, nhưng cùng điều đó lại không đúng với người

thông thái. Người thông thái thậm chí còn tồi hơn

người dốt nát. Người dốt nát ít nhất cũng biết rằng

mình là người dốt; người đó không giả vờ, người đó

không tạo mẽ ngoài. Người thông thái có mẽ ngoài đẹp

đẽ, mặt nạ.

Và vấn đề là: nếu bạn lừa dối người khác, dần dần

bạn trở nên bị tự thôi miên. Bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn

biết. Nhưng không có khác biệt. Người thông thái chỉ

là trên bề mặt được tô vẽ bằng tri thức lớn lao còn

người dốt nát thì không được tô vẽ; người đó thô.

Người thông thái có chút ít được đánh bóng. Nhưng

sâu bên dưới họ là cùng một người. Cả hai sẽ tham, cả

hai sẽ đầy thèm khát, cả hai sẽ đầy giận, cả hai sẽ đầy

bản ngã. Các kiếp sống của họ sẽ không là gì ngoài thủ

đoạn bản ngã. Các kiếp sống của họ sẽ không là gì

ngoài dâm dục, bạo hành, tham lam, ghen tị, sở hữu.

Sẽ không có khác biệt chút nào.

Sanatan, nhớ lấy, bạn phải trở thành người biết

theo cách riêng của bạn. Nếu bạn trích dẫn tôi, điều đó

là thông thái thôi; nếu bạn biết nó theo cách riêng của

bạn, đó là việc biết. Và việc biết đem tới tự do, việc

biết đem tới chân lí. Thông thái được kính nể; bạn trở

thành chuyên gia. Bạn càng biết nhiều, mọi người càng

tưởng bạn là vĩ đại, nhưng sâu bên dưới bạn cứ sống

cùng một loại cuộc sống con vật, không khác biệt chút

nào - hay có thể chỉ một khác biệt: bạn là kẻ đạo đức

giả còn lớn hơn người dốt nát.

Norman Bush có chứng nói lắp khủng khiếp. Vợ

anh ta, Rose, gợi ý rằng anh ta nên tới và gặp nhà

chuyên môn. Anh ta ngần ngại nhưng bị thuyết phục

tới thăm người nổi tiếng nhất ở phố Harley, người này

nói với anh ta, "Này, ông Bush, chúng tôi chỉ có thể

làm được một điều với chứng nói lắp này của ông.

Ông thấy đấy, vấn đề là các hòn của ông quá to. Tuy

nhiên, chúng tôi phải có khả năng cấy một cặp nhỏ

hơn. Điều đó chắc chắn chữa khỏi bệnh của ông."

Norman được cho một tuần suy nghĩ kĩ càng và

ngần ngại chấp thuận qua cuộc giải phẫu. Khi anh ta

bước ra, việc nói trôi chảy của anh ta được khôi phục,

vợ anh ta mừng lắm. Thế rồi tới những đêm dài đó khi

Rose hăm hở hơn còn Norman chả biểu lộ quan tâm gì.

Vài tuần trôi qua cô ấy đâm lo âu và thất vọng.

Thế rồi một đêm cô ấy nói với anh ta, "Anh biết

đấy, em nghĩ em thích anh như cách anh làm trước

đây, khi còn các hòn to và anh nói lắp. Em sẽ tới gặp

bác sĩ đó và xin làm giải phẫu ngược lại."

Ngần ngại, Norman bị lôi tới chuyên gia này.

"Ông biết đấy, bác sĩ," Norman nói, "vợ tôi nói cô ấy

thích tôi theo cách tôi đã vậy với bệnh nói lắp và tất

cả, và, um, này, ấy a, bác sĩ có cho rằng tôi có thể cấy

lại hai hòn cũ của tôi được không?"

"Đ-đ-đéo làm được!" bác sĩ nói.

Đủ cho hôm nay.

***************************************************************************************************************

#5 Rủi ro là đáng nhận

Nếu lữ khách có thể tìm được

bạn đồng hành đức hạnh và trí huệ,

Để người đó đi cùng người này một cách vui vẻ

và vượt qua những hiểm nguy trên đường.

Nhưng nếu ông không thể tìm được

người bạn hay thầy để đi cùng mình,

Đi một mình -

như vua đi xa khỏi vương quốc,

như voi trong rừng rậm.

Đi một mình,

thay vì đi với kẻ ngu làm bạn đồng hành.

Đừng mang theo sai lầm của ông.

Đừng mang lo âu của ông.

Đi một mình

như voi trong rừng rậm.

Nirupa nói rằng đây là ngày nghiêm chỉnh của tôi.

Lỗi không phải là của tôi; toàn thể lỗi là của Phật

Gautama. Anh già đó mới là người nghiêm chỉnh tuyệt

đối.

Người ta nói về Jesus là ông ấy chưa bao giờ cười

cả. Điều đó không thể đúng được bởi vì Jesus rất nhiều

tính người, rất trần tục. Không thể có chuyện là ông ấy

chưa bao giờ cười. Ông ấy yêu mọi người, ông ấy yêu

thích việc hoà lẫn vào mọi người, với người thường -

nông dân, thợ mộc, ngư phủ, kẻ đánh bạc, kẻ say, gái

điếm. Cứ xem toán của ông ấy, dường như không thể

có chuyện ông ấy không bao giờ cười. Ông ấy tận

hưởng ăn, uống; ông ấy tận hưởng bầu đoàn. Ông ấy

phải đã tán chuyện, kể chuyện tiếu lâm, cười.

Nhưng có thể là Phật chưa bao giờ cười. Ông ấy

hoàn toàn nghiêm chỉnh. Ông ấy rất nhiều tính Ấn Độ.

Ông ấy là nước thuần khiết... tôi trộn nhiều rượu tuỳ

theo khả năng của mình!

Cho nên Nirupa, tha lỗi cho tôi, bởi vì nếu tôi trộn

thêm rượu, thế thì anh già kia sẽ thực sự giận đấy! Như

sự việc hiện thế, ông ấy đã coi tôi là kẻ làm biến chất

ông ấy, nhưng ông ấy chẳng thể làm gì được cả - tôi

còn sống và ông ấy đã chết rồi! Tôi không phải là

người Ấn Độ chút nào.

Có lần một quí bà Mĩ đã hỏi tôi, "Cái 'nòi' của ông

là gì? - Nhật Bản, Trung Quốc, Java?"

Tôi bảo bà ấy, "Tôi không là cái nào cả." Và thế

rồi tôi hỏi bà ấy, "Bà là ai? - khỉ, lừa hay Mĩ?"

Tôi không thuộc vào nước nào, không thuộc vào

truyền thống nào, không thuộc vào giống nòi nài,

không thuộc vào tôn giáo này. Tôi chỉ là mây trắng nổi

trên khắp thế giới. Tôi không có gốc rễ nào ở đâu cả;

do đó tôi tự do. Phật có gốc rễ ở mảnh đất Ấn Độ,

trong tâm trí Ấn Độ.

Phật sẽ vẫn còn như cũ, không sẵn có, không tiếp

cận tới được. Chính là qua người Trung Quốc và người

Nhật Bản mà ông ấy mới trở nên chút ít tính người

hơn. Bằng không ông ấy sẽ vẫn còn là một thượng đế

trên mây, tuyệt đối không đạt tới được. Khi Phật giáo

được đưa vào Trung Quốc họ đã đem nó xuống đất.

Người Trung Quốc là người rất trần tục. Họ chưa bao

giờ sinh thành bất kì người nào như Phật. Họ có người

đã thức tỉnh riêng của họ - Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử

- nhưng họ đầy tiếng cười, đầy niềm vui, đầy lòng biết

ơn. Họ thuộc vào sự tồn tại này; họ không trong bất kì

cách trốn nào khỏi nó. Họ sống trong nó theo tính toàn

bộ của nó.

Và người Nhật Bản thậm chí còn trần tục hơn. Khi

Phật giáo tới Nhật Bản qua Trung Quốc, chính mầu

sắc của nó, hình thái của nó, chính hương thơm của nó

đã thay đổi. Nó trở thành cực kì đa chiều, sáng tạo,

khẳng định cuộc sống hơn. Tiếng cười bước vào. Các

thầy Nhật Bản đã biến đổi chính tính nghiêm trang của

Phật thành cái đối lập của nó.

Nhưng ở Ấn Độ nỗ lực này chưa bao giờ được

thực hiện cả. Ở Ấn Độ Phật vẫn còn già cỗi, trong hai

mươi nhăm thế kỉ.

Nỗ lực của tôi ở đây là làm cho ông ấy sống động

lại lần nữa. Và làm cho ông ấy sống động nghĩa là làm

cho ông ấy thành người đương đại, giúp ông ấy nói với

bạn theo cách bạn muốn được nói tới, theo cách bạn sẽ

có khả năng hiểu được ông ấy. Ông ấy phải được đem

lại từ chiều cao của ông ấy. Đất có cái đẹp riêng của

nó và bất kì chiều cao nào cũng đều phải được dựa trên

chính đất này.

Cho nên, Nirupa này, tha thứ cho tôi đi, bởi vì nói

về Phật thì cái gì đó của ông ấy nhất định bước vào;

điều đó là không tránh khỏi. Tôi cố gắng hết sức để

cho mầu sắc mới vào cách diễn đạt vô mầu của ông ấy,

cho ông ấy sống động hơn, những dẫu sao, tôi cũng

không thể đi quá xa khỏi lời kinh của ông ấy được.

Mặc dầu tôi mang đủ dây buộc, tôi đi xa nhất có thể

được - không ai đã đi xa như tôi đã từng đi đâu -

nhưng dầu vậy điểm tham chiếu vẫn còn là lời kinh

của ông ấy.

Tôi yêu con người này - ông ấy có cái đẹp của

riêng ông ấy - nhưng không cần phải nghiêm chỉnh

thế. Nhưng đó đã là cách thức ở Ấn Độ vào những

ngày đó, và nó thậm chí cũng là cách thức ngày nay,

vẫn còn nghiêm chỉnh. Tôn giáo được coi là hiện

tượng rất nghiêm chỉnh.

Tôi có thể là người đầu tiên trong toàn thể lịch sử

Ấn Độ, người đã trộn lẫn tôn giáo với chuyện cười. Để

chúng ta hãy bắt đầu vài chuyện cười đi.

Chuyện thứ nhất:

Pierre, người Pháp, Tonio, người Italia, và Stash,

người Ba Lan, đang cùng du hành qua miền quê thì

chiếc xe của họ bị hỏng.

Họ tìm thấy chỗ trọ ở một nông trại, và trong đêm

người Pháp quyết định lẻn vào phòng của cô con gái

người nông dân.

Người nông dân nghe thấy tiếng anh ta bước lên

cầu thang và nói, "Ai đấy?"

Nghĩ nhanh, Pierre thì thào, "Meo, meo...."

Hai mươi phút sau, Tonio lại làm cùng nỗ lực. Khi

anh ta lại gần phòng cô con gái người nông dân hơn,

người bố cô gái lại kêu lên, "Ai đấy?"

Người Italia lại bắt chước âm thanh mèo, "Meo,

meo...."

Stash quyết định rằng anh ta, lần nữa, nên làm

thêm một nỗ lực. Ngay khi anh ta lên tới phòng cô gái,

người nông dân kêu lên, "Thôi được, ai đấy?"

Người Ba Lan đáp, "Tôi đây, mèo đây."

Câu chuyện thứ hai:

Benson và con chó của anh ta đang ngồi cạnh quán

rượu. Anh ta đặt hai cốc martinis. Benson đưa một cốc

cho con chó, nó vừa uống, vừa ăn cỏ cho tới khi chỉ

còn lại đáy cốc và cuống cỏ. Rồi nó bỏ đi.

"Đó là điều kì lạ nhất tôi đã từng thấy," người

đứng quầy nói.

"Vâng, nó là con chó câm," Benson nói. "Cọng cỏ

mới là phần ngon nhất."

Thứ ba:

Ông Benchley đang im lặng uống rượu martini

trong góc nhà thì một bà đi tới ông ấy và nói, "Ông

không biết chất ông đang uống là chất độc chậm sao?"

"Được thôi," ông ấy trả lời. "Tôi đâu có vội."

Thứ tư:

Chiếc xe ô tô đâm vào bà ấy và từ xa một trăm

bước anh ta dừng xe lại và ngoái nhìn đằng sau.

"Phải nhìn chứ!" anh ta kêu lên.

Người đàn bà tự bò dậy trên khuỷu tay và la lên,

"Tại sao ông quay lại?"

Thứ năm và là cuối cùng:

Roxanne, một cô gái đẹp, tóc vàng vấn gọn ghẽ,

xin vào làm rạp xiếc với việc thuần dưỡng sư tử. Ralph

là một ứng cử viên khác.

"Tôi sẽ cho cả hai người một cơ hội," người quản

lí nói. "Cô gái làm trước."

Roxanne, mặc chiếc áo choàng lông chồn dài

thượt, đi vào trong cũi. Một con sư tử khổng lồ ở trong

đó cùng cô gái và lập tức con vật này bắt đầu tấn công.

Đột nhiên, Roxanne cởi áo choàng lông thú ra và

đứng đó, hoàn toàn trần truồng. Con sư tử đứng chết dí

trên đường và bắt đầu liếm chân cô ấy, rồi liếm tay, rồi

nó nhu mì quay về góc chuồng.

Người quản lí ngạc nhiên. Ông ta quay sang anh

thanh niên. "Này, anh bạn, anh nghĩ anh có thể vượt

lên trên điều đó được không?"

"Tôi chắc chắn là có thể vượt hơn được," Ralph

nói. "Ông chỉ cần cho con sư tử đó ra ngoài kia và tôi

sẽ biểu diễn cho ông xem."

Bây giờ, lời kinh:

Những câu chuyện này là về trạng thái của nhân

loại. Chúng là những khía cạnh khác nhau của vô ý

thức của con người, tính máy móc của con người, các

khía cạnh khác nhau của vô nhận biết của con người.

Con người cứ sống như robot. Tất cả mọi hành vi của

người đó đều bắt nguồn từ không gian tối bên trong

người đó. Do đó mới có khổ của thế gian này. Chừng

nào không gian bên trong đó còn chưa được thắp sáng

lên, chưa trở thành đầy ánh sáng, không có hi vọng gì

cho nhân loại cả.

Trong quá khứ chúng ta đã sống sót bởi vì vũ khí

giết người còn chưa hoàn hảo. Bây giờ chúng hoàn hảo

rồi. Bây giờ chúng ta có bom nguyên tử hoàn hảo, bom

khinh khí, tia la de, tia chết và đủ thứ linh tinh. Bây

giờ chúng ta đã trở nên hiệu lực trong việc tiêu diệt

nhân loại và trái đất này đến mức nếu trong phần cuối

của thế kỉ này chúng ta không đem ánh sáng tới cho

hàng triệu trái tim con người, nhân loại phải chịu số

phận bi đát. Thế thì không có tương lai. Chúng ta có

thể sống những năm cuối cùng của sự tồn tại con

người trên trái đất.

Nhưng trạng thái gay cấn này cũng có thể trở

thành ân huệ trá hình lớn lao. Nó có thể làm cho chúng

ta nhận biết nhiều hơn, có trách nhiệm nhiều hơn. Nó

có thể khêu gợi chúng ta làm cái gì đó để cho nhân loại

vươn tới bình diện cao hơn của tâm thức.

Toàn thể thông điệp của Phật đều liên quan tới tâm

thức: cách nâng tâm thức lên trong nhân loại, cách làm

cho con người tỉnh táo hơn, có khả năng thấy mọi điều

như chúng vậy, cách làm cho con người có khả năng

trở nên tự phát hơn và vận hành từ nhận biết và không

từ vô nhận biết. Chúng ta vận hành từ vô ý thức.

Mọi lời kinh này đều chỉ để chuẩn bị mảnh đất,

mảnh đất đúng để từ đó bạn có thể cất cánh.

Nếu lữ khách có thể tìm được

bạn đồng hành đức hạnh và trí huệ,

Để người đó đi cùng mình một cách vui vẻ

và vượt qua những hiểm nguy trên đường.

Từng từ đều phải được thiền. Từ thứ nhất là 'nếu';

nó là từ 'nếu' lớn. Phật nói: NẾU lữ khách có thể tìm

được....

Rất khó tìm ra thầy đã thức tỉnh bởi lẽ đơn giản là

rất ít người đã từng thử thoát ra lệ thường của vô ý

thức. Lệ thường của việc vẫn còn vô ý thức là thoải

mái, ấm cúng, bởi vì nó giữ bạn bị giới hạn vào thế

giới của điều quen thuộc và nó giữ bạn cùng đám

đông. Đi ra khỏi đám đông là mạo hiểm bởi vì đám

đông chưa bao giờ tha thứ cho người đi khỏi nó. Đám

đông muốn sở hữu bạn trong tất cả, thân thể và linh

hồn. Đám đông muốn chi phối bạn. Đám đông sống

qua việc chi phối.

Nỗ lực này để chi phối chính là chính trị đấy.

Chính trị nghĩa là đám đông đang cố gắng chi phối cá

nhân, phá huỷ cá nhân, phá huỷ tự do, phá huỷ tính tự

phát, phá huỷ bất kì ý tưởng nào về việc đi theo cách

của riêng người ta, sống cuộc sống riêng của người ta,

theo ánh sáng riêng của người ta. Đám đông muốn bạn

đi theo quần chúng, tâm trí tập thể. Đám đông không

muốn bạn có cách riêng của bạn. Đám đông đã làm xa

lộ; bạn đơn giản có thể đi theo nó. Và theo một cách

nào đó việc đó là thoải mái hơn, nó ấm cúng. Bạn

được bao quanh bởi mọi người, điều đó ấm áp.

Khi bạn đi một mình vào khu rừng rậm rạp và

thăm thẳm và tối tăm của cái không biết, điều đó thật

lạnh lẽo, và có cả nghìn nỗi sợ nảy sinh. Bạn không

biết, ngay chỗ đầu tiên, làm sao đối phó với cái không

biết. Bạn hiệu quả trong việc đối phó với cái đã biết;

hệ thống giáo dục của bạn làm cho bạn có khả năng

đối phó với cái đã biết. Giáo dục của bạn rất chống đối

cái không biết.

Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng giáo dục của bạn

chống lại thông minh. Xã hội cần kẻ bắt chước. Nó

muốn bạn giỏi nhớ, không trở thành thông minh. Nó

muốn bạn trở thành cái máy tốt, không là người đẹp;

máy hiệu quả, nhưng máy tất cả đều như nhau. Nó cần

bạn vận hành tốt, nhưng nó không muốn bạn có ý thức

hơn. Thế thì bạn sẽ bắt đầu nói không với nhiều điều;

bạn sẽ không vâng lời vậy.

Xã hội muốn người nói có. Nó muốn có những

người mù. Nó không muốn bạn thấy bởi vì nếu bạn

thấy bạn nhất định bị ảnh hưởng bởi việc thấy của

mình, bạn nhất định thay đổi cách thức của mình. Xã

hội muốn có các tín đồ mù.

Do đó rất hiếm khi một người trở nên thức tỉnh bởi

vì - điều đầu tiên - trở nên thức tỉnh, là vị phật, nghĩa

là đi ra khỏi tâm trí tập thể; trở thành cá nhân, được

tích hợp nhiều tới mức cho dù toàn thế giới chống lại

bạn, bạn cũng chẳng bận tâm. Bạn đã quyết định rằng

bạn sẽ sống theo tiếng nói bên trong của mình.

Đó là bước đầu tiên, nhưng là bước lớn lao, bước

nhảy lượng tử. Đó là đi vào trong nguy hiểm, đó là

mạo hiểm. Bạn sẽ tạo ra kẻ thù. Và bạn sẽ đi vào trong

thế giới còn chưa được thăm dò, vào lãnh thổ của điều

bạn chẳng biết gì. Không bản đồ nào tồn tại; không

bản đồ nào có thể tồn tại, theo chính bản chất của mọi

thứ.

Do đó rất hiếm khi tìm thấy thầy đã thức tỉnh.

Trong hàng trăm năm điều xảy ra chỉ một lần là có một

người như Jesus hay Phật hay Lão Tử. Có hàng nghìn

người giả vờ và họ đều sẵn có một cách dễ dàng và họ

rất rẻ. Thực ra, cho dù bạn không tìm họ, họ sẽ tìm

bạn. Họ thường xuyên tìm kiếm tín đồ. Toàn thể kinh

doanh của họ tuỳ thuộc vào việc họ có bao nhiêu tín

đồ. Từng tôn giáo đều quan tâm tới việc có nhiều tín

đồ hơn bởi vì nhiều tín đồ hơn nghĩa là quyền lực hơn.

Mới vài ngày trước, nhà thờ Tin Lành của Đức đã

đưa ra một báo cáo chống lại tôi - một báo cáo lớn,

mười tám trang! Báo cáo này được gửi tới mọi nhà

thờ. Họ đã báo động rằng, "Người này là nguy hiểm.

Và nguy hiểm còn nhiều hơn thế," báo cáo này nói,

"bởi vì người này trích dẫn Jesus. Và đôi khi ông ta

giải thích Jesus theo cách hay tới mức người Ki tô giáo

có thể bị móc vào ông ta."

Tôi đang ngồi đây. Tôi chưa bao giờ tới Đức và tôi

sẽ không bao giờ tới đó. Nỗi sợ là gì?

Một uỷ ban nhỏ đã được thành lập để nghiên cứu

tất cả sách của tôi để chuẩn bị báo cáo này. Uỷ ban này

dường như chút ít bị lẫn lộn. Dường như vài người của

uỷ ban đã trở nên quan tâm... bởi vì nếu bạn có chút ít

thông minh, cho dù chỉ chút ít thông minh thôi, làm

sao bạn có thể tránh được việc thấy rằng có cái gì đó?

Cho nên họ nói, "Có cái gì đó, dường như là có cái gì

đó. Và nó xảy ra rất giống với giáo huấn của Jesus.

Nhưng phải cẩn thận. Jesus đã nói, 'Các nhà tiên tri giả

sẽ tới, họ sẽ nói như ta.' Nhưng Jesus là đứa con duy

nhất của Thượng đế."

Có nỗi sợ lớn lao rằng nếu vài người đi khỏi đám

đông, đám đông cảm thấy bị nhỏ đi, quyền lực của nó

bị mất. Cho nên không đám đông nào muốn bất kì ai

rời bỏ bầy đoàn của nó. Nó sẽ tạo ra đủ mọi loại cản

trở. Và nếu bạn muốn trở nên chứng ngộ bạn phải vượt

qua tất cả những rào cản đó do xã hội, nhà thờ, quốc

gia, mọi người quanh bạn, gia đình riêng của bạn tạo

ra.

Nhớ Jesus. Ông ấy đã nói: Chừng nào ông còn

chưa ghét mẹ ông và bố ông và gia đình ông, ông

không thể tới cùng ta đâu. Điều đó có vẻ hơi chút thô

bạo và nghiệt ngã về phần Jesus. Có vẻ như những lời

này không thể là lời của ông ấy được - nhưng chúng là

lời ông ấy đấy. Và người này đáng yêu thế và từ bi thế;

tại sao ông ấy lại nghiệt ngã thế với gia đình của

mình? - bởi vì họ đã tạo ra mọi loại cản trở cho ông ấy.

Và mọi gia đình sẽ tạo ra các cản trở bởi vì khi bạn

đi tìm chân lí bạn đang đi xa khỏi quyền lực của gia

đình. Mọi người đều đói quyền lực. Bố đói quyền lực,

mẹ đói quyền lực, chồng, vợ. Thậm chí trẻ con cũng

đói quyền lực. Thậm chí trẻ con cũng không muốn bạn

ra khỏi nhóm.

Trở thành người chứng ngộ gần giống như đi theo

cách thức ngược lại với dòng chảy. Do đó điều đó mới

hiếm hoi.

Đó là lí do tại sao Phật bắt đầu lời kinh: Nếu lữ

khách có thể tìm được....

Và đó là cuộc hành hương, lớn lao nhất, phiêu lưu

nhất, của việc đi tới bản thân mình. Nó là cuộc hành

trình kì lạ. Bạn đã đi xa khỏi bản thân mình tới mức

bạn phải quay lại. Bạn đã quên mất cách thức làm sao

quay về nhà. Bạn cần người hướng dẫn, nhưng chỉ ai

đó đã về nhà mới có thể giúp bạn được. Và có cả nghìn

người giả vờ. Rất dễ giả vờ. Bất kì ai cũng đều có thể

khuyên, bảo, nói những điều đẹp đẽ; chả tốn cái gì cả.

Bất kì ai cũng có thể đọc kinh sách, bất kì ai cũng có

thể trích dẫn kinh sách - và đó là điều đang xảy ra trên

khắp thế giới. Và tôn giáo là việc kinh doanh tốt. Bạn

có thể khai thác mọi người rất dễ dàng; "vì điều tốt cho

riêng họ" bạn có thể khai thác họ.

Phật nói: Nếu lữ khách có thể tìm được bạn đồng

hành đức hạnh và trí huệ.... Nhớ lấy: thầy thực từ phía

thầy chỉ là bạn đồng hành, là người bạn thôi. Từ phía

bạn người đó là thầy; từ phía thầy, người đó chỉ là

người bạn. Từ phía bạn, người đó là thầy bởi vì bạn

chưa thức tỉnh còn người đó đã thức tỉnh. Từ phía

người đó, người đó chỉ là người bạn bởi vì người đó

biết không có khác biệt bản chất giữa người đó và bạn.

Bạn chỉ đang ngủ; điều đó thì chả khác biệt gì nhiều -

không khác biệt về chất.

Bạn có thể được thức tỉnh.

Phật tính của bạn có thể trở nên được biểu lộ.

Bạn chỉ là cái nụ còn người đó đã trở thành hoa,

nhưng bất kì nụ nào cũng có thể trở thành hoa vào bất

kì khoảnh khắc nào. Người đó đã từng là nụ trước đây;

bây giờ người đó đã mở cánh hoa của mình ra, người

đó đã trở thành hoa. Người đó đã toả ra hương thơm

của mình. Mọi người đều có khả năng làm điều đó. Từ

phía thầy, đệ tử là người bạn, người đồng hành.

Thầy giả bao giờ cũng giả vờ rằng ông ấy cao hơn

bạn, thánh thiện hơn bạn, cao siêu hơn bạn. Ông ấy

bao giờ cũng nói theo cách mà bạn không thể hiểu nổi;

đó là cách ông ấy tự che giấu bản thân mình. Ông ấy

sẽ nói theo kiểu nói tâm linh, ông ấy sẽ nói theo cách

bí truyền. Và có những người ngu trở thành nạn nhân,

bởi vì mọi người có ý tưởng nào đó rằng nếu bạn

không hiểu được cái gì đó, chắc phải có cái gì đó trong

nó. Nếu bạn không thể hiểu được, nó chắc phải rất sâu

sắc, rất sâu lắng.

Ngay cả ở đây... tôi đang cùng các bạn, nhưng có

vài người giả vờ họ là trung gian của tôi. Và họ bảo

mọi người rằng, bất kì điều gì họ nói, tôi đều đang nói

qua họ. Tôi đang sống động tràn đầy đây - tôi có thể

nói theo cách riêng của tôi chứ! Đợi một chút đi. Để

tôi chết đã, thế rồi bạn có thể làm việc kinh doanh của

bạn. Bạn sẽ làm nó, nhưng không phải bây giờ.

Nhưng tôi có thể tha thứ cho những người này bởi

vì họ kiếm ít tiền và họ khai thác vài người. Tôi không

thể hiểu được những người trở thành nạn nhân của

những kẻ này. Họ không thể thấy ra vấn đề. Tôi đang ở

đây: cần gì ai đó vận hành như trung gian, để nói cho

họ điều tôi muốn nói với họ? Tôi sẽ tự mình nói. Tôi

nói cho bạn không đủ sao? Bạn còn muốn hơn nữa à?

Hết năm nọ tới năm kia tôi cứ nói với bạn mọi ngày

rồi.

Nhưng có vài người... họ không tới nghe, họ

không tới đây đâu. Họ né tránh công xã, nhưng họ cứ

ngồi trong vùng Kim cương Xanh, và vài người ngu cứ

gặp họ ở đó. Và họ trợn ngược mắt lên và họ giả vờ đi

vào cơn mê, và rồi họ bắt đầu nói những điều vô nghĩa.

Điều đó càng vô nghĩa, nó càng dường như triết lí hơn,

nó càng dường dường siêu hình hơn. Và họ bao giờ

cũng kiếm được vài người nghe họ, theo họ. Đó là hiện

tượng kì lạ, nhưng bằng cách nào đó những người giả

này có sự hấp dẫn.

Một điều về thầy giả là ở chỗ ông ấy xoay xở được

mẽ ngoài, ông ấy đeo mặt nạ. Ông ấy đeo mặt nạ mà

bạn muốn ông ấy đeo. Ông ấy hoàn thành mong đợi

của bạn. Thầy thực chưa bao giờ hoàn thành mong đợi

của bất kì ai.

Jesus đã chứng minh rằng ông ấy là thầy thực bởi

vì ở khoảnh khắc cuối cùng ông ấy đã làm thất vọng

mọi người, ngay cả những đệ tử gần gũi nhất của ông

ấy. Họ đã hi vọng rằng ông ấy sẽ làm phép màu nào

đó: "Nếu thầy có thể đưa mọi người về từ cái chết, nếu

thầy có thể chữa lành cho người mù, nếu thầy có thể

chữa cho người què, thầy chắc sẽ làm cái gì đó khi

thầy bị đóng đinh. Phép màu vĩ đại nào đó sẽ xảy

ra...." Và chẳng cái gì xảy ra cả, không một cái gì chút

nào! Điều đó chứng tỏ sự đích thực của ông ấy. Ông

ấy không có đó để hoàn thành mong đợi của bạn.

Nhưng thầy giả bao giờ cũng cố gắng hoàn thành

mong đợi của bạn. Đôi khi ông ấy xoay xở hay. Đôi

khi ông ấy sẽ làm phép màu.

Tôi biết một người. Ông ấy đích thân kể chuyện

của ông ấy cho tôi bởi vì ông ấy rơi vào tình yêu với

tôi. Ông ấy được nhiều người tôn thờ là đã chứng ngộ.

Dần dần ông ấy trở nên mệt mỏi với việc đóng vai này.

Điều đó quả là mệt mỏi. Khi bạn không chứng ngộ và

bạn cứ phải giả vờ đã chứng ngộ và bạn thậm chí đã

xoay xở làm vài phép màu, điều đó là mệt mỏi.

Ông ấy tới gặp tôi. Ông ấy kêu khóc và ông ấy nói,

"Cứu tôi tách khỏi các tín đồ của tôi đi! Tôi hoàn toàn

mệt mỏi và chán ngán, và tôi phải làm những điều này

chỉ để giữ cho họ được thoả mãn." Ông ấy nói với tôi,

"Có lần tôi phải làm phép màu bởi vì các tín đồ của tôi

mong đợi điều gì đó lớn lao để cho nhiều người nữa có

thể tới."

Các tín đồ cũng quan tâm rằng nếu nhiều người

nữa tới với thầy của họ, họ cảm thấy rằng họ đang ở

cùng người đúng. Nếu họ một mình với thầy, thế thì họ

bắt đầu cảm thấy chút ít nghi ngờ. Không ai tin vào

bản thể riêng của mình, không ai tin cậy vào thông

minh riêng của mình. Khi bạn thấy hàng nghìn người

bạn nói, "Điều đó phải đúng rồi. Nhiều người thế

không thể sai được." Nhớ lấy, thực tại chính là cái đối

lập: nhiều người thế không thể đúng được!

Người này nói với tôi, "Tôi phải xoay xở làm phép

màu. Tôi dừng tàu hoả lại bẩy phút."

Tôi nói, "Ông xoay xở làm điều đó thế nào?"

Ông ấy nói, "Đơn giản thôi! Tôi phải hối lộ cho ba

người. Một người là người soát vé. Tôi đã xoay xở

điều đó rằng tôi sẽ đi du hành mà không có vé và ông

ta sẽ tới và hỏi vé. Và tôi sẽ nổi giận và tôi sẽ nói,

'Không cần vé nào cho tôi cả. Chúng tôi là thánh nhân

và chúng tôi được phép có mọi tự do.' Thế là tôi trở

nên rất giận. Khi tôi trở nên giận, ông ta cũng trở nên

giận - ông ta đã được hối lộ và ông ta được bảo phải

trở nên rất giận." Ông ta xô người này ra ngoài toa tàu.

Người này đang đi du hành cùng một nhóm lớn

các tín đồ của ông ấy; gần nửa tàu hoả đầy các tín đồ

của ông ấy. Họ tất cả đều xuống tàu, và người này nói,

"Được rồi, thế thì thử cho tàu các ông đi xem sao. Tôi

sẽ không cho phép nó xê dịch lấy một li " - và ông ấy

đứng đó với mắt trợn ngược. Và người lái tàu cố gắng,

và người gác đường tàu vẫy cờ và trưởng ga vẫy cờ, và

chẳng cái gì xảy ra cả. Tàu hoả bị mắc kẹt bởi vì người

lái tàu đã bị hối lộ, người gác đường tàu đã bị hối lộ.

Ba người này đã bị hối lộ.

Cuối cùng họ chạy xô về phía ông ấy, quì dưới

chân ông ấy xin được tha thứ, yêu cầu ông ấy lên tàu

lại và nói với ông ấy, "Không ai sẽ hỏi vé ông nữa đâu.

Chúng tôi là những người ngu - xin tha thứ cho chúng

tôi!"

Ông ấy vào tàu hoả và lập tức nó chuyển động.

Điều đó tạo ra cảm giác lớn lao. Hàng nghìn người trở

thành đệ tử của ông ấy bởi vì ông ấy đã xoay xở làm

phép màu này.

Mọi phép màu đều được làm theo cách này. Nếu

bạn muốn làm phép màu, bạn có thể tới tôi ở chỗ riêng

tư và tôi sẽ dạy bạn - bởi vì những thủ đoạn này không

thể dạy được ở chỗ công cộng! Một khi bạn biết, mọi

người đều biết; thế thì chúng mất toàn thể sự huyền bí

của chúng. Tất cả những thủ đoạn này đều được làm

theo cách này. Nhưng trông đợi của mọi người được

thoả mãn.

Thầy giả nói ngôn ngữ của ham muốn của bạn. Họ

nói, "Nếu bạn thiền, bạn sẽ trở nên giàu, bạn sẽ trở nên

thành công." Điều đó tuyệt đối vô nghĩa.

Maharishi Mahesh Yogi nói với mọi người, "Nếu

các ông thiền các ông sẽ trở nên mạnh khoẻ, các ông

sẽ trở nên giầu có, các ông sẽ trở nên thành công, các

ông sẽ trở nên nổi tiếng. Theo bất kì đường nào các

ông làm việc các ông đều sẽ ở trên đỉnh."

Đó là điều bạn muốn, cho nên bạn nói, "Được đấy,

thế thì thiền cũng chẳng phải là vấn đề gì mấy. Mười

lăm phút buổi sáng, mười lăm phút buổi tối..." chỉ mất

nửa giờ và mọi thành công đều là của mình. Đây là

công thức thành công nhất cho thành công - và bạn

muốn thành công. Bạn muốn cả nghìn lẻ một ham

muốn được hoàn thành.

Bây giờ, có những thầy nói, "Dù ông muốn bất kì

cái gì, ông sẽ có được nó qua thiền. Tiền sẽ rót vào. Cứ

hỏi trong thiền sâu và điều đó sẽ xảy ra."

Điều này đang nói ngôn ngữ của ham muốn của

bạn. Chân lí chính là cái đối lập. Nếu bạn hỏi tôi, nếu

bạn thực sự thiền bạn sẽ là thất bại trong cuộc sống,

thất bại hoàn toàn. Nếu bạn thành công, ngay cả thành

công đó sẽ biến mất bởi vì thiền sẽ làm cho bạn thảnh

thơi, bất bạo hành, đáng yêu, không cạnh tranh, không

bản ngã tới mức ai chăm lo tới thành công? Thiền sẽ

làm cho bạn vui vẻ tới mức ai muốn bận tâm về ngày

mai? Ai muốn đặt cược hôm nay cho ngày mai?

Thiền sẽ làm cho bạn giầu có bên trong, chắc chắn.

Bên trong bạn sẽ trở thành cực lạc, nhưng bên ngoài

không thể đảm bảo được rằng bạn sẽ trở nên giầu có,

rằng bạn sẽ trở nên thành công, rằng bạn sẽ trở nên rất

mạnh khoẻ, rằng không bệnh tật nào sẽ xảy ra cho bạn.

Điều đó tất cả đều là những điều nhảm nhí vô cùng!

Maharshi Raman chết vì ung thư, Ramakrishna

Paramahansa chết vì ung thư. Bạn có thể tìm thấy

những thiền nhân nào vĩ đại hơn không? J.

Krishnamurti chịu nhiều bệnh tật; ông ấy đã bị đau đầu

nặng trong gần hai mươi năm. Đau đầu nặng tới mức

thỉnh thoảng ông ấy muốn đập đầu vào tường. Bạn có

thể tìm thấy thiền nhân vĩ đại hơn không? Bạn có thể

tìm thấy vị phật nào vĩ đại hơn vẫn còn sống không?

Nếu J. Krishnamurti bị đau đầu, nếu Raman Maharshi

chết vì ung thư, nếu Ramakrishna chết vì ung thư, bạn

có cho rằng thiền sẽ cho bạn mạnh khoẻ không? Vâng,

theo cách nào đó nó sẽ làm cho bạn mạnh khoẻ hơn và

toàn thể hơn, nhưng chỉ theo cách thức rất bên trong.

Sâu bên dưới bạn sẽ là toàn thể, sâu bên dưới sẽ có

mạnh khoẻ tâm linh bên trong.

Raman chết với bệnh ung thư, nhưng mắt ông ấy

đầy vui vẻ. Ông ấy chết đi khi đang cười. Đây là mạnh

khoẻ thực. Thân thể ông ấy đang trong buồn khổ sâu

sắc, nhưng ông ấy chỉ là nhân chứng. Đây là thiền.

Phật nói:

Nếu lữ khách có thể tìm được

bạn đồng hành đức hạnh và trí huệ,

Để người đó đi cùng mình một cách vui vẻ

và vượt qua những hiểm nguy trên đường.

Nếu bạn có thể tìm thấy một người thức tỉnh,

người thực sự đức hạnh và trí huệ, người có đức hạnh

không chỉ là mẽ ngoài được trau dồi mà là hương thơm

tự phát, người có trí huệ không còn là tri thức, người

có trí huệ là kinh nghiệm đích thực của riêng mình...

nếu bạn có thể tìm thấy người như vậy, thế thì đi cùng

người đó một cách vui vẻ, toàn tâm, toàn bộ đi. Thế thì

đừng kìm lại, bởi vì đây là cơ hội hiếm hoi.

Làm sao bạn sẽ nhận ra người thực sự đã thức

tỉnh? Làm sao bạn sẽ nhận ra rằng người đó là đích

thực, đúng đắn, rằng điều người đó nói, người đó biết?

Làm sao bạn sẽ nhận ra người đó? Đó là một trong

những câu hỏi quan trọng nhất đã từng được hỏi trong

nhiều thế kỉ, và nó đã không được trả lời thoả đáng bởi

vì nó không thể được trả lời thoả đáng. Chỉ vài hướng

dẫn có thể được cho.

Bạn không thể nhận ra được thầy đúng qua cái

đầu. Với cái đầu của bạn, thầy có thể có vẻ rất phi

logic. Để điều đó là một trong những hướng dẫn - bởi

vì thầy giả cố gắng để rất logic. Ông ta phải thuyết

phục bạn, và bạn có thể bị thuyết phục chỉ nếu ông ta

logic. Ông ta thậm chí cố gắng cho logic về Thượng

đế. Ông ta tạo ra thượng đế học, điều ngu xuẩn nhất

trên thế giới - logic về Thượng đế! Không có cách nào

chứng minh được Thượng đế một cách logic cả, nhưng

thầy giả cố gắng chứng minh mọi thứ một cách logic

bởi vì bạn chỉ có thể hiểu logic thôi.

Thầy thực nói kiểu ngược đời. Thầy là điều ngược

đời sống. Thầy tự mâu thuẫn với bản thân mình, bởi vì

chân lí là sự gặp gỡ của các cái đối lập. Và trong thầy

thực chân lí đã xảy ra, các cái đối lập đã gặp gỡ. Các

cực đối lập đã biến mất trong thầy; chúng đã trở thành

một, chúng đã tan chảy trong một thực thể. Thầy cũng

ngược đời như bản thân sự tồn tại. Điều đó nên là

hướng dẫn đầu tiên.

Cái đầu chỉ có thể cho bạn chừng ấy thôi, cho nên

nếu cái đầu của bạn cảm thấy ở đâu đó có cái gì đó phi

logic, đừng trốn khỏi chỗ đó. Cái phi logic đó đơn giản

nghĩa là cái gì đó huyền bí có đó. Bây giờ chuyển vào

trong trái tim đi. Khi cái đầu của bạn nói điều gì đó là

phi logic, cái đầu nói, "Điều đó ở ngoài mình - vứt nó

đi. Mình không thể hiểu được nó. Nó là không thể hiểu

được." Thay vì vứt nó đi, vứt cái đầu đi! Thế thì bạn sẽ

có khả năng thấy thầy thực.

Thầy thực chỉ có thể được cảm thấy. Đấy là vấn đề

của sự cởi mở yêu thương về phần bạn. Đệ tử phải mở

trái tim. Thầy thực tới qua trái tim, không qua cái đầu.

Thầy được cảm thấy như tình yêu, không như logic.

Thầy được cảm thấy như bài ca, không như suy luận

tam đoạn. Thầy được cảm thấy như thơ, không như

văn xuôi. Thầy là điệu vũ; bạn có thể biết thầy chỉ qua

việc tham dự.

Ở cùng với thầy đúng. Chỉ ở cùng với thầy, ngồi

bên cạnh thầy trong im lặng sâu sắc, không định kiến,

không ý tưởng cái gì đang xảy ra, cái gì đang diễn ra.

Cái gì đó nhảy từ thầy vào trong tim bạn. Bạn có thể

cảm thấy nó. Nó là năng lượng, nó là hiện tượng năng

lượng. Nó không phải là câu hỏi về lí thuyết, về bất kì

giả thiết nào, về triết lí nào. Nó là cú nhảy của năng

lượng, cú nhảy lượng tử. Cái gì đó vô hình toả ra từ

thầy thực và thấm vào đệ tử thực. Và ai là đệ tử thực? -

người có trái tim để mở.

Và một khi bạn đã cảm thấy sự hiện diện của thầy

thực, Phật nói: Đi cùng người đó một cách vui vẻ...

không ngần ngại, không nghi ngờ - vui vẻ, nhảy múa,

mở hội. Bạn đã tìm thấy thầy. Không thể có phúc lạc

nào lớn hơn điều đó, bởi vì trên đường bạn sẽ thấy

nhiều vấn đề mà không có thầy. Bước đầu tiên sẽ là

không thể được; chỉ thầy mới có thể đẩy bạn. Và bạn

có thể cho phép thầy đẩy bạn chỉ nếu bạn tin cậy.

Điều đó cũng giống như con chim mới vừa chui ra

khỏi trứng và đậu bên cạnh tổ, nhìn vào chim mẹ, chim

bố, chim cha mẹ, các con chim khác đang bay trên

trời. Khao khát lớn lao nảy sinh trong tim nó nữa. Nó

vỗ đôi cánh, nhưng nó không thể thu được dũng cảm;

nó sợ nó có thể ngã xuống. Nó chưa bao giờ bay trước

đây. Nó không biết bay tất cả là gì, làm sao những kẻ

này xoay xở bay được. Họ có thể khác, họ có thể có

phẩm chất nào đó. Ai biết rằng nó cũng có cánh? Nó

có thể có cảm giác nào đó rằng có cánh đấy; nó có thể

thấy sự tương tự nào đó. Nhưng nỗi sợ ngã, sợ tự giết

mình hay làm mình què quặt, cũng có đó.

Chim mẹ bay đi và gọi từ cây xa xa, cho nó lời

gọi. Nó muốn bay, nhưng nỗi sợ.... Chim mẹ đi quanh

tổ, bay, để chỉ cho nó rằng "Điều mẹ đang làm con

cũng có thể làm được." Dần dần, dần dần nó thu lấy

dũng cảm, và một hôm chim mẹ đơn giản đẩy nó. Nó

phải được đẩy. Mặc cho nỗi sợ của nó, khi nó bị đẩy

nó có thể thấy rằng nó giang đôi cánh của mình; nó có

khả năng tự giữ cân bằng mình. Tất nhiên, lúc ban đầu

nó có chút vụng về, nhưng chẳng mấy chốc nó trở nên

hiệu quả.

Không có thầy bước đầu tiên là khó, điều khó nhất.

Làm sao đi vào trong cái không biết nếu không có ai

đẩy bạn? Nhưng thầy có thể đẩy bạn chỉ nếu bạn tin

cậy vào thầy, nếu bạn yêu thầy. Điều đó cũng giống

như chim con yêu chim mẹ và nó biết rằng bất kì điều

gì mẹ nó làm, mẹ nó sẽ không làm điều hại nào. Từ tin

cậy đó nó cho phép chim mẹ đẩy nó; thực ra, sâu bên

dưới nó muốn được đẩy. Nó biết, "Mình không thể làm

được điều đó theo cách riêng của mình." Nhưng nếu

chim mẹ làm điều đó chim mẹ phải làm điều đó đúng.

Khi đệ tử cảm thấy chuyện tình như vậy với thầy,

thế thì mọi sự trở thành có thể. Và thế thì có nhiều

nguy hiểm trên đường. Bước thứ nhất là quan trọng

nhất; thế rồi khi bạn đi ngày càng sâu hơn và sâu hơn

nhiều điều nữa phải bị vứt đi. Ai sẽ bảo bạn vứt cái gì

và không vứt cái gì? Điều đó tất cả đều là không biết

với bạn. Ai đó cần thường xuyên quan sát bạn.

Và thế rồi tới bước cuối cùng, khi bản ngã chết đi.

Điều đó cũng rất khó - dường như bạn đang chết. Thầy

phải giúp bạn chết đi bởi vì chỉ qua cái chết bạn sẽ

được tái sinh. Thầy phải giúp bạn hiểu rằng đây không

phải là cái chết. Hạt mầm biến mất trong đất không

phải là chết đi; nó thực sự được sinh ra như cây. Và

dòng sông biến mất trong đại dương không phải là chết

đi, nó đơn giản trở thành đại dương. Nó không mất cái

gì cả, nó thu được còn nhiều hơn. Nó không mất cái gì

và thu được tất cả.

Nhưng nếu ông không thể tìm được.... Phật nói:

Không dễ tìm ra thầy đã thức tỉnh đâu, cho nên:

... nếu ông không thể tìm được

người bạn hay thầy để đi cùng mình,

Thì đi một mình -

Bạn phải đi rồi. Nếu bạn có thể tìm ra thầy, bạn

đồng hành, người bạn, bạn được phúc lành đấy, bạn

may mắn đấy. Nếu bạn không thể tìm được, đừng làm

điều đó thành cái cớ rằng bạn có thể làm gì được? -

không có ai như Phật, Jesus, Lão Tử sẵn đấy. "Mình có

thể làm gì được? Mình phải sống cuộc sống bình

thường. Mình không thể đi vào cái không biết theo

cách riêng của mình." Không, bạn có thể đi được chứ.

Điều đó sẽ có chút ít khó khăn, hiểm nguy, rủ ro,

nhưng rủi ro đáng nhận.

đi một mình -

như vua đi xa khỏi vương quốc,

như voi trong rừng rậm.

Đừng lo rằng bạn một mình. Dần dần, dần dần bạn

sẽ trở nên có khả năng cân bằng bản thân mình. Dần

dần, dần dần trong từng bước chậm rãi, bạn sẽ có khả

năng đi ra ngoài cái đã biết. Dần dần, dần dần bạn sẽ

có khả năng chết đi như bản ngã và được sinh ra như

sự hiện diện vô ngã. Điều đó có thể mất chút ít thời

gian dài hơn. Đôi khi điều đó có thể đưa bạn đi lạc lối

bởi vì bạn một mình và không có ai gọi đi gọi lại để

bạn quay lại đường đúng, nhưng dầu vậy đi một mình

vẫn cứ tốt hơn là không đi chút nào.

Lỗi lầm lớn nhất, nỗi khổ lớn nhất là ở chỗ mọi

người không đi chút nào tới chân lí. Họ đơn giản đi

vòng tròn trong những việc trần tục: kinh doanh, vợ,

chồng, con cái, văn phòng và gia đình. Và họ cứ đi

vòng tròn. Cả đời họ chỉ là vô dụng; không tạo ra ý

nghĩa gì. Nó không có nghĩa, không ý nghĩa. Dầu vậy,

bằng cách nào đó họ vẫn cứ thế mãi, sợ mạo hiểm.

Đừng sợ mạo hiểm. Nếu bạn có thể mạo hiểm,

toàn thể vũ trụ sẽ giúp bạn bởi vì vũ trụ này không

phải là tách rời và không quan tâm tới bạn theo bất kì

cách nào.

Phật đã nói, "Khi ta trở nên chứng ngộ, toàn thể vũ

trụ hân hoan. Khoảnh khắc đó ta cảm thấy rằng toàn

thể vũ trụ đang giúp ta, chờ đợi cho ta trở nên chứng

ngộ."

Câu chuyện này hay. Đừng xem nó chỉ theo từng

lời. Nó là biểu tượng, nó là biểu dụ. Khi Phật trở nên

chứng ngộ, cây nở hoa trái vụ. Cây không thể nở hoa

trái vụ được, nhưng chúng ta phải diễn đạt bằng cách

nào đó niềm vui được cảm thấy trong bản thân sự tồn

tại.

Bất kì khi nào có một người như Phật, toàn thể

nhân loại lấy một đợt dâng trào lên; nó soải cánh bay

lên cao hơn. Cứ lấy hai tá tên người trong lịch sử nhân

loại - Jesus, Krishna, Phật, Lão Tử, Mohammed,

Bahauddin, Kabir - chỉ hai tá cái tên. Lấy những cái

tên đó ra khỏi lịch sử con người và bạn sẽ không còn

là con người chút nào; bạn sẽ mất tất cả tính người của

mình. Chính qua vài người này mà tâm thức lớn lao đã

được toả ra. Và cho dù bạn không làm gì, bạn đã được

ân huệ bởi điều đó. Nó đã mưa rào lên bạn mà không

có việc trở nên nhận biết của bạn về nó.

Cho nên nếu bạn đi một mình, du hành, nhưng

việc đi bạn phải làm, mặc cho mọi nguy hiểm và rủi

ro. Rủi ro lớn nhất là không đi, bởi vì thế thì bạn bị

mắc kẹt, bạn không trưởng thành, bạn giống như hòn

đá, bạn sẽ không bao giờ nở hoa. Trong du hành có thể

bạn sẽ đi lạc lối, bạn sẽ phạm phải vài sai lầm. Vậy thì

làm sao? Người ta học qua sai lầm, người ta học qua đi

lạc lối. Và nếu người ta giữ tỉnh táo người ta không thể

đi quá xa được; sự tỉnh táo đó đem người ta trở lại.

Đi một mình,

thay vì với kẻ ngu làm bạn đồng hành.

Phật nói: Chỉ vì có bạn đồng hành, đừng đi với kẻ

ngu. Cảnh giác về điều đó.

Tôi đã quan sát hàng nghìn thánh nhân và

mahatmas - người Jaina, người Hindu, người Mô ha

mét giáo - và tôi ngạc nhiên thấy một điều: chín mươi

chín phần trăm số họ trông ngu xuẩn, ngốc nghếch.

Cái gì đó đờ đẫn và chết dường như ở bên trong họ.

Dường như không có chớp loé sáng suốt; không thông

minh nào toả ra quanh họ. Họ trông như những nấm

mồ biết đi. Họ đã chết rồi. Họ được tôn thờ bởi vì mọi

người tôn thờ cái chết, và bởi vì mọi người tôn thờ họ,

họ nghĩ họ đã đạt tới. Họ đã không đi được một li! Họ

thậm chí đã rơi xuống thấp hơn nhân loại bình thường.

Đây là kinh nghiệm của tôi: rằng cái gọi là thánh

nhân của bạn còn ở bên dưới nhiều so với nhân loại

thông thường khi có liên quan tới thông minh, khi có

liên quan tới nhận biết. Họ không phải là thiền nhân,

họ không biết thiền là gì. Nhân danh thiền họ cứ làm

cái gì đó khác. Họ hoàn toàn là kẻ ngu!

Khi Phật dùng từ 'ngu' ông ấy ngụ ý ai đó sống

cuộc sống vô ý thức. Ai đó đang tích luỹ tiền theo cách

vô ý thức, không biết tại sao, không biết vì cái gì,

không biết rằng cái chết sẽ tới và mọi thứ sẽ bị lấy đi.

Ai đó khác đã từ bỏ tiền, nhưng người đó vô ý thức

như người tham tiền. Ai đó cứ tọng thức ăn vào mình

và ai đó khác cứ nhịn ăn dài dài. Cả hai đều đang hành

hạ thân thể họ theo những cách khác nhau, nhưng cả

hai đều tự phá huỷ mình. Người ăn quá nhiều hành hạ

thân thể mình, nhớ điều đó - người đó cũng khổ hạnh

theo cách riêng của mình - và người nhịn ăn cũng hành

hạ thân thể mình. Cả hai đều tự phá huỷ.

Và bằng việc tự phá huỷ bạn không thể đạt tới giải

thoát, tới Thượng đế, tới niết bàn. Chính là chỉ qua

sáng tạo vô cùng, nhạy cảm, nhận biết, mà người ta về

nhà.

Cho nên Phật nói: Nhận biết về toán người ngu đi.

Thà ở một mình còn tốt hơn là ở với người ngu, bởi vì

người ngu nhất định ảnh hưởng tới bạn. Bạn sẽ ở cùng

người đó và người đó chắc chắn sẽ làm bạn bị tiêm

nhiễm ngu xuẩn của người đó.

Thông minh cũng lây nhiễm. Nếu bạn sống cùng

người thông minh bạn bắt đầu trở nên thông minh, bởi

vì chúng ta không tách rời thế, chúng ta rung động

cùng nhau. Nếu chúng ta sống cùng ai đó trong một

thời gian dài chúng ta bắt đầu đồng bộ với người đó.

Đó là toàn thể bí mật của satsang - giao cảm với

thầy. Nếu thầy đã thức tỉnh, các đệ tử của người đó

dần dần, dần dần bắt đầu đi tới việc thức tỉnh tinh tế.

Điều đó nhất định xảy ra. Nếu đệ tử có thể đơn giản ở

trong sự hiện diện của thầy, buông xuôi, thảnh thơi,

trong trạng thái buông bỏ, người đó có thể không phải

làm gì cả. Sự hiện diện của thầy sẽ bắt đầu ngập lụt

người đó, sẽ bắt đầu thay đổi con người của người đó.

Chúng ta được nối với nhau.

Bạn không quan sát điều đó sao? Nếu bốn người

đang cười và bạn đang trong tâm trạng buồn và bạn đi

tới những người này, bạn quên đi nỗi buồn của mình;

bạn bắt đầu cười. Về sau khi bạn nhớ lại rằng bạn đã

buồn, điều đó có vẻ rất kì lạ. Làm sao bạn quên được

nỗi buồn? Làm sao bạn đã bắt đầu cười? Điều gì đã

xảy ra? Năng lượng ở đó, không gian ở đó, đã khác

toàn bộ với bạn: nó còn mạnh hơn bạn. Bốn người kia

đã tạo ra rung động nào đó. Do đó mới có ý nghĩa của

phật trường. Thầy tạo ra trường quanh bản thân mình;

qua các đệ tử của mình thầy tạo ra trường năng lượng.

Sống trong trường năng lượng đó là biến đổi trong

chính bản thân nó.

Nhưng cùng điều đó cũng xảy ra nếu bạn đi cùng

người ngu. Chỉ để được cùng toán, mọi người muốn ở

cùng bất kì ai. Họ sợ ở một mình thế.

Phật muốn bạn thận trọng về điều đó. Tốt hơn cả

là sống cùng với cây và mây và sông và núi và đại

dương, bởi vì chúng sẽ không làm cho bạn ngu hơn

bạn đang vậy; chúng thậm chí có thể giúp bạn trở nên

thông minh hơn chút ít, bởi vì toàn thể sự tồn tại

không là gì ngoài thông minh. Nếu bạn có thể ở sâu

trong giao cảm với tự nhiên bạn sẽ trở nên thông minh

hơn. Khắp xung quanh bạn đều có sẵn thông minh vô

cùng, nhưng chỉ người thông minh mới có thể cảm

thấy nó. Người ngu vẫn còn bị đóng kín.

Người ngu sống trong thế giới riêng của mình; đó

là lí do tại sao người đó được gọi là kẻ ngốc. Từ 'ngốc'

nghĩa là người sống trong thế giới riêng của mình,

người có cách diễn đạt riêng của mình, người có thực

tại riêng của mình. Người đó bị đóng với cái thực;

người đó có tưởng tượng riêng của mình. Người đó

sống trong mơ.

Pat tới bác sĩ khám mắt. Bác sĩ gợi ý anh ta nên cọ

mắt bằng rượu mạnh.

Lần sau Pat tới bác sĩ, bác sĩ hỏi anh ta mắt thế nào

rồi.

"Anh có theo lời khuyên của tôi không?" bác sĩ

hỏi.

"Tôi đã thử làm đấy - nhưng tôi không thể đưa cốc

lên cao hơn miệng được!"

Người ngu không chỉ là người dốt nát. Người ngu

có thể là người rất thông thái; thường thì người đó là

vậy. Người đó có thể là bác học, người đó có thể là tu

sĩ, người đó có thể là giáo sư. Và thế thì người đó còn

nguy hiểm hơn bởi vì người đó dường như nói điều có

nghĩa, mà sâu bên dưới người đó dốt nát như bất kì ai

khác, ngu xuẩn như bất kì ai khác.

Một giáo sư nổi tiếng đi tới một hãng du lịch để

mua vé tầu thuỷ chạy bằng hơi nước.

"Ông muốn đi đâu ạ?" nhân viên hỏi.

"Ông có quả cầu thế giới không?"

Nhân viên du lịch đưa cho ông ấy quả địa cầu. Vị

giáo sư này quay quả cầu vòng quanh vừa nhìn vào

khắp các nước và lục địa. Sau ba mươi phút ông ta nói,

"Tôi xin lỗi, ông không có cái gì khác hơn sao?"

Các giáo sư, các bác học, các học giả chẳng khác

nhau gì mấy.

Và nhớ lấy, người ngu có thể có tính cách nào đó.

Dễ dàng để người ngu tạo ra tính cách nào đó bởi vì

người đó bướng bỉnh. Ngu xuẩn bao giờ cũng bướng

bỉnh. Nếu ý tưởng nào đó vào trong đầu người đó,

người đó có khả năng thực hành nó một cách nhất

quán hơn người thông minh bởi vì người đó ương

bướng, người đó không thể linh hoạt được. Người đó

không năng động, người đó tù đọng.

Điều đó giúp cho nhiều người ngu trở nên đáng

kính - bởi vì họ có thể làm những điều ngu xuẩn mà

không ai khác sẽ có khả năng làm, nhưng họ làm

chúng với kiên trì, với kiên nhẫn, với sức mạnh tới

mức họ thành công trong việc làm chúng. Họ có thể

tạo ra tính cách lớn lao, họ có thể là những nhà đạo

đức lớn, họ có thể rất ngoan đạo, và họ có thể gây ấn

tượng cho bạn.

Nhớ lấy, tính cách không có giá trị mấy đâu. Điều

có giá trị là tâm thức - không phải lương tâm mà là

tâm thức. Lương tâm được xã hội tạo ra. Bạn càng

ngu, xã hội càng có khả năng tạo ra lương tâm trong

bạn. Nó cho bạn ý tưởng về cách sống cuộc sống của

bạn. Nó thao túng bạn theo cách rất tinh vi. Nó thôi

miên bạn và ước định bạn. Và việc ước định lâu tới

mức bạn quên hoàn toàn rằng đây không phải là ý

tưởng của bạn.

Chẳng hạn, nếu bạn được sinh ra trong gia đình ăn

chay bạn sẽ là người ăn chay, cứ tưởng rằng bạn đã từ

bỏ mọi việc ăn thịt, vân vân, rằng bạn là vĩ đại - bạn là

người ăn chay. Nhưng nếu bạn được sinh ra trong gia

đình không ăn chay bạn chắc đã là người không ăn

chay. Điều đó tuỳ thuộc vào ước định; bạn không làm

nó một cách có ý thức. Bạn cho phép người khác chi

phối bạn, quyết định cho bạn.

Người thông minh có tính nổi dậy. Người đó

không cho phép người khác quyết định cho mình;

người đó giữ quyền này cho bản thân mình. Do đó,

người ngu trở thành thánh nhân rất dễ dàng bởi vì họ

cho phép xã hội ước định họ. Ít nhất trong xã hội đặc

thù đó họ sẽ rất được kính trọng. Với người khác họ có

vẻ rất ngu, với người khác họ sẽ có vẻ không lành

mạnh, nhưng với xã hội đặc biệt đó, cái xã hội đã ước

định họ, họ sẽ là thánh nhân vĩ đại.

Mới mấy ngày trước đây ở Bombay, một thánh

nhân Jaina trần trụi đã tới - Acharya Vidyananda. Ông

ấy sống trần. Với người Jaina ông ấy dường như là

thánh nhân lớn; với người khác ông ấy dường như có

chút ít dở hơi, gàn gàn. Và nếu bạn nhìn vào khuôn

mặt, ông ấy có vẻ ngu, mặc dầu ông ấy nói về kinh

sách lớn lao. Nhưng khuôn mặt ông ấy đơn giản chỉ ra

sự ngu xuẩn, không rạng ngời. Thân thể ông ấy dường

như xấu xí. Nếu mà có cuộc thi, cuộc thi thế giới về

cái xấu cho Ông Vũ trụ, thì ông ấy có thể thành công.

Nhưng với nhóm của ông ấy, với các tín đồ của ông

ấy, ông ấy có vẻ vĩ đại thế - rằng ông ấy đã siêu việt

lên trên thân thể mình. Và tất cả những điều ông ấy

đang làm đều là việc hành hạ thân thể mình một cách

không cần thiết.

Nếu bạn hành hạ thân thể nó trở thành xấu. Nó là

món quà của Thượng đế đấy - làm nó thành đẹp đi. Nó

là nhà của bạn, bạn phải sống trong nó - làm nó thành

đẹp đi.

Nhưng một khi bạn ở trong ước định nào đó, điều

đó là toàn thể vũ trụ của bạn. Bạn nghĩ theo điều người

khác đã bảo bạn. Trừ phi bởi ngẫu nhiên bạn bắt gặp

một ý tưởng mới....

Bà cô già Sarah sở hữu vài triệu đô la, một con

mèo cái nòi, và vài ý tưởng rất Victorian về chủ đề

dục. Thực ra, cảm giác của bà ấy về dục là ở chỗ trong

năm năm bà ấy chưa bao giờ cho phép con mèo cái

được đi chơi ngoài nhà vì sợ "ô uế."

Quyết định đi nghỉ ở Hawaii, Sarah chỉ bảo cho

người quản gia, "Bây giờ hãy chắc là ông không để

con mèo đi ra ngoài. Tôi nhắc lại, trong bất kì hoàn

cảnh nào, không để con mèo đi ra ngoài."

Sau khi Sarah đã đi một tuần, người quản gia nhận

được bức điện tín, "Tôi có một thời gian tuyệt diệu.

Gặp anh thanh niên tốt nhất. Thả con mèo ra!"

Mọi người đang sống trong những chiếc ao nhỏ

của ý thức hệ riêng của họ và rất hiếm khi họ bắt gặp

cái gì đó mới, xuyên thấu qua tầng ước định dầy của

họ và làm cho họ nhận biết điều họ đang làm cho bản

thân mình. Đây là những người bạn tôn thờ, bạn kính

trọng, những người mà trong hàng thế kỉ bạn đã từng

tôn thờ và kính trọng. Và bởi vì việc tôn thờ và kính

trọng này nhân loại vẫn còn bị trói buộc vào khả năng

thấp nhất của thông minh. Bạn đáng ra có thể đã đạt

tới đỉnh Everest của thông minh, nhưng chúng ta đã

không cho phép thông minh của mình soải cánh bay

cao, cao hơn tâm trí tập thể muốn nó vậy.

Đừng mang sai lầm của ông.

Đừng mang lo âu của ông.

Phật nói: Đi một mình, nhớ hai điều. Đừng mang

sai lầm của ông - điều đó nghĩa là, đừng mang quá khứ

của bạn. Thậm chí không cần ăn năn về quá khứ.

Những người tôn giáo của bạn cứ dạy bạn, "Ăn năn

đi!" bởi vì chính qua ăn năn mà họ làm cho bạn cảm

thấy mặc cảm, và khi bạn mặc cảm bạn có thể bị khai

thác.

Thầy thực bao giờ cũng làm cho bạn cảm thấy

thoải mái về bản thân mình, không mặc cảm; kính

trọng bản thân mình, không mặc cảm. Nhưng các tu sĩ

sống trong việc tạo ra mặc cảm trong bạn. Họ không

muốn bạn quên sai lầm của bạn; họ muốn nhắc nhở

bạn lặp đi lặp lại. Họ thậm chí đã không quên tội do

Adam và Eve phạm phải; họ cứ nhắc bạn về tội lỗi

nguyên thuỷ này. Bạn đã không phạm phải nó, nhưng

bạn được sinh ra trong dây chuyền mà người đàn ông

đầu tiên và người đàn bà đầu tiên đã phạm phải nó và

bạn đang mang tải trọng của nó. Bạn phải cảm thấy

mặc cảm về điều đó, nói gì tới sai lầm riêng của bạn?

Các tu sĩ đã sống trong quyền lực lớn lao bởi lẽ đơn

giản rằng họ đã thu bạn thành kẻ tội phạm mặc cảm.

Linh mục già cả lắng nghe trong khi cha phó trẻ

làm việc xưng tội đầu tiên của mình.

"Con đã làm tốt," ông ta bảo linh mục trẻ, "nhưng

ta gợi ý rằng khi con nghe xưng tội của những quí cô

trẻ xinh đẹp này, sẽ là thích hợp hơn nếu con cứ, 'Tsk,

tsk, tsk,' chứ không 'Úi chao!'"

Đừng mang sai lầm của ông. Đừng ăn năn, đừng

cảm thấy mặc cảm. Vứt bỏ quá khứ đi; nó không còn

nữa.

Và: Đừng mang lo âu của ông. Tức là: đừng nghĩ

về tương lai, đừng lo nghĩ về nó. Sống trong hiện tại.

Đó là thiền tất cả là gì: sống trong hiện tại. Tâm trí

sống trong quá khứ và trong tương lai; và nếu bạn có

thể sống trong hiện tại, tâm trí biến mất, và im lặng

ngự trị - im lặng sâu lắng, im lặng trinh nguyên.

Thấy điều đó như sự kiện đi... ngay bây giờ, ở đây.

Nếu không có quá khứ và không có tương lai, thế thì

khoảnh khắc này có cái đẹp thế, duyên dáng thế. Thế

thì chim hót và tiếng ồn giao thông và sự im lặng đẹp

đẽ này... và cái gì đó sẽ diễn ra giữa tôi và bạn. Nó chỉ

có thể truyền trong hiện tại.

Đi một mình

như voi trong rừng rậm.

Ở trong hiện tại và đi một mình - nếu bạn không

thể tìm được thầy. Nhưng nếu bạn có thể tìm ra thầy,

để thầy đi cùng bạn; đi với thầy một cách vui vẻ....

vượt qua nguy hiểm của con đường.

Đủ cho hôm nay.

***************************************************************************************************************

#6 Chân lí không thể bị mất

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi đang bác bỏ tâm trí của mình và níu bám lấy

nhận biết.

Prem Shahido, tâm trí phải không bị bác bỏ chút

nào; nếu bạn bác bỏ nó, nó sẽ còn lại. Bác bỏ nghĩa là

kìm nén. Bất kì cái gì bị bác bỏ không bao giờ rời khỏi

bạn; nó đơn giản đi từ ý thức vào vô thức, từ phần

sáng của bản thể bạn vào những tầng tối nơi bạn không

thể đối diện với nó. Bạn trở nên quên lãng về nó,

nhưng nó có đó, còn sống động hơn bao giờ. Đối diện

với kẻ thù còn tốt hơn là để kẻ thù ở sau lưng bạn; điều

đó nguy hiểm hơn nhiều.

Và tôi đã không bảo bạn bác bỏ tâm trí. Tâm trí là

cái máy hay, một trong những phép màu của sự tồn tại.

Chúng ta chưa có khả năng làm ra cái gì sánh được với

tâm trí con người. Ngay cả máy tính phức tạp nhất

cũng chẳng là gì khi so với nó. Trí não một người có

thể chứa tất cả các thư viện của thế giới; năng lực của

nó gần như vô giới hạn. Nhưng nó là cái máy, nó

không phải là bạn. Bị đồng nhất với nó là sai, làm nó

thành người chủ của bạn là sai, bị nó hướng dẫn là sai.

Nhưng là người chủ và người hướng dẫn lại hoàn toàn

đúng. Tâm trí như người hầu là có giá trị mênh mông,

cho nên đừng bác bỏ nó. Bác bỏ nó sẽ làm bần cùng

bạn, điều đó sẽ không làm cho bạn giầu có.

Tôi không chống lại tâm trí; tôi thiên về siêu việt

lên trên nó. Và nếu bạn bác bỏ bạn không thể siêu việt

được. Dùng nó như bàn đạp bước lên. Điều đó tất cả

đều tuỳ thuộc vào bạn: bạn có thể làm nó thành cái cản

trở nếu bạn bắt đầu nghĩ rằng tâm trí phải bị bác bỏ,

phủ nhận, phá huỷ; hay bạn có thể làm nó thành bàn

đạp bước lên nếu bạn chấp nhận nó, nếu bạn cố gắng

hiểu nó. Trong chính nỗ lực hiểu nó, siêu việt xảy ra.

Bạn vượt ra ngoài nó, bạn trở thành nhân chứng.

Và, Shahido, điều thứ hai....

Bạn nói, "Tôi níu bám lấy nhận biết."

Điều đó nhất định xảy ra. Nếu bạn bác bỏ tâm trí

bạn sẽ bắt đầu níu bám lấy nhận biết. Và níu bám

không là gì ngoài tâm trí vận hành từ cửa sau. Níu bám

là quá trình của tâm trí. Nhưng điều đó nhất định xảy

ra cho những người bác bỏ, kìm nén.

Vấn đề là biến đổi. Tâm trí phải được dùng đúng;

thế thì sẽ không có níu bám lấy nhận biết. Bằng không,

sợ tâm trí, rằng nó có thể quay lại, bạn sẽ níu bám lấy

nhận biết - và trong níu bám nó đã quay lại rồi, nó đã

có đó rồi. Níu bám là tâm trí; vô níu bám về bản chất

là nhận biết. Bạn không thể níu bám lấy nhận biết

được; nếu bạn níu bám, đó chỉ là hiện tượng tâm trí.

Nhận biết của bạn nữa cũng chỉ là thứ giả do tâm trí

tạo ra bởi vì bạn đang yêu cầu quá nhiều về nó. Nó là

giả, hoàn toàn giả; nếu bạn phải níu bám lấy nó, nó là

giả.

Nhận biết thực vẫn còn với bạn; bạn không cần níu

bám lấy nó. Ai sẽ níu bám lấy nó? Bạn là nhận biết. Ai

sẽ níu bám lấy ai? Trong nhận biết không có hai -

người níu bám và đối tượng của việc níu bám; trong

nhận biết bạn là một. Chỉ có nhận biết và không cái gì

khác. Người ta không thể níu bám vào nhận biết được.

Nhưng điều đó nhất định xảy ra nếu bạn bác bỏ tâm

trí; chính bước đầu tiên đã đi sai. Đừng bác bỏ nó -

hiểu nó đi.

Và thực ra, từ 'hiểu' là rất có ý nghĩa. Khi bạn hiểu

cái gì đó nó đứng dưới bạn. Bạn trở nên siêu việt, bạn

đi ra ngoài nó; nó ở dưới bạn. Nó có tiện dụng của nó;

tiện dụng lớn lao. Sẽ không có khoa học nếu không có

tâm trí và sẽ không có công nghệ nếu không có tâm trí.

Mọi tiện nghi của con người sẽ biến mất nếu không có

tâm trí. Con người sẽ rơi lại vào trong thế giới con vật

hay thậm chí còn thấp hơn nếu không có tâm trí. Tâm

trí đã cho nhiều.

Vấn đề không phải là tâm trí; vấn đề là sự đồng

nhất của bạn với nó. Bạn nghĩ bạn là nó, đấy mới là

vấn đề. Đừng đồng nhất. Quan sát tâm trí, và bạn là

người quan sát và để tâm trí ở đó được nhìn ngắm,

được chứng kiến, được quan sát. Và thay đổi triệt để

lớn lao xảy ra qua quan sát. Tâm trí vận hành hiệu quả

hơn nhiều khi bạn quan sát nó bởi vì mọi thứ là rác

rưởi đều bị loại bỏ và tâm trí không cần mang trọng

lượng không cần thiết; nó trở thành nhẹ. Và khi bạn trở

thành người quan sát, tâm trí có thể có nghỉ ngơi nào

đó nữa. Bằng không cả đời tâm trí đều làm việc, hết

ngày nọ tới ngày kia, năm nọ tới năm kia; nó chỉ dừng

khi bạn chết. Nó tạo ra mệt nhọc sâu sắc, mệt mỏi tâm

trí.

Bây giờ các nhà khoa học nói ngay cả kim loại

cũng trở nên mệt mỏi - mệt mỏi kim loại. Cho nên còn

nói gì về tâm trí, cái rất tinh tế, cái rất tinh vi? Sử dụng

nó một cách cẩn thận đi. Nhưng bạn vẫn còn tách rời,

không quan tâm, không tham dự. Khi bạn viết bạn

không trở thành bút máy, mặc dầu bạn không thể viết

được nếu thiếu nó. Bút máy tốt là rất bản chất cho việc

viết tốt. Nếu bạn bắt đầu viết bằng ngón tay mình

không ai sẽ có khả năng đọc được điều bạn đã viết,

thậm chí cả bạn cũng không đọc được, và nó sẽ rất

nguyên thuỷ. Nhưng bạn không phải là bút máy, và bút

máy không phải là người viết mà chỉ là công cụ viết.

Tâm trí không phải là người chủ mà chỉ là công cụ

trong tay người chủ.

Shahido, tỉnh táo, nhận biết hơn, nhưng đừng níu

bám lấy nó. Níu bám sẽ phá huỷ toàn thể cái đẹp của

nó. Tại sao níu bám? Nỗi sợ là gì? Chúng ta níu bám

chỉ từ sợ hãi. Bạn là nhận biết, bạn không thể đánh mất

nó được. Ngay cả bây giờ, khi bạn vô nhận biết về sự

kiện rằng bạn là nhận biết, bạn vẫn không đánh mất

nó.

Chân lí không thể bị mất được. Dù bạn biết điều

đó hay bạn không biết, chẳng khác biệt gì. Chân lí vẫn

còn là chân lí, dù được biết hay không được biết. Bản

thể bên trong nhất của bạn vẫn là nhận biết thuần

khiết. Bạn sống ở chu vi, do đó bạn không có khả năng

thấy trung tâm riêng của mình.

Tính chất sannyas nghĩa là thám hiểm lãnh thổ của

bạn, đi hướng tới trung tâm. Đó là điều thiền tất cả là

gì. Khi bạn trở nên được định tâm, bỗng nhiên có tự do

lớn lao bởi vì bạn biết bạn không phải là tâm trí và bạn

không phải là thân thể. Điều đó không có nghĩa là bạn

bắt đầu bác bỏ thân thể hay tâm trí. Bạn kính trọng

thân thể, bạn kính trọng tâm trí. Bạn yêu thân thể

nhiều thế, nhiều hơn bao giờ. Nó là ngôi nhà đẹp. Nó

là nhà bạn và bạn phải sống trong nó trong bẩy mươi,

tám mươi, chín mươi năm. Và nó phục vụ bạn hay thế;

việc phục vụ của nó có giá trị lớn lao. Bạn kính trọng

nó, bạn là bạn của nó, bạn chăm sóc nó. Nhưng dầu

vậy bạn vẫn biết: "Mình không là thân thể không là

tâm trí. Mình là tâm thức."

Và thế thì không có vấn đề về níu bám. Biết rằng

"Mình là tâm thức," bạn trở thành một phần của

Thượng đế. Thế thì không có sinh cho bạn, không có

tử cho bạn. Thế thì bạn là một phần của vĩnh hằng, và

là một phần của vĩnh hằng là phúc lạc. Khi bạn biết

bạn không thể chết được, mọi nỗi sợ biến mất và năng

lượng có trong sợ được thoát ra như tình yêu. Khi bạn

biết bạn là một phần của cái toàn thể, không lo âu nào

còn lại, không đau khổ nào là có thể, và năng lượng

tham gia vào trong lo âu, trong đau khổ, được thoát ra.

Bạn trở thành từ bi, tình yêu, niềm vui; điều đó bắt đầu

tuôn chảy trong bạn. Bạn không chỉ là phúc lành cho

bản thân mình, bạn trở thành phúc lành cho mọi người

khác; bạn trở thành phúc lành cho bản thân sự tồn tại.

#6Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Có cần đi qua phân tích mơ để đạt tới chứng ngộ

không?

Gautami, phân tích mơ không thể giúp cho bạn trở

nên chứng ngộ đâu, nhưng chứng kiến mơ chắc chắn

có thể giúp bạn được.

Đó là khác biệt giữa tâm lí học và tôn giáo: tâm lí

học phân tích giấc mơ; tôn giáo quan sát chúng, giúp

bạn trở nên nhận biết về chúng. Và khoảnh khắc bạn

trở nên nhận biết về mơ của mình, chúng biến mất;

chúng không thể tồn tại một khoảnh khắc lâu hơn.

Chúng chỉ có thể tồn tại khi bạn hoàn toàn vô nhận

biết; để cho chúng tồn tại, vô nhận biết là điều kiện

tuyệt đối.

Vị phật chưa bao giờ mơ, ông ấy không thể mơ

được. Cho dù ông ấy muốn mơ, ông ấy cũng không thể

mơ được. Mơ đơn giản biến mất khỏi bản thể ông ấy

bởi vì ngay cả trong đêm khi ông ấy ngủ, sâu bên dưới

trong cốt lõi bên trong nhất của mình ông ấy vẫn thức.

Ngọn lửa của nhận biết liên tục cháy và ông ấy biết cái

gì đang xảy ra. Ông ấy biết rằng thân thể mình đang

ngủ. Việc chứng kiến trở nên đi sâu tới mức không chỉ

ban ngày mà cả trong đêm nó cũng tiếp tục. Và thế thì

việc mơ biến mất. Bạn mơ bởi vì bạn muốn; mơ của

bạn phản ánh muốn của bạn. Bây giờ, bạn có thể cứ

giải phẫu các ham muốn của mình trong nhiều kiếp, và

bạn sẽ không đạt tới cái gì cả. Bạn có thể cứ phân tích

giấc mơ của mình....

Có nhiều hệ thống phân tích. Nếu bạn đi tới người

theo trường phái Freud họ sẽ phân tích giấc mơ của

bạn theo một cách: họ sẽ diễn giải mọi thứ là dâm dục.

Những thứ tưởng tượng được, những thứ không tưởng

tượng được, mọi thứ đều phải qui về dâm dục. Nếu

bạn đi tới người theo trường phái Adler với cùng giấc

mơ đó, họ sẽ diễn giải chúng theo ý thức hệ của họ.

Thế thì mọi thứ đều được qui về ý tưởng của Adler: ý

chí quyền lực. Thế thì mọi thứ chẳng là gì ngoài ý chí

nắm quyền; từng giấc mơ đều phải khớp với triết lí của

ông ấy. Và đó cũng là trường hợp với người theo

trường phái Jung và những người khác.

Và một điều đã được quan sát lặp đi lặp lại - một

hiện tượng rất lạ xảy ra. Nếu bạn đi tới nhà phân tâm

thuộc bất kì loại nào - Freud, Jung, Adler - bạn bắt đầu

mơ theo cách nhà phân tâm của bạn mong đợi bạn mơ.

Nếu bạn đi tới nhà phân tâm theo Freud, sớm hay

muộn bạn bắt đầu mơ tương ứng theo ý tưởng của ông

ấy. Mọi người rất sẵn lòng giúp đỡ; họ cảm thấy

thương hại cho nhà phân tích đáng thương. Và ông ấy

đang làm nỗ lực vất vả thế để phân tích giấc mơ của

bạn. Đầu tiên ông ấy bắt đầu cho bạn diễn giải và thế

rồi bạn bắt đầu mơ theo diễn giải của ông ấy. Chẳng

mấy chốc các bạn khớp lẫn nhau - cứ dường như các

bạn được làm ra cho nhau. Thế thì ông ấy sướng và

bạn sướng. Ông ấy sướng bởi vì lí thuyết của ông ấy

được xác nhận và bạn sướng là bạn là anh chàng tốt,

mơ tương ứng với chuyên gia lớn. Và khi bạn thấy nhà

phân tâm của mình sướng, bạn cảm thấy sướng. Thấy

bạn sướng, ông ấy cảm thấy sướng. Đó là dàn xếp lẫn

nhau thế! Và không ai thực sự được giúp đỡ... việc mơ

tiếp tục.

Tôi chưa bao giờ bắt gặp một người nào được

phân tâm đầy đủ, bởi vì theo Freud, người được phân

tâm đầy đủ là người có giấc mơ đã biến mất. Và điều

đó là không đúng ngay cả với bản thân Sigmund

Freud; ông ấy liên tục mơ tới chính lúc cuối cùng của

mình. Và ông ấy rất sợ phân tâm, bạn sẽ ngạc nhiên

mà biết, bởi vì ông ấy biết các đệ tử của mình sẽ chỉ

chứng minh rằng mọi giấc mơ của ông ấy đều dâm

dục.

Có lần Jung muốn phân tâm Freud. Jung là đệ tử

yêu mến nhất của ông này vào những ngày đó, cũng

như có thời Judas đã là một trong những đệ tử yêu mến

nhất của Jesus. Và điều Judas đã làm cho Jesus, Jung

đã làm cho Freud. Mọi người có tên bắt đầu bằng 'J'

đều nguy hiểm!

Freud và Jung đã du hành và họ bắt đầu nói. Jung

nói, "Ý tưởng này xuất hiện trong tôi lặp đi lặp lại:

rằng tôi muốn phân tâm thầy. Thầy đã không được

phân tâm. Thực ra, không ai không được phân tâm nên

có quyền đi phân tâm người khác. Và thầy là người

sáng lập - thầy phải được phân tâm chứ."

Freud thực tại bắt đầu run rẩy và ông ấy nói,

"Không, không, không bao giờ! Điều đó sẽ phá huỷ

danh tiếng của ta."

Jung nói, "Nếu điều đó là vậy, thế thì nó đã phá

huỷ danh tiếng của thầy rồi, ít nhất cũng là với tôi.

Nếu thầy sợ nhiều thế về việc nói về giấc mơ của thầy,

điều đó đơn giản chỉ ra loại giấc mơ nào thầy phải có."

Không một người nào trên thế giới được phân tâm

toàn bộ cả. Và chừng nào mơ còn chưa biến mất, tâm

trí bạn sẽ vẫn còn trong rối loạn. Mơ đơn giản nói bạn

không biết cách gạt tâm trí mình ra; bạn không biết

công tắc tồn tại ở đâu để cho bạn có thể bật hay tắt nó

đi theo nhu cầu của mình. Khi bạn sắp đi ngủ bạn

không thể tắt được nó đi; nó cứ huyên thuyên. Cho dù

bạn nói với nó, "Câm đi!" nó không nghe bạn chút

nào; nó chẳng bận tâm. Và bạn biết hoàn toàn rõ nó sẽ

không nghe lời. Bạn cảm thấy bất lực khi có liên quan

tới tâm trí riêng của mình tới mức bạn phải đi theo nó,

nó không đi theo bạn. Nếu nó muốn huyên thuyên nó

sẽ huyên thuyên; khi bạn rơi vào giấc ngủ, dầu vậy nó

vẫn cứ huyên thuyên.

Nghệ thuật của thiền làm cho bạn nhận biết công

tắc ở đâu: nó là trong việc chứng kiến. Chứng kiến là

công tắc có thể bật hay tắt tâm trí bạn. Bạn trở thành

thầy, cho nên khi bạn muốn dùng nó bạn dùng nó và

khi bạn không muốn dùng nó bạn đơn giản tắt nó đi và

điều đó cho tâm trí nghỉ ngơi.

Do đó tâm trí của thiền nhân còn sáng chói hơn

nhiều, thông minh hơn nhiều, sống động hơn nhiều,

nhạy cảm hơn tâm trí của người không thiền, bởi vì

tâm trí của thiền nhân có vài thời kì nghỉ ngơi sâu, sâu

sắc làm tươi trẻ lại nó. Nếu bạn nhìn thiền nhân và

người đó không thông minh, điều đó đơn giản nghĩa là

người đó không phải là thiền nhân chút nào. Thiền

nhân không thể ngu xuẩn được, thiền nhân không thể

xoàng xĩnh được; điều đó là không thể được. Nếu

người đó là thiền nhân, thế thì người đó sẽ toả ra sự

sắc bén, thông minh, chói sáng. Người đó sẽ là thiên

tài, người đó sẽ sáng tạo.

Thực ra, nếu chúng ta có thể tạo ra ngày càng

nhiều thiền nhân trên thế giới này, trong mọi chiều

hướng của cuộc sống, sẽ có nhiều sáng tạo hơn, nhiều

thông minh hơn, ít ngu xuẩn hơn, ít lờ phờ hơn. Nhưng

điều đó đã không xảy ra trong nhiều thời đại. Chính

cái đối lập đã xảy ra bởi vì nhân danh thiền, cái gì đó

khác đã tiếp tục. Nhân danh thiền mọi người hoặc đã

tập trung hoặc suy tư. Cả hai đều không phải là thiền.

Tập trung chính là cái đối lập của thiền và suy tư

cũng vậy, theo cách khác. Tập trung nghĩa là đóng tâm

trí bạn lại, hội tụ tâm trí bạn, vào một điểm nào đó, vào

đối tượng nào đó. Bạn hội tụ vào đối tượng nào đó tới

mức bạn trở nên không nhận biết về mọi thứ khác; đó

là tập trung. Nó loại ra mọi thứ khác; nó chỉ bao hàm

một điều: đối tượng của sự tập trung của bạn, dù nó là

bất kì cái gì.

Và thiền nghĩa là mở tuyệt đối. Nó bao gồm tất cả,

nó không loại trừ cái gì. Do đó nó không tập trung chút

nào. Nó là trạng thái mong manh, cởi mở, sẵn có.

Người đang cố gắng tập trung có thể bị làm phân

tán. Người đó có thể dễ dàng bị phân tán bởi bất kì cái

gì. Mỗi con chó nhà hàng xóm bắt đầu sủa và người đó

bị phân tán, đứa trẻ bắt đầu cười khúc khích và người

đó bị phân tán, con chim bắt đầu hót và người đó bị

phân tán. Bất kì cái gì cũng có tác dụng, cứ dường như

người đó chỉ chờ đợi bất kì cái gì làm phân tán mình;

người đó mệt mỏi vì tập trung tâm trí mình. Đó là dồn

nén, đó là căng thẳng.

Thiền không phải là dồn nén, nó không phải là

căng thẳng. Người ta không bao giờ mệt mỏi vì thiền.

Nó là thảnh thơi - làm sao bạn có thể mệt mỏi vì nó

được? Nó là nghỉ ngơi sâu sắc, nó là nghỉ ngơi hoàn

toàn. Người ta sẵn có cho mọi thứ; không cái gì có thể

phân tán được bạn.

Bạn có thể nghe tôi hoặc như việc tập trung hoặc

như thiền. Nếu bạn nghe tôi như việc tập trung, thế thì

bất kì cái gì cũng có thể làm phân tán được. Chiếc ô tô

chạy qua... con chim cúc cu bắt đầu hót từ khoảng xa -

chim chóc huyên thuyên. Bất kì cái gì cũng có thể

phân tán được bạn, bất kì cái gì nhỏ bé. Không phải

chim chóc quan tâm tới việc làm phân tán bạn đâu;

chúng không quan tâm tới bạn chút nào. Nhưng bạn sẽ

cảm thấy tức tối nảy sinh trong bạn.

Đó là lí do tại sao cái gọi là người tôn giáo trở nên

cáu giận hơn bất kì ai khác. Họ sống gần như trong

cuồng nộ. Nếu một người trong nhà bạn trở nên có tính

tôn giáo, người đó là đủ để tạo ra rắc rối cho mọi

người, bởi vì từng điều nhỏ bé làm phân tán người đó

và thế rồi người đó trả thù.

Bạn có thể nghe tôi trong thiền. Thế thì bạn không

tập trung vào tôi; bạn đơn giản ngồi đó sẵn có, cởi mở.

Chim chóc cứ huyên thuyên; điều đó nữa cũng tới bạn,

nhưng bởi vì bạn không tập trung nên nó không phải là

việc phân tán - nó làm giầu có. Điều tôi đang nói với

bạn được làm giầu thêm. Tiếng hót của chim trở thành

bối cảnh cho điều đó. Và bạn chưa bao giờ cảm thấy

giận và bạn chưa bao giờ cảm thấy căng thẳng.

Suy tư cũng không phải là thiền. Suy tư nghĩa là

suy nghĩ. Suy nghĩ có thể có hai kiểu. Một kiểu là dic

dắc, nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác, chút ít

điên khùng; đó là suy nghĩ bình thường. Bất kì cái gì

cũng dẫn tới bất kì cái gì. Chó bắt đầu sủa và bạn bắt

đầu nghĩ về bạn gái. Dường như chẳng có quan hệ gì,

nhưng có thể cô bạn gái của bạn có lần đã nói, "Em cứ

sủa vào anh và anh không nghe!" Đột nhiên con chó

nhắc nhở bạn. Hay có thể cô ấy cũng có con chó sủa

bạn bất kì khi nào bạn tới gặp cô ấy. Và thế rồi từ điều

này sang điều khác... bạn sẽ không ở cùng bất kì cái gì

lâu đâu. Bạn gái nhắc nhở bạn về mẹ cô ấy, vân vân và

vân vân. Không ai biết bạn sẽ chấm dứt ở đâu. Khi bạn

nhìn một cách nội quan, bạn sẽ ngạc nhiên: chỉ chó sủa

ở nhà hàng xóm đã bắt đầu cho toàn thể quá trình ý

nghĩ.

Suy tư nghĩa là vẫn còn quan tâm tới một đối

tượng, suy nghĩ về nó và chỉ về nó thôi. Suy nghĩ có sự

nhất quán. Nếu bạn đang nghĩ về yêu, thế thì bạn đang

nghĩ về yêu và mọi khía cạnh của nó. Bạn không nhảy

từ điều này sang điều khác. Vâng, bạn có chiếc dây

thừng nhỏ để cho bạn có thể di chuyển quanh chủ đề

tình yêu, nhưng bạn cứ di chuyển quanh nó, vòng vòng

vèo vèo. Bạn quên mất toàn thế giới - tình yêu trở

thành thế giới của bạn trong khoảnh khắc đó.

Thiền không phải là suy tư bởi vì nó không phải là

suy nghĩ chút nào - nhất quán, không nhất quán, điên

khùng, lành mạnh. Nó không phải là suy nghĩ chút

nào; nó là chứng kiến. Chỉ ngồi im lặng sâu bên trong

bản mình, nhìn vào bất kì cái gì đang xảy ra cả bên

trong và bên ngoài. Bên ngoài có tiếng ồn giao thông,

bên trong cũng có tiếng ồn giao thông - giao thông

trong đầu. Nhiều ý nghĩ thế - xe tải và xe bus các ý

nghĩ và tầu hoả và máy bay các ý nghĩ, xô theo mọi

hướng. Nhưng bạn đơn giản ngồi xa cách, không quan

tâm, quan sát mọi điều mà không có đánh giá.

Bạn hỏi tôi, Gautami, "Có cần đi qua phân tích

giấc mơ để đạt tới chứng ngộ không?"

Không, chẳng cần chút nào. Bạn đã bao giờ nghe

nói bất kì ai trở nên chứng ngộ qua phân tâm không?

Vâng, mọi người đã trở nên điên, nhưng chẳng ai đã

trở nên chứng ngộ.

Phân tâm phụ thuộc vào phân tích tâm trí, và họ

không thấy gì khác trong bạn. Thân thể được chăm sóc

bởi các nhà sinh lí học; thế rồi tất cả các phần còn lại

là giao thông thường xuyên trong tâm trí của hoặc ý

nghĩ hoặc mơ mộng, kí ức, tưởng tượng, ham muốn.

Nhà phân tâm chẳng có gì khác để làm: ông ấy nhìn

vào quá trình mơ của bạn. Và tại sao ông ấy chọn mơ?

- bởi vì nếu ông ấy hỏi bạn nghĩ gì khi bạn thức bạn sẽ

không bao giờ chân thực, bạn không bao giờ chân

thành. Bạn lừa dối, không thực thà tới mức bất kì cái

gì bạn nói về suy nghĩ của mình đều nhất định được

quản lí; nó sẽ không còn đúng. Bạn sẽ chỉ nói cái đáng

nói và bạn sẽ xoá bỏ đi nhiều điều. Bạn sẽ sửa lại ý

nghĩ của mình. Bạn sẽ không cho phép nhà phân tâm

nhìn vào trong ý nghĩ của bạn mà không bị kiểm duyệt

nào, không có sửa đổi nào. Bạn sẽ không cho phép ông

ấy thấy chất liệu thô của ý nghĩ của bạn bởi vì điều đó

sẽ có vẻ như bạn đang điên khùng.

Bạn có thể thử điều đó. Ngồi trong phòng mình,

đóng tất cả các cửa ra vào để cho không ai có thể vào,

và bắt đầu viết ra bất kì cái gì xảy ra trong tâm trí bạn -

dù nó là bất kì cái gì. Cứ viết ra trong mười lăm phút,

thế rồi đọc nó - và bạn sẽ bị choáng. Đây là tâm trí

mình sao? Tất cả những ý nghĩ này đang diễn ra trong

tâm trí mình sao? Mình có điên hay cái gì đó không?

Bạn không thể đưa nó cho bất kì ai xem được.

Cũng tốt là mọi người không có cửa sổ trong đầu

họ; bằng không vợ sẽ nhìn qua cửa sổ đó trong đầu

chồng và cô ấy sẽ thấy mọi thứ. Dẫu sao thì cô ấy cũng

thấy mọi thứ, dù có cửa sổ hay không cửa sổ!

Nhà phân tâm phải phụ thuộc vào giấc mơ của bạn

bởi vì trong mơ rất khó để bạn lừa ông ấy. Bạn không

tự biết điều giấc mơ của bạn nghĩa là gì cho nên bạn

phải nói chúng như chúng vậy, và ông ấy có thể thấy

vài manh mối về bạn. Nhưng điều này sẽ không làm

cho bạn chứng ngộ đâu. Điều này có thể giúp bạn chút

ít trở nên bình thường hơn, nhưng bình thường là gì?

Ngay cả những người bình thường cũng không bình

thường - họ bất thường một cách bình thường, có vậy

thôi. Cho nên bạn sẽ là bất thường một cách bình

thường.

Có hai kiểu người bất thường trên thế giới này: bất

thường một cách bình thường, bất thường một cách bất

thường. Công việc của nhà phân tâm là đem người bất

thường một cách bất thường về loại thứ nhất: bất

thường một cách bình thường. Ông ấy giúp bạn điều

chỉnh theo xã hội, với mọi người, với bản thân bạn,

nhưng ông ấy không thể giúp bạn trở nên chứng ngộ

được.

Bạn có thể cứ đi và phân tích các giấc mơ của bạn

và bạn sẽ không bao giờ đi tới việc chứng kiến linh

hồn của bạn qua phân tích đó. Làm sao bạn có thể đi

tới nhân chứng bằng việc phân tích giấc mơ? Giấc mơ

này sẽ đưa bạn vào giấc mơ khác. Có thể bạn sẽ trở

thành tay mơ rất điêu luyện, rất nghệ thuật. Có thể bạn

sẽ bắt đầu mơ theo cách tốt hơn, theo cách khoa học

hơn, nhưng mơ vẫn là mơ thôi. Chúng không thể đưa

bạn tới nhân chứng của mơ được, điều chính là thực tại

của bạn.

Al: "Tớ có giấc mơ hay lắm - tớ mơ tớ phá được

ngân hàng ở Monte Carlo."

Charles: "Tớ cũng có giấc mơ hay tuyệt - tớ mơ tớ

ở trong phòng cùng với Sophia Loren và Brigitte

Bardot."

Al: "Úi chào! Cả Bardot và Sophia! Sao cậu không

gọi tớ?"

Charles: "Tớ có gọi đấy, nhưng cô hầu của cậu nói

cậu ở Monte Carlo!"

Bạn có thể phân tích giấc mơ này. Sẽ thu được cái

gì? Chẳng có ngân hàng ở Monte Carlo chẳng có

Sophia Loren hay Bardot - chẳng cái gì là cái thu được

của bạn cả. Nhưng nhà phân tâm sẽ phân tích nó. Nếu

bạn đi tới nhà phân tâm trường phái Adler, nhấn mạnh

của ông ấy sẽ là vào ngân hàng ở Monte Carlo: ý chí

về quyền, tiền, danh. Ông ấy sẽ quên tất cả về Sophia

Loren và Bardot; ông ấy không quan tâm - cái đó

chẳng là gì cả. Nếu bạn đi tới nhà phân tâm trường

phái Freud, ông ấy sẽ không nghĩ về Monte Carlo và

ngân hàng chút nào; điều đó là không bản chất, ngẫu

nhiên. Điều thực là Sophia Loren và Bardot.

Và nếu bạn đi tới nhà phân tâm trường phái Jung,

thế thì chẳng ai biết ông ấy sẽ làm gì với giấc mơ của

bạn. Ông ấy lẫn lộn thế! Nhưng ông ấy sẽ làm nhặng sị

lên về nó, đến mức đó là chắc chắn. Ông ấy sẽ tạo ra

nhiều bụi - bụi bí truyền. Ông ấy có thể bắt đầu nhìn

vào giấc mơ của bạn và tìm ra những điều mà bạn

chưa bao giờ ngờ tới - những điều huyền bí cổ đại, có

thể là huyền bí Ai Cập. Hay ông ấy có thể thậm chí

còn đi xa hơn - tới thời Atlantis. Ông ấy thực sự là kẻ

đào mồ. Và ông ấy cứ tìm ra những điều không có đó.

Bạn phải đã nghe định nghĩa về triết gia. Triết gia

là người mù đi tìm trong đêm tối, trong phòng tối, con

mèo đen mà lại không có đó. Nhưng Jung đã tìm thấy

nó ở đó đấy! Đó là cái đẹp của Jung - ông ấy tìm thấy

con mèo đen mà không có ở đó; ông ấy vẫn tìm thấy

nó. Và ông ấy tạo ra nhiều khói và bụi tới mức bạn

không thể phủ nhận được ông ấy. Ông ấy tạo ra luận

cớ lớn lao. Và bản thân ông ấy lại rất sợ đi tới nhân

chứng.

Ông ấy đã từng ở Ấn Độ, và đã có một người đàn

ông - một người mà khả năng về người đó chỉ thỉnh

thoảng mới xảy ra. Maharshi Raman còn sống. Và bất

kì khi nào Jung tới Ấn Độ, gần như ở mọi nơi mọi

người đều gợi ý cho ông ấy, "Sao ông phí thời gian đi

đây đó, đi tới Varanasi và Bombay? Sao ông không đi

tới Maharshi Raman?" Mọi người biết rằng ông ấy là

nhà phân tâm lớn, nổi tiếng thế giới. "Ông nên đi tới

Maharshi Raman, người đã vượt ra ngoài tâm trí. Ngồi

bên cạnh ông này ông có thể có vài thoáng nhìn. Ông

có thể thành con người được hoàn toàn thay đổi."

Nhưng Jung né tránh ông này, ông ấy đã không đi

tới đó. Ngược lại, trên đường về nhà ông ấy bắt đầu

viết chống lại huyền môn phương Đông. Ông ấy có thể

đã không viết chống lại huyền môn như vậy bởi vì bản

thân ông ấy đã tạo ra nhưng điều huyền bí lớn lao -

nhưng nông cạn bởi vì ông ấy đã không là người được

điểm đạo vào bất kì trường phái huyền môn nào. Ông

ấy đã thu thập nhiều thứ từ các nguồn nông cạn. Ông

ấy chưa bao giờ tiếp xúc với một thầy sống. Ông ấy đã

tới gần vị phật thế - Maharshi Raman - vậy mà ông ấy

đã bỏ lỡ. Và trong việc tự bảo vệ ông ấy đã bắt đầu

viết lúc về nhà rằng huyền môn phương Đông không

được ngụ ý dành cho tâm trí phương Tây - cứ dường

như có linh hồn phương Đông và linh hồn phương Tây

nữa. Vâng, có khác biệt trong lớp da của người

phương Đông và người phương Tây; điều đó chẳng

mấy là khác biệt đâu, chỉ chút ít về sắc tố da - đáng giá

bốn xu. Và nhớ lấy, người da đem có sắc tố nhiều hơn

người da trắng. Người đó có giá trị hơn - giá trị hơn

bốn xu - bởi vì người đó có sắc tố nào đó làm cho

người đó đen trong khi người da trắng bị thiếu.

Và vâng, có khác biệt nào đó trong tâm trí, bởi vì

tâm trí phương Đông được ước định theo cách khác và

tâm trí phương Tây được ước định theo cách khác.

Ước định là khác, nhưng nhân chứng là như nhau.

Jesus và Phật, Mohammed và Mahavira, là không khác

nhau. Thánh Francis và Ramakrishna, Eckhart và

Krishnamurti là không khác. Người đã biết tới nhân

chứng thì không là phương Đông không là phương

Tây. Người đó không còn là thân thể và không còn là

tâm trí - làm sao người đó có thể là người phương

Đông hay phương Tây?

Và Jung bắt đầu nói điều vô nghĩa này để tự bảo

vệ. Ông ấy nói, "Đó là lí do tại sao tôi né tránh

Maharshi Raman, bởi vì phương pháp phương Đông

không phù hợp với chúng tôi. Phương Tây cần yoga

riêng của mình, phương Tây cần thiền riêng của

mình." Khác biệt gì có thể có đó trong việc là nhận

biết? Dù bạn ở phương Đông hay ở phương Tây, nhận

biết sẽ là như nhau - và điều đó là cốt lõi bản chất của

thiền.

Họ là những người diễn giải lớn lao về giấc mơ...

toàn bộ thế giới của nhà phân tâm là thế giới của mơ.

Và khi có liên quan tới người chứng ngộ, với ông ấy

toàn bộ thế giới không là gì ngoài giấc mơ. Với nhà

phân tâm, mơ là toàn thể thế giới của ông ấy, và với

người chứng ngộ toàn thể thế giới không là gì ngoài

giấc mơ.

Nhà phân tích bực mình với cô bệnh nhân, cô ấy

nói cô ấy đã không mơ đêm hôm trước.

"Trông đây," anh ta cảnh báo cô ta, "nếu cô không

làm bài tập về nhà, tôi không thể giúp cô được đâu."

Việc mơ là cần; đó là bài tập ở nhà của bạn. Làm

nó ở nhà và thế rồi tới nhà phân tâm, và ông ấy ở đó

với toàn thể tri thức chuyên gia để phân tích nó.

Gautami, chứng ngộ nghĩa là đi ra ngoài ham

muốn và mơ. Không cần phí thời gian của bạn vào

phân tích. Cứ đi ra ngoài, đưa toàn thể năng lượng của

bạn đi vào cõi bên kia. Và khi bạn đi ra bên ngoài, mọi

giấc mơ biến mất theo cách riêng của chúng.

#6Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu,

Sao tôi cứ mất đi mọi thứ trừ bản ngã của mình?

Sughanda.... Odum, một người da đen già bị gọi ra

trước thẩm phán hoà giải, bị buộc tội giữ con chó

hoang.

"Con chó đó đã cắn con gái tôi Bobbie Jo ba lần,"

người mẹ phàn nàn.

"Con chó của ông có cắn bé Bobbie Jo không?"

thẩm phán hỏi.

"Không, thưa ngài," Odum nói. "Con chó của tôi,

nó chưa bao giờ cắn bất kì bé gái nào."

"Được," thẩm phán nói với người mẹ, "người này

nói rằng con chó đó đã không cắn bé gái của bà."

"Tôi sẽ về nhà và đem Bobbie Jo đến đây và chỉ

cho các ông xem," người đàn bà nói.

"Khoan đã," người da đen nói. "Ngay chỗ đầu tiên,

con chó này già thế nó không có răng và nó không thể

cắn được. Điều thứ hai, con chó này mù và không thể

thấy được Bobbie Jo bằng cách nào cả. Điều thứ ba,

con chó này điếc và không thể nghe được gì. Và điều

thứ tư, nó không phải là con chó của tôi ngay chỗ đầu

tiên."

Sughanda, bạn không thể đánh mất bản ngã của

mình bởi vì ngay chỗ đầu tiên nó không tồn tại chút

nào. Bạn có thể đánh mất mọi thứ khác bởi vì những

thứ đó thực sự tồn tại, nhưng làm sao bạn có thể đánh

mất cái gì đó không tồn tại được? Bạn không thể đánh

mất cái bóng của mình được; nó không tồn tại. Và bản

ngã cỏn giả hơn là cái bóng của bạn; nó thậm chí

không phải là cái bóng. Nó không phải là chất liệu, nó

thậm chí không phải là cái bóng. Nó chỉ là ý tưởng

được xã hội cấy vào bên trong bạn. Nó không có thực

tại, cho nên làm sao bạn có thể làm mất nó được?

Cách duy nhất để làm mất nó là tìm nó - và bạn sẽ

không thấy nó. Và khi bạn không thấy nó bạn đã làm

mất nó. Đi vào bên trong và tìm nó đi, kiếm nó đi.

Đó là điều các thiền nhân đã từng làm trong nhiều

thế kỉ. Họ nhắm mắt lại và họ đi vào trong và họ kiếm

bản ngã, nơi có nó - và họ không thể tìm thấy được nó.

Khi bạn không thể tìm thấy được nó và bạn đã nhìn

vào mọi xó xỉnh ngóc ngách của bản thể mình và nó

không thể được tìm thấy ở đâu cả, thế thì bạn biết bạn

đã đánh mất nó. Ngay chỗ đầu tiên, thực sự nó chưa

bao giờ có đó cả; nó chỉ là niềm tin của bạn.

Cũng giống như bạn thấy dây thừng trong bóng tối

và bạn tin nó là con rắn. Thế rồi bạn run rẩy và vã mồ

hôi và chạy và cố gắng tự cứu mình khỏi con rắn - điều

không tồn tại chút nào. Mọi việc chạy của bạn và việc

vã mồ hôi của bạn chỉ vô ích, nhưng nó có thể nguy

hiểm cho bạn nữa. Ngay cả con rắn giả cũng có thể

giết chết bạn - bạn có thể bị lên cơn đau tim! Đó là rắc

rối với những cái giả; bạn không thể làm mất chúng

được - chúng không có đó - nhưng chúng có thể làm

những điều thực với bạn.

Bạn có thể thỉnh thoảng đã kinh nghiệm điều đó

trong giấc mơ của mình, khi bạn có cơn ác mộng. Bạn

chạy, và con hổ đang đuổi theo bạn, và con hổ đang tới

mỗi lúc một gần hơn và gần hơn, và bạn chạy mỗi lúc

một nhanh hơn và bạn biết rằng chỉ vài khoảnh khắc

còn lại thôi. Bạn gần như có thể cảm thấy hơi thở nóng

của con hổ sau lưng mình.

Và thế rồi bỗng nhiên bạn đi tới ngõ cụt, đường

cùng. Bạn không thể quay lại được - con hổ có đó; bạn

không thể tiến lên được. Nếu bạn nhảy xuống thung

lũng bạn sẽ chết trước khi bạn tới đáy.

Trong trạng thái đó bạn thức dậy. Cơn ác mộng

quá nhiều; nó đánh thức bạn dậy. Tim bạn đập thình

thình, hơi thở bạn gấp gáp rối loạn, bạn vã mồ hôi

trong đêm lạnh. Và không có hổ - chỉ có vợ bạn để tay

lên lưng bạn, thở gần thế.... Bạn thức dậy, cơn ác

mộng đã biến mất. Bạn biết không có hổ - "Đấy chỉ là

vợ đáng thương của mình" - nhưng dầu vậy, trong vài

khoảnh khắc việc vã mồ hôi vẫn tiếp tục, tim sẽ cứ đập

nhanh hơn, bạn sẽ đứng dậy thình lình. Dầu vậy, vẫn

biết hoàn toàn rõ rằng tất cả đều là giả, bạn vẫn đang

run rẩy.

Đích xác đây là trường hợp với bản ngã: nó là thực

thể giả. Khi bạn thức dậy bạn không thể tìm thấy nó.

Cho nên vấn đề không phải là vứt bỏ nó. Làm sao bạn

có thể vứt bỏ cái gì đó mà không có? Vấn đề là nhìn

vào nó, tìm nó, kiếm nó.

Tôi không nói với bạn, "Tìm và kiếm Thượng đế

đi." Điều đó là vô nghĩa. Làm sao bạn có thể tìm và

kiếm Thượng đế được, và ở đâu? Bạn không biết địa

chỉ. Và cho dù bạn có gặp quí ông này thì bạn cũng sẽ

không nhận ra ông ấy đâu. Cho dù ông ấy nói chào

bạn, bạn sẽ không hiểu ngôn ngữ của ông ấy. Ông ấy

không nói tiếng Đức, ông ấy không nói tiếng Pháp,

ông ấy không nói tiếng Italia - thậm chí không nói cả

tiếng Italia!

Nhưng mọi quốc gia đều tin rằng "Ngài nói ngôn

ngữ của chúng ta." Người Ấn Độ nghĩ rằng ngài nói

tiếng Phạn, rằng đích thân ngài đã viết ra Vedas. Và

người Mô ha mét giáo nghĩ ngài nói tiếng A rập - đích

thân ngài đã nói tiếng A rập qua Mohammed, sứ giả

duy nhất. Và tất nhiên, người Do Thái nghĩ họ là người

được chọn của Thượng đế - ngài nói tiếng Do Thái.

Sau thế chiến thứ hai một tướng Đức nói chuyện

với một tướng Anh. Ông ta nói, "Tôi không thể tin

được làm sao chuyện đã xảy ra, làm sao chúng tôi đã

thất bại. Chúng tôi có quân đội tốt hơn các ông, công

nghệ tân tiến hơn, chúng tôi được trang bị tốt hơn theo

đủ mọi cách. Làm sao chúng tôi đã thất bại và các ông

đã thành công?"

Tướng Anh mỉm cười và ông ta nói, "Lí do là

chúng tôi thường xuyên cầu nguyện trước khi bắt đầu

mọi trận đánh mỗi ngày."

Tướng Đức nói, "Nhưng chúng tôi cũng làm điều

đó. Chúng tôi thường cầu nguyện trước khi chúng tôi

bắt đầu đánh."

Người Anh nói, "Điều đó chúng tôi biết, nhưng

chúng tôi thường cầu nguyện bằng tiếng Anh còn các

ông cầu nguyện bằng tiếng Đức - và ngài không hiểu

tiếng Đức chút nào."

Mọi nước đều tin ngôn ngữ của mình là thiêng

liêng, là ngôn ngữ của Thượng đế. Nhưng Thượng đế

chỉ biết ngôn ngữ của im lặng - còn bạn lại không biết

tới im lặng. Cho nên khi ngài nói chào bạn, đó sẽ là

tiếng chào rất im lặng. Nó sẽ không được thốt ra, nó sẽ

không được nói ra; nó sẽ chỉ là cử chỉ. Và gần như là

bạn không thể nào nghe được nó bởi vì nó không thể

được nghe.

Bạn không thể nhận ra được khuôn mặt của ngài

bởi vì nó không giống khuôn mặt của Jesus, nó không

giống khuôn mặt của Krishna, nó không giống khuôn

mặt của Phật. Tất cả các khuôn mặt đều là của ngài và

dầu vậy ngài chẳng có khuôn mặt nào. Thiền nhân gọi

khuôn mặt đó là là "khuôn mặt nguyên thuỷ"; nó

không giống ai cả. Người Ki tô giáo sẽ không nhận ra

ngài bởi vì họ sẽ tìm khuôn mặt của Christ và người

Hindus sẽ không nhận ra ngài bởi vì họ sẽ tìm khuôn

mặt của Krishna. Vâng, trong khuôn mặt của Krishna

cũng có ngài và trong khuôn mặt của Christ cũng có

ngài, nhưng họ chỉ là những con sóng - Krishna,

Christ, Phật, Mahavira - và ngài là đại dương. Bạn

không thể nhận ra được đại dương nếu bạn chỉ biết về

một con sóng; đại dương không phải là sóng mặc dầu

mọi con sóng đều thuộc vào đại dương.

Bạn không thể tìm được Thượng đế, và bạn ngủ

tới mức mọi tìm kiếm của bạn đều sẽ sai. Điều đầu tiên

là tìm bản ngã của bạn; đó là hướng đúng cho người

tìm kiếm. Và khi bạn không thấy bản ngã - khi bản ngã

không được tìm thấy ở đâu cả, nó đơn giản biến mất -

thế thì có khả năng nhận ra khuôn mặt của Thượng đế,

bởi vì ngài là vô ngã. Và khi bạn có hương vị của vô

ngã, một chút ít hương vị, bạn sẽ hiểu ngài. Khi bản

ngã biến mất bạn sẽ biết im lặng là gì, không gian là

gì, trống rỗng là gì. Bạn tràn đầy với bản ngã không

tồn tại thế; khi nó mất đi rồi bạn sẽ biết khoảng trống

lớn lao bên trong bạn. Và ngài là không gian, không

gian thuần khiết. Cái gì đó của ngài sẽ được bạn biết

tới; thế thì bạn có thể nhận ra ngài, bạn được bắc cầu

tới ngài.

Sughanda, bạn nói, "Sao tôi cứ mất đi mọi thứ trừ

bản ngã của mình?"

Bởi vì mọi thứ khác đều có thực tại cụ thể còn bản

ngã không có thực tại chút nào. Nếu bạn muốn làm

mất bản ngã của mình bạn sẽ phải đi vào trong. Có thể

đó là lí do tại sao mọi người không đi vào trong - sợ

rằng họ có thể đánh mất bản thân mình. Và nỗi sợ của

họ là đúng. Thận trọng vào! Nếu bạn sẵn sàng đánh

mất bản thân mình, chỉ thế thì hãy quyết định đi vào

trong.

Nhưng khoảnh khắc đó là khoảnh khắc lớn lao

trong cuộc sống - khi bạn đánh mất bản ngã của bạn -

bởi vì chính khoảnh khắc đó, ngay lập tức, Thượng đế

được tìm thấy. Khoảnh khắc đó bạn không có, Thượng

đế có. Khoảnh khắc đó bạn bay hơi, Thượng đế giáng

xuống bạn.

#6Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi bao giờ cũng cảm thấy rằng con vật rất thân

thiện với tôi. Sao vậy?

Roberto, bạn là người Italia! Tôi sẽ kể cho bạn một

câu chuyện Italia.

"Thật là tuyệt vời anh mới có quyền năng với các

con vật câm," Rizzoli ba hoa với vợ mình. "Em để ý

bất kì chỗ nào chúng ta đi, lũ chó - con lớn, con bé -

chả thành-a vấn đề, chúng-a đều tới và liếm-a tay anh."

"Có thể," bà Rizzoli nói, "nếu thỉnh thoảng anh mà

ăn-a bằng dao và dĩa, chúng sẽ không thân thiện thế

đâu!"

Chỉ chút ít tính Italia thôi, để cho ngay cả con

người cũng có thể thân thiện với bạn.

Câu hỏi thứ năm:

Thưa thầy kính yêu,

Cách thức đúng để xử trí với đàn bà là gì?

Somesh, chỉ có một cách để xử trí với đàn bà. Điều

rắc rối là chẳng ai biết nó là gì.

Câu hỏi thứ sáu:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi không thích việc thầy bảo chúng tôi đừng nhìn

lên mặt trời hôm nay trong khi trời đang nhật thực

toàn phần. Tôi nghĩ thầy đã tin vào tự do tuyệt đối.

Sunderam, bạn không phải là người duy nhất hỏi

câu hỏi này đâu. Ít nhất hai mươi người ngu khác cũng

đã hỏi cùng câu hỏi đó. Tôi xin lỗi là tôi đã bảo bạn

đừng nhìn thẳng vào mặt trời - làm điều đó đi! Xin làm

cho tôi một ân huệ! Tôi đã hoàn toàn sai khi nói điều

đó như vậy - tự do của bạn bị phá huỷ. Hãy tận hưởng

tự do của bạn; ít nhất là hôm nay, đừng quên tận

hưởng nó. Cứ nhìn thật nhiều nhất có thể được vào mặt

trời và đừng dùng thiết bị nào - bởi vì điều đó sẽ cản

trở tự do của bạn. Bằng mắt trần - mắt tự nhiên - cứ

nhìn vào mặt trời đi. Tận hưởng nó cho thoả lòng bạn.

Tôi đã không định nói điều đó cho bạn. Toàn thể

sự trách móc thuộc về Vivek! Cô ấy cứ nài nỉ tôi và

nài nỉ tôi nói với các bạn; bằng không tôi đã không

định nói cho các bạn điều gì.

Một vài người trong số hai mươi gã ngu này đã

nói, "Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng thầy mê tín."

Đây không phải là mê tín - đây là sự kiện khoa học. Có

hàng triệu người mê tín đấy. Chẳng hạn, ở Ấn Độ, sau

khi nhật thực hết rồi thì đi tắm và nếu bạn có thể tắm ở

dòng sông linh thiêng như sông Hằng, điều đó được

coi là rất tôn giáo, thiêng liêng - bởi vì người Ấn Độ

tin rằng mặt trời đã gặp khó khăn lớn và nó đã ra khỏi

khó khăn. Điều đó là mê tín. Mặt trời chẳng gặp khó

khăn nào cả. Nhật thực không xảy ra trên mặt trời; mặt

trời chẳng liên quan gì tới nhật thực cả. Đó chỉ là mặt

trăng đi vào giữa bạn và mặt trời; nhật thực cũng

không xảy ra trên mặt trăng. Nó chỉ xảy ra cho chúng

ta.

Người Ấn Độ cúng dường sau khi nhật thực qua

rồi, hân hoan rằng thần mặt trời ra khỏi bĩ cực. Đấy là

mê tín.

Nhưng nhìn vào mặt trời là nguy hiểm - nguy hiểm

về mặt khoa học; đó không phải là vấn đề mê tín. Bạn

có thể thử điều đó. Vài người trong những người khác

đã viết, "Làm sao chúng tôi có thể tin được vào điều

thầy nói khi ngày tháng của thầy sai, ngày của thầy

sai?" Điều đó đúng. Cho dù ngày tháng của tôi là sai

và ngày của tôi sai, nhật thực sẽ vẫn có cùng hiệu quả.

Về ngày và ngày tháng tôi không chắc được thế. Thực

ra, tôi không có ý tưởng về thời gian. Tôi cứ phải nhìn

đi nhìn lại đồng hồ, bằng không tôi sẽ cứ nói mãi.

Mới tháng trước điều đó đã xảy ra: đồng hồ chết...

vào tám giờ hai mươi nó chết. Tôi cứ nhìn đi nhìn lại

vào nó... nó cứ mười giờ mười. Và tôi mê tín tới mức

tôi vẫn tin vào đồng hồ này! Tôi cứ tưởng lúc đó là

tám giờ ba mươi. Cuối cùng tôi bắt đầu thấy sự bất ổn

nào đó quanh tôi. Tôi nghĩ, "Có chuyện gì thế nhỉ? Cái

gì sai ở đâu đó rồi." Tôi nhìn đồng hồ - vẫn tám giờ ba

mươi. Tôi nói, "Không có vấn đề gì; vẫn còn đủ thời

gian."

Vâng, vào ngày mười bốn tôi đã nói, "Ngày mai."

Một cách tự nhiên, ngày tháng của tôi là sai, nhưng

điều đó không có nghĩa là điều tôi nói là sai. Ngày

mười lăm hay mười sáu, chả thành vấn đề; ngày tháng

là tuỳ tiện thôi. Chúng chỉ là sự sáng tạo của chúng ta -

ngày là tuỳ tiện. Nhưng chỉ bởi vì điều đó, nếu bạn hỏi

tôi làm sao bạn có thể tin được....

Tôi không bảo bạn tin vào cái gì cả. Bạn có thể đi

và kiểm tra với các nhà khoa học - điều đó là nguy

hiểm cho mắt, và đôi khi nguy hiểm tới mức mù loà do

nó gây ra sẽ không thể chữa được.

Nhưng đây không phải là mệnh lệnh. Tôi không

nói rằng nhìn lên mặt trời trong nhật thực là tội lỗi hay

tội ác. Tôi không nói rằng đó là cái gì đó vô đạo đức,

phi tôn giáo, phi tâm linh. Đó đơn giản ngu xuẩn!

#6Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Có đúng là tiền không thể mua được hạnh phúc

không?

Anando, vâng, điều đó đúng. Tiền không thể mua

được hạnh phúc - nhưng nó gây khổ sở còn nhiều hơn

là thoải mái. Đó là lí do tại sao tôi không chống lại

tiền, tôi ủng hộ tất cả cho nó. Khổ mà thoải mái còn tốt

hơn là khổ mà không thoải mái. Tôi đã sống trong

nghèo nàn và tôi đã sống trong giầu có, và tin tôi đi:

giầu có còn tốt hơn nghèo nàn nhiều.

Đủ cho hôm nay.

***************************************************************************************************************

#7 Nó ngọt làm sao

Có bạn khi cần là điều dễ chịu

và chia sẻ hạnh phúc.

và làm được cái gì đó tốt lành

trước khi rời khỏi cuộc sống này là điều dễ chịu,

và buông bỏ nỗi buồn.

Là người mẹ là dễ chịu,

và người bố.

Thật dễ chịu khi sống gian truân,

và làm chủ bản thân mình.

Ôi tận hưởng cuộc sống thật dễ chịu làm sao,

sống trong trung thực và mạnh mẽ!

Và trí huệ là dễ chịu,

và tự do.

Phật Gautama không nói về Thượng đế, nhưng

ông ấy nói về tình yêu, tự do, chân lí, tính đích thực.

Ông ấy nói về tôn giáo bản chất. Ông ấy không phí

hoài hơi thở của mình trên cõi trời và địa ngục, lí

thuyết về đầu thai. Ông ấy tuyệt đối không bận tâm tới

cái gọi là các vấn đề siêu hình lớn lao. Ông ấy là phi

siêu hình - theo một nghĩa nào đó, ngay trên đất bằng.

Ông ấy ngụ ý công việc. Ông ấy muốn cho bạn khoa

học có thể biến đổi cuộc sống của bạn. Ông ấy quan

tâm tới việc tạo ra giả kim thuật của cách mạng bên

trong để cho kim loại cơ bản có thể được biến đổi

thành vàng. Tôn giáo của ông ấy là duy nhất, theo một

cách nào đó.

Có ba kiểu tôn giáo trên thế giới. Jaina giáo là tôn

giáo duy nhất dứt khoát vô thần. Nó phủ nhận Thượng

đế và nâng con người tới đỉnh cao tối thượng của con

người. Nó tuyên bố rằng con người là Thượng đế và

không có Thượng đế khác. Ngoại trừ Jaina giáo, tất cả

các tôn giáo khác - Hindu giáo, Do Thái giáo, Hồi

giáo, Ki tô giáo - đều là hữu thần. Họ được bắt rễ trong

ý tưởng về Thượng đế; không có Thượng đế họ sẽ lúng

túng chẳng biết làm gì. Họ bị lúng túng bởi vì từ khi

Nietzsche tuyên bố "Thượng đế chết rồi," nhân loại,

dần dần, đã đồng ý với Nietzsche. Phát biểu của ông

ấy rất tiên tri; nó đại diện cho tâm trí thế kỉ hai mươi.

Và các tôn giáo đã lệ thuộc vào ý tưởng Thượng đế

này, trong nhiều thế kỉ đều cảm thấy bị nhổ bật rễ. Họ

chết, tàn lụi đi.

Phật là duy nhất. Ông ấy không vô thần như Jainia

giáo, không hữu thần như các tôn giáo khác. Ông ấy là

người bất khả tri siêu phàm. Ông ấy nói không cần lo

nghĩ về những điều không cần thiết. Nghĩ về cái bản

chất, nghĩ về cái thực chất, và không bận tâm tới cái

ngẫu nhiên.

Nếu bạn đích thực, nếu bạn từ bi, nếu bạn có tính

thiền, thế thì nếu có Thượng đế ngài sẽ tới bạn; bạn

không cần đi tìm ngài. Và nếu có thiên đường, nó sẽ

giáng xuống trái tim bạn. Không cần bận tâm về các ý

tưởng trừu tượng như thế; chúng đơn giản làm phí hoài

thời gian của bạn. Còn nếu bạn không đích thực,

không mang tính thiền, không từ bi, không đủ trí huệ,

cho dù bạn có bắt gặp Thượng đế, bạn định làm gì?

Bạn sẽ cảm thấy bối rối chút ít và Thượng đế sẽ cảm

thấy bối rối chút ít khi đối diện bạn. Các bạn cả hai sẽ

lâm vào tình huống kì lạ không cần thiết - nói gì, làm

gì, không nói gì, không làm gì. Bạn sẽ muốn thoát ra

và ngài cũng muốn thoát ra.

Nghĩ mà xem: nếu bạn ngẫu nhiên bắt gặp Thượng

đế, bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ chạy xa khỏi ngài nhanh

nhất có thể được!

Rabindranath có một chuyện ngụ ngôn hay. Trong

một trong những bài thơ của mình ông ấy ca: Tôi đã

tìm Thượng đế trong nhiều kiếp. Thỉnh thoảng tôi đã

thấy ngài xa xăm trên một ngôi sao, nhưng đến lúc tôi

tới đó ngài đã đi khỏi ngôi sao đó từ lâu rồi; ngài đã ở

đâu đó khác. Ngài bao giờ cũng ở đâu đó khác và tôi

săn đuổi ngài. Chính cuộc phiêu lưu này thật hay; tôi

tận hưởng niềm xúc động của nó.

Và thế rồi một hôm tôi ngẫu nhiên tới nhà ngài.

Trong một khoảnh khắc tôi cực lạc rằng tôi đã đạt tới,

nhưng khoảnh khắc tiếp tôi trở nên rất buồn. Đứng

trước cửa nhà ngài tôi định rung chuông, nhưng tay tôi

trở nên đông cứng. Tôi nghĩ một chốc, "Nếu mình

rung chuông và ngài ra, thì sao? Thế thì mình sẽ làm

gì? Và sau đó tôi đi tìm ai đây? Mọi sự đều chấm dứt!

Toàn thể quá khứ của tôi đã chẳng là gì ngoài việc tìm

Thượng đế; nó đã có nghĩa bởi việc tìm kiếm. Nếu

việc tìm kiếm biến mất, mọi nghĩa sẽ biến mất."

Cho nên Rabindranath nói, "Tôi bước lùi lại khỏi

bậc cửa nhà ngài. Tôi cầm giầy trong tay để cho ngài

sẽ không nghe thấy rằng ai đó đã tới. Bằng không, ai

biết? Ngài có thể đơn giản mở cửa ra và ngài sẽ nói,

'Vào đi!' Và thế rồi tôi chạy mất khỏi chỗ này nhanh

nhất có thể được.

"Và tôi lại đi tìm Thượng đế, và bây giờ tôi biết

chỗ ngài ở cho nên tôi tránh mỗi chỗ đó và tôi đi tìm ở

mọi nơi khác, vẫn biết hoàn toàn rõ rằng tôi không

định gặp ngài ở đó và việc tìm kiếm của tôi có thể tiếp

tục. Tôi có thể cứ hi vọng và ham muốn và sâu bên

dưới tôi biết toàn thể cái lố bịch của nó - bởi vì ngài

chỉ ở ngay góc kia thôi; tôi có thể tới nhà ngài bất kì

khoảnh khắc nào."

Đây là câu chuyện ngụ ngôn thực về con người:

bạn cũng biết chỗ ngài ở. Nếu ngài không ở chỗ nào

thì ngài ở bên trong bạn, thậm chí chẳng ở góc kia.

Nếu ngài không ở chỗ nào, ngài ở trong tâm thức của

bạn, trong trung tâm của trái tim của bạn. Ngài là cuộc

sống của bạn. Ở đó bạn không nhìn vào chút nào, sợ

rằng bạn có thể tìm thấy ngài. Và bạn cứ đi tìm ở

Kaaba, ở Kailash, ở Kashi, và bạn cứ tìm mãi mà vẫn

hoàn toàn biết rõ là bạn sẽ không tìm thấy ngài. Và

việc tìm kiếm có thể tiếp tục và niềm xúc động có thể

tiếp tục và bạn có thể cứ hi vọng và ham muốn.

Phật đơn giản chặt đi mọi hi vọng và ham muốn

của bạn. Ông ấy không nói không có Thượng đế, ông

ấy không nói có. Ông ấy đơn giản nói điều đó là không

liên quan. Chả thành vấn đề liệu ngài có hay ngài

không có; điều đó là tuyệt đối nằm ngoài vấn đề. Điều

thành vấn đề là biến đổi bên trong của bạn, và biến đổi

bên trong này không thể bị trì hoãn sang ngày mai; nó

có thể xảy ra ngay bây giờ.

Đó là rắc rối với Phật: nếu bạn đi cùng ông ấy bạn

phải vứt bỏ hi vọng của bạn, bạn phải vứt bỏ ham

muốn của bạn. Bạn phải ở trong hiện tại, hoàn toàn im

lặng. Và thế thì cuộc sống có mầu sắc mới, niềm vui

mới, âm nhạc mới. Thế thì cuộc sống có cái đẹp mới.

Ngay bây giờ, ngay chỗ đầu tiên, bạn không thể

gặp được Thượng đế bởi vì bạn không có mắt để nhìn

ngài và bạn không có tai để nghe ngài và bạn không có

trái tim đúng để cảm ngài. Bạn không yêu đủ. Mắt bạn

không tỏ; chúng đầy bụi - bụi của tri thức, kí ức, kinh

nghiệm. Tai bạn chỉ dường như nghe, nhưng chúng

không lắng nghe.

Nhưng tình cờ cho dù bạn gặp ngài, bạn định hỏi

gì? Vợ mới, chồng mới, chỗ khác để sống, cuộc sống

lâu hơn chút ít, tuổi thanh niên...? Bạn định hỏi gì? -

tiền, quyền, danh? Bất kì cái gì bạn hỏi cũng sẽ ngu

xuẩn.

Một người da đen tôn thờ Thượng đế, cầu nguyện

hàng ngày trong sáu năm. Anh ta bao giờ cũng xin vấn

đề này nọ được giải quyết.

Thượng đế trở nên chán ngán anh ta và quyết định

tới thăm anh ta. Thế là một hôm trong khi người này

đang cầu nguyện, Thượng đế tới bên anh ta bằng

xương bằng thịt và nói, "Này anh bạn, ta đây này! Anh

muốn biết cái gì nào? Hỏi đi!"

Người này không thể tin được vào mắt mình,

nhưng cuối cùng anh ta hỏi, "A, Thượng đế à, sao da

con lại đen thế?"

Thượng đế trả lời, "Bởi vì mặt trời ở nước con rất

nóng và con phải sống sót."

"Và sao tóc con lại ngắn và xoăn?"

"Bởi vì trong rừng rậm có nhiều cây và tóc con sẽ

bị mắc đấy."

"Và sao con gầy và nhanh?"

"Để cho con có thể đánh nhau với sư tử và các con

vật khác trong rừng."

"Thế, Thượng đế này, con làm cái đéo gì ở New

York?"

Điều đó đích xác là trường hợp cho bạn. Bạn sẽ

hỏi Thượng đế cái gì? Mọi câu hỏi của bạn đều bắt

nguồn từ vô ý thức của bạn. Thực ra, tất cả các câu hỏi

sẽ ngớ ngẩn. Đó không phải là cách đương đầu với

thực tại. Người ta phải im lặng, hoàn toàn im lặng.

Do đó Phật nói, đừng bận tâm về Thượng đế. Quan

tâm tới việc chuẩn bị riêng của bạn, được chuẩn bị đi.

Nhấn mạnh là hoàn toàn khác. Mọi tôn giáo đều nhấn

mạnh vào Thượng đế, đối thể của tìm kiếm; Phật nhấn

mạnh vào bạn, chủ thể. Mọi tôn giáo khác nhấn mạnh

vào cái được tìm; Phật nhấn mạnh vào người tìm. Và

chắc chắn điều nhiều ý nghĩa hơn là thay đổi bản thân

bạn và chuẩn bị cho bản thân bạn đương đầu tối

thượng với thực tại - gọi nó là Thượng đế, sự tồn tại,

chân lí, giải thoát, hay bất kì cái gì bạn muốn gọi nó.

Điều thực, điều bản chất, là được chuẩn bị cho cuộc

đương đầu đó.

Và nếu bạn sẵn sàng, nếu trái tim bạn tuôn chảy

cùng tình yêu và cái đầu bạn không còn điên khùng,

không đầy rác rưởi, và mắt bạn có sáng tỏ và tai bạn

sẵn sàng lắng nghe, thế thì toàn thể thực tại biến thành

Thượng đế; thế thì mọi thứ đều thiêng liêng. Phật

không nói cái gì về điều đó cả; ông ấy cứ nhấn mạnh

vào thay đổi bên trong của bạn.

Những lời kinh này là đơn giản nhưng hay vô

cùng. Chân lí bao giờ cũng đơn giản; chỉ phi chân lí

mới phức tạp. Phi chân lí phải được làm phức tạp lên

để cho bạn không thấy rằng nó là không đúng, để cho

bạn không thể tìm thấy nó. Chân lí là đơn giản, hoàn

toàn đơn giản và trần trụi.

Phật nói:

Có bạn khi cần là điều dễ chịu

và chia sẻ hạnh phúc.

Ông ấy nhấn mạnh vào tình bạn nhiều lắm. Dịch

lời của ông ấy dành cho tình bạn - maitri - có chút khó

khăn bởi vì nó có phẩm chất của tính bạn còn hơn tình

bạn. Tình bạn trở thành quan hệ, cố định; tính bạn còn

tuôn chảy hơn, linh động hơn. Tình bạn là quan hệ,

tính bạn là trạng thái của bản thể bạn. Bạn đơn giản

mang tính bạn; với ai, đấy không phải là vấn đề. Nếu

bạn đang đứng bên cạnh cây, bạn mang tính bạn với

cây đó, hay nếu bạn đang ngồi trên đá, bạn mang tính

bạn với tảng đá đó. Với con người, với con vật, với

chim chóc, bạn đơn giản mang tính bạn. Nó không

phải là cái gì đó tĩnh tại; nó là dòng chảy, thay đổi từ

khoảnh khắc sang khoảnh khắc.

Ông ấy nói: Có bạn khi cần là điều dễ chịu.

Tính bạn là một trong những phẩm chất có ý nghĩa

nhất để người tìm kiếm phát triển; nó thực sự dễ chịu.

Nó làm cho toàn thể cuộc sống của bạn đầy âm nhạc

dễ chịu, đầy hài hoà dễ chịu. Theo viễn kiến của Phật

nó cao hơn cái gọi là tình yêu. Cái gọi là tình yêu của

bạn bị buộc vào sinh học của bạn; tính bạn là tự do

khỏi sinh học. Cái gọi là tình yêu thông thường là như

nhau trong mọi con người cũng như nó có trong con

vật, như nó có trong cây cối. Nó hướng dục. Nó chỉ là

lớp bọc đường quanh viên thuốc đắng của dục. Thực

ra, nếu tình yêu bị lấy đi khỏi dục của bạn, dục sẽ có

vẻ rất lố bịch. Chính vì lớp bọc đường mà bạn có thể

nuốt viên thuốc.

Quan sát con vật giao cấu và một điều bạn nhất

định quan sát thấy; không thể nào không quan sát điều

đó được; điều đó rõ ràng thế ở đó: chúng dường như

không vui sướng. Chúng dường như vội vàng và mặt

chúng có vẻ buồn, cứ dường như bị ép buộc bởi lực

không biết nào đó vào hành động nào đó mà chúng

không quan tâm. Do đó con vật có mùa động dục khi

sinh học của chúng tóm lấy chúng, buộc chúng làm cái

gì đó mà chúng không thực sự quan tâm chút nào.

Chúng phải làm điều đó gần như nô lệ. Và một khi

chúng đã hoàn thành việc giao cấu chúng đi xa nhau -

thậm chí chẳng cám ơn! Chúng không nhìn nhau.

Các nhà khoa học nói tình yêu đã phát triển trong

con người bởi lẽ đơn giản là con người là con vật duy

nhất trên thế giới làm giao hợp dục mặt đối mặt. Bạn

phải nói cái gì đó, bạn phải cười, bạn phải nói tạm biệt,

bạn phải nói lâu thế. Bằng không thì kết thúc bất ngờ

và thoát đi có vẻ thô thiển thế! Bởi vì các bạn đang đối

diện với nhau, bạn phải có chút ít lịch sự, chút ít văn

hoá, chút ít lễ phép. Bạn phải cư xử theo cách thức nào

đó; bạn không thể thô lỗ được.

Con vật không đối diện lẫn nhau trong khi làm tình

cho nên chúng không đương đầu, chúng không nhìn

vào mắt nhau. Đó là quá trình sinh học đơn giản và

chúng gần như bị ép buộc bởi sinh học của chúng, bởi

hooc môn của chúng, để trải qua điều đó. Chúng trải

qua điều đó, chúng bị lôi qua điều đó như kẻ nô lệ. Và

cùng điều đó là tình huống cho bạn; chỉ lớp bọc đường

là khác.

Tình bạn là hiện tượng cao hơn. Nó là tình yêu

thuần khiết; nó chẳng liên quan gì tới sinh học của

bạn. Tình yêu - tình yêu thường - có thể được giải

thích qua sinh học, nhưng tình bạn không thể được giải

thích. Nó là điều huyền bí. Tình bạn giống như hương

thơm; tình yêu là thô, bởi vì tính dục của nó, bởi vì

nguồn gốc của nó. Nó hơi nặng chút ít. Nó vận hành

dưới luật hấp dẫn: nó cứ kéo xuống, nó không có cánh.

Tình bạn có cánh. Nó là phi sinh học; nó làm cho bạn

thực sự là con người, nó giúp bạn siêu việt lên trên tính

con vật của bạn.

Phật ca ngợi tình bạn, tính bạn, rất cao. Ông ấy

thậm chí đã chọn rằng khi ông ấy quay lại lần nữa tên

ông ấy sẽ là Maitreya (Di Lặc) - người bạn. Ông ấy

phải đã yêu thế giới này lắm. Tôi không nghĩ ông ấy sẽ

tới lần nữa hay ai đó đã bao giờ tới lần nữa. Thượng đế

chưa bao giờ phạm cùng sai lầm lặp lại, nhớ lấy! Một

lần là quá đủ rồi, hai lần sẽ là quá nhiều. Nhưng ông ấy

phải đã yêu thế giới này nhiều tới mức ông ấy nói,

"Lần sau, nếu ta mà tới, tên ta sẽ là Maitreya - người

bạn." Từ này hàm chứa toàn thể triết lí của ông ấy.

Ông ấy nói: Có bạn ... là điều dễ chịu.

Tại sao điều đó là dễ chịu? - bởi vì với bạn bè, mối

quan hệ của bạn không mang tính vật lí, nó thậm chí

không mang tính tâm lí; nó là giao cảm tâm linh. Với

người bạn, bạn có thể ngồi trong im lặng. Khi bạn ở

cùng với người yêu của mình, bạn không thể ngồi

trong im lặng được; im lặng có vẻ vụng về. Người đàn

bà sẽ nghĩ, "Sao anh im lặng? Anh giận hay cái gì

thế?" Và nếu cô ấy im lặng, bạn sẽ nghĩ điều gì đó sai -

cô ấy đang hờn dỗi. Sao cô ấy im lặng thế? Im lặng trở

thành nặng nề, gánh nặng; nó phải được loại bỏ.

Cho nên mọi người cứ nói, dù điều đó có cần hay

không. Họ cứ nói về bất kì cái gì.

Mulla Nasruddin đã từ một làng tới gặp tôi trong

chiếc xe bò của anh ta, cùng con chó của anh ta. Trời

quá nóng, chiều hè, và bỗng nhiên anh ta ngạc nhiên là

con chó nói, "Trời nóng quá."

Anh ta nhìn quanh; chẳng có ai cả, chỉ mỗi con

chó của anh ta. Anh ta nói với với con bò đực, "Mày

có nghe thấy không? Mày có nghe thấy cái gì vừa xảy

ra không?"

Và con bò đực nói, "Có chứ, nó cũng giống như

bất kì ai khác thôi - bao giờ cũng nói về thời tiết và

chẳng làm gì cả."

Nếu mọi người không có gì khác để nói, họ nói về

thời tiết. Bất kì cái gì cũng có tác dụng, cứ việc nói.

Theo một cách nào đó, việc nói giữ cho bạn được gắn

nối. Thực ra, nó giữ bạn không được gắn nối đấy. Nó

không phải là chiếc cầu; hiếm khi nó là chiếc cầu. Nó

là chiếc cầu chỉ giữa thầy và đệ tử; ngoài ra nó không

phải là chiếc cầu. Khi thầy nói ra từ im lặng của mình

và đệ tử lắng nghe từ im lặng của mình, đó là chiếc

cầu. Bằng không đó là bức tường, bức Trường Thành

Trung Quốc.

Những người yêu đều đối diện nhau. Họ phải nói

điều gì đó; bằng không im lặng trở thành vụng về, bối

rối. Bạn bè không đối diện với nhau theo cách đó. Họ

đối diện với cái gì đó - có thể mặt trời lặn, con chim

tung cánh, đám mây trắng đẹp. Cầm tay nhau, ngồi

cạnh nhau, họ đối diện với cái gì đó khác. Họ cả hai

đều cùng đối diện với cái gì đó khác. Họ đang trong

một loại giao cảm sâu sắc, họ là một. Trái tim họ đang

đập trong hài hoà. Những người bạn thực ngồi cùng

nhau sẽ thấy rằng tim họ bắt đầu đập theo cùng một

cách. Họ thậm chí bắt đầu thở trong hài hoà; khi người

này thở ra, người kia thở ra. Điều này xảy ra theo cách

riêng của nó; đó là sự đồng bộ. Khi bạn cảm trong giao

cảm, điều này xảy ra.

Điều này xảy ra ở đây mọi ngày. Khi bạn đang

trong giao cảm với tôi điều đó xảy ra.

Nhiều sannyasin viết cho tôi, "Thưa Thầy kính

yêu, làm sao điều đó xảy ra? Ngay trước khi thầy nói

điều gì đó chúng tôi biết thầy sắp nói điều này. Điều

đó rõ ràng thế và thế rồi thầy nói nó." Điều đó xảy ra

bởi vì giao cảm sâu sắc. Khi nó nảy sinh trong bản thể

tôi, nó bắt đầu nảy sinh trong bản thể bạn.

Do đó điều tối thượng giữa thầy và đệ tử là im

lặng, ngồi cùng nhau. Không cần nói cái gì cả. Bất kì

cái gì xảy ra trong bản thể thầy cũng bắt đầu xảy ra

trong bản thể đệ tử. Đệ tử bắt đầu phản xạ thầy như

tấm gương.

Trên qui mô nhỏ hơn cùng điều đó xảy ra với bạn

bè. Nhưng với bạn bè Phật không ngụ ý quen thuộc.

Với bạn bè ông ấy ngụ ý tình yêu đã vượt ra ngoài tính

dục, tình yêu đã vượt ra ngoài sinh học, tình yêu đã

siêu việt lên trên tự nhiên thông thường, siêu việt lên

trên lực hấp dẫn và đã trở thành một phần của luật cao

hơn về duyên dáng.

Có bạn là điều dễ chịu và chia sẻ hạnh phúc....

Bạn có thể chia sẻ hạnh phúc của mình chỉ với bạn

bè. Việc chia sẻ là có thể chỉ khi hai trái tim mở ra cho

nhau; chỉ trong tin cậy sâu sắc bạn mới có thể mở ra

cho người kia. Trong sợ hãi bạn bị đóng lại, trong nghi

ngờ bạn bị đóng lại. Bạn cảnh giác. Bạn sợ người khác

có thể là mối nguy hiểm nào đó với bạn, người khác có

thể gây hại nào đó. Bạn không mong manh khi bạn sợ.

Chỉ với bạn bè, bạn mới có thể mong manh, cởi mở,

sẵn có. Thế thì việc chia sẻ là có thể. Và việc chia sẻ là

một trong những phẩm chất tâm linh vĩ đại nhất.

Phép màu là ở chỗ bạn càng chia sẻ phúc lạc của

mình bạn càng có nó nhiều hơn. Bạn càng chia sẻ, nó

càng tới với bạn nhiều hơn. Bạn càng chia sẻ, bạn càng

trở nên nhận biết về cội nguồn không cạn bên trong

bản thân mình.

Hạnh phúc là lớn lao trong bản thân nó, nhưng

chia sẻ làm cho nó cực kì giầu có, giầu có đa chiều.

Nếu một người là kẻ keo kiệt về hạnh phúc của mình,

người đó sẽ giết chết nó. Tích trữ hạnh phúc của bạn là

phá huỷ nó; lan toả nó xa và rộng là giúp nó lớn lên

ngày càng nhiều hơn. Keo kiệt là rất nguy hiểm khi có

liên quan tới phúc lạc.

Nhưng bạn sẽ chia sẻ với ai nếu bạn không có bạn

bè, nếu bạn không biết nghệ thuật là bạn? Nếu bạn biết

nghệ thuật là bạn, bạn có thể chia sẻ với nhiều người

nhất có thể được, với nhiều con vật nhất có thể được,

với nhiều cây cối nhất có thể được. Bạn có thể chia sẻ

mọi khoảnh khắc của cuộc sống của bạn bởi vì bạn bao

giờ cũng ở cùng ai đó. Bạn có thể chia sẻ nó với mặt

trời, với mặt trăng, với các vì sao. Không khoảng cách

nào ngăn cản. Bạn có thể chia sẻ phúc lạc của bạn với

người bạn ở xa, xa xăm, xa cách cả nghìn dặm với bạn.

Trong khoảnh khắc đó của việc chia sẻ, khoảng cách

biến mất, thời gian biến mất. Không có lỗ hổng thời

gian, không có lỗ hổng không gian. Bạn bỗng nhiên

cùng nhau. Bạn thậm chí có thể chia sẻ với những

người bạn không còn sống nữa. Trong giao cảm sâu

sắc họ trở thành sẵn có cho bạn, phi vật lí.

và làm cái gì đó tốt lành

trước khi rời khỏi cuộc sống này là điều dễ chịu,

và buông bỏ nỗi buồn.

Tình bạn là tốt, nó là đức hạnh. Chia sẻ niềm vui

của bạn là tốt, nó là đức hạnh lớn lao. Thực ra, mọi

đức hạnh khác đều là sản phẩm phụ của chia sẻ phúc

lạc của bạn. Chia sẻ là chính nền tảng, cội nguồn. Chia

sẻ chân lí của bạn, chia sẻ thiền của bạn, chia sẻ tình

yêu của bạn. Chia sẻ bất kì cái gì đẹp bên trong nảy

sinh trong bạn, bất kì cái gì rạng ngời bên trong nảy

sinh trong bạn. Chia sẻ ngọn lửa bên trong của bạn và

không bao giờ là kẻ keo kiệt, và bạn sẽ trở nên ngày

một giầu có hơn và không có chấm dứt cho sự giầu có

đó.

Trong thế giới thông thường chia sẻ sẽ làm cho

bạn nghèo đi. Nếu bạn chia sẻ tiền bạc, bạn sẽ thành

nghèo. Bạn phải là kẻ tích trữ, bạn phải keo kiệt.

Trong thế giới bên trong chính điều ngược lại mới là

hoàn cảnh: tích trữ, và bạn sẽ mất; chia sẻ, và bạn sẽ

có nó.

Trong thế giới bên trong một luật khác biệt toàn bộ

tồn tại. Ở đó bạn có thể có cái bánh và bạn có thể ăn

nó nữa. Và sẽ là tốt hơn nếu bạn không ăn nó một

mình, nếu bạn mời bạn bè mình cùng ăn với bạn.

Và làm cái gì đó tốt lành.... Phật ngụ ý gì bởi "cái

gì đó tốt lành"? Phật bao giờ cũng nhấn mạnh rằng

hành động vô ý thức là xấu và hành động có ý thức là

tốt. Bạn có thể làm cái gì đó có vẻ tốt, nhưng nếu bạn

vô ý thức, điều đó không thể là tốt được. Ý định của

bạn là tốt, nhưng hành động và hậu quả của nó sẽ xấu.

Chẳng hạn, mới hôm nọ ai đó đã hỏi, "Tôi muốn

thôi hút thuốc. Tôi phải làm gì? Thầy nói gì về điều

đó?" Bây giờ, người đó đang hỏi một câu hỏi đơn giản.

Bạn có thể hỏi cùng câu hỏi với bất kì cái gọi là thánh

nhân của bạn - người Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki

tô giáo, Jaina giáo, Phật giáo - và họ tất cả đều nói,

"Thôi hút ngay lập tức! Hút thuốc là xấu." Nhưng tôi

không thể nói điều đó theo cách đó được. Tôi có thể

nói với bạn, "Trở nên ý thức nhiều hơn đi. Nếu ý thức

của bạn thay đổi, cái gì đó trong bạn và trong việc hút

thuốc biến mất, tốt; bằng không, xin cứ tiếp tục hút

thuốc." Tại sao?

Adolf Hitler chưa bao giờ hút thuốc, nhưng tôi

không thể gọi ông ta là người đức hạnh được. Ông ta

bao giờ cũng thức dậy trước khi mặt trời mọc -

brahmamuhurt. Ở Ấn Độ điều này là điều phải làm đối

với thánh nhân. Brahmamuhurt nghĩa là khoảnh khắc

của Thượng đế - cứ dường như các khoảnh khắc khác

là của quỉ và chỉ vài khoảnh khắc trước khi mặt trời

mọc mới là của Thượng đế! Dậy sớm buổi sáng trước

khi mặt trời mọc được coi là rất tôn giáo. Và nếu bạn

ngủ muộn và dậy lúc chín hay mười giờ, chắc chắn

bạn là tội nhân.

Adolf Hitler là người rất tôn giáo, nếu đây là điều

tôn giáo là gì - dậy sớm. Và ông ta đi ngủ cũng rất

sớm. Ông ta không phải là người hút thuốc, ông ta

không phải là người uống rượu.

Theo nghĩa đó, Jesus còn kém tôn giáo hơn Adolf

Hitler. Ông ấy thích uống rượu, ông ấy thích rượu

ngon. Ông ấy thích nhiều tới mức có lần ông ấy đã

biến cả biển thành rượu, bạn biết đấy! Bây giờ, Jesus

này là loại người tôn giáo gì vậy? Ông ấy thích ăn

cùng bạn bè, mời bạn bè. Ông ấy bao giờ cũng trong

tâm trạng hội hè.

Adolf Hitler thường ăn một mình. Ông ta là con

chó hoàn hảo! Chó ăn một mình. Cho dù bạn chỉ nhìn

chúng cũng sẽ xoay lưng vào bạn, sợ bạn có thể cướp

mất thức ăn của chúng hay cái gì đó. Con chó khác nào

đó có thể tới và bắt đầu sủa và đánh nhau có thể bắt

đầu. Chúng không thể mời ai được. Chó không tin vào

đoàn toán! Chúng là những kẻ thui thủi một mình, rất

có tính thiền! Chúng ăn một mình. Và tất nhiên chúng

ăn rất im lặng, không nói chuyện. Và chúng ăn nhanh

và lẹ; chúng không phí thời gian. Adolf Hitler làm

cùng điều đó. Ông ta cũng sợ mọi người, hệt như chó.

Người ta nói rằng ông ta đã không có lấy một

người bạn trong cả nước Đức. Và Phật nói: Có bạn

hữu. Có bạn bè thật dễ chịu. Ông ta không có bạn bởi

vì ông ta sợ mọi người, nghi ngờ tới mức ông ta không

thể đảm đương được tình bạn. Có tình bạn nghĩa là có

sự thân thiết. Có tình bạn nghĩa là sẵn có cho người

khác. Có tình bạn nghĩa là tin cậy vào người khác.

Ông ta chưa bao giờ lấy vợ trong cả đời mình. Ông

ta lấy vợ chỉ vào chính lúc cuối cùng, chỉ ba giờ trước

khi ông ta tự tử. Khi điều được quyết định tuyệt đối là

ông ta sẽ tự tử, ông ta mới gọi tu sĩ tới và lấy vợ, để

cho ít nhất trong cái chết ông ta có thể có một bạn

đồng hành. Người đàn bà này cũng phải tự tử cùng ông

ta. Cuộc hôn nhân lạ lùng! Sao ông ta đã né tránh hôn

nhân trong cả đời mình? - bởi lí do đơn giản là ông ta

không chắc có nên cho phép người đàn bà ở cùng

phòng trong đêm khi ông ta ngủ không. Ai mà biết

được? - cô ấy có thể cắt cổ bạn, giết bạn, đầu độc bạn.

Bạn có thể thốt ra bí mật gì đó trong giấc ngủ của

mình; cô ấy có thể nghe thấy điều đó. Cô ấy có thể mở

thư của bạn. Đàn bà được biết tới đã làm những điều

như vậy, người ta biết rõ, thực sự. Thực ra, rất khó có

được bức thư của bạn mà nó không bị người đàn bà

của bạn đọc; cô ấy nhất định đọc nó.

Vợ Mulla Nasruddin tranh cãi với anh ta. "Phải

làm cái gì đó chứ - anh phải viết thư cho mẹ anh. Mẹ

rất độc ác và thô lỗ với em."

Nasruddin nói, "Nhưng mẹ ở xa cả nghìn dặm.

Làm sao mẹ bỗng nhiên độc ác và thô lỗ với em

được?"

Cô vợ nói, "Vâng, mẹ thế đấy. Anh xem thư đấy!"

Trong bức thư có một chỗ tái bút. Bức thư được

viết cho Nasruddin và phần tái bút cho vợ Nasruddin,

"Con ơi, sau khi con đã đọc thư, xin con hãy đưa bức

thư này cho con ta!"

Đàn bà đều biết lẫn nhau!

Adolf Hitler rất sợ lấy vợ. Ông ấy vẫn còn độc

thân, một brahmachari, người sống một mình. Bây giờ,

bạn cần phẩm chất tôn giáo nào hơn nữa trong vị thánh

đây? - không hút thuốc, không uống rượu, không vợ,

không bạn bè. Ông ấy sống cuộc sống của sư!

Nhưng cảm giác của tôi là, nếu ông ta hút thuốc

một chút, nếu ông ta thỉnh thoảng uống rượu, rơi vào

vòng tay người đàn bà nào đó, yêu ai đó, có vài người

bạn, chơi cờ hay đánh bạc một chút ít, ông ta chắc đã

mang tính người hơn và thế giới chắc đã được cứu

khỏi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng ông ta

đã trở thành gần như đá.

Bạn có thể làm những điều tốt, nhưng nếu bạn

không ý thức thì điều tốt của bạn nhất định gây kết quả

trong cái gì đó tai hoạ.

Ở Manhattan, một cảnh sát đi dạo buổi sáng qua

con đường thường lệ, dừng lại trước khu ở của người

giầu miền Đông tám mươi. Đang ngồi lom khom là

Millarney, đang ở tình trạng rất khó khăn.

"Sao ông không về nhà?" viên cảnh sát gợi ý.

"Tôi sống ở đây," Millarney nói.

"Sao ông không đi vào trong nhà?"

"Tôi làm mất chìa khoá rồi," người say trả lời.

"Sao ông không bấm chuông?"

"Tôi bấm chứ, một giờ trước đây rồi."

"Sao ông không bấm lại?" viên sĩ quan hỏi.

"Lũ chết tiệt ấy!" Millarney khụt khịt. "Cứ để cho

chúng đợi!"

Nhân loại thông thường thực sự trong trạng thái

ngẩn ngơ. Mọi người đều ngủ. Không cần là người

say, mọi người đều đã say rồi. Một cách tự nhiên

chúng ta không được sinh ra có ý thức, chúng ta được

sinh ra vô ý thức, và thế rồi chúng ta cứ trở nên ngày

một vô ý thức hơn trong cuộc sống - bởi vì chúng ta vô

ý thức, chúng ta muốn vô ý thức hơn. Điều đó dường

như là tự nhiên, nó khớp với chúng ta. Có ý thức

dường như là nhiệm vụ rất gian nan.

Do đó mới có hấp dẫn mênh mông tới rượu cồn

hay các ma tuý khác. Vào thời của Veda mãi cho tới

nay điều đó đã từng vẫn là vậy. Veda ca ngợi somaras

nhiều lắm. Somaras dường như là cái gì đó giống cần

sa, LSD, psilocybin, cái gì đó giống như thế. Nó vẫn

chưa được phát hiện ra đích xác là gì, nhưng dù nó là

bất kì cái gì, nó vẫn là một trong những ma tuý hoàn

hảo nhất.

Aldous Huxley, một trong những người trí thức

nhất, triết lí nhất, một học giả lớn, đã gọi LSD hoàn

hảo là "soma." Ông ấy nói rằng trong thế kỉ thứ hai

mươi mốt chúng ta sẽ đạt tới sự hoàn hảo đó. Từ Veda

tới Aldous Huxley, ma tuý đã từng là nỗi ám ảnh cho

nhân loại, bởi lẽ đơn giản là chúng ta được sinh ra vô ý

thức và các vấn đề của cuộc sống, những lo âu của

cuộc sống, những nguy hiểm của cuộc sống, làm cho

chúng ta đôi khi có ý thức. Chúng đánh thức chúng ta

khỏi giấc ngủ say của mình, giấc ngủ sâu, chúng quấy

rối giấc ngủ. Cho nên chúng ta cần thêm ma tuý, ngày

càng cần thêm ma tuý, để vẫn còn không bị quấy rối

trong vô ý thức của mình. Và từ vô ý thức đó chúng ta

hành động, chúng ta sống cuộc sống của mình.

Một sáng Ferguson và Malone quyết định đi săn.

"Nghe đây," Ferguson nói, "Tớ sẽ đem tất cả súng

đi còn cậu đem mọi thứ lương thực nhé."

"Được," Malone nói.

Sáng hôm sau khi họ gặp nhau, Ferguson chất đầy

súng và đạn. Malone mang một ổ bánh mì và sáu chai

whisky.

Ferguson ném súng của mình xuống. "Xem điều gì

xảy ra khi tớ để các thứ lương thực cho cậu!" anh ta la

lên. "Có mỗi một ổ bánh mì và sáu chai whisky!

Chúng ta làm cái chết tiệt gì với ổ bánh mì đó?"

Khi Phật nói, Và làm cái gì đó tốt lành, ông ấy ngụ

ý khi bạn làm cái gì đó một cách có ý thức. Bạn không

thể làm cái gì đó xấu một cách có ý thức được; điều đó

là không thể được. Làm bất kì cái gì xấu một cách có ý

thức là không thể được cũng như làm điều tốt một cách

vô ý thức là không thể được.

Trước khi rời khỏi cuộc sống này hãy có ý thức,

hành động từ ý thức của bạn, để cho bạn có thể làm

đẹp sự tồn tại này thêm một chút, để cho bạn có thể hát

lên bài ca nhỏ bé, để cho bạn có thể nhảy điệu múa

nhỏ, để cho thế giới được làm giầu lên, để cho bạn có

thể có tính sáng tạo hơn chút ít, để cho thế giới này

thiêng liêng thêm chút ít so với nó đã vậy trước khi

bạn bước vào nó. Đóng góp thêm cái gì đó cho nó đi.

Đừng chỉ là sự phí hoài.

Và buông bỏ nỗi buồn. Mọi người nghĩ nỗi buồn

bám theo bạn; điều đó là hoàn toàn vô nghĩa. Bạn đang

níu bám lấy buồn, bởi vì bạn đã đầu tư nhiều thế vào

buồn. Đầu tư lớn nhất của bạn là bản ngã của bạn. Khi

bạn buồn, khi bạn khổ, bản ngã của bạn có thể được

nuôi dưỡng trên những ốm yếu, bệnh tật này. Bản ngã

có thể giữ cho nó sống chỉ qua những bệnh hoạn này;

bản ngã sống trên chúng.

Khi bạn phúc lạc, thực sự được phúc lạc, bản ngã

biến mất. Bạn có đó, nhưng không có bản ngã, không

ý tưởng về cái tôi, không ý tưởng về tách rời. Trong

phúc lạc có sự hội nhập với cái toàn thể; trong khổ sở

bạn một mình và tách rời. Khổ làm cho bạn thành hòn

đảo còn phúc lạc lấy đi mọi biên giới khỏi bạn. Trong

phúc lạc, dòng sông biến mất vào đại dương. Và chúng

ta rất sợ biến mất như bản ngã. Chúng ta muốn giữ căn

cước của mình nguyên vẹn.

Mulla Nasruddin bắt gặp một cậu bé đang ngồi

trong hang động khóc lóc to. "Con trai ơi, đừng khóc

như thế," Mulla nói.

Đứa bé nói, "Bác nghe cháu đây, bác khóc theo

cách của bác, cháu khóc theo cách của cháu."

Nỗi buồn có cái gì đó rất cá nhân trong nó; phúc

lạc là vô nhân tính. Khổ của bạn là khổ của bạn; nó

xác định bạn. Nó không phải là khổ của bất kì ai khác,

nó đặc biệt là của bạn; nó cho bạn tính duy nhất nào

đó. Nhưng phúc lạc thì sao? Phúc lạc là phổ quát.

Do đó Phật, Jesus, Krishna, Lão Tử, những người

này đã biến mất vào trong phúc lạc. Họ không có cá

tính nào. Họ không là cá thể, họ là vô thực thể. Họ cực

kì sống động, nhưng họ không tách rời khỏi cái toàn

thể. Họ đã cho phép cái toàn thể sống qua họ.

Phật nói: Và buông bỏ nỗi buồn.

Xin quan sát cách bạn níu bám lấy nỗi buồn của

mình, nỗi khổ của mình. Vứt nó đi, buông bỏ nó đi! Và

cuộc sống của bạn sẽ có sự dễ chịu lớn lao.

Là người mẹ là dễ chịu,

và người bố.

Thật dễ chịu khi sống gian truân,

và làm chủ bản thân mình.

Là người mẹ là dễ chịu.... Tại sao? Chỉ cho việc

sinh ra đứa trẻ thì không phải là mẹ, nhớ lấy. Bằng

không thì có hàng triệu người mẹ trên trái đất - và

dường như chẳng có dễ chịu gì. Thực ra, nếu bạn hỏi

nhà tâm lí họ sẽ nói chính điều đối lập lại. Họ sẽ nói

vấn đề duy nhất cần được giải quyết là người mẹ.

Bệnh duy nhất mà hàng triệu người đang mắc phải là

người mẹ. Và điều họ nói đó, họ nói sau năm mươi,

sáu mươi năm phân tích thường xuyên hàng nghìn

người. Bệnh của mọi người về căn bản đều đi tới một

điểm: rằng nó đã được trao cho bạn, được truyền cho

bạn qua mẹ bạn.

Có những người sợ đàn bà; và nếu bạn sợ đàn bà

bạn không thể yêu họ được. Làm sao yêu có thể nảy

sinh từ sợ? Và tại sao bạn sợ đàn bà? - bởi vì thời thơ

ấu của bạn đã được sống trong nỗi sợ mẹ bạn. Bà ấy

thường xuyên theo bạn, thường xuyên gõ búa vào bạn.

Bà ấy thường xuyên bảo bạn làm cái này và không làm

cái kia - tất nhiên, vì điều tốt của riêng bạn thôi. Bà ấy

đã làm què quặt bạn, bà ấy đã phá huỷ nhiều thứ trong

bạn. Bà ấy đã làm cho bạn thành giả bởi vì bà ấy đã

bảo bạn cái gì đúng phải làm. Dù bạn thích điều đó

hay không, dù điều đó nảy sinh tự phát trong bạn hay

không, bạn phải tuân theo mệnh lệnh này. Và bạn bất

lực thế... sự sống còn của bạn tuỳ thuộc vào người mẹ

cho nên bạn phải nghe bà ấy. Bà ấy ước định bạn. Và

chính bởi vì nỗi sợ mẹ bạn mà bạn sợ đàn bà.

Hàng triệu ông chồng sợ vợ bởi lẽ đơn giản là mẹ

họ quá mạnh. Điều đó chẳng liên quan gì tới vợ cả; họ

đơn giản phóng chiếu người mẹ lên vợ. Vợ chỉ là ấn

bản mới của mẹ. Họ mong đợi mọi thứ từ vợ mà họ đã

mong đợi từ mẹ. Một mặt điều đó làm què quặt họ;

mặt khác họ bắt đầu mong đợi những điều không thể

có được từ phía vợ - bởi vì cô ấy không phải là mẹ

bạn. Cho nên bạn cảm thấy thất vọng. Và làm sao bạn

có thể làm tình với vợ bạn được?

Con trai đã thực sự bị mẹ mình chi phối, đã bị co

rút lại trong vâng lời tuyệt đối, sẽ không có khả năng

làm tình với người đàn bà, bởi vì khi anh ta tới gần đàn

bà, về mặt tâm lí anh ta sẽ thành bất lực. Làm sao bạn

có thể làm tình với mẹ bạn được? Điều đó là không thể

được.

Do đó nhiều người trở nên bất lực với vợ họ,

nhưng chỉ với vợ họ thôi. Với gái mãi dâm họ không

bất lực. Điều đó là lạ: tại sao họ không bất lực với gái

mãi dâm? - bởi lẽ đơn giản là họ không thể nghĩ được

về mẹ họ như gái mãi dâm; điều đó là không thể được.

Mẹ họ, mà là gái mãi dâm sao? Mãi dâm là thế giới

tách rời. Nhưng họ có thể nghĩ vợ họ như mẹ, họ có

thể phóng chiếu người mẹ. Vợ đơn giản trở thành màn

ảnh. Họ muốn vợ chăm sóc cho họ như đứa trẻ nhỏ, và

nếu cô ấy không chăm sóc họ cảm thấy bị xúc phạm.

Hàng nghìn người thần kinh và người tâm thần có

đó trên thế giới này bởi vì người mẹ. Và Phật nói:

người mẹ là dễ chịu. Ông ấy phải ngụ ý cái gì đó khác.

Ông ấy không thể ngụ ý người mẹ Do Thái được! Ông

ấy ngụ ý không chỉ cho sinh ra trẻ con; điều đó không

tạo ra người mẹ. Có tính mẹ là hiện tượng hoàn toàn

khác. Nó là cái gì đó tuyệt đối con người; nó siêu việt

lên trên tính con vật. Nó chẳng liên quan gì tới sinh

học. Nó là tình yêu, tình yêu thuần khiết, tình yêu vô

điều kiện.

Khi người mẹ yêu vô điều kiện - và chỉ người mẹ

mới có thể yêu vô điều kiện được - đứa trẻ học niềm

vui của tình yêu vô điều kiện. Đứa trẻ trở nên có khả

năng yêu vô điều kiện. Và có khả năng yêu vô điều

kiện là có tính tôn giáo.

Và đó là điều dễ nhất cho người đàn bà làm. Nó là

dễ cho cô ấy bởi vì một cách tự nhiên cô ấy sẵn sàng

cho điều đó. Cô ấy ở ngay bên bờ của siêu việt lên trên

sinh học qua việc là người mẹ. Bạn có thể có tính mẹ

mà không sinh con. Bạn có thể có tính mẹ với bất kì ai.

Bạn có thể có tính mẹ với con vật, với cây cối. Bạn có

thể có tính mẹ với bất kì cái gì. Nó là cái gì đó bên

trong bạn.

Có tính mẹ nghĩa là có khả năng yêu vô điều kiện,

yêu một người vì niềm vui vô cùng của việc yêu, giúp

đỡ người này trưởng thành vì niềm vui vô cùng của

việc thấy ai đó trưởng thành.

Nhà trị liệu thực là người mẹ. Nếu người đó không

là vậy, người đó không phải là nhà trị liệu thực. Người

đó chỉ là nhà chuyên môn đang khai thác mọi người,

khai thác họ bởi vì khổ của họ. Nhưng nhà trị liệu thực

là người mẹ. Ông ấy trở thành bụng mẹ cho bệnh nhân.

Ông ấy cho bệnh nhân sự sinh thành mới. Ông ấy bắt

đầu lại cuộc sống của bệnh nhân từ ABC. Ông ấy cho

bệnh nhân một trang giấy sạch để viết lại cuộc sống

của người đó.

Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói "tâm hồn của chư

phật"; đó là trị liệu thực. Thầy là người trị liệu thực;

chính sự hiện diện của thầy mang tính trị tiệu. Thầy

bao quanh bạn như người mẹ. Thầy là đám mây bao

quanh bạn từ mọi nơi, từ mọi phía, theo mọi chiều,

như người mẹ.

Là người mẹ là dễ chịu, và người bố. Là người bố

có chút ít khó khăn hơn. Là người mẹ thì dễ hơn bởi vì

từng người đàn bà được sinh ra về bản chất đã là người

mẹ. Nhưng tính chất bố là thể chế do con người phát

minh ra; do đó rất khó bắt gặp người bố thực. Nhưng

khi bạn bắt gặp người bố thực đó là phép màu. Người

bố thực cũng là người mẹ. Ông ấy được gọi là bố bởi

vì ông ấy là đàn ông, nhưng toàn thể cách tiếp cận của

ông ấy là tình yêu vô điều kiện.

Trong cuộc sống bình thường những người yêu

nhau đang khai thác nhau; đó là khai thác lẫn nhau.

Tình yêu vô điều kiện nghĩa là không có khai thác.

Người kia không được dùng như phương tiện mà được

kính trọng như mục đích là chính người đó.

Cho con bạn tình yêu của bạn, nhưng đừng cho ý

thức hệ của bạn. Đừng làm chúng thành người Cơ đốc

giáo và người cộng sản; điều đó đầu độc chúng. Đừng

làm chúng thành người Hindu giáo và Jaina giáo và

Phật tử; điều đó rất mang tính phá huỷ. Đem cho tình

yêu của bạn, cho nuôi dưỡng yêu thương của bạn, và

cho chúng đủ sức mạnh để truy tìm chúng là ai, thực

tại tất cả là gì. Cho chúng mọi hỗ trợ để chúng có thể

đi vào trong cuộc sống với tâm linh phiêu lưu. Thế thì

bạn đang giúp chúng; thế thì bạn thực sự giáo dục

chúng. Bình thường, bất kì cái gì tồn tại nhân danh

giáo dục đều không là gì ngoài giáo dục sai.

Giáo dục thực giúp cho người ta là chính bản thân

mình. Điều đó là có thể chỉ nếu bạn yêu một người chỉ

vì người đó thôi, không vì động cơ nào khác. Nếu có

động cơ, tình yêu của bạn bị ô nhiễm. Thế thì bạn

không là người bố thực hay người mẹ thực.

Thật dễ chịu khi sống gian truân,

và làm chủ bản thân mình.

Cuộc sống về căn bản không an ninh. Chỉ cái chết

mới an ninh. Bảo hiểm cuộc sống là mâu thuẫn về

thuật ngữ; chỉ có thể có bảo hiểm cái chết. Cuộc sống

là cuộc phiêu lưu, không dự kiến được. Do đó người ta

phải sống nó một cách gian khổ. Cuộc sống là nguy

hiểm; chỉ cái chết mới an toàn. Cho nên những người

muốn sống an toàn thì chết trước cái chết của họ, còn

người muốn sống không nguy hiểm nào thì không

sống chút nào.

Sống nghĩa là nguy hiểm, sống nghĩa là may rủi.

Sống nghĩa là bao giờ cũng đi từ cái biết tới cái không

biết, từ đỉnh này sang đỉnh khác, bao giờ cũng trèo lên

các đỉnh chưa từng được ai trèo lên trước đây, bao giờ

cũng đi vào trong biển cả còn chưa được thăm dò mà

không có bản đồ, không hướng dẫn. Chỉ thế thì bạn

sống mới cực lạc, và chỉ thế thì bạn mới biết sống là

gì. Qua việc sống một cách hiểm nguy người ta trở nên

được tích hợp. Qua việc sống cuộc sống của bất an

ninh người ta trải qua thử lửa và trở thành vàng ròng.

Cách duy nhất để trở thành người chủ của bản thân

mình là đi vào cái không biết, không sợ hay mặc cho

tất cả mọi sợ hãi. Phật mời bạn vào cuộc sống gian

truân. Đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì.

"Xin chào, xin chào anh cảnh sát. Xin anh tới mau.

Có một con mèo đen lớn đang đi tới tôi. Nhanh lên! tôi

sợ quá."

Viên cảnh sát đáp với giọng mệt mỏi, "Bây giờ,

nói tiếp đi! Cô là loại người nào vậy, sợ mèo đen sao?"

"Tôi không phải là người. Tôi là con công."

Rất hiếm khi tìm thấy con người thực. Ngay cả tìm

thấy công cũng rất hiếm hoi. Chỉ toàn chuột, chuột

trắng, chuột đen và đủ mọi mầu của chuột! Không phải

ngẫu nhiên mà các nhà tâm lí cứ nghiên cứu chuột để

hiểu người. Kì lạ, cố hiểu chuột để hiểu người! Nhưng

không thực, không thực lạ thế khi điều đó xuất hiện,

bởi vì đại đa số người đều sống như chuột.

Tâm lí học của Pavlov dựa trên nghiên cứu về chó,

còn tâm lí học của Skinner dựa trên nghiên cứu về

chuột. Và cả hai đều hoàn toàn đúng khi có liên quan

tới đa số nhân loại. Chỉ thỉnh thoảng họ mới có thể

không đúng. Nếu họ thử áp dụng tâm lí của họ cho vị

phật, họ có thể không đúng, nhưng khi có liên quan tới

nhân loại thông thường họ hoàn toàn đúng. Điều gì đã

xảy ra cho con người? Con người đã đánh mất mọi

nghĩa và ý nghĩa vì lí do đơn giản là con người đã trở

thành sinh linh rất hèn nhát. Con người sống theo cách

hèn nhát thế, con người sợ bất kì cái gì mới.

Tôi biết những người đã từng nghe tôi trong nhiều

năm - mười năm, mười hai năm, mười lăm năm - và họ

cứ nói với tôi, "Chúng tôi muốn trở thành sannyasin,

nhưng chúng tôi vẫn còn đang nghĩ." Và họ cứ tìm ra

các cớ, khi thì cớ này, khi thì cớ khác. Họ yêu tôi,

nhưng họ không đủ dũng cảm để tuyên bố điều đó. Họ

che giấu sự kiện này. Họ không dũng cảm đi vào trong

chiều không biết này của tính chất sannyas. Họ yêu tôi

cho nên họ nghe tôi, và họ yêu tôi nên đôi khi họ nghĩ

rằng một ngày nào đó họ sẽ trở thành sannyasins,

nhưng họ cứ tìm cớ để trì hoãn điều đó.

Chính bởi vì hèn nhát này mà con người đã đánh

mất tất cả nghĩa và ý nghĩa. Mọi niềm vui, mọi phúc

lạc, mọi cực lạc, đều đã biến mất. Con người trông rất

buồn. Cho dù con người cười, tiếng cười của người đó

có vẻ giả tạo, máy móc, giả dối - cái gì đó được trau

chuốt, được quản lí, không tới từ chiều sâu. Nó không

có tính sâu lắng, nó không đúng như nó tới từ trung

tâm. Nó chỉ là nụ cười tô vẽ ở chu vi.

Bạn có biết từ 'phony-giả tạo' đã đi vào sự tồn tại

không? Nó tới bởi vì điện thoại. Khi điện thoại được

phát minh ra và mọi người bắt đầu nghe những người

khác từ xa hàng nghìn dặm qua điện thoại, giọng nói

nghe kì lạ. Nó nhất định phải vậy rồi. Nó là máy móc;

nó không có tính đích thực đó. Và không có ai đằng

sau nó cả; nó tới từ chẳng đâu hết. Do đó mới có từ

'phony-giả tạo'. Bạn mỉm cười, nhưng bạn dường như

không ở sau nó; bạn có thể không có đó chút nào.

Và bây giờ thậm chí một thứ mới đã đi vào sự tồn

tại. Ít nhất trong những ngày xưa bạn còn có thể hình

dung rằng ở phía bên kia phải có ai đó. Bây giờ có thể

chỉ là chiếc máy ghi âm chạy băng nói, "Chào bạn.

Bạn khoẻ không?"

Tôi đã nghe:

Một nhà tâm lí trở nên mệt mỏi với bệnh nhân, mệt

mỏi bởi vì bệnh nhân cứ nói đi nói lại cùng một điều

mãi. Và ông ta giầu tới mức chẳng hi vọng nào gạt bỏ

được ông ta! Thế là nhà tâm lí nói, "Ông làm một điều

đi. Tôi sẽ để lại máy ghi âm của tôi và ông cứ nói với

chiếc máy ghi âm đó. Và bất kì lúc nào tôi có thời gian

tôi sẽ nghe nó."

Người này nói, "Điều đó hoàn toàn được" - bởi vì

nhà tâm lí ngồi sau tấm màn, đặc biệt là các nhà tâm lí

theo trường phái Freud. Bệnh nhân nằm trên trường kỉ

và nhà tâm lí ngồi đằng sau tấm màn. Đó là phương

cách tốt... để cho nhà tâm lí có thể cứ ngủ, có thể đọc

báo, hay thậm chí bỏ đi. Còn bệnh nhân cứ nói, vẫn tin

rằng ông ta đang ở đó. Chỉ thỉnh thoảng ông ta phải

nói, "Hừ. Vâng. Nói tiếp đi," nhưng điều này có thể

được máy ghi âm thực hiện.

Lần sau, phiên sau, và nhà tâm lí nói, "Lần trước

anh đã làm tuyệt vời lắm. Bây giờ máy ghi âm của tôi

đang ở đây. Ông cứ nói với nó đi. Tôi sẽ đi xem buổi

chiếu phim chiều. Khi tôi quay lại tôi sẽ nghe."

Khi ông ta đi ra ngoài ông ta thấy bệnh nhân cũng

bước ra. Ông ta nói, "Ông đi đâu thế?"

Bệnh nhân nói, "Đi xem buổi chiếu phim chiều."

Ông ta nói, "Chuyện gì vậy? Ông không nói cho

máy ghi âm sao?"

Người này nói, "Tôi đã để máy ghi âm của tôi ở đó

rồi. Tôi đã nói mọi thứ vào máy ghi âm của tôi, và máy

ghi âm của tôi đang nói chuyện với máy ghi âm của

ông, cho nên cần gì tôi phải ở đó? Tôi cũng đi xem

phim chiều đây!"

Cuộc sống đã trở thành giả tạo bởi vì chúng ta, bởi

vì chúng ta sống theo cách rất hèn nhát. Chúng ta

không sống một cách gian truân. Chúng ta không cố

gắng trèo lên những núi mới, những đỉnh mới. Chúng

ta không cố gắng thám hiểm. Chúng ta đã trở nên quan

tâm nhiều hơn với thoải mái, với an ninh, an toàn.

Phật nói: Thật dễ chịu khi sống gian truân.

Bạn đã bao giờ tận hưởng việc trèo lên đỉnh núi

chưa? Điều đó thật gian khổ. Bạn vã mồ hôi, thở trở

thành khó khăn, bạn trở nên mệt mỏi. Và thế rồi bạn

lên tới đỉnh đầy ánh mặt trời và thế rồi bạn nằm xuống

bãi cỏ, và thảnh thơi và vui mừng làm sao nảy sinh

trong bản thể bạn! Im lặng của đỉnh núi và việc trèo

gian nan, và bạn đã đạt tới, và niềm vui của việc đạt

tới! Bạn có thể đã được máy bay trực thăng thả xuống,

nhưng thế thì sẽ không có niềm vui. Điều đó chắc chỉ

là sự thuận tiện.

Edmund Hillary có thể lên tới đỉnh Everest bằng

trực thăng - điều đó dễ hơn - nhưng ông ấy đã cố gắng

theo cách gian nan. Và ông ấy viết, "Tôi chưa bao giờ

biết tới phúc lạc thế. Khi tôi lên tới đỉnh tôi có mỗi

một mình thôi, người đầu tiên trên đỉnh Everest."

Không ai đã nhìn bầu trời từ điểm đó, không ai đã nhìn

thế giới từ điểm đó. Đó là cực lạc vô cùng. Ông ấy đã

nhảy múa.

Sớm hay muộn xe bus sẽ đi tới đó và khách sạn sẽ

có đó và rạp chiếu phim, và chỗ đó sẽ trở thành rất

thuận tiện. Nhưng đừng hi vọng rằng bạn sẽ có cùng

cực lạc như Edmund Hillary đã có, mặc dầu bạn sẽ

đứng ở cùng chỗ. Bạn sẽ trông có chút ít xuẩn ngốc và

ngu si, có vậy thôi. Và bạn sẽ không tin được tại sao

Hillary này này đã nhảy múa; bạn không thấy vấn đề

nào. Tất cả xung quanh đều có khách sạn và trung tâm

du lịch và người hướng dẫn và mọi thứ đều có sẵn;

toàn thế giới có đó. Bạn không thấy tại sao ông ấy đã

cười, tại sao ông ấy tận hưởng, tại sao ông ấy nhảy

múa, bởi vì bạn không cảm thấy điệu vũ nào.

Cuộc sống là vui vẻ chỉ khi bạn sống nó thô sơ, khi

bạn sống nó trong mọi hoang dã của nó, khi bạn sống

nó một cách tự nhiên, tự phát. Vâng, nhất định có khó

khăn, nhất định có nguy hiểm, nhưng chúng là một

phần của cuộc sống, và không có chúng cuộc sống sẽ

không là cuộc sống chút nào. Và đây là cách duy nhất

để làm chủ bản thân bạn.

Ôi tận hưởng cuộc sống thật dễ chịu làm sao,

sống trong trung thực và mạnh mẽ!

Những lời kì lạ từ mồm Phật. Chúng hoàn toàn

đúng từ mồm của Zorba người Hi Lạp, nhưng từ mồm

Phật sao? Ôi tận hưởng cuộc sống thật dễ chịu làm

sao, sống trong trung thực và mạnh mẽ!

Mới hôm nọ tôi nhận được bức thư rất giận dữ từ

ai đó đã ở đây trong vài ngày. Anh ta là thủ thư ở

Dharmashala của thư viện của Dalai Lama - phải là

một học giả!

Anh ta viết cho tôi, "Ông đang nói những điều

không có tính phật tử chút nào. Trong kinh Đại thừa,"

anh ta trích dẫn, "kinh Đại thừa nói hoàn hảo và rõ

ràng rằng người ta phải sống cuộc sống theo cách khổ

hạnh. Còn ông lại đang thay đổi toàn thể mầu sắc của

Phật - ông đang làm cho ngài trông cứ như ngài là kẻ

hưởng lạc!"

Tôi chẳng bận tâm về kinh Đại thừa và các kinh

sách, nhưng tôi biết Phật, tôi biết trái tim ông ấy. Tôi

biết không gian đó từ kinh nghiệm của riêng tôi. Tôi

không phải là học giả; thực ra tôi chưa bao giờ đọc

những kinh này trước đây! Mọi ngày tôi đều phải nhìn

chúng và bắt đầu nói với các bạn. Tôi không quan tâm

mấy tới điều Phật đã nói, nhưng tôi biết điều Phật chắc

đã nói. Tôi không thể tin được rằng ông ấy là người bi

quan. Ông ấy tin, tất nhiên, vào một loại cuộc sống

hoàn toàn khác. Ông ấy không tin vào cuộc sống bình

thường, vô ý thức - không trung thực, không đích thực,

không yêu thương, không tính thiền. Ông ấy gọi cuộc

sống đó là khổ, nhưng chỉ một loại cuộc sống nào đó

ông ấy mới gọi là khổ. Cuộc sống thực không thể khổ

được, cuộc sống thực là phúc lạc.

Ôi tận hưởng cuộc sống thật dễ chịu làm sao, sống

trong trung thực và mạnh mẽ!

Chúng ta đã quên tất cả về trung thực. Từ sợ hãi

chúng ta đã trở thành không trung thực, từ sợ hãi

chúng ta đã trở thành giả dối. Từ sợ hãi chúng ta đi

theo đám đông và trở thành giả tạo. Từ sợ hãi chúng ta

đeo mặt nạ để cho chúng ta có vẻ giống mọi người

khác - và chúng ta không giống mọi người khác. Mọi

người đều duy nhất; không ai giống bất kì ai khác.

Chúng ta đã rơi xuống thấp hơn con vật khi có liên

quan tới trung thực.

Kaflin lập kế hoạch đi nghỉ và đã không biết phải

làm gì với con chó của mình. Anh ta viết cho khách

sạn nơi nghỉ và hỏi liệu chó có được phép tới không.

Anh ta nhận được câu trả lời này từ người quản lí:

"Thưa ngài, tôi đã kinh doanh khách sạn hơn ba mươi

năm nay. Chưa bao giờ tôi phải gọi cảnh sát tới để

tống cổ chó mất trật tự trong vài giờ buổi sáng. Không

chó nào đã từng đi qua tôi mà thiếu nợ tôi. Chưa bao

giờ có chó nào làm ga trải giường cháy vì hút thuốc.

Tôi chưa bao giờ thấy khăn tắm của khách sạn nằm

trong va li của chó nào. Chắc chắc, chó của ông được

đón chào đấy. T.B. Nếu nó xác nhận cho ông, ông có

thể tới nữa."

Tất nhiên, cuộc sống không trung thực không thể

là cuộc sống của phúc lạc được. Bạn nghĩ bạn đang lừa

người khác; bạn đơn giản đang tự phá huỷ bản thân

mình và phá huỷ mọi khả năng trưởng thành, bởi vì

trưởng thành tới qua chân thành, trung thực, đích thực.

Trưởng thành tới qua việc chấp nhận chân lí của bạn

trong sự trần trụi toàn bộ của nó. Và thế thì cuộc sống

chắc chắn là niềm vui, thế thì cuộc sống chắc chắn là

phúc lạc.

Nhưng bạn không thể mong đợi cái gì khác từ học

giả. Học giả nhất định ngu xuẩn, bằng không sao

người đó lại là học giả ngay chỗ đầu tiên? Người thông

minh sẽ tìm và kiếm chân lí. Người đó sẽ không bận

tâm về lời kinh và kinh sách Đại thừa. Tôi không có

kính trọng nào với uyên bác.

Và người này đã trở nên rất bị rối loạn, nhiều tới

mức anh ta đã bỏ đi. Nếu như anh ta mà ở đây tôi đã

gõ búa vào anh ta thêm chút nữa, nhưng tôi đã nhận

được thư của anh ta chỉ mới hôm nọ khi anh ta đã đi.

Tôi hi vọng rằng thỉnh thoảng anh ta sẽ lại tới, bởi vì

với tôi không gian của Phật là không gian hoàn toàn

khác với điều các học giả Phật giáo nghĩ nó là vậy.

Anh ta nói, "Bất kì điều gì ông nói cũng đều phi

logic và ngược lại kinh sách." Đến thế là tốt rồi! Nếu

nó đi ngược lại kinh sách, nó phải có chân lí nào đó

trong nó. Nếu nó là phi logic thế thì nó phải gần với

chân lí hơn, bởi vì chân lí là phi logic. Cuộc sống là

phi logic. Những người nghĩ rằng cuộc sống là logic

đơn giản đang tự lừa mình. Cuộc sống tuyệt đối phi

logic bởi vì cuộc sống chứa mâu thuẫn và logic không

thể chứa mâu thuẫn được. Logic là ngu xuẩn.

Người đi xe đạp bị cảnh sát chặn lại giữa đường.

Anh ta không phải là người thường - anh ta là giáo sư

về logic.

"A thế đấy! Không đèn, phạt hai mươi mác. Không

phanh, năm mươi mác. Không chuông, mười mác."

Người đi xe đạp rẽ quanh và nhìn vào hàng giao

thông đang nối đuôi theo sau mình. Anh ta trỏ vào

người sau mình và nói, "Được rồi, phạt tám mươi mác.

Nhưng anh chàng đáng thương đứng sau tôi, anh ta sẽ

phải trả bao nhiêu? Anh ta thậm chí không có xe đạp!"

Về mặt logic, điều đó là đúng. Nếu không chuông,

mười mác, không phanh, năm mươi mác, không đèn,

hai mươi mác - không xe đạp, anh ta sẽ phải trả bao

nhiêu tiền?

Con bọ cạp đực đang bước đi trên bờ sông. Đến

một điểm nào đó, nó thấy ở bờ bên kia một con bọ cạp

cái đẹp đang nhảy múa khêu gợi hấp dẫn nó. Nó rất

muốn qua sông, nhưng nó không biết bơi.

Bỗng nhiên nó thấy một con ếch đỏ lớn và gọi ếch,

nhưng con ếch, sợ nọc độc của bọ cạp, bắt đầu nhảy đi.

Tuy nhiên con bọ cạp là triết gia, và nó nói với con

ếch, "Lại đây, đừng sợ. Nhìn điều đó một cách logic

vào. Ta không quan tâm tới anh, ta quan tâm tới cô ta

kia. Ta chỉ muốn anh cho ta qua sông. Mọi thứ đều sẽ

ổn thoả. Ta hiển nhiên không định đốt anh bởi vì nếu

ta làm vậy, không chỉ anh chết, mà ta cũng sẽ chết nữa

vì ta không biết bơi. Cho nên lại đây đi, logic vào và

giúp ta qua sông."

Con ếch đỏ ngần ngại đồng ý. Con bọ cạp nhảy lên

vai ếch và chúng bắt đầu qua sông. Con ếch bơi rất cẩn

thận, bao giờ cũng nhìn lên bờ sắp tới.

Bỗng nhiên con ếch cảm thấy đau buốt ở mông

mình và ngay sau nó nó cảm thấy lạnh lẽo của của cái

chết đang dần choán lên trong nó. Nó quay lại con bọ

cạp và nói, "Cứt thật! Điều này không logic chút nào!"

"Đúng đấy," con bọ cạp đồng ý. "Nó không logic,

đó là bản chất của ta."

Logic là một điều, cuộc sống là điều hoàn khác.

Mối quan tâm của tôi ở đây không phải là logic mà là

cuộc sống. Phát biểu của tôi có thể không logic -

chúng không thể thế được - nhưng chúng sống; chúng

có hương vị của cuộc sống.

Phật nói: Ôi tận hưởng cuộc sống thật dễ chịu làm

sao, sống trong trung thực và mạnh mẽ!

Và trí huệ là dễ chịu,

và tự do.

Phật nói: Thiền đem tới hai điều. Nó đem tới trí

huệ, nó đem tới tự do. Hai bông hoa này mọc ra từ

thiền. Khi bạn trở nên im lặng, hoàn toàn im lặng, bên

ngoài tâm trí, hai bông hoa này nở bung trong bạn.

Bông này là trí huệ: bạn biết cái gì có đấy và cái gì

không có đấy. Và bông kia là tự do: bạn biết bây giờ

không còn giới hạn nào lên bạn, cả về thời gian và

không gian. Bạn trở nên được giải thoát.

Thiền là chìa khoá tới giải thoát, tới tự do, tới trí

huệ.

Đủ cho hôm nay.

***************************************************************************************************************

#8 Bản chất của mọi sự

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi hiểu thầy nói rằng trí tuệ là rào chắn cho việc

tự hiểu mình. Xin thầy giải thích thêm thầy ngụ ý

gì bởi điều này. Tôi đã rất quan tâm nghe bài

giảng của thầy trong vài ngày qua. Xa khỏi người

không trí thức, họ có thể được mô tả như người

thành đạt về tri thức. Hơn nữa, nhà khoa học

không thể vứt bỏ được việc chia sẻ tri thức của

mình, điều làm cơ sở cho đánh giá của ông ấy:

chắc chắn đánh giá của ông ấy phải khách quan.

Tôi cảm thấy rằng tôi phải đã hiểu lầm thầy rồi.

Richard, tôi đã không nói gì chống lại thông minh,

trí tuệ đâu, nhưng có chống lại đầu óc máy móc đấy -

và đó là hiện tượng hoàn toàn khác. Khi ai đó trở nên

bị đồng nhất với trí tuệ của mình, tính đầu óc được

sinh ra; khi ai đó vẫn còn là người chủ, không bị đồng

nhất với trí tuệ của mình, thông minh được sinh ra. Trí

năng vẫn là một thôi. Toàn thể vấn đề phụ thuộc liệu

bạn bị đồng nhất với nó hay bạn vẫn còn siêu việt trên

nó. Nếu bạn trở nên bị đồng nhất, đó là tính đầu óc;

nếu bạn vẫn còn không bị đồng nhất, đó là thông minh.

Thông minh có tầm quan trọng vô cùng; tính đầu

óc là rào chắn. Tính đầu óc là rào chắn ngay cả trong

thế giới của khoa học. Nhiều nhất tính đầu óc có thể

cho bạn thành học giả, con người của lời nói, cứ chăng

tơ, thêu dệt các hệ thống tư tưởng mà chẳng bản chất

chút gì.

Trong nỗ lực khoa học, thông minh phải được hội

tụ vào thế giới khách quan; trong thám hiểm tôn giáo,

thông minh phải đi vào nội tâm. Nó vẫn là cùng một

thông minh thôi, chỉ chiều hướng thay đổi. Trong khoa

học, đối tượng, đối tượng bên ngoài, là mục đích của

việc truy tìm; trong tôn giáo, tính chủ quan của bạn,

lãnh thổ của bạn, là cuộc phiêu lưu của bạn. Thông

minh vẫn là một thôi.

Nếu bạn trở thành người đầu óc thì bạn sẽ không là

người khoa học; bạn sẽ chỉ viết ra lịch sử của khoa học

hay triết lí về khoa học, nhưng bạn sẽ không là người

khoa học, người thám hiểm, người phát minh, người

khám phá, về phần riêng của bạn. Bạn sẽ đơn giản tích

luỹ thông tin. Vâng, điều đó nữa cũng có cái dụng nào

đó; khi có liên quan tới thế giới bên ngoài, ngay cả

thông tin cũng có tiện dụng giới hạn nào đó, nhưng

trong thế giới bên trong nó không có tiện dụng nào cả.

Nó là rào chắn; nó có tác động tiêu cực lên kinh

nghiệm bên trong.

Bạn nói, "Tôi hiểu thầy nói rằng trí tuệ là rào chắn

cho việc tự hiểu mình."

Trí tuệ không là rào chắn không là cây cầu; trí tuệ

là trung lập. Bị đồng nhất với nó, nó trở thành rào

chắn; vẫn còn không bị đồng nhất với nó, nó là cây

cầu. Và không có thiền bạn không thể biết bản tính

siêu việt của mình.

Trong khoa học, tập trung là đủ; nhiều nhất, suy tư

là được cần tới. Trong tôn giáo, thiền là cách duy nhất.

Tập trung không được cần tới, không phải là sự giúp

đỡ; nó là cản trở tích cực. Suy tư cũng không phải là

giúp đỡ; chính suy tư không phải là có tính thiền, nó là

cái thay thế nghèo nàn cho thiền. Thiền - duy nhất

thiền - mới có thể đem tới cách mạng bên trong.

Thiền nghĩa là thoát ra khỏi tâm trí, nhìn vào tâm

trí từ bên ngoài. Đó đích xác là nghĩa của từ 'cực lạcecstasy':

đứng ra ngoài. Đứng ra ngoài tâm trí làm cho

bạn cực lạc, đem phúc lạc tới cho bạn. Và thông minh

lớn lao được thoát ra. Khi bạn bị đồng nhất với tâm trí

bạn không thể rất thông minh được bởi vì bạn trở nên

bị đồng nhất với công cụ, bạn trở nên bị giới hạn bởi

công cụ này và các giới hạn của nó. Mà bạn là vô giới

hạn - bạn là tâm thức.

Dùng tâm trí, nhưng đừng trở thành nó. Dùng nó

như bạn dùng các máy khác. Tâm trí là cái máy hay.

Nếu bạn có thể dùng nó, nó sẽ phục vụ bạn; nếu bạn

không thể dùng nó và nó bắt đầu dùng bạn, nó có tính

phá huỷ, nó là nguy hiểm. Nó nhất định đem bạn vào

rắc rối nào đó, vào thảm hoạ nào đó, vào đau đớn và

khổ sở nào đó, bởi vì máy là thứ mù quáng. Nó không

có mắt, nó không có sáng suốt. Tâm trí không thể thấy

được; nó chỉ có thể cứ lặp lại cái đã được nạp vào

trong nó. Nó giống như máy tính; đầu tiên bạn phải

nạp vào nó đã.

Đó là điều cái gọi là giáo dục của bạn đang vậy,

bạn cứ nạp vào tâm trí. Thế thì nó trở thành kí ức lớn

trong bạn, cho nên bất kì khi nào bạn cần nhớ cái gì nó

có thể cung cấp. Nhưng bạn phải vẫn còn là người chủ

để bạn có thể dùng được nó; bằng không nó bắt đầu

chỉ đạo bạn.

Đừng bị chiếc xe của bạn hướng dẫn; vẫn là người

lái xe đi. Bạn phải quyết định hướng đi, bạn phải quyết

định mục đích. Bạn phải quyết định về tốc độ, khi nào

bắt đầu đi và khi nào dừng lại. Khi bạn mất kiểm soát

và khi chiếc xe nắm quyền và nó bắt đầu đi theo cách

của nó thì bạn mang định mệnh tiêu rồi.

Nhưng tôi không tuyệt đối chống lại thông tin đâu.

Thông tin là tốt nếu nó được cất giữ trong kí ức và bất

kì khi nào bạn cần nó bạn đều có thể tìm thấy nó một

cách dễ dàng. Nó nguy hiểm chỉ khi bạn không cần nó

và nó cứ tự gõ búa lên bạn; khi nó buộc bạn làm cái gì

đó, khi bạn chỉ là nạn nhân, thế thì nó là nguy hiểm.

Bằng không nó là hay. Nó là phương tiện hay, nhưng

nó không phải là mục đích.

Tại trường thầy giáo đang hỏi cả lớp các câu hỏi.

Thầy quay sang Jenkins, "Ai làm đổ bức tường

Jericho?"

"Dạ thưa thầy," Jenkins đáp. "Thưa thầy không

phải em ạ."

Thầy giáo giận lắm. Ông ấy lên thẳng thầy hiệu

trưởng và nói, "Tôi vừa mới hỏi Jenkins ai làm đổ bức

tường Jericho và nó nói điều đó không phải tại nó.

Thầy nghĩ về điều đó thế nào?"

Thầy hiệu trưởng nói, "Tôi có biết gia đình Jenkins

nhiều năm rồi, và nếu nó nói đấy không phải là nó làm,

thì đấy không phải là nó làm đâu."

Thầy giáo càng bực mình hơn. Ông ấy gọi điện

cho ông bộ trưởng Bộ giáo dục và nói, "Tôi hỏi một

cậu học sinh trong lớp ai đã làm đổ bức tường Jericho

và nó nói không phải nó. Rồi tôi lên ông hiệu trưởng

để phàn nàn. Ông ấy nói ông ấy có biết gia đình này

nhiều năm rồi và nếu đứa bé nói không phải nó, thì đó

là không phải nó. Ông nghĩ thế nào về điều đó?"

Bộ trưởng im lặng một giây rồi nói, "Nghe đây, tôi

phát ngán với phàn nàn từ trường ông rồi. Sửa lại bức

tường đó đi và nếu còn phàn nàn nữa, tôi sẽ đóng cửa

thẳng cái trường đó đấy!"

Thông tin trong bản thân nó không xấu - bạn phải

biết ai đã làm đổ bức tường Jericho chứ! Nhưng nếu

thông tin trở thành mạnh tới mức trong tâm trí bạn nó

cứ diễn ra mãi và bạn không thể tắt được nó đi, bạn

không thể để tâm trí vào trạng thái thảnh thơi, thế thì

tâm trí trở nên mòn mỏi, mệt mỏi, chán ngán, kiệt quệ.

Trong trạng thái đó, làm sao bạn có thể thông minh

được? Năng lượng của bạn bị tiêu tán. Thông minh cần

năng lượng tuôn chảy. Thông minh cần mạnh khoẻ,

toàn thể.

Thiền nhân sẽ thông minh hơn bất kì ai khác và

thiền nhân sẽ có khả năng dùng tâm trí của mình một

cách vừa cả khách quan và chủ quan. Người đó sẽ có

khả năng đi ra bên ngoài dễ dàng cũng như người đó

sẽ có khả năng đi vào bên trong. Người đó sẽ linh hoạt

hơn. Người đó là người chủ. Người đó có thể đưa xe đi

tới, người đó có thể đưa xe đi lui.

Khi Ford làm chiếc xe hơi đầu tiên đã không có số

lùi trong nó. Thành ra đâm khó quay về nhà. Bạn phải

đi vòng, bạn phải đi chặng đường dài, chỉ để về nhà.

Cho dù bạn mới đi được vài mét qua ga ra của mình

bạn cũng không thể quay lại ga ra được - không có số

lùi trong xe. Về sau số lùi mới được thêm vào.

Thiền cho bạn số lùi. Bình thường bạn không có

nó và bạn phải đi vòng quanh thế giới lặp đi lặp lại, và

dầu vậy bạn vẫn không thể tìm được nhà mình ở đâu;

bạn không thể quay về được. Bạn không thể đi vào

trong được; bạn chỉ biết cách đi ra ngoài. Bạn không

thể đi lui vào trong được. Thiền nhân trở nên linh động

hơn, linh hoạt hơn. Người đó trở nên giầu có hơn.

Tôi không thiên về những người ở trong quá khứ,

nhân danh tôn giáo, bởi vì bị cố định vào trong sự

hướng nội của họ; điều đó là cực đoan khác. Vài người

bị cố định là người hướng ngoại; như một phản ứng,

vài người trở nên bị cố định là người hướng nội. Cả

hai đều trở thành chết. Cuộc sống thuộc vào người linh

hoạt, người có thể đi từ hướng ngoại sang hướng nội

và từ hướng nội sang hướng ngoại cũng dễ dàng như

bạn đi ra ngoài nhà mình và đi vào trong nhà mình.

Khi trời quá lạnh bên trong bạn đi ra ngoài mặt trời;

khi trời trở nên quá nóng bạn đi vào bên trong dưới

chỗ trú ẩn, vào cái mát mẻ của ngôi nhà - và ở đó

không có vấn đề gì. Nó đơn giản như thế thôi.

Thiền không có nghĩa là đi ngược lại thế giới bên

ngoài. Nó đã là vậy trong quá khứ. Đó là lí do tại sao

tôn giáo đã thất bại, nó không thể thành công được; nó

đã không thể thành công theo bất kì cách nào. Cuộc

sống thuộc vào cái linh động, cái tuôn chảy. Bất kì khi

nào bạn trở nên bị cố định bạn đều trở thành một vật.

Sư của bạn đã là người hướng nội; họ nhắm mắt với

thế giới bên ngoài.

Đó là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta không

thể phát triển được khoa học, mặc dầu những bước đầu

tiên đã được tiến hành ở phương Đông. Toán học đã

được phát triển ở Ấn Độ. Bước đầu tiên hướng tới

công nghệ đã được thực hiện ở Trung Quốc. Nhưng ở

đó nó dừng lại bởi lẽ đơn giản là những người vĩ đại ở

phương Đông trở nên bị cố định với hướng nội; họ

đánh mất mối quan tâm với thế giới khách quan, họ

đóng bản thân họ toàn bộ với điều khách quan. Điều

này là mới chỉ là một nửa của tiềm năng toàn bộ của

bạn.

Bây giờ phương Tây đang làm chính điều ngược

lại: nó đã trở thành hoàn toàn hướng ngoại, nó không

biết cách đi vào trong. Nó không tin rằng có cái gì

"bên trong," nó không tin vào linh hồn nào. Nó tin vào

hành vi của con người, không tin vào sự tồn tại bên

trong của con người. Nó nghiên cứu hành vi và nó nói

chẳng có ai ở bên trong cả - đó toàn là máy móc.

Con người đã trở thành robot. Nếu bạn không biết

linh hồn, con người trở thành robot. Con người được

hiểu chỉ là cái máy đẹp được phát triển qua hàng triệu

năm - cuộc hành trình dài, dài của tiến hoá - nhưng con

người chỉ là cái máy phức tạp.

Không khó khăn gì cho Adolf Hitler giết nhiều

người thế một cách dễ dàng thế bởi lẽ đơn giản là nếu

con người là máy, có hại gì trong việc giết mọi người?

Nếu bạn phá chiếc đồng hồ đeo tay của bạn, bạn không

cảm thấy phạm tội; dù nó phức tạp thế nào, nó chỉ là

chiếc đồng hồ đeo tay. Nếu bạn quyết định phá nó, đấy

là bạn quyết định; không ai có thể phản đối điều đó.

Bạn không thể bị lôi ra toà án như kẻ giết người.

Stalin có thể giết hàng triệu người một cách dễ

dàng mà không áy náy gì trong lương tâm ông ta bởi lẽ

đơn giản là chủ nghĩa Mác tin rằng không có linh hồn.

Con người không là gì ngoài vật chất; tâm thức chỉ là

sản phẩm phụ của vật chất. Đây là một cực đoan.

Khoa học đã phát triển ở phương Tây, nhưng tôn

giáo đã biến mất. Ở phương Đông, tôn giáo đã phát

triển nhưng khoa học đã biến mất. Theo cả hai cách

con người vẫn còn nghèo nàn và một nửa.

Nỗ lực của tôi ở đây là để tạo ra con người toàn

thể, người sẽ có khả năng có tính khoa học và có tính

tôn giáo cùng nhau.

Con chó lớn, đầy ghẻ lở đang doạ mèo mẹ và lũ

mèo con. Nó dồn lũ mèo vào góc chuồng, thì bỗng

nhiên con mèo mẹ chồm dậy trên chân sau và bắt đầu

sủa dữ dội và gầm gừ lớn. Giật mình và lúng túng, con

chó quay đầu và tháo chạy khỏi chuồng, đuôi cụp lại

giữa hai chân.

Quay lại phía lũ con, mèo mẹ giơ vuốt lên và bảo

chúng, "Bây giờ các con thấy ưu thế của việc có hai

ngôn ngữ rồi đấy?"

Tôi muốn con người có song ngữ. Con người nên

biết khoa học nhiều, sâu như người đó nên biết thiền.

Người đó nên biết tâm trí nhiều như người đó nên biết

thiền. Người đó nên biết ngôn ngữ của thế giới khách

quan - đó là khoa học - và người đó cũng nên biết về

ngôn ngữ của thế giới chủ quan - đó là tôn giáo.

Chỉ người có khả năng bắc cầu qua tính khách

quan và tính chủ quan, người có khả năng bắc cầu qua

Đông và Tây, người có khả năng bắc cầu qua người

duy vật và người duy linh, mới có thể là con người

toàn thể. Thế giới đang chờ đợi con người toàn thể.

Nếu con người toàn thể không tới sớm, thế thì không

có tương lai cho nhân loại. Và con người toàn thể có

thể tới chỉ qua thông minh sâu sắc, sâu lắng.

Tôi không chống lại trí tuệ, tôi không chống lại

thông minh; tôi chống lại tính đầu óc. Đừng bị đồng

nhất với tâm trí của bạn. Bao giờ cũng vẫn còn là

người quan sát trên núi; nhân chứng cho thân thể, cho

tâm trí, nhân chứng cho cái bên ngoài và cho cái bên

trong, để cho bạn có thể siêu việt lên trên cả hai, cái

bên ngoài và cái bên trong, và bạn có thể biết rằng bạn

không là cả hai - bạn ở ngoài cả hai. Cái bên ngoài đó

là Thượng đế.

Thượng đế không phải là đối thể không phải là chủ

thể. Thượng đế không là cái bên ngoài không là cái

bên trong. Ngài là cả hai và ngài là không cả hai.

Richard, bạn nói, "Tôi đã rất quan tâm nghe bài

giảng của thầy trong vài ngày qua. Xa khỏi người

không trí thức, họ có thể được mô tả như người thành

đạt về tri thức."

Khi tôi nói với bạn, cho dù tôi đang nói về cái gì

đó siêu trí thức, tôi vẫn nói theo cách trí thức bởi vì

bằng không bạn sẽ không có khả năng hiểu được điều

tôi đang nói. Trí tuệ là phương tiện trao đổi có thể có

duy nhất ngay bây giờ. Chừng nào bạn còn chưa học

ngôn ngữ của im lặng hoàn toàn tôi vẫn phải cứ nói

theo ngôn ngữ của bạn. Bạn hiểu logic, tôi dùng logic -

vì những chủ định rất kì lạ: để giúp bạn đi ra ngoài

logic. Tôi dùng mọi cách có thể để giúp bạn siêu việt

lên trên nhị nguyên.

Tôi không phải là người không trí thức hay phi trí

thức, nhưng nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn vượt ra

ngoài cả hai trí tuệ và phi trí tuệ, vượt ra ngoài cả logic

và phi logic. Điều đó là có thể. Khi bạn trong im lặng

tuyệt đối bạn không logic không phi logic, nhưng im

lặng đó không thể được diễn đạt một cách trực tiếp; im

lặng đó phải được dịch sang ngôn ngữ của bạn. Đó là

điều tôi đang làm ở đây. Đó là nỗ lực gian nan bởi vì

nhiều điều huy hoàng và vĩ đại bị mất đi trong việc

dịch nó. Kinh nghiêm đó về im lặng là bao la thế nó

không thể được đưa vào lời, nhưng nó phải được đưa

vào lời. Chỉ thế thì bạn mới có khả năng nghe thấy nó.

Ngay cả thế cũng rất ít người nghe thấy nó, bởi vì mọi

người không hiện diện; họ vắng mặt, họ ngủ.

Tôi phải bắt đầu từ ngôn ngữ của bạn, và dần dần,

dần dần bạn sẽ bắt đầu học ngôn ngữ của tôi. Tôi là

người song ngữ và tôi sẽ làm bạn cũng là người song

ngữ. Có hai ngôn ngữ: ngôn ngữ của lời và ngôn ngữ

của im lặng. Ngay bây giờ tôi phải dùng ngôn ngữ của

lời để dịch thơ ca của im lặng, âm nhạc của im lặng.

Về sau, khi bạn đã phát triển chút ít tính thiền, bạn sẽ

có khả năng hiểu thơ ca của im lặng, âm nhạc của im

lặng một cách trực tiếp - chỉ bằng việc ngồi gần tôi. Sẽ

không cần tôi nói điều gì cả.

Tôi chờ đợi cái ngày đó và tôi thực sự vội vã vì

ngày đó, bởi vì việc nói đang trở nên ngày càng khó

hơn với tôi. Với bạn có lẽ dường như là tôi có thể cứ

nói mãi; khi có liên quan tới tôi thì nói trở thành ngày

một khó hơn bởi vì tôi có thể thấy tính không thể được

của việc đưa cái không thể biết được vào lời. Điều đó

dường như là việc sát hại - toàn thể cái đẹp bị mất đi.

Chỉ cái gì đó mới đạt tới bạn và cái đó nữa cũng phụ

thuộc vào bạn: nếu bạn sẵn có cho tôi, nó đạt tới bạn;

bằng không nó sẽ không đạt tới bạn đâu. Bạn sẽ cứ

nghe điều bạn muốn nghe và bạn sẽ cứ thấy điều bạn

có khả năng thấy.

Với kì nghỉ, Donnelly quyết định đi Thuỵ Sĩ để

hoàn thành ước mơ cả đời bằng việc leo lên

Matterhorn. Anh ta thuê một người hướng dẫn và leo

lên. Khi họ gần tới đỉnh, họ bị cuốn đi trong tuyết

trượt.

Ba giờ sau, thánh Bernard lặn lội tới họ, một thùng

rượu mạnh buộc dưới cằm ông ấy.

"Hoan hô!" người hướng dẫn kêu lên. "Người bạn

tốt nhất của con người tới rồi!"

"Vâng," Donnelly nói. "Và nhìn vào kích cỡ của

con chó đang mang nó!"

Bạn nghe điều bạn có thể nghe được, bạn thấy cái

bạn có thể thấy được. Đó là co kéo của chiến tranh

giữa tôi và bạn để đem bạn tới điểm mà bạn có thể

thấy cái gì đó mà tôi đang thấy.

Một khi tôi đã hoàn thành việc có số người đúng

để tạo ra phật trường, tôi sẽ đi vào im lặng. Cách bạn

đi vào thiền làm cho tôi hi vọng điều đó sẽ sớm xảy ra;

điều đó sẽ không lâu đâu. Chẳng mấy chốc số lượng

đúng của năng lượng sẽ sẵn có. Thế thì tôi có thể chỉ

ngồi im lặng cùng bạn; bạn có thể nhảy múa và ca hát

quanh tôi hay ngồi trong im lặng. Và sẽ có trao đổi -

nhiều phần giao cảm hơn là trao đổi. Cái gì đó nhất

định xảy ra. Nhưng trước khi điều đó có thể xảy ra tôi

phải cứ thuyết phục bạn qua lời, qua logic. Đó là một

loại dụ dỗ. Tôi phải cám dỗ bạn hướng tới cái gì đó mà

bạn đã hoàn toàn quên mất.

#8Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Thầy có thể cho triết lí của thầy vào bản tóm tắt

được không?

Vandan, bất kì triết lí nào mà có thể đưa vào bản

tóm tắt, đều có ở đó cả.

Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu,

Bi quan là gì?

Gyanesh, con người có thể nhìn cuộc sống theo hai

cách: hoặc qua cái không hoặc qua cái có. Hoặc con

người có thể tiêu cực trong cách tiếp cận của mình

hoặc tích cực. Đây là hai cách sẵn có dễ dàng cho tâm

trí.

Cũng có cách thứ ba, nhưng để đạt tới cách thứ ba

bạn phải trải qua nỗ lực gian nan của việc trở nên ngày

một nhận biết hơn. Với người ngủ hai cách này được

làm sẵn rồi, sẵn có từ chính lúc sinh.

Người tích cực sống qua một loại lạc quan. Lạc

quan của người đó nông cạn, nhưng người đó tràn đầy

hi vọng. Người đó chỉ đếm hoa hồng trong bụi hồng;

người đó không nhìn vào gai, người đó bỏ qua chúng.

Sớm hay muộn người đó nhất định bị thất vọng.

Mọi đứa trẻ đều bắt đầu bằng thái độ tích cực

hướng tới cuộc sống. Điều đó là tự nhiên bởi vì nếu

đứa trẻ bắt đầu với thái độ tiêu cực nó sẽ không bắt

đầu chút nào; nó sẽ chết trong bụng mẹ. Nó đã chờ đợi

trong chín tháng, nó đi qua kênh sinh đẻ, một quá trình

đau đớn, ngột ngạt. Phải có hi vọng vô ý thức sâu bên

dưới; do đó nó kiên nhẫn chờ đợi cái ngày nó có thể

thấy mặt trời, thấy ánh sáng, ở trong thế giới. Nó giống

hạt mầm, rất vô ý thức; nó không nhận biết về điều đó.

Nhưng mọi đứa trẻ đều được sinh ra với hi vọng lớn

lao, mọi đứa trẻ đều là người lạc quan; nó nhìn qua cái

tích cực.

Nhưng cuộc sống làm mọi người thất vọng. Cuộc

sống rất kì lạ, theo một cách nào đó: nếu bạn không có

được cái bạn muốn, bạn thất vọng, lẽ tự nhiên; nhưng

nếu bạn có được cái bạn muốn, thế nữa bạn cũng thất

vọng. Thất vọng dường như là định mệnh. Nếu bạn

không có cái bạn muốn, bạn khổ - bạn đã thất bại. Bạn

đã không có khả năng chứng minh bản thân mình, bạn

đã không có khả năng chứng minh khí khái của mình.

Người khác đã thành công, bạn là thất bại. Bạn không

thể kính trọng bản thân mình được, bạn không thể kính

trọng cuộc sống được. Nó dường như là tai ương. Bạn

muốn trả vé lại cho Thượng đế. Nếu bạn gặp ngài, câu

hỏi đầu tiên của bạn sẽ là, "Sao ngài đã tạo ra tôi? Để

làm gì? - vì tất cả những điều thất vọng này sao? Ngài

có là kẻ bạo ác hay cái gì đó không, cứ tạo ra nhiều

người và cho họ nhiều khổ sở thế?"

Và người tôn giáo nói, "Đó là vở kịch của Thượng

đế, đó là leela của ngài." Đây là loại vở kịch gì vậy?

Thượng đế dường như không còn tri giác đúng nữa rồi.

Dường như ngài đang tận hưởng trò hành hạ. Ngài

dường như giống Adolf Hitler, Joseph Stalin, Mao

Trạch Đông hơn là giống Phật Gautam, Mahavira,

Jesus.

Những người này dường như không giống Thượng

đế, bởi vì khi tất cả hi vọng của bạn đều biến thành vô

vọng, khi tất cả ham muốn của bạn đều là thất vọng,

khi chẳng cái gì tới từ lạc quan của bạn, một cách tự

nhiên bạn trở nên chua cay, bạn trở nên cay đắng, và bi

quan được sinh ra.

Bi quan chẳng là gì ngoài thất bại của thái độ lạc

quan. Thế thì bạn bắt đầu đếm gai và bỏ qua hoa hồng.

Thế thì bạn bao giờ cũng tìm phía tối. Đó là triết lí của

bi quan.

Suy tư về những luật này của Murphy:

Thứ nhất: Nếu bất kì cái gì có thể đi sai, nó sẽ đi

sai.

Thứ hai: Chẳng cái gì đã bao giờ đơn giản như nó

có vẻ vậy.

Thứ ba: Mọi thứ đều lâu hơn bạn mong đợi.

Thứ tư: Bị bỏ cho bản thân chúng mọi thứ đều đi

từ tồi tới tệ hơn.

Thứ năm: Tự nhiên bao giờ cũng về phe với thiếu

sót ngầm.

Thứ sáu: Bà mẹ Tự nhiên là đồ lẳng lơ.

Thứ bẩy: Không thể nào làm được cái gì hết sức rõ

ràng bởi vì kẻ ngu khéo thế.

Thứ tám: Nếu mọi thứ dường như diễn ra tốt đẹp,

bạn hiển nhiên đã bỏ sót cái gì đó.

Thứ chín: Nếu bạn có thể giữ được trí của bạn khi,

mọi người xung quanh người khác mất trí nhớ, bạn chỉ

không hiểu tình huống.

Và thứ mười: Với mọi vấn đề con người, có một

giải pháp đơn giản, rõ ràng - và nó bao giờ cũng sai.

Bi quan đơn giản nghĩa là nhìn cuộc sống một

cách tiêu cực, bao giờ cũng tìm lỗi, tìm lỗ hổng, tìm

cái gì đó tiêu cực, và tích luỹ tất cả những tiêu cực đó.

Và khi bạn nhìn vào phía tối, tất nhiên bao giờ cũng

vậy, có hai đêm và chỉ một ngày nhỏ bị kẹp giữa hai

đêm - những đêm tối, tối mù.

Lạc quan chấm dứt trong bi quan. Mọi người bi

quan đều đã từng có thời là người lạc quan - người đó

là người cựu lạc quan. Người đó đã hi vọng quá nhiều

và bởi vì những hi vọng đó đã không được hoàn thành

nên người đó đã trở nên chua cay, giận dữ, phát rồ.

Bây giờ người đó không thể thấy hoa và sao được.

Người đó không thể thấy được cái gì đẹp; người đó cứ

tìm cái xấu. Và khi bạn tìm cái xấu bạn sẽ thấy nó ở

mọi bước. Bất kì cái gì bạn tìm bạn nhất định thấy nó,

nhớ lấy, bởi vì cuộc sống bao gồm cả hai - tích cực và

tiêu cực - theo cùng số lượng. Cuộc sống không thể

tồn tại nếu thiếu cái kia; cực kia là điều phải có.

Điều đó cũng giống như điện. Điện không thể tồn

tại chỉ với một cực, dương hay âm; nó phải có cả hai

cực cùng nhau. Nó là có thể có chỉ thông qua căng

thẳng được tạo ra giữa âm và dương.

Nhưng có loại người thứ ba - tôi gọi người đó là

người thức tỉnh, người chứng ngộ - người nhìn cuộc

sống trong tính toàn bộ của nó, người không là người

bi quan không là người lạc quan, người đơn giản chấp

nhận cuộc sống như nó vậy; người chấp nhận đêm,

người chấp nhận ngày, người chấp nhận hoa hồng và

gai, bởi vì người đó hiểu rằng cuộc sống bắt nguồn từ

nhị nguyên cần thiết, biện chứng. Và trong nhận biết

của người đó phát triển sự tổng hợp giữa các cực đối

lập. Sự tổng hợp này chưa bao giờ phát triển ở bên

ngoài, như Karl Marx nói.

Karl Marx nói cuộc sống là quá trình biện chứng

giữa chính đề và phản đề và nó bao giờ cũng đi tới sự

tổng hợp. Thế rồi sự tổng hợp lại biến thành chính đề

và tạo ra phản đề của nó. Điều đó hoàn toàn sai. Bên

ngoài, cuộc sống bao giờ cũng là chính đề và phản đề;

nó chưa bao giờ đi tới sự tổng hợp nào.

Sự tổng hợp được đạt tới chỉ trong viễn kiến bên

trong của người chứng ngộ. Sự tổng hợp được đạt tới

khi bạn đã đạt tới im lặng tuyệt đối. Trong im lặng đó

bạn rõ ràng, trong suốt tới mức bạn có thể thấy thấu tỏ.

Thế thì bạn biết rằng cuộc sống cần cả hai: ngày và

đêm, sống và chết. Thế thì không có gì sai trong cái

chết; nó hữu dụng hoàn hảo, được cần tới, không thể

tránh được. Thế thì chấp nhận sâu sắc nảy sinh trong

bạn. Phật gọi chấp nhận đó là tathata - như thế. Cuộc

sống là như thế. Bạn hiểu nó và qua việc hiểu đó bạn

siêu việt lên trên nó.

Đừng là người bi quan và đừng là người lạc quan.

Quan sát, là người quan sát và đạt tới tổng hợp tối

thượng nơi bạn trở thành lực thứ ba vươn lên ngày

càng cao hơn và thấy từ bên trên, cái nhìn của mắt

chim. Sâu bên dưới mọi thứ đều trong xung đột, nhưng

điều đó là được bởi vì bạn hiểu cuộc sống không thể

tồn tại được nếu không có điều đó. Đó không phải là

lỗi của Thượng đế. Không có Thượng đế như một

người có thể bị oán trách vì điều đó. Đó chỉ là bản tính

của mọi sự - Đạo, pháp - rằng cuộc sống vận hành qua

nhị nguyên. Nhưng tâm thức có thể soải cánh bay cao

tới mức nó có thể siêu việt lên trên mọi nhị nguyên và

có thể đạt tới cái một.

Thiền nhân thực không là người bi quan không là

người lạc quan. Người đó sống trong một loại tính như

thế, trong "khả năng chấp nhận" toàn bộ.

#8Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi phát chán với chồng tôi. Tôi đã cố gắng mọi

cách, nhưng chẳng cái gì dường như có tác dụng.

Thầy có gợi ý gì không?

Geetama, không nhiều đâu, chỉ mỗi một. Viết một

lá thư cho năm người bạn của bạn như thế này:

Chào đằng ấy!

Bức thư này được bắt đầu bởi người đàn bà như

bản thân bạn, trong hi họng đem lại sự nhẹ nhõm cho

bà vợ không hài lòng và mệt mỏi.

Không giống như phần lớn các bức thư loằng

ngoằng, bức thư này chả tốn kém gì cả. Cứ gửi bản sao

thư này cho năm người bạn của bạn, những người

cũng mệt mỏi tương đương. Thế rồi gói chồng bạn lại

và gửi anh ta tới người đàn bà ở đầu danh sách và

thêm tên bạn vào cuối danh sách.

Khi tên bạn lên đầu danh sách này bạn sẽ nhận

được 16,478 đàn ông và một số trong họ nhất định còn

kinh khủng hơn nhiều so với người mà bạn đã có.

Đừng phá vỡ dây chuyền này... hãy có niềm tin!

Một người đàn bà phá vỡ dây chuyền và kiếm lại

được đồ chó đẻ riêng của mình.

Vào ngày tháng viết bức thứ này, người bạn khác

của tôi đã có được 183 đàn ông. Họ chôn cô ấy hôm

qua.... Nhưng ba người làm tang lễ phải mất ba mươi

sáu giờ để gỡ nụ cười trên khuôn mặt cô ấy ra.

#8Câu hỏi thứ năm:

Thưa thầy kính yêu,

Thông điệp của thầy có tính vũ trụ, nhưng nó chỉ

dành cho những người không có tôn giáo sao? Sao

những anh chàng Ấn Độ của thầy không bu ngoài

cổng để xin vào?

Charles Gardiner, thông điệp của tôi có tính vũ trụ.

Điều đó không có nghĩa là mọi người sẽ có khả năng

hiểu được nó. Thông điệp càng mang tính vũ trụ, càng

ít người sẽ có khả năng hiểu được nó, bởi vì nó càng

mang tính vũ trụ, nó càng huyền bí. Nó ở bên ngoài

tầm với của tâm trí ngu xuẩn, bình thường - chỉ bởi vì

nó có tính vũ trụ.

Mọi người có thể hiểu những điều không mang

tính vũ trụ thế một cách dễ dàng hơn. Họ có thể hiểu

những điều về giống nòi, họ có thể hiểu những điều về

quốc gia, họ có thể hiểu những điều về ý thức hệ.

Nhưng bất kì thông điệp nào thực sự có tính vũ trụ đều

nhất định chỉ được hiểu bởi rất ít người được chọn.

Chỉ những người thông minh nhất mới quan tâm

tới điều tôi đang làm ở đây. Do đó bạn sẽ thấy tụ tập

quanh tôi là những người thông minh từ khắp trên thế

giới, trẻ trung, tươi tắn, thông minh.

Ấn Độ không trẻ, nó không tươi. Rất hiếm khi tìm

thấy một người Ấn Độ mà trẻ. Ở Ấn Độ mọi người

được sinh ra đều già. Nó là nước cổ đại thế với truyền

thống lâu, lâu dài mà mọi người đều bị nặng gánh.

Nước trẻ tất nhiên cảm nhận nhiều hơn.

Chẳng hạn, Mĩ cảm nhận nhiều với bất kì thông

điệp mới nào hơn bất kì nước nào khác bởi một lẽ đơn

giản là nó là nước mới nhất trên thế giới - chỉ với

truyền thống ba trăm năm, nó không là gì cả. Ấn Độ đã

sống ít nhất mười nghìn năm - mười nghìn năm theo

các nhà lịch sử, một trăm nghìn năm theo bản thân

người Ấn Độ. Chân lí có thể ở đâu đó chỗ giữa. Tôi có

thể xác định quãng năm mươi nghìn năm - nhưng điều

đó nữa cũng là rất dài rồi. Và khi đất nước này trở

thành già, nó cứ thu thập rác rưởi, đồ đồng nát. Và mọi

thế hệ cứ đem những đồ đồng nát và rác rưởi của mình

cho thế hệ mới, cứ tưởng rằng đây là gia sản kế thừa,

cứ tưởng rằng họ đang đem cho cái gì đó rất có giá trị.

Mĩ là nhạy cảm nhất. Và tiếp bên Mĩ, Đức dường

như là rất nhạy cảm bởi lẽ đơn giản rằng Adolf Hitler

đã giết hoàn toàn nước Đức cũ, ông ta đã phá huỷ hoàn

toàn cái cũ. Ông ta đã tạo ra sự gián đoạn. Thế hệ

người Đức mới không còn nhìn lại sau. Adolf Hitler

đứng đó và không ai muốn nhìn vào ông ta, cho nên tốt

hơn cả là quên hết về nó! Adolf Hitler đã làm việc

phục vụ lớn lao cho nước Đức. Ông ta đã phá huỷ gia

sản kế thừa cũ - chẳng biết rằng mình đang làm công

việc tốt vậy, bằng không thì ông ta đã không làm điều

đó rồi - chẳng biết rằng ông ta đang làm cái gì đó cực

kì có giá trị. Ông ta đã làm điều đó một cách vô ý thức.

Ấn Độ cũng cần gián đoạn với quá khứ. Quá khứ

gây cản trở.

Do đó mọi người từ các nước khác đang tới tôi

nhiều hơn. Và chắc chắn người ta trở nên tò mò, cũng

như Gardiner đã trở nên tò mò: "Sao những anh chàng

Ấn Độ của thầy không bu ngoài cổng để xin vào?"

Ấn Độ quá già, thông điệp của tôi quá mới. Ấn Độ

cổ đại, truyền thống; tôi mang tính nổi dậy. Không có

nền tảng gặp gỡ giữa tôi và Ấn Độ. Tôi không phải là

người Ấn Độ, thực ra. Cho nên xin đừng gọi họ là "anh

chàng Ấn Độ" - họ không phải vậy. Tôi không là

người Ấn Độ, tôi không thuộc vào quốc gia nào; chỉ

thế thì tôi mới có thể có tính vũ trụ được. Nếu tôi là

người Ấn Độ, thế thì tôi đã mang định kiến thiên về

Ấn Độ. Thế thì thông điệp của tôi không thể có tính vũ

trụ được; sâu bên dưới nó sẽ có tính Ấn Độ, về căn bản

tính Ấn Độ - được nguỵ trang, ẩn đằng sau những lời

đẹp đẽ, trừu tượng, nhưng về bản chất nó sẽ vẫn còn là

tính Ấn Độ; nó không thể có tính vũ trụ được.

Mahatma Gandhi hay nói rằng toàn thể vũ trụ là

một, mọi tôn giáo là một. Trong đạo tràng của mình,

ông ấy thường dạy rằng người Hindu giáo và người

Mô ha mét giáo và người Ki tô giáo đều là một. Trong

cuộc gặp gỡ cầu nguyện của ông ấy các lời cầu nguyện

của mọi tôn giáo đều được trích đọc. Ông ấy thích nhất

lời cầu nguyện nói: Allah ishwar tere nam - Ishwar và

Allah, cả hai đều là tên ngài, Thượng đế.

Nhưng khi ông ấy bị giết, ông ấy quên tất cả về

Allah. Ông ấy nói, "Này Ram!" Thế là tiếng Hindu

ngầm trồi lên bề mặt. Cả đời mình ông ấy đã nói, "Cả

hai đều là một, cả hai đều là tên của cùng một điều."

Nhưng khi viên đạn cắm vào tim ông ấy, ông ấy quên

mất tất cả triết lí của mình. Sẽ là thực hay nếu ông ấy

đã nói, "Allah!" Nhưng ông ấy lại nói, "Ram!"

Ông ấy hay nói rằng Gita và Koran, Kinh Thánh

có cùng thông điệp, nhưng ông ấy đã tôn thờ Gita và

ông ấy gọi Gita là mẹ ông ấy. Thế thì Koran là gì? Ông

ấy thậm chí không gọi Koran là cô mình! Gita là mẹ

ông ấy - và tất nhiên ông ấy đã chọn vài mẩu từ Koran

và từ Kinh Thánh, điều đồng tình với Gita. Bất kì cái

gì bất đồng với Gita đều không được ông ấy chọn, cho

nên Gita vẫn còn là tiêu chí. Bây giờ điều này rõ ràng

tới mức bất kì cái gì không khớp với Gita đều sai; nó

có thể có trong Koran, nó có thể có trong Kinh Thánh,

nhưng nó là sai. Ông ấy sẽ không nói nó rõ ràng thế

bởi vì ông ấy là chính khách.

Tôi không phải là chính khách - tôi nói mọi điều

như chúng đang vậy. Tôi gọi con pich là con pich …

và đôi khi là con pich đéo! Tôi không phải là chính

khách; tôi đơn giản nói bất kì cái gì đang là hoàn cảnh.

Người Ấn Độ không thật hài lòng với tôi đâu, họ

không thể thế được. Tôi cũng không thật hài lòng với

họ, cho nên tại sao họ phải hài lòng? Tôi hoàn toàn

chống lại chủ nghĩa truyền thống của họ, ý tưởng bản

ngã của họ rằng họ linh thiêng hơn mọi người khác

trên thế giới. Không ai linh thiêng hơn bất kì ai khác.

Tôi chống lại ý tưởng của họ rằng đất nước họ là đất

nước tôn giáo duy nhất trên thế giới, rằng họ là cội

nguồn của tất cả những điều vĩ đại. Đây là những ý

tưởng ngu xuẩn. Mọi nước đều mang những ý tưởng

đó và mọi nước đều tin vào chúng.

Bạn hỏi người Trung Quốc, bạn hỏi người Nhật

Bản, bạn hỏi người Italia, bạn hỏi bất kì ai. Mọi nước

đều tin vào nó. Và bạn bao giờ cũng có thể tìm thấy

những luận cứ lớn lao để hỗ trợ cho nó.

Người Ấn Độ chắc đã bu đầy ngoài cổng nếu bằng

cách nào đó tôi giúp nuôi và dưỡng cho bản ngã của

họ. Tôi không làm điều đó, tôi không thể làm được

điều đó. Chỉ thế thì tôi mới có thể có tính vũ trụ. Tôi

liên tục nện búa vào bản ngã của họ. Tôi liên tục cố

gắng phá huỷ cái nhìn "linh thiêng hơn ngươi" của họ.

Họ giận tôi. Làm sao họ có thể bu ngoài cổng để đòi

vào được?

Nếu thỉnh thoảng vài người trong số họ do tò mò

mà bước vào, trong vòng năm tới bẩy phút họ bắt đầu

đứng dậy. Chỉ vài người Ấn Độ ngu xuẩn mới đứng

dậy từ đây. Điều tôi nói không phù hợp với họ. Họ

muốn tôi ca ngợi Veda của họ là kinh sách duy nhất,

kinh sách thực, do đích thân Thượng đế viết ra. Họ

muốn tôi ca ngợi mọi thứ đều có tính Ấn Độ. Tôi

không thể làm điều đó được. Tôi có thể ca ngợi chỉ cái

đáng được ca ngợi, không phải bởi vì nó có tính Ấn

Độ. Tôi có thể ca ngợi mọi thứ, không phải vì chúng

có tính Hindu giáo, Jaina giáo, Phật giáo, mà đơn giản

bởi vì chúng đẹp.

Tôi ca ngợi Taj Mahal không phải bởi vì nó có

tính Mô ha mét giáo, mà chỉ vì nó là tác phẩm nghệ

thuật khách quan đẹp. Tôi ca ngợi Upanishads không

phải bởi vì người Hindu đã viết ra chúng mà bởi vì

chúng có giá trị mênh mông thế, giá trị thực chất. Tôi

ca ngợi Lão Tử theo cùng cách, tôi ca ngợi Jesus theo

cùng cách, tôi ca ngợi Mohammed theo cùng cách. Bất

kì chỗ nào chân lí xảy ra, bất kì ai nó đã xảy ra cho -

cho Bahauddin hay cho Phật - điều đó không tạo ra

khác biệt gì với tôi.

Điều đó làm cho người Ấn Độ rất giận. Họ muốn

tôi phê phán Mohammed và ca ngợi Mahavira, hay

nếu tôi không thể làm được điều đó thì ít nhất cũng ca

ngợi Mahavira nhiều hơn Mohammed, nhưng phải tạo

ra cấp bậc trong đó Phật, Krishna và Mahavira ở trên

đỉnh. Vâng, Jesus cũng tốt và Mohammed cũng tốt,

nhưng không trên đỉnh - ở xa phía dưới trong cấp bậc

này. Điều đó tôi không thể làm được bởi vì tôi thấy

cùng hiện tượng này xảy ra trong thời Phật và cùng

kinh nghiệm này xảy ra trong Jesus. Tôi không giúp

cho bản ngã Ấn Độ theo bất kì cách có thể nào - tôi

đang làm chính cái đối lập. Họ không thể bu tại cổng

để xin vào được.

Điều tôi đang cố gắng ở đây không phải là cái gì

đó của quá khứ; nó thuộc vào tương lai. Cho nên chỉ

vài người Ấn Độ sẽ có khả năng tới với tôi - vài người

Ấn Độ có khả năng vươn lên trên tâm trí Ấn Độ của

họ, rất hiếm cá nhân sẵn sàng vươn lên cùng tôi trên

quốc tịch, trên nòi giống, trên đủ mọi loại thái độ bản

ngã. Họ ở đây, nhưng họ ở đây bởi vì họ cũng không

còn là người Ấn Độ nữa.

Người Ấn Độ tin rằng họ biết, họ rất thông thái.

Một cách tự nhiên - nó là quốc gia cổ đại; bạn không

cần đọc kinh sách, kinh sách ở trong bầu không khí.

Và ý tưởng của tôi là ở chỗ người thông thái không

bao giờ có thể có tính tôn giáo được. Và mãi cho tới

nay Ấn Độ đã tin vào người thông thái - bác học, học

giả, giáo sư. Và nỗ lực của tôi là giúp bạn trở nên ngày

một như trẻ con, hồn nhiên hơn, đầy những ngạc nhiên

chứ không đầy tri thức, đầy kính nể chứ không đầy

thông tin. Không cần đọc Veda - bởi vì bằng cách nào

đi chăng nữa thì chín mươi chín phần trăm của Veda

tuyệt đối là rác rưởi! Bây giờ điều này làm tổn thương

người Ấn Độ. Chỉ một phần trăm là hay; bạn phải rất

chọn lựa.

Cùng điều đó là hoàn cảnh với các kinh sách khác

của thế giới. Bạn nhìn vào Kinh Thánh, nhìn vào kinh

Cựu Ước; chín mươi chín phần trăm chỉ là rác rưởi.

Chắc sẽ tốt hơn nếu chúng ta gạt bỏ đi rác rưởi đó để

cho chỉ kim cương có thế chói sáng lên. Bằng không

đá cuội nhiều thế, kim cương bị mất hút. Nhưng không

- không người Do Thái nào sẽ sẵng lòng vứt bỏ bất kì

cái gì ra khỏi kinh Cựu Ước. Và cùng điều đó là

trường hợp cho Tân Ước, và cùng điều đó là trường

hợp … còn hơn thế - cho kinh Koran.

Tôi có nhiều sannyasins Mô ha mét giáo. Họ cứ

hỏi tôi khi nào tôi sẽ nói về Koran, và tôi cứ trì hoãn

mãi điều đó bởi một lẽ đơn giản là chẳng có gì mấy

trong nó để mà nói. Rất hiếm khi bạn bắt gặp một

dòng mà người ta có thể xoay xở để nói tới theo cách

hay. Ngoài ra, chỉ toàn những phát biểu rất bình

thường....

Nhưng lí do là, vào thời đó mọi thứ đã được viết

trong kinh sách tôn giáo: lịch sử, địa lí, huyền thoại.

Đó là cách duy nhất. Các kinh sách tôn giáo cổ đều

giống như bách khoa toàn thư Encyclopedia

Britannica; chúng là các bộ bách khoa thư của thời

xưa. Mọi thứ đều được viết ra, bất kì cái gì xảy ra vào

những ngày đó và bất kì cái gì đã được coi là quan

trọng. Nó có thể là quan trọng vào những ngày đó; bây

giờ thì chẳng liên quan.

Và ngay cả khi tôi nói về Phật, Mahavira, Krishna,

tôi nói theo cách phi truyền thống tuyệt đối. Tôi nói từ

kinh nghiệm riêng của mình, tôi không phải là người

bình luận. Tôi yêu Phật bởi vì tôi đã biết cùng ánh

sáng, tôi đã kinh nghiệm cùng chân lí. Cho nên khi tôi

bình luận về Phật đấy không phải là lời bình luận đâu.

Phát biểu của Phật chỉ là cái cớ, chỉ là cái mắc áo; tôi

cứ treo bản thân tôi lên những cái mắc áo đó.

Tâm trí Ấn Độ rất chống lại điều đó. Họ nghĩ tôi

đang bóp méo. Họ nghĩ tôi nên bình luận theo kinh

sách. Tôi đang bình luận theo tâm thức của tôi, không

theo kinh sách nào cả. Và khi tôi thấy cái gì đó không

thể được vị phật nói ra tôi đơn giản vứt bỏ nó đi, tôi

không bình luận về nó.

Tôi biết phật tính là gì! Tôi cứ tạo ra Phật mãi.

Điều đó bị chống đối nhiều lắm. Họ muốn tôi chỉ là sử

gia, nhà bình luận, học giả. Họ muốn tôi trích dẫn kinh

sách của họ, tham khảo kinh sách của họ. Tôi chưa bao

giờ tham khảo, tôi chưa bao giờ trích dẫn. Trong sách

của tôi bạn sẽ không thấy cước chú nào cả. Tôi không

tin vào tất cả những cái vô nghĩa đó. Tôi nói từ trái tim

tôi. Tôi yêu Phật, tôi yêu Jesus. Tôi nói, tôi dùng

những phát biểu của họ làm nền để cất cánh, có vậy

thôi - chỉ là bàn nhảy. Điều đó đi ngược lại cách tiếp

cận Ấn Độ, học thức Ấn Độ.

Gardiner, bởi vì thông điệp của tôi có tính vũ trụ,

nó sẽ hấp dẫn chỉ những người có tính vũ trụ, người

không thuộc vào quốc gia nào, tôn giáo nào, nhà thờ

nào. Vâng, bạn đúng. Bạn nói, "Nó chỉ dành cho

những người không có tôn giáo sao?"

Vâng, nó dành cho những người không có tôn

giáo, không có quốc gia, không có giống nòi; nó chỉ

dành cho những người được giải thoát đó. Nó dành

cho thế hệ mới. Thế hệ mới là dũng cảm; thế hệ mới

phải vứt bỏ nhiều tải trọng mà mọi người đã mang

hàng thế kỉ. Chỉ thế thì mới có thể có giao cảm giữa tôi

và bạn.

Và bạn có thể thấy đây là tụ tập vũ trụ. Mọi người

từ ít nhất bốn mươi nước đang ở đây. Trừ người Trung

Quốc và người Nga - trừ khối cộng sản - bạn sẽ thấy

mọi người từ mọi nước ở đây. Và ngay cả ở Nga người

da cam cũng đang bắt đầu làm việc ngầm rồi. Những

nhóm nhỏ đã bắt đầu vận hành. Mọi người đang gặp

gỡ thực sự dưới các tầng hầm, thiền. Vài người thậm

chí đã trở thành sannyasin. Rất khó gửi cho họ các

vòng mala và tên, nhưng chúng ta đã tìm ra cách và họ

đã tìm ra cách. Họ không thể mặc áo da cam chỗ công

khai được.

Một người đàn bà đã trở thành sannyasin viết thư

cho tôi, "Phải làm gì đây?" Tôi nói, "Dùng mầu đỏ

thay vì da cam. Mặc mầu đỏ và nói với mọi người rằng

bạn yêu chủ nghĩa cộng sản nhiều tới mức bạn không

thể cưỡng được cám dỗ mặc mầu đỏ!" Cô ấy thích ý

tưởng này. Cô ấy nói, "Hay đấy!"

Nhưng khi họ thiền và họ gặp nhau ở tầng ngầm

họ lại mặc bộ da cam, họ đeo vòng mala, họ đọc sách,

họ nghe băng. Họ thậm chí đã dịch vài cuốn sách sang

tiếng Nga; toàn là viết tay, những cuốn sách đó được

truyền tay từ người nọ sang người kia. Nhưng họ

không ở đây; vẫn còn khó cho họ ở đây.

Một người đàn bà đã viết rằng cô ấy thực sự thoát

khỏi nước Nga nếu ai đó có thể giúp cô ấy để cho cô

ấy có thể ở lại đây mãi mãi. Cô ấy thực sự bỏ chồng,

bỏ nhà, bỏ an ninh, an toàn, mọi thứ.

Chẳng mấy chốc từ Trung Quốc và Nga nữa mọi

người sẽ tới đây. Nơi đây đang trở thành ngôi đền vũ

trụ - và nó đặc biệt dành cho những người không còn

quan tâm gì tới tôn giáo. Họ có thể hiểu tôi, bởi vì tu sĩ

đã phá huỷ mối quan tâm của họ vào tôn giáo. Nhà thờ

đã phá huỷ mọi khả năng cho bất kì người thông minh

nào được mang tính tôn giáo.

#8Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Sao tôi bao giờ cũng bị kích động dục khi tôi thấy

đàn bà đẹp?

Nanda Kishor, điều đầu tiên là ở chỗ bạn là người

Ấn Độ. Rất khó cho người Ấn Độ không bị kích động

khi anh ta thấy người đàn bà đẹp. Kìm nén lâu, lâu

rồi... vô thức của bạn đầy những kìm nén cho nên bạn

không bỏ lỡ cơ hội nào cả.

Tất nhiên bạn không biểu lộ nó ra. Chính dũng

cảm của bạn là bạn đã hỏi câu hỏi này.

Chẳng có gì sai trong việc bị kích động dục bởi

việc nhìn đàn bà đẹp. Bạn đơn giản đang ngưỡng mộ

cô ấy, có vậy thôi. Bạn đang nói cô ấy đẹp và hấp dẫn.

Trong một thế giới hiểu biết hơn bạn sẽ đơn giản đi tới

người đàn bà này và cám ơn cô ấy và cô ấy sẽ chấp

nhận ngưỡng mộ của bạn với lòng biết ơn. Nếu người

đàn bà đi qua và không ai bị kích động về cô ấy, không

ai cả, điều đó thực sự là nỗi khổ phải trải qua.

Tôi đã là giáo sư đại học ở một đại học trong vài

năm. Một hôm chuyện xảy ra: tôi đang ngồi trong

phòng thầy hiệu phó. Một cô gái tới, cô ấy kêu và khóc

và cô ấy nói rằng một cậu con trai đã liên tục trêu chọc

cô ấy. Cậu ta ném những viên đá nhỏ vào cô ấy, viết

thư tình cho cô ấy.

Tất nhiên thầy hiệu phó giận lắm. Tôi ngồi đó cho

nên ông ấy bảo tôi, "Thầy có thể giúp được cô gái này

không? Thầy có thể an ủi em ấy được không?"

Tôi hỏi cô gái, "Nếu không ai trêu chọc em và

không ai viết thư tình và không ai ném đá vào em, điều

đó có đúng không? Em có hạnh phúc không?"

Nước mắt cô ấy biến mất. Trong một khoảnh khắc

cô ấy bị choáng. Thế rồi cô ấy nói, "Em chưa bao giờ

nghĩ về nó theo cách đó."

Tôi nói, "Điều đó sẽ là khổ thực sự đấy! Điều này

đơn giản chỉ ra rằng ai đó đang quan tâm tới em. Tới

anh ta và cám ơn anh ta đi! Chẳng có gì sai trong điều

đó cả. Anh ta đơn giản có chút ít si tình; anh ta không

biết cách bày tỏ lòng ngưỡng mộ với cô gái đẹp. Cho

cậu đó tới tôi và tôi sẽ dạy cho cậu đó đôi điều! Cậu đó

cần chút ít chỉ bảo - cậu đó không có trực giác. Và em

không cần lo lắng và em không cần khóc: điều này là

tự nhiên!"

Nanda Kishor, bạn là một trong những loài vật.

Con người là con vật chừng nào con người còn chưa

trở thành vị phật. Nếu bạn trở thành vị phật và thế rồi

bạn bị kích động bởi việc nhìn người đàn bà đẹp, tới

và hỏi câu hỏi này. Thế thì đó sẽ là cái gì đó đáng hỏi

bởi vì thế thì nó sẽ là vấn đề. Nhưng bạn không là vị

phật … cho nên trong lúc đó cứ tận hưởng đi! Một khi

bạn trở thành vị phật, thế thì tôi không thể giúp được -

chẳng ai có thể giúp được. Thế thì cho dù bạn muốn đi

xuống, cũng không có cách nào.

Đó là bản năng con vật, có nhiều trong con vật

cũng như trong con người. Vâng, điều đó phải được

siêu việt lên, nhưng bằng kìm nén bạn không thể siêu

việt lên được. Chấp nhận nó đi. Chấp nhận là bước đầu

tiên tới siêu việt. Và đừng cảm thấy mặc cảm về nó -

nó không phải là tội lỗi.

Khi bạn nhìn mặt trời lặn đẹp bạn không cảm thấy

mặc cảm. Khi bạn nhìn hoa đẹp và bạn bị hấp dẫn bạn

không cảm thấy mặc cảm nào. Khi bạn nhìn khuôn

mặt đẹp của người đàn ông hay đàn bà, sao bạn phải

cảm thấy mặc cảm là bạn bị hấp dẫn, nếu bạn muốn

ngoái nhìn lại, nếu bạn muốn tới gần và có cái nhìn

gần hơn? Sao bạn phải cảm thấy mặc cảm về điều đó?

Nhưng đó là cách bạn đã được dạy trong nhiều thế kỉ.

Nếu bạn tới gần người đàn bà hơn, người đàn bà sẽ bắt

đầu la lên gọi cảnh sát và bạn sẽ bắt đầu tìm cớ.

Không ai nhìn vào mắt người khác. Điều đó bị coi

là xúc phạm. Ngay cả nếu bạn muốn nhìn vào đôi mắt

đẹp nào đó bạn cũng không thể nhìn được. Chỉ ba giây

là được phép. Làm sao trên khắp thế giới mọi người đã

đi tới đồng ý về ba giây là cái gì đó huyền bí. Chỉ

trong ba giây bạn có thể nhìn vào ai đó và người kia sẽ

không cảm thấy bị khó chịu. Nếu bạn nhìn nhiều hơn

thế, người kia cảm thấy khó chịu.

Có thể có lí do. Bạn không biết cách nhìn vào

người khác; bạn không biết cách nhìn một cách duyên

dáng. Có thể cái nhìn của bạn xấu - và nó nhất định

xấu nếu bạn đang mang nhiều dâm dục bị kìm nén. Cái

nhìn của bạn sẽ có tính khiêu dâm. Sâu bên dưới trong

tưởng tượng của mình bạn sẽ cởi quần áo người đàn bà

này ra, và cô ấy cảm thấy khó chịu. Bạn là ai mà cởi

quần áo cô ấy trong tưởng tượng của bạn? Cái nhìn

của bạn xấu; dường như bạn đang xuyên thấu con

người cô ấy, dường như bạn đã tìm ra cái thay thế cho

việc xuyên thấu dục qua đôi mắt. Bạn đang thu cô ấy

thành đồ vật, và không ai muốn bị thu lại thành đồ vật.

Cái nhìn của bạn không có kính trọng trong nó. Nếu

bạn có kính trọng, nếu kích động của bạn có cái đẹp,

duyên dáng, thì không có vấn đề gì.

Vâng, một ngày nào đó điều đó phải được siêu việt

lên bởi vì đây cũng là nhị nguyên - đàn ông/đàn bà -

cùng nhị nguyên như giữa dương và âm, sinh và tử,

mùa hè và mùa đông. Nó phải được siêu việt lên.

Người ta phải đi tới điểm từ đó không cái gì quấy rối

bình thản của bạn, không cái gì làm sao lãng bạn khỏi

trung tâm của bạn.

Nhưng cách thức đi tới điều đó không phải là kìm

nén, Nanda Kishor. Bước đầu tiên là chấp nhận: nó là

tự nhiên. Chấp nhận nó như một phần của bản tính của

bạn, như một phần của sinh học của bạn. Và thế rồi cố

gắng hiểu nó, quan sát nó, ngắm nó, chứng kiến nó.

Dần dần, dần dần khi việc chứng kiến của bạn phát

triển, bạn sẽ đi ra ngoài nó. Một ngày nào đó bạn sẽ

không thấy khác biệt gì giữa đàn ông và đàn bà: bạn đã

vượt ra ngoài dâm dục. Đó mới là brahmacharya đúng,

vô dục đúng, nhưng nó không phải là điều đã được bảo

cho bạn.

Nhân danh vô dục, dục đã bị kìm nén trong hàng

thế kỉ và bạn đã trở thành đầy những dâm dục. Thay vì

siêu việt lên trên nó bạn đang sôi lên bên trong.

Để tìm xem vợ có lừa mình không, một người đàn

ông đã mua một con vẹt. Con vẹt này là con chim kì

lạ, nhưng trong đánh nhau đã bị mất cả hai chân và

phải giữ thăng bằng cho mình trên xương chậu.

Một hôm người này hỏi con vẹt và thấy rằng vợ

mình thực ra đã lừa mình. Anh ta nhanh chóng hỏi vẹt,

"Chuyện gì xảy ra?"

Con vẹt nói, "Đầu tiên vợ ông hôn người đàn ông

lạ, và rồi cô ấy bắt đầu cởi quần áo ra...."

"Rồi sao?" người đàn ông ngắt lời.

"Và thế rồi cả hai người lên giường...."

"Rồi sao?" người đàn ông la lên.

"Thế rồi cô ấy kéo chăn lên...."

"Thế rồi, thế rồi sao?"

"Tôi không biết," con vẹt nói. "Tôi bị ngã!"

Đủ cho hôm nay.

***************************************************************************************************************

#9 Khỉ trong rừng

Nếu ông ngủ,

Ham muốn phát triển trong ông

giống như cây leo trong rừng.

Giống như khỉ trong rừng

ông nhảy từ cây nọ sang cây kia,

chưa bao giờ tìm thấy quả -

từ kiếp nọ sang kiếp kia,

chưa bao giờ tìm thấy an bình.

Nếu ông đầy ham muốn,

Buồn khổ nhú lên

như cỏ sau cơn mưa.

Nếu ông chinh phục ham muốn,

Buồn khổ rơi khỏi ông

như giọt nước rơi khỏi bông sen.

Đây là lời khuyên tốt

và dành cho mọi người:

như cỏ được cắt tận gốc,

cắt hẳn ham muốn đi.

Vì sợ cái chết tiếp cái chết đè bẹp ông

như dòng sông đè bẹp đám sậy bất lực.

Vì nếu rễ bám chắc,

cây đổ lại đứng dậy.

Nếu ham muốn không bị nhổ bật rễ,

buồn khổ lại phát triển trong ông.

Thông điệp nền tảng nhất của Phật Gautama cho

nhân loại là ở chỗ con người đang ngủ. Con người

được sinh ra ngủ rồi. Ông ấy không nói về giấc ngủ

thường; ông ấy đang nói về giấc ngủ siêu hình, vô thức

sâu, sâu bên trong bạn. Bạn đang hành động từ vô thức

đó, cho nên bất kì cái gì bạn làm cũng sẽ đi sai. Không

thể nào làm được điều đúng bằng vô thức này bên

trong bạn. Vô thức này làm hỏng mọi nỗ lực của bạn,

nó dẫn bạn vào chiều hướng sai. Nó nhất định là vậy.

Cho dù vị phật có ở cùng bạn, bạn sẽ hiểu lầm ông

ấy bởi lẽ đơn giản là bạn không ý thức. Nếu bạn thực

sự ngủ và vị phật ngồi bên cạnh bạn, bạn không thể

nhận ra được ông ấy, bạn không thể thấy được ông ấy,

bạn không thể cảm được ông ấy. Bạn sẽ cứ mơ theo

cách riêng của bạn; bạn sẽ vẫn còn bị giới hạn vào thế

giới mơ riêng tư của mình.

Điều riêng tư nhất trong cuộc sống này là mơ của

bạn. Khi mơ biến mất, bạn đi vào trong thế giới của vũ

trụ. Thế thì bạn đi vào trong chân lí, trong Thượng đế,

trong niết bàn. Nhưng với mọi giấc mơ của bạn, điều

đó là không thể được; bạn bị lạc trong mơ riêng của

mình. Và đó không chỉ là một mơ bên trong bạn; hàng

triệu mơ thường xuyên phát triển... mơ này được thay

thế bằng mơ khác. Bạn nghĩ rằng bây giờ bạn thức bởi

vì mơ này đã rời bỏ bạn, nhưng mơ khác đã chiếm vị

trí của nó. Bạn thậm chí có thể mơ rằng bạn thức. Chư

phật cứ kêu to, nhưng bạn không nghe.

Jesus nói: Nếu ông có mắt để nhìn, nhìn đi. Nếu

ông có tai để nghe, nghe đi. Ông ấy không nói với

người điếc và người mù đâu, ông ấy đang nói với

những người như bạn đấy. Ông ấy đang nói đích xác

cùng điều Phật nói: rằng bạn là giấc ngủ.

Jesus đã ở Ấn Độ, và khi Jesus tới Ấn Độ, Phật

vẫn còn rất sống động. Mặc dầu ông ấy đã rời khỏi

thân thể mình từ năm trăm năm trước đó, bầu không

khí vẫn đầy những bài ca của ông ấy. Vẫn có những

người được nối sâu sắc với ông ấy; vẫn có những

người mà ông ấy gần như là thực tại sờ mó được.

Phật đã nói rằng "Tôn giáo của ta sẽ kéo dài trong

năm trăm năm." Những năm đó đã đi tới hết; đó đã là

pha cuối. Mặt trời sắp lặn, nhưng mặt trời vẫn trên

đường chân trời.

Jesus phải đã tới thăm các trường phái Phật giáo,

các tu viện. Ở Ladakh vẫn còn kinh sách viết tay tồn

tại trong đó Jesus đã viết về việc mình tới Ấn Độ,

chuyến thăm của ông ấy, kinh nghiệm của ông ấy, điều

ông ấy đã thu được ở đây. Kinh sách Ki tô giáo hoàn

toàn im lặng về cuộc đời của ông ấy. Ông ấy được

nhắc tới một lần khi ông ấy mười hai tuổi và rồi trong

mười tám năm có lỗ hổng. Thế rồi ông ấy được nhắc

tới khi ông ấy ba mươi, và thế rồi ông ấy sống chỉ

thêm ba năm nữa. Ông ấy đã ở đâu trong mười tám

năm này? Những người đã viết ra sách phúc âm phải

đã nhận biết về lỗ hổng này, nhưng họ sợ nói cái gì đó

về mười tám năm đó, bởi vì ông ấy đã du hành, đi từ

trường phái huyền bí này sang trường phái huyền bí

khác.

Ông ấy đã nói rất nhiều về con đường Phật đã nói.

Ông ấy đã mang thông điệp tương tự và hiểu biết

tương tự cho người của ông ấy. Ông ấy đã bị hiểu lầm

bởi lí do đơn giản là ông ấy đã mang cái gì đó không

phải là một phần của truyền thống Do Thái; ông ấy đã

mang cái gì đó xa lạ. Và phần lớn những điều xa lạ là

những điều ông ấy đã nói cho mọi người, "Các ông là

giấc ngủ, các ông thực sự chết."

Chỉ được sinh ra thì không đủ để thức tỉnh. Thức

tỉnh phải được đạt tới qua nỗ lực gian nan; bằng không

bạn có thể đi qua cả đời mình bằng vẩn vơ trong khu

rừng các giấc mơ. Và ông ấy nhận biết rằng những

người nghe ông ấy đều không có khả năng hiểu ông ấy

chút nào. Ông ấy nói điều này và họ sẽ hiểu điều khác.

Ông ấy nhận biết rằng có cái gì đó dường như cản trở

thông điệp này.

Jesus đang ngồi cạnh bàn với mười hai đệ tử, ăn

thịt bò và uống rượu. Đến chỗ nào đó ông ấy nhìn

chăm chú vào các đệ tử và nói, "Một trong các ông sẽ

phản bội ta. Judas, Judas, tại sao, tại sao là ông?"

Lúc đó, trong cơn giận, Judas đứng dậy và quát

vào các đệ tử, "Sao cái đồ chết tiệt ấy cứ mỗi lúc say

hắn lại lôi tôi ra thế này?"

Jesus có vẻ say với Judas. Phật cũng có vẻ say với

mọi người. Và theo một cách nào đó, họ say - say với

điều thiêng liêng. Họ thuộc về thế giới khác. Chúng ta

sống trong đêm, họ đã thấy bình minh. Chúng ta sống

trong mơ của mình về thành đạt cái này cái nọ, trong

tham vọng của mình, trong các trò bản ngã về quyền,

về tiền, về danh. Và họ sống ở một điểm hoàn toàn

khác. Họ sống như sự hiện hữu, chúng ta sống như

việc trở thành. Chúng ta sống như ham muốn, như mơ;

họ là sự hiện hữu thực: họ không mơ, không ham

muốn. Chúng ta sống trong quá khứ hay trong tương

lai; họ sống trong hiện tại. Chúng ta sống trong lời, họ

sống trong im lặng. Chúng ta sống trong cả nghìn thất

vọng, họ sống trong an bình sâu sắc.

Tại sao chúng ta sống trong thất vọng? Làm sao

chúng ta xoay xở sống trong nhiều thất vọng thế?

Chúng ta đã trở thành chuyên gia trong việc tạo ra thất

vọng mặc dầu chúng ta không làm điều đó một cách có

chủ định. Chúng ta không làm gì một cách có chủ

định; toàn thể các kiếp sống của chúng ta đều ngẫu

nhiên. Trong ngủ, cuộc sống của bạn nhất định chỉ là

ngẫu nhiên, phó mặc cho gió. Chúng ta chỉ là cọng

rơm bay trong gió hay như chiếc lá khô bay theo gió.

Chúng ta không biết mình là ai, chúng ta không biết

chúng ta đang đi đâu, chúng ta không biết chúng ta từ

đâu tới. Chúng ta không biết gì về bản thể mình - và

chúng ta biết nhiều thông tin lớn về sự kiện, con số,

điều hoàn toàn vô nghĩa.

Chừng nào bạn còn chưa biết tới bản thân mình,

không tri thức nào có nghĩa gì. Tại chính trung tâm của

bản thể bạn có bóng tối; không ánh sáng nào từ bên

ngoài có thể xua tan được nó.

Vấn đề lớn nhất trên thế giới là làm sao giao cảm

thức tỉnh của bạn với những người chưa bao giờ nếm

trải nó. Họ nhất định hiểu lầm. Hiểu lầm gần như

không tránh khỏi.

Ti vi mầu được phát minh ra ở Mĩ. Tin tức về đồ

chơi mới đẹp này lan tới vương quốc của Thượng đế.

Thượng đế, rất tò mò, phái một trong các tổng thiên

thần của mình xuống hạ giới để kiếm một chiếc.

Khi Thượng đế ngồi trước chiếc ti vi mầu mới với

vị tổng thiên thần ngồi bên, ông ấy nhấn phím thứ

nhất. Ngay lập tức, hình ảnh những người trần trùng

trục, mệt mỏi, ướt đẫm mồ hôi xuất hiện trên màn

hình. Họ làm việc vất vả không thể tin được trong mỏ

kim cương Johannesburg.

Nhìn thấy điều này, Thượng đế la lên, "Này Christ,

cứt thiêng, họ đang làm cái chết tiệt gì ở đó thế?"

Thánh Peter đáp, "Họ là những người tốt và làm

việc cần cù, tâu Thượng đế, như ngài đã muốn."

"Không, không, không, đó không phải là điều ta

ngụ ý! Họ đã bỏ lỡ toàn thể vấn đề rồi!" Thượng đế la

lên với giọng sấm rền hết cỡ của mình.

Thế rồi ông ấy nhấn nút khác. Hình ảnh thay đổi

sang Vatican lộng lẫy trong mọi vẻ tráng lệ và huy

hoàng của nó, với đức giáo hoàng, ăn vận bằng vàng.

Ông ấy được bao quanh bởi các nhà quí tộc ăn vận xa

hoa và các hồng y giáo chủ trong áo choàng nhung với

vòng vương miện đồ sộ trên đầu họ.

Thượng đế quay sang Peter, kêu lên, "Và họ là ai

thế?"

Thánh Peter khiêm tốn đáp, "Đây là những người

đã không bỏ lỡ vấn đề...."

Thực ra, mọi người đều bỏ lỡ vấn đề; nó nhất định

là như vậy. Đi từ những đỉnh cao của thức tỉnh tới

thung lũng tối tăm của giấc ngủ người ta không thể

mong đợi rằng điều đó sẽ được hiểu đúng.

Do đó Phật khăng khăng, ông ấy bao giờ cũng

nhấn mạnh cho các đệ tử, "Trước khi các ông bắt đầu

cố gắng hiểu điều ta nói và điều ta làm, im lặng ít nhất

trong hai năm đi, hoàn toàn im lặng, không nghĩ gì cả.

Khi các ông đã đạt tới tĩnh lặng, thế thì các ông sẽ có

khả năng trao đổi với ta. Thế thì nếu các ông có câu

hỏi nào các ông có thể hỏi, và thế thì sẽ có khả năng để

ta đổ trái tim ta vào trái tim các ông."

Nhưng điều thường xảy ra là bất kì khi nào ai đó

tới và ở lại trong im lặng trong hai năm, người đó sẽ

không bao giờ hỏi cái gì nữa - bởi vì im lặng là câu trả

lời của mọi câu trả lời. Im lặng là câu trả lời cho mọi

câu hỏi. Sẽ không cần hỏi Phật bởi vì trong im lặng,

người đó sẽ thấy niềm vinh quang, sự huy hoàng của

Phật, và điều đó sẽ bắt đầu thấm vào bản thể người đó

như cơn lụt, cuốn đi mọi bụi bặm đã tích luỹ hàng thế

kỉ.

Lời kinh thứ nhất:

Nếu ông ngủ,

Ham muốn phát triển trong ông

giống như cây leo trong rừng.

Ham muốn không thể bị vứt bỏ đi chừng nào bạn

còn chưa thức dậy. Hàng triệu người đã cố gắng vứt bỏ

ham muốn mà không thức dậy. Thực ra, chính ý tưởng

về vứt bỏ ham muốn là ham muốn khác chứ không gì

khác. Họ nghe từ chư phật, từ những người đã thức

tỉnh, rằng có an bình lớn nếu bạn vứt bỏ ham muốn, có

phúc lạc lớn nếu ham muốn khô héo đi; rằng bạn sẽ

đạt tới cái vĩnh hằng, rằng bạn sẽ không biết tới sinh

nào, tử nào nữa, rằng bạn sẽ trở thành một phần của lễ

hội vũ trụ vẫn cứ diễn ra mãi - nếu bạn vứt bỏ ham

muốn. Hàng triệu người trở nên tham, cứ tưởng rằng

bằng việc vứt bỏ ham muốn họ sẽ đạt tới mọi niềm vui

này. Bây giờ, đây là ham muốn mới bắt rễ trong bạn.

Ham muốn về Thượng đế, ham muốn về chân lí, ham

muốn về giải thoát, ham muốn về trở thành vô ham

muốn, vẫn là ham muốn. Bạn đã hiểu lầm toàn thể vấn

đề lần nữa. Một tham mới - tham tôn giáo - đã choán

lấy bạn.

Hàng triệu người đã sống trong các tu viện - sư và

ni và đủ mọi loại khổ hạnh - tự hành hạ mình trong hi

vọng, trong ham muốn, rằng đây là cách để phá huỷ

ham muốn. Khi mọi ham muốn bị phá huỷ họ sẽ đạt

tới những hoan lạc cõi trời. Và những hoan lạc đó là

hoan lạc thực; chúng không nhất thời như các hoan lạc

trong thế gian này, chúng là vĩnh hằng. Làm sao bạn

có thể vứt bỏ được ham muốn bằng việc tạo ra ham

muốn mới, ham muốn lớn hơn, ham muốn nguy hiểm

hơn nhiều?

Như tôi thấy nó, người tôn giáo bị ham muốn nắm

bắt còn hơn người phi tôn giáo. Người phi tôn giáo

được thoả mãn với những thứ nhỏ bé - nhà tốt, vợ con

đẹp, chút ít số dư ngân hàng - những thứ nhỏ bé.

Nhưng người tôn giáo cứ kết án những người này rằng

họ là tội nhân. Và bản thân họ là thánh nhân bởi vì họ

muốn số dư ngân hàng ở thế giới khác, và số dư ngân

hàng sẽ không bao giờ cạn kiệt!

Rất khó bỏ ham muốn; chừng nào bạn chưa thức

dậy, bạn không thể vứt bỏ được ham muốn. Ham

muốn là hiện tượng tự nhiên khi bạn ngủ. Ham muốn

là mơ chứ không gì khác. Khi bạn thức dậy mơ biến

mất, và khi bạn thức dậy ham muốn biến mất.

Do đó điều phải được hiểu là: vấn đề thực không

phải là tranh đấu với ham muốn của bạn mà là tranh

đấu với giấc ngủ của bạn. Đó là việc chặt tận rễ; bằng

không bạn vẫn còn như cũ. Bạn sẽ vận hành từ vô ý

thức của bạn và bạn sẽ cứ làm cùng điều; chả thành

vấn đề nó là cái gì.

Ba người đàn ông đi xe bus trong một ngày mùa

hè nóng bức ở Israel. Một người trong số họ là giáo sĩ,

người Do Thái, người kia là người Hi Lạp, và người

khác là người Palestine.

Chiếc xe bus khởi hành, và ruồi bay đậu lên vai

của người Hi Lạp. Ông ta đơn giản xua nó bay đi. Thế

rồi con ruồi bay qua vai giáo sĩ và ông ta làm cùng

việc đó. Con ruồi rồi lại bay qua người Palestine.

Người Palestine lập tức vồ lấy nó và ăn nó.

Con ruồi thứ hai bay vào xe bus và đích xác cùng

điều đó xảy ra: con ruồi đậu lên người Hi Lạp, người

Hi Lạp xua nó bay sang người Do Thái, người Do Thái

xua nó bay đi, và cuối cùng nó đậu vào người

Palestine, người này vồ lấy nó và ăn nó.

Đến điểm này, người Hi Lạp và người Do Thái cả

hai đều sững sờ nhìn người Palestine.

Đủ chắc chắn, con ruồi thứ ba bay vào xe bus. Nó

bay qua người Hi Lạp và bị xua bay đi. Nó bay qua

giáo sĩ và lần này giáo sĩ vồ lấy con ruồi, đi lại phía

người Palestine và hỏi, "Ông có muốn mua con ruồi

xinh không?"

Giáo sĩ hay không giáo sĩ, người Do Thái vẫn là

người Do Thái! Nếu có việc kinh doanh nào đó người

đó sẽ không bỏ lỡ điều đó đâu.

Bạn đang sống trong mơ. Các tu sĩ, giáo sĩ, sư, ni,

các giám mục, giáo hoàng, họ tất cả đều sống trong

cùng giấc ngủ. Có thể giấc mơ của bạn có chút ít khác

lẫn nhau, nhưng phẩm chất là như nhau.

Sao bạn mơ? - bởi vì có nhiều ham muốn không

được hoàn thành thế, và sống với các ham muốn không

được hoàn thành là đau đớn. Trong mơ bạn cố gắng

hoàn thành chúng; trong mơ bạn tạo ra cảm giác giả

tạo về hoàn thành. Do đó giấc mơ của bạn chỉ ra nhiều

điều về bạn: ham muốn của bạn là gì, bạn muốn trở

thành gì. Nhưng nếu bạn muốn trở thành bất kì cái gì

trong cuộc sống, bạn đang trong giấc ngủ.

Người thức biết không có đâu mà đi, không có gì

để trở thành. Người đó đã là cái người đó có thể trở

thành. Thấy sự vĩ đại của bản thể người đó, ham muốn

khô héo đi theo cách riêng của chúng. Bạn thậm chí

không mong đợi vứt bỏ chúng; chúng tự rơi rụng, như

lá khô rụng khỏi cây.

Nếu ông ngủ, Phật nói, ham muốn phát triển trong

ông....

Nhớ lấy: ham muốn phát triển chỉ khi bạn ngủ, vô

ý thức, vô nhận biết, vô thiền. Và điều này là tự nhiên.

Nó phát triển... giống như cây leo trong rừng. Và bất

kì cái gì bạn làm trong giấc ngủ này cũng đều sẽ sai,

nhớ lấy. Bạn có thể là người khổ hạnh, bạn có thể nhịn

ăn, bạn có thể cầu nguyện, nhưng lời cầu nguyện của

bạn sẽ sai.

Do đó, Phật chưa bao giờ nói cầu nguyện; ông ấy

nói thiền. Bạn có thể cầu nguyện cái gì? Bạn bao giờ

cũng cầu nguyện vì cái gì đó; nó sẽ là ham muốn. Bạn

có thể đi tới nhà thờ và đền chùa và nghe lời cầu

nguyện của mọi người, và bạn sẽ ngạc nhiên: họ bao

giờ cũng xin xỏ và xin xỏ. Lời cầu nguyện của họ

nông cạn. Họ đã không tới đó để cám ơn Thượng đế;

lời cầu nguyện của họ không đầy lòng biết ơn mà đầy

phàn nàn. Họ muốn nhiều hơn nữa và họ sẵn sàng cầu

nguyện. Lời cầu nguyện của họ không là gì ngoài tâng

bốc: họ ca ngợi Trời; họ hi vọng rằng việc tâng bốc

này sẽ giúp cho lời cầu nguyện của họ được hoàn

thành. Và đằng sau lời cầu nguyện này có ham muốn.

Phật nói: Đừng bận tâm tới lời cầu nguyện, bởi vì

ông ngủ và lời cầu nguyện của ông nhất định không là

gì ngoài ham muốn. Khổ hạnh của bạn nhất định

không là gì ngoài cách diễn đạt của ham muốn của

bạn. Khổ hạnh của bạn sẽ không là gì ngoài khoái lạc

sâu sắc. Do đó mọi tôn giáo đều nói về niềm vui và

hoan lạc của cõi trời và thiên đường. Đây là những

cám dỗ giữ mọi người tới đền chùa và tới nhà thờ và

tới giáo đường hồi giáo.

Phật nói: Đi vào trong im lặng, bởi vì im lặng tạo

ra chỗ đúng để thức dậy. Im lặng đi tới chính trung

tâm của bản thể bạn như mũi tên và đánh thức bạn. Và

khi bạn thức tỉnh, toàn thể cuộc sống của bạn là lời cầu

nguyện! Và đừng cứ làm mọi điều trong giấc ngủ của

bạn bởi vì bạn có thể làm nhiều điều hại hơn. Tốt hơn

cả là cứ bình thường khi bạn ngủ - cái hại của bạn sẽ

bình thường. Đừng cố là phi thường, đừng cố là thánh

nhân hay mahatma; cái hại của bạn sẽ lớn hơn nhiều.

Suy tư về câu châm ngôn này của Murphy:

Nếu hai cái sai không làm ra cái đúng, thử cái thứ

ba.

Bạn có thể làm được gì khác khi bạn ngủ? Thử và

thử và thử nữa; cứ thử hoài. Nhưng nếu điều nền tảng

mà sai, bất kì cái gì bạn làm cũng sẽ sai.

Và vấn đề với ham muốn là thế này: nếu bạn

không có nó - điều gần như không tránh khỏi bởi vì

mọi ham muốn của bạn đều là không thể được... Bạn

yêu cầu điều không thể được; nó không thể xảy ra theo

bản chất của mọi sự; do đó bạn cảm thấy thất vọng khi

nó không xảy ra. Và nếu nó xảy ra bởi phép màu nào

đó, bởi ngẫu nhiên nào đó... nếu nó xảy ra, thì thế nữa

nó cũng sẽ không đáp ứng bạn hay làm cho bạn mãn

nguyện bởi vì khoảnh khắc nó xảy ra, tâm trí bạn lại

bắt đầu đòi hỏi hơn nữa; đến lúc nó xảy ra bạn không

còn quan tâm tới nó.

Anh lính không hạnh phúc.

"Nhưng đây là thời kì lễ giáng sinh," tôi cố khuyến

khích anh ta. "Santa Claus và mọi thứ đó!"

"Santa Claus nào?" anh ta kêu lên. "Hai mươi năm

trước tôi đã ngỏ lời thỉnh cầu của người lính - bây giờ

tôi có được nó!"

Châm ngôn của Murphy: Bị thất vọng là không thú

vị gì, nhưng thảm hoạ thực trong cuộc sống bắt đầu

khi bạn có được cái bạn muốn.

Được phúc lạc là những người không có được cái

họ muốn, bởi vì ít nhất họ có thể hi vọng. Thảm hoạ

thực xảy ra khi bạn có được cái bạn muốn, bởi vì thế

thì không có khả năng nào để hi vọng; thế thì bạn bị

mắc kẹt với nó. Và chính bạn đã ham muốn nó, bạn đã

làm việc vì nó. Nhưng từ giấc ngủ chẳng cái gì là có

thể.

Ngủ là bệnh chung của chúng ta; chúng ta được

sinh ra với bệnh này. Nó thông thường thế, đó là lí do

tại sao chúng ta không nghĩ về nó chút nào như bệnh

tật; bằng không đây là bệnh lớn nhất, theo tất cả những

người đã thức tỉnh.

Gợi ý của Phật là: Ý thức. Đem nhiều ý thức vào

bản thể bên trong của bạn và cũng đem tới hành động

bên ngoài của bạn. Ông ấy không muốn bạn tạo ra ham

muốn mới - ham muốn linh thiêng thay vì ham muốn

không linh thiêng. Ông ấy không muốn bạn trở thành

thánh nhân như điều ngược với việc là tội nhân. Ông

ấy không muốn bạn thay thế ham muốn tầm thường

bằng ham muốn thiêng liêng. Ông ấy muốn bạn làm

cái gì đó hoàn toàn khác, đó là đóng góp lớn lao của

ông ấy cho nhân loại: ông ấy muốn bạn trở nên ý thức.

Từ ý thức, biến đổi triệt để xảy ra: ham muốn biến

mất và an bình giáng xuống - an bình của vô ham

muốn.

Giống như khỉ trong rừng

ông nhảy từ cây nọ sang cây kia,

chưa bao giờ tìm thấy quả -

từ kiếp nọ sang kiếp kia,

chưa bao giờ tìm thấy an bình.

Quan sát điều bạn đã từng làm: Giống như khỉ

trong rừng....

Charles Darwin đã trở nên nhận biết về hiện tượng

này rất muộn: rằng con người là con cháu của khỉ. Và

ông ấy có thể không đúng, bởi vì ông ấy nghĩ rằng về

mặt vật lí người là con cháu của khỉ. Điều đó dường

như không khớp với thực tại: con người dường như là

khác về bản chất với khỉ khi có liên quan tới thân thể.

Trong hàng triệu năm, khỉ đã thấy người đứng trên

hai chân và chúng đã chẳng học được cái mẹo này.

Bạn không thấy đột nhiên khỉ bước đi như người.

Ngay chỗ đầu tiên làm sao có chuyện xảy ra là vài con

khỉ bắt đầu bước đi trên hai chân và trở thành tổ tiên

của nhân loại? Điều đó dường như không có thể.

Nhưng tất cả những người đã thức tỉnh của thế giới

đều đã biết rằng khi có liên quan tới tâm trí con người,

tâm trí rất giống khỉ; chẳng khác biệt gì mấy. Khỉ thực

không trong thân thể bạn mà trong tâm lí bạn; vấn đề

không phải là sinh lí, vấn đề là tâm lí.

Tâm trí bạn liên tục nhảy từ cây nọ sang cây kia.

Nó thường xuyên bất ổn; nó không thể vẫn còn yên

tĩnh cho dù một khoảnh khắc. Nó muốn liên tục bận

bịu. Và ích lợi là gì?

Phật nói: Giống như khỉ trong rừng ông nhảy từ

cây nọ sang cây kia, chưa bao giờ tìm thấy quả - từ

kiếp nọ sang kiếp kia, chưa bao giờ tìm thấy an bình.

An bình là quả - và tâm trí chẳng có ý tưởng an

bình là gì. Nó chỉ biết xung đột, nó chỉ biết chiến

tranh, bạo hành, huỷ diệt. Nó chỉ biết mọi loại hư

hỏng, thần kinh, tâm thần. Nó biết chia chẻ bên trong

sâu sắc, nhưng nó chẳng biết gì về an bình; nó chưa

bao giờ nếm trải an bình, an bình tuyệt đối không được

biết tới. Nó chỉ là lời, trống rỗng mọi nghĩa. Nghĩa tới

qua kinh nghiệm, bằng không mọi lời đều trống rỗng.

Thượng đế là từ trống rỗng với bạn bởi vì bạn đã

không kinh nghiệm nó. An bình là từ trống rỗng với

bạn vì bạn đã không kinh nghiệm nó.

Phật không dùng từ 'phúc lạc'. Đó bao giờ cũng đã

là hoàn cảnh trước Phật: rằng phúc lạc là kết quả. Satchit-

anand - chân lí, tâm thức, phúc lạc - đây là ba khía

cạnh của sự hoàn thành tối thượng. Nhưng Phật không

nói về phúc lạc bởi lí do nào đó. Lí do là ở chỗ khoảnh

khắc bạn nói về phúc lạc, bạn nhất định bị hiểu lầm.

Mọi người bắt đầu nghĩ về hạnh phúc và hoan lạc - có

thể trên bình diện cao hơn, nhưng ý tưởng của họ về

hoan lạc vẫn như cũ, ý tưởng của họ về hạnh phúc vẫn

còn như cũ. Họ nghĩ về hoan lạc dục ngay cả trên thiên

đường.

Có các tôn giáo thậm chí còn cho phép đồng dục

trên thiên đường, bởi vì họ đã được sinh ra ở các nước

mà đồng dục rất thịnh hành. Và mọi tôn giáo đều hứa

hẹn với bạn về đàn bà đẹp trên thiên đường. Ai đã

phóng chiếu những ý tưởng này? Những người bị thất

vọng, những người đã thất bại ở đây; bây giờ họ đang

hi vọng họ sẽ thành công ở thế giới khác, ở bờ bên kia.

Phật không dùng từ 'phúc lạc' bởi lẽ đơn giản là nó

có thể tạo ra hiểu lầm. Nó tạo ra điều đó bởi vì bạn biết

cái gì đó về hạnh phúc, và bạn nghĩ có thể có khác biệt

lớn giữa phúc lạc và hạnh phúc, nhưng hạnh phúc cho

bạn ý tưởng nào đó về phúc lạc sẽ là gì.

Phúc lạc không phải là hạnh phúc. Phúc lạc giống

an bình hơn giống hạnh phúc. Phúc lạc không là bất

hạnh không là hạnh phúc; nó là an bình khỏi rối loạn

đó, xung đột đó. Nó là an bình, tuyệt đối an bình, bởi

vì nó là siêu việt của nhị nguyên. Hạnh phúc bao giờ

cũng phảng phất cùng bất hạnh; bất hạnh bao giờ cũng

có hạnh phúc ở phía bên kia của nó. Chúng là hai mặt

của cùng một đồng tiền. Khi toàn thể đồng tiền rơi

khỏi tay bạn, bạn không hạnh phúc không bất hạnh.

Chính bởi vì điều này mà Phật chưa bao giờ có hấp

dẫn nào với số đông người Ấn Độ. Ai muốn an bình?

Mọi người đều muốn hạnh phúc - và mọi người đều

biết rằng hạnh phúc có bất hạnh đi sau nó, như ngày

được tiếp nối bởi đêm, như tử được đi sau sinh, sinh

được đi sau tử. Đó là cái vòng luẩn quẩn: nếu bạn hạnh

phúc, bạn có thể chắc chắn rằng chẳng mấy chốc bạn

sẽ bất hạnh; nếu bạn bất hạnh, bạn có thể chắc chắn

rằng chẳng mấy chốc bạn sẽ lại hạnh phúc.

Thấy ra trò chơi này của hạnh phúc và bất hạnh,

người quan sát, thiền nhân trở nên không bị đồng nhất

với cả hai. Khi hạnh phúc tới, người đó biết rằng bất

hạnh sẽ tới, cho nên sao lại bị kích động? Khi bất hạnh

tới người đó không bị rối loạn chút nào bởi vì người

đó biết hạnh phúc sẽ tới chỉ quanh đâu đây thôi, cho

nên sao lại trở nên rối loạn? Người đó không bị kích

động bởi hạnh phúc, không bị quấy rối bởi bất hạnh.

Đây là an bình. Người đó vẫn còn y nguyên, trong cân

bằng sâu sắc; im lặng của người đó không bị quấy rối.

Ngày tới rồi đi, đêm tới rồi đi, mọi thứ tới rồi đi.

Người đó vẫn còn là nhân chứng, vô tư, bình thản.

Bình thản đó, vô tư đó là an bình.

Nhưng không ai muốn an bình. Những người ngủ

không thể muốn an bình. Do đó mới có Phật, ngay cả

khi ông ấy còn sống, hàng nghìn người đã được biến

đổi bởi ông ấy, điều chưa bao giờ xảy ra trước đây...

Nhiều người nữa đã trở nên chứng ngộ quanh ông ấy

hơn quanh bất kì ai khác trong toàn bộ lịch sử. Dầu

vậy, tôn giáo của ông ấy đã biến mất khỏi Ấn Độ; nó

đã không hấp dẫn quần chúng. Củ cà rốt đó đã không

có để treo trước bạn: phúc lạc.. Ông ấy nói về an bình.

An bình dường như rất không quyến rũ; nó không

ngân chuông trong tim bạn. An bình, chỉ an bình thôi

sao? Nhiều nỗ lực thế cho thiền và nhiều nỗ lực thế để

thức dậy, và kết quả chỉ là an bình thôi sao? Bạn muốn

cái gì đó kích động hơn, nhiều cảm giác hơn. Bạn

muốn cực lạc, không phải an bình. Giấc ngủ của bạn

tạo ra giấc mơ về phúc lạc, về cực lạc, về niềm vui lớn,

niềm vui vĩnh hằng.

Nhưng chọn lựa của Phật về từ này rất đúng, tuyệt

đối đúng. Ông ấy chưa bao giờ đi ra khỏi chân lí bên

trong, ông ấy cứ nhấn mạnh vào nó. Dù nó có hấp dẫn

bạn hay không, ông ấy không quan tâm mấy về điều

đó. Ông ấy sẽ không thoả hiệp chút nào với bạn và

ham muốn của bạn và giấc ngủ của bạn.

Tất nhiên, khi Phật chết, các học giả bắt đầu diễn

giải an bình của ông ấy là phúc lạc - cái tên khác, họ

nói, cho phúc lạc. Nhưng từ Ấn Độ nó đã biến mất, tôn

giáo này đã biến mất. Các học giả và bác học đã biết

về nó chậm chút ít. Khi tôn giáo này đã biến mất khỏi

Ấn Độ, thế thì họ mới nghĩ về nó, và tại sao điều đó đã

xảy ra. Và đây là hoàn cảnh: Phật đã nói về an bình, về

niết bàn. Niết bàn nghĩa là dừng lại, nghĩa là bạn sẽ

dừng lại toàn bộ. Ai muốn dừng lại toàn bộ? Sâu bên

dưới bạn muốn vẫn còn, vẫn tiếp tục. Vâng, bạn có thể

chấp nhận rằng thân thể sẽ không có đó, thân thể sẽ rơi

về cát bụi - cát bụi trở về với cát bụi. Nhưng tâm linh

của bạn, linh hồn của bạn sẽ có đó.

Và Phật nói bạn không có linh hồn nào, bởi vì linh

hồn của bạn không là gì ngoài cái tên linh thiêng cho

bản ngã cũ của bạn. Và tâm linh của bạn là gì? - chẳng

là gì ngoài cái mẽ ngoài cho bản ngã tồn tại. Ông ấy

rất ác một cách từ bi. Ông ấy nói bạn sẽ không có đó

chút nào.

Mọi người hay hỏi ông ấy, "Thế thì tại sao chúng

tôi phải thiền? Điều đó dường như giống tự tử tuyệt

đối!"

Và Phật nói, "Vâng, đích xác nó là điều đó. Nhưng

an bình sẽ có đó."

Bây giờ vấn đề thậm chí còn trở nên phức tạp hơn.

Bạn thậm chí có thể trở nên quan tâm tới an bình; bị

mệt mỏi về vui vẻ, hạnh phúc, bất hạnh, buồn bã, khổ

sở, đau khổ, bạn thậm chí có thể ngần ngại, theo cách

nhẫn nhục, đồng ý đạt tới an bình - nhưng bạn sẽ

không có đó. Thế thì vấn đề khác nảy sinh mà còn có ý

nghĩa nhiều hơn cho bạn trong giấc ngủ: "Nếu mình

không có đó, ai sẽ kinh nghiệm an bình? Và phỏng có

ích gì mà đạt tới cái gì đó nếu mình không thể kinh

nghiệm được nó, nếu mình không có đó chút nào?"

Và Phật tuyệt đối đúng. Ông ấy nói: Nếu ông có

đó, an bình không thể có được. Khi ông không có đó,

có an bình.

Shakespeare nói: Hiện hữu hay không hiện hữu là

vấn đề. Phật nói: Chọn không hiện hữu đi. Hiện hữu là

vấn đề; không hiện hữu nghĩa là mọi vấn đề đã được

siêu việt lên, mọi lo nghĩ đã được siêu việt lên.

Phật tử biết rằng có cái gì đó nguy hiểm trong

thông điệp của Phật; nó phải bị thay đổi. Họ đã thay

đổi nó. Ở Tây Tạng, ở Trung Quốc, ở Nhật Bản, họ đã

vứt bỏ lời của Phật hay họ đã cho nghĩa mới cho

những lời này. Trong khi họ dịch kinh sách Phật giáo

sang tiếng Tây Tạng, tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật

Bản, tiếng Hàn Quốc, họ đã làm thành vấn đề là tất cả

những phủ định phải bị vứt bỏ khỏi Phật và chúng phải

được thay thế bằng khẳng định. "Ông sẽ có đó trong

tất cả niềm vinh quang của mình, trong tất cả vĩ đại

của mình, trong tất cả cái đẹp của mình. Ông sẽ có đó

trong thuần khiết của mình. Linh hồn ông sẽ có đó,

hoàn toàn thuần khiết, vàng ròng. Và ông sẽ đạt tới

phúc lạc: mahasukh - phúc lạc vĩ đại."

Và thế rồi, giống như lửa, tôn giáo của Phật lan

rộng khắp châu Á. Nó đã biến mất khỏi đất nước khởi

nguồn của nó bởi lẽ đơn giản là Phật sẽ không thoả

hiệp với giấc ngủ của bạn; nó đã thành công trên khắp

châu Á bởi vì các tín đồ đã thoả hiệp. Họ đã phá huỷ

sự thuần khiết của Phật giáo; họ đã đem nó xuống mức

của bạn. Nỗ lực của Phật là nâng bạn lên tới mức của

ông ấy, còn tín đồ của ông ấy đã lôi ông ấy xuống mức

của bạn.

Đó là điều bao giờ cũng xảy ra với các tín đồ, bởi

vì họ cũng ngủ; họ là người như bạn thôi. Họ cũng mơ

như bạn, họ cũng ham muốn như bạn. Có hiểu biết nào

đó giữa bạn và họ. Họ có thể hiểu mơ của bạn bởi vì

họ cũng là mơ của họ nữa. Phật ở xa khỏi họ như ông

ấy ở xa với bạn. Đó là hiện tượng kì lạ, nhưng nó bao

giờ cũng vậy. Người Ki tô giáo đã thành công khi họ

phản bội Christ và Phật tử đã thành công khi họ phản

bội Phật. Bạn phải phản bội thầy, thế thì bạn có thể

thành công. Khi thầy bắt đầu nói như người ngủ, thế

thì người ngủ trở nên quan tâm; thế thì ông ấy đang

nói trong ngôn ngữ của bạn.

Đêm hôm nọ, Veet Marco có giấc mơ:

Trong khi Jesus Christ đang bị treo trên cọc chữ

thập, ba lính đang chơi bài dưới ông ấy. Đến chỗ nào

đó một người lính đứng dậy và đâm vào sườn Jesus

bằng chiếc chiếc giáo của anh ta. Jesus thét lên, và

người lính này cười to trở lại chỗ của mình và tiếp tục

chơi bài.

Chẳng mấy chốc người lính thứ hai đứng dậy và

áp chiếc khăn ướt sũng dấp lên mặt Jesus.

Jesus la lên, "Cha ơi, Cha ơi, sao cha từ bỏ con?"

Người lính này bắt đầu cười, rồi trở về chỗ của

mình và tiếp tục chơi bài.

Bỗng nhiên trời tối sầm, đất rung chuyển, ánh sáng

chiếu từ phương bắc và phương nam và im lặng huyền

bí rót đầy không gian.

Móng tay và chân của Jesus bắt đầu biến mất.

Người lính thứ ba, nhìn thấy điều này, chạy về chân

Jesus và bắt đầu cầu nguyện và tôn thờ Thượng đế.

Một trận gió khủng khiếp thổi tới và Jesus bắt đầu

thăng lên. Người lính này ôm lấy chân Jesus, kêu

khóc, "Jesus ơi, Jesus ơi, quyền năng và niềm vinh

quang của ngài!"

Mặt Jesus đầy ánh sáng, tóc ông ấy bay trong gió,

thân thể ông ấy phủ bằng áo choàng bạc trắng, thăng

lên trên trời, với người lính thứ ba bám lấy chân ông

ấy, cũng thăng lên cùng ông ấy.

Người lính này, đột nhiên nhận ra điều đang xảy

ra, trở nên sợ hãi và khóc lên với Jesus, "Jesus ơi,

Jesus ơi, ông đang đi đâu thế?"

Jesus mỉm cười đáp, "Ta đang đi tới cha ta tận trên

Vương quốc của Thượng đế."

"Vậy thế tôi thì sao?" người lính hoảng sợ bối rối.

"Tôi đi đâu đây?"

Jesus, đá cho anh ta rời ra, nói vọng xuống cho

hình hài đang rơi, "Đồ chó đẻ, mi trở về mà đéo mẹ

mi!"

Bây giờ, giấc mơ của Marco là giấc mơ của

Marco; nó chẳng liên quan gì tới Jesus. Nhưng trong

giấc mơ của bạn, Jesus sẽ lấy hình dạng thực sự do bạn

áp đặt, Phật sẽ lấy hình dạng do bạn áp đặt. Thay vì

cho phép họ biến đổi bạn, bạn muốn biến đổi họ theo ý

tưởng của bạn. Điều này đã xảy ra qua nhiều thời đại

rồi.

Nếu ông đầy ham muốn,

Phật nói,

Buồn khổ nhú lên

như cỏ sau cơn mưa.

Bạn càng có nhiều ham muốn, bạn sẽ càng tạo ra

nhiều khổ cho bản thân mình. Khổ là hậu quả của ham

muốn - và bạn cứ ham muốn hoài. Thực ra, bạn nghĩ

rằng nếu ham muốn của bạn được hoàn thành, khổ của

bạn sẽ biến mất. Ngay chỗ đầu tiên chúng không bao

giờ được hoàn thành; chỗ thứ hai, nếu chúng được

hoàn thành, chẳng cái gì được hoàn thành bởi việc

hoàn thành của chúng. Bạn vẫn còn trống rỗng như

bạn bao giờ cũng vậy - hay thậm chí còn hơn, bởi vì

mãi cho tới giờ bạn đã bận bịu với ham muốn nào đó;

bây giờ thậm chí điều đó đã được hoàn thành. Trống

rỗng sâu, sâu sắc tới với bạn.

Bạn đã muốn có ngôi nhà đẹp; bây giờ bạn có nó.

Đột nhiên, bạn chẳng biết làm gì. Bạn đã tham gia quá

nhiều vào việc kiếm tiền, bạn đã phát điên thế với việc

có nhà; bây giờ bạn đã có nó. Trong một khoảnh khắc

bạn cảm thấy thoải mái - không phải bởi vì cái nhà này

đâu, nhớ lấy, mà chỉ vì toàn thể căng thẳng, sự căng

thẳng tăng lên đã biến mất - ngôi nhà là của bạn rồi.

Tất cả những dồn nén và căng thẳng được thảnh thơi;

chính việc thảnh thơi của căng thẳng đó cho bạn chút ít

kinh nghiệm về hoan lạc. Điều đó bạn có thể đã kinh

nghiệm bất kì lúc nào nếu bạn đã thảnh thơi; nó chẳng

liên quan gì tới ngôi nhà cả.

Thấy cơ chế của ham muốn đi! Nhưng sau thảnh

thơi, sau vài khoảnh khắc hay vài giờ hay có thể vài

ngày... điều đó tuỳ thuộc vào bạn thông minh thế nào.

Nếu bạn thực sự thông minh, thế thì trong vòng vài

giây điều đó biến mất - bạn có thể thấy cái vô tích sự

của nó. Nếu bạn không thông minh thế, thì mất vài

giờ; nếu bạn thực sự ngu, thế thì mất vài ngày. Điều đó

tỉ lệ với ngu xuẩn của bạn: bạn sẽ vẫn còn hạnh phúc

hơn trong một thời kì lâu hơn nếu bạn ngu hơn bởi vì

bạn sẽ không thấy ra vấn đề. Nhưng sớm hay muộn, dù

bạn ngu đến đâu, nó nhất định biến mất. Và thế thì bạn

sẽ bị bỏ lại với trống rỗng lớn lao, hổng hoác, và bạn

sẽ lại muốn phấn đấu vì cái gì đó khác. Có thể bạn cần

nhiều tiền hơn bây giờ hay cần người đàn bà đẹp phù

hợp với ngôi nhà đẹp. Lại ham muốn mới, và bạn chạy

xô theo. Bạn lại sẽ đạt tới... và trong vài khoảnh khắc,

lại có thảnh thơi.

Điều đó cũng giống như kinh nghiệm dục. Hoan

lạc gì bạn đạt tới trong dục đều không là gì ngoài hoan

lạc của kích động dâng lên, căng thẳng, và thế rồi

thảnh thơi. Năng lượng của bạn cứ tăng lên ngày một

cao hơn và cao hơn, và thế rồi bạn bùng nổ - bạn xuất

tinh. Và đột nhiên bạn rơi vào trong bình thản nào đó;

kích động qua đi. Nhưng bạn không học được gì từ nó:

rằng đây là toàn thể bí mật của tất cả hoan lạc của bạn.

Chạy, xô tới, cạnh tranh, đánh nhau vì cái gì đó tạo ra

căng thẳng lớn.

Đó là lí do tại sao chuyện xảy ra là nếu bạn được

tham dự vào cái gì đó thực sự sâu sắc, bạn có thể

không cảm thấy quan tâm gì tới tính dục. Nếu bạn

tham gia sâu sắc vào trong nỗ lực khoa học, bạn có thể

không quan tâm tới dục chút nào. Bạn có thể hơi chút

phân vân, lẫn lộn: "Sao mọi người quan tâm nhiều tới

dục thế? Cái gì có đó nào?" Bạn đã thấy tính dục mới

cho bản thân mình. Khoa học là vợ bạn; bây giờ bạn

đang chạy theo khoa học. Hay bạn có thể là chính

khách; thế thì chính trị là vợ bạn. Nhưng một ngày nào

đó, khi bạn trở thành thủ tướng của đất nước hay tổng

thống của đất nước, bạn đã đạt tới cực đỉnh, và thế rồi

sau cực đỉnh không có đâu mà đi... bình thản nào đó

trùm lên bạn. Bình thản đó bị hiểu lầm cứ dường như

bạn đã đạt tới nó qua kinh nghiệm, bằng việc trở thành

tổng thống, thủ tướng, nổi tiếng, đáng kính, người

được giải thưởng Nobel. Không phải vậy đâu; đấy là

bởi vì thảnh thơi thôi.

Nếu bạn thảnh thơi ngay bây giờ không đạt tới cái

gì, cùng bình thản đó sẽ trùm lên bạn - thậm chí còn

sâu sắc hơn bởi vì bạn sẽ đầy năng lượng. Nhưng

chúng ta chưa bao giờ nhìn vào trong cái gì, và cho dù

chúng ta nhìn vào bất kì cái gì chúng ta cũng kết luận

rất hời hợt.

Tôi đã nghe nói về một người đi qua khu rừng,

cảm thấy bụng đầy nước, dừng xe lại, đi ra sau bụi

cây. Khi anh ta đang đái, một con ong dại đốt vào

chim anh ta. Anh ta la lên - đau quá và anh ta không

biết phải làm gì.

Thế rồi bỗng nhiên anh ta nhớ ra, hai mươi năm

trước khi anh ta còn là đứa bé có lần đã xảy ra chuyện

đó và mẹ anh ta đã chữa cho nó. Bà ấy đưa cho anh ta

một cốc sữa và bảo anh ta cho chim vào trong cốc, và

điều đó làm giảm đau cho anh ta, làm anh ta dịu đi.

Nhưng tìm đâu ra cốc sữa đây? Và cái đau thì lại quá

buốt! Và nước mắt chảy ra ròng ròng từ mắt khi anh ta

bắt đầu lái xe đi với hi vọng tìm được ai đó trong rừng.

Anh ta thấy một cái lều nhỏ. Anh ta gõ cửa. Anh ta

cảm thấy rất ngượng ngùng - làm sao nói được điều đó

và nói gì đây? Một người đàn bà mở cửa ra, nhưng cái

đau quá nhiều tới mức anh ta phải nói cái gì đó. Thế là

anh ta nói, "Xin đừng hỏi tôi tại sao, hãy cho tôi một

cốc sữa. Tôi đang đau khủng khiếp, tôi sắp chết đây!

Cho tôi cốc sữa và xin đừng hỏi tại sao bởi vì tôi

không thể trả lời được điều đó. Tôi cảm thấy ngượng

quá!"

Người đàn bà có thể thấy cái đau của người đàn

ông này. Bà ấy chạy vào nhà, đem ra một cốc sữa.

Người đàn ông cầm cốc sữa, chạy xô ra sau nhà.

Người đàn bà thấy tò mò, cũng là tự nhiên, với

điều vừa xảy ra. Bà ấy chưa bao giờ thấy điều như thế

trước đây! Thế là bà ấy đi ra sau một cách im lặng để

không quấy rầy người đàn ông này. Và điều bà ấy

thấy... bà ấy không thể tin được vào mắt mình! Bà ấy

nói, "Trời đất, tôi đã lấy chồng ba mươi năm nay, và

bây giờ tôi mới biết cách các anh đổ đầy những thứ

này! Tôi bao giờ cũng tự hỏi làm sao các anh rót đầy

những thứ này lặp đi lặp lại mãi! Bây giờ tôi biết rồi!"

Kết luận của bạn là hời hợt như thế đấy! Anh

chàng đáng thương kia đâu có rót đầy nó! Bạn trải qua

các kinh nghiệm, nhưng bạn chưa bao giờ đi sâu vào

trong chúng để tìm ra chân lí, cái gì thực sự xảy ra.

Bạn phải đã làm tình nhiều lần, nhưng bạn có bao

giờ nghĩ về điều đó không? - cái gì thực sự xảy ra đem

cho bạn bình thản, hoan lạc nào đó, vui vẻ nào đó?

Chẳng gì nhiều... chỉ là căng thẳng dâng lên được làm

thảnh thơi. Đầu tiên bạn đi vào việc làm tăng nó lên

ngày càng cao hơn, và thế rồi bạn rơi từ đỉnh cao đó

vào thung lũng sâu, sâu sắc của bình thản. Nhưng bình

thản này là sẵn có cho bất kì thiền nhân nào mà không

tạo ra bất kì căng thẳng nào.

Do đó, thiền đưa bạn ra ngoài dục; không cái gì

khác có thể đưa bạn ra ngoài dục. Mọi thứ khác đều là

cái thay thế cho dục. Ai đó theo chạy tiền - tiền là dục

của người đó; và ai đó đang chạy theo quyền - quyền

là dục của người đó; và ai đó đang chạy theo cái gì đó

khác. Đó tất cả đều là dục vọng, cái thay thế cho dục.

Những người này có thể dễ dàng né tránh dục bởi vì

họ đã tìm thấy phiên bản mới của riêng họ.

Nếu ông đầy ham muốn,

Buồn khổ nhú lên

như cỏ sau cơn mưa.

Nếu ông chinh phục ham muốn,

Buồn khổ rơi đi

như giọt nước rơi khỏi bông sen.

Từ 'chinh phục' phải được hiểu cho đúng. Nó

không có nghĩa là kìm nén; nó nghĩa là hiểu biết, nó

nghĩa là biến đổi. Nó nghĩa là siêu việt. Nó nghĩa là

bạn đã trở thành người chủ linh hồn riêng của mình,

rằng bây giờ không cái gì chi phối được bạn - dục,

quyền, tiền, không cái gì chi phối bạn. Nó không có

nghĩa là bạn phải từ bỏ thế giới; nó đơn giản có nghĩa

là bạn phải từ bỏ vô nhận biết của mình.

Ham muốn biến mất khi bạn trở nên ngày một

nhận biết hơn. Khi nhận biết là một trăm phần trăm,

không có ham muốn chút nào. Buồn khổ rơi đi như

giọt nước rơi khỏi bông sen.

Thông thường, mọi người không nâng tâm thức

mình lên. Ngược lại, họ sống qua lương tâm, không

qua tâm thức. Sống qua lương tâm là sống theo tâm lí

quần chúng, là đi theo đám đông. Lương tâm được

đám đông tạo ra; tâm thức là hiện tượng cá nhân - bạn

phải tạo ra nó. Xã hội sẽ không giúp bạn chút nào; nó

sẽ cản trở bạn theo mọi cách có thể. Xã hội không

muốn con người có ý thức chút nào. Họ có tính nổi

dậy, họ là nguy hiểm cho nguyên trạng, cho thể chế,

cho nhà thờ, cho nhà nước, cho quốc gia. Họ là nguy

hiểm bởi vì họ đã trải qua cuộc cách mạng và chính

rung động của họ tạo ra cách mạng trong người khác.

Xã hội sống qua lương tâm. Nó cho bạn ý tưởng

về cái gì là đúng và cái gì là sai: "Làm cái này và

không làm cái kia." Nó cứ cho bạn những điều răn. Nó

cho bạn thông tin chi tiết về cái gì là đúng và cái gì là

sai. Và thực ra điều đó là tuyệt đối ngớ ngẩn, bởi vì

cuộc sống thay đổi mọi ngày.

Cái là sai vào thời của Moses không còn sai ngày

nay, và cái là đúng vào thời của Krishna không còn

đúng ngày nay. Không ai có thể cho bạn bản đồ chi tiết

về cái gì là đúng và cái gì là sai. Thực ra, cái gì đó có

thể đúng vào buổi sáng và có thể sai vào buổi tối.

Khoảnh khắc tiếp nó có thể không đúng! Cuộc sống là

một luồng, và lương tâm là thứ tĩnh tại. Tâm thức đi

cùng cuộc sống; nó là luồng chảy.

Murphy nói: Lương tâm không thể ngăn cản được

tội lỗi - nó chỉ ngăn cản bạn không tận hưởng tội lỗi.

Lương tâm chẳng ngăn cản được cái gì; nó đơn

giản ngăn cản bạn khỏi tận hưởng cuộc sống của bạn.

Bạn vẫn còn như cũ; bạn đơn giản trở thành khổ hơn!

Đó là lí do tại sao các thánh nhân của bạn có mặt dài,

dài thế, trông nghiêm trang thế, buồn thế, chết thế.

Chẳng cái gì đã thay đổi trong họ: họ không rạng ngời

cuộc sống, họ không rạng ngời tình yêu, họ không

rạng ngời an bình. Họ chỉ biểu lộ cho bạn điều lương

tâm có thể làm. Nó có thể giết bạn, nó là việc đầu độc

dần.

Phật không tin vào lương tâm; ông ấy tin vào tâm

thức. Nhưng chư phật nói về tâm thức và bạn bao giờ

cũng hiểu lương tâm. Thực ra, có các ngôn ngữ như

tiếng Pháp mà trong đó lương tâm và tâm thức không

phải là hai từ; 'conscience' nghĩa là cả hai, tâm thức và

lương tâm. Điều đó thực ra là qui trình, cách thức bạn

hiểu.

Một người bị lạc trong rừng cuối cùng đi tới được

đích của mình, nhà trọ Old Log Inn. Tuy nhiên khi anh

ta tới, anh ta bị đánh cho một trận, mắt sưng vù, mũi

mồm chảy máu.

Người tiếp tân sợ hãi hỏi, "Trời đất, chuyện gì xảy

ra cho ông thế?"

Người này đáp, "Tôi bị lạc và thấy một đôi đang

làm tình trong rừng, và mọi điều tôi hỏi là 'Đến Old

Log Inn còn bao xa?'"

Xin nhớ, tâm thức không có nghĩa là lương tâm.

Đừng dịch nó là lương tâm; nó đã được dịch như thế

hàng thế kỉ rồi.

Và thế thì nỗi buồn rơi rụng khỏi bạn như giọt

nước rơi khỏi bông sen. Cho nên chúng biến mất một

cách tự nhiên, chúng không để lại dấu vết đằng sau.

Đây là lời khuyên tốt

và nó dành cho mọi người:

như cỏ được cắt tận gốc,

cắt hẳn ham muốn đi.

Vì sợ cái chết tiếp cái chết đè bẹp ông

như dòng sông đè bẹp đám sậy bất lực.

Người vô ý thức là nạn nhân bất lực của hoàn

cảnh; người đó có tính ngẫu nhiên. Người đó chưa có

giá trị bản chất bởi vì người đó chưa tạo ra ánh sáng

bên trong nào. Chỉ với tâm thức bạn mới có giá trị bản

chất; bằng không cuộc sống của bạn chỉ là ngẫu nhiên.

Khi đứa trẻ được sinh ra ở Bethlehem, ba vua tới

đem theo quà tặng, vào chuồng ngựa nơi nó nằm.

Vua thứ nhất tiến lên, đặt món quà của mình là

hương trầm và nhựa thơm trước chiếc nôi. Vua thứ hai

đặt món quà của mình là một thỏi vàng lớn. Vua thứ

ba tiến lên với món quà của mình, nhưng bước qua

thỏi vàng.

"Jesus Christ!" ông ta kêu lên.

Người cha của đứa bé nhìn lên ông ta và nói, "Cái

tên hay đấy! Chúng tôi đã nghĩ tới việc gọi nó là

Fred."

Tên bạn, cuộc sống của bạn, mọi thứ của bạn đều

ngẫu nhiên. Tâm thức sẽ làm cho bạn vượt ra ngoài

những điều ngẫu nhiên.

Vì nếu rễ bám chắc,

cây đổ lại đứng dậy.

Nếu ham muốn không bị nhổ bật rễ,

buồn khổ lại phát triển trong ông.

Nhớ lấy: không có cách mạng nào khác ngoại trừ

tâm thức. Nó chặt phăng ham muốn từ chính gốc rễ và

nó đem tự do tới cho bạn.

Đủ cho hôm nay.

***************************************************************************************************************

#10 Người thông minh là nguy hiểm

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Điều đó giống như lái xe đi tới và đi lui đồng thời.

Tôi không đi bất kì đâu. Có phải mồi lửa bật lên

hay tôi chỉ là người lái xe tồi?

Ray Horton, chính ý tưởng về đi đâu đó về căn bản

là sai. Chẳng cái gì đi bất kì đâu cả. Sự tồn tại là bây

giờ-ở đây; nó không đi tới định mệnh đặc biệt. Không

có định mệnh, không có mục đích tối thượng. Nhưng

chúng ta đã được dạy trong nhiều thế kỉ rằng sự tồn tại

đang đi tới mục đích nào đó và chúng ta cũng đã được

dạy sống một cách tham vọng, để chứng tỏ rằng bạn là

cái gì đó, ai đó: "Đạt tới đâu đó." Nhưng sự tồn tại

tuyệt đối vô mục đích.

Tôi không nói rằng điều đó là không có ý nghĩa.

Một cách chính xác bởi vì nó là vô mục đích nên nó có

ý nghĩa, nhưng ý nghĩa của nó không phải là ý nghĩa

của bãi chợ. Đó là một loại ý nghĩa hoàn toàn khác: ý

nghĩa của bông hồng, ý nghĩa của con chim tung cánh,

ý nghĩa của thơ ca, âm nhạc. Nó là mục đích tự thân

nó.

Chúng ta không trở thành cái gì đó - chúng ta đã là

nó rồi. Đây là toàn thể thông điệp của tất cả những

người đã thức tỉnh: rằng bạn không phải đạt tới cái gì

đó, nó đã được trao cho bạn rồi. Nó là món quà của

Thượng đế. Bạn đã ở nơi bạn đáng phải ở, bạn không

thể ở bất kì chỗ nào khác được. Không có đâu mà đi,

chẳng cái gì để đạt tới. Bởi vì không có chỗ nào để đi

và không cái gì để đạt tới, bạn có thể mở hội. Thế thì

không vội vàng, không lo nghĩ, không lo lắng, không

buồn tủi, không sợ bị thất bại. Bạn không thể thất bại

được. Trong chính bản chất của mọi sự thì không thể

thất bại được, bởi vì không có vấn đề thành công chút

nào.

Chính là ước định của xã hội mới tạo ra vấn đề

trong bạn. Và thế rồi bạn bắt đầu nghĩ, "Mình chẳng

đạt tới đâu cả, và cuộc sống đang tuột khỏi tay mình và

cái chết đang tới gần hơn. Mình sẽ làm nó hay không

đây?" Và thế rồi có nỗi sợ lớn về việc bỏ lỡ, thất vọng

rằng nhiều thứ thế bị mất. Và ai biết được? - ngày mai

có thể chẳng bao giờ tới cả. "Mình vẫn chưa có khả

năng chứng minh bản thân mình, giá trị của mình.

Mình vẫn chưa trở nên nổi tiếng. Mình vẫn chưa tích

luỹ được nhiều của cải. Mình không là tổng thống của

đất mước hay thủ tướng."

Hay bạn có thể bắt đầu nghĩ dưới dạng thế giới

khác, nhưng quá trình này vẫn là một. Bạn có thể nói,

"Mình vẫn chưa trở nên chứng ngộ. Mình vẫn chưa trở

thành một Phật hay một Jesus. Thiền còn xa lắc xa lơ.

Mình chẳng biết mình là ai." Và bạn có thể cứ tạo ra cả

nghìn lẻ một vấn đề cho bản thân mình.

Tất cả những vấn đề này được tạo ra bởi vì xã hội

muốn bạn tham vọng, và tham vọng chỉ có thể được

tạo ra nếu có mục đích trong tương lai. Có tham vọng,

tương lai được cần tới. Và không tham vọng, bản ngã

không thể được tạo ra. Và bản ngã là chiến lược căn

bản của xã hội để cai trị bạn, để khai thác bạn, để áp

bức bạn, để giữ cho bạn khổ. Bản ngã tồn tại trong

căng thẳng giữa hiện tại và tương lai: căng thẳng càng

lớn, bản ngã càng to. Khi không có căng thẳng giữa

hiện tại và tương lai của bạn, bản ngã biến mất bởi vì

không có điểm nào mà nó có thể có chỗ trú ngụ, chỗ

nó có thể tồn tại.

Do đó xã hội dạy bạn, "Trở thành cái này, trở

thành cái nọ." Nó dạy bạn việc trở thành. Toàn thể hệ

thống giáo dục của nó đều dựa trên ý tưởng về trở

thành.

Còn điều tôi đang nói với các bạn ở đây chính là

điều đối lập của nó. Tôi đang nói về việc hiện hữu,

không về việc trở thành. Trở thành là phát minh của

các chính khách và tu sĩ xảo quyệt - và đây là những

người đã đầu độc toàn thể nhân loại. Họ cứ cho bạn

mục đích. Nếu bạn trở nên mệt mỏi về những thứ trần

tục - tiền, quyền, danh - họ có đó để nói với bạn về

thiên đường, Thượng đế, samadhi, chân lí. Lần nữa

toàn thể quá trình lại bắt đầu.

Và dễ dàng bị thất vọng với những thứ trần tục.

Sớm hay muộn bạn có thể thấy toàn thế cái ngu xuẩn

của việc có nhiều tiền hay nhiều quyền. Sớm hay

muộn bạn sẽ thấy cái vô tích sự của chính ý tưởng về

"thêm nữa," bởi vì cái thêm nữa chẳng đem lại cái gì

khác ngoài nhiều khổ hơn. Nó lấy đi mọi phúc lạc khỏi

bạn, mọi an bình khỏi bạn. Nó có tính phá huỷ. Nó chỉ

cho bạn sợ hãi, run rẩy, lo âu, thần kinh. Nó làm cho

bạn thành điên khùng; điều đó có thể được thấy rất dễ

dàng. Nó đã làm cho cả thế gian này thành nhà thương

điên.

Nhưng để thấy rằng các mục đích thế giới khác -

niết bàn và moksha và Thượng đế và thiên đường -

cũng hệt như vậy là rất khó. Bạn sẽ cần cực kì thông

minh để thấy rằng những mục đích đó cũng có cùng

phẩm chất. Không có thay đổi về chất bởi vì bạn vẫn

nghĩ dưới dạng trở thành, bạn vẫn nghĩ dưới dạng

tương lai.

Tương lai không tồn tại, nó là vô tồn tại. Nó vô tồn

tại cũng như quá khứ. Quá khứ không còn nữa, tương

lại thì chưa có; chỉ hiện tại là có. Và trong hiện tại

không có khả năng nào cho ham muốn, không có khả

năng nào của tham vọng, không đủ không gian cho

bản ngã tồn tại. Bất kì khi nào bạn ở bây giờ và ở đây

đều không có bản ngã nào được tìm thấy. Bạn là im

lặng thuần khiết. Ngay bây giờ... nhìn điều tôi đang

nói đấy. Tôi không đề xuất lí thuyết hay triết lí nào; tôi

đơn giản phát biểu sự kiện.

Ray Horton, để một giây mà nhìn... chính khoảnh

khắc này! Bản ngã đâu? Và những chiều cao và chiều

sâo làm sao của an bình trở thành sẵn có cho bạn.

Chúng bao giờ cũng ở bên trong bạn, nhưng bạn chưa

bao giờ nhìn vào chúng - bạn cứ chạy hoài. Và bởi vì

bạn không đạt tới đâu cả bạn rất lo nghĩ.

Bạn nói, "Điều đó giống như lái xe đi tới và đi lui

đồng thời. Tôi không đi bất kì đâu."

Không cần đâu. Chính khoảnh khắc này, dù bạn ở

bất kì đâu, đó là ân huệ, đó là thiêng liêng. Bạn còn

muốn đi đâu khác nữa? Sao sống trong quá khứ?

Chính quá khứ cho bạn mục đích. Chính quá khứ mà

bạn đang mang trong đầu cứ phóng chiếu các mục đích

vào tương lai. Tương lai chỉ là cái phản xạ của quá

khứ.

Từ chính thời thơ ấu của mình bạn đã được bảo,

bạn đã bị thôi miên, bởi xã hội, bởi tu sĩ, bởi chính

khách, bởi cha mẹ, bởi các nhà sư phạm. Bạn đã bị

thôi miên liên tục rằng bạn phải có mục đích trong

cuộc sống của mình, rằng bạn phải có chủ định nào đó,

rằng bạn phải là người thành đạt vĩ đại, rằng bạn phải

nổi tiếng - người đoạt giải thưởng Nobel hay cái gì đó

- rằng bạn không chết đi chỉ là người thường. Chết đi

chỉ là người thường là xấu; bạn phải chết như một tổng

thống hay thủ tướng - cứ dường như cái chết của họ có

cái gì đó đặc biệt lắm!

Bởi vì việc nện búa thường xuyên vào đầu bạn mà

bạn đã trở nên quen thuộc nhiều với ý tưởng này tới

mức nó làm bạn phát điên. Bằng không, cuộc sống đẹp

thế như nó vậy; không chủ định, không mục đích nào

được cần tới. Tương lai có thể bị vứt bỏ hoàn toàn.

Bạn sống trong tương lai chỉ để trốn khỏi hiện tại, và

bạn trở nên bị ám ảnh về tâm lí với tương lai tới mức

bạn cứ bỏ lỡ cái đáng dành cho nó vì cái không đáng

dành cho nó.

Trong số những điều đầu tiên mà bé trai Do Thái

học là huấn thị kinh thánh: "Tôn vinh cha và mẹ ngươi

- không khác!"

Herschel, mới sáu tuổi, đã được nhắc nhở về lời

khuyên bảo này vào cái ngày bố cậu ta về nhà và công

bố rằng anh ta đã quyết định mua một chiếc xe, chiếc

xe đầu tiên mà gia đình anh ta sở hữu.

Người bố đang phấn chấn. "Tưởng tượng xem,

chúng ta ở nước này mới vài năm và chẳng mấy chốc

chúng ta sẽ sở hữu một chiếc xe mới," anh ta nói một

cách tự hào. "Bố có thể thấy chúng ta đang đi xe quanh

Công viên trung tâm. Bố ngồi trước lái xe, và ngồi

cạnh bố là mẹ, và ngồi sau là bé Herschel."

Mẹ gật đầu, mỉm cười chấp thuận. "Vậy khi nào

bố lập kế hoạch mua xe?" cô ấy hỏi.

"Trong hai tuần, có thể một tháng - không muộn

hơn."

Khoảnh khắc hài lòng bỗng nhiên bị tan vỡ bởi

tiếng khóc tức tưởi của Herschel, "Con không muốn

ngồi sau đâu! Con muốn ngồi trước và giúp lái xe!"

"Chúng ta chỉ cần một người lái trong gia đình

thôi," bố nhắc nhở đứa con của mình. "Mẹ ngồi trước,

con ngồi sau."

"Nếu con phải ngồi sau con sẽ đập đầu con vào

tường đấy, bố coi nè!" Herschel khóc thét. Nó chạy về

phía tường và định giả vờ đe doạ, sẵn sàng làm theo

lời nó. "Mẹ ngồi sau, con ngồi trước!"

"Không, Herschel, con ngồi sau," bố nói một cách

cứng rắn.

"Ngồi trước cơ, không ngồi sau đâu!" Giọng của

Herschel thất thanh réo lên một cách bất thần. "Con

không ngồi sau đâu!"

Người bố, với điệu bộ dữ tợn, giơ tay ra và trỏ

thẳng ngón trỏ. "Herschel," ông ta nói một cách lạnh

lùng, "cút ngay khỏi xe của tao!"

Mọi người cứ sống trong tương lai!

Và cùng điều đó là hoàn cảnh với thiên đường của

bạn, cũng giống như chiếc xe này thôi. Cùng điều đó là

hoàn cảnh với niết bàn của bạn, chứng ngộ của bạn -

cũng hệt như với chiếc xe thôi.

Chính chỉ tâm trí tầm thường mới trở nên bị ám

ảnh về tâm lí với tương lai. Nhưng xã hội phá huỷ

thông minh của mọi người và làm cho mọi người

thành tầm thường. Xã hội không muốn bạn thực sự

thông minh; nó sợ thông minh. Người thông minh là

người nguy hiểm. Họ là người cấp tiến, họ là người

cách mạng; họ bao giờ cũng phá hoại nguyên trạng. Xã

hội muốn bạn vẫn còn tầm thường, ngu xuẩn. Chắc

chắn nó muốn bạn hiệu quả, máy móc. Nó muốn bạn

tích luỹ thật nhiều thông tin nhất có thể được, nhưng

nó không muốn bạn thực sự thông minh bởi vì nếu bạn

thông minh bạn sẽ không quan tâm tới tương lai. Bạn

sẽ sống trong hiện tại và vì hiện tại, bởi vì không có

cuộc sống khác.

Nghe chim chóc cất tiếng chíp chíp, líu lo... cây

cối nở hoa... các vì sao, mặt trời, mặt trăng. Toàn thể

sự tồn tại sống trong hiện tại ngoại trừ bạn, ngoại trừ

tâm trí con người. Và duy nhất tâm trí con người mới

khổ.

Ra khỏi tương lai đi! Nó là giấc mơ của bạn. Bạn

không được giả định đi đâu cả. Hạnh phúc ở bất kì chỗ

nào bạn đang ở. Mãn nguyện với sự hiện hữu của bạn

và vứt bỏ ý tưởng về trở thành đi. Thế thì từng khoảng

khắc đều quí giá thế, thế thì từng khoảnh khắc đều có

cái đẹp thế, vĩ đại thế, huy hoàng thế. Thế thì từng

khoảnh khắc đều tinh tế. Thế thì bạn có thể cảm thấy

Thượng để ở mọi nơi mọi khoảnh khắc.

Thượng đế không phải là mục đích; Thượng đế là

sự hiện diện ngay bây giờ. Nếu bạn hiện diện, Thượng

đế có sẵn. Nếu bạn sống trong khoảnh khắc này, bạn

được chứng ngộ; không có chứng ngộ khác. Và thế thì

cuộc sống bình thường là phi thường thế. Thế thì chỉ là

không ai cả lại là việc hoàn thành thế.

Tôi gọi toàn thể cách tiếp cận này là tính chất

sannyas: vứt bỏ mục đích, chủ định, tương lai - trở

thành một phần của sự tồn tại chính khoảnh khắc này,

không trì hoãn nó. Thế thì trong chính khoảnh khắc

này, sự bùng nổ lớn là có thể trong bạn: bản ngã biến

mất, bạn không còn nữa, nhưng Thượng đế hiện hữu.

Và đó là phúc lạc và đó là chân lí.

#10Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Sao có nhiều người Do Thái ở đây thế?

Alexandra, Do Thái là dân tộc thông minh, thông

minh nhất trên thế giới. Đó là lí do tại sao họ bị ghét

nhiều thế. Họ đã phạm phải chỉ một sai lầm trong toàn

thể lịch sử của mình: họ đã đóng đinh Jesus và bỏ lỡ

việc kinh doanh lớn nhất đã sẵn có cho họ! Đó là hiện

tượng hiếm hoi tới mức nó lọt vào tay của người Italia

- toàn thể việc kinh doanh này! Điều đó không thể

quan niệm nổi - người Do Thái đã đánh mất nó vào tay

người Italia! Nếu người Italia bán món mì ống, điều đó

là được, nhưng họ đang bán Jesus! Bằng không, người

Do Thái chưa bao giờ phạm phải sai lầm nào.

Nhưng một sai lầm đó đã làm họ tốn kém quá

nhiều: họ trở nên bị nhổ bật rễ. Nhưng thỉnh thoảng ân

huệ lại tới dưới dạng tai ương. Khi họ bị bật rễ, khi họ

mất mảnh đất của mình, họ tự nhiên trở nên thông

minh hơn bất kì ai khác bởi vì họ phải tồn tại trong

những điều kiện bất lợi. Không giống nòi nào khác đã

từng tồn tại trong những điều kiện bất lợi như vậy như

người Do Thái. Và khi bạn sống trong những điều kiện

bất lợi thách thức đến thế, bạn có thể sống sót chỉ nếu

bạn đem thông minh của mình tới đỉnh cao nhất của

nó. Nếu bạn hành xử ngu xuẩn bạn sẽ bị tiêu diệt. Họ

bao giờ cũng sống giữa những người xa lạ đối kháng

họ; họ trở nên ngày một thông minh hơn.

Nhiều giải thưởng Nobel về tay người Do Thái

hơn bất kì ai khác. Và bất kì chỗ nào họ ở họ đều

thành công, bất kì cái gì họ làm họ đều đem ảo thuật

nào đó vào nó. Cho nên bất kì khi nào họ cảm thấy

rung cảm nào đó, hiện tượng nào đó xảy ra ở bất kì

đâu, họ là người đầu tiên tới, họ là người đầu tiên thu

hoạch mùa màng.

Vâng, câu hỏi này nảy sinh cho nhiều người. Gần

năm mươi phần trăm các sannyasin của tôi là người

Do Thái - nhiều người Do Thái tới mức đôi khi tôi trở

nên nghi ngờ có lẽ tôi cũng là người Do Thái chưa biết

chừng!

Alexandra, bạn đúng đấy, tò mò của bạn là đúng.

Nhưng họ có thể hiểu điều tôi đang nói. Thực ra, họ

phải vứt bỏ mặc cảm nào đó mà họ đã mang trong hai

nghìn năm. Nếu họ có thể cảm thấy hài hoà với tôi,

mặc cảm của họ về việc giết Jesus sẽ biến mất. Sâu

bên dưới mặc cảm này có đó; họ cần ai đó có thể lấy đi

mặc cảm đó. Điều đó giống như gai trong chính linh

hồn họ - nó gây đau. Họ có thể không nói điều đó,

nhưng nó gây đau. Họ đã phá huỷ việc nở hoa vĩ đại

nhất của họ.

Jesus là tiềm năng cao nhất của họ được hiện thực

hoá; ông ấy là đỉnh cao nhất của thông minh Do Thái -

và họ đã phá huỷ điều đó. Họ đang mang vết thương

này; họ là người bị thương. Họ muốn ai đó có thể chữa

lành vết thương này.

Nhưng vấn đề là: nếu bạn đi tới các tu sĩ họ sẽ làm

bạn bị thương nhiều hơn. Đi bất kì đâu, bạn sẽ bị

thương nhiều hơn, bởi vì cái gọi là tôn giáo của bạn tất

cả đều tồn tại trên mặc cảm của bạn. Mặc cảm càng

lớn, quyền lực của họ càng mạnh trên bạn. Họ làm cho

bạn cảm thấy mặc cảm, họ làm cho bạn cảm thấy là tội

nhân.

Tôi là loại người hoàn toàn khác: tôi giúp bạn gạt

bỏ mặc cảm của bạn. Tôi muốn bảo bạn rằng bạn

không phải là tội nhân, và phạm sai lầm là tính người -

sai lầm là con người. Không cần làm nhặng sị lên về

điều đó. Và lỗi của bạn là nhỏ; chỉ chút ít nhận biết và

chúng sẽ biến mất. Bạn không cần bị ném vào địa

ngục.

Và nhìn cái ngu xuẩn của ý tưởng này.... người Ki

tô giáo nói rằng một khi bạn vào địa ngục rồi bạn ở đó

vĩnh viễn. Không ai ra khỏi địa ngục. Nó không có lối

ra, chỉ có lối vào. Và thế rồi ở đó vĩnh viễn! - chính ý

tưởng này là ngớ ngẩn. Ngay cả kẻ tội phạm lớn nhất

cũng không cần bị trừng phạt vĩnh viễn.

Bertrand Russell đã nói, "Khi tôi nhìn vào tội của

mình, nếu tôi thú nhận mọi tội mà tôi đã từng phạm

phải, chúng không nhiều, chúng không rất lớn. Tôi đã

không giết người. Thế thì quan toà độc ác nhất có thể

cho tôi vào tù nhiều nhất trong bốn năm. Và nếu ý

nghĩa của tôi cũng được tính vào đó, không chỉ hành

động của tôi, thế thì tám năm tù, có vậy thôi." Ông ấy

đã viết cuốn sách hay, Tại sao tôi không phải là người

Ki tô giáo. Và trong số nhiều điều ông ấy đã nêu, đây

là một trong những lí do: "Tôi không thể đồng ý với ý

tưởng về địa ngục vĩnh viễn. Không ai đã phạm phải

tội lỗi mà người đó phải bị tống vào địa ngục vĩnh viễn

- mãi mãi, không thoát ra được. Và không ai đã làm

nhiều điều tốt tới mức người đó nên được tận hưởng

thiên đường mãi mãi."

Nhưng các tôn giáo đã tồn tại, và họ có quyền

hành, bởi lí do đơn giản là họ tạo ra sợ trong bạn - sợ

địa ngục - và họ tạo ra tham trong bạn - tham cõi trời.

Họ làm bạn bị thương sâu sắc. Bạn càng chảy máu

nhiều, vết thương của bạn càng chảy máu nhiều, họ

càng mạnh trên bạn.

Nỗ lực của tôi ở đây là cứu bạn khỏi mọi vết

thương, cứu bạn khỏi sợ địa ngục và tham cõi trời.

Không có địa ngục và không có cõi trời đâu. Những

chỗ này không phải là nơi chốn ở đâu đó, đấy chỉ là

trạng thái tâm trí riêng của bạn. Bất kì khi nào bạn

đang giận, trong cơn cuồng nộ, bạn ở trong địa ngục;

và bất kì khi nào bạn trong yêu, trong từ bi, bạn ở

trong cõi trời. Cho nên bạn có thể di chuyển từ cõi trời

sang địa ngục nhiều lần trong ngày.

Không phải là vấn đề được quyết định sau cái chết;

nó được quyết định từng khoảnh khắc. Và nó tuyệt đối

nằm bên trong khả năng quyết định của bạn.

Một nhà huyền môn Sufi sắp chết. Các đệ tử của

ông ấy đã tụ tập lại và họ nói, "Một điều chúng tôi

muốn biết. Thầy sắp ra đi mãi mãi và thế thì chúng tôi

sẽ không bao giờ biết bí mật là gì. Chúng tôi chưa bao

giờ thấy thầy buồn bã, bất hạnh, khổ sở. Điều đó

dường như siêu nhân thế. Chúng tôi đã quan sát thầy

trong ba mươi năm, bốn mươi năm; có vài người đã

sống cùng thầy trong năm mươi năm, sáu mươi năm" -

người này đã gần một trăm tuổi - "và mọi người đều

nhớ rằng thầy chẳng bao giờ buồn, thậm chí chẳng có

nỗi buồn nhỏ nào. Bí mật của thầy là gì?"

Ông ấy nói, "Chẳng có bí mật gì cả. Mọi sáng khi

ta dậy, trước khi ta mở mắt ra ta tự nhủ mình, 'Nghe

đây, ông già, ngày mới rồi đó. Ông muốn gì nào? -

buồn hay sướng?' Và ta bao giờ cũng nói, 'Sướng.' Cho

nên ta vẫn còn sướng! Ta quyết định vào buổi sáng và

ta vẫn còn sướng. Ta phải tuân theo quyết định của ta.

Điều này ta làm mọi ngày. Nó là một quyết định."

Bạn chọn khổ; đó không phải là trừng phạt, đó là

chọn lựa của bạn. Và bạn chọn vui; đó không phải là

phần thưởng, đó là chọn lựa của bạn.

Người Do Thái đã khổ rất nhiều; họ bị tổn thương.

Tất nhiên, hai nghìn năm đau khổ đã làm cho họ rất

chín chắn, thông minh, tỉnh táo. Do đó họ có thể nhận

ra tôi tốt hơn bất kì ai khác. Đó là lí do tại sao,

Alexandra, họ ở đây.

Tháng bẩy năm 1974, tổng thống Nixon ở Liên

Xô, hi vọng đạt tới hiệp ước bất xâm lăng giữa Liên

Xô và Mĩ, nhưng ông ta đã gặp một thời kì khó khăn

về điều đó.

"Trước khi chúng ta kí," thủ tướng Brezhnev nói,

"người Mĩ các ông sẽ phải công bố cho thế giới rằng

Adam và Eve là người cộng sản."

Nixon, không chắc chắn về cách giải quyết điều

khó xử này, quyết định tư vấn người có thẩm quyền về

Cội nguồn - trong trường hợp này là Henry J.

Kissinger - ông ta đảm bảo cho ông này rằng ông ta đã

đọc vài trang Kinh Thánh từ thời thanh niên của mình.

Kissinger nghỉ việc nghiên cứu, miệt mài đọc kinh

Cựu ước và văn bản. Ngày hôm sau ông ta bảo Nixon

cứ tiến tới và kí bản hiệp định với Liên Xô. "Người

Nga đúng đấy," ông ta nói, "Adam và Eve quả thực là

người cộng sản. Sau rốt, họ đã không có mảnh vải nào

trên người, họ chẳng có gì để ăn ngoài táo, và họ vẫn

nghĩ họ ở trong thiên đường!"

Ba anh chàng, một Cơ đốc giáo, một thầy tế và

một người Do Thái, đang thảo luận về cách từng người

trong số họ sử dụng ngày Nô en. Anh chàng Cơ đốc

giáo đã đi tới đám đông, rồi quay về, hôn mọi người

trong gia đình mình và tặng quà cho họ, và sau đó ăn

tối Nô en. Cậu thầy tế đã không đi nhà thờ, nhưng đã

hôn mọi người trong gia đình, cho quà tặng, và rồi ăn

bữa tối Nô en.

Chàng Do Thái nói, "Thôi được, bố và tôi đi

xuống xưởng đồ chơi của chúng tôi, nhìn vào mọi giá

rỗng, ca hai câu thơ 'Chúng ta có người bạn tuyệt vời

trong Jesus!' và thế rồi đáp chuyến bay tới Osho

Commune International, Pune, Ấn Độ."

#10Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu,

Nếu thầy mà ở đây ngay bây giờ, tôi nghĩ tôi sẽ

đánh cho thầy một cái. Nếu thầy không nhận ra tôi

sớm và bắt đầu nói có với tôi thay vì nói không, tôi

sẽ phải giết thầy.

Somendra... cám ơn bạn, Somendra! Tôi cũng sẽ

cần một Judas; bằng không câu chuyện này sẽ vẫn còn

không đầy đủ. Tôi có thể là một Jesus chỉ với một

Judas. Vâng, ai đó phải làm công việc của Judas - đó là

việc khó.

Có trường phái huyền bí bí mật mang theo truyền

thống rằng Judas là một trong những đệ tử vâng lời

nhất của Jesus. Ông ấy đã phản bội Jesus bởi vì Jesus

muốn bị phản bội.

Đó đích xác là điều George Gurdjieff hay nói: rằng

Judas không phải là kẻ phản bội, ông ấy đơn gian tuân

theo Jesus. Và việc vâng lời của ông ấy là toàn bộ tới

mức khi Jesus nói, "Đi và phản bội ta đi, và bán ta lấy

ba mươi đồng bạc," ông ấy đã đi và làm điều đó. Tất

nhiên, ông ấy cảm thấy rất tiếc vì làm điều đó, khổ sở,

trong đau khổ sâu sắc, nhưng ông ấy phải tuân theo

thầy. Cho nên ông ấy đã phản bội Jesus, Jesus bị đóng

đinh, và hôm sau Judas tự tử. Judas chết ngày hôm

sau. Ông ấy phải đã cảm thấy rất tồi tệ, mặc dầu ông

ấy phải tuân theo thầy. Ông ấy là người thông minh

nhất trong mọi đệ tử của Jesus.

Cho nên, Somendra này, ai đó phải làm công việc

vất vả của Judas. Một ngày nào đó, tôi có thể chọn bạn

- đừng lo nghĩ và đừng vội vàng! Một ngày nào đó tôi

có thể ra lệnh cho bạn, "Bây giờ, Somendra, bạn có thể

giết tôi."Nhưng trước lúc đó, để tôi giết bạn đã!

Và đó là lí do tại sao tôi cứ nói không với bạn. Đó

là phương cách của tôi để giết bạn. Bạn muốn được

thừa nhận, nhưng sẽ là quá sớm nếu tôi thừa nhận bạn.

Nó sẽ không là gì ngoài thừa nhận bản ngã của bạn.

Tôi sẽ thừa nhận bạn chỉ khi tôi thấy bản ngã của bạn

đã biến mất; trong khi bản ngã có đó tôi sẽ cứ phá huỷ

nó. Không của tôi không là gì ngoài cú đánh vào bản

ngã.

Có cũng sẽ được nói khi bạn đã trở nên có khả

năng chấp nhận không của tôi một cách vui vẻ. Khi

bạn đã trở nên xứng đáng với việc nhận có, nó sẽ tới

theo cách riêng của nó; bạn không cần nhắc tôi. Việc

nhắc của bạn sẽ chỉ làm chậm trễ nó. Việc bạn nhắc tôi

làm cho tôi nói nhiều không hơn với bạn. Bạn không

thể ép buộc có lên tôi được, bạn không thể buộc tôi nói

có với bạn được. Nếu bạn có thể ép buộc có lên tôi,

toàn thể chức năng là thầy của tôi sẽ bị phá huỷ. Bạn

không thể ép buộc cái gì lên tôi được.

Đi qua những cái không này đi: đây là đêm tối của

linh hồn. Và khi đêm là tối nhất, bình minh là rất gần.

#10Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Có phải kinh sách không thực sự hữu dụng gì dù

bất kì cái gì không?

Thomas, kinh sách là hay, nhưng chỉ hay cho

những người có thể hiểu chúng - không phải hay cho

bạn. Bạn không thể hiểu được chúng, bạn chỉ có thể

hiểu lầm chúng. Tôi không chống lại kinh sách - làm

sao tôi có thể chống lại được? Tôi đang nói về một

trong những kinh sách đó, Dhammapada, những châm

ngôn của Phật. Tôi đã nói về những châm ngôn của

Jesus, tôi đã nói về Mahavira, về Krishna. Tôi đã nói

về Upanishads, tôi đã nói về Đạo Đức Kinh. Tôi đã nói

về gần hết những bản kinh hay của thế giới. Làm sao

tôi có thể chống lại chúng và làm sao tôi có thể nghĩ

chúng là vô dụng được? - mặc dầu tôi vẫn nhấn mạnh

rằng bạn không phụ thuộc vào chúng. Với bạn chúng

không hữu dụng.

Thế thì cái dụng của chúng là gì? Cái dụng của

chúng là việc hoàn toàn khác. Khi bạn trở nên có tính

thiền hơn, khi bạn đi sâu hơn vào thiền, khả năng và sự

sáng tỏ của bạn càng có nhiều hơn để hiểu kinh sách.

Kinh sách sẽ trở thành nhân chứng cho bạn rằng bạn

đang đi đường đúng. Và khi bạn đạt tới cốt lõi bên

trong nhất của mình, khi bạn nhận ra bản thể của mình,

thế thì bạn sẽ biết điều Jesus ngụ ý bởi vương quốc của

Thượng đế, thế thì bạn sẽ biết điều Phật ngụ ý bởi niết

bàn, thế thì bạn sẽ biết điều Upanishads ngụ ý chân lí -

không trước điều đó.

Ngay bây giờ, nếu bạn đọc Kinh Thánh hay Koran

hay Gita, bạn sẽ diễn giải chúng tương ứng với trạng

thái vô ý thức của bạn, tương ứng với trạng thái phi

thiền của bạn. Bạn sẽ diễn giải sai, bạn sẽ hiểu sai. Bạn

không ở hình thể đúng; bạn đang biến trên thành dưới,

bạn đang lộn ngược. Bạn là lẫn lộn, hỗn độn. Bạn là

đám đông, bạn còn chưa là cá nhân. Bạn không có

trung tâm chút nào. Cho nên làm sao bạn sẽ hiểu được

Jesus hay Phật hay Krishna?

Nhớ một điều rất nền tảng: bạn có thể hiểu Jesus

chỉ nếu bạn đã nếm trải cái gì đó của tâm thức Christ

trong bạn; bằng không thì không có cách nào. Bạn có

thể có vài thoáng nhìn về Phật chỉ khi bạn đã đạt tới

cái gì đó của phật tính, hình thể nào đó, hương vị nào

đó, hương thơm nào đó. Khi bạn đã đi vào đất của Phật

và chư phật, thế thì bạn sẽ có khả năng thấy nghĩa này.

Bằng không, lời có đó, nhưng ai sẽ đặt nghĩa vào

những lời đó? Bạn sẽ đặt nghĩa vào những lời đó. Bạn

sẽ đọc Krishna nhưng bạn sẽ không thực sự đọc

Krishna đâu - bạn sẽ đọc bản thân mình qua Krishna.

Lời sẽ là của Krishna, nghĩa sẽ là của bạn - và chính

nghĩa mới có ý nghĩa chứ không phải lời.

Chauncey de Plotkin phải chịu cái đau buốt của

bệnh vẩy nến. Sau khi cố gắng một cách vô ích dùng

các thuốc thông thường bán ở quầy anh ta cuối cùng

phải tới tư vấn bác sĩ và được cho một đơn thuốc và

được dặn cách dùng và khi nào dùng thuốc.

Tối hôm đó ở nhà, vợ của Chauncey ngạc nhiên

khi thấy chồng mình tợp một thìa thuốc, chạy ra khỏi

nhà và lao đi quanh khối nhà. Khi trở về anh ta kiệt

sức tới mức gieo mình phịch lên giường và thở hết hơi.

Đến buổi tối thứ hai anh ta lặp lại cùng biểu diễn

đó: anh ta chiêu thuốc, phi nước đại quanh khối nhà và

trở về nhà mình vài phút sau đó.

Đến tối thứ ba anh ta đổi chiến thuật. Lần này anh

ta uống thuốc như thường, nhưng thay vì chạy đua anh

ta bắt đầu nhảy quanh phòng với mọi dáng của loài da

dày nhảy cỡn.

Chị vợ không thể đừng được thêm nữa.

"Chauncey," cô ấy kêu lên, "anh đang làm gì trong thế

giới mà chạy quanh khu nhà và nhảy như con choi

choi thế? Anh có mất trí không đấy?"

"Tất nhiên không,"ông xã mệt lử đáp. "Anh chỉ

theo mệnh lệnh của bác sĩ thôi. Ông ấy bảo anh uống

thuốc hai đêm chạy và bỏ qua đêm thứ ba."

Lời có thể là của Christ, Phật, Zarathustra, nhưng

ai sẽ đem nghĩa cho chúng? Chauncey de Plotkin - anh

ta sẽ đưa nghĩa vào những lời đó! Anh ta sẽ áp đặt

nghĩa của mình, anh ta sẽ phóng chiếu nghĩa của mình.

Tôi không chống lại kinh sách. Làm sao tôi có thể

chống lại được? Tôi ủng hộ kinh sách, nhưng tôi

không thể nói với bạn rằng qua kinh sách bạn có thể

tìm thấy chân lí. Điều đó là không thể được.

Một nhà truyền giáo Ki tô giáo và một giáo sĩ cùng

đi trên một chuyến tàu hoả. Nhà truyền giáo Ki tô giáo

nói với giáo sĩ, "Jesus cứu rỗi."

Giáo sĩ nhìn nhà truyền giáo và rồi nói, "Nhưng

Moses đầu tư."

Lời nhất định được bạn tô mầu, chúng nhất định là

một phần của bạn. Chúng có thể giáng xuống từ các

cội nguồn rất cao.... Nó cũng giống như hạt mưa. Khi

nó tới từ mây nó là thuần khiết, thuần khiết nhất,

nhưng khi nó rơi xuống đất nó phụ thuộc vào đất. Nếu

nó rơi và phân bò, thế thì có thể linh thiêng cho người

Hindu nhưng không linh thiêng cho ai khác! Nước

thuần khiết rơi xuống từ cõi trời sẽ có mầu của đất mà

nó rơi xuống, sẽ có mùi vị của đất mà nó rơi xuống.

Đích xác cùng điều này là trường hợp với lời rơi từ

Phật, Jesus, Zarathustra, Lão Tử. Nó tuỳ thuộc vào đất

của bạn - vào tâm trí bạn. Và trạng thái tâm trí bạn là

gì? Bạn có thể nghĩ cái gì nguyên bản được không?

Bạn có thể hiểu cái gì nguyên bản được không? Tâm

trí bạn chỉ lặp lại cái nó đã nghe hay đọc, cái đã được

dạy. Nó là cái máy; nó không bao giờ có thể tạo ra một

ý nghĩ nguyên bản. Ý nghĩ nguyên bản chưa bao giờ

tới từ tâm trí; nó tới từ cõi bên kia.

Phật dùng tâm trí để trao đổi với bạn. Ông ấy phải

dùng lời, hiển nhiên, và bằng việc dùng lời ông ấy

đang lấy bước nguy hiểm. Trong bẩy ngày ông ấy đã

ngần ngại.... Khi ông ấy trở nên chứng ngộ, trong bẩy

ngày ông ấy đã không thốt ra một lời.

Câu chuyện là ở chỗ các thần từ cõi trời xuống,

chạm chân ông ấy, và xin ông ấy chuyển giao chân lí

mà ông ấy đã đạt tới bởi vì quần chúng đã khát khao

về điều đó thế. Cả triệu người sẽ được lợi.

Ông ấy nghe trong im lặng sâu sắc. Ông ấy đơn

giản nói một điều: "Khi có liên quan tới ta, trong bẩy

ngày ta đã đắn đo về điều đó và đây là kết luận của ta:

rằng những người có thể hiểu ta không cần nghe lời

của ta. Những người có thể hiểu ta đã có tính thiền rồi,

họ đã trên đường rồi. Họ không cần lời ta; đằng nào họ

cũng sẽ đạt tới, dù có ta hay không có. Có thể với ta họ

sẽ đạt tới sớm hơn chút ít, một mình sẽ chậm hơn chút

ít, nhưng có khác biệt gì trong vĩnh hằng liệu ông tới

sớm một năm hay chậm một năm?

"Những người không thể hiểu ta nhất định hiểu

lầm. Lời của ta sẽ trở thành vấn đề cho họ. Họ đã lẫn

lộn rồi và ta không muốn làm họ lẫn lộn thêm nữa. Lời

của ta sẽ tạo ra nhiều lẫn lộn hơn trong họ."

Các thần đâm ra lúng túng phải nói gì đây, làm sao

thuyết phục được Phật. Họ ra đi. Họ thảo luận giữa họ

về điều đó để tìm ra cách nào đó, và thế rồi họ quay lại

với một luận cứ mới. Họ nói, "Thầy là đúng, có những

người, rất ít người, sẽ hiểu thầy ngay lập tức. Và vâng,

chúng tôi đồng ý với thầy một cách toàn bộ, họ không

cần điều đó; đằng nào họ cũng sẽ đạt tới. Họ ở ngay

đường biên rồi: một bước nữa và họ sẽ là chư phật.

Cho dù không có thầy họ vẫn sẽ trở thành chư phật,

điều đó là chắc chắn. Nếu thầy có thể trở thành vị phật

mà không có vị phật khác giúp thầy, họ cũng có thể trở

thành - chúng tôi có thể hiểu điều đó.

"Và điểm kia của thầy cũng đúng: có hàng triệu

người sẽ không hiểu thầy. Nhưng chúng tôi không

đồng ý với thầy rằng lời của thầy sẽ tạo ra nhiều lẫn

lộn hơn. Những người đó đã bị lẫn lộn thế, không thể

có lẫn lộn hơn được. Họ đã đạt tới đáy tảng đá của lẫn

lộn; thầy không thể làm họ lẫn lộn thêm nữa được.

Cho nên đừng lo nghĩ về họ.

"Và chúng tôi đã nghĩ về loại người thứ ba nữa. Có

vài người ở ngay giữa hai loại này: người không được

tiến hoá tới mức mà họ sẽ lập tức hiểu thầy và trở nên

chứng ngộ và người không phải là không tiến hoá tới

mức họ sẽ đơn giản trở nên bị lẫn lộn hơn bởi việc

nghe thầy. Họ ở chính giữa - một thiểu số, nhưng có

những người đó. Với sự giúp đỡ của thầy họ sẽ đạt tới

bờ bên kia; không có sự giúp đỡ của thầy họ có thể vẩn

vơ hết thế kỉ nọ tới thế kỉ kia.

"Và thầy đúng khi nói rằng điều đó có tạo khác

biệt gì đâu trong vĩnh hằng? Nó không tạo khác biệt gì

đối với thầy bởi vì thầy biết cái vĩnh hằng, nhưng với

những người đáng thương kia, người sống trong thời

gian thì điều đó tạo ra nhiều khác biệt chứ. Trong

nhiều, nhiều kiếp họ sẽ đau khổ. Với thầy điều đó

không tạo ra khác biệt gì - thầy đã đi vào vĩnh hằng rồi

- nhưng họ đang sống trong thời gian, và thời gian

nghĩa là sinh, tử và bánh xe sinh tử. Và họ sẽ phải cứ

theo bánh xe này, trong cái vòng luẩn quẩn này, cả

triệu lần. So với vĩnh hằng nó chẳng là gì cả, nhưng so

với cuộc sống nhỏ bé này - cuộc sống bẩy mươi năm,

cuộc sống sáu mươi năm - nó là quá nhiều. Thầy phải

nghĩ về loại người thứ ba đó nữa chứ."

Phật lắng nghe họ và lập tức đồng ý nói. Ông ấy

theo luận cứ này: vâng, có loại người thứ ba. Loại

người thứ nhất là những người không thể hiểu được

chút nào. Lời họ có thể hiểu; về mặt trí tuệ họ có khả

năng hiểu bất kì điều gì được nói cho họ. Nhưng sâu

bên dưới nghĩa bị bỏ lỡ, ý nghĩa bị bỏ lỡ. Họ nghe âm

nhạc, nhưng họ không bắt được giai điệu của nó. Họ

nghe tiếng động, nhưng họ không cảm thấy sự hài hoà;

đó là hiện tượng tinh tế. Họ nghe lời nói.

Tất cả ba loại này đều ở đây. Đa số nghe lời tôi,

nhưng họ sẽ không cảm thấy im lặng của tôi, họ sẽ

không cảm thấy sự hiện diện của tôi trong họ. Điều đó

là như nhau với họ. Họ có thể đọc sách, họ có thể nghe

băng hay họ có thể nghe tôi trực tiếp; nó tất cả là như

nhau với họ, không khác biệt, bởi vì lời là như nhau.

Nhưng với loại người thứ hai có khác biệt. Đọc lời

tôi trong sách là một điều, bởi vì tôi sẽ không có đó

trong những lời đó, sự hiện diện của tôi sẽ không có

đó. Tôi sẽ không thở trong những lời đó; chúng sẽ

chết. Khi bạn nghe băng có tốt hơn sách chút ít, nhưng

dầu vậy sự hiện diện của tôi vẫn không có đó. Băng là

việc lặp lại máy móc; không có ai đằng sau chúng.

Ở đây khi bạn đang nghe tôi, lời tôi có đó và im

lặng của tôi có đó. Im lặng của tôi có thể đi cùng lời

nếu bạn sẵn có. Loại người thứ hai sẽ có khả năng cảm

thấy sự hiện diện của tôi, im lặng của tôi, bài ca của

tôi. Và loại người thứ nhất sẽ lập tức nhận ra rằng đây

là nó! Chứng ngộ bất thần... thậm chí không một lỗ

hổng khoảnh khắc.

#10Câu hỏi thứ năm:

Thưa thầy kính yêu,

Hôm nọ tôi đọc thấy rằng Taru đã gặp thầy một

lần trên phố của Bombay trong khi thầy đang cầm

túi rượu gin và uytski trong cả hai tay. Thầy có

thực sự là người say không?

Prem Aditya, nếu Taru nói thế, nó phải thế thôi.

Tôi là người say tới mức tôi không thể nhớ được!

Vâng, mơ hồ tôi nhớ Taru có gặp tôi trên phố của

Bombay. Tôi có thể nhớ cái ôm ghì của cô ấy - nó khó

mà quên được! Nhưng trí nhớ của tôi không tốt mấy...

cho nên có thể tôi cầm chai whisky trong cả hai tay tôi.

Điều đó đã từng rất thông thường với các Thiền sư

ở Nhật Bản. Đó là giai đoạn cuối của chứng ngộ!

Được chứng ngộ nghĩa là hoàn toàn bị say - say với

điều thiêng liêng.

Có thể những chai rượu whisky đó trống rỗng.

Chúng phải đã là vậy, bởi vì người say như tôi không

thể giữ được những cái chai đó đầy lâu lắm đâu.

Khoảnh khắc tôi có chúng tôi uống chúng liền. Tôi

không trì hoãn cái gì cả! Nhưng trí nhớ của tôi không

được tốt lắm....

"Bác sĩ ơi, tôi có vấn đề nghiêm trọng," Max bắt

đầu. "Tôi mất trí nhớ của mình - có thể tôi đã mất nó

hoàn toàn. Tôi dường như không thể nhớ được cái gì."

Nhà tâm thần mỉm cười một cách bao dung. "Tôi

chắc là nó không hoàn toàn mạnh đâu. Anh phải nhớ

được cái gì chứ."

"Không, chẳng nhớ cái gì cả. Tôi nói với ông, tôi

không thể nhớ được một điều gì."

"Tất nhiên anh ngụ ý quên những điều như tên và

khuôn mặt và ngày tháng chứ gì? Tất cả chúng ta đôi

lúc cũng đều quên chúng."

"Bác sĩ ơi, ông không hiểu. Tôi ngụ ý mọi thứ!"

"À, điều đó là vô nghĩa thuần khiết đấy!" bác sĩ bật

ngón tay. "Không ai quên mọi thứ mà người đó đã

từng biết. Ngay cả người bị chứng quên cũng nhớ cái

gì đó - như liệu anh ta uống cà phê hay trà hay liệu anh

ta có hút thuốc lá không."

"Nghe đây, bác sĩ," Maxwell nói một cách thất

vọng, "tôi nói với ông lần cuối - tôi không thể nhớ

được cái gì chút nào. Mọi thứ tôi thấy, mọi thứ tôi

nghe, mọi thứ tôi đọc, nó chỉ gây ấn tượng tạm thời và

thế rồi nó ra khỏi đầu tôi mãi mãi. Vậy đấy, bác sĩ, tôi

thề với ông. Tôi đơn giản không thể nhớ được một thứ

phải gió nào!"

Nhà tâm thần cau mày, ngửa lưng trong ghế và đắn

đo mãi về cái bệnh duy nhất này. Thế rồi ông ta hỏi,

"Điều này đã diễn ra bao lâu rồi?"

"Cái gì đã diễn ra bao lâu rồi?"

Đó cũng là tình huống của tôi nữa! Tôi không nhớ

mấy. Tôi không quan tâm mấy tới quá khứ, tôi không

quan tâm tới tương lai nữa. Toàn thể mối quan tâm của

tôi là trong khoảnh khắc hiện tại.

Và bạn có thể thấy ngay bây giờ - tôi là người say!

Sao bận tâm điều Taru nói, và ở đâu đó nó được viết ra

và bạn đọc nó? Sao bận tâm? Bạn có thể nhìn vào

trong mắt tôi... và chúng đầy whisky đấy!

Và nếu bạn không tin tôi, tới tôi ở chỗ riêng tư, và

tôi sẽ khóc một ít và bạn có thể nếm nước mắt tôi. Và

bạn sẽ biết chúng có vị gì - chúng có vị whisky! Nếu

Jesus có thể biến cả đại dương thành rượu, tôi không

thể biến nước mắt của mình thành rượu sao?

#10Câu hỏi thứ sáu:

Thưa thầy kính yêu,

Chẳng cương cứng gì xảy ra. Tôi có còn tính dục

không? Cá tới, nhưng đi vẫn khát.

Sant... Sant, suy tư về câu châm ngôn này của

Murphy: Nếu bạn chơi với cái gì đó đủ lâu, bạn chắc

chắn sẽ phá vỡ nó.

Con mèo đực lớn đang nhìn con mèo cái lanh lợi

từ đằng sau hàng rào chăng dây thép gai. Cuối cùng,

nó quyết định nhảy qua hàng rào để tới con mèo cái.

Với một cú nhảy đại nó đáp xuống phía bên kia.

"Này, cậu không phải là Toby, mèo đực sao?" con

mèo cái hỏi.

"Không còn đâu," nó đáp. "Hàng rào kia cao hơn

tớ tưởng."

Câu hỏi thứ bẩy:

Thưa thầy kính yêu,

ABC của tâm lí là gì?

A của tâm lí: người thần kinh xây lâu đài không

khí. B của tâm lí: loạn thần kinh sống trong họ. C của

tâm lí: nhà tâm thần thu tiền thuê.

Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Tại sao thầy quyết định nói thay vì viết ra triết lí

của thầy?

Gautam, chính tả của tôi còn tồi hơn phát âm

nhiều!

Đủ cho hôm nay.

END

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro