Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Con đường của Phật (Tập 2)

OSHO
Dhammapada: Con đường của Phật

The Dhammapada: The Way of the Buddha

Tập 2

Đây là con đường đi tới chân lí tối thượng

Mục lục
1. Trí huệ của hồn nhiên
2. Uống tới tràn đầy và nhảy múa
3. Và đi tiếp
4. Lan truyền tin đồn!
5. Trong rác của lề đường
6. Đây là nó
7. Thìa có nếm canh không?
8. Thượng đế yêu tiếng cười
9. Gieo mầm phúc lạc
10. Luật - cổ đại và không thể cạn
Về Osho

Bài nói ngẫu hứng cho các đệ tử và bạn bè của Osho tại Thính phòng Phật Gautam Poona, Ấn Độ

************************************************************************************************************

#1 Trí huệ của hồn nhiên

**Làm sao tâm trí rối loạn
hiểu con đường?
Nếu một người bị rối loạn
Người đó sẽ không bao giờ được tràn đầy với tri
thức.
Tâm trí không rối loạn,
không còn tìm kiếm xem xét
cái gì là phải và cái gì là trái,
Tâm trí vượt ra ngoài mọi phán xét,
quan sát và hiểu.
Biết rằng thân thể là cái bình mảnh mai,
và tạo nên lâu đài của tâm trí ông.
Trong mọi thử thách
để hiểu biết tranh đấu cho ông
để bảo vệ điều ông có được.

Vì chẳng mấy chốc thân thể này sẽ bị bỏ đi.
Vậy nó cảm thấy cái gì?
Khúc gỗ vô dụng, nằm trên đất.
Vậy nó biết gì?
Kẻ thù tồi tệ nhất của ông không thể làm hại ông
nhiều như các ý nghĩ riêng, khinh suất của ông.
Nhưng một khi bị nó khống chế,
không ai có thể giúp ông được mấy,
cho dù cả bố hay mẹ ông.**

Có lần tôi được hỏi, "Triết lí là gì?" Tôi nói, "Triết
lí là nghệ thuật hỏi câu hỏi sai." Người mù hỏi "Ánh
sáng là gì?" - đây là triết lí. Người điếc hỏi "Âm nhạc
là gì? Âm thanh là gì?" - đây là triết lí.
Nếu người mù hỏi, "Làm sao tôi có thể lấy lại
được đôi mắt?" đây không còn là triết lí nữa, đây là tôn
giáo. Nếu người điếc đi tới bác sĩ để được chữa trị sao
cho người đó có thể nghe được, thế thì người đó đang
đi theo hướng của tôn giáo và không theo hướng của
triết lí.
Triết lí là đoán chừng, nó là bàn tán; chẳng biết gì,
người ta cố phát minh ra chân lí. Và chân lí không thể
được phát minh, và bất kì cái gì được phát minh ra
không thể đúng được. Chân lí phải được khám phá ra.
Nó đã có đó rồi... mọi điều chúng ta cần là con mắt cởi
mở - con mắt để thấy nó, trái tim để cảm nó, bản thể
để hiện diện với nó. Chân lí bao giờ cũng hiện diện
nhưng chúng ta vắng mặt, và bởi vì chúng ta vắng mặt

chúng ta không thể thấy được chân lí. Và chúng ta cứ
hỏi về chân lí, mà chúng ta không hỏi câu hỏi đúng:
Làm sao hiện diện? Làm sao để trở thành sự hiện diện?

Chúng ta hỏi về chân lí và việc hỏi đó đi xa khỏi
nó, bởi vì việc hỏi ngụ ý rằng câu trả lời là có thể có từ
ai đó khác. Việc hỏi ngụ ý rằng ai đó khác có thể nói
cho bạn chân lí là gì. Không ai có thể nói cho bạn điều
đó được, điều đó không thể được nói.

Lão Tử nói: Chân lí có thể được nói ra không còn
là chân lí nữa. Một khi được nói ra, nó trở thành dối
trá.
Tại sao? - bởi vì người biết, biết nó không phải
như thông tin; bằng không, sẽ rất dễ dàng truyền thông
tin này cho bất kì ai sẵn sàng nhận nó. Chân lí được
biết như kinh nghiệm bên trong. Nó giống như việc
nếm trên lưỡi. Nếu một người chưa bao giờ nếm vị
ngọt là gì, bạn không thể giải thích nó cho người đó
được - điều đó là không thể được. Nếu một người chưa
thấy mầu sắc, bạn không thể giải thích cho người đó
nó là gì.
Có những điều chỉ có thể được kinh nghiệm, và
qua kinh nghiệm, được hiểu. Thượng đế là kinh
nghiệm tối thượng đó, điều hoàn toàn không thể diễn
đạt nổi, không thể truyền đạt nổi. Nó không thể được
truyền đạt. Nhiều nhất, vài hướng dẫn có thể được cho;
nhưng những hướng dẫn đó cũng phải được nhận bằng
trái tim rất thông cảm, bằng không bạn sẽ bỏ lỡ chúng.

Nếu bạn diễn giải chúng bằng tâm trí mình bạn sẽ
bỏ lỡ chúng, bởi vì tâm trí bạn có thể làm gì khi có liên
quan tới việc diễn giải? Nó chỉ có thể đem quá khứ
riêng của nó vào. Nó chỉ có thể đem hỗn độn riêng của

nó vào. Nó có thể đem những xung đột, hoài nghi, lẫn
lộn của nó vào. Và với tất cả những cái đó nó sẽ áp đặt
lên chân lí, lên hướng dẫn được trao cho bạn, và lập
tức mọi sự bị bóp méo. Tâm trí bạn không ở trong
trạng thái để thấy, để cảm.
Tôn giáo đơn giản nghĩa là tạo ra một không gian
trong tâm trí của bạn, cái có năng lực thấy, cái có năng
lực của không xung đột, cái có năng lực là một mà
không chia chẻ gì, cái có năng lực toàn vẹn, sáng tỏ,
cảm nhận. Tâm trí với đầy những ý nghĩ không thể
cảm nhận được; những ý nghĩ đó cứ can thiệp vào.
Những ý nghĩ có đó, hết tầng nọ tới tầng kia. Vào lúc
cái gì đó đạt tới cốt lõi bên trong nhất của bạn, nếu mà
nó đạt tới, nó không còn là như nó đã được chuyển
giao bởi ai đó, người đã biết. Nó là một hiện tượng
khác toàn bộ.

Phật hay lặp lại từng hướng dẫn ba lần. Ai đó hỏi
ông ấy, "Sao thầy lặp lại một thứ những ba lần?"
Ông ấy nói, "Ngay cả ba lần cũng không đủ. Khi ta
nói điều đó lần thứ nhất, ông chỉ nghe thấy lời thôi.
Những lời đó trống rỗng, chỉ trống rỗng, cái vỏ hổng,
không có nội dung. Ông không thể nghe thấy nội dung
ở lần thứ nhất. Lần thứ hai, ông nghe nội dung qua lời,
hương thơm tới, nhưng ông bàng hoàng thế, ông bị bối
rối bởi sự hiện diện của nó đến mức ông không ở vào
trạng thái để hiểu. Ông nghe, nhưng ông không hiểu.
Đó là lí do tại sao ta phải lặp lại nó ba lần."

Tôi cứ lặp đi lặp lại bởi một lẽ đơn giản là các bạn
ngủ thế - nó phải được lặp lại, được gõ búa vào. Có thể
trong khoảnh khắc nào đó, khoảnh khắc thuận lợi nào

đó, các bạn sẽ không ở sâu thế trong giấc ngủ; các bạn
có thể ở gần, rất gần với việc thức, và cái gì đó có thể
đi vào trong các bạn. Các bạn có thể có khả năng nghe
thấy. Vâng, có những khoảnh khắc khi các bạn rất gần
với việc thức - không thức, không ngủ, chỉ ngay ở
giữa, đâu đó ở giữa.
Mỗi sáng các bạn đều biết, có vài khoảnh khắc khi
giấc ngủ không còn nữa nhưng các bạn vẫn chưa thức,
các bạn không thể nói được là mình thức. Các bạn có
thể nghe thấy, theo một cách rất mơ hồ, âm thanh của
chim chóc, và tiếng người rao hàng, và tiếng vợ nói
với hàng xóm và tiếng trẻ con sửa soạn tới trường, và
tiếng ồn ào giao thông, và tiếng tàu hoả chạy qua -
nhưng theo một cách rất mơ hồ, không toàn bộ, chỉ bộ
phận. Và các bạn cứ lơ lơ trong giấc ngủ. Khoảnh khắc
này các bạn nghe thấy tiếng ồn của tàu hoả chạy qua,
khoảnh khắc khác các bạn đã đi sâu hơn vào giấc ngủ
của mình.
Bây giờ các nhà nghiên cứu về giấc ngủ nói rằng
điều đó xảy ra liên tục trong giấc ngủ của bạn: nếu bạn
ngủ tám giờ, bạn không ở cùng mức độ liên tục, mức
độ của bạn cứ thay đổi, hết đỉnh đến thung lũng. Cả
đêm bạn đi lên và đi xuống. Đôi khi bạn ở rất sâu
trong giấc ngủ nơi ngay cả mơ cũng biến mất -
Patanjali đã gọi điều đó là sushupti, ngủ không mơ - và
đôi khi bạn đầy những mơ. Và đôi khi bạn chỉ ngay
bên bờ thức tỉnh. Nếu cái gì đó vỡ tan, sốc xảy ra, bạn
sẽ thức dậy, đột nhiên thức dậy.

Đó là nỗ lực của mọi chư phật: đợi đến đúng
khoảnh khắc khi bạn rất gần tới việc thức tỉnh. Thế thì
một chút ít thúc đẩy và mắt bạn mở ra và bạn có thể
thấy.

Thượng đế không thể được giải thích nhưng có thể
được thấy, có thể được kinh nghiệm - không thể được
giải thích. Bất kì giải thích nào về Thượng đế không là
gì ngoài việc giải thích sai về ngài; do đó, càng có
nhiều tu sĩ, nhà thượng đế học, giáo sư, tôn giáo càng
ít có trên thế giới. Càng nhiều giáo hoàng và nhiều
shankaracharyas, càng ít tôn giáo có đó trên thế giới -
bởi vì những người này cứ giải thích và Thượng đế
không thể nào được giải thích. Họ nhồi nhét vào tâm
trí bạn bằng biết bao nhiêu lời giải thích, bây giờ
những lời giải thích đó trong xung đột. Bây giờ gần
như không thể nào hình dung ra điều đó, cái gì là cái
gì, cái nào là cái nào. Bạn trong lẫn lộn hoàn toàn. Con
người chưa bao giờ trong lẫn lộn như thế trước đây,
bởi vì nhân loại chưa bao giờ ở gần thế trước đây. Trái
đất thực sự đã trở thành làng, làng toàn cầu.

Trong những ngày cổ đại đó các Phật tử chỉ biết
mỗi điều Phật đã nói, và người Mô ha mét giáo chỉ biết
mỗi điều Mohammed đã nói, và người Ki tô giáo chỉ
biết mỗi Jesus. Bây giờ chúng ta đã trở thành người
thừa kế của toàn thể di sản thừa kế của nhân loại. Bây
giờ bạn biết Jesus, bạn biết Zarathustra, bạn biết
Patanjali, bạn biết Phật, bạn biết Mahavira, bạn biết
Lão Tử và hàng trăm lời giải thích khác, hướng dẫn
khác - và chúng tất cả đều nhảy bổ vào bạn. Bây giờ
rất khó kéo bạn ra khỏi sự lẫn lộn này. Cách có thể duy
nhất là vứt toàn bộ sự ồn ào này đi, không phải từng
phần mà toàn bộ. Đó là thông điệp của tôi.

Và bằng việc vứt nó đi, các bạn sẽ không vứt bỏ
Jesus hay Mohammed hay Phật; bằng việc vứt bỏ nó
các bạn sẽ tới gần họ hơn. Bằng việc vứt bỏ nó, các
bạn sẽ đơn giản vứt bỏ các tu sĩ và các truyền thống và
các tục lệ và sự khai thác cứ diễn ra nhân danh truyền

thống và tục lệ. Bằng việc xoá đi tất cả những điều
này, quên đi Kinh Thánh và Vedas và Gita, bạn sẽ đạt
tới sáng tỏ, trong sạch. Vâng, bạn cần việc dọn dẹp
mùa xuân, các bạn cần làm nhẹ gánh toàn bộ cho trái
tim. Chỉ thế, trong im lặng đó, bạn sẽ có khả năng để
hiểu.
Phật nói:

**Làm sao tâm trí rối loạn
hiểu con đường?**

Hàng nghìn người đã tụ tập quanh Phật, cũng như
các bạn đã tụ tập quanh tôi - hàng nghìn người tìm
kiếm đã tới Phật và họ đã hỏi đủ mọi loại câu hỏi. Và
Phật đã không quan tâm tới câu hỏi của họ chút nào;
ông ấy không quan tâm tới việc trả lời chúng. Ông ấy
quan tâm, chắc chắn, tới việc chỉ ra cho họ con đường,
nhưng vấn đề là ở chỗ họ quá băn khoăn với những
câu hỏi và câu trả lời của họ mà họ đã thu thập, họ bị
quá bối rối bởi đủ mọi tri thức họ đã từng mang theo
mình, đến mức không thể nào, gần như hoàn toàn
không thể nào chỉ được cho họ con đường. Do đó mới
có lời kinh này: Làm sao tâm trí rối loạn hiểu được
con đường?
Cho nên thay vì cho họ thêm câu trả lời, thêm giải
thích, Phật bắt đầu lấy đi tri thức của họ, những câu trả
lời làm sẵn của họ, những quan niệm tiên thiên của họ,
những định kiến của họ. Ấn Độ không bao giờ có khả
năng tha thứ cho Phật vì điều đó. Lập tức sau khi ông
ấy chết tâm trí truyền thống của đất nước này bắt đầu
nhổ bật gốc rễ mọi cây cối ông ấy đã trồng; mọi bụi

hồng đều bị thiêu rụi. Phật đã hoàn toàn bị tống ra khỏi
đất nước này. Người con vĩ đại nhất của mảnh đất này
không còn chỗ trú ngụ ở đây nữa; giáo huấn phải tìm
chỗ cư ngụ ở những mảnh đất nước ngoài.
Điều này không phải là ngẫu nhiên, điều này bao
giờ cũng xảy ra. Jesus đã bị những người Do Thái kết
án, người Do Thái đóng đinh, và Jesus là người Do
Thái vĩ đại nhất đã từng ở trên trái đất, việc nở hoa vĩ
đại nhất của tâm thức Do Thái, việc diễn đạt tột cùng,
cao trào, đỉnh Everest. Nhưng sao người Do Thái đã
phủ nhận ông ấy? Họ đáng phải hạnh phúc, họ đáng
phải nhảy múa và mở hội, nhưng họ không thể - họ
không thể tha thứ được cho ông ấy, bởi vì sự hiện diện
của ông ấy làm cho họ cảm thấy rất tầm thường; đó là
tội của ông ấy. Ông ấy phải bị trừng phạt vì điều đó, vì
ở cao thế, vì vượt ra ngoài thế, vì cao siêu thế, vì
duyên dáng thế, vì đem tới tình yêu thế. Vì sự hiện
diện của mình mà ông ấy phải bị trừng phạt, bởi vì sự
hiện diện của ông ấy làm cho mọi người cảm thấy xấu
xí khi so sánh. Ông ấy phải bị loại bỏ để cho tâm trí
tầm thường có thể cảm thấy thoải mái.

Jesus không bị giết bởi người Do Thái, ông ấy bị
giết bởi tâm trí tầm thường. Điều đó đã xảy ra cho tâm
trí Do Thái tầm thường trong trường hợp của Jesus.
Cùng điều đó đã xảy ra với Phật. Phật đã không được
người Hindu dung thứ, và ông ấy đã là người Hindu vĩ
đại nhất. Ông ấy đã là người Hindu thuần khiết nhất có
thể được, chính tinh hoa của Hindu giáo. Điều
Upanishads nói, ông ấy đã hiện thực nó. Ông ấy là việc
hiện thực hoá của khao khát sâu sắc nhất của mảnh đất
này, nhưng ông ấy bị nhổ bật gốc rễ từ đây, ông ấy bị
tống ra khỏi đây.

Phật giáo đã biến mất khỏi Ấn Độ, thậm chí không
dấu vết nào còn đằng sau - hoàn toàn bị xoá sạch sẽ.
Tại sao? Ông ấy đã cực kì được kính trọng ở Tây
Tạng, ở Trung Quốc, ở Hàn Quốc, ở Nhật Bản, ở Thái
Lan, ở Miến Điện, ở Sri Lanka. Toàn thể châu Á yêu
mến con người này, giáo huấn của ông ấy duy nhất
thế, lời của ông ấy hàm chứa thế. Nhưng Ấn Độ đơn
giản đã quên mất tất cả về ông ấy - tâm trí Ấn Độ tầm
thường. Điều đó chẳng liên quan gì với người Ấn Độ
cả - lại là tâm trí tầm thường. Tâm trí tầm thường chưa
bao giờ cho phép các thiên tài; người tầm thường sung
sướng với người tầm thường khác. Người ngu sung
sướng với người lãnh đạo ngu. Lãnh đạo càng ngu,
mọi người càng sung sướng - bởi vì ông ta trông giống
họ nhiều thế.

Tôi đã nghe:
Một giám thị mới được bổ nhiệm vào một nhà
thương điên. Người cũ chuyển giao trách nhiệm, ông
ta về hưu, và một bữa tiệc nhỏ được tổ chức để để mọi
người trong bệnh viện cám ơn người cũ về phục vụ
của ông ta, và tiếp đón người mới bởi các bệnh nhân.
Mọi người điên được tập hợp.
Giám thị cũ có chút ít phân vân; ông ấy chưa bao
giờ thấy họ sướng thế. Mọi người điên đều sướng, vui
tới mức ông ta không thể đừng được cám dỗ hỏi họ -
và ông ta sắp đi cùng ngày này, cho nên ông ta phải
hỏi ngay; bằng không bao giờ cũng còn điều tò mò
trong tâm trí và ông ta sẽ chẳng bao giờ biết được câu
trả lời.
Ông ta hỏi người điên. "Sao anh trông sướng thế?"

Họ nói, "Bởi vì ông giám thị mới kia - ông ấy
trông hệt như chúng tôi! Ông là người ngoài chúng tôi,
ông lành mạnh. Ông ấy trông có vẻ điên!"
Và điều đó là sự thật - viên giám thị mới gần như
điên khùng. Nhưng những người điên rất sướng Ai đó
bây giờ đã tới, người sẽ không làm cho họ cảm thấy họ
điên.

Điều này bao giờ cũng là tình huống trên trái đất
này - trái đất này là nhà thương điên - và bất kì khi nào
một người lành mạnh xảy ra, chúng ta đều cư xử
không phải với người đó. Hàng nghìn người đã tới
Phật để hỏi, "Thượng đế ở đâu? Thượng đế là gì?" Và
đặc biệt là các brahmins, các bác học, các học giả,
những người đầy am hiểu, am hiểu về các kinh sách,
họ thường tới ông ấy để hỏi, "Ông có tin vào Thượng
đế không? Định nghĩa niềm tin của ông, giải thích khái
niệm của ông."
Và Phật cứ khăng khăng lặp đi lặp lại: Làm sao
tâm trí rối loạn hiểu được con đường? Ông ấy thường
nói, "Xin đừng hỏi về Thượng đế. Việc hỏi của ông về
Thượng đế hệt như người mù hỏi về ánh sáng - điều đó
không thể được giải thích. Ta là thầy chữa," ông ấy
nhấn mạnh. "Ta có thể chữa mắt của ông, ta có thể trao
lại cho ông cái nhìn. Và thế rồi tự bản thân ông sẽ có
khả năng thấy, và ánh sáng phải được ông thấy chứ.
Việc thấy ánh sáng của ta chẳng có ích gì cả. Ta có thể
thấy ánh sáng, ta thậm chí có thể mô tả nó, nhưng điều
đó sẽ không cho ông ý tưởng nào về nó là gì."
Thực ra không có cách nào có thể để diễn đạt cho
người mù ánh sáng là gì. Ánh sáng là kinh nghiệm, cái

gì đó có tính tồn tại, không giải thích nổi. Và Thượng
đế là ánh sáng tối thượng, ánh sáng của mọi ánh sáng,
ánh sáng đằng sau mọi ánh sáng, cội nguồn của mọi
ánh sáng. Làm sao Thượng đế có thể được giải thích
cho bạn nếu bạn mù?
Do đó Phật chẳng bao giờ nói về Thượng đế. Và
các nhà bác học và các brahmins sẽ quay về chỗ của
họ mà lan truyền tin đồn và nói rằng "Người này
không trả lời câu hỏi này bởi vì ông ta không biết;
bằng không, sao ông ấy không thể đơn giản nói có hay
không? Chúng tôi đã hỏi câu hỏi rất đơn giản, 'Ông có
tin vào Thượng đế không?' Ông ấy có thể đã nói có
hay không - nếu ông ấy biết thế thì câu trả lời là đơn
giản. Nhưng ông ấy nói vòng vo; chúng tôi hỏi về
Thượng đế và ông ấy nói theo kiểu cách ngôn. Ông ấy
nói, 'Làm sao điều đó có thể được nói ra? Làm sao
điều đó có thể được giải thích?' Sự kiện thực là ông ấy
không biết. Sự kiện thực là ở chỗ ông ấy là kẻ vô thần
trá hình; ông ấy đang lừa mọi người, làm biến chất mọi
người."

Người Hindus đã bịa ra một câu chuyện rất tinh
ranh về Phật. Họ nói rằng Thượng đế đã tạo ra thế
giới, và đồng thời ngài đã tạo ra địa ngục và cõi trời -
địa ngục cho những người bị trừng phạt và cõi trời cho
những người được trọng thưởng vì đức hạnh của họ.
Nhưng chuyện xảy ra là hàng nghìn năm qua đi chẳng
ai vào địa ngục cả, bởi vì không ai phạm tội. Tất nhiên,
quỉ rất mệt mỏi vì cứ chờ đợi hoài và chờ đợi và chờ
đợi - không có việc làm, không có kinh doanh! Thậm
chí không một linh hồn nào đã xuất hiện!

Cực kì tức giận, quỉ lên Thượng đế và nói, "Sao
ông làm ra địa ngục này, để làm gì? Và sao ông đẩy tôi
vào đó chịu trách nhiệm? Chúng tôi mệt rồi, nhân viên
của tôi mệt hết cả rồi. Chẳng ai xuất hiện cả. Chúng tôi
mở cửa hàng và chúng tôi ngồi cả ngày mà chẳng có
một khách hàng nào! Chúng tôi để cửa mở - không
một linh hồn nào đã từng vào. Phỏng có ích gì? Xin
giải phóng chúng tôi khỏi việc này đi."
Thượng đế nói, "Sao ông không đến sớm hơn? Ta
quên khuấy mất về điều đó. Ta sẽ thu xếp vậy. Ngay
đây ta sẽ sinh vào trong thế giới là Phật Gautama, và ta
sẽ làm biến chất tâm trí mọi người. Ta sẽ làm biến chất
tâm trí họ nhiều tới mức ông sẽ bị chật ních đấy. Ông
cứ về địa ngục đi và đợi đấy."
Và đó là cách chuyện xảy ra. Câu chuyện nói,
Thượng đế vào thế giới là Phật Gautama, làm biến chất
tâm trí mọi người, phá huỷ tin của họ, nhổ bật gốc rễ
những tục lệ của họ, làm rung chuyển đức tin của họ,
tạo ra hoài nghi trong tâm trí họ, nghi ngờ. Từ đó địa
ngục bị chật ních đến mức quỉ cứ phải nói đi nói với
Thượng đế, "Thôi bây giờ dừng đi! Xin dừng đi!
Chúng tôi mệt hết rồi, nhiều người thế! Chúng tôi phục
vụ cả hai mươi bốn tiếng, hết ngày nọ tới ngày kia;
thậm chí cả trong đêm cửa cũng không thể đóng được.
Mọi người đơn giản cứ kéo tới!"

Một câu chuyện rất tinh ranh. Bạn có thấy cái tinh
ranh tinh vi trong nó không? Theo một nghĩa nào đó
Phật được thừa nhận là hiện thân của Thượng đế.
Người Hindus tinh ranh hơn người Do Thái theo cách
đó. Người Do Thái đơn giản phủ nhận rằng Jesus là
Con của Thượng đế, họ bác bỏ Jesus. Người Hindus

tinh vi hơn theo cách đó, trau chuốt hơn, văn hoá hơn -
tất nhiên, một nền văn minh cổ đại hơn mà. Và nền
văn minh càng trở nên cổ đại hơn, nó càng trở nên tinh
ranh hơn.
Thấy cái tinh ranh này: Phật được chấp nhận là
hoá thân thứ mười của Thượng đế, và vậy mà Thượng
đế lấy hoá thân này vào thế giới để làm biến chất tâm
trí mọi người. Cho nên mặc dầu Phật là Thượng đế,
cẩn thận đấy, chớ có nghe ông ta! Bạn thấy chiến lược
này, cái mẹo này chưa? Họ không phủ nhận Phật có
tính thượng đế - thực ra gần như không thể nào phủ
nhận được Phật có tính thượng đế.
H.G. Wells đã nói rằng Phật Gautama là nghịch lí:
con người vô thượng đế nhất và vậy mà có tính thượng
đế nhất. Ông ấy chưa bao giờ nói về Thượng đế, ông
ấy chưa bao giờ bảo mọi người tin vào Thượng đế.
Thượng đế đơn giản bị thiếu trong giáo huấn của ông
ấy. Đấy không cần là giả thuyết, điều đó không được
cần. Vô thượng đế nhất và vậy mà có tính thượng đế
nhất… không ai dường như có tính thượng đế như
Phật, duyên dáng như Phật - hệt như bông sen, tâm
thức thuần khiết nhất có thể quan niệm được, tươi mát
như giọt sương trong ánh bình minh.
Họ đã không thể phủ nhận được điều đó, họ phải
chấp nhận rằng ông ấy là Thượng đế. Nhưng họ không
thể chấp nhận cách tiếp cận của ông ấy bởi vì cách tiếp
cận của ông ấy, nếu được chấp nhận, sẽ phá huỷ toàn
thể tôn giáo đã được thiết lập, toàn thể tổ chức. Ông ấy
lấy đi mọi niềm tin; thực ra ông ấy làm cho một điều
thành rất quan trọng, rất bản chất là con người của
niềm tin sẽ không có khả năng biết được. Ông ấy
không ngụ ý trở thành người không tin, bởi vì không

tin lại là tin theo cách phủ định. Không là người tin
không là người không tin.
Cách tiếp cận của Phật là cách tiếp cận của người
bất khả tri. Ông ấy không hữu thần không vô thần -
ông ấy là người truy tìm. Và ông ấy muốn bạn còn mở
cho việc truy tìm. Đi không có định kiến, đi không có
ý tưởng được làm sẵn - bởi vì nếu bạn đi với ý tưởng
nào đó, bạn sẽ phóng chiếu ý tưởng của bạn lên thực
tại. Và nếu bạn có ý tưởng bắt rễ sâu trong tâm trí bạn,
bạn sẽ thấy ý tưởng đó được hoàn thành trong thực tại
và nó sẽ chỉ là ảo giác, mơ được bạn phóng chiếu lên.
Bạn phải đi hoàn toàn trống rỗng. Nếu bạn thực sự
muốn biết chân lí bạn phải tuyệt đối trống rỗng, bạn
phải không mang ý tưởng nào, ý thức hệ nào; bạn phải
đi trần trụi, trần truồng, trống rỗng. Bạn phải vận hành
từ trạng thái của không biết. Trạng thái của không biết
là trạng thái của người kinh ngạc.
Có một câu ngạn ngữ cổ của Jesus, không được
ghi trong Kinh Thánh, nhưng người Sufis đã gìn giữ
nó. Người Sufis đã gìn giữ nhiều câu nói hay của
Jesus. Câu nói này quan trọng vô cùng đến mức người
ta tự hỏi sao nó không được ghi vào trong Kinh Thánh,
nhưng nếu bạn cân nhắc kĩ càng về nó thì lí do trở nên
rõ ràng.
Câu nói này là: Người được ân huệ là người ngạc
nhiên, bởi vì vương quốc của Thượng đế là của người
đó. Người được ân huệ là người ngạc nhiên. Điều này
đã không được ghi trong Kinh Thánh. Tại sao? - bởi vì
Kinh Thánh muốn tạo ra tôn giáo nào đó, giáo phái
nào đó; nó muốn truyền bá ý thức hệ nào đó. Còn con
người của ngạc nhiên phải bỏ mọi ý thức hệ.

Người được ân huệ là người ngạc nhiên, bởi vì chỉ
trong việc ngạc nhiên bạn mới có thể giống như trẻ
con, hồn nhiên. Và chỉ trong hồn nhiên đó bạn có thể
biết cái đang đó. Làm sao tâm trí rối loạn hiểu được
con đường?
Cho nên bất kì khi nào một người tới Phật và lục
vấn - những câu hỏi lớn lao về cuộc sống và những bí
ẩn của cuộc sống - Phật đều nói, "Ông đợi đấy, ông
thiền đi. Trước hết để tâm trí rối loạn của ông trở thành
không rối loạn. Để cơn bão tâm trí này của ông qua đi.
Để im lặng tới, bởi vì im lặng sẽ cho ông đôi mắt. Ta
có thể chỉ cho ông con đường để im lặng, và thế rồi
ông không cần hướng dẫn của bất kì ai. Một khi ông
im lặng được, ông sẽ có khả năng thấy con đường và
ông sẽ có khả năng đạt tới mục đích."

Và tâm trí chúng ta thực sự rối loạn. Cả nghìn lẻ
một rắc rối có đó. Trước hết, mọi người đều trong
trạng thái tinh thần phân liệt, nhiều hay ít; khác biệt
chỉ ở mức độ. Mọi người đều bị chia chẻ bởi vì những
kẻ bóc lột, cả tôn giáo và chính trị, đều phụ thuộc vào
chiến lược này: phân chia con người, không cho phép
con người toàn vẹn, và con người sẽ vẫn còn là nô lệ.
Ngôi nhà bị chia ra chống lại bản thân nó thì nhất định
yếu. Cho nên bạn đã được dạy phải tranh đấu với thân
thể; đó là chiến lược phân chia gốc rễ, của việc phân
chia bạn. "Tranh đấu với thân thể, thân thể là kẻ thù
của bạn. Chính thân thể đang lôi bạn tới địa ngục.
Tranh đấu, cầm dao trong tay! Tranh đấu cả ngày lẫn
đêm! tranh đấu trong nhiều kiếp! Chỉ thế thì một ngày
nào đó bạn sẽ có khả năng thắng được nó. Và chừng
nào bạn chưa thắng thân thể mình, bạn sẽ không đi vào
được thế giới của Thượng đế."

Trong hàng thế kỉ điều vô nghĩa này đã được dạy
cho mọi người. Và kết quả là ở chỗ mọi người đều bị
phân chia, mọi người đều chống thân thể họ. Và nếu
bạn chống thân thể bạn, bạn nhất định sẽ bị rắc rối.
Bạn sẽ tranh đấu với thân thể bạn, và bạn và thân thể
bạn là một năng lượng. Thân thể là linh hồn thấy được,
và linh hồn là thân thể không thấy được. Thân thể và
linh hồn không bị phân chia ở bất kì đâu, chúng là các
bộ phận của nhau, chúng là bộ phận của một toàn thể.
Bạn phải chấp nhận thân thể, bạn phải yêu mến thân
thể, bạn phải kính trọng thân thể, bạn phải biết ơn thân
thể mình. Chỉ thế thì bạn mới đạt tới loại toàn vẹn nào
đó, sự kết tinh sẽ xảy ra; bằng không bạn sẽ vẫn còn bị
rắc rối. Và thân thể sẽ không bỏ bạn dễ dàng thế; ngay
cả sau hàng trăm kiếp sống việc tranh đấu sẽ vẫn có
đó. Bạn không thể đánh bại thân thể được.

Tôi không nói rằng thân thể không thể bị mòn mỏi
đi, nhớ lấy, nhưng bạn không thể đánh bại được thân
thể. Bạn không thể đánh bại được nó bằng việc thù
địch với nó. Bạn có thể thắng nó bằng việc thân thiện,
bằng việc yêu thương, bằng việc kính trọng, bằng việc
tin cậy nó. Đó đích xác là cách tiếp cận của tôi: thân
thể là ngôi đền chùa, bạn là vị thần của ngôi đền chùa
này. Đền chùa bảo vệ bạn, là chỗ che mưa, che gió,
che nóng cho bạn. Nó đang phục vụ bạn đấy! Tại sao
bạn phải tranh đấu với nó? Điều đó cũng ngốc như
người lái xe tranh đấu với chiếc xe. Nếu người lái xe
tranh đấu với xe, điều gì sẽ xảy ra? Anh ta sẽ phá huỷ
chiếc xe và anh ta sẽ phá huỷ bản thân mình trong việc
tranh đấu với nó. Chiếc xe là phương tiện đi tốt, nó có
thể đưa bạn đi trên cuộc hành trình xa nhất.

Thân thể là cơ chế phức tạp nhất trong sự tồn tại.
Nó đơn giản tuyệt diệu! - và người phúc lạc là người kì

diệu. Bắt đầu cảm thấy ngạc nhiên với thân thể riêng
của bạn đi, bởi vì đó là cái gần bạn nhất. Tự nhiên gần
nhất đã tiếp cận bạn, Thượng đế gần nhất đã tới với
bạn, là qua thân thể. Trong thân thể bạn là nước của
đại dương, trong thân thể bạn là lửa của các vì sao và
mặt trời, trong thân thể bạn là không khí, thân thể bạn
được tạo ra từ đất. Thân thể bạn đại diện cho toàn thể
sự tồn tại, mọi yếu tố. Và biến đổi làm sao! Biến thái
làm sao! Nhìn đất và rồi nhìn vào thân thể bạn mà xem
- biến đổi làm sao, và bạn chưa bao giờ ngạc nhiên về
nó cả! Cát bụi đã trở thành điều thiêng liêng - bí ẩn
nào lớn hơn là có thể có? Phép màu nào lớn lao hơn
mà bạn chờ đợi? Và bạn thấy phép màu này đang xảy
ra mọi ngày. Từ bùn hoa sen tới...và từ bụi đất đã nảy
sinh thân thể tuyệt vời của chúng ta. Và một cơ chế
phức tạp thế, chạy êm thế - không tiếng ồn. Và nó thực
sự phức tạp.

Các nhà khoa học đã làm những cái máy rất phức
tạp, nhưng không cái gì sánh được với thân thể cả.
Ngay cả máy tính phức tạp nhất cũng chỉ là đồ chơi
nếu so với cỗ máy bên trong của thân thể. Và bạn đã
được dạy tranh đấu với nó. Điều đó tạo ra chia chẻ,
điều đó giữ bạn trong rắc rối, điều đó giữ bạn trong
cuộc nội chiến thường xuyên.

Và bởi vì bạn tranh đấu với bản thân mình - điều
hoàn toàn ngu ngốc - cuộc sống của bạn trở thành ngày
một ít thông minh và ngày một nhiều ngu xuẩn. Và thế
rồi bạn muốn những biến đổi lớn lao - bạn muốn ghen
tị bị vứt bỏ và bạn muốn giận dữ biến mất và bạn
muốn không tham lam trong mình. Điều đó là không
thể được! Với những hiểu lầm như vậy từ ngay chỗ bắt
đầu, làm sao bạn có thể tạo ra được không gian nơi
biến đổi xảy ra, nơi giận dữ trở thành từ bi, nơi ghét

trở thành yêu, nơi tham lam trở thành chia sẻ, nơi dục
trở thành samadhi? Làm sao bạn có thể hi vọng, làm
sao bạn có thể trông đợi biến đổi lớn lao thế, với trạng
thái rối loạn thế?
Điều nền tảng là vứt bỏ chia chẻ, trở thành một. Là
một đi, và thế thì mọi điều khác là có thể; ngay cả điều
không thể cũng thành có thể.

**Làm sao tâm trí rối loạn hiểu con đường?**

Con đường là rất đơn giản và trực tiếp. Ngay cả trẻ
con cũng có thể hiểu được điều đó. Nó đơn giản như
hai cộng hai là bốn, hay thậm chí còn đơn giản hơn.
Nó đơn giản như tiếng hót của con chim, đơn giản như
bông hồng - đơn giản và đẹp, đơn giản và cực kì vĩ đại.
Nhưng chỉ một tâm trí không rối loạn mới có thể hiểu
được nó, chỉ một tâm trí không rối loạn mới có khả
năng thấy nó; bằng không bạn sẽ sống trong tham lam
và bạn sẽ sống trong giận dữ và bạn sẽ sống trong
ghen tị và sở hữu, và bạn sẽ sống trong hận thù. Bạn
có thể giả vờ, bạn có thể trở thành thánh nhân trên bề
mặt, nhưng bạn vẫn còn là tội nhân sâu bên dưới. Và
tội lỗi lớn nhất là phân chia bản thân mình. Tội lỗi lớn
nhất này không phạm phải với người khác, nó bao giờ
cũng phạm phải với chính bản thân bạn. Đây là trạng
thái của tự tử, việc tạo ra phân chia này giữa thân thể
bạn và bản thân bạn. Kết án thân thể, bạn chỉ có thể trở
thành kẻ đạo đức giả, bạn chỉ có thể sống cuộc sống
của kẻ giả vờ.

Trong khoang tàu hoả hạng nhất, hai quí bà ăn vận
đẹp đang thảo luận về quần áo trong khi một quí ông

trong góc vờ ngủ. Khi một bà nói mình thấy giá quần
áo ngày nay là không thể được, bà kia gợi ý bà ấy nên
theo gương bà này và kiếm người bạn trai ở bên mình:
"Anh ấy sẽ cho bạn năm trăm đô la một tháng làm
món quà nhỏ - chồng bạn sẽ chẳng bao giờ làm điều
đó đâu."
"Nhưng điều gì xảy ra nếu tôi không thể kiếm
được người bạn có năm trăm đô la?"
"Thế thì lấy hai người với mỗi người hai trăm năm
mươi đô."
Quí ông này lên tiếng: "Nghe đây thưa các bà, tôi
sắp ngủ bây giờ. Đánh thức tôi dậy khi các bà giảm giá
xuống hai mươi đô la."

Mọi người đều giả vờ theo mọi cách có thể. Người
giả vờ là thánh nhân có thể chính là điều đối lập lại, và
người giả vờ thức có thể ngủ, và người giả vờ ngủ có
thể thức... đủ mọi loại giả vờ, bởi vì xã hội tạo ra hoàn
cảnh nó cho phép bạn chỉ hoặc sống một cuộc hoàn
toàn bị kết án, cuộc sống của kẻ tội phạm, hoặc cuộc
sống của kẻ đạo đức giả, của kẻ giả vờ. Xã hội cho bạn
chỉ hai phương án: hoặc chân thật và là tội phạm, hoặc
không thật và đáng kính. Nó không cho phép bạn có
phương án thứ ba. Tại sao nó không cho phép bạn
phương án thứ ba? - bởi vì phương án thứ ba tạo ra
một Jesus, một Phật, một Krishna, và sự hiện diện của
họ làm cho đám đông cảm thấy rất tầm thường, rất bị
sỉ nhục, mất mặt.
Cho nên xin đừng quyết định bằng việc nhìn vào
hình tướng của người khác. Nhiều cơ hội hơn, gần
chín mươi chín phẩy chín phần trăm, bất kì cái gì họ

xuất hiện trên bề mặt họ sẽ không là vậy ở sâu bên
dưới. Bạn có thể chắc chắn được về điều đó; tôi nói
gần như chắc chắn hoàn toàn, bởi vì chỉ không phẩy
một phần trăm bạn có thể lỡ - không nhiều gì. Chỉ
thỉnh thoảng bạn mới bắt gặp vị phật, người có hình
tướng là một với nội tâm của người đó; bằng không
bạn sẽ bắt gặp những người là điều này ở bên ngoài và
là điều khác ở bên trong. Đừng bị lừa bởi dáng vẻ.

Một nữ diễn viên tình cờ làm quen với một người
lang thang thất nghiệp và đưa anh ta về căn hộ của
mình bởi vì anh ta đi đôi giầy rất lớn và cô ấy đã được
bảo rằng đàn ông chân lớn có chim lớn. Cô ấy cho anh
ta ăn bữa tối thịt nướng với nhiều hạt tiêu và bia, thế
rồi lôi anh ta lên giường.
Sang hôm sau người này thức dậy một mình và
thấy tờ mười đô la để trên bệ lò sưởi, với lời nhắn ngắn
gọn: "Tự mua đôi giầy vừa cho anh."

Nhưng đó là cách chúng ta cứ quyết định... từ bên
ngoài. Thực ra, bởi vì chúng ta thậm chí không biết
bên trong của riêng mình, làm sao chúng ta có thể nhìn
vào bên trong của người khác được? Chúng ta không
biết nghệ thuật nhìn vào trong. Trước hết bạn phải
thực hành nghệ thuật này với bản thân mình. Trước hết
bạn phải đi vào trong lãnh thổ của mình, thế giới bên
trong của mình. Bạn phải đi ngày một sâu hơn vào tâm
thức của mình, tới chính trung tâm của nó. Một khi
bạn đã thấm vào cốt lõi của bản thể mình, bạn sẽ có
khả năng nhìn vào cốt lõi của bản thể của bất kì ai
khác. Thế thì không ai có thể lừa được bạn, bởi vì thế

thì bạn không nhìn vào hình tướng - bạn nhìn vào thực
tại.

**Làm sao tâm trí rối loạn hiểu con đường?**

Tâm trí rối loạn không thể hiểu được cái gì. Nó
không ở trong trạng thái việc hiểu là có thể. Việc hiểu
không có nghĩa là tri thức. Tâm trí rối loạn có thể trở
thành rất thông thái - bạn có thể tới các đại học và bạn
có thể thấy các giáo sư, rất thông thái - nhưng họ còn
rối loạn hơn cả bạn, trong xung đột bên trong còn
nhiều hơn cả bạn. Tri thức của họ chẳng ích gì cho họ
chút nào. Tri thức chưa bao giờ có ích cho bất kì ai, nó
chỉ làm nặng gánh. Nó cho bạn sự kính trọng, chắc
chắn. Nó là trò bản ngã lớn, và bản ngã cảm thấy được
thổi phồng lên; nhưng bản ngã càng được thổi phồng
lên, bạn sẽ càng rối loạn bên trong hơn bởi vì bản ngã
là hiện tượng giả tạo. Và khi bạn trở thành quá gắn bó
với cái giả, bạn bắt đầu mất tiếp xúc với cái thật. Khi
bạn bắt đầu bắt thêm rễ vào cái giả, bạn quên mất việc
bắt rễ vào cái thực.
Con người của tri thức là vô thức như bạn. Người
dốt nát và người thông thái không phải là trên những
con thuyền khác nhau; họ là bạn đồng hành. Khác biệt
giữa họ chỉ ở thông tin - điều không phải là khác biệt
chút nào, điều không phải là khác biệt làm ra mọi khác
biệt. Tôi có thể chỉ biết vài điều, bạn có thể biết thêm
vài điều nữa, ai đó khác có thể biết cả nghìn lẻ một
điều, và ai đó khác có thể chỉ như đi dạo qua từ điển
bách khoa toàn thư Encyclopedia Britannica - điều đó
chẳng tạo nên khác biệt chút nào.
Phật không phải là con người của tri thức, ông ấy
là con người của hiểu biết - không tràn đầy thông tin

mà tràn đầy sáng suốt. Tràn đầy linh ảnh, không tràn
đầy ý nghĩ - sáng tỏ, sáng tỏ tựa tấm gương, và nhận
biết lớn.
Bạn đang đi như kẻ mộng du, người vừa đi vừa
ngủ. Bạn không biết điều mình đang làm, bạn không
biết tại sao bạn làm nó; bạn không biết mình đang đi
đâu, bạn không biết tại sao bạn đi. Cuộc sống của bạn
là ngẫu nhiên, và cuộc sống ngẫu nhiên là cuộc sống
vô ý thức - nó giống như người máy.

Một anh chàng ở nhà hát cùng vợ đi ra nhà vệ sinh
vào lúc nghỉ giữa giờ, nhưng đi nhầm cửa và thấy
mình đi ra vườn. Vì quá tiện để nghĩ tới việc dùng mặt
đất, anh ta nhấc một cây ra khỏi chậu hoa và đái vào
chậu nó, rồi đặt lại cây đó vào.
Anh ta trở về và thấy màn kịch tiếp đã bắt đầu.
"Điều gì đã xảy ra cho tới giờ trong màn này vậy?"
anh ta thì thào hỏi vợ.
"Anh nên biết," cô ấy nói một cách lạnh nhạt.
"Anh đã ở trong đó đấy!"

Con người sống trong vô ý thức. Con người không
nhận biết, không nhận biết chút nào. Bạn có thể quan
sát bất kì người nào, bạn có thể quan sát bản thân
mình, dần dần, dần dần, và bạn sẽ thấy nhiều hành
động vô ý thức đang xảy ra đến mức gần như không
thể nào tin được làm sao bạn đã sống cho tới giờ. Bạn
nói dối chẳng vì lí do nào cả! Và khi bạn bắt quả tang
bản thân mình nói dối, bạn sẽ ngạc nhiên: sao mình nói
dối ngay chỗ đầu tiên? - bởi vì chẳng có lí do gì, bạn
không định thu được gì từ điều đó. Chỉ là thói quen,

chỉ là lệ thường máy móc. Bạn trở nên buồn chẳng vì lí
do nào cả.

Bây giờ có vài nhà nghiên cứu nói bạn có thể làm
lịch về tâm trạng bạn, và tôi thấy nghiên cứu của họ có
ý nghĩa - bạn thực sự có thể làm ra lịch về tâm trạng
bạn. Cứ viết ra trong một tháng mà xem: Thứ hai buổi
sáng bạn cảm thấy thế nào, và vào buổi chiều và vào
buổi tối và vào buổi đêm... ít nhất tám lần một ngày,
cứ ghi mọi ngày và đích xác cùng một giờ bạn cảm
thấy thế nào. Và trong vòng ba hay bốn tuần bạn sẽ
ngạc nhiên rằng vào mỗi thứ hai và cùng lúc bạn đều
cảm thấy đích xác cùng một tâm trạng.

Bây giờ điều này không thể thế được vì bất kì hoàn
cảnh nào bên ngoài, bởi vì mỗi thứ hai chúng là khác.
Nó là cái gì đó bên trong - mặc dầu bạn sẽ thấy những
cái cớ bên ngoài, bởi vì chẳng ai muốn cảm thấy có
trách nhiệm cho khổ riêng của mình. Điều cảm thấy tốt
là làm cho người khác cảm thấy có trách nhiệm về khổ
của bạn. Và bạn có thể tìm ra cớ, bạn thậm chí có thể
bịa ra chúng nếu chúng không có đó.
Đó là chỗ mọi người đã trở thành rất, rất sáng tạo.
Thực ra toàn thể tính sáng tạo của họ đều bao gồm
trong việc tạo ra cớ: "Sao mình buồn?" và bạn có thể
tìm thấy cả nghìn lẻ một lí do. Vợ bạn nói điều này và
con cái không cư xử đúng và hàng xóm và ông chủ ở
văn phòng và giao thông và giá cả đang lên cao... và
bạn có thể tìm ra cả nghìn lẻ một thứ; chúng bao giờ
cũng có đó. Và bạn có thể vẽ ra cả thế giới rất ảm đạm,
đen tối, và thế rồi bạn có thể cảm thấy thoải mái rằng
đấy không phải là trách nhiệm của bạn mà bạn buồn.

Nhưng vẫn cùng thế giới đó, và sáng thứ ba bạn
cảm thấy rất sôi nổi, rất vui vẻ, rạng ngời - lần nữa bạn

có thể tìm ra cớ: "Hôm nay là buổi sáng đẹp trời, và
mặt trời cùng chim chóc và cây cối và bầu trời, và tất
cả đều đầy ánh sáng - sáng đẹp thế!" Bạn có thể tìm ra
cớ cho mọi loại tâm trạng, nhưng nếu bạn viết nhật kí
trong bốn tuần bạn sẽ thực sự thấy choáng rằng mọi
thứ xảy ra cho bạn gần như phụ thuộc vào bạn. Bạn có
bánh xe bên trong cứ quay mãi, và cùng cái nan hoa đó
cứ lên đến đỉnh lặp đi lặp lại.
Vâng, có những hoàn cảnh bên ngoài, nhưng
chúng không phải là nguyên nhân; nhiều nhất chúng
làm lẩy cò. Một tâm trạng nào đó nhất định xảy ra
được lẩy cò bởi hoàn cảnh nào đó. Nếu hoàn cảnh này
không có đó, cái gì đó khác sẽ thành điểm lẩy cò -
nhưng nó nhất định được lẩy cò.
Những người đã sống trong cô lập đều trở nên
nhận biết về sự kiện này. Phật hay phái các đệ tử của
ông ấy tới những nơi cô lập. Trong công xã mới chúng
ta sẽ có các hầm dưới đất cho nên tôi có thể cử bạn tới
chỗ cô lập trong một tháng - tuyệt đối cô lập. Bạn biến
mất khỏi thế giới, cho nên bạn không thể đổ tại bất kì
hoàn cảnh nào bên ngoài bởi vì không có gì bên ngoài
cả... bạn và những bức tường của hầm. Và bạn sẽ ngạc
nhiên: một hôm bạn hạnh phúc, một hôm bạn bất hạnh,
một hôm bạn cảm thấy rất tham lam, một hôm bạn
cảm thấy giận dữ và không có ai đã xúc phạm bạn,
chọc giận bạn. Một hôm bạn sẽ thấy bạn đang tự mình
nói dối cho mình vì bạn không thể tìm ra bất kì ai
khác.

"Tôi có thể mua đồ uống cho cô được không?" anh
ta hỏi, bằng cách gợi lên cuộc đối thoại.

"Không, cám ơn ông," cô ấy nói. "Tôi không
uống."
"Thế ăn tối chút ít với tôi trong phòng tôi vậy?"
"Không, tôi không nghĩ điều đó sẽ thích hợp," cô
ấy nói.
Không có kết quả gì với cách tiếp cận tinh tế hơn,
chàng thanh niên đi thẳng vào vấn đề: "Tôi bị say đắm
bởi cái đẹp tươi mát của cô, thưa cô, và tôi sẽ cho cô
bất kì cái gì trái tim cô mong ước nếu cô dành một
đêm với tôi."
"Ô, không, không thưa ông, tôi không bao giờ làm
điều như vậy đâu."
"Nói cho tôi đi," anh thanh niên nói vừa cười, "cô
không bao giờ làm cái gì hơi chút không đúng sao?"
"Vâng," cô gái Pháp nói, "tôi nói dối."

Bạn quan sát bao nhiêu lần trong ngày việc bạn nói
dối - và chẳng vì lí do gì chút nào - và bao nhiêu lần
bạn trở nên giận dữ, chẳng lí do chút nào, và thế rồi
bạn sẽ thấy mình đang sống trong thế giới bên trong,
thế giới chủ thể của riêng bạn. Hiểu biết nghĩa là hiểu
những điều nền tảng này của việc vận hành của cuộc
sống. Và nếu bạn hiểu những điều nền tảng này, biến
đổi là không khó khăn. Thực ra, bản thân hiểu biết trở
thành việc biến đổi.

**Làm sao tâm trí rối loạn
hiểu con đường?
Nếu một người bị rối loạn

Người đó sẽ không bao giờ được tràn đầy với tri
thức.**

Từ 'tri thức' không ngụ ý điều bạn ngụ ý bởi tri
thức. Khi Phật dùng từ 'tri thức' ông ấy ngụ ý trí huệ,
không phải thông tin; ông ấy ngụ ý việc biết, không
phải tri thức.
Nếu một người bị rối loạn... đang trong xung đột,
đang trong lẫn lộn, đang trong phân chia, bị chia chẻ ở
bên trong, nếu một người là đám đông bên trong...
Người đó sẽ không bao giờ được tràn đầy với trí huệ.
Trí huệ cần thống nhất, trí huệ cần tích hợp, trí huệ
cần kết tinh của nhận biết, của tính quan sát, của việc
quan sát hành động của bạn, tâm trạng của bạn, ý nghĩ
của bạn, xúc động của bạn... quan sát mọi thứ đang
xảy ra trong thế giới bên trong của bạn. Chỉ bằng việc
quan sát nó, phép màu bắt đầu xảy ra. Nếu bạn bắt đầu
thấy rằng bạn nói dối chẳng bởi lí do gì cả, chính nhận
biết đó sẽ trở thành trở ngại. Lần sau bạn ở ngay bên
bờ nói dối thì một giọng nói bên trong bạn sẽ nói,
"Quan sát đi, cẩn thận vào - mình đang đi vào trong
bẫy lần nữa." Lần sau bạn đang rơi vào trong buồn rầu,
cái gì đó bên trong bạn sẽ làm cho bạn tỉnh táo, sẽ báo
động bạn.
Đây là con đường của việc biến đổi năng lượng
của bạn - aes dhammo sanantano. Aes maggo
visuddhya - đây là cách làm thuần khiết, đây là luật
vĩnh hằng của biến đổi.

**Tâm trí không rối loạn,
không còn tìm kiếm xem xét
cái gì là phải và cái gì là trái,

Tâm trí vượt ra ngoài mọi phán xét,
quan sát và hiểu.**

Cho nên yêu cầu đầu tiên cho sannyasin là: Tâm
trí không rối loạn, không còn tìm kiếm xem xét cái gì
là phải và cái gì là trái...
Một phát biểu cực kì quan trọng và cách mạng.
Phật đang nói: Đừng xét cái gì là phải và cái gì là trái,
bởi vì nếu bạn xét cái gì là phải và cái gì là trái, bạn sẽ
bị phân chia, bạn sẽ trở thành kẻ đạo đức giả. Bạn sẽ
giả vờ là cái phải và bạn sẽ làm cái trái. Và khoảnh
khắc bạn xét cái gì là phải và cái gì là trái, bạn trở nên
bị gắn bó, bạn trở nên bị đồng nhất. Bạn chắc chắn trở
thành bị đồng nhất với cái phải.
Chẳng hạn, bạn thấy bên đường một tờ bạc một
trăm ru pi; nó thể đã rơi ra từ túi ai đó. Bây giờ câu hỏi
nảy sinh: Lấy nó hay không lấy nó? Một phần của bạn
nói, "Lấy nó là hoàn toàn phải rồi. Chẳng ai thấy cả,
chẳng ai bao giờ nghi ngờ. Và mình có ăn cắp đâu - nó
chỉ nằm đấy thôi! Nếu mình không lấy nó, ai đó khác
đằng nào cũng sẽ lấy nó thôi. Cho nên tại sao bỏ lỡ
nó? Lấy là hoàn toàn phải đấy!"
Nhưng một phần khác nói, "Điều này là sai - tiền
này đâu có thuộc vào mình, nó không phải là của
mình. Theo một cách nào đó, một cách gián tiếp, đó là
ăn cắp. Mình phải báo cho cảnh sát, hay nếu mình
không muốn bị bận tâm với nó, cứ đi tiếp, quên hết nó
đi. Thậm chí không nhìn nữa. Đây là tham và tham là
tội lỗi!"
Bây giờ, hai tâm trí này có đó. Một bên nói, "Điều
đó đúng rồi, lấy đi," bên kia nói, "Điều đó sai rồi, đừng
lấy." Bạn sẽ đồng nhất bản thân mình với tâm trí nào?

Bạn chắc chắn sẽ đồng nhất với tâm trí nói điều đó là
vô đạo đức, bởi vì điều đó thoả mãn bản ngã hơn.
"Mình là con người đạo đức, mình đâu có là người
thường; bất kì ai khác cũng sẽ lấy tờ một trăm ru pi
này. Trong những thời khó khăn thế, mọi người không
nghĩ tới điều tinh tế như thế." Bạn sẽ đồng nhất bản
thân mình với tâm trí đạo đức. Nhưng có mọi khả năng
bạn sẽ lấy tờ bạc này. Bạn sẽ đồng nhất bản thân mình
với tâm trí đạo đức, và bạn sẽ không đồng nhất bản
thân mình với tâm trí sẽ lấy tờ bạc. Bạn sẽ lên án nó từ
sâu bên dưới; bạn sẽ nói, "Điều đó là không đúng - đó
là phần tội lỗi của mình, phần thấp kém, phần bị kết
án." Bạn sẽ giữ cho mình tách rời nó. Bạn sẽ nói,
"Mình chống lại điều đó. Nó là bản năng của mình, nó
là vô thức của mình, nó là thân thể mình, nó là tâm trí
mình, cái đã thuyết phục mình làm điều đó; bằng
không, mình đã biết nó rồi, rằng nó là sai. Mình là
người biết rằng nó là sai."
Bạn bao giờ cũng đồng nhất bản thân mình với cái
đúng, thái độ đạo đức, và bạn không đồng nhất với
hành động vô đạo đức - mặc dầu bạn làm điều đó. Đây
là cách đạo đức giả phát sinh.
Thánh Augustine đã nói trong buổi thú tội của
mình: Lạy chúa, xin tha thứ cho con, bởi vì con cứ làm
những điều con biết con không nên làm, và con không
làm những điều con biết con phải làm.

Đây là xung đột, đây là cách người ta trở nên bị rối
loạn. Do đó Phật cho bạn một chìa khoá bí mật. Đây là
chiếc chìa khoá đó, cái có thể đưa bạn ra khỏi mọi sự
đồng nhất: đừng bị đồng nhất với tâm trí đạo đức - bởi
vì điều đó nữa cũng là một phần của tâm trí. Đấy là
cùng một trò chơi: phần này nói tốt, phần khác nói xấu

- đấy là cùng tâm trí tạo ra xung đột trong bạn. Tâm trí
bao giờ cũng hai mặt. Tâm trí sống trong các cực đối
lập. Nó yêu và nó ghét cùng một người; nó muốn làm
hành động này và nó không muốn làm hành động đó.
Nó là xung đột, tâm trí là xung đột. Đừng bị đồng nhất
với cả hai.
Phật nói: Trở thành chỉ là việc quan quan sát. Thấy
rằng phần này đang nói cái này, phần kia đang nói cái
kia. "Mình không là cả hai - neti, neti, không cái này
không cái nọ - mình chỉ là nhân chứng." Chỉ thế thì
mới có khả năng rằng hiểu biết sẽ nảy sinh.

**Tâm trí không rối loạn,
không còn tìm kiếm xem xét
cái gì là phải và cái gì là trái,
Tâm trí vượt ra ngoài mọi phán xét,
quan sát và hiểu.**

Vượt ra ngoài phán xét về tốt và xấu là con đường
của quan sát. Và chính là qua quan sát mà biến đổi xảy
ra. Đây là khác biệt giữa đạo đức và tôn giáo. Đạo đức
nói, "Chọn điều phải và bỏ điều trái. Chọn cái tốt và
bỏ cái xấu." Tôn giáo nói, "Đơn giản quan sát cả hai.
Không chọn cái nào. Vẫn còn trong tâm thức vô chọn
lựa."
Tôn giáo là rất, rất khác với đạo đức. Đạo đức là
rất tầm thường, trần tục, xoàng xĩnh; đạo đức không
thể đưa bạn tới điều tối thượng, nó không phải là con
đường của điều thiêng liêng. Đạo đức chỉ là chiến lược
của xã hội. Đó là lí do tại sao điều này là đúng trong
xã hội này và cũng điều đó là sai trong xã hội khác;
một điều được coi là tốt ở Ấn Độ và cùng điều đó bị
coi là xấu ở Nhật Bản. Một điều được coi là tốt hôm

nay và có thể trở thành sai ngày mai. Đạo đức là sản
phẩm phụ của xã hội, nó là chiến lược của xã hội để
kiểm soát. Nó là viên cảnh sát bên trong bạn, viên
quan toà bên trong bạn - nó là thủ đoạn của xã hội để
thôi miên bạn theo những quan niệm nào đó mà xã hội
muốn áp đặt lên mọi người. Cho nên nếu bạn được
sinh ra trong gia đình ăn chay, người không ăn chay là
kẻ tội lỗi lớn nhất.
Một sư Jaina có lần bảo tôi rằng "Tôi thích sách
của ông, nhưng sao ông nhắc tới cả Jesus, Mohammed
và Ramakrishna cùng với Mahavira? Ông không nên
nhắc tới họ theo cùng một hàng. Mahavira là Mahavira
- làm sao có thể so sánh ông ấy và đặt ông ấy theo
cùng cách, theo cùng phân loại với Jesus, Mohammed
và Ramakrishna được?"
Tôi nói, "Sao không?"
Ông ta nói, "Jesus uống rượu này, ăn thịt này - còn
tội lỗi nào lớn hơn mà người ta có thể phạm phải
nữa?"
Mohammed ăn thịt và lấy chín đàn bà! Người ta
phải từ bỏ đàn bà - đây không chỉ một mà những chín!
Con số hoàn hảo. Thực ra, không có số thêm nữa; chín
là số cuối cùng, thế rồi lặp cùng số...
"Mohammed lấy chín đàn bà, là người ăn thịt nữa -
làm sao ông đặt Mohammed bằng Mahavira được? Và
làm sao ông đặt Ramakrishna ngang bằng Mahavira
được? Ông ấy hay ăn cá."
Người Bengali thì nhất định là ăn cá rồi.
Chỉ trích duy nhất của ông ta về sách của tôi là ở
chỗ tôi đã đặt những người này cùng nhau.

Bây giờ hỏi người Ki tô giáo... Có lần tôi đã hỏi
một nhà truyền giáo Ki tô giáo, "Ông nói gì về sư
Jaina này? Ông ta đã nói điều này... ông có phản đối gì
không?"
Ông ta nói, "Chắc chắn! Làm sao ông đặt
Mahavira ngang bằng Jesus được? Jesus đã sống vì
nhân loại, đã hi sinh đời mình vì nhân loại - Mahavira
đã làm được gì? Mahavira cực kì ích kỉ, ông ấy chỉ
nghĩ tới mỗi cứu rỗi của riêng ông ấy Ông ấy chẳng
quan tâm tới người khác! Ông ấy chưa bao giờ chữa
lành cho người mù, ông ấy chưa bao giờ dựng dậy
người chết từ cái chết. Ông ấy chỉ thiền trong mười hai
năm trên núi non, trong rừng rậm - còn gì ích kỉ hơn
thế nữa...? Và thế giới này đang đau khổ và mọi người
đang trong nỗi đau lớn, còn ông ấy không tới an ủi họ.
Cái gì xa hoa hơn có thể có đó? Chỉ thiền bên sông
trong rừng - còn gì xa hoa hơn! Ông ấy đã làm gì cho
nhân loại đáng thương này? Jesus đã hi sinh bản thân
mình - ông ấy đã sống và đã chết cho người khác.
Toàn bộ cuộc sống của ông ấy không là gì ngoài sự hi
sinh thuần khiết. Làm sao ông có thể đặt Mahavira
ngang bằng với Jesus được?"
Và ông ấy nữa cũng dường như phải. Bây giờ, bạn
quyết định thế nào? Phật chưa bao giờ chữa cho người
bệnh, người mù, người điếc, người câm - chỉ thiền.
Dường như ích kỉ quá! Ông ấy đáng phải mở bệnh
viện chứ, hay ít nhất thì cũng mở trường học; phải
phân phối thuốc, phải đi vào những vùng lụt lội và cứu
trợ mọi người... ông ấy chưa bao giờ làm cái gì như thế
cả. Đây là cái loại tâm linh gì vậy? Theo người Ki tô
giáo, điều đó thuần tuý ích kỉ.

Bây giờ, ai đúng? Và ai sẽ quyết định? Chúng ta
sống theo định kiến của chúng ta.
Sư Jaina này sai và nhà truyền giáo Ki tô giáo này
cũng sai, bởi vì cả hai đều phán xét - và phán xét là
sai. Jesus là Jesus - ông ấy sống theo cách riêng của
ông ấy. Phật là Phật - ông ấy sống theo cách riêng của
ông ấy. Các cá tính duy nhất, các cách diễn đạt duy
nhất của Thượng đế. Không ai là bản sao của người
khác, và không ai cần là bản sao của người khác. Và
điều tuyệt vời là ở chỗ thế giới có đa dạng. Nếu như
chỉ có các Jesus và các Jesus lặp đi lặp lại, họ sẽ trông
giống như các xe Ford ra từ dây chuyền lắp ráp - mỗi
giây một xe Ford xuất xưởng, hệt nhau, đích xác cùng
như nhau. Điều tuyệt vời là Jesus là một và đơn giản là
một và không lặp lại. Và điều tốt là Phật là mỗi mình
và không lặp lại.
Người tôn giáo thực sự có cách tiếp cận không
phán xét. Nhà đạo đức không thể tránh được việc phán
xét, ông ta trở thành quan toà. Bây giờ, sư Jaina này,
một người bình thường, ngu xuẩn, sẵn sàng phán xét
Jesus, Ramakrishna, Mohammed. Ông ta chẳng biết gì,
chẳng hiểu gì, chưa bao giờ thiền - chưa hiểu được bản
thân mình. Đó là lí do tại sao ông ta đã tới tôi.

Ông ta đã tới tôi để hiểu thiền là gì và làm sao
thiền. Thiền vẫn chưa xảy ra, nhưng phán xét đã có đó
rồi - và ông ta sẵn sàng phán xét ngay cả người như
Jesus, mà thậm chí không thấy xấu hổ về điều ông ta
làm, không dụt dè, rất cao ngạo. Và đấy cũng là trường
hợp với nhà truyền giáo Ki tô giáo này! Ông ấy chẳng
biết gì về thiền, điều Phật đang làm, điều Mahavira
đang làm. Ông ấy chẳng biết gì về những con đường
tinh tế mà theo đó vị phật hành động. Việc trở nên

chứng ngộ của ông ấy là phục vụ vĩ đại nhất có thể có
cho nhân loại - không gì hơn có thể được làm. Ông ấy
chắc chắn không chữa được con mắt vật lí, nhưng ông
ấy là người đã chữa con mắt tâm linh của hàng nghìn
người - và đó là phục vụ thực! Ông ấy đã làm cho
hàng nghìn người nghe, lắng nghe, hiểu - đó là phục
vụ thực.
Nhưng nhà truyền giáo Ki tô giáo này, bởi vì ông
ta cai quản một trường phổ thông và một bệnh viện,
nên cứ cho mình là ai đó có quyền phán xét. Các nhà
đạo đức bao giờ cũng phán xét, người tôn giáo không
bao giờ phán xét. Người đó sống trong tâm thức vô
phán xét.
Tâm trí vượt ra ngoài mọi phán xét, quan sát và
hiểu. Người đó đơn giản quan sát và hiểu. Nếu Phật
bắt gặp Jesus, ông ấy chắc hiểu ngay; nếu Jesus bắt
gặp Mahavira, ông ấy chắc hiểu ngay. Chỉ quan sát,
thấy và có hiểu biết.

**Biết rằng thân thể là cái bình mảnh mai,
và tạo nên lâu đài của tâm trí ông.**

Với 'tâm trí' Phật ngụ ý tâm thức. Với 'tâm trí' Phật
ngụ ý Tâm trí với chữ T hoa - không phải là tâm trí
thường mà bạn có mà là Tâm trí xảy ra khi mọi ý nghĩ
đều đã biến mất, khi tâm trí hoàn toàn trống rỗng ý
nghĩ. Làm ra lâu đài của Tâm trí của bạn đi bởi vì thân
thể này sắp sửa chết - đừng phụ thuộc vào nó.

**Trong mọi thử thách
để hiểu biết tranh đấu cho ông
để bảo vệ điều ông có được.**

Và liên tục nhớ lấy, bởi vì cuộc tranh đấu là lâu
dài, và cuộc hành trình là gian nam. Nhiều lần bạn sẽ
ngã và quên, nhiều lần bạn sẽ bắt đầu phán xét. Nhiều
lần bạn sẽ bắt đầu bị đồng nhất với cái này cái nọ,
nhiều lần bản ngã sẽ tự khẳng định nó lặp đi lặp lại.
Bất kì khi nào bản ngã tự khẳng định nó, bất kì khi nào
đồng nhất xảy ra, bất kì khi nào phán xét nảy sinh,
ngay lập tức nhớ: quan sát, đơn giản quan sát, và sẽ có
hiểu biết.
Và hiểu biết là bí mật của biến đổi. Nếu bạn có thể
hiểu được giận dữ, lập tức bạn sẽ được mưa rào lên
bằng từ bi. Nếu bạn có thể hiểu được dục, lập tức bạn
sẽ đạt tới samadhi. 'Hiểu biết' là từ quan trọng nhất cần
nhớ.

**Vì chẳng mấy chốc thân thể này sẽ bị bỏ đi.
Vậy nó cảm thấy cái gì?
Khúc gỗ vô dụng, nằm trên đất.
Vậy nó biết gì?**

Đừng phụ thuộc vào thân thể và đừng vẫn còn bị
giam cầm trong thân thể. Dùng nó, kính trọng nó, yêu
thương nó, chăm sóc nó, nhưng nhớ: bạn phải rời bỏ
nó một ngày nào đó. Nó chỉ là cái lồng, nó sẽ bị bỏ
đằng sau, và con chim sẽ ra đi. Trước khi điều đó xảy
ra, chăm nom cho con chim nữa. Lau sạch tâm thức
bạn, bởi vì nó sẽ đi cùng bạn. Hiểu biết của bạn sẽ đi
cùng bạn, không cùng thân thể bạn.
Cho nên đừng phí thời gian quá nhiều trong việc
trang trí cho nó bằng mĩ phẩm trang điểm, bằng quần
áo, bằng đồ trang sức - đừng phí quá nhiều thời gian
với thân thể, bởi vì thân thể thuộc về đất và đất sẽ đòi

nó lại. Cát bụi trở về với cát bụi. Bạn không thuộc vào
đất, bạn thuộc vào cõi bên kia nào đó, chỗ nào đó
không biết. Nhà bạn là ở trong cái không biết, ở đây
bạn chỉ là khách thăm. Tận hưởng cuộc viếng thăm
này và dùng nó nhiều nhất có thể được để trưởng thành
trong hiểu biết và chín muồi, để cho bạn có thể đem về
nhà chín chắn của bạn, hiểu biết của bạn, trí huệ của
bạn.

**Kẻ thù tồi tệ nhất của ông không thể làm hại ông
nhiều như các ý nghĩ riêng, khinh suất của ông.**

Khi các ý nghĩ không được canh giữ, không được
quan sát, tâm trí bạn là kẻ thù lớn nhất của bạn.

**Nhưng một khi bị nó khống chế,
không ai có thể giúp ông được mấy,
cho dù cả bố hay mẹ ông.**

Nhưng cùng tâm trí đó, nếu bị làm chủ - bị làm
chủ bởi tính quan sát, bị làm chủ bởi thiền - được biến
đổi. Nó trở thành người bạn lớn lao nhất. Không ai có
thể giúp bạn được nhiều như nó.
Tâm trí là chiếc thang: không được canh giữ nó
đưa bạn đi xuống, được canh giữ nó đưa bạn đi lên.
Vẫn cùng chiếc thang đó! Tâm trí là cánh cửa: không
được canh giữ nó đưa bạn ra ngoài, được canh giữ nó
đưa bạn vào trong. Cùng tâm trí đó không được canh
giữ trở thành giận dữ, hận thù, ghen tị; được canh giữ
nó trở thành từ bi, tình yêu, ánh sáng.
Có tính quan sát, thức tỉnh, tỉnh táo, không phán
xét đi. Đừng là nhà đạo đức: tạo ra tâm thức tôn giáo.
Và với "tâm thức tôn giáo" điều đó được ngụ ý nhận

biết vô chọn lựa. Để cho cụm từ này chìm sâu vào
trong tim bạn: nhận biết vô chọn lựa. Đây là chính tinh
tuý của giáo huấn của Phật - aes dhammo sanantano.
Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

#2 Uống tới tràn đầy và nhảy múa

Câu hỏi thứ nhất:
Thưa thầy kính yêu,
Xin Thầy nói thêm về pha mới của công việc của
thầy? Sri Ramakrishna, Sri Raman, và ngay cả J.
Krishnamurti, đều dường như một chiều. Gurdjieff
có thử cách tiếp cận đa chiều không? Đấy có phải
là nguyên nhân của việc ông ấy bị hiểu lầm lớn thế
không?

Ajit Saraswati, nó là vậy đấy nhưng tự nhiên bị
hiểu lầm nếu bạn thực sự muốn giúp mọi người. Nếu
bạn không muốn giúp họ, bạn sẽ chẳng bao giờ bị hiểu
lầm - họ sẽ tôn thờ bạn, họ sẽ ca ngợi bạn. Nếu bạn chỉ
nói thôi, nếu bạn chỉ triết lí thôi, thế thì họ không sợ
bạn. Thế thì bạn không chạm tới cuộc sống của họ.

Và điều hay là biết tới các lí thuyết phức tạp, các
hệ thống ý nghĩ. Nó giúp cho bản ngã của họ, nó nuôi
dưỡng bản ngã họ - họ trở thành thông thái nhiều hơn.
Và mọi người đều thích thành thông thái hơn. Đó là
việc nuôi dưỡng tinh vi nhất cho bản ngã.
Nhưng nếu bạn thực sự muốn giúp họ, thế thì vấn
đề phát sinh. Thế thì bạn bắt đầu thay đổi các kiếp
sống của họ, thế thì bạn bắt đầu xâm lấn vào bản ngã
của họ; thế thì bạn bắt đầu can thiệp vào những thói
quen và cơ chế cũ hàng thế kỉ của họ. Thế thì bạn tạo
ra đối kháng: họ sợ bạn, họ thù địch với bạn. Và họ sẽ
cố gắng bằng mọi cách có thể để hiểu sai bạn, để mô tả
sai bạn.

Người một chiều là những đoá hoa đẹp, nhưng
chẳng hữu dụng gì mấy. Krishnamurti đã nói liên tục
trong bốn mươi năm hay hơn, và mọi người lắng nghe.
Cùng những người đã nghe ông ấy trong bốn mươi
năm... mà không một giọt thay đổi trong tâm thức của
họ. Chắc chắn họ đã trở nên rất thông thái, giỏi biện
luận, logic. Nếu bạn thảo luận với họ - họ là những
người giỏi nhất để thảo luận về bất kì cái gì - họ đi vào
những điều tinh tế nhất, thế giới tinh vi của ý nghĩ. Họ
có thể phân tích mọi thứ: nhận biết, thiền, tâm thức...
Họ đã trở nên rất hiệu quả, rất khôn lỏi, nhưng họ vẫn
còn tầm thường như mọi khi, ngu xuẩn như mọi khi,
chỉ với một khác biệt: bây giờ cái ngu của họ được
mặc quần áo đằng sau cái gọi là tri thức mà họ đã thu
được từ J. Krishnamurti. Krishnamurti vẫn còn là một
hiện tượng trí tuệ, bởi vì ông ấy không bao giờ nhận
rắc rối đi vào trong các kiếp sống của mọi người. Đi
vào kiếp sống của mọi người là nguy hiểm - bạn chơi
với lửa.

Sri Raman hoàn toàn tốt: ngồi im lặng trong ngôi
đền của ông ấy, mọi người có thể tới, cúng dường hoa,
tôn thờ, còn ông ấy sẽ đơn giản quan sát. Và tất nhiên
ông ấy có vẻ đẹp và duyên dáng, nhưng nó là một
chiều, nó không ảnh hưởng tới cuộc sống trong tính
toàn bộ của nó. Nhiều nhất, mọi người có thể bị xúc
động bởi điều đó về mặt tình cảm. Cũng như J.
Krishnamurti làm xúc động mọi người về mặt trí tuệ,
Sri Raman làm xúc động mọi người về mặt tình cảm.

Và cùng điều đó là trường hợp cho Ramakrishna.
Xúc động của nhiều người bị động chạm, và họ khóc
vì vui mừng. Nhưng điều đó không làm biến đổi bạn.
Những giọt nước mắt của vui vẻ đó là nhất thời; trở về
nhà bạn sẽ như cũ.

Gurdjieff chắc chắn là người tiên phong. Với
Gurdjieff bắt đầu một khái niệm hoàn toàn mới về
cuộc sống tâm linh. Ông ấy thực tế đã gọi con đường
của ông ấy là "con đường thứ tư" - cũng như tôi gọi
con đường của tôi là "con đường thứ tư" ông ấy cũng
gọi con đường của ông ấy là "con đường thứ tư." Ông
ấy bị hiểu nhầm vô cùng, bởi vì ông ấy không quan
tâm tới việc truyền đạt tri thức cho bạn, ông ấy không
quan tâm tới việc an ủi bạn. Ông ấy không quan tâm
tới việc cho bạn những lí thuyết hay, những linh ảnh,
ảo giác. Ông ấy không quan tâm tới nước mắt của bạn,
tới xúc động và tình cảm của bạn. Ông ấy không quan
tâm tới việc được bạn tôn thờ, ông ấy quan tâm tới
việc biến đổi bạn.
Và biến đổi một người nghĩa là bạn phải cầm búa
trong tay mình, bởi vì nhiều khúc của con người đó
phải bị chặt ra. Người đó lộn ngược tới mức mọi thứ
đều sai như nó đang đấy, và nó phải được đưa về đúng.

Và người đó đã đầu tư quá nhiều vào con đường sai
của người đó với cuộc sống tới mức bất kì ai muốn
thay đổi phong cách sống của của người đó - không
chỉ ở chu vi mà ở trung tâm nữa - người đó trở nên sợ,
người đó hoảng sợ. Chỉ vài người dũng cảm có thể đi
vào trong thế giới của người như Gurdjieff. Vô cùng
dũng cảm là cần thiết, dũng cảm để chết, bởi vì chỉ thế
thì người ta được tái sinh.
Gurdjieff là bà đỡ. Ông ấy không phải là thầy giáo,
ông ấy là thầy. Krishnamurti vẫn còn là thầy giáo.
Raman vẫn còn là một cá nhân đẹp - chứng ngộ,
nhưng là ngôi sao xa xăm, xa xôi. Bạn có thể quan sát
và bạn có thể viết bài thơ hay về nó, nhưng tất cả chỉ
có vậy thôi. Nó vẫn còn là một hiện tượng xa xăm.
Bạn chẳng bao giờ có thể hi vọng đạt tới ông ấy,
khoảng cách quá bao la. Và không có nỗ lực từ phía
ông ấy để bắc cầu qua nó. Và bạn có thể làm được gì?
Làm sao bạn có thể bắc cầu qua nó được? Nếu như bạn
có khả năng bắc cầu cho bản thân mình tới một người
như Raman, đã chẳng cần phải làm cầu. Người có khả
năng đó sẽ có khả năng biến đổi bản thân mình theo
cách riêng của mình; người đó sẽ không cần thầy.
Chừng nào Raman chưa cố gắng làm ra chiếc cầu,
chiếc cầu này vẫn là không thể có được.

Và ông ấy đứng xa ra, tách tời, lãnh đạm. Ông ấy
không tham dự. Ông ấy biết mọi khổ đều là giả. Và
chắc chắn nó là vậy - nhưng không phải vậy đối với
những người đang trong khổ. Người thức tỉnh biết rằng
người đang kêu khóc trong giấc ngủ của mình là đang
thấy mơ, đúng. Khi có liên quan tới người thức điều đó
hoàn toàn đúng. Nhưng cho dù đấy là mơ, ác mộng,
với người đang ngủ say nó là sự thực. Và người đang
ngủ say không thể làm được nỗ lực nào để gắn mình

với người đã thức tỉnh. Hiển nhiên, điều đó là không
thể được. Người đó thậm chí không nhận biết rằng ai
đó thức; người đó còn mê mải trong cơn ác mộng của
mình thế. Chỉ người thức tỉnh mới có thể làm nỗ lực.
Nhưng quấy rầy giấc ngủ của ai đó, cho dù người đó
đang trong ác mộng, là điều nguy hiểm. Không ai
muốn bị quấy rầy, không ai muốn bị can thiệp vào.

Mọi người đều có những ý tưởng kì lạ - người ngủ,
người ngu, nhưng họ có ý tưởng kì lạ về tự do. Họ
không có tự do; họ không thể có được. Họ không thể
đảm đương được điều đó trong giấc ngủ của mình.
Làm sao người ngủ có thể có tự do nào? Nhưng họ có
ý tưởng, những ý tưởng vĩ đại về tự do, và một người
như Gurdjieff can thiệp vào. Từ bi của ông ấy lớn hơn
nhiều so với từ bi của J. Krishnamurti, Raman, và
Ramakrishna.
Ramakrishna là đẹp - ca hát lời ca ngợi Thượng
đế, cầu nguyện, tôn thờ, nhảy múa. Ông ấy là cái gì đó
của cõi bên kia. Ông ấy nhắc nhở bạn rằng nhiều điều
nữa là có thể có trong cuộc sống còn đang xảy ra cho
bạn - nhưng có vậy thôi. Qua ông ấy chỉ một chút ít
hồi tưởng có thể đạt tới bạn. Nhưng cuộc sống của bạn
tới mức ngay cả hồi tưởng đó cũng sẽ không tạo ra bất
kì chuyển hoá nào; nó sẽ bị quên mất. Bạn sẽ tận
hưởng nó. Bạn sẽ thích tới con người này và nhìn ông
ấy nhảy múa và cầu nguyện lặp đi lặp lại... và bạn sẽ
cảm thấy thoải mái.
Đây là điều Phật gọi là "đếm cừu của người khác."
Ông ấy là đoá hoa đẹp, nhưng bằng việc nhìn vào bông
hồng bạn không thể trở thành bông hồng được; bạn
cũng không thể trở thành một Ramakrishna bằng việc

nhìn vào Ramakrishna. Nỗ lực lớn là cần. Bạn phải
trèo lên núi bất chấp mọi hiểm nguy.

Chừng nào thầy chưa cố tiếp cận bạn trong giấc
ngủ sâu của bạn, chừng nào thầy chưa khuấy động bản
thể bạn, giữ bạn thật chặt và lôi bạn ra khỏi dốt nát của
bạn, điều đó là không thể được, điều đó gần như không
thể được. Nhưng bạn sẽ giận con người này - ai muốn
bị quấy rối? Người ta đã trở nên quen với một cách
sống nào đó; tâm trí bao giờ cũng thích cái cũ, cái đã
biết, cái quen thuộc. Cho dù đó là khổ, dầu vậy tâm trí
vẫn sợ cái mới, bởi vì với cái mới bạn phải học lại
cách đối xử, cách hiện hữu. Và ai muốn học? Bạn hiệu
quả thế với cái cũ, bản ngã của bạn được thoả mãn thế
với cái cũ - sao bận tâm?
Và khi bạn bắt gặp một người như Gurdjieff, ông
ấy làm tan nát mọi điều vô nghĩa mà bạn đã thu thập.

Ông ấy làm tan nát một cách tàn nhẫn! Đôi khi ông ấy
phải nói những điều không thực sự đúng, nhưng chỉ để
làm tan nát ý tưởng của bạn ông ấy phải nói chúng ra.
Một người bạn đã hỏi, "Làm sao có thể có chuyện
một người như Gurdjieff, một người của hiểu biết vĩ
đại thế không hiểu ý tưởng về năng lượng kundalini?"

Ông ấy đã gọi nó là kundabuffer. Ông ấy rất chống
ý tưởng về kundalini. Ông ấy thường nói rằng điều tồi
tệ nhất có thể xảy ra cho một người trong cuộc sống là
việc dâng lên của kundalini. Người hỏi, một cách tự
nhiên, bị hoang mang.

Nhưng bạn không hiểu ý thực của Gurdjieff. Ông
ấy gọi nó là kundabuffer bởi vì điều vô nghĩa mà các
nhà thượng đế học đã tạo ra trên thế giới này. Họ đã
nói quá nhiều về kundalini, năng lượng rắn, và điều đó

toàn là những lời nhảm nhí; họ chẳng biết gì về nó cả.
Họ chỉ bịa đặt, họ chỉ hư cấu ra những lí thuyết và ý
tưởng. Đấy toàn là phỏng đoán.

Thực ra, trong hàng trăm cuốn sách được viết ra về
kundalini, chín mươi chín cuốn tuyệt đối vô nghĩa. Và
những người đã tập hợp quanh Gurdjieff đều đã tới
qua các triết lí, các giả thuyết, học thuyết thượng đế
học. Ông ấy đã làm tan nát tri thức của họ; ông ấy
không nói gì chống kundalini cả. Làm sao ông ấy có
thể nói điều đó được? Ông ấy đã biết rõ hơn nhiều so
với Blavatsky, Annie Besant, Alcott, Leadbeater - ông
ấy biết rõ hơn những người này nhiều. Những người
này chỉ là những chuyên gia trong việc tạo ra học
thuyết, và thực sự họ là những chuyên gia lớn. Họ đã
tạo ra gần như một phong trào thế giới - về hào quang
và màu sắc và kundalini... những từ mới từ cổ học và
truyền thuyết tâm linh cổ đại. Và họ đã tạo ra các thế
giới, các thế giới tưởng tượng, quanh những từ này.

Gurdjieff là phải khi gọi nó là kundabuffer. Và
Gurdjieff là phải khi nói rằng điều tồi tệ nhất có thể
xảy ra cho con người là việc dâng lên của kundalini.
Nhưng bao giờ cũng nhớ rằng ông ấy đang nói cho đệ
tử của ông ấy, trong hoàn cảnh đặc biệt. Ông ấy đang
đập tan nát tri thức của các đệ tử mình về quyền năng
kundalini - bởi vì bước đầu tiên của thầy là phá huỷ tri
thức của bạn, bởi vì tri thức của bạn về cơ bản là giả,
vay mượn.
Trước khi bạn có thể được làm quen với chân lí,
cái giả dối phải bị tước bỏ đi. Đôi khi thầy phải rất tàn
nhẫn, và đôi khi thầy phải nói những điều không thực
như vậy. Kundalini không phải là ý tưởng sai, nhưng

với chín mươi chín phần trăm mọi người, Gurdjieff là
phải.
Bây giờ có những người như Gopi Krishna, người
viết ra những cuốn sách về kundalini và quyền năng
rắn, và thiên tài lớn tới qua nó. Điều đó thậm chí
không xảy ra cho Gopi Krishna! Ông ta có loại thiên
tài gì vậy? Nhiều nhất, bằng chứng duy nhất mà ông
ấy nêu ra về thiên tài của mình là bài thơ nào đó tuyệt
đối vô giá trị, cũng hệt như thơ trẻ con trường phổ
thông viết vậy. Ông ấy cả đời đã là một thư kí. Thơ
của ông ấy sặc mùi việc thư kí của cả đời ông ấy - nó
khắm lặm! Nó chẳng có cái đẹp gì, nó không có vĩ đại
nào - nó chẳng có gì siêu phàm.
Và bây giờ ông ấy đang đề xuất trên khắp thế giới
rằng khi kundalini phát sinh quyền năng thiên tài tiềm
tàng của bạn biểu lộ ra. Bao nhiêu nhà yoga đã được
Giải thưởng Nobel? Và bao nhiêu nhà yoga đã đóng
góp cho tri thức khoa học, nghệ thuật, thơ ca, hội hoạ,
điêu khắc của thế giới? Bao nhiêu người trong bạn,
những người có cái gọi là kundalini đã dâng lên, đã
đóng góp theo bất kì cách nào cho sự giàu có của thế
giới này?
Điều Gopi Krishna đang nói tới không phải là
kundalini mà là kundabuffer. Gurdjieff chắc đã đặt ông
ta đúng chỗ bằng một cú. Nhưng ông ấy hấp dẫn mọi
người. Mọi người đều rất bị hấp dẫn bởi những điều vô
nghĩa thần bí, bởi những điều ngu xuẩn huyền bí, bởi
những lời nhảm nhí bí truyền. Cứ bắt đầu nói với mọi
người về luân xa, các trung tâm năng lượng, và
kundalini đi qua họ, và họ tất cả đều rất chăm chú. Bạn
cứ thử điều đó mà xem! Chẳng cần biết gì về nó cả -
cứ bịa ra... bởi vì các nhà huyền môn Jaina đã không

nói về kundalini, các nhà huyền môn Phật giáo đã
không nói về kundalini, các nhà huyền môn Ki tô giáo
chẳng bao giờ biết gì về nó cả, người Sufis tuyệt đối
không nhận biết về năng lượng này được gọi là
kundalini. Chỉ mỗi nhà yoga Hindu nói về nó.

Có cái gì đó trong nó, nhưng không đích xác là
cách nó được nói cho mọi người. Tri thức nổi quanh
kundalini tất cả đều là vô nghĩa, và Gurdjieff là phải
khi lên án nó. Ông ấy lên án toàn thể phong trào
thượng đế học. Các nhà thượng đế học rất chống
Gurdjieff. Họ chẳng biết gì, nhưng họ đã tạo ra một
phong trào lớn. Họ ít nhiều là những người làm chính
trị, học giả, người bắt bẻ logic, nhưng không phải là
các linh hồn đã hiểu ra theo bất kì cách nào.

Gurdjieff đã làm tan nát nhiều niềm tin. Ông ấy đã
làm tan nát một trong những niềm tin nền tảng nhất
của toàn thể nhân loại. Ông ấy nói, "Không có linh
hồn. Bạn không được sinh ra với linh hồn - linh hồn
phải được tạo ra bằng nỗ lực lớn lao. Và chỉ rất hiếm
người có khả năng tạo ra nó. Hàng triệu người bước đi
trên trái đất đều là vô linh hồn."
Bây giờ, bạn có thể tạo ra được cú sốc nào lớn hơn
không? - chỉ nói với mọi người, "Bạn là người vô linh
hồn. Chẳng có gì bên trong bạn cả - lỗ hổng, không ai
bên trong bạn cả. Bạn chưa được sinh ra; bạn chỉ là
thân thể, cái máy. Vâng, bạn có khả năng, tiềm năng
để trở thành linh hồn, nhưng thế thì bạn phải làm nhiều
việc vì nó, công việc lớn lao vì nó, và chỉ thế thì mới
có khả năng có linh hồn. Có linh hồn là xa hoa tối
thượng."
Bây giờ, suốt nhiều thời đại các tu sĩ đã từng bảo
bạn rằng bạn được sinh ra với một linh hồn. Điều đó

đã tạo ra một trạng thái vấn đề rất sai. Bởi vì mọi
người đã được bảo mình được sinh ra với linh hồn,
người đó nghĩ, "Thế thì sao bận tâm? Mình đã là linh
hồn rồi. Mình bất tử. Thân thể sẽ chết đi nhưng mình
sẽ sống." Gurdjieff nói "Bạn không là gì ngoài thân
thể, và khi thân thể chết đi bạn sẽ chết. Chỉ thỉnh
thoảng một người mới tồn tại - người đã tạo ra linh
hồn trong cuộc sống của mình mới sống sót qua cái
chết - không phải tất cả. Một Phật sống sót, một Jesus
sống sót, nhưng bạn thì không! Bạn đơn giản sẽ chết
đi, thậm chí chẳng dấu vết nào còn lại."
Gurdjieff định làm gì vậy? Ông ấy gây chấn động
bạn tới tận gốc rễ; ông ấy đang cố lấy đi mọi an ủi của
bạn và những lí thuyết ngu xuẩn điều giúp cho bạn trì
hoãn làm việc với chính mình. Bây giờ, bảo mọi
người, "Anh không có linh hồn nào đâu, anh chỉ là thứ
thực vật, chỉ như cái cải bắp hay có thể cải hoa" - cải
hoa cũng là cải bắp có giáo dục đại học - "nhưng
chẳng gì nhiều hơn thế." Ông ấy thực sự là thầy tuyệt
vời. Ông ấy lấy ngay đất ở phía dưới chân bạn. Ông ấy
cho bạn cú sốc đến mức bạn phải nghĩ về toàn thể tình
huống: bạn có định là bắp cải không? Ông ấy đã tạo ra
một tình huống quanh bạn trong đó bạn sẽ phải tìm
kiếm linh hồn, bởi vì ai muốn chết?
Và ý tưởng rằng linh hồn bất tử đã giúp cho mọi
người tự an ủi họ rằng họ sẽ không chết, rằng cái chết
chỉ là hình tướng, chỉ là giấc ngủ dài, giấc ngủ nghỉ
ngơi, còn bạn sẽ được sinh ra nữa. Gurdjieff nói, "Tất
cả đều vô nghĩa. Đây tất cả đều là vô nghĩa! Chết, bạn
chết mãi mãi - trừ phi bạn đã tạo ra được linh hồn..."

Bây giờ thấy khác biệt này: bạn đã được bảo bạn
đã có linh hồn, còn Gurdjieff thay đổi nó toàn bộ. Ông

ấy nói, "Bạn chưa là linh hồn đâu, mà chỉ là một cơ
hội. Bạn có thể dùng nó, bạn có thể bỏ lỡ nó."
Và tôi muốn bảo bạn rằng Gurdjieff đang dùng
phương cách đó thôi. Điều đó là không đúng. Mọi
người đều được sinh ra với linh hồn. Nhưng phải làm
gì với những người đã dùng chân lí như thứ an ủi?
Thầy lớn đôi khi phải nói dối - và chỉ thầy lớn mới có
quyền nói dối - chỉ để kéo bạn ra khỏi giấc ngủ của
bạn.
Chẳng hạn, bạn đang ngủ say và tôi lay bạn và lay
bạn mà bạn chẳng hề nhúc nhích. Và thế rồi tôi bắt đầu
kêu lên, "Cháy! Cháy!" và bạn bắt đầu chạy ra khỏi
nhà. Bên ngoài chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này. Tôi
sẽ nói rằng không có cháy... nhưng đây là cách duy
nhất để đánh thức bạn dậy.
Một khi chúng ta đã biết tới linh hồn, Gurdjieff sẽ
thì thào vào tai bạn, "Bây giờ đừng lo nhé. Quên mọi
điều tôi vừa nói với bạn. Nhưng điều đó là cần thiết.
Nó phương cách. Tôi phải kêu lên 'Cháy!' bằng không
thì bạn sẽ không thoát ra khỏi giấc ngủ của bạn."

Nhưng những người này nhất định bị hiểu lầm.
Hiểu một người như Gurdjieff gần như là một việc
không thể được. Bạn có thể hiểu ông ấy chỉ nếu bạn đi
cùng ông ấy, nếu bạn đi cùng với ông ấy. Và công việc
mà Gurdjieff đã làm là công việc rất bí mật - nó không
thể nào khác được. Công việc thực có thể được làm chỉ
trong trường phái bí truyền. Nó bị giấu kín, nó ở dưới
đất. Nó không phải là công cộng và nó không thể được
làm thành công cộng.
Vào thời Trung cổ các nhà huyền môn biến mất
đằng sau bộ quần áo nhà giả kim thuật; họ phải biến

mất vì người Ki tô giáo. Người Ki tô giáo đã phá huỷ
mọi loại nguồn xung đột với ý thức hệ Ki tô giáo theo
bất kì cách nào. Họ đã không cho phép bất kì ai thực
hành bất kì cái gì khác; thậm chí nói về bất kì cái gì
khác mà không được phép: "Ki tô giáo và duy nhất Ki
tô giáo là con đường."
Các nhà huyền môn phải biến mất. Họ đã tạo ra
lừa dối ngoạn mục, họ đã tạo ra ý tưởng về giả kim
thuật. Họ bắt đầu nói, "Chúng tôi là các nhà giả kim
thuật; chúng tôi chẳng liên quan gì tới tâm linh cả. Tất
cả những cái đó đều là chuyện vớ vẩn. Chúng tôi đang
tìm kiếm bí mật của cuộc sống bất tử, tuổi thanh xuân
vĩnh hằng. Chúng tôi đang cố gắng tìm ra cách thức và
phương tiện để biến đổi kim loại cơ sở thành vàng."
Và chỉ để lừa công chúng họ đã làm ra các phòng thí
nghiệm hoá học. Nếu bạn đi vào trong thế giới của các
nhà giả kim thuật, bạn sẽ gặp những lọ và thuốc và cỏ
và ống nghiệm... và bạn sẽ thấy một loại phòng thí
nghiệm nơi nhiều công việc hoá học đang được tiến
hành. Nhưng đây chỉ là vẻ ngoài thôi; đây không phải
là công việc thực - công việc thực đã xảy ra ở đâu đó
sâu bên dưới trong trường.
Công việc thực là tạo ra con người kết tinh, toàn
vẹn, tạo ra sự thức tỉnh. Công việc thực là thiền.
Nhưng Ki tô giáo không cho phép thiền. Nó nói cầu
nguyện là đủ. Nó không cho phép việc tìm kiếm nội
tâm. Nó nói tôn thờ Thượng đế là đủ, cứ chủ nhật nào
cũng đi tới nhà thờ là đủ, đọc Kinh Thánh là đủ. Nó đã
cho bạn đồ chơi - và đó là cách điều đó đã xảy ra ở các
nước khác nữa.
Ở Ấn Độ nữa các nhà huyền môn đã sống trá hình.

Mới hôm nọ tôi đọc một câu chuyện Sufi - và
Gurdjieff về cơ bản bắt rễ trong truyền thống Sufi.
Ông ấy là một người Sufi. Ông ấy đã học các bí mật
của ông ấy từ người Sufis.

Tôi đã đọc một câu chuyện Sufi:
Một đệ tử tới thầy và nói, "Tôi đang bị rắc rối. Rắc
rối là ở chỗ người giàu nhất thị trấn hay đi hành
hương. Ông ấy có cô con gái đẹp; và tôi có danh tiếng
lớn do mọi kỉ luật tôi đã trải qua và cá tính tôi đã trau
dồi. Tôi có được danh tiếng trong thị trấn tới mức ông
ấy muốn tôi chăm nom cho cô con gái đẹp của ông ấy
trong khi ông ấy đi hành hương. Và tôi sợ - tôi biết
cám dỗ của tôi. Và cô gái này thực sự đẹp; thực ra tôi
bao giờ cũng mê tít cô ấy. Tôi đã lảng tránh...! Điều
này là quá thể: trong sáu hay chín tháng cô ấy sẽ sống
cùng tôi. Tôi không thể tin được vào bản thân mình.
Tôi phải làm gì?"
Thầy nói, "Ta biết một người biết được bí mật.
Anh đi tới người đó."
Và thầy bảo anh ta đi sang làng khác nơi một
người điên sống. Anh ta nói, "Nhưng người điên đó có
thể làm được gì? Tôi biết người điên đó, tôi đã nghe
nói nhiều về người điên đó. Ông ta hoàn toàn điên!
Làm sao ông ấy có thể giúp được tôi?"
Thầy nói, "Anh cứ đi đi, nhưng đi một cách rất
quan sát. Quan sát mọi thứ đang xảy ra ở đó."
Anh ta đi tới người điên kia. Một thanh niên rất
điển trai đang rót rượu và người điên này uống.

Bây giờ, các nước Mô ha mét giáo đã từng, trong
nhiều thời đại, là đồng dục, nhiều lắm - nhiều tới mức
chỉ thiên đường Mô ha mét giáo mới toàn loại đồng
dục nam. Nó còn tiên tiến hơn bất kì thiên đường nào
khác. Trong thiên đường Hindu không có chỗ cho
người đồng dục nam. Trong thiên đường Ki tô giáo
nữa, không, không có chút nào. Ngay cả Thượng đế
của người Do Thái cũng rất chống đồng dục, giận lắm.
Nhưng Thượng đế của người Mô ha mét giáo rất hiền.
Không chỉ đàn bà đẹp được cung cấp cho người đức
hạnh, mà cả con trai đẹp nữa.
Cậu thanh niên đẹp trai này đang rót rượu và
người điên uống - người này cảm thấy căm hận lắm,
kết án. Nhưng bởi vì thầy đã nói, "Quan sát và đi và
hỏi ông ấy lời khuyên..." anh ta quên mất mọi vấn đề
của mình. Trước hết anh ta hỏi, "Xin ông nói cho tôi
biết điều gì đang xảy ra. Ông đang làm gì vậy?"
Người điên cười và ông ta nói, "Cậu này là con ta.
Và gần đây - cốc của ta chỉ nước. Cái nó rót không
phải là rượu."
Người này hỏi, "Thế thì tại sao ông giả vờ rằng
ông đang uống rượu? Chẳng ai nhấm nháp nước như
cách ông đang nhấm nháp cả. Hũ rượu anh ta đổ nước
vào không được dùng để giữ nước - thế thì tại sao?"

Người điên cười và nói, "Để cho không ai tin cậy
giao phó con gái đẹp của người đó cho ta khi người đó
đi hành hương. Đây là phương cách!"

Ông ấy phải đã đọc được ý nghĩ này, ông phải đã
có ngoại cảm. Ông ấy phải đã thấy thấu suốt người
này. "...Để cho không ai tin cậy giao phó con gái đẹp
của người đó cho ta, cho nên không ai bận tâm. Thế là

ta được bỏ lại một mình. Nhưng đừng nói bí mật của ta
cho bất kì ai; bằng không thì ta sẽ phải đi từ thị trấn
này sang thị trấn khác. Điên khùng của ta chỉ là tin đồn
do ta tạo ra. Vô tính cách của ta là tin đồn do ta tạo ra.
Và nếu anh thực sự muốn làm việc với bản thân anh,"
người điên nói, "anh nên làm giống như vậy. Quay về
đi. Bắt đầu cư xử một cách ngốc nghếch, ngu xuẩn,
điên khùng, vô đạo đức - ít nhất thì cũng giả vờ! - và
chẳng ai sẽ quấy rầy anh nữa."

Gurdjieff đã sống một cuộc sống rất huyền bí; nó
không phải là công khai. Trường phái của ông ấy là
trường phái ẩn kín. Điều gì đã xảy ra ở đó, mọi người
đơn giản đoán chừng.
Và đó là điều đang sắp xảy ra trong pha mới của
công việc của tôi. Công xã của tôi sẽ trở thành ẩn kín,
ngầm. Nó sẽ có mặt ngoài ở bên ngoài: thợ dệt và thợ
mộc và thợ gốm... đó sẽ là vẻ ngoài. Những người tới
như khách thăm, chúng ta sẽ có phòng trưng bày đẹp
cho họ; họ có thể mua các thứ. Họ có thể thấy tính
sáng tạo của các sannyasins: tranh vẽ, sách vở, đồ gỗ...
Họ có thể được chỉ cho xem xung quanh - hồ đẹp, bể
bơi, khách sạn năm sao dành cho họ - nhưng họ sẽ
không biết cái gì thực sự đang xảy ra. Cái sẽ xảy ra sẽ
gần như tất cả đều ngầm. Nó phải ngầm, bằng không
nó không thể xảy ra được.
Tôi có vài bí mật để truyền đạt cho bạn, và tôi sẽ
không thích chết trước khi tôi truyền đạt chúng cho
bạn - bởi vì tôi không biết bất kì ai khác bây giờ vẫn
sống trong thế giới mà có thể làm được công việc đó.
Tôi có những bí mật từ Đạo giáo, những bí mật từ Mật
tông, những bí mật từ yoga, những bí mật từ Sufis,

những bí mật từ Thiền nhân. Tôi đã sống trong hầu hết
các tín ngưỡng của thế giới; tôi đã từng vẩn vơ trong
nhiều kiếp rồi. Tôi đã thu thập nhiều mật từ nhiều hoa.

Và thời gian, sớm hay muộn, sẽ tới khi tôi sẽ phải
ra đi - và tôi sẽ không có khả năng đi vào lại trong thân
thể. Đây sẽ là kiếp sống cuối cùng của tôi. Tất cả mật
ngọt tôi đã thu thập được tôi muốn chia sẻ với bạn, để
cho bạn có thể chia sẻ nó với người khác, để cho nó
không biến mất khỏi trái đất.
Đây sẽ là công việc rất bí mật; do đó, Ajit
Saraswati, tôi không thể nói về nó được. Tôi nghĩ tôi
đã nói quá nhiều rồi! Tôi không nên nói ngay cả điều
này. Công việc này sẽ chỉ dành cho những người hoàn
toàn hết lòng tận tuỵ.
Ngay bây giờ, chúng ta có một văn phòng báo chí
lớn để làm cho thật nhiều người nhất có thể nhận biết
về hiện tượng đang xảy ra ở đây. Nhưng trong công xã
mới công việc thực sẽ đơn giản biến mất khỏi con mắt
của thế giới. Văn phòng báo chí sẽ vận hành - nó sẽ
vận hành cho chủ định khác. Mọi người sẽ cứ tới, bởi
vì từ những khách thăm chúng ta phải chọn ra; chúng
ta phải mời những người có thể là người tham dự,
người có thể tan biến trong công xã. Nhưng công việc
thực sẽ là tuyệt đối bí mật. Nó sẽ chỉ là giữa tôi và bạn.

Và sẽ không có mấy nói chuyện giữa tôi và bạn
đâu. Càng ngày tôi sẽ càng trở nên im lặng hơn, bởi vì
giao cảm thực là thông qua năng lượng, không qua lời.
Khi bạn đã sẵn sàng để nhận năng lượng này trong in
lặng, tôi sẽ trở thành ngày một im lặng hơn. Nhưng tôi
đang giữ một kho báu lớn cho bạn. Nhạy cảm vào...

Và khi công việc của tôi đi vào ngầm và trở thành
ngày một bí mật và bí ẩn hơn, tin đồn và chuyện tầm
phào nhất định sẽ lan truyền trên khắp thế giới ngày
một nhiều hơn. Mọi người trở nên rất nghi ngờ về bất
kì cái gì bí mật, và bởi vì họ không thể tìm được ra
manh mối nào, họ bắt đầu bịa đặt ra các ý tưởng của
riêng họ về điều đang xảy ra ở đó. Cho nên sẵn sàng
cho cả điều đó nữa đi.
Nhưng đừng lo nghĩ về điều đó. Nó sẽ là trường
phái bí ẩn. Những trường phái như vậy đã tồn tại khi
Zarathustra còn sống; ông ấy đã tạo ra một trường phái
như vậy. Nhiều trường phái như vậy đã tồn tại ở Ai
Cập, Ấn Độ, Tây Tạng. Khi Pythagoras tới và thăm
nước này ông ấy đã ghi sự kiện về những trường phái
bí ẩn. Ông ấy đã được điểm đạo vào nhiều trường phái
bí ẩn ở Ai Cập và ở Ấn Độ. Jesus đã được huấn luyện
bởi Essenes, một trường phái bí ẩn rất bí mật.

Tất cả những điều đẹp đẽ đó và tất cả những điều
vĩ đại trong lịch sử nhân loại đều đã xảy ra chỉ thông
qua vài người, người đặt toàn thể năng lượng của họ
vào cuộc thám hiểm bên trong. Công xã của tôi sắp
sửa là trường phái bí ẩn cho việc thám hiểm bên trong.
Nó là cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất có đó, và là điệu vũ vĩ
đại nhất nữa.

**************************************************

#2Câu hỏi thứ hai
Thưa thầy kính yêu,
Chìa khoá cho câu đố này là gì?
Phật nói: nói ít đi, và im lặng cảm thấy đẹp,

ta phải nói để làm gì?
Chuyện về quá khứ, mơ về tương lai,
Chuyện phiếm phù phiếm hay tranh luận lí lẽ,
tất cả đều là mùi vị giả dối của lưỡi.
Im lặng là đẹp,
và vậy mà...
âm thanh lách tách vui vẻ quanh chén trà
vọng theo tiếng chiêm chiếp vô tư của chim chócnăng
lượng tuôn chảy trong vũ trụ vui vẻ.
Thưa thầy kính yêu, xin nói cho tôi,
chìa khoá cho câu đố này là gì?

Nirgun, đừng coi Phật Gautama quá nghiêm chỉnh.
Im lặng là đẹp, chắc chắn nó là đẹp. Nhưng ai bảo bạn
rằng chuyện phiếm là không đẹp? Thực ra, bạn càng
tận hưởng chuyện phiếm, im lặng của bạn sẽ càng sâu
sắc hơn.
Đây là các cực đối lập và chúng cân bằng lẫn
nhau. Nếu bạn làm việc vất vả ban ngày, bạn sẽ ngủ
giấc ngủ sâu ban đêm. Các cực đối lập: làm việc vất vả
đem tới giấc ngủ sâu. Phi logic! Điều logic đáng là bạn
nghỉ cả ngày, thực hành nghỉ cả ngày, và thế rồi bạn
ngủ một giấc ngủ, giấc ngủ sâu trong đêm. Điều đó
mới là logic - nhưng Thượng đế phi logic.
Điều đó dường như hoàn toàn phải: cả ngày bạn
thực hành nghỉ - một cách tự nhiên bạn phải nghỉ
nhiều trong đêm hơn bất kì ai khác không thực hành
nó! Và người này, người đã làm chính điều đối lập -
làm việc vất vả, cày bừa trên đất, đào hố trong đất, làm
việc trong vườn, chẻ củi, gánh nước từ giếng - cả ngày
người đó vã mồ hôi, làm việc vất vả, công việc mệt
mỏi, đến tối người đó hoàn toàn mệt mỏi. Một cách

logic người đó đáng ra không có khả năng ngủ được
chút nào bởi vì người đó đã thực hành cái đối lập.
Nhưng đây không phải là cách cuộc sống vận hành.

Cuộc sống vận hành qua các cực đối lập. Cuộc
sống là không logic, cuộc sống là biện chứng. Nó là
biện chứng: chính đề, phản đề và chúng cả hai cân
bằng và trở thành tổng hợp. Thế thì tổng hợp lại vận
hành như chính đề và tạo ra phản đề của nó... và cứ
như thế mãi. Cuộc sống không phải có tính chất
Aristotel mà tính chất Hegel.
Chuyện phiếm hoàn toàn tốt. Và khi bạn nói
chuyện phiếm, nói chuyện phiếm cho toàn bộ vào - để
cho nó là việc thiền! Dù biết hoàn toàn rõ rằng nó là
chuyện tầm phào, ấy vậy mà nó vẫn có thể được tận
hưởng. Thực ra, có thể tận hưởng nó nhiều hơn bởi vì
nó chỉ là chuyện tầm phào! Và thế rồi rơi vào im lặng.

Tiếng líu lo của chim chóc là hay, nhưng bạn đã
quan sát rằng khi đột nhiên nó dừng thì có im lặng lớn
không? Im lặng này được làm sâu sắc hơn bởi tiếng
hót của chim. Im lặng đi theo sau cơn bão là sâu sắc
nhất, sâu lắng nhất.
Nirgun, đừng coi Phật quá nghiêm chỉnh. Ông ấy
cũng có thể được coi là quá nghiêm chỉnh - ông ấy là
người một chiều. Điều tôi đang nói đây... nếu bạn đã
hỏi cùng câu hỏi của Phật, ông ấy sẽ không nói cùng
điều đâu. Ông ấy sẽ nói, "Nirgun, bạn đang đi tới điểm
đúng đấy. Dừng chuyện phiếm và dừng việc nói lại.
Nói chỉ tối thiểu thôi, cái tuyệt đối cần thiết." Ông ấy
đã gợi ý rất vắn tắt. Nếu điều đó có thể được thực hiện
trong mười từ, thế thì đừng làm nó thành mười một từ.
Nếu bạn có thể cắt bỏ từ thêm nữa, cắt bỏ đi càng
nhiều càng tốt.

Nhưng kinh nghiệm riêng của tôi là ở chỗ nếu bạn
cắt bỏ đi mọi chuyện phiếm của bạn, mọi việc nói của
bạn, im lặng của bạn sẽ hời hợt, im lặng của bạn sẽ chỉ
là một loại buồn rầu. Nó sẽ không có chiều sâu. Nó lấy
được chiều sâu này từ đâu? Nó có thể lấy được chiều
sâu chỉ từ cực đối lập của nó.
Nếu bạn thực sự muốn nghỉ, trước hết nhảy múa đi
- nhảy muốn cho đến chối bỏ. Để mọi thớ thịt của thân
thể bạn và bản thể nhảy múa, và thế rồi theo sau sẽ là
việc thảnh thơi, việc nghỉ ngơi toàn bộ. Bạn không cần
làm nó, nó xảy ra theo cách riêng của nó.

Tôi không nói rằng chuyện phiếm phải được tiến
hành để làm hại ai đó. Thế thì nó không còn là chuyện
phiếm nữa, nó là bạo hành; thế thì nó không còn là
chuyện phiếm nữa, nó là cái gì đó khác được nguỵ
trang như chuyện phiếm. Chuyện phiếm nên là nghệ
thuật thuần tuý, không có động cơ nào - đùa chỉ vì đùa
thôi, chuyện phiếm chỉ vì chuyện phiếm. Và thế thì nó
sẽ giữ cho bạn vui vẻ. Và khi nó dừng lại... và bạn có
thể nói chuyện phiếm được bao lâu? Có giới hạn tự
nhiên cho mọi thứ. "Âm thanh lanh canh vui vẻ quanh
chén trà" không thể tiếp tục mãi mãi được. Chẳng mấy
chốc chén trà sẽ trống rỗng và tiếng lanh canh sẽ biến
mất... và thế rồi có sự im lặng sâu lắng.
Điều tốt là chim chóc đã không nghe Phật, điều tốt
là cây cối đã không nghe Phật.
Nirgun, tôi không muốn bạn trở thành Phật tử. Tôi
biết các sư Phật giáo: họ trở thành rất nghiêm chỉnh,
quá nghiêm chỉnh, tới mức cái nghiêm chỉnh của họ là
một loại bệnh tật. Họ không thể cười được, họ không
thể đùa được. Thực ra, nếu họ đọc bài nói của tôi về
Phật và họ bắt gặp những chuyện đùa rôm rả, họ sẽ

cụp mắt lại. Họ thậm chí sẽ không có năng lực đọc
chúng. Toàn thể bản thể của họ sẽ rút lui, họ sẽ co lại.
Họ sẽ không có khả năng tha thứ cho tôi.
Đừng quá nghiêm chỉnh. Thông điệp của tôi là
thông điệp của hân hoan. Đó là chỗ tôi khác Phật. Phật
là người nghiêm chỉnh; không một tượng nào tồn tại
mà mà ông ấy biểu lộ việc cười hay thậm chí mỉm
cười. Vâng, có các tượng Trung Quốc và Nhật Bản về
Phật mà trong đó ông ấy được biểu lộ mỉm cười hay
đôi khi cười ha hả - đôi khi thậm chí còn cười bụng,
bụng ông ấy rung lên. Nhưng đấy là chư phật Trung
Quốc và Nhật Bản.
Thực ra, nếu bạn thấy tượng Trung Quốc về Phật
và tượng Ấn Độ về Phật, bạn sẽ không thể quan niệm
được mối quan hệ gì giữa hai tượng này; chúng khác
nhau toàn bộ thế. Phật Ấn Độ rất nghiêm chỉnh. Thân
thể ông ấy kiểu lực sĩ: ông ấy có bộ ngực lớn và cái
bụng rất, rất thóp - chẳng có bụng chút nào. Và nếu
bạn thấy Phật Trung Quốc thì nó chính là cái đối lập.
Bạn sẽ không thấy ngực lớn chút nào, nó hoàn toàn
mất đi bởi vì cái bụng to thế. Và bạn có thể thấy ngày
cả trong những tượng đá cẩm thạch rằng bụng đang
rung lên với tiếng cười. Khuôn mặt ông ấy khác toàn
bộ, nó tròn và cho bạn cảm giác của đứa trẻ. Khuôn
mặt Phật Ấn Độ rất La Mã - nó được làm ra sau khi
Alexander đã tới thăm Ấn Độ - nó là khuôn mặt Hi
Lạp và La Mã. Các đường nét không phải Ấn Độ.
Nhìn lại vào tượng Phật Ấn Độ, các đường nét không
phải người Ấn Độ. Alexander và cái đẹp của ông ấy đã
gây ấn tượng cho mọi người nhiều tới mức họ đã áp
đặt khuôn mặt của Alexander lên thân thể Phật.

Và ông ấy rất nghiêm nghị, hoàn toàn nghiêm
nghị. Bạn không thể nào quan niệm nổi ông ấy cười.
Nhưng khi Phật giáo tới Trung Quốc nó gặp một triết
lí rất sâu sắc - cực đối lập. Biện chứng đã xảy ra ở đó.
Phật giáo trở thành chính đề và Đạo giáo trở thành
phản đề: sự gặp gỡ của Phật và Lão Tử. Tượng Phật
Trung Quốc là sự pha tạp, nó một nửa là Phật Gautam
và một nửa là Lão Tử - chúng xoắn xuýt với nhau. Cái
bụng đó thuộc về Lão Tử, tiếng cười đó thuộc về Lão
Tử, và cái im lặng thuộc về Phật. Nó đã là cuộc gặp gỡ
vĩ đại nhất đã từng xảy ra trên thế giới. Từ nó đã sinh
ra một hiện tượng có ý nghĩa nhất, sâu sắc nhất trong
tất cả lịch sử: Thiền.
Thiền không phải là Phật giáo không là Đạo giáo,
hay nó là cả hai cùng lúc. Đó là cuộc gặp gỡ kì lạ.
Thực ra, Lão Tử và Phật, nếu họ đã gặp nhau về mặt
vật lí, chắc sẽ chẳng đồng ý với nhau ở điểm nào. Lão
Tử là con người của tiếng cười. Ông ấy hay đi từ làng
này sang làng khác cưỡi trên lưng trâu - phải trông như
anh hề. Và ông ấy gần như bao giờ cũng cười, lăn lộn
trên đất - cười vào toàn thể cái nực cười của sự tồn tại,
cười vào cái ngớ ngẩn của cuộc sống.
Phật và Lão Tử là các cực đối lập. Có thể đó là lí
do tại sao cả hai triết lí này đã trở nên hấp dẫn nhau.
Cả hai đều không đầy đủ - sự gặp gỡ đã làm cho chúng
thành đầy đủ hơn. Lão tử sẽ không đồng ý với Thiền
mà Phật cũng không đồng ý với Thiền.

Tôi đã nghe một câu chuyện:
Trên trời, trong quán cà phê, Phật, Khổng Tử và
Lão Tử, cả ba đang ngồi đó, tán gẫu. Và một người

đàn bà, bà chủ quán cà phê, một người đàn bà đẹp, đi
tới. Bà ấy mang nước quả cuộc sống tới. Phật lập tức
nhắm mắt lại. Ông ấy nói, "Ta không thể nhìn vào điều
đó được! Điều đó không xứng để nhìn vào - sống là
khổ. Sinh là khổ, sống là khổ, chết là khổ. Bỏ nó khỏi
tầm nhìn của ta; bằng không ta không thể mở mắt ra
được!"
Khổng Tử hấp háy nửa mắt - ông ấy tin vào
phương tiện vàng, trung đạo, chỉ một nửa thôi - nhìn
bằng nửa con mắt và nói, "Tôi không thể phủ nhận nó
mà không nếm nó." Ông ấy là con người của nhiều
hiểu biết khoa học hơn. "Làm sao các ông có thể nói
được điều gì chừng nào các ông chưa thực nghiệm?
Các ông không nên tuyên bố những điều như vậy ngay
lập tức. Cho nên," ông ấy nói, "cho tôi một ngụm xem
sao." Ông ấy nếm nó và ông ấy nói, "Phật phải đấy: nó
đắng lắm, nó là khổ, và tôi hoàn toàn đồng ý và tôi là
một nhân chứng cho Phật. Nhưng tôi sẽ lại nói rằng
Phật là sai - không nếm nó, không cái gì nên được nói
ra. Mặc dầu ông ấy là phải - tôi có thể tán thành ông
ấy, theo chứng kiến của tôi thì ông ấy là phải - nhưng
theo chứng kiến của riêng ông ấy thì ông ấy không
phải."
Lão Tử cầm lấy cả hũ và trước khi bà chủ có thể
nói được gì, ông ấy đã tu cạn nó trong một ngụm. Ông
ấy tu hết cả hũ và ông ấy trở nên bị say đến mức ông
ấy bắt đầu nhảy múa. Ông ấy chẳng nói ra lời - đắng
hay ngọt, khổ hay lạc. Khi ông ấy chút ít trở với nhận
biết của mình, Phật và Khổng Tử hỏi ông ấy, "Ông nói
gì đây?"
Ông ấy nói, "Chẳng có gì để nói cả. Cuộc sống
phải được uống say tới tính toàn bộ của nó, chỉ thế thì

người ta mới biết. Và khi người ta biết, chẳng có gì mà
nói. Nó không thể được đặt vào bất kì phân loại nào.
Khổ hay lạc đều là những phân loại - cuộc sống ở
ngoài mọi phân loại. Nhưng người ta nên biết nó trong
tính toàn thể của nó, và tôi chỉ biết nó trong tính toàn
thể của nó. Ông thậm chí không nếm nó. Khổng Tử
mới chỉ nếm nó, nhưng người ta không nên quyết định
từ một phần về cái toàn thể. Chỉ ta mới có thể nói nó là
gì, nhưng ta không định nói bởi vì điều đó không thể
nói được. Nếu các ông thực sự muốn biết, ta có thể gọi
hũ khác. Uống nó toàn bộ và nhảy múa - đó là cách
duy nhất!"

Đó là cách duy nhất để biết bất kì điều gì.
Sự gặp gỡ của Phật giáo và Đạo giáo là hiện tượng
kì lạ nhất trên thế giới. Nhưng nó nhất định xảy ra; có
sự tất yếu chắc chắn trong nó bởi vì các cực đối lập thế
hấp dẫn lẫn nhau, cũng như cực âm và dương của nan
châm hay điện âm và dương hút nhau.
Phật giáo đã đi từ Ấn Độ vào Trung Quốc. Đạo
giáo chưa bao giờ đi sang Ấn Độ, bởi vì Đạo giáo đã
say xỉn hoàn toàn thế với cực lạc, với vui vẻ - ai bận
tâm? Phật giáo đã du hành, phải du hành. Cái nghiêm
chỉnh trở thành rất, rất nặng nề. Một khi Phật đã qua
rồi, một khi ánh sáng đã tắt rồi, thế thì nó giống như
tảng đá đè lên ngực các tín đồ - nó trở thành quá nặng.
Họ phải đi để tìm ra cái gì đó không nghiêm chỉnh để
cân bằng nó.
Nirgun, đừng nghiêm chỉnh về điều đó. Tận hưởng
chuyện phiếm của bạn đi, tận hưởng những điều nhỏ
bé của cuộc sống, những vui vẻ nhỏ bé của cuộc sống.

Chúng tất cả đều đóng góp cho việc làm giầu có bản
thể bạn. Và bao giờ cũng nhớ: không nghiêm chỉnh là
một trong những phẩm chất nền tảng nhất của người
tôn giáo thực.
Một thanh niên chân thành đi tới một giáo sĩ già
hiểu biết để xin lời khuyên. "Vấn đề là sự thèm muốn
dục của con. Khi con bắt tay đàn bà là nó khuấy lên -
ngay cả khi con đi ngang qua một người đàn bà xinh
trên phố nó cũng bị khuấy động. Nó quấy rầy con bởi
vì con yêu vợ con lắm."
"Đừng lo, con ta," giáo sĩ nói. "Chẳng thành vấn
đề gì chỗ con tạo ra thèm muốn chừng nào mà con vẫn
ăn tối ở nhà."

Ông giáo sĩ này là người khôn ngoan, không
nghiêm chỉnh, coi cuộc sống là trò đùa. Các
sannyasins của tôi phải coi cuộc sống là rất vui đùa -
thế thì bạn có thể có cả hai thế giới cùng nhau. Bạn có
thể có cái bánh và ăn nó nữa. Và đó là nghệ thuật thực.
Thế giới này và thế giới kia, âm thanh và im lặng, yêu
và thiền, ở cùng mọi người, có quan hệ, và ở một
mình. Tất cả những điều này đều phải được sống cùng
nhau theo kiểu đồng thời; chỉ thế thì bạn mới biết
chiều sâu nhất của bản thể bạn và chiều cao nhất của
bản thể bạn.

**************************************************

#2Câu hỏi thứ ba
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy nói gì về phát biểu nổi tiếng của Friedrich
Nietzsche rằng Thượng đế chết rồi?

Neeraj, Friedrich Nietzsche nói Thượng đế chết rồi
- điều đó nghĩa là trước đây ngài đã sống. Như tôi biết,
ngài chưa bao giờ sống cả. Làm sao Thượng đế có thể
chết được nếu như ngài chưa bao giờ sống? Thượng đế
không phải là người, cho nên ngài không thể sống và
ngài không thể chết được. Với tôi, Thượng đế là bản
thân cuộc sống! Thượng đế là đồng nghĩa với sự tồn
tại; do đó bạn không thể nói Thượng đế sống hay
Thượng đế chết. Thượng đế là cuộc sống! Và cuộc
sống là vĩnh viễn... nó là sự liên tục, nó vĩnh hằng,
không bắt đầu, không kết thúc.

Nietzsche thực sự nói rằng Thượng đế mà mọi
người tôn thờ đã trở thành không liên quan. Nhưng
ông ấy đã bị quen với việc đưa ra những phát biểu đầy
kịch tính. Thay vì nói: "Thượng đế mà mọi người đã
tôn thờ mãi cho tới nay không còn có liên quan nữa,"
ông ấy nói: "Thượng đế chết rồi." Và theo một cách
nào đó, phát biểu đầy kịch tính này xuyên thấu vào
tâm thức mọi người hơn. Nếu như ông ấy đã nói điều
đó theo cách triết lí nó có thể đã bị trệch mục tiêu,
nhưng nó đã trở thành phát biểu quan trọng nhất được
đưa ra trong cả trăm năm này. Không phát biểu nào
khác có ý nghĩa như vậy, hoặc có tác động như vậy lên
suy nghĩ, hành vi, cuộc sống của con người.

người.
63
Thượng đế của người Ki tô giáo chết rồi, Thượng
đế của người Do Thái chết rồi - đó là điều Nietzsche
đã nói. Nhưng đã có biết bao nhiêu thượng đế và tất cả
đều đã mất đi trong mòn mỏi. Nếu bạn làm ra một
danh sách bạn sẽ ngạc nhiên biết bao nhiêu thượng đế
đã được tôn thờ. Một người đã làm ra bản danh sách
đó. Tôi đã đọc bản danh sách này - thậm chí không
một cái tên nào mà ông ấy nhắc tới đã được biết đến.
Gần năm mươi thượng đế ông ấy nhắc tới. Các thượng
đế của người Ai Cập không có đó - thậm chí ngay ở Ai
Cập không ai biết tới họ. Đã có thời vì những thượng
đế đó mà cả con người cũng phải bị hiến tế, chiến
tranh diễn ra, những cuộc viễn chinh, giết người, hãm
hiếp; làng mạc bị đốt nhân danh những thượng đế đó.
Bây giờ thậm chí cái tên cũng không được biết tới. Tôi
đã đọc toàn bộ danh sách; ngoài năm mươi người này
không một cái tên nào được biết tới. Đã có nhiều
thượng đế được con người bịa ra, và khi những người
này trở nên mệt mỏi vì những thượng đế này, họ liền
bịa ra trò chơi mới và họ ném trò chơi cũ đi.

Những thượng đế này cứ được sinh ra rồi chết đi,
nhưng đây không phải là Thượng đế thật. 'Thượng đế
thật' đơn giản nghĩa là cuộc sống - aes dhammo
sanantano - luật không hề cạn của sự tồn tại. Làm sao
nó có thể chết được? Không có cách nào. Hình dạng
thay đổi...

Hình như Thượng đế đã tới thăm đường ngầm
New York mới gần đây. Ai đó đã viết nguệch ngoạc
lên tường: "Thượng đế chết rồi - Nietzsche kí," và phía
dưới nó được viết : "Nietzsche đã chết rồi - Thượng đế
kí."

Điều đó dường như còn đúng hơn nhiều. Nhưng
thậm chí một thông báo còn hay hơn cho bạn:
Một đường ngầm London có thông báo tin mừng
này: "Thượng đế chết rồi, nhưng đừng lo nhé - Mary
lại có thai rồi!"

**************************************************

#2Câu hỏi cuối cùng
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy có thể nói điều gì đó về mặc cảm và sợ
không?

Latifa, sợ là tự nhiên, mặc cảm là bịa đặt của các
tu sĩ. Mặc cảm là nhân tạo. Sợ là sẵn có, và nó rất bản
chất. Không có sợ bạn sẽ không có khả năng sống sót
chút nào. Sợ là thông thường. Chính bởi vì sợ mà bạn
sẽ không đưa tay mình vào lửa. Chính bởi vì sợ mà
bạn sẽ đi bộ bên phải hay bên trái, bất kì cái gì là luật
lệ nước bạn. Chính bởi vì sợ mà bạn sẽ tránh chất độc.
Chính bởi vì sợ mà khi xe tải bóp còi, bạn chạy ngay
ra khỏi đường.
Nếu trẻ con không sợ, không có khả năng nào cho
nó sống sót. Sợ của nó là biện pháp bảo vệ cuộc sống.
Nhưng bởi vì khuynh hướng tự nhiên này để bảo vệ
bản thân người ta... và chẳng có gì sai trong nó cả -

bạn có quyền bảo vệ bản thân bạn. Bạn có cuộc sống
quí giá thế để bảo vệ, và sợ đơn giản giúp bạn. Sợ là
thông minh. Chỉ kẻ ngu mới không có sợ, người khờ
không có sợ; do đó bạn phải bảo vệ người ngốc, bằng
không họ sẽ tự thiêu họ hay họ sẽ nhảy ra khỏi toà nhà,
hay họ sẽ đi vào biển mà không biết bơi hay họ có thể
ăn rắn... hay bất kì cái gì họ có thể làm!
Sợ là thông minh - cho nên khi bạn thấy rắn bò
qua đường, bạn ù té chạy khỏi đường. Điều đó không
phải là hèn nhát, điều đó đơn giản là thông minh.
Nhưng có hai khả năng...
Sợ có thể trở thành bất thường, nó có thể trở thành
bệnh hoạn. Thế thì bạn sợ những thứ mà không cần
phải sợ - mặc dầu bạn có thể tìm ra biện luận ngay cả
cho nỗi sợ bất thường của mình. Chẳng hạn, ai đó sợ đi
vào trong nhà. Một cách logic bạn không thể chứng
minh rằng người đó sai được. Người đó nói, "Cái gì
đảm bảo cho ngôi nhà này sẽ không đổ?" Bây giờ, các
nhà đều được người ta biết là sẽ đổ cho nên ngôi nhà
này cũng sẽ đổ. Mọi người đã bị đè nghiến bởi nhà đổ.
Không ai có thể cho lời bảo đảm tuyệt đối rằng ngôi
nhà này sẽ không đổ - động đất có thể xảy ra... bất kì
cái gì đều có thể! Người khác sợ - người đó không thể
đi du lịch được bởi vì có tai nạn tàu hoả. Ai đó khác sợ
- người đó không thể đi trong xe ô tô, có tai nạn ô tô.
Và ai đó khác sợ máy bay...
Nếu bạn trở nên sợ theo cách này, đây không phải
là thông minh. Thế thì bạn nên sợ cả cái giường của
mình nữa, vì gần chín mươi bẩy phần trăm mọi người
chết trong giường của họ - cho nên đó là chỗ nguy
hiểm nhất để mà ở. Một cách logic bạn nên rời xa
giường nhiều nhất có thể được, đừng bao giờ gần nó.

Nhưng thế thì bạn sẽ làm cho cuộc sống của bạn thành
không thể được.
Sợ có thể trở thành bất thường, thế thì nó là bệnh
hoạn. Và bởi vì khả năng này, các tu sĩ đã dùng nó, các
chính khách đã dùng nó. Đủ mọi loại kẻ áp bức đã
dùng nó. Họ làm cho nó thành bệnh hoạn, và thế thì
việc bóc lột bạn trở thành rất đơn giản. Tu sĩ làm cho
bạn sợ địa ngục. Cứ nhìn vào kinh sách mà xem - với
vui nào mà họ tả toàn cảnh tra tấn, với thực sự hứng
thú lớn lao. Kinh sách mô tả thật chi tiết, rất chi tiết
từng cảnh và mọi cảnh tra tấn.
Adolf Hitler phải đã đọc những kinh sách này; ông
ta phải đã tìm thấy những ý tưởng lớn từ những kinh
sách này mô tả về địa ngục. Bản thân ông ta không
phải là thiên tài sáng tạo đến mức phát minh ra các trại
tập trung và đủ mọi loại tra tấn. Ông ta phải đã tìm
thấy chúng trong các kinh sách tôn giáo - chúng đã có
đó rồi, các tu sĩ đã làm công việc này. Ông ta chỉ thực
hành điều các tu sĩ đã thuyết giảng. Ông ta thực sự là
người tôn giáo đấy!
Các tu sĩ chỉ nói về địa ngục đang chờ đợi bạn sau
cái chết. Ông ta nói, "Sao chờ lâu thế? Ta sẽ tạo ra địa
ngục ở đây bây giờ. Các ông có thể nếm mùi của nó."

Tôi đã nghe nói rằng có lần một người chết, xuống
địa ngục, gõ cửa. Quỉ nhìn anh ta - anh ta có vẻ là
người Đức - quỉ hỏi anh ta, "Anh từ đâu tới vậy?"
Người này nói, "Từ Đức."
Quỉ nói, "Vậy thì không cần tới đây đâu - anh đã
sống nó rồi! Bây giờ anh có thể lên cõi trời. Và anh sẽ
thấy chỗ của chúng ta rất chán bởi vì anh đã có một ấn

bản địa ngục được cải tiến hơn nhiều lắm. Chúng tôi
vẫn còn sống trong thời đại xe bò kéo - cách tra tấn cũ.
Anh biết những dụng cụ, cách thức, phương tiện tinh
vi hơn nhiều."

Phòng khí ga vẫn chưa được biết tới ở địa ngục.
Trong một phòng khí ga, mười nghìn người, trong vài
giây, có thể trở thành khói. Và bạn sẽ ngạc nhiên mà
biết rằng mặc dầu chúng ta đang sống trong thế kỉ hai
mươi, con người vẫn là con vật. Hàng nghìn người tới
xem. Kính được lắp khít, cố định, một chiều. Bạn có
thể thấy điều đang xảy ra bên trong, nhưng người bên
trong không thể thấy được ai đang nhìn từ bên ngoài.

Hàng nghìn người sẽ đứng ngoài quan sát qua lớp
kính: mọi người đang biến mất trong làn khói - đơn
giản biến mất trong làn khói - hàng nghìn người chết
trong vài giây. Và những người đang tận hưởng ở bên
ngoài, bạn có thể gọi họ là con người được không?
Nhưng nhớ lấy, điều đó không liên quan gì tới nước
Đức cả, điều này là như vậy trên khắp thế giới. Con
người đích xác như nhau ở mọi nơi.
Các tu sĩ trở nên nhận biết rất sớm rằng bản năng
sợ trong con người có thể được khai thác. Con người
có thể bị làm cho sợ đến mức người đó sẽ quì dưới
chân tu sĩ và sẽ nói với họ, "Xin cứu chúng con! Chỉ
cha mới có thể cứu được chúng con." Và tu sĩ sẽ nhận
cứu họ nếu họ đi theo tu sĩ; nếu họ tuân theo các nghi
lễ do tu sĩ qui định, tu sĩ sẽ cứu họ. Và từ nỗi sợ mọi
người đã đi theo tu sĩ, và đủ mọi loại ngu xuẩn, mê tín.

Chính khách cũng trở nên nhận biết ngay rằng có
thể làm cho mọi người rất sợ. Và nếu bạn làm cho họ

sợ, bạn có thể chi phối được họ. Chính từ sợ mà quốc
gia tồn tại. Nỗi sợ nước Mĩ giữ cho người Nga làm nô
lệ cho chủ nghĩa cộng sản, và nỗi sợ của nước Nga làm
cho người Mĩ thành nô lệ cho chính phủ. Sợ lẫn nhau...
người Ấn Độ sợ người Pakistanis, và người Pakistanis
sợ người Ấn Độ. Đấy là một thế giới ngu xuẩn thế!
Chúng ta sợ lẫn nhau, và bởi vì nỗi sợ của chúng ta mà
chính khách trở nên quan trọng. Ông ấy nói, "Chúng
tôi sẽ cứu bạn ở đây, trên thế giới này," và tu sĩ nói,
"Chúng tôi sẽ cứu bạn ở thế giới bên kia." Và họ âm
mưu cùng nhau.
Chính nỗi sợ tạo ra mặc cảm - nhưng không phải
là bản thân nỗi sợ. Nỗi sợ tạo ra mặc cảm qua các tu sĩ
và chính khách. Các tu sĩ và chính khách tạo ra trong
bạn bệnh hoạn, run rẩy. Và một cách tự nhiên, con
người tinh tế thế và mong manh thế, con người trở nên
sợ. Và thế thì bạn có thể bảo người đó làm bất kì cái gì
và người đó sẽ làm nó - biết hoàn toàn rõ rằng điều đó
là ngu xuẩn, biết rất rõ sâu bên dưới rằng tất cả đều vô
nghĩa, nhưng ai biết...? Từ nỗi sợ, con người có thể bị
buộc phải làm bất kì cái gì.

Một nữ thanh niên không thể kìm mình khỏi việc
ho và hắt hơi trong nhà hát mới đến hỏi bác sĩ cách
chữa trước khi đi xem đêm đầu tiên. "Đây, uống cái
này," ông ấy nói, đưa cho cô ta chiếc cốc. Cô ta uống
nó, mồm méo xệch, và hỏi cái gì đấy, cứ tưởng tượng
một kiểu thuốc ho vị khó nuốt nào đó.
"Đấy là liều kép của nước Diêm vương," ông ta trả
lời. "Bây giờ cô sẽ không dám hắt hơi hay ho đâu."

... Bạn không hiểu nó. Bạn chưa bao giờ nếm nước
Diêm vương - thử đi, và bạn sẽ không dám hắt hơi hay
ho nữa. Làm một thực nghiệm: bạn có thể hỏi Ajit
Saraswati về nước Diêm vương, chỉ thế thì bạn mới
hiểu được chuyện cười này. Nó rất có tính tồn tại. Bởi
vì bạn đã không hiểu được nó nên tôi sẽ phải kể câu
chuyện khác:

Một sáng, một con gấu cái đột kích vào ca bin của
Joe, cào rách mọi thứ, ăn mọi thứ, xé mọi thứ, và nhẹ
nhàng bỏ đi.
Joe đuổi theo vết nó, bắn nó, và thế rồi để ý thấy
nó giống đàn bà thế, anh ta bèn thoả mãn dục tính của
mình với cái xác thú của nó. Ngay lúc đó anh ta để ý
một thợ săn khác nấp trong các cành cây của cây gần
đó. Nhận ra hành động của mình đã bị quan sát, Joe
chĩa súng vào người này, bắt anh ta trèo xuống và nói,
"Anh đã bao giờ làm tình với gấu chưa?"
Và thợ săn kia nói, "Không, nhưng tôi định thử."

Con người có thể bị buộc phải làm bất kì cái gì -
chỉ để cứu bàn thân mình. Và bởi vì bệnh hoạn, cái mà
các tu sĩ đã tạo ra trong bạn, là phi tự nhiên, bản tính
của bạn nổi dậy chống nó, và thỉnh thoảng bạn làm
điều gì đó chống nó - bạn làm điều gì đó tự nhiên - thế
thì mặc cảm phát sinh.
Latifa, mặc cảm nghĩa là bạn có một ý tưởng phi
tự nhiên trong tâm trí bạn về cuộc sống phải như thế
nào, cái gì phải được làm, và thế rồi một hôm bạn thấy
bản thân mình tuân theo tự nhiên và bạn làm điều tự
nhiên. Bạn đi ngược lại ý thức hệ. Bởi vì bạn đi ngược

lại ý thức hệ, mặc cảm phát sinh, bạn xấu hổ. Bạn cảm
thấy bản thân mình rất kém cỏi, không có giá trị.

Nhưng bằng cách cho mọi người những ý tưởng
phi tự nhiên bạn không thể biến đổi họ được. Do đó,
các tu sĩ đã có khả năng khai thác mọi người, nhưng
họ đã không có khả năng biến đổi mọi người. Họ
không quan tâm tới việc biến đổi bạn nữa; toàn thể ý
tưởng của họ là giữ cho bạn bao giờ cũng bị nô lệ. Họ
tạo ra lương tâm trong bạn. Lương tâm của bạn không
thực là lương tâm của bạn - nó do các tu sĩ tạo ra. Họ
nói, "Cái này sai". Bạn có thể biết từ cốt lõi sâu nhất
của bản thể mình rằng dường như chẳng có gì sai trong
nó cả, nhưng họ nói nó là sai. Và họ cứ thôi miên bạn
từ chính thời thơ ấu của bạn. Việc thôi miên đi sâu,
thấm sâu vào bạn, chìm sâu vào bạn, trở thành gần như
mọi phần của bản thể bạn. Nó giữ bạn lại.
Họ đã bảo bạn dục là sai - nhưng dục là hiện tượng
tự nhiên tới mức bạn bị hấp dẫn về nó. Và chẳng có gì
sai trong việc bị hấp dẫn vào đàn bà hay đàn ông. Đấy
chỉ là một phần của tự nhiên. Nhưng lương tâm bạn
nói, "Điều này sai." Thế là bạn kìm mình lại. Một nửa
của bạn đi tới người đàn bà này, một nửa của bạn kéo
bạn trở lại. Bạn không thể ra được quyết định gì; bạn
bao giờ cũng bị phân chia, chia chẻ. Nếu bạn quyết
định đi cùng với người đàn bà này, lương tân bạn sẽ
hành hạ bạn: "Mình đã phạm tội lỗi." Nếu bạn không
đi cùng người đàn bà này, bản tính bạn sẽ hành hạ bạn:
"Em làm anh thèm muốn quá."
Bây giờ bạn trong trói buộc kép. Bất kì điều gì bạn
làm bạn sẽ khổ. Và đó là điều các tu sĩ bao giờ cũng
muốn - để cho bạn khổ, bởi vì bạn càng khổ bạn càng

hay tới ông ấy xin lời khuyên. Bạn càng khổ, bạn càng
tìm kiếm cứu rỗi.
Bertrand Russell là tuyệt đối đúng rằng nếu con
người được cho tự do toàn bộ, tự nhiên - là tuyệt đối
phải rằng nếu con người được cho tự do toàn bộ, tự
nhiên - tự do với cái gọi là lương tâm và đạo đức - và
nếu con người được giúp để trở thành sinh linh tự
nhiên, tích hợp - thông minh, hiểu biết, sống cuộc sống
theo ánh sáng riêng của mình, không theo lời khuyên
của ai đó khác - thì cái gọi là các tôn giáo sẽ biến mất
khỏi thế giới.
Tôi hoàn toàn đồng ý với ông ấy. Cái gọi là các
tôn giáo chắc chắn sẽ biến mất khỏi thế giới nếu mọi
người không khổ; họ sẽ không tìm cứu vớt. Nhưng
Bertrand Russell tiếp tục và ông ấy nói bản thân tôn
giáo sẽ biến mất khỏi trái đất. Tại đó tôi không đồng ý
với ông ấy. Cái gọi là tôn giáo sẽ biến mất, và bởi vì
cái gọi là tôn giáo sẽ biến mất nên sẽ có, lần đầu tiên
trên thế giới, một cơ hội cho tôn giáo tồn tại. Người Ki
tô giáo sẽ không có đó, người Hin du sẽ không có đó,
người Mô ha mét giáo sẽ không có đó - chỉ thế thì một
loại tính tôn giáo mới lan rộng trên trái đất. Mọi người
sẽ sống theo tâm thức riêng của họ. Sẽ không có mặc
cảm, không ăn năn, bởi vì những điều này không bao
giờ làm thay đổi mọi người. Mọi người vẫn còn như
vậy; họ cứ thay đổi việc chộp bắt bên ngoài của họ,
hình dạng của họ. Về bản chất, chẳng cái gì thay đổi
qua mặc cảm, qua nỗi sợ, qua cõi trời, qua địa ngục.
Tất cả những ý tưởng này đều thất bại hoàn toàn.

Bây giờ là lúc nhận ra rằng mọi tôn giáo cũ đã thất
bại. Vâng, họ đã tạo ra vài người tuyệt vời - một Phật
ở đây và một Jesus ở đây - nhưng từ hàng triệu và

hàng triệu con người, thỉnh thoảng ai đó đã nở hoa. Nó
là ngoại lệ, nó không thể được tính. Nó không nên
được tính tới. Chư Phật có thể được đếm trên đầu ngón
tay.
Nếu người làm vườn trồng mười nghìn cây và chỉ
một cây nở hoa vào mùa xuân, bạn có gọi người đó là
người làm vườn không? Thế còn chín nghìn chín trăm
chín mươi chín cây kia thì sao? Nếu cây này đã nở
hoa, nó phải đã nở hoa mặc cho người làm vườn có
hay không. Công lao không thể thuộc về ông ấy được -
ông ấy phải đã bỏ lỡ nó bằng cách nào đó.

Chúng ta đã sống trong một loại thế giới rất sai;
chúng ta đã tạo ra một loại tình huống sai. Mọi người
chỉ cứ ca tụng hời hợt - người Hindu trở thành người
Ki tô giáo, người Ki tô giáo trở thành người Hindu, và
chẳng cái gì đã bao giờ thay đổi. Tất cả vẫn còn
nguyên như cũ.

Gái điếm được cải tạo đang đưa ra bằng chứng với
Đội quân cứu tế ở góc phố và đêm thứ bảy, nhấn mạnh
bài nói của mình bằng việc đánh lên chiếc trống đồng
lớn.
"Tôi đã từng là một kẻ tội lỗi!" cô ta hô (bùm!)
"Đã từng là người đàn bà xấu (bùm!) Tôi đã uống
rượu! (bùm!) Cờ bạc! (bùm!) Đĩ điếm! (bùm! bùm!)
Đã từng đi đêm thứ bảy và nổi cơn tam bành! (bùm!)
Bây giờ tôi làm gì vào các đêm thứ bảy? Tôi đứng ở
góc phố này, đánh vào cái trống đéo mẹ này!"
Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

#3 Và đi tiếp

**Ai sẽ chinh phục thế giới này
Và thế giới của chết với mọi thần của nó?
Ai sẽ khám phá ra
Con đường chói sáng của luật?
Ông sẽ, ngay cả như người
tìm hoa,
tìm thấy đoá hoa đẹp nhất,
hiếm nhất.
Hiểu rằng thân thể
Đơn thuần là bọt sóng,
Cái bóng của cái bóng.
Chộp lấy mũi tên hoa của ham muốn
Và rồi, vô hình,
Thoát khỏi Diêm vương.
Và đi tiếp.
Cái chết bắt người

thu nhặt hoa
Khi với tâm trí phân tán và giác quan thèm khát
Người đó tìm vô vọng về hạnh phúc
Trong hoan lạc của thế giới.
Cái chết bắt lấy người đó đi
Như trận lụt mang đi cả làng đang ngủ.
Cái chết đánh bại người đó
Khi với tâm trí phân tán và giác quan thèm khát
Người đó thu nhặt hoa.
Người đó sẽ chẳng bao giờ có thoả thích
hoan lạc của thế giới.
Ong hút mật hoa từ hoa
Không làm hỏng cái đẹp hay hương thơm của nó.
cho nên để người chủ định cư, và lang thang.
Nhìn vào lỗi riêng của ông,
Điều ông đã làm hoặc bỏ không làm.
Bỏ qua lỗi lầm của người khác.
Giống như đoá hoa đáng yêu,
Sáng chói nhưng không thơm,
Là lời đẹp nhưng trống rỗng
Về người không ngụ ý điều mình nói.
Giống như đoá hoa đáng yêu,
Sáng chói và thơm ngát,
Là lời đẹp và chân lí
Của người ngụ ý điều mình nói.
Giống như vòng hoa được kết từ đống hoa,
Kiểu cách từ cuộc sống của ông được kết như
nhiều việc làm tốt.**

Thượng đế không thực sự là trung tâm của cuộc
truy tìm tôn giáo - cái chết mới là trung tâm. Không có
cái chết thì đã không có tôn giáo nào hết cả. Chính cái
chết làm cho con người tìm và kiếm cõi bên kia, cái
bất tử.
Cái chết bao quanh chúng ta như đại dương bao
quanh đảo nhỏ. Đảo có thể bị ngập bất kì lúc nào.
Khoảnh khắc tiếp có thể chẳng bao giờ tới, ngày mai
có thể chẳng bao giờ tới. Con vật không có tính tôn
giáo bởi lẽ đơn giản là chúng không nhận biết về cái
chết. Chúng không thể quan niệm được bản thân chúng
chết, mặc dầu chúng thấy con vật khác chết. Chính
bước nhảy lượng tử là từ việc thấy ai đó khác chết mà
kết luận rằng "Mình cũng sẽ chết." Con vật không tỉnh
táo, nhận biết thế để đi tới kết luận như vậy.

Và đại đa số nhân loại cũng chưa được là người.
Con người thực sự là con người chín chắn khi người
đó đã đi tới kết luận này: "Nếu cái chết xảy ra cho mọi
người khác, thế thì mình không thể là ngoại lệ." Một
khi kết luận này chìm sâu vào trong tim bạn, cuộc sống
của bạn không bao giờ có thể như cũ được nữa. Bạn
không thể vẫn còn bị gắn bó với cuộc sống theo cách
cũ được. Nếu đằng nào nó cũng sẽ bị lấy đi, phỏng có
ích gì mà sở hữu thế? Nếu đằng nào nó cũng sẽ biến
mất đi một ngày nào đó, sao níu bám và khổ? Nếu nó
sẽ không còn được mãi mãi, thế thì sao khổ thế, phiền
não thế, lo nghĩ thế? Nếu nó sẽ đi, nó sẽ đi - chẳng
thành vấn đề khi nào nó đi. Thời gian là không quan
trọng nữa - hôm nay, ngày mai, ngày kia. Nhưng cuộc
sống vẫn cứ tuột ra khỏi bàn tay bạn.

Cái ngày bạn trở nên nhận biết rằng bạn sẽ chết,
rằng cái chết của bạn là tuyệt đối chắc chắn... thực ra
điều chắc chắn duy nhất trong cuộc sống là cái chết.
Không cái gì khác tuyệt đối chắc chắn như thế. Nhưng
bằng cách nào đó chúng ta cứ né tránh câu hỏi này, câu
hỏi về cái chết. Chúng ta cứ giữ cho mình bận tâm vào
các vấn đề khác. Đôi khi chúng ta nói về những điều
lớn lao - Thượng đế, cõi trời và địa ngục - chỉ để né
tránh câu hỏi thực. Câu hỏi thực không phải là về
Thượng đế, không thể thế được, bởi vì bạn có được
quen thuộc gì với Thượng đế? Bạn biết gì về Thượng
đế? Làm sao bạn có thể truy vấn về cái gì đó tuyệt đối
không được biết với bạn? Nó sẽ là truy vấn trống rỗng.
Nhiều nhất nó sẽ là tò mò, nó sẽ là chuyện cho người
chưa trưởng thành, trẻ con, ngu xuẩn.
Người ngu hỏi về Thượng đế, người thông minh
hỏi về cái chết. Người cứ hỏi về Thượng đế chẳng bao
giờ tìm thấy Thượng đế, và người hỏi về cái chết nhất
định tìm thấy Thượng đế - bởi vì chính cái chết làm
biến đổi bạn, cách nhìn của bạn. Tâm thức bạn được
mài sắc bởi vì bạn đã nêu ra câu hỏi thực, câu hỏi đích
thực, câu hỏi quan trọng nhất của cuộc sống. Bạn đã
tạo ra một thách thức lớn tới mức bạn không thể vẫn
còn ngủ lâu được nữa; bạn sẽ phải thức tỉnh, bạn sẽ
phải đủ tỉnh táo để đương đầu với thực tại của cái chết.

Đó là cách truy vấn của Phật bắt đầu:
Ngày Phật được sinh ra... ông ấy là con trai của
một ông vua lớn, và con một, và ông ấy được sinh ra
khi nhà vua đã già rồi, rất già; do đó đã có hân hoan
lớn trong vương quốc. Mọi người chờ đợi đã lâu rồi.
Nhà vua rất được mọi người yêu mến; ông ấy đã phục

vụ họ, ông ấy tốt và từ bi, ông ấy rất đáng yêu và rất
hay chia sẻ. Ông ấy đã làm cho vương quốc của ông ấy
thành một trong những vương quốc giầu có nhất, đáng
yêu nhất của thời đó.
Mọi người đều cầu nguyện rằng vua của họ sẽ có
con trai bởi vì không có ai để kế thừa. Và rồi Phật
được sinh ra trong chính tuổi rất già của nhà vua - việc
sinh của ông ấy thật bất ngờ. Lễ hội lớn, hân hoan lớn!
Mọi nhà chiêm tinh của vương quốc đã tụ tập để tiên
đoán về Phật. Tên của ông ấy là Siddhartha - ông ấy đã
được cho cái tên này, Siddhartha, bởi vì nó có nghĩa là
sự hoàn thành. Nhà vua đã được hoàn thành, ham
muốn của ông ấy đã được hoàn thành, khao khát sâu
sắc nhất của ông ấy đã được hoàn thành - ông ấy muốn
một đứa con trai, ông ấy đã muốn một đứa con trai
trong cả đời ông ấy; do đó mới có cái tên Siddhartha.
Nó đơn giản nghĩa là sự hoàn thành của ham muốn sâu
sắc nhất.
Đứa con này làm cho cuộc sống của nhà vua thành
có nghĩa, có ý nghĩa. Các nhà chiêm tinh, những nhà
chiêm tinh lớn, đã tiên đoán - họ tất cả đều đồng ý
ngoại trừ một nhà chiêm tinh trẻ. Tên anh ta là
Kodanna. Nhà vua hỏi, "Điều gì sẽ xảy ra trong cuộc
đời của con ta?" Và mọi nhà chiêm tinh đều giơ hai
ngón tay lên, trừ Kodanna chỉ giơ một ngón tay.

Nhà vua hỏi, "Xin đừng nói theo biểu tượng - ta là
người đơn giản, ta không biết gì về chiêm tinh cả. Nói
cho ta, các ông ngụ ý gì bằng hai ngón tay?"

Và họ tất cả đều nói, "Hoặc nó sẽ trở thành một
chakravartin - người cai trị thế giới - hoặc nó sẽ từ bỏ
thế giới và sẽ trở thành vị phật, người chứng ngộ. Hai

phương án này đều có đó, do đó chúng tôi giơ hai ngón
tay."
Nhà vua lo nghĩ về phương án thứ hai, rằng nó sẽ
từ bỏ thế giới. "Vậy lại có vấn đề: ai sẽ kế thừa vương
quốc của ta nếu nó từ bỏ thế giới này?" Và rồi ông ấy
hỏi Kodanna, "Sao ông chỉ giơ một ngón tay?"
Kodanna nói, "Tôi tuyệt đối chắc chắn rằng nó sẽ
từ bỏ thế giới - nó sẽ trở thành vị phật, người chứng
ngộ, người thức tỉnh."
Nhà vua không hài lòng với Kodanna. Chân lí rất
khó chấp nhận. Ông ấy lờ Kodanna đi; Kodanna không
được thưởng gì - chân lí không được thưởng trong thế
giới này. Ngược lại, chân lí bị trừng phạt theo cả nghìn
lẻ một cách. Thực ra, danh tiếng của Kodanna đổ nhào
từ ngày đó. Bởi vì ông ấy đã không được vua ban
thưởng, tin đồn lan rộng rằng ông ấy là kẻ ngu. Khi
mọi nhà chiêm tinh đều đồng ý rồi, ông ấy là người
duy nhất không đồng ý.
Nhà vua hỏi các nhà chiêm tinh kia, "Các ông có
gợi ý gì không? Ta phải làm gì để cho nó không từ bỏ
thế giới này? Ta không muốn nó là kẻ ăn xin, ta không
muốn thấy nó là sannyasin. Ta muốn nó trở thành một
chakravartin - người cai trị tất cả sáu lục địa." Tham
vọng của mọi bậc bố mẹ đấy. Ai muốn con trai hay
con gái mình từ bỏ thế giới và đi vào trong núi non, đi
vào lãnh thổ riêng của mình, để tìm và kiếm cái ta?

Ham muốn của chúng ta là hướng ngoại. Nhà vua
là người bình thường, cũng giống như mọi người khác
- với cùng ham muốn và cùng tham vọng. Các nhà
chiêm tinh nói, "Điều đó có thể thu xếp được: cứ cho

nó thật nhiều hoan lạc nhất có thể được, giữ nó trong

tiện nghi và xa hoa nhiều như con người có thể có
được. Đừng cho phép nó biết tới bệnh tật, tuổi già và
đặc biệt là cái chết. Đừng để nó đi tới biết về cái chết
và nó sẽ không bao giờ từ bỏ cả."
Họ là phải theo một cách nào đó, bởi vì cái chết là
vấn đề trung tâm. Một khi nó nảy sinh trong tim bạn,
phong cách sống của bạn nhất định thay đổi. Bạn
không thể cứ sống theo kiểu ngu xuẩn cũ được. Nếu
cuộc sống này sẽ đi tới chấm dứt trong cái chết, thế thì
cuộc sống này không thể là cuộc sống thực được, thế
thì cuộc sống này phải là ảo tưởng. Chân lí phải là
vĩnh hằng nếu nó là thực - chỉ dối trá là tạm thời. Nếu
cuộc sống là tạm thời, thế thì nó phải là ảo tưởng, dối
trá, quan niệm lầm, hiểu lầm; thế thì cuộc sống phải
được bắt rễ ở đâu đó trong dốt nát. Chúng ta phải sống
trong nó theo cách nó đi tới chấm dứt.
Chúng ta có thể sống theo cách khác để cho chúng
ta có thể trở thành một phần của luồng vĩnh hằng của
sự tồn tại. Chỉ cái chết mới có thể cho bạn dịch chuyển
triệt để đó.
Cho nên các nhà chiêm tinh nói, "Xin đừng để nó
biết gì về cái chết." Và nhà vua đã làm mọi thu xếp đó.
Ông ấy đã làm ba cung điện cho Siddhartha vào các
mùa khác nhau ở các chỗ khác nhau, để cho hoàng tử
không bao giờ biết tới sự không thoải mái của mùa.
Khi trời nóng hoàng tử có cung điện ở chỗ nào đó trên
núi nơi bao giờ cũng mát mẻ. Khi trời quá lạnh hoàng
tử có cung điện khác bên cạnh dòng sông nơi bao giờ
cũng ấm. Ông ấy đã làm đủ mọi thu xếp để cho hoàng
tử không bao giờ cảm thấy bất kì thiếu thoải mái nào.

Không ông già hay bà già nào được phép vào các
cung điện nơi hoàng tử sống - chỉ toàn thanh niên. Ông

ấy đã tập hợp phụ nữ trẻ đẹp của cả vương quốc quanh
hoàng tử để cho hoàng tử vẫn còn bị quyến rũ, mê mải,
để cho hoàng tử vẫn còn trong mơ, ham muốn. Một thế
giới mơ ngọt ngào đã được tạo ra cho hoàng tử. Người
làm vườn được dặn là lá khô phải được dọn sạch ngay
trong đêm; hoa tàn hoa héo phải bị bỏ đi trong đêm -
bởi vì ai mà biết được? - thấy lá khô nó có thể bắt đầu
hỏi về điều gì đã xảy ra cho chiếc lá này, và câu hỏi về
cái chết có thể nảy sinh. Thấy hoa hồng héo, cánh hoa
rụng đi, nó có thể hỏi, "Điều gì đã xảy ra cho đoá hoa
hồng này?" và nó có thể bắt đầu nghiền ngẫm, suy tư
về cái chết.
Hoàng tử đã bị giữ cho tuyệt đối không nhận biết
về cái chết trong hai mươi chín năm. Nhưng bạn có thể
né tránh được bao lâu? Cái chết là hiện tượng quan
trọng thế - bạn có thể lừa dối được bao lâu? Sớm hay
muộn nó phải đi vào trong thế giới. Bây giờ nhà vua
đã trở nên rất già rồi và đứa con phải biết các con
đường của thế giới, cho nên dần dần nó đã được phép,
nhưng bất kì khi nào nó đi qua phố nào của kinh thành,
ông già, bà già đều bị dời đi, người ăn xin bị dời đi.
Không sannyasin nào được phép đi ngang qua đường
nó đi, vì thấy một sannyasin nó có thể hỏi "Đây là kiểu
người gì vậy? Sao ông ấy mặc áo mầu da cam? Điều gì
đã xảy ra cho ông ấy? Sao ông ấy trông khác thế, tách
rời, xa cách? Mắt ông ấy khác thế, hương vị ông ấy
khác thế, sự hiện diện của ông ấy có phẩm chất khác
cho nó. Điều gì đã xảy ra cho con người này?" Và thế
rồi đến câu hỏi về từ bỏ, và một cách nền tảng là câu
hỏi về cái chết... Nhưng một ngày nào đó, điều đó phải
xảy ra. Điều đó không thể bị né tránh được.

Chúng ta cũng đang làm cùng điều đó. Nếu ai đó
chết và đám tang đi ngang qua, người mẹ liền lôi đứa
con vào trong nhà và đóng cửa lại.
Câu chuyện này rất có ý nghĩa, biểu tượng, điển
hình. Không bố mẹ nào muốn con mình biết tới cái
chết, bởi vì chúng sẽ lập tức bắt đầu hỏi những câu hỏi
không thoải mái. Đó là lí do tại sao chúng ta xây dựng
nghĩa địa bên ngoài thành phố, để cho không ai cần tới
đó. Cái chết là sự kiện trung tâm; nghĩa địa nên ở đích
xác giữa thành phố để cho mọi người phải đi qua nó
nhiều lần trong ngày - đi tới văn phòng, về nhà, tới
trường phổ thông, đại học, về nhà, tới nhà máy... sao
cho người ta được nhắc nhở lặp đi lặp về cái chết.
Nhưng chúng ta làm nghĩa địa ngoài thành phố, và
chúng ta làm nghĩa địa rất đẹp: hoa, cây. Chúng ta cố
gắng che giấu cái chết - đặc biệt ở phương Tây, chết là
điều kiêng kị! Cũng như có thời dục đã là điều kiêng
kị, bây giờ chết là điều kiêng kị. Chết là điều kiêng kị
cuối cùng.
Ai đó như Sigmund Freud là cần - một Sigmund
Freud có thể đem cái chết trở trong thế giới này, người
có thể phơi bày cho mọi người về hiện tượng chết. Khi
một người chết ở phương Tây, thân thể người đó được
trang trí, tắm rửa, xức nước hoa, tô vẽ. Bây giờ có các
chuyên gia làm toàn bộ công việc này. Và nếu bạn
thấy một người đàn ông chết hay đàn bà chết, bạn sẽ
ngạc nhiên - người đó trông còn sống hơn là người đó
đã từng được thấy khi còn sống! Tô vẽ, má đỏ, mặt
sáng; người đó dường như ngủ say trong một không
gian bình thản và yên tĩnh.
Chúng ta đang tự lừa mình! Chúng ta không lừa
người đó, người đó không còn đó nữa. Không có ai cả,

chỉ cái xác chết, cái thây. Nhưng chúng ta đang tự lừa
mình bằng việc vẽ mặt người đó, bằng việc đặt vòng
hoa cho thân thể người đó, bằng việc mặc quần áo đẹp
lên người đó, bằng việc chở thân thể người đó trong
chiếc xe đắt tiền, và một đám đưa tang lớn với nhiều
lời tán dương người đã chết. Người đó chưa bao giờ
được tán dương khi còn sống, nhưng bây giờ chẳng ai
phê bình người đó, mọi người đều ca ngợi người đó.

Chúng ta đang cố tự lừa mình; chúng ta làm cái
chết thành đẹp như chúng ta có thể làm được để cho
câu hỏi này không phát sinh. Và chúng ta cứ sống
trong ảo tưởng rằng bao giờ cũng là người khác chết -
hiển nhiên, bạn sẽ không thấy cái chết riêng của mình,
bạn bao giờ cũng sẽ thấy người khác chết. Một kết
luận logic - bao giờ cũng là người khác chết, cho nên
sao phải bận tâm? Bạn dường như là người ngoại lệ,
Thượng đế đã làm ra một qui tắc khác cho bạn.

Nhớ lấy, không ai là ngoại lệ. Aes dhammo
sanantano - chỉ một luật cai quản tất cả, một luật vĩnh
hằng. Bất kì cái gì xảy ra cho con kiến cũng sẽ xảy ra
cho con voi nữa, và bất kì cái gì xảy ra cho người ăn
xin cũng sẽ xảy ra cho cả hoàng đế nữa. Nghèo hay
giầu, dốt nát hay hiểu biết, tội nhân hay thánh nhân,
luật không phân biệt - luật là rất công bằng.

Và cái chết có tính rất cộng sản - nó làm bình đẳng
mọi người. Nó chẳng chú ý tới bạn là ai. Nó chưa bao
giờ nhìn vào các trang của sách đã xuất bản, như cuốn
Who's Who. Nó đơn giản không bao giờ bận tâm liệu
bạn là người nghèo túng hay Alexander Đại đế.

Một ngày nào đó Siddhartha phải trở nên nhận
biết, và anh ấy đã trở nên nhận biết. Anh ấy đi tham
gia vào một lễ hội thanh niên; anh ấy tới để khai mạc
nó. Hoàng tử, tất nhiên được coi là người khai mạc cho
lễ hội thanh niên hàng năm. Đó là một buổi tối đẹp;
thanh niên trong vương quốc đã tụ tập để nhảy múa và
ca hát và hân hoan cả đêm. Ngày đầu tiên của năm -
hội cả đêm. Và Siddhartha đã tới để khai mạc nó.

Trên đường anh ấy gặp điều mà bố anh ấy đã e sợ
anh ấy thấy - anh ấy bắt gặp những điều đó. Đầu tiên
anh ấy thấy một người ốm, kinh nghiệm đầu tiên của
anh ấy về ốm yếu. Anh ấy hỏi, "Chuyện gì xảy ra thế?"

Câu chuyện này rất hay. Chuyện kể rằng người
đánh xe định nói dối, nhưng một linh hồn đã lìa khỏi
xác chiếm lấy người đánh xe, buộc anh ta phải nói ra
chân lí. Anh ta phải nói, mặc cho bản thân mình,
"Người này bị ốm."
Và Phật lập tức hỏi một câu hỏi thông minh, "Thế
thì ta cũng có thể bị ốm sao?"
Người đánh xe định nói dối, nhưng linh hồn của
Thượng đế, một linh hồn chứng ngộ, linh hồn đã lìa
khỏi xác, buộc anh ta nói, "Vâng." Người đánh xe thấy
phân vân rằng mình muốn nói không, nhưng lời thoát
ra khỏi mồm mình là, "Vâng, hoàng tử cũng sẽ bị ốm."

Thế rồi họ bắt gặp một ông già - và cùng việc hỏi
này. Rồi họ bắt gặp một xác chết đang được đem ra bãi
hoả thiêu, và cùng câu hỏi... và khi Phật thấy xác chết
này và anh ấy hỏi, "Một ngày nào đó ta cũng sẽ chết
chứ?" người đánh xe nói, "Vâng, thưa hoàng tử.
Không ai là ngoại lệ cả. Thần rất tiếc phải nói vậy,

nhưng không ai là ngoại lệ cả - ngay cả hoàng tử cũng
sẽ chết."
Phật nói, "Thế thì quay xe đi. Thế thì phỏng có ích
gì mà đi tới lễ hội thanh niên. Ta đã trở nên ốm rồi, ta
đã trở nên già rồi, ta đã trên bờ vực của cái chết rồi.
Nếu một ngày nào đó ta sẽ chết, thế thì phỏng có ích gì
với mọi thứ vô nghĩa này? - sống và chờ đợi cái chết.
Trước khi nó tới, ta muốn biết cái gì đó không bao giờ
chết. Bây giờ ta sẽ dành cả đời mình cho việc tìm kiếm
cái gì đó bất tử. Nếu có cái gì đó bất tử, thế thì điều có
nghĩa duy nhất trong cuộc sống có thể là việc tìm kiếm
nó."
Và trong khi anh ta đang nói, họ thấy cảnh tượng
thứ tư - một sannyasin, một sư, trong bộ quần áo da
cam, bước đi có tính rất thiền. Và Phật nói, "Điều gì đã
xảy ra cho người này?" Và người đánh xe nói, "Thưa
hoàng tử, đây là điều hoàng tử đang nghĩ tới để làm
đấy. Người này đã thấy cái chết xảy ra và người này đã
đi tìm cái bất tử."
Cùng đêm đó, Phật từ bỏ thế giới, ông ấy rời bỏ
gia đình để đi tìm cái bất tử, đi tìm chân lí.
Cái chết là câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc
sống. Và những người chấp nhận thách thức của cái
chết, họ được thưởng vô cùng.
Lời kinh. Phật nói:

**Ai sẽ chinh phục thế giới này
Và thế giới của chết với mọi thần của nó?
Ai sẽ khám phá ra
Con đường chói sáng của luật?**

Ông ấy đang ném thách thức vào bạn đấy. Ông ấy
đang nêu ra một câu hỏi trong tim bạn. Ông ấy đang
hỏi: Ai sẽ chinh phục thế giới này và thế giới của chết
với mọi thần của nó?
Thế giới này là thế giới của chết, và các thần mà
bạn đã tạo ra từ tưởng tượng của bạn đều là một phần
của thế giới này - chúng sẽ chết. Bạn, thế giới của bạn,
các thần của bạn, chúng tất cả đều sẽ chết, bởi vì thế
giới này được tạo ra bởi ham muốn của bạn, và các
thần này cũng được tạo ra bởi ham muốn và tưởng
tượng của bạn.
Bạn không biết mình là ai - làm sao bạn có thể biết
Thượng đế thực? Và làm sao bạn có thể biết thế giới
thực? Bất kì cái gì bạn biết đều là phóng chiếu, là một
loại mơ. Vâng, khi mơ có đó, nó có vẻ thật. Mọi đêm
bạn đều mơ, và bạn biết rằng trong mơ bạn không bao
giờ nghi ngờ nó cả, bạn không bao giờ hoài nghi nó,
bạn không bao giờ nêu ra câu hỏi.

Gurdjieff thường nói với các đệ tử của ông ấy,
"Mọi đêm khi các ông đi ngủ, khi các ông chỉ ngay
bên bờ và bức màn của giấc ngủ sắp sửa buông xuống
các ông, các ông vẫn còn nhớ được chút ít, chưa chìm
ngập trong bóng tối của giấc ngủ, một chút ít của nhận
biết, và giấc ngủ đang tới... những khoảnh khắc đó,
những khoảng đó giữa thức và ngủ," Gurdjieff thường
nói, "những khoảnh khắc đó là rất có ý nghĩa. Nêu ra
câu hỏi trong tâm trí ông và cứ lặp nó trong khi các
ông đang rơi vào giấc ngủ. Một câu hỏi đơn giản: Nó
có thực không? Nó có dành cho cái thực không? Cứ
lặp câu hỏi này trong khi các ông đang chìm vào giấc
ngủ, để cho một ngày nào đó trong mơ các ông có thể

hỏi: Nó có thực không?" Ngày đó đem lại phúc lành
lớn.
Nếu bạn có thể hỏi trong mơ, "Nó có thực không?"
mơ lập tức biến mất. Ở đây bạn hỏi, và ở kia mơ
không còn nữa. Đột nhiên thức tỉnh lớn lao xảy ra bên
trong. Trong giấc ngủ bạn trở nên tỉnh táo. Việc ngủ
tiếp tục; do đó có cái đẹp vô cùng của kinh nghiệm của
nó. Việc ngủ tiếp tục; thân thể vẫn còn ngủ, tâm trí vẫn
còn ngủ, nhưng cái gì đó bên ngoài thân thể và tâm trí
trở nên tỉnh táo; một nhân chứng nảy sinh trong bạn.
"Nó có thực không?" - nếu bạn hỏi điều đó trong mơ
của mình... rất khó nhớ bởi vì khi bạn đang mơ bạn đã
quên hoàn toàn bản thân mình. Do đó có phương cách
này - trong khi rơi vào giấc ngủ, cứ lặp câu hỏi này:
Nó có thực không? Nó có thực không? Rơi vào giấc
ngủ vẫn lặp câu hỏi này.
Ở đâu đó giữa ba và chín tháng, một ngày nào đó
điều đó xảy ra - trong mơ đột nhiên câu hỏi này nảy
sinh: Nó có thực không? và bạn có một trong những
kinh nghiệm sâu sắc nhất của cuộc đời bạn. Khoảnh
khắc câu hỏi này nảy sinh, mơ lập tức biến mất, và có
trống rỗng và im lặng hoàn toàn. Giấc ngủ có đó vậy
mà một ánh sáng nhỏ của nhận biết đã xảy ra.
Và chỉ thế thì bạn sẽ nhận biết về cuộc sống này và
tính ảo tưởng của nó; thế thì bạn sẽ có khả năng thấy
rằng thế giới của ham muốn, ghen tị, tham vọng, chỉ là
mơ được thấy bằng mắt mở. Và nếu bạn có thể thấy
rằng thế giới này cũng là mơ, bạn đang trên bờ của
chứng ngộ.
Nhưng nhớ lấy, tin không có ích gì cả. Bạn có thể
tin thế giới này là ảo tưởng - ở Ấn Độ hàng triệu người
tin và lặp liên tục, như vẹt: "Thế giới này là maya, ảo

tưởng" - thế này thế nọ. Và điều họ nói toàn là rác
rưởi, vô nghĩa, bởi vì đấy không phải là kinh nghiệm
đích thực của họ. Họ đã nghe mọi người nói điều đó,
và họ lặp lại. Họ không biết theo cách riêng của họ, họ
không phải là nhân chứng cho điều đó; do đó nó chẳng
bao giờ thay đổi các kiếp sống của họ. Họ cứ lặp lại,
"Thế giới này là không thực," và họ cứ sống trong thế
giới này cũng như những người nghĩ nó là thực -
không khác biệt gì, không khác gì về chất.
Khác biệt là gì giữa người duy vật và cái gọi là
người tôn giáo? Khác biệt gì? Bởi vì người đó tới nhà
thờ mọi chủ nhật sao? hay bởi vì người đó thỉnh
thoảng đi tới đền chùa? Đấy là khác biệt duy nhất;
bằng không, trong cuộc sống thực, bạn sẽ thấy họ đích
xác như nhau. Đôi khi người phi tôn giáo có thể chân
thực hơn, đích thực hơn, chân thành hơn, đúng đắn
hơn người tôn giáo - bởi vì người tôn giáo đã không
chân thực trong khi có tính tôn giáo mà không có kinh
nghiệm nào của riêng mình. Tính tôn giáo của người
đó dựa trên sự không chân thực; người đó đã phạm
phải sự không chân thực lớn nhất mà con người có thể
phạm phải: người đó tin vào Thượng đế và người đó
chẳng biết gì về Thượng đế; người đó tin vào cuộc
sống vĩnh hằng và người đó không thưởng thức nó.

Người đó đã không thấy gì, vậy mà người đó cứ giả
vờ. Tính tôn giáo của người đó về cơ bản là không
chân thực; do đó không có kinh ngạc, không có ngạc
nhiên rằng trong cái gọi là những đất nước tôn giáo đó
như Ấn Độ, bạn sẽ thấy mọi người không chân thực
hơn cái gọi là các quốc gia duy vật của phương Tây.
Người duy vật phương Tây là chân thành hơn.
Người tôn giáo Ấn Độ rất tầm thường, không chân
thực, lừa dối, bởi vì nếu bạn có thể lừa được Thượng

đế, bạn sẽ bỏ quên ai? Nếu tôn giáo của bạn là giả,
toàn thể cuộc sống của bạn sẽ là giả. Người có can
đảm nói, "Chừng nào tôi chưa biết Thượng đế tôi sẽ
không tin đâu," là người chân thành, chân thực ngầm.
Đây là quan sát của tôi: rằng những người vô thần có
nhiều khả năng để biết Thượng đế hơn cái gọi là người
hữu thần.

**Ai sẽ chinh phục thế giới này
Và thế giới của cái chết với mọi thần của nó?
Ai sẽ khám phá ra
Con đường chói sáng của luật?**

Aes dhammo sanantano - ai sẽ phát hiện ra luật
vĩnh hằng, không cạn? Aes maggo visuddhya - ai sẽ
tìm ra con đường của sự thuần khiết vĩnh hằng, của
hồn nhiên vĩnh hằng? Ai? Phật ném vào bạn một thách
thức và nói:

**Ông sẽ, đúng như người
tìm hoa,
tìm thấy đoá hoa đẹp nhất,
hiếm nhất.**

Vâng, bạn có thể chinh phục thế giới này của cái
chết - bởi vì tại cốt lõi sâu nhất của bản thể mình, bạn
là một phần của vĩnh hằng, bạn không phải là một
phần của thời gian. Bạn tồn tại trong thời gian, nhưng
bạn thuộc vào vĩnh hằng. Bạn là việc xuyên thấu của
vĩnh hằng vào trong thế giới của thời gian. Bạn là bất
tử, sống trong thân thể của cái chết. Tâm thức bạn
không biết tới chết, không biết tới sinh. Chính là chỉ
mỗi thân thể bạn mới được sinh ra và chết đi. Nhưng

bạn không nhận biết về tâm thức bạn; bạn không ý
thức tới tâm thức bạn.
Và đó là toàn thể nghệ thuật của thiền: trở nên có ý
thức về bản thân tâm thức. Khoảnh khắc bạn biết ai
đang ngụ bên trong thân thể, bạn là ai, trong chính
khải lộ đó bạn đã siêu việt lên trên cái chết và thế giới
của cái chết. Bạn đã siêu việt lên trên mọi cái nhất
thời.
Ông sẽ, cũng hệt đúng như người tìm hoa, tìm thấy
đoá hoa đẹp nhất, hiếm nhất.
Jesus nói: tìm và ông sẽ thấy, hỏi và điều đó sẽ
được trao cho ông, gõ cửa và cửa sẽ mở ra cho ông.
Cuộc truy tìm lớn lao là cần thiết, việc tìm kiếm
lớn lao là cần thiết. Cũng như cuộc truy tìm khoa học
vào thế giới khách quan, tôn giáo là cuộc truy tìm vào
tính chủ quan. Khoa học truy tìm vào cái bạn thấy, và
tôn giáo truy tìm vào bản thân người thấy. Tất nhiên
tôn giáo là khoa học của khoa học.
Khoa học không bao giờ có thể quan trọng hơn tôn
giáo; không thể có chuyện khoa học quan trọng hơn
tôn giáo, bởi vì khoa học sau rốt là nỗ lực của con
người. Đó là điều bạn làm - nhưng ai là người làm bên
trong bạn? Người làm không bao giờ có thể kém hơn
việc làm của người đó. Hoạ sĩ không bao giờ có thể
kém hơn bức vẽ của mình, và nhà thơ không bao giờ
có thể kém hơn thơ ca của mình. Nhà khoa học biết về
thế giới nhưng chẳng biết gì về bản thân nhà khoa học
cả.
Albert Einstein trong những ngày cuối của mình
thường nói, "Đôi khi tôi hoài nghi cuộc đời mình đã bị
phí hoài. Tôi đã truy tìm vào chỗ xa nhất của các ngôi

sao và quên mất hoàn toàn việc truy tìm vào bản thân
tôi - và tôi là ngôi sao gần nhất!"
Chỉ bởi vì chúng ta có ý thức, chúng ta coi nó như
đương nhiên - thiền nhân không bao giờ coi nó được
đương nhiên. Ông ấy đi vào, ông ấy gõ cửa bản thể
bên trong riêng của mình, ông ấy tìm và kiếm ở bên
trong, ông ấy không để một hòn đá nào chưa được lật
lên. Ông ấy đi vào trong bản thể riêng của mình. Và sự
hoàn thành của ông ấy là lớn lao, bởi vì ông ấy đã tìm
ra điều hiếm hoi nhất. Vâng, có nhiều hoa, nhưng
không có hoa nào như hoa của tâm thức bạn. Nó là
hiếm hoi nhất - nó là hoa sen một nghìn cánh, nó là sen
vàng, kim liên. Chừng nào người ta chưa biết tới nó,
người ta chẳng biết gì. Chừng nào người ta chưa tìm ra
nó, mọi của cải đều vô dụng, mọi quyền lực đều vô
tích sự.

**Hiểu rằng thân thể
Đơn thuần là bọt sóng,
Cái bóng của cái bóng.
Chộp lấy mũi tên hoa của ham muốn
Và rồi, vô hình,
Thoát khỏi Diêm vương.**

Thân thể là hiện tượng nhất thời. Một ngày nào đó
nó đã không có, một ngày nào đó nó sẽ lại không có.
Nó tồn tại chỉ cho thời hiện tại - nó như bọt sóng;
trông đẹp thế từ bờ biển, bọt sóng, bọt sóng trắng xoá.
Và nếu mặt trời đã lên, quanh bọt sóng cầu vồng còn
có thể được tạo ra; trông tuyệt vời thế, trông như kim
cương, trông trắng thế và thuần khiết thế. Nhưng nếu
bạn cầm nó trong tay, nó bắt đầu biến đi. Chỉ tay bạn
còn ướt, có vậy thôi.

Cho nên đó cũng là trường hợp với thân thể. Nó
trông đẹp đấy, nhưng cái chết đang lớn lên trong nó,
cái chết đang ẩn mình trong nó, tuổi già đang chờ đợi
ở đó. Vấn đề chỉ là thời gian thôi.
Không phải là vào một ngày nào đó bạn chết. Thực
ra, thực tế là ở chỗ ngày bạn được sinh ra, bạn bắt đầu
chết. Đứa trẻ một ngày tuổi đã chết đi một chút rồi, nó
đã chết đi một ngày rồi. Nó sẽ tiếp tục chết từng ngày
một. Điều bạn gọi là ngày sinh của bạn thực sự không
phải là ngày sinh của bạn đâu - bạn nên gọi nó là ngày
chết của bạn. Người kỉ niệm ngày sinh lần thứ năm
mươi của mình thực sự là kỉ niệm ngày chết thứ năm
mươi của mình. Cái chết đã tới gần hơn. Bây giờ nếu
người đó định sống bẩy mươi năm, chỉ còn hai mươi
năm nữa thôi. Năm mươi năm người đó đã chết rồi!

Chúng ta liên tục chết đi khi có liên quan tới thân
thể... nó là bọt sóng đang biến đi. Đừng bị lừa dối bởi
bẩy mươi năm bởi vì bẩy mươi năm chẳng có nghĩa gì
trong sự trải rộng của vĩnh hằng - bẩy mươi năm có
nghĩa lí gì? Nó là bọt sóng, nó là tạm thời.
Hiểu rằng thân thể đơn thuần là bọt sóng, cái
bóng của cái bóng. Nó thậm chí không phải là cái
bóng, mà là cái bóng của cái bóng. Phật muốn nhấn
mạnh vào tính không thật của nó. Nó là tiếng vọng của
tiếng vọng, rất, rất xa với thực tại. Thượng đế là thực -
gọi nó là chân lí. Phật thích gọi nó là dhamma - luật.
Thượng đế là thực tại tối thượng; thế rồi linh hồn là cái
bóng của ngài và thân thể là cái bóng của cái bóng. Đi
từ thân thể tới linh hồn và từ linh hồn tới dhamma - tới
Thượng đế, tới luật vĩnh hằng.
Chừng nào bạn chưa đạt tới luật vĩnh hằng, đừng
nghỉ, bởi vì chẳng ai biết cả - hôm nay bạn ở đây, mai

bạn có thể không ở đây. Đừng bỏ phí những ngày quí
báu này khi thèm khát, ham muốn những thứ vô tích
sự. Mọi người cứ thu thập những đồ đồng nát, và thế
rồi một ngày nào đó họ qua đời. Và rồi tất cả những
thứ đồ đồng nát mà họ đã thu thập cả đời mình bị bỏ
sau. Họ không thể đem đi một thứ nào trong chúng.

Chuyện kể rằng khi Alexander Đại đế chết, ông ta
đã yêu cầu các bộ trưởng của ông ta rằng khi quan tài
của ông ta được đem tới nấm mồ, tay ông ta phải được
để thõng bên ngoài quan tài.
"Sao vậy?" các bộ trưởng hỏi. "Chẳng ai đã bao
giờ nghe nói tới điều như vậy cả! Điều đó chưa bao
giờ được làm! Đấy không phải là truyền thống. Sao có
cái ý tưởng kì lạ, quái gở này? Sao tay bệ hạ phải bỏ
thõng bên ngoài quan tài?"
Alexander nói, "Ta muốn để cho mọi người biết
rằng ngay cả ta, Alexander Đại đế, cũng đi tay không.
Ta không đem cái gì đi cùng ta cả. Cả đời ta đã là phí
hoài khủng khiếp. Ta đã làm việc vất vả" - và ông ấy
thực sự làm việc vất vả, ông ấy tranh đấu vất vả, ông
ấy là con người thực sự tham vọng, điên vì quyền lực,
muốn trở thành người cai trị thế giới, và đã có ít nhiều
thành công, đã ít nhiều trở thành người cai trị của thế
giới đã được biết tới... Nhưng ngay cả ông ta cũng nói,
"ta đang chết đi và ta không thể đem được cái gì theo
ta; do đó toàn thể nỗ lực chỉ là bài tập trong vô tích sự.
Để cho mọi người biết, để cho họ trở nên nhận biết, để
cho họ hiểu cái ngu xuẩn của ta, cái xuẩn ngốc của ta.
Điều đó có thể giúp họ hiểu hình mẫu cuộc sống riêng
của họ, phong cách sống của họ."

**Chộp lấy mũi tên hoa của ham muốn
Và rồi, vô hình,
Thoát khỏi Diêm vương.**

Nếu bạn có thể trở thành vô ham muốn, thế thì cái
chết không thể có bất kì ảnh hưởng gì lên bạn được.
Chính tâm trí ham muốn bị mắc vào lưới của cái chết,
và chúng ta tất cả đều đầy những ham muốn: ham
muốn về tiền, về quyền, về danh vọng, kính trọng - cả
nghìn lẻ một ham muốn. Ham muốn tạo ra tham lam,
và tham lam tạo ra cạnh tranh, và cạnh tranh tạo ra
ghen tị. Điều này dẫn tới điều khác, và chúng ta cứ rơi
vào trong đống lộn xộn, vào trong rối loạn của thế
giới. Đó là điên khùng, thế giới điên khùng, nhưng
nguyên nhân gốc rễ của điên khùng là ham muốn.

Một khi bạn gieo hạt mầm của ham muốn... ham
muốn nghĩa là có thêm nữa. Bạn có một số tiền nào đó,
bạn sẽ muốn có gấp đôi số đó. Ham muốn nghĩa là
khao khát có thêm nữa. Và không ai nghĩ hai lần rằng
bất kì thay đổi số lượng nào sẽ không thoả mãn bạn.
Nếu bạn không thể được thoả mãn bởi mười nghìn
đồng ru pi, làm sao bạn có thể được thoả mãn bởi hai
mươi nghìn đồng ru pi? Số ru pi được gấp đôi lên.
Nhưng nếu mười nghìn ru pi mà không thể cho bạn
thoả mãn nào, thoả mãn của bạn không thể được gấp
đôi lên; đã không có thoả mãn nào ngay chỗ đầu tiên.
Thực ra, khi bạn có mười nghìn đồng ru pi, bạn có một
lượng lo âu, lo sợ nào đó - những lo âu đó sẽ được gấp
đôi lên khi bạn có hai mươi nghìn ru pi, gấp ba lên khi
bạn có ba mươi nghìn ru pu, và cứ thế mãi. Bạn có thể
cứ nhân mãi lên...
Và bất kì cái gì bạn có, ai đó bao giờ cũng sẽ có
nhiều hơn cái đó - nó là thế giới lớn. Do đó mới có

ghen tị, và ghen tị là cơn sốt của linh hồn. Ngoại trừ
thiền, không có thuốc nào cho nó cả. Bác sĩ có thể giúp
bạn nếu thân thể bạn bị sốt, nhưng chỉ thầy mới có thể
giúp bạn, vị phật mới có thể giúp bạn, nếu bạn bị cơn
sốt của linh hồn. Rất ít người bị sốt vật lí, và gần như
mọi người đều bị sốt tâm linh - ghen tị.
Ghen tị nghĩa là ai đó khác có nhiều hơn bạn có.
Và việc là người thứ nhất trong mọi thứ là điều không
thể được. Bạn có thể có số tiền nhiều nhất trên thế
giới, nhưng bạn có thể không có khuôn mặt đẹp. Và kẻ
ăn xin có thể làm cho bạn ghen tị - thân thể người đó,
khuôn mặt người đó, đôi mắt người đó, và bạn ghen tị.
Kẻ ăn xin có thể làm cho cả hoàng đế phải ghen tị.

Napoleon không cao lắm - ông ấy chỉ quãng một
mét sáu lăm. Tôi chẳng thấy gì sai trong đó cả; điều đó
là hoàn toàn được - tôi cũng một mét sáu lăm và tôi
chưa bao giờ khổ sở vì điều đó, bởi vì cho dù bạn cao
mét tám hay mét rưỡi chân bạn vẫn cứ chạm đất như
nhau! Cho nên vấn đề là ở đâu? Nếu người mét rưỡi
mà treo một chân trên đất, thế thì chắc đã có vấn đề!
Nhưng Napoleon khổ sở nhiều lắm. Ông ấy liên tục ý
thức về sự kiện là ông ấy không cao. Và tất nhiên, ông
ấy ở lẫn trong số những người rất cao. Lính tráng,
tướng lĩnh, họ đều là những người cao còn ông ấy rất
thấp.
Ông ấy hay đứng lên cái gì đó cao hơn... Đích xác
cũng hệt như trường hợp của thủ tướng Ấn Độ đầu
tiên, Jawaharlal Nehru. Ông ấy cũng cao chừng mét
sáu lăm - cái mét sáu lăm này là cái gì đó đấy chứ! Và
phó vương cuối cùng của Ấn Độ, huân tước
Mountbatten, rất cao - Bà Mountbatten thậm chí cao

hơn nữa. Bây giờ, khi huân tước Mountbatten cho ông
ấy nói lời thề của thủ tướng thứ nhất... bạn có thể thấy
trong tấm hình, những tấm hình đó có khắp mọi nơi:
Nehru đang đứng trên một bậc còn Mountbatten đang
đứng trên sàn, chỉ để trông ít nhất là như nhau, nếu
không cao hơn Mountbatten. Rồi nữa, ông ấy không
cao hơn Mountbatten, ngay cả đứng trên một bậc...
một cảm giác sâu sắc về tự ti.
Napoleon liên tục tự kỉ. Một hôm ông ấy chữa
chiếc đồng hồ tường và tay ông ấy không với tới được.
Chiếc đồng hồ treo cao trên tường. Vệ sĩ của ông ấy -
và vệ sĩ thì nhất định là người cao, người khoẻ rồi - vệ
sĩ của ông ấy nói, "Xin đợi, tôi lớn hơn ông ấy, tôi sẽ
sửa nó."

Napoleon giận lắm và ông ấy nói, "Đồ ngốc! Xin
lỗi đi! Anh không lớn hơn ta, anh chỉ đơn giản cao
hơn. đổi lời anh đi. Lớn hơn sao? Anh ngụ ý gì?" Ông
ta rất phật ý. Và anh chàng vệ sĩ đáng thương này
chẳng ngụ ý điều gì xúc phạm ông ta cả - anh ta thậm
chí không nhận biết rằng nói "lớn hơn" là xúc phạm.
Bây giờ, Napoleon có mọi thứ, nhưng chiều cao là vấn
đề.
Rất khó có mọi thứ trên thế giới và là người đầu
tiên trong mọi thứ. Điều đó là không thể được! Thế thì
ghen tị cứ còn dai dẳng, nó tiếp diễn. Ai đó có nhiều
tiền hơn bạn, ai đó có sức khoẻ hơn bạn, ai đó đẹp hơn
bạn, ai đó thông minh hơn bạn... và bạn thường xuyên
so sánh. Tâm trí ham muốn tiếp tục so sánh.

Goldstein và Weinberg cùng kinh doanh với nhau
và có một thời gian tồi tệ. Một hôm Goldstein, trong
khi đi dạo qua rừng, bỗng ngạc nhiên bởi mẹ đỡ đầu
hiện ra nói với anh ta, "Ta sẽ ban cho con ba điều ước,
nhưng nhớ lấy, bất kì điều gì con ước, Weinberg sẽ
được gấp đôi."
Trên đường về Goldstein cứ đắn đo mãi, "Mình sẽ
không phản đối biệt thự rộng lớn." Và trước khi anh ta
kịp nhận ra điều xảy ra, đã có đó - ngôi biệt thự của
anh ta. Nhưng đồng thời anh ta thấy Weinberg bên kia
đường đầy tự hào nhìn hai biệt thự của mình.
Goldstein kìm nén sự ghen tị của mình và đi vào xem
ngôi nhà mới của mình. Khi anh ta bước vào phòng
ngủ, một ham muốn thứ hai điểm vao anh ta: "Mình sẽ
không phản đối một phụ nữ như Sophia Loren." Và
thật sự, cô ấy ở đó - con bé lộng lẫy trông hệt như
Sophia Loren. Nhưng khi anh ta nhìn qua cửa sổ
phòng ngủ, anh ta thấy Weinberg trên ban công với hai
đàn bà lộng lẫy.
"Được," anh ta thở dài khi nghĩ về mẹ đỡ đầu tiên,
"bà có thể cắt một hòn của con!"

Ghen tị là ghen tị... Nếu bạn không thể có được tất
cả, ít nhất bạn cũng có thể làm cho bất kì ai khác
không có điều đó. Ghen tị trở thành phá huỷ, ghen tị
trở thành bạo hành. Và ghen tị là cái bóng của ham
muốn. Ham muốn bao giờ cũng so sánh và, bởi vì so
sánh mới có đau khổ. Mọi người phí hoài các kiếp
sống của mình trong ham muốn, trong ghen tị, trong so
sánh và thời gian quí báu đơn giản bị mất. Cho dù
Thượng đế có cho bạn ba điều ước, bạn cũng sẽ làm
hệt như Goldstein - bởi vì người Do Thái tồn tại trong

mọi người. Chỉ vị phật không là người Do Thái; bằng
không mọi người khác đều là Do Thái.
Bản chất của ham muốn là tính chất người Do
Thái. Nó muốn thêm nữa, nó điên lên vì thêm nữa. Và
những người sống trong ham muốn nhất định là nạn
nhân của cái chết. Chỉ người hiểu cái điên khùng của
ham muốn, của tham lam, của thường xuyên khao khát
thêm nữa, của ghen tị, của so sánh, người trở nên nhận
biết về tất cả những điều vô nghĩa này và vứt bỏ nó,
mới vượt ra ngoài cái chết. Người đó trở thành vô
hình. Phật dùng một từ hay. Ông ấy nói: Và rồi, vô
hình, thoát khỏi Diêm vương.
Cái chết chỉ có thể thấy người sống trong vỏ bọc
của ham muốn. Cái chết chỉ có thể thấy ham muốn.
Nếu ham muốn bị vứt bỏ, bạn trở thành vô hình với cái
chết; cái chết không thể chạm tới bạn được, bởi vì
không có ham muốn thì bạn đơn giản là tâm thức
thuần khiết và không là gì khác. Bạn không còn bị
đồng nhất với thân thể hay tâm trí. Bạn đơn giản biết
một điều, rằng bạn là nhân chứng. Cái chết không thể
thấy được bạn - bạn có thể thấy cái chết.

Thông thường, cái chết có thể thấy bạn, bạn không
thể thấy được cái chết - bởi vì ham muốn là thô, có thể
bị cái chết thấy. Tâm thức là vô hình, nó không phải là
vật chất - nó là năng lượng thuần tuý, nó là ánh sáng.
Bạn có thể thấy cái chết, nhưng cái chết không thể
thấy được bạn. Và thấy cái chết lại là một kinh nghiệm
lớn, một kinh nghiệm vui nhộn. Người ta bắt đầu cười
khi người ta thấy cái chết - cái chết bất lực thế. Quyền
lực của nó không phải là của riêng nó, quyền lực của
nó là trong tâm trí ham muốn của bạn. Bạn trao quyền
cho nó. Bạn càng ham muốn nhiều, bạn càng sợ chết

nhiều. Bạn càng tham nhiều, bạn càng sợ chết. Bạn
càng tham nhiều, bạn càng sợ hơn. Bạn càng có nhiều,
một cách tự nhiên bạn càng nhiều lo âu hơn - cái chết
sẽ tới và mọi thứ sẽ bị lấy đi.

**Chộp lấy mũi tên hoa của ham muốn
Và rồi, vô hình,
Thoát khỏi Diêm vương.
Và đi tiếp.**

Nhớ câu này: Và đi tiếp.


Thế thì cuộc hành trình thực, cuộc hành hương, bắt
đầu. Trước đó bạn chỉ đi trong vòng tròn - cùng những
ham muốn: nhiều tiền hơn, nhiều tiền hơn, nhiều
quyền hơn, nhiều quyền hơn... cái vòng luẩn quẩn,
chẳng đi đến đâu cả. Một khi bạn đã vứt bỏ mọi ham
muốn, tâm thức bạn được tự do khỏi cái thô thiển của
ham muốn. Bây giờ đi tiếp - bây giờ bạn có thể đi vào
trong sự tồn tại vô hạn, bạn có thể đi vào trong cái
vĩnh hằng của sự tồn tại. Bây giờ, các bí ẩn tiếp bí ẩn
cứ mở ra trước bạn. Bây giờ toàn thể sự tồn tại là sẵn
có cho bạn, trong tính toàn bộ của nó, nó là của bạn...
bây giờ đi tiếp.

**Cái chết bắt người
thu nhặt hoa
Khi với tâm trí phân tán và giác quan thèm khát
Người đó tìm vô vọng về hạnh phúc
Trong hoan lạc của thế giới.
Cái chết bắt lấy người đó đi
Như trận lụt mang đi cả làng đang ngủ.**

Nếu bạn quá bị phân tán bởi ham muốn, hoan lạc,
hài lòng, và nếu bạn quá khao khát trong cảm giác kích
động dục, nếu bạn tìm kiếm một cách ngu ngốc về
hạnh phúc trong thế giới bên ngoài, thế thì cái chết tới
và bắt bạn đi như trận lụt đem đi cả làng đang ngủ.

Người đang đi tìm hạnh phúc trong thế giới bên
ngoài là người ngủ say. Người đó không nhận biết về
điều mình đang làm, bởi vì hạnh phúc chưa bao giờ
được tìm thấy ở bên ngoài. Và bất kì điều gì xuất hiện
như hạnh phúc chung cuộc tỏ ra là cội nguồn của bất
hạnh và không là gì khác. Thế giới bên ngoài chỉ hứa
hẹn, mà chẳng bao giờ chuyển giao hàng hoá. Khi bạn
còn ở xa xa, mọi sự dường như rất đẹp. Bạn càng lại
gần, chúng càng bắt đầu biến mất đi. Khi bạn có được
chúng sau nỗ lực lâu dài và vất vả, bạn đơn giản lúng
túng. Bạn không thể tin được điều đã xảy ra - nó là ảo
ảnh.
Mọi sự là đẹp chỉ từ khoảng cách xa. Khi bạn có
chúng, chúng chẳng có gì trong chúng cả. Tiền là có ý
nghĩa chỉ cho những người không có nó. Những người
có nó, họ biết cái vô tích sự của nó. Danh vọng là có ý
nghĩa chỉ với những người không có nó. Những người
có nó... cứ hỏi họ mà xem: họ phát mệt mỏi vì nổi
tiếng, họ hoàn toàn mệt mỏi vì nổi tiếng. Họ muốn
được giấu tên. Họ muốn là không ai cả.

Voltaire đã viết trong hồi kí của ông ấy rằng khi
ông ấy chưa nổi tiếng ham muốn duy nhất của ông ấy
là được nổi tiếng; ông ấy sẵn sàng hi sinh mọi thứ để
được tiếng tăm. Và nếu bạn cứ đi tìm cái gì đó mãi,
bạn nhất định sẽ được nó, nhớ lấy. Một ngày nào đó
ông ấy trở nên nổi tiếng, và thế rồi ông ấy viết, "Tôi

mệt mỏi thế về tiếng tăm của mình, bởi vì mọi sự riêng
tư trong cuộc đời tôi bị biến mất, mọi mối quan hệ
thân mật biến mất - tôi nổi tiếng tới mức tôi bao giờ
cũng bị mọi người vây quanh, ở mọi nơi, bất kì chỗ
nào tôi đi. Nếu tôi đi dạo trong vườn, một đám đông sẽ
theo sau. Tôi gần như là một vật trưng bày, một loại
xiếc đi bộ."
Danh tiếng của ông ấy đạt tới đỉnh mà nó trở thành
nguy hiểm cho cuộc sống của ông ấy. Một lần khi ông
ấy đi từ ga về nhà mình sau một cuộc hành trình, ông
ấy về nhà gần như trần truồng, bị cào xước khắp
người, máu rỉ ra từ nhiều chỗ - bởi vì ở Pháp vào
những ngày đó đây là điều mê tín, rằng nếu bạn có thể
lấy được một mảnh quần áo của người nổi tiếng, bạn
cũng có thể trở nên nổi tiếng. Cho nên mọi người xé
quần áo ông ấy, và trong khi xé quần áo, họ làm cào
xước thân thể ông ấy.
Ông ấy kêu và khóc hôm đó, và nói, "Tôi ngu làm
sao mà tôi đã muốn được nổi tiếng. Hay biết bao khi
chẳng ai biết tôi và tôi là người tự do. Bây giờ tôi
không còn là người tự do nữa."
Thế rồi ông ấy muốn là không ai cả. Và điều đó đã
xảy ra nữa rằng tiếng tăm biến mất. Trong cuộc sống
này chẳng cái gì là thường hằng cả - một ngày nào đó
bạn nổi tiếng, ngày khác bạn là không ai cả. Ngày ông
ấy chết, chỉ bốn người đi theo ông ấy ra nấm mồ; và
trong bốn người này thì một là con chó của ông ấy -
cho nên thực sự chỉ có ba. Mọi người đã hoàn toàn
quên mất ông ấy, họ đã quên rằng ông ấy vẫn còn
sống. Họ đi tới biết khi báo chí công bố bản tường
trình rằng Voltaire đã chết. Thế thì mọi người mới

nhận biết và bắt đầu hỏi lẫn nhau, "Ông ấy vẫn còn
sống à?"
Nếu bạn có tiếng tăm, bạn phát mệt vì điều đó.
Nếu bạn có tiền của, bạn sẽ không biết phải làm gì với
nó. Nếu bạn được mọi người kính trọng, bạn trở thành
nô lệ, bởi vì thế thì bạn phải cứ hoàn thành những
trông đợi của họ; bằng không kính trọng với bạn sẽ
biến mất. Chỉ khi bạn không nổi tiếng bạn mới coi nó
là cái gì đó có ý nghĩa. Khi bạn không được kính
trọng, bạn khao khát điều đó. Khi bạn được kính trọng,
bạn phải trả giá cho sự kính trọng. Mọi người càng
kính trọng bạn, họ càng quan sát bạn kĩ hơn - liệu bạn
có hoàn thành những trông đợi của họ hay không. Mọi
tự do của bạn mất đi. Nhưng đây là cách mọi người
đang sống.
Phật nói điều đó cũng giống như một làng đang
ngủ - trận lụt tới và nhấn chìm cả làng, trận lụt của cái
chết tới.

**Cái chết đánh bại người đó
Khi với tâm trí phân tán và giác quan thèm khát
Người đó thu nhặt hoa.
Người đó sẽ chẳng bao giờ có thoả thích
hoan lạc của thế giới.**

Và không ai đã bao giờ có thể hài lòng được trong
thế giới này - điều đó là không thể được. Bạn có thể
trở nên ngày một bất mãn hơn, có vậy thôi, bởi vì hài
lòng chỉ xảy ra khi bạn đi vào bên trong. Hài lòng là
bản tính bên trong nhất của bạn. Hài lòng không thuộc
vào đồ vật. Bạn có thể thoải mái với đồ vật - nhà đẹp,

vườn đẹp, không lo nghĩ về chuyện tiền nong - vâng,
bạn có thể thoải mái, nhưng bạn vẫn còn như cũ:
không hài lòng một cách thoải mái. Thực ra, khi bạn
có mọi tiện nghi và bạn không có gì để làm kiếm tiền,
hai mươi bốn giờ một ngày bạn nhận biết về sự không
hài lòng của mình, bởi vì không bận bịu nào khác còn
lại.
Đó là lí do tại sao người giầu còn không hài lòng
hơn người nghèo. Đáng phải không như thế chứ - một
cách logic đáng phải không như vậy - nhưng đấy là
cách thức cuộc sống vậy đấy. Cuộc sống không theo
Aristotle và logic của ông ấy. Người giầu tới từ
phương Tây trở nên rất phân vân khi họ thấy người Ấn
Độ nghèo với khuôn mặt mãn nguyện. Họ không thể
tin được vào mắt mình. Những người này chẳng có gì
cả - sao họ có vẻ hài lòng? Và cái gọi là các thánh
nhân và mahatmas và những người lãnh đạo chính
khách Ấn Độ, họ cứ ba hoa với thế giới rằng "Đất
nước chúng tôi tâm linh lắm - trông mà xem! mọi
người mãn nguyện thế cho dù họ nghèo, bởi vì họ giầu
có bên trong."
Điều này tất cả đều vô nghĩa. Họ chẳng giầu có
bên trong. Mãn nguyện mà bạn thấy trên khuôn mặt
Ấn Độ nghèo không phải là mãn nguyện của việc nhận
ra bên trong. Chỉ đơn giản bởi vì họ quá bị bận tâm tới
tiền bạc, bánh mì và bơ, đến mức họ không thể có
được thời gian để mà không hài lòng. Họ không thể
đảm đương được việc ngồi đó và suy nghĩ ủ ê về khổ
của họ. Họ khổ thế và họ chẳng bao giờ biết tới hoan
lạc nào, cho nên họ không thể có bất kì so sánh nào.

Khi xã hội trở nên giầu, nó có thời gian để nghĩ,
"Bây giờ cái gì tiếp theo...?" Và dường như chẳng có

gì còn cả. Khi mọi thứ bên ngoài là sẵn có bạn bắt đầu
nghĩ, "Mình đang làm gì ở đây nhỉ? Mọi thứ đều có
đó, nhưng mình vẫn cứ trống rỗng như bao giờ."
Người ta bắt đầu quay vào trong.
Người ăn xin trông mãn nguyện bởi vì họ không
có mùi vị gì của giàu có. Nhưng người giàu trở nên rất
không hài lòng. Bởi vì giầu có của mình mà người đó
trở nên nhận biết về cái vô tích sự của mọi giàu sang.

**Cái chết đánh bại người đó
Khi với tâm trí phân tán và giác quan thèm khát
Người đó thu nhặt hoa.
Người đó sẽ chẳng bao giờ có thoả thích
hoan lạc của thế giới.**

Bạn không thể có sự thoả thích của mình được.
Điều đó là không thể được. Bạn không thể được thoả
mãn với mọi thứ; tâm trí sẽ cứ đòi hỏi thêm nữa. Bạn
càng có nhiều, bạn sẽ càng tạo ra thêm nhiều rắc rối
cho mình - bởi vì bạn có thể đảm đương được rắc rối,
bạn có thời gian. Thực ra, bạn có nhiều thời gian trong
tay đến mức bạn chẳng biết phải làm gì với nó. Bạn sẽ
bắt đầu lừa dối xung quanh. Bạn sẽ tạo ra nhiều khổ
hơn, nhiều lo âu hơn cho bản thân mình. Và không tìm
thấy thoả mãn bên ngoài, bạn có thể trở nên bất mãn
đến mức bạn có thể bắt đầu nghĩ tới tự tử.
Nhiều người tự tử ở các nước giầu hơn hơn ở nước
nghèo. Hay bạn có thể trở nên bất mãn tới mức bạn có
thể phát điên, bạn có thể thành gàn dở. Nhiều người
phát điên ở các nước giầu hơn ở các nước nghèo.

Giầu theo một cách nào đó là rất nguy hiểm: nó có
thể lái bạn tới tự tử, nó có thể lái bạn tới loại điên

khùng nào đó - nhưng nó cũng rất có ý nghĩa bởi vì nó
có thể lái bạn hướng tới tôn giáo, hướng tới nội tâm
mình, lãnh thổ bên trong, nó có thể trở thành cuộc cách
mạng nội tâm. Điều đó tuỳ thuộc vào bạn - các phương
án đều để mở. Người giầu hoặc trở nên thần kinh, tự
tử, hoặc người đó phải trở thành thiền nhân; không có
phương án thứ ba khác cho người đó.
Người nghèo không thể tự tử được, không thể bị
thần kinh được; người đó thậm chí còn không có đủ
cơm, còn nói gì tới tâm trí? Người đó mệt mỏi thế vào
buổi tối, người đó không thể nghĩ được, không có năng
lượng để nghĩ... rơi luôn vào giấc ngủ. Đến sáng lại
con đường mòn cũ của việc kiếm cơm. Mọi ngày
người đó đều phải kiếm sống, bằng cách nào đó để vẫn
còn sống, tồn tại. Người đó không thể đảm đương
được xa hoa của người thần kinh, người đó không thể
đảm đương được xa hoa của việc phân tâm - đây là
những xa hoa chỉ người giầu mới có thể đảm đương!
Và người đó không thể thực sự là thiền nhân được.
Người đó sẽ đi tới đền chùa, nhưng người đó sẽ hỏi
xin cái gì đó trần tục. Vợ người đó ốm, con người đó
không có tiền để vào trường học, người đó thất nghiệp.
Người đó đi tới đền chùa để hỏi xin những điều này.
Phẩm chất tôn giáo của người nghèo là rất nghèo nàn.

Có hai loại tính tôn giáo trong thế giới này: tính
tôn giáo của người nghèo - nó rất trần tục, nó rất vật
chất - và tính tôn giáo của người giầu - nó rất tâm linh,
rất phi vật chất. Khi người giầu cầu nguyện, lời cầu
nguyện của người đó không thể vì tiền. Nếu người đó
vẫn cầu nguyện về tiền, người đó vẫn chưa đủ giầu.

Có một thánh nhân Sufi, Farid. Một lần các dân
làng hỏi ông ấy, "Farid ơi, nhà vua vĩ đại, Akbar, tới
ông biết bao nhiêu lần - sao ông không hỏi xin ông ấy
để mở trường học cho người nghèo trong làng chúng
ta? Chúng ta không có trường học."
Farid nói, "Tốt, sao tôi phải đợi ông ấy tới? Tôi sẽ
đi."
Ông ấy tới Delhi, ông ấy được đón tiếp - mọi
người đều biết rằng Akbar kính trọng ông ấy lắm.
Akbar đang cầu nguyện trong đền thờ riêng của mình;
Farid được phép vào. Ông ấy đi vào, ông ấy thấy
Akbar đang cầu nguyện. Ông ấy đứng đằng sau Akbar
- ông ấy có thể nghe thấy điều ông này đang nói. Với
đôi tay giang ra, Akbar vừa mới kết thúc lời cầu
nguyện của mình, namaz của ông ấy, và ông ấy đang
nói với Thượng đế, "Cái một từ bi toàn năng, xin mưa
rào thêm giầu có lên con! Xin cho con vương quốc lớn
hơn!"
Farid lập tức quay đi. Đấy là vừa lúc kết thúc lời
cầu nguyện, cho nên Akbar trở nên nhận biết rằng ai
đó đã ở đó và đã đi mất. Ông ấy nhìn ngoái lại, thấy
Farid đang đi xuống bậc thang, tới chạm chân Farid và
hỏi, "Sao ông đã tới?" - bởi vì lần đầu tiên ông ấy tới -
"và sao ông đi mất?"
Farid nói, "Tôi đã tới với ý tưởng rằng ông giầu
có, nhưng nghe lời cầu nguyện của ông tôi nhận ra là
ông vẫn còn nghèo. Và nếu ông vẫn còn hỏi xin thêm
tiền, thêm quyền, thế thì việc tôi hỏi xin tiền là không
tốt, vì tôi phải tới xin ít tiền để mở trường học trong
làng tôi. Không, tôi không thể hỏi xin từ người nghèo
được. Bản thân ông còn cần thêm nữa. Tôi sẽ đi quyên
góp một ít ở trong làng và đem nó cho ông! Còn khi có

liên quan tới trường học, nếu ông đang hỏi xin từ
Thượng đế, tôi có thể hỏi xin trực tiếp từ Thượng đế -
sao tôi phải dùng ông làm trung gian làm gì?"
Câu chuyện này được đích thân Akbar kể trong tự
truyện của mình. Ông ấy nói, "Lần đầu tiên tôi trở nên
nhận biết rằng, vâng, tôi chưa đủ giầu, tôi vẫn chưa hết
thoả mãn với tất cả tiền bạc này. Nó đã không cho tôi
cái gì và tôi cứ hỏi xin thêm nữa, gần như hoàn toàn vô
ý thức! Đây là lúc tôi phải được chấm dứt với nó.
Cuộc sống cứ bay vùn vụt và tôi thì vẫn cứ hỏi xin rác
rưởi. Và tôi đã tích luỹ nhiều thứ - nó chẳng cho tôi cái
gì cả."

Nhưng gần như một cách máy móc người ta cứ hỏi
xin mãi. Nhớ lấy, tôn giáo nảy sinh khi bạn đã sống
trong thế giới này và đã biết thế giới này và cái vô tích
sự của nó, khi bạn có một hương vị hoàn toàn khác
cho nó từ tôn giáo, cái nảy sinh trong bạn bởi vì nhu
cầu vật lí của bạn là không được đáp ứng.
Tôn giáo của người nghèo là nghèo, tôn giáo của
người giầu là giầu. Và tôi muốn tôn giáo giầu trên thế
giới này; do đó tôi không chống công nghệ, không
chống công nghiệp hoá. Tôi không chống việc tạo ra
xã hội sung túc, tôi tất cả ủng hộ cho nó, bởi vì đây là
quan sát của tôi: rằng tôn giáo đạt tới cực đỉnh của nó
chỉ khi mọi người hoàn toàn thất vọng với giầu có trần
tục, và cách duy nhất để làm cho họ hoàn toàn thất
vọng là để cho họ kinh nghiệm chúng.

**Ong hút mật hoa từ hoa
Không làm hỏng cái đẹp hay hương thơm của nó.
cho nên để người chủ định cư, và lang thang.**

Phật đã gọi các sư của mình là "người ăn xin",
madhukari. Madhukari nghĩa là lấy mật như con ong.
Khất sĩ, sannyasin Phật giáo, đi hết nhà nọ tới nhà kia;
ông ta chẳng bao giờ hỏi xin chỉ từ một nhà bởi vì điều
đó có thể là quá nặng gánh. Cho nên ông ta hỏi xin từ
nhiều nhà, chỉ chút xíu từ nhà này, chút xíu từ nhà
khác, để cho ông ta không là gánh nặng cho ai cả. Và
ông ta không bao giờ đi tới cùng một nhà lần nữa.
Điều này được gọi là madhukari - như con ong mật.
Con ong đi từ hoa này sang hoa khác, và cứ bay từ hoa
sang hoa - nó không sở hữu.
Ong hút mật hoa từ hoa không làm hỏng cái đẹp
hay hương thơm của nó. Nó chỉ lấy chút xíu từ một
đoá hoa đến mức cái đẹp của hoa không bị hư hỏng,
hương thơm không bị phá huỷ. Hoa đơn giản chẳng
bao giờ trở nên nhận biết về ong; nó tới một cách im
lặng thế và đi im lặng thế.
Phật nói: con người của nhận biết sống trong thế
giới này giống như con ong. Người đó không bao giờ
làm hư hỏng cái đẹp của thế giới này, người đó không
bao giờ phá huỷ hương thơm của thế giới này. Người
đó sống im lặng, đi im lặng. Người đó chỉ yêu cầu cái
cần thiết. Cuộc sống của người đó là đơn giản, nó
không phức tạp. Người đó không thu thập cho ngày
mai. Ong không bao giờ lấy mật cho ngày mai, hôm
nay là đủ cho chính nó.
Cho nên để người chủ định cư, và lang thang..
Một phát biểu rất kì lạ: ...định cư, và lang thang. Định
cư bên trong, định tâm bên trong, và bên ngoài là
người lang thang: bên trong hoàn toàn được bắt rễ, còn
bên ngoài không ở lâu ở bất kì một chỗ nào, không ở

với một người trong thời gian lâu, bởi vì gắn bó nảy
sinh, sở hữu phát sinh. Cho nên chỉ giống như con ong.

Mới đêm hôm nọ tôi có đọc một hồi kí của một
nhà thơ. Ông ấy nói, "Tôi đã tìm thấy một điều rất kì
lạ: khi tôi rơi vào tình yêu với một người thực đẹp, tôi
không thể sở hữu được người đó. Và nếu tôi sở hữu,
tôi lập tức thấy rằng tôi đang phá huỷ cái đẹp của
người đó. Nếu tôi trở nên bị gắn bó, theo cách nào đó
tôi đang làm tổn thương người kia, tự do của họ."
Các nhà thơ là những người nhạy cảm; họ có thể
trở nên nhận biết về nhiều điều mà người thường
chẳng bao giờ trở nên nhân biết tới. Nhưng đó là cái
nhìn hay, có chiều sâu sâu lắng: nếu bạn thực sự trong
tình yêu với người đẹp bạn sẽ không thích sở hữu, bởi
vì sở hữu là phá huỷ. Bạn sẽ giống như con ong; bạn
sẽ thích thú bầu bạn, bạn sẽ tận hưởng tình bạn, bạn sẽ
chia sẻ tình yêu, nhưng bạn sẽ không sở hữu. Sở hữu
là thu người thành đồ vật. Nó là phá huỷ tâm linh của
người đó, nó là việc làm cho người đó thành món hàng
- và điều này có thể được làm chỉ nếu bạn không yêu.
Điều này có thể được làm chỉ nếu tình yêu của bạn
không là gì ngoài ghét đeo mặt nạ như yêu.
Phật nói: Cũng giống như ong, đi trong cuộc sống
- tận hưởng, mở hội, nhảy múa, ca hát, nhưng giống
như ong - bay từ hoa này sang hoa khác. Có mọi kinh
nghiệm đi, bởi vì chính chỉ qua kinh nghiệm mà bạn
mới trở nên chín chắn. Nhưng đừng có tính sở hữu,
đừng bị mắc kẹt ở đâu cả. Vẫn còn tuôn chảy như
dòng sông - không trở thành tù đọng. Định cư bên
trong, chắc chắn, trở nên kết tinh bên trong, nhưng bên
ngoài vẫn còn là người lang thang.

**Nhìn vào lỗi riêng của ông,
Điều ông đã làm hoặc bỏ không làm.
Bỏ qua lỗi lầm của người khác.**

Cách thông thường của con người là bỏ qua lỗi của
riêng mình và nhấn mạnh, khuếch đại lỗi của người
khác. Đây là cách thức của bản ngã. Bản ngã cảm thấy
rất thoải mái khi nó thấy, "Mọi người đều có nhiều lỗi
thế mà mình chẳng có lỗi nào." Và thủ đoạn là: bỏ qua
lỗi của bạn, khuếch đại lỗi của người khác, cho nên
chắc chắn mọi người đều giống như quỉ còn bạn giống
như thánh nhân.
Phật nói: đảo ngược quá trình này. Nếu bạn thực
sự muốn được biến đổi, bỏ qua lỗi của người khác đi -
đó không phải là công việc của bạn. Bạn là không ai
cả, bạn không được yêu cầu can thiệp vào, bạn không
có quyền, cho nên sao bận tâm? Nhưng đừng bỏ qua
lỗi của riêng bạn, bởi vì chúng phải được thay đổi,
vượt qua.
Khi Phật nói, nhìn vào lỗi riêng của ông, điều ông
đã làm hoặc bỏ không làm, ông ấy không ngụ ý ăn năn
nếu bạn đã làm điều gì đó sai; ông ấy không ngụ ý
khoe khoang, vỗ lưng bạn nếu bạn đã làm điều gì đó
tốt. Không. Ông ấy đơn giản ngụ ý nhìn để cho bạn có
thể nhớ trong tương lai rằng không gì sai nên được lặp
lại, để cho bạn có thể nhớ trong tương lai rằng cái
thiện nên được mở rộng, được nâng cao, còn cái ác
nên bị giảm đi - không để ăn năn mà để nhớ lại.

Đó là khác biệt giữa thái độ Ki tô giáo và thái độ
Phật giáo. Người Ki tô giáo nhớ tới chúng để ăn năn;
do đó Ki tô giáo tạo ra tội lỗi lớn. Phật giáo không bao
giờ tạo ra bất kì tội lỗi nào, nó không dành cho ăn năn,

nó dành cho nhớ lại. Quá khứ là quá khứ; nó đã qua và
qua mãi mãi - không cần phải lo nghĩ về nó. Nhớ đừng
lặp cùng sai lầm lần nữa. Lưu tâm hơn đi.

**Giống như đoá hoa đáng yêu,
Sáng chói nhưng không thơm,
Là lời đẹp nhưng trống rỗng
Về người không ngụ ý điều mình nói.**

Những người cứ lặp kinh sách một cách máy móc,
lời của họ là hay nhưng trống rỗng. Họ giống như hoa,
đáng yêu, sáng lạn, nhưng chẳng có hương thơm nào.
Họ giống như hoa giấy hay hoa nhựa - họ không thể có
hương thơm được, họ không thể có tính sống động.
Tính sống động, hương thơm là có thể chỉ khi bạn nói
theo lời riêng của mình, không theo thẩm quyền của
kinh sách; khi bạn nói theo thẩm quyền riêng của bạn,
khi bạn nói như một nhân chứng cho chân lí, không
như học giả có học, không như bác học, mà khi bạn
nói như người đã thức tỉnh.

**Giống như đoá hoa đáng yêu,
Sáng chói và thơm ngát,
Là lời đẹp và chân lí
Của người ngụ ý điều mình nói.**

Nhớ đừng lặp lại lời của người khác. Kinh nghiệm,
và chỉ nói điều bạn đã kinh nghiệm, và lời của bạn sẽ
có thực chất, trọng lượng; và lời của bạn sẽ có toả
sáng, lời của bạn sẽ có hương thơm. Lời của bạn sẽ
hấp dẫn mọi người; không chỉ hấp dẫn - ảnh hưởng.
Lời của bạn sẽ hàm chứa nghĩa lớn lao, và những
người đã sẵn sàng nghe chúng sẽ được biến đổi qua

chúng. Lời bạn sẽ là việc thở, sống động; sẽ có nhịp
tim đập trong chúng.

**Giống như vòng hoa được kết từ đống hoa,
Kiểu cách từ cuộc sống của ông được kết như
nhiều việc làm tốt.**

Để cho cuộc sống của bạn trở thành vòng hoa -
vòng hoa của những hành vi tốt. Nhưng hành vi tốt
theo Phật, chỉ nảy sinh nếu bạn trở nên lưu tâm hơn,
tỉnh táo hơn, nhận biết hơn. Hành vi tốt không phải là
được trau dồi như một tính cách; hành vi tốt phải là
sản phẩm phụ của việc có ý thức nhiều hơn của bạn.
Phật giáo không nhấn mạnh vào tính cách mà vào
tâm thức - đó là đóng góp lớn nhất cho nhân loại và
tiến hoá của nhân loại.
Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

#4 Lan truyền tin đồn!

Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Mọi thứ có vẻ rất ngược đời: phải toàn bộ vậy mà
phải vẫn còn là nhân chứng, người quan sát; phải
bị chìm ngập trong tình yêu vậy mà vẫn một mình.
Điều đó có vẻ rất bí ẩn, và tôi cảm thấy hoàn toàn
bị lạc lối và lẫn lộn. Tôi có đang bị lừa không?

Prem Urja, cuộc sống đẹp bởi vì nó ngược đời. Nó
mặn bởi vì nó ngược đời - nó không chỉ ngọt, nó có
mặn trong nó nữa. Nếu nó chỉ ngọt không thôi, nó sẽ
thành quá nhiều đường, đường hoá học.
Cuộc sống có điều bí ẩn vô cùng trong nó bởi vì
nó dựa trên nghịch lí. Bạn cảm thấy bị lẫn lộn bởi vì
bạn có một ý tưởng cố định nào đó về cuộc sống phải
thế nào - bạn không cho phép cuộc sống được là như

nó vậy. Bạn muốn áp đặt khái niệm nào đó lên nó,
logic nào đó lên nó. Lẫn lộn là sáng tạo riêng của bạn.

Cố áp đặt hình mẫu logic nào đó lên cuộc sống và
bạn sẽ trở nên rất lẫn lộn, bởi vì cuộc sống không có
nghĩa vụ phải hoàn thành logic của bạn. Cuộc sống là
như nó vẫn vậy. Bạn phải lắng nghe nó. Nó có mọi
mầu sắc, toàn bộ phổ mầu - nó là cầu vồng. Nhưng bạn
có ý tưởng nào đó rằng nó phải mầu lam hay nó phải
mầu lục hay nó phải mầu đỏ - nhưng nó vẫn cứ có tất
cả bẩy mầu. Thế thì bạn định làm gì với sáu mầu kia,
cái không phải là một phần của quan niệm của bạn?
Hoặc là bạn phải bỏ chúng đi, ngăn chặn chúng, để
cho bạn không trở nên nhận biết về chúng; kìm nén
chúng, đơn giản phủ nhận chúng... Nhưng bất kì điều
gì bạn làm, cuộc sống sẽ không vứt bỏ sắc mầu của nó
đi đâu; chúng sẽ vẫn cứ có đó - bị phủ nhận, bị bác bỏ,
bị kìm nén, chúng sẽ có đó, chờ đợi đến đúng khoảnh
khắc bùng nổ trong tâm thức của bạn.

Và bất kì khi nào chúng bùng nổ bạn sẽ bị lẫn lộn.
Lẫn lộn là trách nhiệm của bạn. Cuộc sống không lẫn
lộn chút nào. Cuộc sống là bí ẩn nhưng không bao giờ
lẫn lộn. Bởi vì bạn không muốn nó có tính bí ẩn, bạn
muốn nó có tính toán học, bạn muốn nó rất rõ ràng để
cho bạn có thể tính toán và đo đạc - do đó mới khó
khăn. Điều đó không do cuộc sống tạo ra. Vứt bỏ các
quan niệm của bạn đi và rồi nhìn... Thế thì bạn sẽ thấy
cơn bão tới đem theo im lặng cùng nó - điều phi logic!
Im lặng được cảm thấy sau cơn bão là sâu sắc nhất, sâu
lắng nhất. Nếu không có bão, im lặng vẫn còn hời hợt,
im lặng vẫn còn đờ đẫn, nó không có chiều sâu. Sau
cơn bão... cơn bão càng lớn, im lặng càng sâu hơn.
Bây giờ, điều đó là ngược đời.

Nó có tính ngược đời chỉ bởi vì bạn muốn áp đặt
logic nào đó. Cơn bão, và tạo ra im lặng sao? Điều đó
không khớp với ý tưởng của bạn - điều đó đúng - thế
thì bạn trở nên bị lẫn lộn. Nhưng sao nó phải khớp với
ý tưởng của bạn? Cuộc sống phải được cảm nhận -
không bị quan niệm. Nhìn cái đang là cảnh ngộ đi,
đừng có câu trả lời làm sẵn. Đừng đi qua cuộc sống
với định kiến, với tâm trí định kiến, đừng có bất kì
quan niệm nào trước. Đi hồn nhiên, trần trụi, đi mà dốt
nát. Vận hành từ trạng thái không biết. Và thế thì… thế
thì cuộc sống không lẫn lộn. Nó là vui vẻ vô cùng, nó
là cực lạc. Thế thì cái xuất hiện ngày hôm nay như lẫn
lộn, bạn sẽ cảm thấy cám ơn nó, biết ơn nó, rằng nó là
vậy, rằng nó không logic.
Cuộc sống chắc hoàn toàn chán ngán nếu như
Thượng đế tuân theo Aristotle. Chính sự nhẹ nhõm lớn
là ngài không phải là người theo Aristotle; chính sự
nhẹ nhõm lớn là Thượng đế chẳng biết gì về Aristotle
cả, rằng ngài đã không đọc sách của ông ấy, rằng ngài
đã không tin vào logic, rằng ngài tin vào biện chứng.
Do đó mới có những ngược đời này.

Người ta có thể trong tình yêu sâu sắc vậy mà một
mình. Thực ra, người ta chỉ có thể một mình khi người
ta đang trong tình yêu sâu sắc. Chiều sâu của tình yêu
tạo ra đại dương xung quanh bạn, một đại dương sâu,
và bạn trở thành hòn đảo, hoàn toàn một mình. Vâng,
đại dương cứ tung những con sóng của nó lên bãi cát
của bạn, nhưng đại dương càng đổ sầm sóng vào bãi
cát của bạn, bạn càng được tích hợp, bạn càng được
bắt rễ, bạn càng được định tâm hơn.

Tình yêu có giá trị chỉ bởi vì nó cho bạn tính một
mình. Nó cho bạn đủ không gian để là con người riêng
của mình.
Nhưng bạn có một ý tưởng về tình yêu; ý tưởng đó
tạo ra rắc rối - không phải là bản thân tình yêu tạo rắc
rối mà là ý tưởng. Ý tưởng đó là ở chỗ, trong tình yêu,
những người yêu biến mất vào lẫn nhau, tan biến vào
lẫn nhau. Vâng, có những khoảnh khắc của tan biến -
nhưng đây là cái đẹp của cuộc sống và tất cả điều đó là
có tính tồn tại: rằng khi những người yêu tan biến vào
lẫn nhau, cùng khoảnh khắc đó họ trở nên rất ý thức,
rất tỉnh táo. Tự tan biến đó không phải là một loại ngất
ngây, sự tan biến đó không phải là vô ý thức. Nó đem
tới ý thức lớn lao, nó làm thoát ra nhận biết lớn lao.
Một mặt họ tan biến đi - mặt khác lần đầu tiên họ thấy
cái đẹp toàn bộ trong việc một mình. Người kia xác
định ra họ, tính một mình của họ; họ xác định ra người
kia. Và họ biết ơn lẫn nhau. Chính bởi vì người kia mà
họ đã có thể thấy được cái ta riêng của họ; người kia
đã trở thành tấm gương trong đó họ được phản xạ.
Những người yêu đều là tấm gương cho nhau. Tình
yêu làm cho bạn nhận biết về khuôn mặt nguyên thuỷ
của bạn.
Do đó, điều rất có vẻ mâu thuẫn, ngược đời là nói
theo cách như: "Tình yêu đem tới một mình." Tất cả
các bạn đều nghĩ tình yêu đem tới sự cùng nhau. Tôi
không nói rằng nó không đem tới sự cùng nhau, nhưng
chừng nào bạn chưa một mình bạn không thể cùng
nhau được. Ai sẽ cùng nhau? Hai người là cần để cùng
nhau, hai người độc lập là cần để ở cùng nhau. Tính
cùng nhau sẽ là sự giầu có, giầu có vô cùng, nếu cả hai
người đều hoàn toàn độc lập. Nếu họ phụ thuộc vào

nhau, đấy không phải là cùng nhau - đấy là nô lệ, đấy
là tù túng.
Nếu họ phụ thuộc vào lẫn nhau, níu bám, sở hữu,
nếu họ không cho phép lẫn nhau một mình, nếu họ
không cho phép lẫn nhau có đủ không gian để trưởng
thành, họ là kẻ thù, không phải là người yêu; họ phá
huỷ lẫn nhau, họ không giúp lẫn nhau để tìm ra linh
hồn của họ, bản thể của họ. Đây là loại tình yêu gì
vậy? Nó có thể chỉ là việc sợ một mình; do đó họ níu
bám lấy nhau. Nhưng tình yêu thực không biết sợ.
Tình yêu thực có năng lực của việc một mình, hoàn
toàn một mình, và từ tính một mình đó mà phát triển
sự cùng nhau.
Kahlil Gibran nói: Hai người yêu giống như hai
cột trụ của ngôi đền - chúng đỡ cho cùng chiếc mái,
nhưng chúng đứng tách rời; cùng nhau khi có liên
quan tới việc đỡ cho cùng mái, nhưng hoàn toàn tách
biệt khi có liên quan tới bản thể riêng của chúng. Là
cột trụ của ngôi đền đi, đỡ cho cùng ngôi đền tình yêu,
cùng chiếc mái tình yêu, vậy mà bắt rễ trong bản thể
riêng của bạn, không bị sao lãng khỏi đó. Và thế thì
bạn sẽ biết cả hai cái đẹp, cái thuần khiết, cái sạch sẽ,
cái mạnh khoẻ, cái toàn thể của tính một mình, và bạn
cũng sẽ biết vui vẻ, điệu vũ, âm nhạc của việc cùng
nhau.
Có cái đẹp khi ai đó đang chơi nhạc cụ độc tấu -
nghệ sĩ độc tấu sáo - có cái đẹp vô cùng trong đó. Và
cũng có cái đẹp trong dàn nhạc giao hưởng. Và tình
yêu biết cả hai: nó biết cách là nghệ sĩ độc tấu sáo và
nó cũng biết cách trong nhịp điệu, hoà hợp với người
khác.

Không có mâu thuẫn trong thực tại - mâu thuẫn
xuất hiện chỉ bởi vì bạn có ý tưởng nào đó. Vứt bỏ ý
tưởng đó đi và thế thì lẫn lộn ở đâu? Lẫn lộn chỉ tới từ
kết luận. Nếu bạn đã có kết luận và thế rồi cuộc sống
xuất hiện như cái gì đó khác, bạn bị lẫn lộn. Thay vì cố
gắng ấn định cuộc sống, vứt các kết luận của bạn đi.

Đừng bao giờ vận hành từ các kết luận! - đó là
điều tôi cứ nhắc mọi ngày cho bạn: đừng vận hành từ
trạng thái của tri thức. Tri thức có nghĩa là kết luận, và
mọi kết luận đều được vay mượn. Cuộc sống bao la tới
mức nó không thể nào bị cô đọng trong một kết luận.
Mọi kết luận đều có tính bộ phận. Và bất kì khi nào bộ
phận đòi là toàn thể, nó tạo ra một loại chủ nghĩa
cuồng tín, chính thống; nó tạo ra tâm trí đờ đẫn và ngu
xuẩn.
Urja, bạn nói, "Phải toàn bộ vậy mà phải vẫn còn
là nhân chứng, người quan sát... dường như rất ngược
đời."
Nó chỉ dường như thôi, ngược đời chỉ là bề ngoài;
bằng không, là toàn bộ tức là người quan sát. Bất kì
khi nào bạn là toàn bộ trong cái gì đó, một nhận biết
lớn lao được thoát ra trong bạn - bạn trở thành nhân
chứng. Đột nhiên! Không phải bạn thực hành việc
chứng kiến. Nếu bạn toàn bộ trong nó... một ngày nào
đó, nhảy múa toàn bộ và thấy điều tôi đang nói.

Đây không phải là những kết luận logic mà tôi
đang trao cho bạn: đây là những chỉ báo, hướng dẫn có
tính chất tồn tại. Nhảy múa toàn bộ đi! - và thế rồi bạn
sẽ ngạc nhiên. Cái gì đó mới sẽ được cảm thấy. Khi
điệu vũ trở thành toàn bộ, và vũ công gần như hoàn
toàn tan biến trong việc nhảy múa, sẽ có một loại nhận
biết mới phát sinh trong bạn. Bạn sẽ bị mất toàn bộ

trong điệu vũ: vũ công biến mất, chỉ điệu vũ còn lại.
Và vậy mà bạn không vô ý thức, không chút nào -
chính là cái đối lập. Bạn rất ý thức, còn ý thức hơn bạn
đã từng trước đây.
Nhưng nếu bạn bắt đầu nghĩ về nó, thế thì ngược
đời sẽ tới. Thế thì bạn sẽ không có khả năng xoay xở
được, và bạn sẽ trở nên rất lẫn lộn.
Kinh nghiệm nó đi. Bất kì điều gì được nói ở đây
cũng là để giúp cho bạn kinh nghiệm. Tôi không trao
cho bạn bất kì tri thức nào, bất kì thông tin nào - chỉ
vài điều hướng dẫn để nếm trải những phẩm chất đa
chiều của cuộc sống.
Bạn nói, "Dường như là ngược đời... khi phải bị
chìm ngập trong trình yêu và vậy mà một mình."
Không phải vậy đâu - điều đó chỉ dường như thôi.
Nhưng bạn dường như quá bị gắn bó với kết luận của
bạn; do đó ý tưởng này phát sinh: "Tôi có bị lừa
không?"
Theo một cách nào đó, có đấy, bạn đang bị lừa từ
mọi định kiến của bạn, từ tất cả những kết luận của
bạn, từ tất cả những tri thức của bạn. Tôi đang cố gắng
đưa bạn vào thế giới của hồn nhiên lần nữa. Tôi đang
cố gắng cho bạn việc sinh mới, để cho bạn lại có thể
trở thành đứa trẻ lần nữa - tràn đầy kính nể và ngạc
nhiên.
Đứa trẻ không bao giờ thấy bất kì ngược đời nào ở
bất kì đâu - và đó là cái đẹp của đứa trẻ. Đứa trẻ có thể
trong tình yêu vô bờ bến với bạn và có thể nói, "Cháu
không thể sống được nếu thiếu bác cho dù một khoảnh
khắc," và khoảnh khắc tiếp nó giận dữ và nói, "Cháu
sẽ không bao giờ nhìn mặt bác lần nữa." Nó toàn bộ

trong cả hai phát biểu của nó, và sau vài khoảnh khắc
nó lại ngồi vào lòng bạn với vui vẻ lớn lao - và điều đó
nữa cũng là toàn bộ.
Đứa trẻ là toàn bộ vào mọi khoảnh khắc, và đứa
trẻ chưa bao giờ thấy bất kì mâu thuẫn nào. Khi nó
giận, nó thực sự giận; và khi nó yêu, nó thực sự yêu.
Nó di chuyển từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc
khác mà không tạo ra bất kì lẫn lộn nào cho bản thân
mình. Nó chưa bao giờ lẫn lộn. Nó chưa bao giờ đem
ngược đời này vào, bởi vì nó chưa đi tới kết luận nào.
Nó không biết cách người ta phải thế nào. Nó đơn giản
cho phép bản thân nó là bất kì cái gì trong hoàn cảnh
đó - nó chảy cùng cuộc sống.

Urja, bạn đã trở nên tù đọng ở đâu đó. Bạn có quá
nhiều tri thức, và điều đó vận hành như rào chắn. Nó
sẽ không cho phép bạn tuôn chảy với tôi, và nó sẽ
không cho phép bạn tuôn chảy với mọi người của tôi.
Nó sẽ không cho phép bạn tuôn chảy với cuộc sống,
nó sẽ không cho phép bạn tuôn chảy với Thượng đế.

Thượng đế là cả ngày và đêm, mùa hè và mùa
đông, sinh và tử... và bạn phải có khả năng hấp thu tất
cả những cái gọi là ngược đời này. Nếu bạn có thể hấp
thu tất cả những cái gọi là ngược đời này, không trở
nên bị lẫn lộn, chứng ngộ không phải là xa xôi gì.

Chứng ngộ là trạng thái khi mọi ngược đời đã biến
mất. Người ta đơn giản lưu ý tới cuộc sống như nó
vậy. Người ta không có kết luận để so sánh, không ý
tưởng để phán xét. Thế thì làm sao bạn có thể bị lẫn
lộn được? Bạn không thể làm tôi lẫn lộn được - điều
đó là không thể - bởi vì tôi không có kết luận. Không
kết luận, không tri thức, chỉ nếm trải cuộc sống như nó
đang đấy. Nó là bí ẩn, không phải ngược đời.

**************************************************

#4Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi không tin vào lời nói về bí ẩn này. Chẳng có gì
giống điều đó tồn tại cả! Phỏng đoán của tôi là ở
chỗ thầy đang quảng cáo cho công xã mới của
thầy bởi vì văn phòng báo chí quá lười, và không
tinh ranh như thầy có thể vậy.

Sarjano, vấn đề không phải là tin hay không tin -
nó là vậy. Câu hỏi về tin nảy sinh chỉ bởi vì bạn không
nhận biết về nó. Tin là có ý nghĩa, và không tin nữa
cũng có ý nghĩa - khi bạn không nhận biết về thực tại.
Thế thì hoặc bạn tin hoặc bạn không tin.
Tôi không nói tin vào bí ẩn mà tôi đang nói tới.
Tôi cũng không nói không tin - tôi đang nói: Đi cùng
tôi đi! Nó là vậy! Để tôi đánh thức bạn... nó là vậy.

Bạn nói, "Tôi không tin vào lời nói về bí ẩn này."
Điều đó là rất tốt. Xin mời bạn, đừng tin vào lời, bởi vì
nếu bạn bắt đầu tin thì bạn sẽ không có khả năng kinh
nghiệm. Tôi không quan tâm tới người tin, tôi quan
tâm tới người truy vấn. Nhưng xin đừng bắt đầu đoán
nữa, bởi vì đoán là đoán mà thôi. Đoán sẽ không có ích
gì. Nó sẽ trở thành việc tin - nếu bạn cứ đoán mãi
trong một thời gian dài, và nếu bạn cứ lặp đi lặp cùng
việc đoán mãi, nó sẽ trở thành việc tin. Bạn tạo ra việc
tin riêng của mình, và điều đó sẽ trở thành rào chắn.

Và tin là rào chắn tinh vi thế, và không tin cũng
vậy. Nhớ lấy, bất kì khi nào tôi nói tin, tôi bao giờ
cũng bao hàm cả không tin trong nó - bởi vì đó là mặt
kia của đồng tiền. Tin và không tin, cả hai đều là rào
chắn. Một khi bạn đã tạo ra hệ thống niềm tin quanh
bản thân bạn - hoặc là vay mượn từ người khác hay tự
bạn đoán ra; hoặc vay mượn từ Kinh Thánh, Mein
Kampf, Tư bản luận, Bhagavadgita, hay tự bạn đoán
ra, nhân tạo, không thành vấn đề - niềm tin trở thành
rào chắn, rào chắn vô hình. Và một khi nó ổn định, nó
sẽ không cho phép bạn thấy cái gì khác đi ngược nó.

Mới hôm nọ tôi vừa đọc về một thực nghiệm.
Sarjano, thiền về nó đi.
Một nhà tự nhiên học nào đó đã làm thực nghiệm
sau: một lọ kính được chia thành hai nửa bằng vách
kính ngăn trong suốt hoàn toàn. Một bên của vách ông
ấy đặt một con cá chó; phía bên kia là một số cá nhỏ
có hình dạng con mồi của cá chó.
Con cá chó chẳng để ý gì tới vách ngăn, lao bản
thân mình vào con mồi, tất nhiên, kết quả chỉ là cái
mũi bị méo mó. Cùng điều đó xảy ra nhiều lần, và bao
giờ cũng cùng kết quả. Sau cùng, khi thấy mọi nỗ lực
của mình đều kết thúc đau đớn thế, con cá chó bỏ việc
đi săn; cho nên trong vài ngày, khi vách ngăn bị bỏ đi,
nó vẫn tiếp tục bơi trong cái vùng nhỏ mà không dám
tấn công chúng... Cùng điều đó không xảy ra cho
chúng ta sao?
Bây giờ vách ngăn không còn đó nữa - nó đã bị bỏ
đi rồi - nhưng hệ thống niềm tin đã nảy sinh trong tâm
trí con cá chó. Bây giờ nó tin rằng có vách ngăn trong

suốt. Bây giờ việc tin là đủ; nó không bao giờ vượt ra
ngoài bức vách mà không còn nữa. Bây giờ nó có thể
đi! Bây giờ không có gì ngăn cản nó nhưng niềm tin
của nó... nó đã tạo ra niềm tin. Và tất nhiên, từ kinh
nghiệm của nó, Sarjano - thậm chí không đoán - đó là
kinh nghiệm của nó, kinh nghiệm được lặp lại. Nó cứ
cố gắng lặp đi lặp mãi, và mỗi lần cái mũi bị biến dạng
và đau đớn - tất nhiên niềm tin đã nảy sinh.

Bạn phải tha thứ cho nó - con cá chó đáng thương
đã đi tới kết luận rằng điều đó là vô tích sự: "Có rào
chắn, trong suốt, cho nên mình không thể đi qua
được..." và nó không bao giờ thử lần nữa. Nó sẽ không
bao giờ thử lần nữa trong cả đời. Bây giờ nó có thể đi
và ăn các con cá kia, chúng sẵn đấy, nhưng nó sẽ cứ
chỉ đi tới ranh giới nào đó, và từ ranh giới đó nó sẽ
quay lại.
Đây là tình huống của con người nữa. Người
Hindu có rào chắn quanh mình, người Mô ha mét giáo
có rào chắn khác, người Jaina có rào chắn khác - mọi
người đều sống ẩn sau những rào chắn trong suốt, và
bởi vì những rào chắn đó mà họ không thể thấy được
bên ngoài.
Cuộc sống là bí ẩn, Sarjano. Và công xã của tôi sẽ
chỉ là một thực nghiệm trong việc sống toàn bộ, một
thực nghiệm trong việc đi vào cuộc sống bên ngoài
mọi rào chắn - rào chắn về niềm tin, rào chắn về ý thức
hệ, rào chắn về Cơ đốc giáo, và chủ nghĩa cộng sản...
việc vượt ra ngoài lời.
Con người không phải là điều người đó dường như
vậy: người đó ở xa hơn thế nhiều. Không hoa nào chỉ
là điều chúng dường như vậy - điều đó phụ thuộc vào
bạn. Khi nhà khoa học đi tới đoá hoa, ông ta chỉ thấy

một phần của nó, phần khoa học của nó; ông ta có rào
chắn, rào chắn trong suốt. Ông ta chưa bao giờ vượt ra
ngoài điều đó. Ông ta sẽ thấy phần khoa học, phần vật
chất của đoá hoa. Hoa hồng không còn đẹp nữa, bởi vì
cái đẹp không phải là khái niệm của ông ta. Ông ta sẽ
cân đong đo đếm, ông ta sẽ nhìn vào các thành tố của
hoa, bao nhiêu mầu sắc, bao nhiêu nước, bao nhiêu đất
vân vân… nhưng ông ta sẽ không bao giờ nghĩ về cái
đẹp.
Khi nhà thơ đi tới hoa, ông ấy chẳng bao giờ bận
tâm về cân nặng, số đo, đất, nước, và các phần tử khác
thiết lập nên hoa hồng. Với ông ấy, hoa hồng được tạo
thành từ cái đẹp thuần tuý; nó là cái gì đó từ cõi bên
kia đã giáng xuống thế gian. Ông ấy có một loại cách
nhìn khác, lớn lao hơn nhiều so với cách nhìn của nhà
khoa học, ý nghĩa hơn nhiều so với cách nhìn của nhà
khoa học.
Nhưng khi nhà huyền môn đi tới cùng đoá hoa đó,
ông ấy nhảy múa - ông ấy nhảy múa trong vui vô biên,
bởi vì bông hồng không là gì ngoài Thượng đế. Bông
hồng chứa toàn thể vũ trụ đối với ông ấy - mọi vì sao
và mọi mặt trời và mọi mặt trăng, tất cả những thế giới
có thể và thế giới không thể đều được chứa trong bông
hồng nhỏ này. Nó tương đương với Thượng đế - không
ít hơn không nhiều hơn - đích xác tương đương với
Thượng đế. Ông ấy có thể cầu nguyện, ông ấy có thể
cúi lạy.
Nhà khoa học sẽ cười, nhà thơ sẽ cảm thấy chút
phân vân... Nhà khoa học sẽ cười vào cái ngu xuẩn của
nhà huyền môn: "Ông ấy làm cái trò gì vậy? - cầu
nguyện cho bông hồng, cầu nguyện cho cây hay cầu
nguyện cho sông hay cầu nguyện cho núi? Toàn điều

vô nghĩa, mê tín!" Ông ta bác bỏ điều đó. Ông ta đơn
giản phủ nhận thế giới của nhà huyền môn.
Nhà thơ sẽ cảm thấy chút phân vân. Tận hưởng cái
đẹp của bông hồng ông ấy có thể hiểu được, nhưng cầu
nguyện với bông hồng, cúi lạy bông hồng, kêu lên
"Alleluia!" với bông hồng sao? Điều đó ông ấy không
thể hiểu được. Điều đó vượt ra ngoài cảnh quan của
ông ấy. Ông ấy sẽ cảm thấy phân vân. Ông ấy sẽ nghĩ
nhà huyền môn này hơi điên rồi.
Nhà khoa học sẽ coi ông ấy mê tín, dốt nát. Nhà
thơ sẽ coi ông ấy hơi khùng, hơi điên - bởi vì ông ấy
vượt ra ngoài rào chắn của ông này, nhà huyền môn
vượt ra ngoài rào chắn của nhà thơ. Nhà huyền môn
vượt ra ngoài mọi rào chắn - đó là lí do tại sao ông ấy
được gọi là nhà huyền môn, bởi vì ông ấy sống trong
điều bí ẩn.
Sarjano, điều tôi đang nói về công xã mới là tuyệt
đối đúng. Và tôi không nói nhiều về nó đâu, bởi vì thật
nguy hiểm mà nói nhiều về nó. Tôi không muốn hấp
dẫn những loại người sai tới nó. Cho nên chỉ có vài
hướng dẫn cho những người sẽ có khả năng hiểu
những hướng dẫn này. Tôi đang nói theo một mã đặc
biệt chỉ có thể hiểu được bởi những người đang tìm
kiếm điều bí ẩn và huyền bí. Những người khác sẽ bị
cản - không phải bởi tôi, mà bởi chính định kiến của
riêng họ, bởi rào chắn trong suốt của riêng họ.

Bạn có thể thấy điều đó đang xảy ra ở đây! Mọi
người đang tới từ khắp trên thế giới - ai đang ngăn cản
những người Puneites? Họ được đón chào, nhưng họ
sẽ không tới theo cách riêng của họ - rào chắn trong
suốt của họ là đủ. Và cũng tốt là họ không tới, bởi vì
họ sẽ chỉ gây phiền phức ở đây. Chỉ vài người trong số

họ mới tới, những người có khả năng hiểu cõi bên kia,
điều không thể hiểu được, những người có khả năng
hiểu thấu điều gì đó của cái không thể hiểu nổi
Nhưng dù bạn tin vào điều đó hay không, cứ nghe
giai thoại này:

Hai kẻ đồng dục đang nói chuyện. Người đồng dục
thứ nhất: "Anh có nghe nói về phát minh khoa học mới
nhất không? Giao hợp bình thường gây ung thư đấy."
Người đồng dục thứ hai: "Thế sao?"
Người đồng dục thứ nhất: "Không, tất nhiên
không! Nhưng cứ lan truyền tin đồn này đi."

Sarjano, dù bạn có tin hay không, xin cứ lan truyền
tin đồn này đi. Tin đồn này phải đạt tới những góc xa
xôi nhất của trái đất. Cứ để nó là tin đồn đi! Đừng lo
nghĩ. Làm cho nó thành chân lí hay không là tuỳ ở tôi.
Nếu tôi tìm thấy đúng người - và tôi đang tìm họ đây -
điều đó sẽ thành hiện thực hoá.
Bí ẩn này mà tôi đang nói tới đây sẽ thành hiện
thực hoá. Nhưng nó sẽ được hiện thực hoá chỉ cho
những người sẵn sàng liều mọi định kiến của họ,
những người sẵn sàng hi sinh mọi kết luận của họ.
Sarjano là một trong những người đó. Tôi tin cậy vào
anh ấy. Anh ấy đã không hỏi câu hỏi này cho mình,
anh ấy đã hỏi nó cho người khác - bởi vì tôi biết anh
ấy điên hoàn toàn. Anh ấy không chỉ là nhà thơ, mà ở
ngay bên bờ của việc trở thành nhà huyền môn. Anh
ấy đã hỏi câu hỏi này cho người khác, đó không phải

là câu hỏi từ trái tim riêng của anh ấy. Trái tim anh ấy
đồng ý toàn bộ với tôi.
Bạn không thể che giấu trái tim của bạn với tôi
được. Khoảnh khắc bạn tới gần tôi, điều duy nhất mà
tôi quan tâm là trái tim của bạn. Tôi nói với cái đầu
bạn và tôi đi vào trong trái tim bạn. Ngay từ lần đương
đầu đầu tiên với tôi, tôi biết cái gì là có thể với bạn và
cái gì là không thể với bạn.
Tôi đã yêu Sarjano từ ngay chính khoảnh khắc đầu
tiên. Trong đầu mình, anh ấy có thể có nhiều lí thuyết
và nhiều tri thức và thông tin - đó không phải là mối
bận tâm của tôi chút nào. Mối bận tâm của tôi là ở chỗ
anh ấy có trái tim đẹp - trái tim có thể được biến đổi
thành trái tim của nhà huyền môn.

**************************************************

#4Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Hiểu biết của tôi về bản thân tôi là ở chỗ mọi việc
làm của tôi đều nảy sinh từ ham muốn trao đổi.
Ngay cả ý nghĩ tinh tế nhất cũng là đối thoại, một
mưu tính để có kinh nghiệm của người khác và
thẩm tra sự tồn tại của tôi. Với việc nhận thức ra
rằng tôi là người duy nhất có thể kinh qua những
kinh nghiệm của mình và cho chúng sự hợp thức,
mọi việc làm không cần thiết này phải biến mất.
Nó đơn giản và hiển nhiên thế. Sao việc nhận thức
ra này không đạt tới cốt lõi bên trong nhất của
tôi?

Prem Steven, đấy chưa phải là nhận ra đâu - nó
vẫn là thông tin đấy, nó vẫn là phỏng đoán đấy, nó vẫn
là suy nghĩ đấy; theo đường đúng, chắc chắn, theo
hướng đúng, đúng, nhưng nó chưa phải là nhận thức
ra. 'Nhận thức ra' là từ lớn lao. Người ta phải dùng từ
đó rất thận trọng. Bạn có thể nghĩ tới những ý tưởng
lớn lao, nhưng chúng không trở thành nhận thức của
bạn bằng việc suy nghĩ. Bạn có thể nghĩ về Thượng đế
và bạn có thể đi tới kết luận rằng Thượng đế hiện hữu,
và bạn có thể cảm thấy rằng bây giờ không có hoài
nghi gì trong tâm trí mình về sự tồn tại của Thượng đế
- dầu vậy nó vẫn không phải là nhận thức.

Nhận thức ngụ ý nhận ra chính xác - nó phải trở
thành thực tại của bạn, không phải chỉ là ý tưởng! Cho
dù một ý tưởng tốt có đó, nó vẫn cứ là ý tưởng. Ý
tưởng không thể biến đổi được bạn, và ý tưởng không
thể đạt tới chính cốt lõi của bản thể bạn. Nó vẫn còn ở
chu vi.
Mọi ý tưởng đều là ở chu vi - cũng như mọi con
sóng vẫn còn trên bề mặt. Sóng không thể đi sâu vào
trong đại dương được; không có cách nào để nó đi vào.
Tại cốt lõi sâu nhất không có sóng. Trên bề mặt bão có
thể điên cuồng, nhưng tại cốt lõi sâu nhất, đại dương
bình lặng và yên tĩnh - và bao giờ cũng vậy. Chỉ bề
mặt có thể bị rối loạn.
Mọi suy nghĩ đều là rối loạn trên chu vi của bản
thể bạn. Những ý tưởng xấu, ý tưởng tốt, tất cả đều là
ngoại vi. Mọi người có niềm tin này rằng các ý tưởng
xấu là ngoại vi và ý tưởng tốt là trung tâm - điều đó
không phải vậy. Tốt hay xấu không tạo ra khác biệt gì.
Ý tưởng là ý tưởng, và ý tưởng vẫn còn là nngoại vi.
Chỉ việc chứng kiến mới có thể ở trung tâm.

Cho nên điều thứ nhất là nhận thức rằng bạn vẫn
chưa nhận thức ra. Một khi điều gì đó được nhận thức
ra, nó nhất định làm biến đổi bạn - ngay lập tức nó
biến đổi bạn. Thế thì câu hỏi không thể phát sinh được:
"Nó đơn giản và hiển nhiên thế. Sao việc nhận thức
này không đạt tới cốt lõi bên trong nhất của tôi?" Cái
"sao?" này không thể có đó được. Nếu bạn nhận thức
ra điều gì đó, tính cách của bạn lập tức thay đổi. Tính
cách của bạn là cái bóng của tâm thức bạn. Một khi
tâm thức mới, toàn thể tính cách trở thành mới.

Nếu bạn hỏi tại sao, nếu bạn hỏi làm sao thay đổi,
thế thì việc nhận thức ra chỉ là ý tưởng - và đừng tin
vào ý tưởng. Chúng lừa dối bạn, chúng là những kẻ lừa
dối lớn lao, chúng là đồng tiền giả. Bạn có thể cứ tích
luỹ chúng mà tin rằng bạn đang trở nên giầu có, nhưng
một hôm bạn sẽ bị tan nát. Hối hận sẽ là lớn và khổ sẽ
lớn, bởi vì mọi lúc bạn tích luỹ những đồng tiền giả
đều đơn giản phí hoài. Và nó không thể được giành lại
- nó đã trôi qua vĩnh viễn rồi.
Điều thứ hai... bạn nói, Steven, "Hiểu biết của tôi
về bản thân tôi là ở chỗ mọi việc làm của tôi đều nảy
sinh từ ham muốn trao đổi. Ngay cả ý nghĩ tinh tế nhất
cũng là đối thoại, một mưu tính để có kinh nghiệm của
người khác và thẩm tra sự tồn tại của tôi."

Tại sao? Tại sao bạn phải muốn người khác thẩm
tra sự tồn tại của bạn, để cho sự tồn tại của bạn có tính
hợp thức? Bởi vì bạn nghi ngờ về nó, bạn ngờ vực về
sự tồn tại của bạn. Bạn thực sự không biết rằng bạn
hiện hữu; bạn biết bạn chỉ khi người khác nói bạn hiện
hữu. Bạn phụ thuộc vào ý kiến của người khác.

Nếu họ nói rằng bạn đẹp, bạn nghĩ bạn đẹp. Nếu
họ nói bạn thông minh, bạn nghĩ bạn thông minh. Do

đó, bạn muốn gây ấn tượng cho mọi người - bằng
thông minh của bạn, bằng cái đẹp của bạn, bằng đủ
mọi loại điều bạn muốn gây ấn tượng cho mọi người,
bởi vì nếu bạn có thể thấy cái gì đó trong mắt họ, cái
đó trở thành hợp thức cho bạn.
Đó là lí do tại sao bạn phát rồ lên khi ai đó xúc
phạm bạn, làm hỏng hình ảnh đó khi ai đó gọi bạn là
đồ ngốc; bằng không, sao bạn phải bận tâm? Đấy
không phải là việc của bạn. Nếu người đó gọi bạn là
đồ ngốc, đấy là vấn đề của người đó. Chỉ bằng việc
người đó gọi bạn là đồ ngốc, bạn đâu có trở thành đồ
ngốc. Nhưng bạn trở thành đồ ngốc, bởi vì bạn phụ
thuộc vào ý kiến của người khác.
Đó là cách chúng ta sống trong xã hội. Chúng ta
liên tục cố gắng gây ấn tượng lẫn cho nhau. Đó là lí do
tại sao chúng ta sống như nô lệ, bởi vì nếu bạn muốn
gây ấn tượng lên người khác, bạn phải theo các ý
tưởng của họ; chỉ thế thì họ mới bị ấn tượng. Bạn phải
tốt theo cách họ muốn bạn là tốt. Nếu họ là người ăn
chay, bạn cũng phải là người ăn chay, thế thì họ sẽ bị
ấn tượng - họ sẽ nói bạn là thánh nhân. Nếu họ đang
sống theo một kiểu cách sống nào đó, bạn phải sống
theo kiểu đó; chỉ thế thì họ mới thừa nhận bạn.

Bạn có thể thu được sự kính trọng chỉ nếu bạn tuân
theo các ý tưởng của họ. Đó là việc hiểu lẫn nhau rằng
bạn hỗ trợ cho ý tưởng của họ để cho họ cảm thấy
thoải mái rằng ý tưởng của họ là đúng; do đó họ là
đúng. Và thế rồi họ hỗ trợ cho bạn và họ cho bạn sự
kính trọng bởi vì bạn tuân theo ý tưởng đúng, bạn là
người đúng. Họ ca ngợi bạn, họ biểu lộ cho bạn sự tôn
kính, họ gọi bạn là thánh nhân, hiền nhân... điều đó
làm cho bạn cảm thấy vừa lòng. Điều đó làm vừa lòng

họ bởi vì bạn kính trọng ý thức hệ của họ, và họ bày tỏ
sự kính trọng với nhân cách của bạn. Đây là sự thu xếp
lẫn nhau. Và các bạn cả hai đều trong ảo tưởng. Bạn
hỗ trợ cho ảo hưởng của họ, họ hỗ trợ cho ảo tưởng
của bạn. Các bạn là đối tác trong cùng một việc gây ảo
giác.
Sao người ta muốn được người khác thẩm tra, làm
hợp thức? Nếu bạn biết về cái riêng của mình, nếu bạn
đã kinh nghiệm bản thể của bạn và cái đẹp của nó và
vui vẻ của nó và sự vĩ đại của nó và vinh quang của
nó, ai thèm để ý tới điều người khác nói?

Phật đi qua một làng, và mọi người của làng đó
chống đối Phật nhiều lắm. Tại sao họ chống Phật? -
bởi vì Phật được sinh ra tại làng đó, ông ấy đã sống tại
làng đó trong nhiều năm, và dân làng không thể tin
được rằng một người đã được sinh ra trong số họ đã
trở nên chứng ngộ. Điều đó làm khó chịu cho bản ngã
của họ!
Đó là lí do tại sao Jesus nói: Nhà tiên tri không
được kính trọng, không được yêu mến, bởi những
người riêng của mình. Bản thân Jesus đã bị tống ra
khỏi nơi sinh của mình. Chỉ mỗi một lần ông ấy đi -
sau đó ông ấy đã trở nên chứng ngộ, ông ấy đã đi chỉ
một lần. Và mọi người cứ phát rồ lên bởi khẳng định
của ông ấy, "Ta đã nhận thức ra, ta là Con của Thượng
đế," đến mức họ bắt ông ấy lên núi để ném ông ấy
xuống núi. Họ muốn giết chết ông ấy. Bằng cách nào
đó ông ấy phải trốn khỏi nanh vuốt của họ, khỏi tay
họ. Và ông ấy chưa bao giờ quay chỗ đó.

Phật đã đi qua làng đó nơi ông ấy đã được sinh ra,
chỉ ở đâu đó ngay biên giới giữa Ấn Độ và Nepal, và
mọi người đã tụ tập và bắt đầu sỉ nhục ông ấy, lăng mạ
ông ấy, gọi ông ấy bằng đủ thứ tên. Và ông ấy im lặng
lắng nghe suốt nửa giờ, và rồi ông ấy nói, "Trời sắp
nóng lên rồi và ta phải đi sang làng bên, mọi người
đang đợi ta. Ta không thể dành thêm thời gian cho các
ông lần này. Nếu các ông có thêm cái gì nữa để nói với
ta, xin đợi. Khi ta quay lại, thế thì ta sẽ có thêm chút
thời gian nữa. Các ông có thể tụ tập, và các ông có thể
trao đổi bất kì cái gì các ông muốn trao đổi. Nhưng lần
này ta xin lỗi. Ta phải đi đây."
Bình thản thế, bình tĩnh thế, và họ thực sự gọi ông
ấy bằng những cái tên bẩn thỉu. Họ không thể tin được
vào mắt mình. Họ nói, "Chúng tôi không nói điều gì
với ông đâu - chúng tôi đang sỉ nhục ông đấy, chúng
tôi đang lăng mạ ông đấy! Ông không thể hiểu được
điều chúng tôi đang nói sao?"
Phật nói, "Ta có thể nghe thấy, ta có thể hiểu mọi
điều mà các ông đang nói - nhưng đó không phải là
vấn đề của ta! Nếu các ông giận, đó là vấn đề của các
ông. Can thiệp vào cuộc sống của các ông không phải
là việc của ta. Nếu các ông muốn giận, nếu các ông
thích điều đó, cứ tận hưởng đi! Nhưng ta không định
nhận bất kì điều vô nghĩa nào từ các ông.

"Thực ra, các ông đã tới chậm chút ít rồi. Nếu như
các ông thực sự muốn ta bị rối loạn, các ông đáng phải
tới từ mười năm trước đây. Thế thì ta đã thực sự giận
các ông lắm. Ta sẽ phản ứng, ta sẽ đánh các ông!
Nhưng bây giờ, nhận biết lớn lao đã xảy ra là bản thể
ta không phụ thuộc vào ý kiến của người khác. Điều
các ông nghĩ về ta chỉ biểu lộ cái gì đó về các ông, chứ

không về ta! Ta biết bản thân ta; do đó ta không phụ
thuộc vào ý kiến của bất kì ai về ta. Những người dốt
nát về bản thân họ, họ phải phụ thuộc vào người khác."

Steven, toàn thể tâm trí này về việc trao đổi với
mọi người trong nỗ lực để được họ thẩm tra đơn giản
chỉ ra bóng tối sâu sắc bên trong; bằng không, không
có nhu cầu. Và tôi không nói rằng khi một người trở
nên tràn đầy ánh sáng, người đó dừng việc trao đổi -
không. Chỉ người đó mới có thể trao đổi được, bởi vì
người đó có cái gì đó để trao đổi. Bạn có gì để trao
đổi? Cái gì có đó mà bạn có thể chia sẻ với mọi người?
Bạn là kẻ ăn xin, bạn đang ăn xin. Khi bạn muốn được
thẩm tra, được làm hợp thức, được xác nhận, bạn đang
ăn xin đấy. Bạn đang bảo họ, "Xin nói điều gì đó tốt
cho tôi đi, điều gì đó hay vào, để cho tôi có thể cảm
thấy hay về bản thân tôi. Tôi đang cảm thấy rất chán
nản, tôi đang cảm thấy rất vô giá trị - cho tôi cái gì đó
có giá trị! làm cho tôi cảm thấy có ý nghĩa." Bạn đang
ăn xin đấy, điều đó đâu phải là trao đổi.

Trao đổi là có thể chỉ khi bài ca đã bật tung ra từ
bản thể bạn, khi vui vẻ đã nảy sinh, khi phúc lạc đã
được kinh nghiệm - thế thì bạn có thể chia sẻ được.
Thế thì không chỉ trao đổi, không chỉ trao đổi bằng lời,
mà ở mức độ sâu sắc hơn nhiều, giao cảm cũng bắt đầu
xảy ra. Nhưng thế thì bạn không là kẻ ăn xin, bạn là
hoàng đế.
Chỉ chư phật mới có thể giao cảm và trao đổi.
Những người khác chẳng có gì để nói, chẳng có gì để
cho. Thực ra, điều bạn đang làm trong khi bạn nói với
mọi người… và mọi người đang liên tục nói, tán gẫu
huyên thuyên, nếu không nói ra, cũng là trong tâm trí

của họ - cũng như bạn nói rằng sâu trong tâm trí mình
bạn cũng đang nói với ai đó, người tưởng tượng nào
đó... Bạn đang nói điều gì đó từ phía bạn, và bạn cũng
đang trả lời từ phía bên kia; tán gẫu, đối thoại liên tục
bên trong bạn.
Đây là trạng thái của không lành mạnh. Tôi sẽ
không gọi nó là trạng thái điên khùng mà là không
lành mạnh. Toàn thể nhân loại tồn tại trong trạng thái
không lành mạnh. Người điên khùng đã vượt ra bên
ngoài biên giới bình thường. Người không lành mạnh
cũng là điên khùng nhưng bên trong các giới hạn.
Người đó vẫn còn điên khùng bên trong, nhưng bên
ngoài người đó cứ hành xử theo cách lành mạnh. Cho
nên với người đó tôi có từ này 'không lành mạnh'.
Lành mạnh xảy ra chỉ khi bạn trở thành im lặng
toàn bộ đến mức mọi việc tán gẫu bên trong đều biến
mất. Khi tâm trí không còn nữa, bạn lành mạnh. Tâm
trí là không lành mạnh - đó là điên khùng thông
thường, hay điên khùng - điều có nghĩa là điên khùng
bất thường. Vô trí là lành mạnh. Và trong vô trí bạn
hiểu, bạn nhận thức, không chỉ về sự hiện hữu riêng
của mình mà về sự hiện hữu - chính sự hiện hữu - của
sự tồn tại. Thế thì bạn có cái gì đó để chia sẻ, để trao
đổi, để nhảy múa, để mở hội.
Trước đó, đấy là nỗ lực vô vọng để bằng cách nào
đó thu thập hình ảnh của bản thân bạn từ ý kiến của
những người khác. Và hình ảnh của bạn sẽ vẫn còn là
đống lộn xộn bởi vì bạn sẽ thu thập ý kiến từ nhiều
nguồn thế - chúng sẽ vẫn còn mâu thuẫn.
Người này nghĩ bạn xấu, ghét bạn, không thích
bạn; người khác nghĩ bạn đẹp, duyên dáng đến mức
không ai có thể so sánh được với bạn - bạn vô song.

Bây giờ bạn sẽ định làm gì với hai ý kiến này? Bạn
không biết mình là ai; bây giờ hai ý kiến có đó - làm
sao bạn có thể đánh giá cái nào đúng? Bạn thích ý kiến
đúng nói bạn đẹp; bạn không thích ý kiến nói rằng bạn
xấu. Nhưng đấy không phải là vấn đề thích hay không
thích. Bạn không thể điếc với ý kiến kia được, cái đó
nữa cũng có đó. Bạn có thể kìm nén nó trong vô thức,
nhưng nó sẽ vẫn còn ở đó.
Bạn sẽ thu thập các ý kiến từ bố mẹ mình, từ gia
đình mình, từ hàng xóm mình, từ những người bạn làm
việc cùng, từ thầy giáo, từ tu sĩ... cả nghìn ý kiến la hét
bên trong bạn. Và đây là cách bạn đang tạo ra hình ảnh
của bản thân mình. Nó sẽ là một đống lộn xộn. Nó sẽ
không có khuôn mặt nào, hình dạng nào, nó sẽ là hỗn
độn. Đó là cách mọi người đang hiện hữu, hỗn độn.
Không trật tự là có thể, bởi vì chính trung tâm bị mất,
cái có thể tạo ra trật tự.
Trung tâm đó tôi gọi là nhận biết, thiền - aes
dhammo sanantano. Đây là luật không cạn, luật tối
thượng, rằng chỉ những người đã trở nên nhận biết mới
biết họ là ai. Và khi họ biết, không ai có thể lay
chuyển được việc biết của họ. Không ai có thể làm
được! Toàn thế giới có thể nói một điều, nhưng nếu
bạn biết, nếu bạn đã nhận ra bản thân mình, điều đó
không thành vấn đề.
Cả thế giới đều nói rằng Jesus điên. Cái ngày ông
ấy bị đóng đinh, không có lấy một người... cả nghìn
người đã tụ tập - không người nào bênh vực ông ấy.
Tất cả đều nghĩ ông ấy điên.
Vào thời đó đã thành tục lệ là vào ngày nghỉ đặc
biệt thì một kẻ tội phạm có thể được tha. Hôm đó là
ngày nghỉ và ba người đã bị đóng đinh: hai kẻ cắp và

Jesus. Pontius Pilate đã hỏi mọi người, "Chúng ta có
thể tha thứ cho một trong ba người này. Các vị muốn
người nào được tha thứ?" Ông ta cứ tưởng rằng họ sẽ
đòi hỏi Jesus được tha, nhưng họ đã không đòi hỏi cho
Jesus. Họ đã đòi hỏi tha cho một kẻ cắp - không phải
Jesus mà là kẻ cắp, kẻ cắp nổi tiếng - cả thành phố đều
biết người đó. Nhưng họ đã không thể tha thứ cho con
người hồn nhiên Jesus. Tại sao?
Nhưng Jesus không run. Cả thế giới có thể chống
ông ấy; ông ấy biết Thượng đế là cùng ông ấy. Ông ấy
chết với tâm trí bình thản và yên tĩnh, không bị phân
tán, với lời cầu nguyện trên môi - lời cầu nguyện duy
nhất. Lời nói cuối cùng của Jesus là: "Cha ơi, xin tha
thứ cho họ, bởi vì họ không biết họ đang làm gì.
Amen...." Tha thứ cho họ, vì họ không biết họ đang
làm gì! Họ đang đóng đinh ông ấy, nhưng trái tim ông
ấy đầy từ bi với tất cả những người đó.
Khi bạn biết, bạn biết một cách tuyệt đối thế. Khi
nhận thức xảy ra, nó tối thượng tới mức cho dù cả thế
giới chống điều đó, không tạo ra khác biệt gì cả. Bạn
không cần bất kì sự hợp thức nào từ bất kì ai khác.

**************************************************

#4Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao tôi bao giờ cũng cảm thấy rằng dục và tiền
bằng cách nào đó được nối sâu sắc với nhau?

Nirmal, chúng được nối với nhau đấy. Tiền là
quyền; do đó nó có thể được dùng theo nhiều cách. Có
thể mua được dục, và trong nhiều thời đại điều đó đã là
hoàn cảnh. Vua đã giữ hàng nghìn vợ. Ngay trong thế
kỉ này, thế kỉ hai mươi này, mới ba mươi năm, bốn
mươi năm trước đây thôi, vua của Hyderabad đã có
năm trăm vợ!
Tương truyền rằng Krishna có mười sáu nghìn vợ.
Tôi hay nghĩ rằng thế này thì quá nhiều, nhưng khi tôi
biết rằng vua của Hyderabad có năm trăm vợ mới bốn
mươi năm trước đây, thế thì điều đó không có vẻ quá
nhiều nữa - chỉ ba mươi hai lần lớn hơn thôi! Điều đó
dường như là có thể với con người. Nếu bạn có thể
xoay xở được với năm trăm, sao không với mười sáu
nghìn?
Mọi vua trên thế giới đều làm điều đó. Đàn bà
được dùng như như trâu bò vậy. Trong cung điện của
các vua lớn đàn bà được đánh số. Khó mà nhớ được
tên của họ, cho nên vua có thể nói với người hầu, "đưa
số bốn trăm linh một lên đây" - bởi vì làm sao nhớ
được năm trăm cái tên? Con số... cũng như lính được
đánh số vậy; họ không có tên mà chỉ là con số. Và điều
đó tạo ra nhiều khác biệt lắm.

Con số tuyệt đối có tính toán học. Con số không
thở, chúng không có trái tim nào. Con số không có linh
hồn. Khi người lính chết trong chiến tranh, trên bảng
thông báo bạn đơn giản đọc thấy, "Số 15 đã chết." Bây
giờ, "Số 15 đã chết" là một điều; nếu bạn nói đích xác
tên của người này, điều đó hoàn toàn khác. Thế thì
người đó là người chồng và vợ người đó bây giờ sẽ là
goá phụ; người đó là người bố và đứa con bây giờ sẽ là
kẻ mồ côi; người đó là chỗ dựa duy nhất của bố mẹ già

của mình, bây giờ sẽ không còn chỗ dựa nữa. Gia đình
bị bỏ lại, ánh sáng của gia đình đã biến mất. Nhưng
khi số mười lăm chết, số mười lăm không có vợ, nhớ
lấy; số mười lăm không có con, số mười lăm không có
bố mẹ già. Số mười lăm chỉ là số mười lăm! Và số
mười lăm là thay thế được - người khác sẽ tới và sẽ trở
thành số mười lăm. Nhưng không cá nhân con người
nào là thay thế được. Đó là một thủ đoạn, một thủ đoạn
tâm lí, đem con số gán cho người lính. Nó có ích...
chẳng ai chú ý tới con số biến mất; con số mới cứ tới
tiếp và thay thế cho con số cũ.
Vợ được đánh số, và điều đó tuỳ thuộc vào bạn có
bao nhiêu tiền. Thực ra, vào những ngày xưa ấy, đó là
cách duy nhất để biết một người giầu thế nào; đó là
một loại cách đo. Người đó có bao nhiêu vợ?
Bây giờ, người Hindus, đặc biệt là arya samajis,
chỉ trích Hazrat Mohammed rất nhiều vì có chín vợ -
và họ không nghĩ tới Krishna người có mười sáu nghìn
vợ. Mà ông ấy đâu có phải là ngoại lệ, ông ấy là qui
tắc đấy chứ. Ở nước này, cũng như ở các nước khác,
qua nhiều thời đại, đàn bà đã bị khai thác - và cách
khai thác là tiền! Toàn bộ thế giới đều phải chịu đựng
mãi dâm, điều đó làm mất danh giá con người. Và mãi
dâm là gì? Cô ấy đã bị thu thành cái máy, và bạn có
thể mua cô ấy bằng tiền.
Nhưng nhớ cho rõ rằng vợ bạn không khác nhiều
lắm đâu. Gái mãi dâm cũng giống như xe taxi, còn vợ
bạn giống như xe riêng của bạn vậy thôi, đó là sự dàn
xếp lâu dài. Người nghèo không thể có được sự dàn
xếp lâu dài, họ phải dùng taxi. Người giầu có thể dàn
xếp lâu dài - họ có thể có xe riêng của mình. Và họ
càng giầu, họ càng có thể có nhiều xe.

Tôi biết một người có ba trăm sáu mươi nhăm xe -
mỗi ngày đi một xe. Và người đó có một chiếc xe làm
bằng vàng cứng...
Tiền là quyền, và quyền có thể mua được bất kì cái
gì. Cho nên, Nirmal này, bạn không sai là có cái gì đó
nối giữa dục và tiền.
Một điều nữa phải được hiểu. Người kìm nén dục
trở nên mang tâm trí tiền nhiều hơn, bởi vì tiền trở
thành vật thay thế cho dục. Tiền trở thành tình yêu của
người đó. Nhìn người tham mà xem, người điên vì
tiền: cách người đó chạm vào tờ bạc một trăm ru pi -
người đó chạm chúng cứ như người đó đang vuốt ve
người yêu của mình; cách người đó nhìn vào vàng,
nhìn vào mắt người đó - lãng mạn thế. Ngay cả các
nhà thơ lớn cũng cảm thấy kém cỏi. Tiền đã trở thành
tình yêu của người đó, nữ thần của người đó. Ở Ấn
Độ, mọi người thậm chí còn tôn thờ tiền. Có một ngày
đặc biệt để tôn thờ tiền - tiền thật - tiền giấy và tiền xu,
các đồng ru pi, họ tôn thờ. Người thông minh làm
những việc ngu xuẩn thế!
Dục có thể bị làm lệch hướng đi theo nhiều cách.
Nó có thể trở thành giận nếu bị kìm nén. Do đó người
lính phải bị làm cho thiếu thốn về dục, để cho năng
lượng dục trở thành giận dữ của người đó, cáu bẳn của
người đó, huỷ diệt của người đó để cho người đó có
thể có tính bạo hành hơn là người đó đã từng. Dục có
thể bị làm lệch vào tham vọng. Kìm nén dục: một khi
dục bị kìm nén, bạn có năng lượng sẵn đấy, bạn có thể
rẽ nhánh cho nó sang bất kì hướng nào. Nó có thể trở
thành việc tìm kiếm quyền lực chính trị, nó có thể trở
thành việc tìm kiếm nhiều tiền hơn, nó có thể trở thành

việc tìm kiếm danh vọng, tên tuổi, kính trọng, khổ
hạnh, vân vân.
Con người chỉ có một năng lượng - năng lượng đó
là dục. Không có nhiều năng lượng bên trong bạn. Và
chỉ một năng lượng đã được dùng cho đủ mọi loại
chiều hướng. Nó là năng lượng có tính tiềm năng vô
cùng.
Mọi người theo đuổi tiền với hi vọng rằng khi họ
có nhiều tiền, họ có thể có nhiều dục hơn. Họ có thể có
nhiều đàn bà hay đàn ông đẹp, họ có thể có nhiều thứ
hơn. Tiền cho họ tự do chọn lựa.
Người tự do với tính dục, tính dục của người đó đã
trở thành một hiện tượng được biến đổi, cũng tự do với
tiền, cũng tự do với tham vọng, cũng tự do với ham
muốn nổi tiếng. Ngay lập tức tất cả những điều này
biến mất khỏi cuộc sống người đó. Khoảnh khắc năng
lượng bắt đầu dâng lên, khoảng khắc năng lượng dục
bắt đầu trở thành tình yêu, lời cầu nguyện, thiền, tất cả
những biểu hiện thấp hơn đều biến mất.
Nhưng dục và tiền có liên kết sâu sắc. Ý tưởng của
bạn, Nirmal, có chân lí nào đó trong nó.

Một khách hàng nhỏ bé héo hon trong nhà thổ
được trang hoàng nghe thấy tiếng la từ tầng trên:
"Không! Không phải cách ấy! Em muốn làm theo cách
của em, cách chúng ta làm nó ở Brooklyn. Nên bỏ
cách đó đi! làm theo cách của em hay quên nó đi!"

Bà này trèo lên cầu thang và nhòm vào phòng của
con gái. "Có chuyện gì với con thế, Zelda?" bà ấy nói.
"cứ để anh ấy làm theo cách của anh ấy."

Bà ấy bỏ đi, cô gái nằm ra, và người đàn ông làm
tình với cô ấy theo cách hoàn toàn thường lệ. Cô ta
ngồi dậy, mặc áo choàng vào, châm điếu thuốc và nói,
"Đó là cách của anh, Hymie, hử?"
"Nó thế đấy," anh ta nói một cách tự hào từ trên
giường.
"Đấy là cách anh làm ở Brooklyn sao?"
"Em phải đấy!"
"Vậy khác biệt gì về nó?"
"Ở Brooklyn anh được cái đó mà chẳng vì gì cả."

Mọi người có thể bị ám ảnh với tiền, cũng nhiều
như họ bị ám ảnh với dục. Ám ảnh có thể được dịch
chuyển tới tiền. Nhưng tiền cho bạn quyền mua và bạn
có thể mua bất kì cái gì. Bạn không thể mua được tình
yêu, tất nhiên, nhưng bạn có thể mua được dục. Dục là
hàng hoá, tình yêu thì không.
Bạn không thể mua được lời cầu nguyện, nhưng
bạn có thể mua được tu sĩ. Tu sĩ là hàng hoá - lời cầu
nguyện không phải là hàng hoá. Và cái có thể được
mua là bình thường, trần tục. Cái không thể được mua
là thiêng liêng. Nhớ điều đó: cái thiêng liêng ở bên
ngoài tiền, cái trần tục bao giờ cũng bên trong quyền
lực của tiền.
Và dục là điều trần tục nhất trên thế giới.

Một người đi vào câu lạc bộ đêm - nhà thổ hiện đại
Chicago do công đoàn xã hội đen cai quản, nơi bây giờ
lên qui hoạch hợp lí hoá hơn hình ảnh của nó. Nhà thổ

chiếm các tầng trên của khách sạn chọc trời, và anh ta
được một nữ tiếp viên trẻ đáng yêu đón tiếp trong bộ
đồng phục gợi dục, cô ta cho anh ta ngồi trên chiếc bàn
phỏng vấn bằng gỗ tếch và hỏi anh ta muốn chi bao
nhiêu tiền. Cô ấy giải thích rằng giá cả thay đổi từ năm
đô la cho tới một nghìn đô la, tuỳ theo phẩm chất và số
lượng gái được cần tới. Mọi thứ đều được chiếu trên
hệ thống liên lạc ti vi. Giá cao hơn dành cho tầng thấp
hơn, có trần cao hơn, gương phía trên giường, ba hay
bốn cô gái đồng thời trên giường với bạn, vân vân. Giá
thấp hơn để dành cho vui thú ít hơn, kết thúc với năm
đô la cho một "vú em da đen như than với lỗ mũi to
tướng," như cô tiếp viên trẻ đáng yêu giải thích.
Vị khách hàng nghĩ mãi. "Cô không có cái gì rẻ
hơn năm đô la sao?" cuối cùng anh ta hỏi.
"Tất nhiên có chứ," cô tiếp viên nói. "Tầng thứ bẩy
- vườn trên mái. Một đô la một cú bắn. Tự phục vụ."
Tiền chắc chắn được liên kết với dục, bởi vì dục có
thể được mua. Và bất kì cái gì có thể được mua đều là
một phần của thế giới tiền.
Nhớ một điều: cuộc sống của bạn sẽ vẫn còn trống
rỗng nếu bạn chỉ biết những điều có thể được mua, nếu
bạn chỉ biết những điều có thể được bán. Cuộc sống
của bạn sẽ vẫn còn hoàn toàn vô tích sự nếu quen
thuộc của bạn chỉ là với hàng hoá. Trở nên quen thuộc
với những điều không thể mua được và không thể bán
được đi - thế thì lần đầu tiên bạn sẽ bắt đầu giang rộng
đôi cánh, lần đầu tiên bạn bắt đầu soải cánh bay cao.
Một nhà vua lớn, Bimbisara, tới Mahavira. Ông ấy
đã nghe nói rằng Mahavira đạt tới dhyan - thiền,

samadhi. Theo thuật ngữ Jaina điều đó được gọi là
samayik - trạng thái tối thượng của lời cầu nguyện hay
thiền. Bimbisara có mọi thứ của thế giới này. Ông ấy
trở nên lo âu: "Samayik này là gì vậy? Samadhi này là
gì vậy?" Ông ấy không thể yên lòng được, bởi vì bây
giờ lần đầu tiên ông ấy nhận biết rằng có một điều mà
mình không có - và ông ấy không phải là người vẫn
còn hài lòng khi không có được cái đang xâm chiếm sở
thích của mình.
Ông ấy đi tới vùng núi non, tìm thấy Mahavira, và
nói, "Ông muốn bao nhiêu tiền để trả cho samayik của
ông? Ta tới để mua nó đây. Ta có thể cho ông bất kì
cái gì ông muốn, nhưng cho ta samayik này, samadhi
này, thiền này - đây là gì vậy? Nó ở đâu? Trước hết
cho ta xem nó đã!"
Mahavira ngạc nhiên về toàn bộ ngu xuẩn này của
nhà vua, nhưng ông ấy là người rất lễ phép, mềm
mỏng, duyên dáng. Ông ấy nói, "Ông không cần phải
đi xa thế. Ngay trong kinh đô của ông, ta có một tín đồ
đã đạt tới cùng trạng thái này, và người đó nghèo tới
mức người đó có thể sẵn lòng bán nó. Ta không sẵn
lòng, vì ta không cần tiền bạc gì cả. Ông có thể thấy
đấy, ta trần trụi, ta không cần quần áo nào, ta hoàn
toàn thoả mãn - ta không có nhu cầu nào, cho nên ta sẽ
làm gì với tiền của ông? Cho dù ông có cho ta cả
vương quốc thì ta cũng không định nhận nó đâu. Ta đã
có vương quốc riêng của mình rồi - mà cái đó ta cũng
đã từ bỏ. Ta đã có tất cả những cái ông đã có!"

Và Bimbisara biết điều đó, rằng Mahavira đã có tất
cả và đã từ bỏ, cho nên đâm ra khó thuyết phục con
người này bán. Chắc chắn, tiền chẳng có nghĩa lí gì với

ông ấy cả. Thế là ông ta nói, "Thôi được, người này là
ai vậy? Cho ta địa chỉ người đó."
Và Mahavira bảo ông ấy, "Người đó rất nghèo,
sống trong phần nghèo nhất của thành phố của ông.
Ông có thể chưa bao giờ tới thăm phần đó. Đây là địa
chỉ... ông tới và hỏi người đó. Người đó là thần dân
của ông, người đó có thể bán nó cho ông, và người đó
đang cần tiền lắm. Người đó có vợ và con và cả một
gia đình lớn thực sự nghèo."
Đó là chuyện đùa. Bimbisara quay trở về một cách
hạnh phúc, đi thẳng tới phần nghèo nhất của kinh đô
mình nơi ông ấy chưa bao giờ tới cả. Mọi người không
thể nào tin được vào mắt mình - chiếc xe ngựa vàng
của ông ấy và hàng nghìn lính hộ tống.
Họ dừng trước túp lều của người nghèo này.
Người nghèo này bước ra, chạm chân nhà vua và nói,
"Thần có thể làm được gì? Xin bệ hạ ra lệnh."
Nhà vua nói, "Ta tới để mua cái thứ có tên là
samadhi, thiền, và ta sẵn sàng trả bất kì giá nào ông
yêu cầu."
Người nghèo bắt đầu khóc oà, nước mắt lăn dài
trên đôi gò má, và người đó nói, "Thần rất tiếc. Thần
có thể trao cho bệ hạ cả mạng sống của mình, thần có
thể chết vì bệ hạ ngay bây giờ, thần có thể chặt đầu
mình - nhưng làm sao thần có thể trao cho bệ hạ
samadhi của thần được? Nó là cái không thể bán được,
nó là cái không thể mua được - nó không phải là hàng
hoá chút nào. Nó là trạng thái của tâm thức. Mahavira
phải đã đùa với bệ hạ rồi."

Chừng nào bạn chưa biết điều gì đó mà không thể
được bán và không thể được mua, chừng nào bạn chưa
biết điều gì đó bên ngoài tiền, bạn chưa biết tới cuộc
sống thực. Dục không ở bên ngoài tiền - tình yêu ở bên
ngoài. Biến đổi dục của bạn thành tình yêu, và biến đổi
tình yêu của bạn thành lời cầu nguyện - để cho một
ngày nào đó ngay cả vua như Bimbisara cũng có thể
cảm thấy ghen tị với bạn. Trở thành một Mahavira,
một Phật, trở thành một Christ, một Zarathustra, một
Lão Tử. Chỉ thế thì bạn mới sống, chỉ thế thì bạn mới
biết bí ẩn của cuộc sống!
Tiền và dục là những thứ thấp nhất, và mọi người
đang sống chỉ trong thế giới của tiền và dục - và họ
nghĩ họ đang sống. Họ không sống, họ chỉ sống hờ
hững, họ chỉ đang chết. Đây không phải là cuộc sống.
Cuộc sống có nhiều vương quốc được để lộ ra, kho
báu vô hạn không phải của thế giới này. Cả dục lẫn
tiền đều không thể trao nó cho bạn được. Nhưng bạn
có thể đạt tới nó được.
Bạn có thể dùng năng lượng dục của mình để đạt
tới nó, và bạn có thể dùng sức mạnh của tiền của mình
để đạt tới nó. Tất nhiên, nó không thể được đạt tới
bằng tiền hay bằng dục, nhưng bạn có thể dùng năng
lượng dục của mình, sức mạnh tiền của mình, theo
cách nghệ thuật để cho bạn có thể tạo ra được một
không gian trong đó cõi bên kia có thể giáng xuống.

Tôi không chống dục, và tôi không chống tiền, nhớ
điều đó. Luôn nhớ! Nhưng tôi chắc chắn ủng hộ việc
giúp bạn vượt ra ngoài chúng - tôi chắc chắn ủng hộ
cho việc đi ra ngoài.
Dùng mọi thứ như bước đi. Đừng phủ nhận điều
gì. Nếu bạn có tiền, bạn có thể thiền dễ dàng hơn nhiều

so với người nghèo. Bạn có thể có nhiều thời gian hơn
cho bản thân bạn. Bạn có thể có ngôi đền nhỏ trong
nhà bạn; bạn có thể có vườn, bụi hồng, nơi thiền sẽ dễ
dàng hơn. Bạn có thể cho phép bản thân mình có vài
ngày nghỉ trên núi non, bạn có thể đi vào nơi cô lập và
sống mà không lo nghĩ. Nếu bạn có tiền, dùng nó cho
điều gì đó mà tiền không thể mua được, nhưng với nó
tiền có thể tạo ra không gian.
Năng lượng dục là thứ bị phí hoài nếu nó chỉ bị
giới hạn vào dục, nhưng nó trở thành phúc lành lớn
nếu nó bắt đầu biến đổi phẩm chất của nó: dục không
vì dục - dùng dục như việc giao cảm của tình yêu.
Dùng dục như sự gặp gỡ của hai linh hồn, không chỉ
của hai thân thể. Dùng dục như điệu vũ thiền của năng
lượng của hai người. Và điệu vũ này còn phong phú
hơn nhiều khi đàn ông và đàn bà nhảy múa cùng nhau
- và dục là điều tối thượng trong điệu vũ: hai năng
lượng gặp gỡ, hội nhập, nhảy múa, hân hoan.


Nhưng dùng nó như bàn đạp, như bàn nhảy. Và
khi bạn đạt tới đỉnh của cực thích dục của mình, trở
nên nhận biết về điều đang xảy ra, và bạn sẽ ngạc
nhiên - thời gian đã biến mất, tâm trí đã biến mất, bản
ngã đã biến mất. Trong một khoảnh khắc có im lặng
hoàn toàn. Im lặng này là điều thực!
Im lặng này có thể được đạt tới qua phương tiện
khác nữa, và với ít phí hoài năng lượng. Im lặng này,
vô tâm trí này, vô thời gian này, có thể được đạt tới
qua thiền. Thực ra, nếu một người đi có ý thức vào
kinh nghiệm dục của mình, người đó nhất định trở
thành thiền nhân sớm hay muộn. Ý thức của người đó
về kinh nghiệm dục nhất định làm cho người đó nhận
biết rằng cùng điều đó có thể xảy ra mà không có hoạt

động dục trong nó. Cùng điều đó có thể xảy ra chỉ
bằng việc bản thân bạn ngồi im lặng, không làm gì.
Tâm trí có thể bị loại bỏ, thời gian có thể bị loại bỏ, và
khoảnh khắc bạn vứt bỏ tâm trí và thời gian và bản
ngã, bạn là cực thích.
Cực thích dục là rất tạm thời, và bất kì cái gì tạm
thời đều đem tới thất vọng trong việc đánh thức nó,
đem tới khổ và bất hạnh và buồn và hối hận. Nhưng
phẩm chất của việc là cực thích có thể trở thành sự liên
tục trong bạn, phổ liên tục - nó có thể trở thành chính
hương vị của bạn. Nhưng điều đó là có thể chỉ qua
thiền, không qua một mình dục.
Dùng dục, dùng tiền, dùng thân thể, dùng thế giới,
nhưng chúng ta phải đạt tới Thượng đế. Để Thượng đế
bao giờ cũng còn là mục đích.
Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

#5 Trong rác của lề đường

**Hương của đàn hương,
đỗ quyên, hay nhài,
không thể đi ngược chiều gió.
Nhưng hương của đức hạnh
vẫn đi ngược chiều gió,
xa tới tận cùng thế giới.
Hương của đức hạnh
cao quí hơn nhiều so với
hương của đàn hương, đỗ quyên,
của sen xanh, hay nhài!
Hương của đàn hương hay đỗ quyên
không đi xa.
nhưng hương của đức hạnh
bay lên trời.

Ham muốn chưa bao giờ cắt ngang con đường
của người đức hạnh và thức tỉnh.
Sáng dạ làm cho họ tự do.
Hoa sen mọc duyên dáng làm sao
trong rác rưởi của lề đường.
Hương thuần khiết của nó làm thích thú trái tim.
Đi theo người đã thức tỉnh
và từ trong những người mù
ánh sáng của trí huệ của bạn
sẽ chiếu sáng hoàn toàn bên ngoài.**

Con người không phải là hiện hữu mà chỉ là sự trở
thành. Con người là quá trình, sự trưởng thành, khả
năng, tiềm năng. Còn người vẫn chưa là thực tại. Con
người phải hiện hữu, con người phải đạt tới. Con
người được sinh ra không phải như điều bản chất mà
chỉ như sự tồn tại... một không gian lớn nơi nhiều điều
có thể xảy ra, hay chẳng cái gì có thể xảy ra - mọi điều
đó đều phụ thuộc vào bạn.
Con người phải tạo ra bản thân mình. Con người
không phải là thứ đã được làm sẵn, con người không
được cho sẵn. Và việc sáng tạo phải là tự sáng tạo -
không ai khác có thể làm ra bạn được. Bạn không phải
là một vật, một thứ hàng hoá; bạn không thể được sản
xuất hay chế tạo. Bạn phải tự tạo ra bản thân mình, bạn
phải trở thành được thực tỉnh về phần riêng của mình,
không ai có thể đánh thức bạn dậy được.

Đây là cao thượng của con người, vinh quang của
con người, rằng con người là sinh linh duy nhất trên
trái đất, không chỉ là sinh linh mà còn là tự do để hiện
hữu. Mọi sinh linh khác đều đã bị cố định, theo hình
mẫu. Chúng đem theo bản thiết kế tổng thể, và chúng
đơn giản tuân theo bản thiết kế đó. Vẹt sẽ trở thành
vẹt, chó sẽ trở thành chó, sư tử sẽ trở thành sư tử;
không có chuyện sư tử là ai đó khác. Nhưng với con
người điều liên quan là hỏi liệu người đó có thực sự là
con người không.
Từng con sư tử đều thực sự là sư tử, và từng con
voi cũng là con voi, nhưng con người là dấu chấm hỏi.
Con người có thể là con người, có thể không. Con
người có thể rơi xuống thấp hơn con vật, và con người
có thể vươn cao trên các thần. Trạng thái tối thượng
trên các thần đó là phật tính - thức tỉnh, thức tỉnh tối
thượng, việc nhận ra tiềm năng của bạn trong tính toàn
bộ của nó.
Vị phật ở trên các thần. Đây là một trong những lí
do mà người Hindus đã không thể dung thứ được Phật
Gautama, bởi vì ông ấy nói rằng phật ở trên các thần.
Các thần cũng ngủ; tất nhiên, mơ của họ đẹp, mơ của
họ không phải là ác mộng; họ sống trên cõi trời. Các
kiếp sống của họ chỉ toàn hoan lạc. Cõi trời không là
gì ngoài chủ nghĩa khoái lạc thuần tuý, chính ý tưởng
là khoái lạc. Địa ngục là chính cái đối lập. Địa ngục là
đau đớn, cõi trời là hoan lạc; địa ngục là ác mộng, cõi
trời là mơ dịu ngọt. Nhưng mơ là mơ; dù dịu ngọt hay
cay đắng, không thành vấn đề gì.
Các thần cũng ngủ và mơ những giấc mơ đẹp. Vị
phật thức tỉnh, ông ấy không còn mơ nữa. Kinh sách
Phật giáo nói: Ngày Siddhartha Gautam trở thành phật

các thần từ trên trời tới để tôn sùng ông ấy, để rửa
chân ông ấy. Người Hindus không thể tha thứ được ý
tưởng này, bởi vì với họ các thần ở trên cõi trời - Indra
và các thần khác - đều là tối cao nhất rồi. Và nhìn vào
cao ngạo của Phật tử, những người nói các thần từ cõi
trời tới để rửa chân cho một người.
Phật giáo đã nâng nhân loại lên đỉnh cao nhất của
nó. Không tôn giáo nào khác đã làm điều đó. Con
người trở thành trung tâm của sự tồn tại. Thượng đế
không phải là trung tâm của sự tồn tại, theo Phật, mà
chính là người đã trở nên chứng ngộ. Ngoại vi bao
gồm những người ngủ và mù, và trung tâm bao gồm
những người có mắt, người đã thức tỉnh. Thượng đế
đơn giản bị loại bỏ đi; họ không còn liên quan nữa.
Điều Nietzsche đã làm hai nghìn năm sau, Phật đã làm
rồi.
Một nhà thơ lớn, Chandidas, rất bị ấn tượng bởi
Phật Gautam - và ai không bị ấn tượng bởi con người
này được? Ông ấy đã nói: Sabar upar manus satya,
tahar upar nahin - chân lí của con người là chân lí cao
nhất, không có chân lí nào khác cao hơn cái đó. Nhưng
để tôi nhắc bạn lần nữa: khi Phật nói về con người,
ông ấy nói về người đã chứng ngộ, không về bạn - bạn
chỉ đang trên đường thôi, bạn chỉ đang trong quá trình.
Bạn là hạt mầm.
Hạt mầm có thể có bốn khả năng. Hạt mầm có thể
vẫn còn là hạt mầm mãi mãi, khép kín, không cửa sổ,
không trong giao cảm với sự tồn tại, chết, bởi vì sống
có nghĩa là giao cảm với sự tồn tại. Hạt mầm là chết,
nó chưa được trao đổi với đất, với trời, với khí, với
gió, với mặt trời, với các vì sao. Nó chưa làm nỗ lực
nào để có đối thoại với tất những cái đang tồn tại. Nó

hoàn toàn đơn độc, bị bao vây, bị gói gọn trong bản
thân nó, bị bao quanh bởi Trường Thành Trung Quốc.
Hạt mầm sống trong nấm mồ riêng của nó.
Khả năng thứ nhất là ở chỗ hạt mầm có thể vẫn
còn là hạt mầm. Điều đó là rất không may mắn - con
người có thể vẫn còn đơn giản là hạt mầm. Với mọi
tiềm năng có trong tay bạn, với mọi phúc lành sẵn
sàng mưa rào lên bạn, bạn có thể chẳng bao giờ mở ra
cánh cửa của mình.
Khả năng thứ hai là ở chỗ hạt mầm có thể đủ dũng
cảm, có thể chìm sâu vào trong đất, có thể chết đi như
một bản ngã, có thể vứt bỏ lớp áo giáp của nó, có thể
bắt đầu giao cảm với sự tồn tại, có thể trở thành một
với đất. Dũng cảm lớn được cần tới, bởi vì ai biết
được? - cái chết này có thể là tối hậu, có thể không có
việc sinh theo sau nó nữa. Cái gì là đảm bảo? Không
có đảm bảo nào cả; đó là mạo hiểm. Chỉ vài người thu
được đủ dũng cảm mới dám mạo hiểm, mới dám liều
mạng.
Làm sannyasin là việc bắt đầu của mạo hiểm. Bạn
đang mạo hiểm cuộc đời mình, bạn đang mạo hiểm
bản ngã mình. Bạn đang liều mạng bởi vì bạn đang vứt
bỏ mọi an ninh của mình, mọi thu xếp an toàn cho
mình. Bạn đang mở ra các cửa sổ... ai biết ai sẽ vào -
bạn hay thù? Ai biết? Bạn trở nên mong manh. Đó là
điều tính chất sannyas tất cả là gì. Đó là điều Phật đã
dạy trong cả đời ông ấy. Bốn mươi hai năm liên tục,
biến đổi các hạt mầm thành cây cối - đó là công việc
của ông ấy - biến đổi người thường thành sannyasins.

Sannyasin là cây, mầm mới nhú lên - mềm mại,
tinh tế. Hạt mầm chẳng bao giờ trong nguy hiểm, nhớ
lấy. Nguy hiểm gì có thể có đó cho hạt mầm? Nó được

bảo vệ tuyệt đối. Nhưng cây bao giờ cũng trong nguy
hiểm, cây rất mềm mại. Hạt mầm giống như hòn đá,
cứng rắn, ẩn đằng sau lớp vỏ cứng. Nhưng cây phải
trải qua cả nghìn lẻ một mối nguy. Đó là giai đoạn thứ
hai: hạt mầm tan biến vào trong đất, con người biến
mất như một bản ngã, biến mất như một cá tính, trở
thành cây.
Khả năng thứ ba, thậm chí còn hiếm hoi hơn, bởi
vì không phải mọi cây cối đều đạt tới chiều cao đó nơi
chúng có thể nở hoa, cả nghìn lẻ một hoa... Rất ít
người đạt tới giai đoạn thứ hai, và rất ít trong số những
người đã đạt tới giai đoạn hai, đạt tới giai đoạn ba, giai
đoạn của hoa. Tại sao họ không thể đạt tới giai đoạn
thứ ba, giai đoạn của hoa? Bởi vì tham lam, bởi vì keo
kiệt, họ không sẵn sàng chia sẻ… bởi vì trạng thái
không có tình yêu.
Dũng cảm là cần để trở thành cây, và tình yêu là
cần để trở thành hoa. Hoa nghĩa là cây đang mở trái
tim nó ra, toả ra hương thơm của nó, đem tặng linh
hồn nó, rót sự hiện hữu của nó vào trong sự tồn tại.
Hạt mầm có thể trở thành cây mặc dầu khó vứt vỏ áo
giáp, nhưng theo cách nào đó điều này là đơn giản. Hạt
mầm sẽ chỉ thu lấy ngày một nhiều hơn, tích luỹ ngày
một nhiều hơn; hạt mầm chỉ lấy từ đất. Cây chỉ lấy từ
nước, từ không khí, từ mặt trời; tham lam của nó
không bị quấy rối, mà ngược lại, tham vọng của nó
được hoàn thành. Nó cứ trở nên ngày một lớn hơn.
Nhưng một thời điểm tới khi bạn đã lấy quá nhiều đến
mức bây giờ bạn phải chia sẻ. Bạn đã được ích lợi
nhiều thế, bây giờ bạn phải phục vụ. Thượng đế đã cho
bạn nhiều thế, bây giờ bạn phải cám ơn, phải biết ơn
chứ - và cách duy nhất để biết ơn là làm mưa rào kho
báu của bạn xuống, cho chúng trở với sự tồn tại, hào

phóng như sự tồn tại đã từng hào phóng với bạn. Thế

thì cây phát triển thành hoa, nó nở hoa.

Và giai đoạn thứ tư là giai đoạn của hương thơm.
Hoa vẫn còn thô, nó vẫn còn là vật chất, nhưng hương
thơm là tinh tế, nó gần như cái gì đó phi vật chất. Bạn
không thể thấy được nó, nó là vô hình. Bạn chỉ có thể
ngửi được nó, bạn không thể nắm bắt nó, bạn không
thể ôm được nó. Chính hiểu biết nhạy cảm được cần
tới để có đối thoại với hương thơm. Và bên ngoài
hương thơm chẳng có gì cả. Hương thơm biến mất vào
trong vũ trụ, trở thành một với nó.
Đây là bốn giai đoạn của hạt mầm, và đây là bốn
giai đoạn của con người nữa. Đừng vẫn còn là hạt
mầm. Thu lấy dũng cảm - dũng cảm vứt bỏ bản ngã,
dũng cảm vứt bỏ an ninh, dũng cảm vứt bỏ an toàn,
dũng cảm là mong manh. Nhưng thế thì cũng đừng vẫn
còn là cây, bởi vì cây không hoa nghèo nàn lắm. Cây
không hoa là trống rỗng, cây không hoa là đang thiếu
đi cái gì đó rất tinh tuý. Nó không có cái đẹp - không
tình yêu không có cái đẹp. Và chỉ qua hoa mà cây mới
biểu lộ tình yêu của nó. Nó đã lấy bao nhiêu thứ từ mặt
trời và mặt trăng và từ đất rồi; bây giờ đến lúc nó cho!

Cuộc sống bao giờ cũng phải đạt tới cân bằng. Bạn
đã lấy nhiều rồi, bây giờ cho nó đi. Trở thành hoa đi!
Chỉ khi bạn trở thành hoa mới có khả năng biến mất
như hương thơm. Nhưng thế nữa, nhớ lấy, đừng vẫn
còn là đoá hoa khép kín, đừng vẫn còn là nụ; bằng
không thì hương thơm của bạn sẽ không toả ra được.
Và chừng nào hương thơm của bạn chưa toả ra, bạn
không tự do, bạn vẫn trong tù túng.
Tù túng này Phật gọi là sansara - thế giới. Và ông
ấy gọi tự do, tự do của hương thơm, là niết bàn: dừng

toàn bộ, biến mất, tan biến. Bộ phận biến mất vào
trong toàn thể, giọt sương tuột vào trong đại dương và
trở thành đại dương. Ngày bạn biến mất và trở thành
đại dương là ngày theo một nghĩa nào đó bạn không
còn nữa, và theo nghĩa khác bạn hiện hữu lần đầu tiên
- bạn đã đạt tới tính hiện hữu.
Tính hiện hữu này mới là tính thượng đế thực.
Tính hiện hữu này, kinh nghiệm đại dương kết tinh
này, là giải thoát, cứu rỗi, moksha, kaivalya, niết bàn.
Bạn có thể dùng bất kì từ nào bạn muốn dùng nhưng
chúng tất cả đều mang cùng một nghĩa: tự do tuyệt đối
của linh hồn, không biên giới, không giới hạn.
Lời kinh:

**Hương của đàn hương,
đỗ quyên, hay nhài,
không thể đi ngược chiều gió.**

Hiển nhiên! Hương của đàn hương, đỗ quyên hay
nhài là một phần của thế giới vật chất. Nó chỉ có thể đi
cùng gió, không đi ngược được gió. Nó phải tuân theo
luật của vật chất. Nó là vật chất. Bởi vì nó phải tuân
theo luật của vật chất nên nó không thực sự tự do - tự
do chỉ theo nghĩa tương đối. Hương này tự do hơn hoa,
hoa tự do hơn cây, cây tự do hơn hạt mầm. Nhưng
những tự do này chỉ là tương đối, không tuyệt đối.

Và Phật nói, nhớ lấy: mục tiêu là tự do tuyệt đối,
siêu việt lên trên mọi luật. Chính chỉ trong việc siêu
việt lên trên mọi luật mà bạn sẽ trở thành một phần của
luật tối thượng: Aes dhammo sanantano. Chính chỉ

bằng việc siêu việt lên trên mọi giới hạn của vật chất
thô mà bạn sẽ có khả năng trở thành vô hạn như bầu
trời.
Chừng nào bạn chưa trở thành vũ trụ bạn vẫn chưa
đạt tới tiềm năng của mình. Bạn được ngụ ý trở thành
vũ trụ, và bạn đã trở thành con người nhỏ bé, bị giới
hạn, gần như bạn đang sống trong xà lim tù đày, tối
tăm và ảm đạm, không cửa ra vào, không cửa sổ, sự
tồn tại xấu xí, bị bao quanh bởi đủ mọi loại bệnh hoạn
- bản ngã, tham lam, giận dữ, thèm khát, ghen tị, sở
hữu. Đây là những bạn đồng hành của bạn. Bạn đã
kinh nghiệm hương thơm nào trong cuộc đời?

Bạn chưa biết tới tình yêu không thèm khát. Bạn
chưa biết tới bất kì trạng thái nào nơi không giới hạn
nào tồn tại. Bạn bị trói buộc vào một số luật rất thô.
Bạn là một phần của lực hút, bạn vẫn chưa biết gì về
ân huệ. Bạn cứ đi xuống mãi, bởi vì những luật hút đó
cứ kéo bạn xuống. Bạn không biết cách vươn lên, bay
bổng lên. Bạn không biết gì về bay lên cả.
Trong khoa học, họ không nói về bay lên, họ chỉ
nói về hút, kéo xuống. Nhưng đây là hiện tượng đơn
giản thế cần hiểu, rằng trong tự nhiên mọi thứ đều
được cân bằng bởi cực đối lập của nó. Nếu có lực kéo
xuống, lực hút, sẽ phải có lực kéo lên để cân bằng nó -
đó là bay lên. Theo ngôn ngữ thơ ca hơn nó được gọi
là ân huệ.
Có hai luật: luật hút, luật của đất, thô, vật chất; và
luật của ân huệ, luật thiêng liêng, điều Phật gọi là luật
thiêng liêng - aes dhammo sanantano - luật vĩnh hằng,
không cạn, luật thiêng liêng, cái kéo bạn lên.

**Hương của đàn hương,

đỗ quyên, hay nhài,
không thể đi ngược chiều gió.**

Nó có những giới hạn tuyệt đối nào đó, nó chỉ có
thể cưỡi lên gió. Nó không thể có ý chí riêng của nó,
nó không thực sự tự do. Chừng nào bạn chưa thể tồn
tại trong tự do toàn bộ, cái gì đó vẫn còn thiếu. Nếu
bạn phải tuân theo luật, thế thì bạn là tù nhân. Luật có
thể cho bạn chiếc dây vừa đủ, nhưng dẫu sao bạn vẫn
cứ là tù nhân.
Đó là cách mọi sự là vậy: nếu chiếc dây vừa đủ
được trao cho bạn, bạn quên mất nhà tù. Chẳng hạn,
cái gọi là các quốc gia - Ấn Độ, Pakistan, Nhật Bản,
Đức - đây tất cả đều là những nhà tù lớn, nhưng chúng
lớn tới mức bạn không thể thấy được biên giới nhà tù
của mình. Đi ngang qua biên giới quốc gia mình và
bạn sẽ thấy rằng mình quả là tù nhân. Nhưng nhà tù đủ
lớn; bạn có thể đi trong nhà tù này tới bất kì chỗ nào
bạn muốn. Nhưng cứ bước ra khỏi nhà tù này, thử đi
vào nhà tù khác mà xem, và thế thì bạn sẽ thấy giới
hạn.
Đây là những nhà tù nhân tạo; đủ lớn đến mức
chúng có thể cho bạn cảm giác giả tạo về tự do, nhưng
không có tự do. Chừng nào mọi quốc gia chưa biến
mất khỏi thế giới, trái đất sẽ vẫn còn là nô lệ, nhân loại
sẽ vẫn còn trong tù, nhỏ hay lớn. Nhưng không khác
biệt gì việc nhà tù rất lớn và bạn không thể nào thấy
được bức tường bao quanh nó... Bức tường có thể rất
tinh vi - về hộ chiếu hay visa - bức tường có thể rất
tinh vi, bạn có thể không thấy chúng, nhưng chúng có
đó. Bạn không được tự do di chuyển.

Gần như mọi hiến pháp của thế giới đều nói rằng
tự do di chuyển là quyền tập ấm của mọi người, nhưng
điều đó chỉ được viết trong sách vở, điều đó là không
đúng. Bạn không thể di chuyển tự do được. Nếu bạn
muốn sang Nga, không thể được; nếu bạn muốn vào
Trung Quốc, không thể được.
Các quốc gia đã trở thành những nhà tù lớn thế, và
các tổng thống của bạn và cái gọi là các thủ tướng của
bạn tất cả đều không là gì khác hơn các cai tù. Những
người vẫn nói về tự do không là gì khác hơn cảnh sát.
Họ nói họ đang canh gác cho sự an toàn riêng của bạn,
nhưng thực ra họ là cai tù đang theo dõi để bạn không
thể trốn thoát được.

Tôi đã nghe:
Một ông già Nga sắp chết, và ông ấy nghe tiếng gõ
trên cửa. Ông ấy hỏi, "Ai đấy?"

Và một giọng nói rất ma quỉ cất lên, "Thần chết."
Ông già Nga nói, "Cám ơn Thượng đế! Tôi cứ
tưởng đấy là cảnh sát chìm."

Và có những nhà tù bên trong nhà tù kiểu như cái
hộp Trung Quốc - hộp bên trong hộp... Ấn Độ là một
nhà tù lớn; thế rồi có người Hindus và người Mô ha
mét giáo và người Ki tô giáo và người Sikhs và người
Jainas và Phật tử - bây giờ đây là những nhà tù nhỏ.
Người Ki tô giáo có thể đi nhà thờ, người đó không thể
tới đền thờ được; người Hindu có thể tới đền thờ,
người đó không thể tới nhà thờ. Người đó đã được dạy
và được ước định rằng nhà thờ không phải là chỗ có

tính tôn giáo; người Ki tô giáo đã được bảo rằng nhà
thờ là chỗ đúng duy nhất để tới - mọi tôn giáo khác
đều là sai, và mọi tôn giáo khác đều dẫn bạn đi lạc lối.
Chừng nào bạn chưa là người Ki tô giáo bạn không thể
được cứu. Và thế rồi trong Ki tô giáo có Cơ đốc giáo
và Tin lành, và trong Tin lành và Cơ đốc giáo có
những giáo phái con ngày một nhỏ hơn. Và nhà tù trở
thành ngày một nhỏ hơn.
Rồi có các nhà tù chính trị: ai đó là người cộng sản
và ai đó là người xã hội, và ai đó là người tư bản... vân
vân và vân vân. Và bạn không thoả mãn ngay cả với
những điều này: thế rồi bạn làm ra câu lạc bộ Rotary,
câu lạc bộ Lions... Khát khao của bạn để là tù nhân
mạnh tới mức bạn không thể đơn giản là một con
người được. Bạn phải là một người của Rotary và bạn
tự hào tuyên bố, "Tôi là người của Rotary,"

"Tôi là người của Lion." Bạn không được thoả
mãn với việc đơn giản là một con người, bạn phải là
người của Lion. Và thế rồi có những ngăn còn nhỏ hơn
nữa.
Thay vì chui ra khỏi những xà lim nhà tù này,
chúng ta cứ trang hoàng cho chúng, chúng ta cứ làm
cho chúng ngày một tiện nghi hơn. Chúng ta đang
sống dưới luật hút, chúng ta đang sống như tù nhân.
Chúng ta không thể đi ngược chiều gió được - cuộc
sống chúng ta là thô. Phật nói: nhận biết về điều đó:
ông đang làm gì với cuộc sống của ông? Cân nhắc lại,
thiền về nó, điều bạn đã làm cho bản thân mình.

**Nhưng hương của đức hạnh
vẫn đi ngược chiều gió,
xa tới tận cùng thế giới.**

Phật nói: Nhưng có việc nở hoa của bản thể bên
trong của bạn, cái đẹp hơn cả đàn hương, đỗ quyên hay
nhài. Cái đẹp của nó là tự do tuyệt đối của nó. Nó có
thể đi ngược chiều gió. Người đức hạnh thực sự sống
trong tự do; người đó không tuân theo điều răn dạy
nào, người đó không tuân theo kinh sách nào, người đó
không tuân theo bất kì ai khác ngoài ánh sáng bên
trong riêng của mình. Người đó sống theo trái tim của
mình - người đó là người nổi dậy.
Nhưng Phật đang nói về hương của đức hạnh thật.
Ông ấy không nói về cái gọi là chính đáng, ông ấy
không nói về cái gọi là "con người có cá tính", cái gọi
là các thánh nhân và mahatma của bạn - ông ấy không
nói về họ. Họ không phải là người tự do. Thực ra,
hương của đàn hương, đỗ quyên và nhài còn tự do hơn
nhiều cái gọi là các thánh nhân của bạn. Họ sống theo
các luật nhân tạo. Hương của đàn hương, hương của
các loại hoa, ít nhất cũng tuân theo các luật của tự
nhiên. Nhưng các thánh nhân của bạn, cái gọi là những
người đức hạnh của bạn, họ tuân theo luật nhân tạo -
luật do những kẻ mù làm ra, luật do những người dốt
nát làm ra, luật do những người chưa thức tỉnh làm ra,
những người không biết gì về nhận biết cả.

Ai làm ra luật của bạn? Ai làm ra Hiến pháp của
bạn? Ai chịu trách nhiệm cai quản xã hội và thu xếp và
quản lí xã hội? Chính những người mù như bạn, có thể
có học hơn, có thể có hiểu biết hơn. Nhưng không có
gì khác biệt liệu người mù có hiểu biết hơn về ánh
sáng hay ít hiểu biết hơn về ánh sáng - người mù là
người mù. Quan sát các thánh nhân của bạn mà xem,
và bạn sẽ ngạc nhiên! - họ sống tù túng sâu hơn nhiều
so với người thường.

Một sư Jaina muốn tới gặp tôi. Ông ta gửi một
thông điệp rằng ông ta đã từng khao khát gặp tôi trong
nhiều năm, và bây giờ ông ấy ở trong thành phố này và
ông ấy muốn gặp tôi. Nhưng các tín đồ của ông ấy
không cho phép ông ấy, người Jainas không cho phép
ông ấy tới công xã này. Bây giờ người này là loại
thánh nhân gì mà các tín đồ quyết định được nơi ông
ấy phải đi và nơi ông ấy phải không đi? Nhưng có thu
xếp lẫn nhau: các tín đồ gọi ông ấy là thánh nhân, họ
tôn thờ ông ấy, bây giờ ông ấy phải nhân nhượng, thoả
hiệp. Ông ấy phải theo các tín đồ.
Cái gọi là các thánh nhân và người lãnh đạo của
bạn đều là tín đồ của các tín đồ của riêng họ. Đó là
một thế giới ngu xuẩn thế, nực cười thế, toàn thể tình
huống này. Trên bề mặt dường như là các thánh nhân
là nhân tố quyết định; ông ấy cho mọi người lời
khuyên để theo ông ấy. Nhưng nếu bạn nhìn sâu xuống
dưới, bạn sẽ ngạc nhiên - ông thánh này đang tuân theo
các tín đồ riêng của mình. Thực ra, họ quyết định. Và
họ có quyền lực quyết định bởi vì họ có thể tôn thờ
bạn và họ có thể sỉ nhục bạn. Họ có thể tôn thờ bạn
nếu bạn theo họ, nếu bạn đi theo các ý tưởng, định
kiến mà họ đang mang trong tâm trí họ; bằng không
bạn không còn là thánh nhân nữa. Họ có thể hạ bệ bạn
- họ có quyền đưa bạn lên tới bậc thánh hay hạ bệ bạn
xuống thành tội nhân. Nếu bạn muốn là thánh nhân
bạn phải tuân theo đủ mọi loại ngu xuẩn. Bạn có thể
biết sâu bên dưới rằng điều này là ngu xuẩn.

Tôi đã gửi cho ông ấy một thông điệp nói, "Điều
này là ngu xuẩn, lố bịch! Sao ông phải hỏi tín đồ của
ông? Tín đồ là ai, ông hay họ? Sao ông phải hỏi họ?"

Ông ấy nói, "Thầy phải đấy, nhưng tôi phải phụ
thuộc vào họ. Vào tuổi tôi đây, tôi không thể rời bỏ
được họ bởi vì tôi chưa bao giờ làm việc trong đời
mình. Tôi bị phụ thuộc vào họ từ thức ăn, quần áo, mọi
thứ."
Bây giờ bạn thấy thu xếp đấy. Điều này được gọi
là tâm linh, và việc thu xếp là tài chính!
Người đức hạnh thực sự chắc chắn tự do, và tự do
tới mức người đó có thể đi ngược chiều gió, người đó
có thể đi ngược toàn thể xã hội, người đó có thể đi
ngược toàn thể quá khứ, người đó có thể đi ngược mọi
tập tục. Thực ra người đó làm vậy - bởi vì đi ngược
mọi tập tục và quá khứ chết người đó xác nhận tự do
của mình.
Chính bởi vì điều này mà tôi bị kết án trên khắp
nước này và bây giờ, dần dần trên khắp thế giới. Lí do
duy nhất là ở chỗ họ muốn tôi đi cùng chiều gió, họ
muốn tôi chính thống, theo tập tục. Họ sẵn sàng tôn
thờ tôi, họ đã nhiều lần tới tôi nói rằng nếu tôi có thể
đơn giản tuân theo tôn giáo truyền thống thì họ sẽ tôn
thờ tôi như thánh nhân. Tôi nói, "Tôi không quan tâm
tới việc được tôn thờ hay là thánh nhân. Tôi đơn giản
muốn là bản thân mình. Và tôi không định thoả hiệp
với bất kì ai, dù người đó là ai. Thoả hiệp không phải
là cách thức của tôi."
Bởi vì tôi đi ngược chiều gió nên họ bực mình
lắm. Nhưng nếu bạn mà đức hạnh... và đức hạnh là gì?
Nó không phải là cá tính nào đó được trau dồi từ bên
ngoài. Đức hạnh là hương thơm của tính thiền, đức
hạnh là hương thơm của hoa của thiền; do đó, tôi nói
nó không phải là ngay thẳng đạo đức, nó không là đạo
đức.

Tôi đã nghe:
Gái điếm thành phố ở Jerusalem bị ném đá. Khi
Jesus nói, "Để ai trong số các vị không có tội lỗi nào
ném hòn đá đầu tiên," một bà già lẩy bẩy mang một
hòn đá lớn, thả nó vào đầu gái điếm và lên tiếng chê
bai con mụ dâm đãng.
Jesus nhìn xuống và nói, "Bà biết đấy, thưa mẹ,
đôi khi bà thực sự làm tôi bực mình."

Người ngay thẳng, người đạo đức, người khắt khe
đạo đức bao giờ cũng sẵn sàng... thực ra toàn thể vui
vẻ của người đó là làm sao lên án, làm sao tống ngày
một nhiều người xuống địa ngục, làm sao đóng đinh
mọi người, làm sao giết và phá huỷ. Người đó thực sự
khổ sở, người đó thực sự là tự bạo, người đó thực sự
trải qua đủ mọi loại khổ hạnh ngu xuẩn, chỉ để tận
hưởng cảm giác của tính cao siêu, cảm giác của việc
đạo đức hơn người khác, cảm giác rằng "Các ông tất
cả đều là tội nhân còn ta đây là thánh nhân."

Vị thánh thực có phẩm chất hoàn toàn khác. Ông
ấy không đạo đức; ông ấy biết cách tha thứ, bởi vì ông
ấy biết Thượng đế đã tha thứ cho ông ấy nhiều thế.
Ông ấy biết những giới hạn của con người, bởi vì bản
thân ông ấy đã chịu đựng qua những giới hạn con
người đó. Ông ấy có thể tha thứ. Ông ấy hiểu biết.

Người đạo đức không bao giờ hiểu, người đó
không bao giờ tha thứ; người đó không thể tha thứ
được bởi vì người đó đã từng hà khắc với bản thân
mình. Người đó đã đạt tới cái gọi là tính cách của mình
với những khó khăn đến mức vui vẻ duy nhất, thoải

mái duy nhất người đó có thể có được là ở việc đạo
đức hơn bạn. Làm sao người đó có thể tha thứ được?
Nếu người đó tha thứ thế thì người đó không thể tận
hưởng cuộc hành trình bản ngã mà người đó đang đi.

Người khổ hạnh là người bản ngã nhất trên thế
giới. Người đức hạnh không phải là người khổ hạnh.

Câu chuyện này được kể về bản thân Phật:
Trong sáu năm khi ông ấy rời bỏ cung điện của
mình ông ấy đã sống qua những cách khổ hạnh lớn lao
- đó là cách thức truyền thống của việc tìm kiếm chân
lí. Ông ấy đã hành hạ thân thể mình, ông ấy nhịn ăn,
ông ấy nhịn ăn tới mức tương truyền ông ấy trở nên
gầy còm giơ xương; bạn có thể đếm được các xương
sườn của ông ấy. Ông ấy trở thành khẳng khiu đến
mức dạ dầy ông ấy dính lưng - chẳng có gì còn giữa dạ
dày và lưng cả. Ông ấy trở nên yếu đến mức ông ấy
không thể vượt qua được con sông nhỏ, sông
Niranjana. Tôi đã từng tới chỗ đó để xem. Sông
Niranjana là con sông nhỏ, và lúc đó không phải là
mùa mưa, nhưng ông ấy đã không thể vượt qua sông
được, ông ấy không thể bơi qua sông được. Ông ấy
phải cực kì yếu.
Hôm đó, một khải lộ lớn lao đã xảy ra cho ông ấy:
"Mình đã làm những việc bạo hành không cần thiết
cho bản thân mình." Ông ấy có năm tín đồ; họ tất cả
đều là người khổ hạnh và họ đã trở thành tín đồ của
Phật bởi vì ông ấy đi xa trước họ. Họ chỉ có thể làm
chừng đó, nhưng ông ấy đã làm nhiều lần hơn; do đó
họ mới là tín đồ. Tối hôm đó Phật quyết định, "Hành
hạ thân thể là ngu xuẩn, và làm sao các ông đạt tới

được linh hồn bằng việc hành hạ thân thể? Dường như
chẳng có mối quan hệ logic nào." Và ông ấy thấy,
"Nếu ta thậm chí không thể vượt qua được con sông
này, con sông Niranjana bé tẹo, làm sao ta vượt qua
được đại dương thế giới khổng lồ này? Thân thể cần
thức ăn, thân thể cần nuôi dưỡng, thân thể cần sức
mạnh, để cho ta có thể thiền, để cho ta có thể suy tư,
để cho ta có thể truy tìm, với y mê, nhiệt tình, nghị
lực."
Ông ấy quyết định vứt bỏ mọi khổ hạnh. Năm tín
đồ của ông ấy lập tức rời bỏ ông ấy. Họ nói, "Gautam
đã sa ngã khỏi trạng thái thiêng liêng của ông ấy, ông
ấy không còn là thánh nhân nữa." Họ bỏ ông ấy ngay
lập tức; họ không ở cùng ông ấy nữa. Họ đã ở với ông
ấy chỉ vì phong cách sống tự bạo của ông ấy - bản thân
họ cũng phải là những kẻ tự bạo.
Và Phật Gautam đã trở nên chứng ngộ ngày hôm
sau. Vứt bỏ mọi khổ hạnh, vứt bỏ mọi xung đột bên
trong không cần thiết, cuộc nội chiến đó, ông ấy đã trở
nên yên tĩnh, im lặng tới mức sáng hôm sau ông ấy có
thể thấy, ông ấy đã trở nên cảm nhận. Trong im lặng
của mình, mọi rối loạn, mọi tán gẫu đều biến mất. Vào
sáng sớm khi mặt trời lên, ông ấy bắt đầu vươn lên bên
trong bản thể mình. Ông ấy đã thức tỉnh, ông ấy đã trở
thành vị phật.
Đức hạnh bắt nguồn từ im lặng, từ tính thiền, từ
thảnh thơi - không từ nỗ lực, không từ căng thẳng,
không từ vật lộn. Ông ấy đã đi tìm năm tín đồ cũ của
mình để cho họ thông điệp: "Đừng tự hành hạ mình
nữa. Điều này chẳng liên quan gì tới điều thiêng liêng
cả. Điều này chẳng liên quan gì tới tôn giáo cả."

Thiền phải xảy ra trước hết, thế rồi tính cách tới
như cái bóng của nó. Và nếu thiền không xảy ra, thế
thì tính cách của bạn chỉ là thói đạo đức giả chứ không
là gì khác. Thánh nhân của bạn là những kẻ đạo đức
giả lớn; họ nói điều này, họ nghĩ điều khác, có thể là
cái đối lập. Họ làm điều này, nhưng họ muốn làm điều
gì đó đích xác đối lập lại. Trên bề mặt họ biểu lộ điều
này, nhưng sâu bên dưới họ là chính điều tương phản
lại.

Một cô gái thú tội rằng cô ấy đã để cho bạn trai để
tay lên đầu gối mình. "Và đấy là tất cả những gì anh ta
đã làm sao?" linh mục hỏi.
"Không. Anh ấy luồn ngón tay vào dưới dây chun
si lip con nữa."
"Thế rồi sao?"
"Thế rồi anh ấy rẽ chỗ lông tơ của con và bắt đầu
mơn trớn chỗ thích thích của con."
"Rồi sao? Rồi sao?"
"Thế rồi mẹ con bước vào."
"Ô, cứt thật!" linh mục nói.

Những linh mục này, những thánh nhân này, họ
còn xấu hơn bạn nhiều, xấu hơn bạn đã từng có thể là
vậy nhiều, bởi vì họ chia chẻ nhiều hơn, phân chia
nhiều hơn. Họ bị kìm nén nhiều tới mức phần ý thức
và vô ý thức của họ đã rời nhau ra. Họ thuyết giảng
điều này, họ thực hành điều khác. Tại cửa trước nhà họ
bạn sẽ thấy người này, tại cửa sau bạn sẽ thấy một

người hoàn toàn khác. Bạn thậm chí sẽ không có khả
năng nhận ra được họ - họ đeo mặt nạ.

Những người này không phải là người đức hạnh.
Phật không nói về đức hạnh như vậy, ông ấy nói về
đức hạnh nảy sinh từ việc nở hoa của thiền. Phật nhấn
mạnh vào dhyan - thiền. Đó là đóng góp cơ bản của
ông ấy cho thế giới. Cách tiếp cận nền tảng nhất của
ông ấy là ở chỗ trước hết bạn phải trở nên thức tỉnh tại
trung tâm, thế rồi chu vi của bạn sẽ tràn đầy ánh sáng -
theo cách riêng của nó, không ngược lại.

Bạn đã được các linh mục bảo trước hết thực hành
tính cách, và thế rồi trung tâm của bạn sẽ thay đổi.
Điều đó là vô nghĩa. Trung tâm không bao giờ có thể
theo chu vi được, bởi vì trung tâm còn quan trọng hơn
nhiều, cơ sở hơn nhiều - nó là trung tâm, nó không thể
đi theo chu vi được. Nhưng chu vi bao giờ cũng đi
theo trung tâm. Biến đổi trung tâm đầu tiên đi, và đừng
lo nghĩ về chu vi. Đó là nhấn mạnh của tôi nữa, tại đó
tôi tuyệt đối đồng ý với Phật. Thiền trước hết, và thế
rồi tất cả những cái khác sẽ theo sau bằng cách riêng
của nó.
Jesus nói: tìm kiếm vương quốc của Thượng đế
trước, và tất cả những cái khác sẽ được thêm vào cho
ông.
Điều Jesus nói bằng "vương quốc của Thượng đế"
thì Phật nói bằng "thiền." Lời của Phật khoa học hơn
nhiều so với lời của Jesus. Jesus nhiều tính nhà thơ
hơn Phật; Jesus nói nhiều theo kiểu cách ngôn hơn
Phật. Phật nói theo cách rõ ràng, logic, toán học. Ông
ấy là người không muốn nói bất kì cái gì theo bất kì
cách nào có thể được diễn giải theo nhiều cách. Ông ấy
không muốn dùng thơ ca, bởi vì thơ ca là mơ hồ, có

thể có nhiều diễn giải. Ông ấy nói như nhà toán học,
ông ấy nói như nhà logic, để cho từng lời có nghĩa cố
định và hàm ý cố định.

**Nhưng hương của đức hạnh
vẫn đi ngược chiều gió,
xa tới tận cùng thế giới.
Hương của đức hạnh
cao quí hơn nhiều so với
hương của đàn hương, đỗ quyên,
của sen xanh, hay nhài!**

Hương của sen xanh hay nhài hay đàn hương là
thơm ngát, dịu, nhưng so với hương của đức hạnh thì
nó rất thô. Đức hạnh thực sự có hương thơm, và hương
này đi tới những góc xa xôi nhất của thế giới.

Làm sao bạn đã tới đây với tôi? Từ những góc
khác nhau của thế giới bạn đã du hành, đôi khi không
thật đích xác rõ ràng vì sao; nhưng cái gì đó đã kéo
bạn đi, lực vô hình nào đó đã làm xúc động trái tim
bạn, cái gì đó đã được cảm thấy từ cốt lõi sâu thẳm
nhất của bản thể bạn. Đôi khi bạn thậm chí đã tới
ngược với chính bản thân mình. Tâm trí của bạn nói,
"Đừng đi! Không cần đi đâu cả." Dầu vậy bạn đã tới.
Bạn phải đã ngửi thấy mùi thơm - mùi thơm này chẳng
liên quan gì tới cái thấy được. Nó là hiện tượng vô
hình.
Nhiều, nhiều người nữa sẽ sớm tới. Hương thơm
đang vươn tới họ, nhất định tới. Bất kì ai ở bất kì đâu,
người thực sự đang đi tìm chân lí đều nhất định tới.
Điều đó không thể cưỡng được, điều đó phải xảy ra.

Đó là cách nó đã xảy ra qua nhiều thời đại. Hàng nghìn

người đã du hành tới Phật, hàng nghìn người đã du
hành tới Mahavira, tới Lão Tử, tới Zarathustra - chẳng
bởi lí do nào cả, bởi vì bất kì điều gì họ đã nói đều có
trong kinh sách.
Điều tôi đang nói đây bạn có thể đọc trong
Bhagavadgita, trong Kinh Thánh, trong Koran, trong
Dhammapada, điều tôi đang nói bạn có thể dễ dàng
tìm thấy trong Upanishads, trong Đạo Đức Kinh -
nhưng bạn sẽ không tìm thấy hương thơm. Đấy là hoa
- cũ, chết, khô héo. Bạn có thể kẹp giữ bông hồng
trong cuốn Kinh Thánh của mình; chẳng mấy chốc nó
sẽ khô đi, hương thơm sẽ bay đi, nó sẽ chỉ là cái xác,
một kỉ niệm về hoa thực. Kinh sách cũng vậy. Chúng
được làm sống lại lần nữa bởi vị phật khác; bằng
không chúng không thể thở được.
Đó là lí do tại sao tôi đang nói về Dhammapada,
về Gita, về Kinh Thánh - để cho chúng thở lần nữa.
Tôi có thể thổi cuộc sống vào trong chúng. Tôi có thể
chia sẻ hương của tôi với chúng, tôi có thể rót hương
của tôi vào chúng. Do đó, người Ki tô giáo, người thực
sự là người Ki tô giáo, không chỉ bởi những ước định
xã hội mà bởi vì tình yêu lớn lao với Christ, người đó
sẽ thấy Christ sống lại trong lời tôi. Hay nếu ai đó là
phật tử người đó sẽ thấy trong lời tôi Phật đang nói lại
- theo ngôn ngữ của thế kỉ hai mươi, với những người
của thế kỉ hai mươi.
Hương của đức hạnh cao quí hơn nhiều so với
hương của đàn hương, đỗ quyên, của sen xanh, hay
nhài! Nó thơm dịu thế, nó có thể đi ngược chiều gió,
nó có thể đi ngược mọi luật. Nó có thể đi ngược lực
hút, nó có thể vươn lên cao, nó có thể đạt tới những
bầu trời cao nhất.

**Hương của đàn hương hay đỗ quyên
không đi xa.
nhưng hương của đức hạnh
bay lên trời.**

Hương của hoa không thể đi xa được. Nó là nhất
thời, nó là hữu hạn; nó có thể lan đi chừng mực nào đó
thế rồi nó biến mất. Nhưng hương của phật tính có thể
đi tới chính tận cùng của thế giới bởi vì nó vô hạn, và
nó là cái gì đó bên ngoài thời gian, bên ngoài không
gian. Thực ra, ngay cả khi thân của vị phật mất rồi,
hương thơm vẫn tiếp tục du hành.
Những người thực sự cảm nhận, nhạy cảm, có thể
bắt giữ được nó ngay cả khi vị phật đã qua hàng thế kỉ.
Có khả năng là người đương đại của Phật ngay cả bây
giờ, vẫn có thể có giao cảm với Jesus ngay cả bây giờ.
Đoá hoa không còn nữa, nhưng hương thơm đã trở
thành một phần của vũ trụ - cây có nó, gió có nó, mây
có nó. Bây giờ Jesus không trong thân thể vật lí, nhưng
Jesus đã trở thành vũ trụ. Nếu bạn biết cách uống từ vũ
trụ này, nếu bạn biết cách tiếp xúc với vũ trụ, bạn sẽ
ngạc nhiên: tất cả chư phật đều trở thành sống vì họ là
mọi thời đại, thời gian không tạo ra khác biệt.

Đó là toàn thể nỗ lực của tôi ở đây: để làm cho bạn
thành người đương đại của Jesus, của Phật, của
Zarathustra, của Lão Tử. Nếu bạn có thể là người
đương đại của những linh hồn thức tỉnh này, phỏng có
ích gì mà còn đương đại với thế giới bình thường của
bạn cùng những công dân bình thường của nó, cái gọi
là con người, những người chẳng có tính người gì
trong họ, những người vẫn chưa trở thành sinh linh,
những người chỉ là lỗ hổng, trống rỗng, vô nghĩa?

Phỏng có ích gì mà sống bên cạnh những xà lim trống
rỗng khi bạn có thể ở bên cạnh Phật Gautama?
Vâng, điều đó là có thể - điều đó là có thể bởi việc
siêu việt lên trên thời gian và không gian. Và trong
thiền bạn siêu việt lên trên cả hai. Trong thiền bạn
không biết mình ở đâu, bạn không biết thời gian, bạn
không biết không gian. Trong thiền, thời gian và
không gian cả hai đều biến mất - bạn đơn giản hiện
hữu.
Khoảnh khắc đó, khi bạn đơn giản hiện hữu, Phật
ở ngay bên cạnh bạn; bạn được bao quanh bởi chư
phật của mọi thời đại. Bạn sẽ sống lần đầu tiên một
cuộc sống xứng đáng để sống, một cuộc sống có ý
nghĩa: khi bạn có thể cầm tay chư phật và các krishnas,
khi bạn có thể nhảy múa cùng Krishna và hát cùng
Meera và ngồi cùng Kabir. Điều đó là có thể - bởi vì
chỉ hoa đã biến mất, nhưng hương thơm là vĩnh hằng.
Nó không thể biến mất được.
Và thế thì mọi kinh sách trở thành sống cho bạn.
Thế thì đọc Kinh Thánh, bạn không chỉ đọc một cuốn
sách - thế thì Moses nói với bạn, Abraham nói với bạn,
Jesus nói với bạn, mặt đối mặt!

**Ham muốn chưa bao giờ cắt ngang con đường
của người đức hạnh và thức tỉnh.
Sáng dạ làm cho họ tự do.**

Ham muốn nghĩa là tham lam để được ngày một
nhiều hơn. Ham muốn nghĩa là không hài lòng, không
hài lòng với cái đang đó, không hài lòng với hiện tại;
do đó bạn tìm kiếm mãn nguyện trong hi vọng vào
tương lai. Hôm nay là trống rỗng; bạn có thể sống chỉ

bằng hi vọng vào ngày mai. Ngày mai sẽ đem tới cái gì
đó... mặc dầu nhiều ngày mai đã tới rồi đi mà cái gì đó
kia vẫn chẳng bao giờ xảy ra, nhưng bạn cứ hi vọng
tựa vào hi vọng mãi. Chỉ cái chết sẽ tới.
Ham muốn chưa bao giờ được hoàn thành cả.
Trong chính bản chất của mọi sự chúng không thể
được hoàn thành. Người thức tỉnh nhìn vào trong tâm
trí ham muốn và cười to. Tâm trí ham muốn là tâm trí
ngu xuẩn nhất, bởi vì nó ham muốn cái gì đó mà
không thể được hoàn thành trong chính bản chất của
mọi sự. Cũng như bạn không thể lấy được dầu từ cát -
bạn có thể cứ làm việc mãi trên cát, nhưng bạn sẽ
không lấy được dầu từ nó, nó không tồn tại trong cát,
điều đó là không thể được - đích xác giống thế, ham
muốn chỉ là lừa dối.
Nó giữ cho bạn bận bịu - hiển nhiên, đó là toàn thể
chủ định của nó - nó giữ cho bạn bận bịu, nó giữ cho
bạn hi vọng, nó cứ hứa hẹn với bạn. Ham muốn là
chính khách: nó cứ hứa với bạn, "Đợi chút - thêm năm
năm nữa và mọi thứ sẽ tuyệt đối đúng. Chỉ cần năm
năm nữa thôi và thế giới sẽ trở thành thiên đường." Và
các chính khách đã nói điều đó từ hàng nghìn năm. Và
nhìn vào nhân loại không thông minh mà xem: nó vẫn
cứ tin vào các chính khách. Nó thay đổi các chính
khách; nó trở nên nhàm chán người này, nó bắt đầu
nghe người khác. Nhưng điều đó không phải là thay
đổi chút nào. Chính khách này được thay thế bởi chính
khách khác; do đó các nền dân chủ sống như hệ thống
hai đảng.
Đảng này nắm quyền trong năm năm; tương ứng
với những lời hứa bạn cứ thế mà hi vọng, thế rồi bạn bị
thất vọng - chẳng cái gì xảy ra cả. Mọi sự còn tồi tệ

hơn chúng trước đây. Nhưng đến lần này, đảng không
nắm quyền kia bắt đầu hứa hẹn với bạn. Và điều ngu
xuẩn là bạn bắt đầu tin vào đảng kia. Bạn đưa đảng kia
lên nắm quyền; trong năm năm nó sẽ lừa bạn. Đến lúc
đó đảng đầu mà đã lừa bạn trước đây lại trở thành
đáng khen; lần nữa nó lại thu được lòng tin, lần nữa nó
đã phê bình đang cầm quyền và lần nữa nó đã lại thu
được kính trọng trong mắt bạn. Và lần nữa nó lại
khuấy động tâm trí hi vọng của bạn. Và kí ức của mọi
người là rất thiển cận; do đó các chính khách cứ thế
mà đánh lừa.
Ham muốn là chính khách. Ham muốn này giữ cho
bạn bận bịu trong nhiều năm; thế rồi, thất vọng trong
tay, bạn chán ngán về nó, mòn mỏi về nó, bạn vứt nó
đi - nhưng ngay lập tức bạn đi vào trong ham muốn
khác. Chính khách khác đang đợi bạn. Bạn chạy theo
tiền; rồi chán ngán, bạn quên mất tất cả về nó và bạn
bắt đầu xô theo quyền hay danh.
Ham muốn tinh ranh tới mức nó thậm chí có thể
lấy dạng tôn giáo, nó có thể trở thành có tính tôn giáo.
Nó sẵn sàng đeo bất kì mặt nạ nào. Nó có thể bắt đầu
nghĩ về cõi trời và các thú vui cõi trời. Nó có thể cho
bạn ý tưởng rằng kiếp sống này điều đó là không thể
được, nhưng kiếp sống tiếp bạn sẽ trên thiên đường, và
ở thiên đường thì có đủ mọi loại thoả mãn... cây thoả
ước. Bạn chỉ ngồi dưới gốc cây, bạn ước, và điều đó
được hoàn thành. Bạn sẽ ước gì? Ước muốn của bạn sẽ
ngu xuẩn bởi vì chúng bắt nguồn từ tâm trí bạn. Bạn
định đi tìm vui thú nào trên cõi trời? Một hôm cứ thử
nghĩ mình đã lên đến cõi trời rồi: bây giờ bạn muốn
gì? Bạn sẽ bắt đầu hỏi về khách sạn, về rạp chiếu
bóng, về đàn bà, về đàn ông... còn gì khác nữa? Vẫn

toàn những điều ấy thôi! Và cùng những thất vọng sẽ
theo sau.
Ham muốn chưa bao giờ cắt ngang con đường của
người đức hạnh và tỉnh thức. Phật nói: Ta gọi một
người là đức hạnh nếu người đó hoàn toàn nhận biết về
tính lừa dối của ham muốn và do đó ham muốn không
bao giờ nảy ra trong tâm trí người đó. Tâm trí người
đó vẫn còn vô ham muốn. Cách duy nhất để vô ham
muốn là tỉnh thức, có tính quan sát. Tính quan sát tạo
ra ánh sáng trong bạn, và trong ánh sáng đó bóng tối
của ham muốn không thể đi vào được.
Sáng tỏ làm cho họ tự do. Và khi bạn có tính quan
sát, có chói sáng trong bản thể bạn; thông minh lớn lao
nảy sinh trong bạn. Người thường sống trong ngu
xuẩn; người thường sống theo cách rất đần độn.
Khoảnh khắc bạn trở nên hài hoà với âm nhạc bên
trong của mình, bạn trở nên hài hoà với tính thiền,
thông minh lớn lao được thoát ra. Trong thông minh
đó bạn không thể nào bị lừa dối bởi ham muốn. Trong
thông minh đó lần đầu tiên bạn bắt đầu hiểu mọi sự
như chúng vậy, bạn dừng việc hiểu lầm. Thông thường
mọi hiểu biết của bạn đều không là gì ngoài hiểu lầm.
Bạn có thể cho rằng bạn rất thông minh, nhưng chỉ
người ngu mới nghĩ rằng họ thông minh. Bản thân
thông minh là rất không tự ý thức. Nó vận hành, vận
hành hoàn hảo, nhưng nó không tạo tự ý thức, nó
không đem tới ý tưởng về bản ngã, không có tính siêu
đẳng. Nó rất khiêm tốn, nó rất đơn giản.
Nhưng khi người thường tồn tại, người đó cứ hiểu
lầm. Bạn đọc Kinh Thánh và bạn hiểu lầm. Ngay cả
những đệ tử gần gũi nhất của Jesus không bao giờ hiểu
ông ấy. Tôi nói đi nói rằng Jesus là một trong những

thầy không may nhất đã từng bước chân trên trái đất
này - không chỉ bởi vì ông ấy bị đóng đinh và chỉ có
ba năm làm việc, mà bởi vì ông ấy có nhiều tín đồ rất
ngu.

Ngày Jesus sắp bị bắt, và điều tuyệt đối chắc chắn
là ông ấy đã bị một trong những đệ tử của mình phản
bội, Judas, ông ấy đã hỏi mười một tông đồ khác, "Các
ông có điều gì hỏi ta không?" Và bạn có biết họ đã hỏi
cái gì không? Họ đã hỏi những điều ngu xuẩn thế.
Jesus phải phát khóc. Ông ấy có thể phải đã cầu
nguyện từ sâu trong trái tim mình, như ông ấy đã làm
lần nữa trên cây chữ thập: "Cha ơi, xin tha thứ cho họ,
vì họ không biết điều họ đang hỏi."
Họ đã hỏi cái gì? Họ đã hỏi, "Thưa thầy, vì thầy
sắp ra đi, đôi điều cần được làm rõ. Trong thế giới của
Thượng đế, trong vương quốc của Thượng đế, mà thầy
đã nói đi nói lại nhiều thế, thầy chắc chắn sẽ ở bên
phải Thượng đế rồi; vậy ai sẽ ở bên phải thầy? Trong
số chúng tôi ai sẽ là người thứ hai tiếp thầy và ai sẽ là
người thứ ba và người thứ tư? Cấp bậc sẽ là gì?"

Xem câu hỏi đấy! Thầy sắp bị đóng đinh ngày
mai, mà những người ngu này lo nghĩ về cấp bậc, ai sẽ
cao nhất. Họ sẵn sàng nhân nhượng với Jesus, "Thôi
được, đến chừng ấy thì chúng tôi chấp nhận, rằng thầy
sẽ là người thứ hai cạnh Thượng đế, nhưng ai sẽ thứ ba
và thứ tư và thứ năm? Để điều đó được quyết định rõ
ràng đi, bởi vì bây giờ thầy sắp ra đi và chúng tôi có
thể không sớm gặp lại nữa, cho nên mọi thứ phải chắc
chắn!"

Tâm trí ham muốn, tâm trí tham vọng này - họ đã
không hiểu Jesus chút nào. Và tương truyền Jesus quì
xuống và cầu nguyện và nước mắt lăn dài trên má ông
ấy. Không ai biết ông ấy cầu nguyện gì, nhưng ông ấy
phải đã cầu nguyện: "Xin tha thứ cho những người
này, họ không biết họ đang hỏi gì." Và ông ấy phải đã
khóc vì đây là công trình cả đời của ông ấy, những
người này. Và ông ấy đã bảo họ đừng ham muốn, đừng
tham vọng. Ông ấy đã bảo họ, "Những người đầu tiên
trong thế giới này sẽ là người cuối cùng trong vương
quốc của Thượng đế của ta, và những người cuối cùng
sẽ là những người đầu tiên." Nhưng họ đã không hiểu
rằng ông ấy đang nói với họ đừng tham vọng.

Mới hôm nọ, Premgeet đã gửi cho tôi một giai
thoại nhỏ về việc diễn giải nhầm:
Một cô y tá điên chạy theo một bệnh nhân đang la
hét dọc theo hành lang của khu nhà thương, mang cái
bát. Cô ta bị bác sĩ giải phẫu chặn nói, "Cô y tá! Cô y
tá! Tôi đã bảo cô chích chỗ sưng!"

Bạn có hiểu điều đó không? Cô ấy đang làm sưng
chim anh ta! Nhưng đây là điều đích xác đang xảy ra -
tâm trí quần chúng không thể hiểu được. Hiểu lầm là
không tránh khỏi, bởi vì tâm trí đám đông là điếc.
Trong khi bạn nói với mọi người, họ không thực sự
lắng nghe, họ chỉ giả vờ nghe. Cả nghìn lẻ một ý nghĩ
đan chéo qua tâm trí họ; họ không thực sự ở đó, họ
chưa bao giờ diện diện với bất kì tình huống nào, họ
bao giờ cũng vắng mặt. Họ không ở chỗ họ đang ở, họ
bao giờ cũng ở đâu đó khác. Khi họ đang ở Pune, họ ở

Bắc Kinh; khi họ ở Bắc Kinh, họ ở Pune. Những người
kì lạ! Dù họ ở bất kì đâu bạn cũng có thể chắc chắn
rằng ít nhất họ không ở đó; họ có thể đang ở chỗ nào
đó khác trên thế giới. Làm sao họ có thể hiểu được?

Và họ chỉ lắng nghe lời, họ không bao giờ lắng
nghe nghĩa cả - bởi vì nghĩa có thể được nghe chỉ bằng
trái tim. Lời có thể được nghe bằng đầu. Bây giờ, họ
không biết cách nghe qua trái tim. Lắng nghe qua trái
tim là nghĩa của việc là đệ tử; lắng nghe qua trái tim
nghĩa là lắng nghe trong tình yêu, trong tin cậy, trong
thông cảm sâu sắc, và cuối cùng trong thấu cảm sâu
sắc. Lắng nghe qua trái tim nghĩa là lắng nghe dường
như bạn đã trở thành một với điều được nói cho bạn -
khi đệ tử trở nên hài hoà với thầy tới mức ngay cả
trước khi lời được thốt ra thì đệ tử đã nghe thấy chúng,
và không chỉ lời mà cả nghĩa, hương thơm do lời mang
theo. Nhưng điều đó rất vô hình. Cái đầu là thô.
Cái vô hình chỉ có thể được nắm bắt qua mạng
lưới của trái tim.
Mọi người thậm chí đi theo, nhưng thế nữa họ đi
theo từ hiểu lầm. Chỉ trở thành tín đồ không làm thay
đổi cái gì trong cuộc sống của bạn. Vấn đề không phải
là theo ai đó: vấn đề là hiểu ai đó đã thức tỉnh. Do đó,
tôi không gọi bạn là tín đồ mà chỉ là bạn của tôi. Nếu
bạn có thể là bạn của tôi, nếu bạn có thể trong tình yêu
và tin cậy sâu sắc ở đây trong sự hiện diện của tôi, nếu
chúng ta có thể đối diện lẫn nhau và soi gương lẫn
nhau, những điều cực kì quan trọng sẽ bắt đầu xảy ra
theo cách riêng của chúng - bởi vì trái tim bạn sẽ hiểu,
và khi trái tim hiểu, lập tức biến đổi xảy ra.

Khi cái đầu hiểu, thế thì nó hỏi, "Làm sao? Vâng
điều đó đúng; bây giờ, làm sao nó có thể được làm?"

Nhớ khác biệt này: trong cái đầu, tri thức và hành động
là hai điều khác nhau; trong trái tim, tri thức là hành
động.
Socrates nói: Tri thức là đức hạnh - và ông ấy đã
không được hiểu qua nhiều thời đại. Ngay cả các đệ tử
riêng của ông ấy, Plato và Aristotle, đã không hiểu ông
ấy đúng. Khi ông ấy nói tri thức là đức hạnh, ông ấy
ngụ ý có cách lắng nghe và hiểu trong đó khoảnh khắc
bạn hiểu ra một điều, bạn không thể làm khác được.
Khi bạn thấy rằng đây là cửa, thế thì bạn không thể cứ
cố đi ra qua tường được, bạn sẽ đi ra qua cửa. Thấy
nghĩa là hành động, thấy đem tới hành động.

Nếu khi tôi bảo bạn, "Đây là cửa. Bất kì khi nào
bạn muốn ra, xin ra qua cửa này, bởi vì bạn đập đầu
mình khi cố đi ra qua tường là đủ rồi," bạn nói, "Vâng,
thưa thầy, tôi hiểu rõ lắm, nhưng làm sao đi ra qua cửa
được?" câu hỏi của bạn sẽ chỉ ra rằng trái tim vẫn chưa
lắng nghe đâu, chỉ mỗi cái đầu. Cái đầu bao giờ cũng
hỏi "Làm sao?"
Cái đầu bao giờ cũng hỏi những câu hỏi dường
như rất thích đáng trên bề mặt nhưng tuyệt đối lố bịch.
Trái tim không bao giờ hỏi cả - nó lắng nghe và hành
động. Lắng nghe và hành động là một trong trái tim;
tình yêu biết và hành động tương ứng. Nó chưa bao
giờ hỏi "Làm sao?" Trái tim có thông minh của riêng
nó. Cái đầu là trí tuệ, trái tim là thông minh.

**Hoa sen mọc duyên dáng làm sao
trong rác rưởi của lề đường.
Hương thuần khiết của nó làm thích thú trái tim.**

Nhớ điều đó lặp đi lặp bởi vì bạn sẽ quên đi quên
lại rằng đó là vấn đề của trái tim. Nếu trái tim vui
mừng trong cái gì đó, thế thì bạn có thể chắc chắn cuộc
sống của bạn đang phát triển, mở rộng; tâm thức bạn
đang trở thành rõ ràng hơn, thông minh của bạn đang
thoát ra khỏi tù túng của nó.
Hoa sen mọc duyên dáng làm sao trong rác rưởi
của lề đường. Từ về hoa sen mà Phật dùng là pankaj;
đó là một trong những từ hay nhất. Pankaj nghĩa là cái
được sinh ra từ bùn, từ bùn bẩn. Hoa sen là một trong
những hiện tượng huyền diệu nhất trong sự tồn tại; do
đó ở phương Đông nó đã trở thành biểu tượng của biến
đổi tâm linh. Phật ngồi trên hoa sen, Vishnu đứng trên
hoa sen. Tại sao lại hoa sen? - bởi vì hoa sen có một ý
nghĩa rất biểu tượng: nó mọc ra từ bùn bẩn. Nó là biểu
tượng biến đổi, nó là sự biến thái. Bùn thì bẩn, có thể
còn bốc mùi hôi; hoa sen là hương thơm, và nó bắt
nguồn từ bùn hôi.
Phật đang nói: Theo đích xác cùng cách đó, cuộc
sống thường chỉ là bùn hôi - nhưng khả năng trở thành
hoa sen được ẩn ở đó. Bùn có thể được biến đổi, bạn
có thể trở thành hoa sen. Dục có thể được biến đổi và
nó có thể trở thành samadhi. Giận có thể được biến đổi
và nó có thể trở thành từ bi. Ghét có thể được biến đổi
và nó có thể trở thành yêu. Mọi thứ mà bạn có cái nhìn
tiêu cực bây giờ, như bùn, có thể được biến đổi. Tâm
trí ồn ào của bạn có thể được làm trống rỗng và được
biến đổi, và nó trở thành âm nhạc tinh tú.

**Đi theo người đã thức tỉnh
và từ trong những người mù
ánh sáng của trí huệ của ông
sẽ chiếu sáng hoàn toàn bên ngoài.**

Nhưng lối ra duy nhất khỏi đống lộn xộn này là ở
việc hài hoà với ai đó đã thức tỉnh. Bạn đang ngủ; chỉ
ai đó thức tỉnh mới có thể lay bạn ra khỏi giấc ngủ của
mình, mới có thể giúp bạn ra khỏi nó.
Gurdjieff thường nói: Nếu bạn đang trong tù, chỉ ai
đó ở ngoài nhà tù mới có thể xoay xở, mới có thể thu
xếp để cho bạn có thể thoát ra khỏi nhà giam; bằng
không điều đó là không thể được. Và bạn không chỉ
trong nhà giam - bạn đã bị thôi miên và được bảo rằng
đây không phải là nhà giam, đây là nhà bạn. Bạn
không chỉ trong tù - bạn đã tin nó là nhà bạn và bạn
đang trang hoàng cho nó. Toàn thể cuộc sống của bạn
không là gì ngoài việc trang hoàng cho nhà giam này,
và bạn đang đua với các tù nhân khác, những người
cũng đang trang hoàng cho xà lim đen tối của mình.
Chỉ ai đó tự do, người đã có thời ở trong tù và
không còn trong tù nữa, mới có thể xoay xở đánh thức
bạn, làm cho bạn nhận biết về thực tại. Người đó có
thể xoay xở để giải thôi miên bạn, người đó có thể
giúp bạn giải ước định, và người đó có thể phát minh
ra các phương pháp và phương tiện để cho bạn có thể
thoát khỏi nhà giam. Người đó có thể hối lộ cai ngục,
cai tù; người đó có thể đem chiếc thang gần bức tường,
người đó có thể ném dây thừng vào bên trong. Người
đó có thể làm ra lỗ hổng trong tường từ bên ngoài... cả
nghìn lẻ một khả năng.
Nhưng hi vọng duy nhất cho bạn là trong tiếp xúc
sâu với ai đó đã thức tỉnh. Người thức tỉnh được gọi là
thầy - satguru. Nếu bạn có thể tìm thấy thầy, đừng bỏ
lỡ cơ hội này - buông xuôi, thảnh thơi trong hiện hữu
của thầy, thấm đẫm nhận biết của thầy, để hương thơm

của thầy bao quanh bạn. Và ngày đó không xa xôi gì
khi bạn cũng được thức tỉnh, bạn cũng sẽ là vị phật.
Tự nhủ mình rằng chừng nào bạn chưa là vị phật,
cuộc sống của bạn vẫn còn là phí hoài. Chỉ bằng việc
là vị phật cuộc sống của người ta mới có vẻ duyên
dáng, đẹp đẽ, thông minh, ý nghĩa, phúc lành.
Đủ cho hôm nay.

*************************************************************************************************************

#6 Đây là nó

Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy bao giờ cũng chỉ ra rằng hầu hết mọi thứ và
trạng thái đều là hai cực đoan của cùng một trạng
thái, các cực đối lập. Thế thì ghét là đầu kia của
yêu. Điều này có phải nghĩa là thật dễ dàng để
ghét cũng như để yêu không? Yêu đẹp thế. Ghét
xấu thế, vậy mà điều đó xảy ra nữa.

Zareen, yêu là trạng thái tự nhiên của tâm thức. Nó
không dễ cũng không khó. Những lời này không áp
dụng cho nó chút nào. Nó không phải là nỗ lực; do đó,
nó không thể dễ dàng và nó không thể khó khăn. Nó
giống như việc thở! Nó giống như nhịp tim đập của
bạn, nó giống như máu tuần hoàn trong thân thể bạn.
Yêu là chính bản thể bạn... nhưng yêu đã trở thành
gần như không thể được. Xã hội không cho phép nó.

Xã hội huấn luyện bạn theo cách mà yêu trở thành
không thể được và ghét trở thành điều có thể được duy
nhất. Thế thì ghét là dễ dàng, và yêu không chỉ khó
khăn mà còn không thể được. Con người đã bị bóp
méo. Con người không thể bị thu thành nô lệ nếu con
người trước hết không bị bóp méo. Chính khách và tu
sĩ đã từng cùng nhau trong mưu đồ thâm hiểm suốt
nhiều thời đại. Họ đã thu nhân loại thành đám đông nô
lệ. Họ phá huỷ mọi khả năng nổi dậy trong con người -
và yêu là nổi dậy, bởi vì yêu chỉ nghe theo trái tim và
chẳng bận tâm chút nào tới bất kì cái gì khác.

Yêu là nguy hiểm bởi vì nó làm cho bạn thành cá
nhân, còn quốc gia và nhà thờ, họ không muốn các cá
nhân, không muốn chút nào. Họ không muốn con
người - họ muốn cừu. Họ muốn mọi người chỉ trông
như con người thôi, nhưng linh hồn của họ đã bị
nghiền nát hoàn toàn, hư hỏng sâu sắc đến mức dường
như không thể sửa được.
Và cách tốt nhất để phá huỷ con người là phá huỷ
tính tự phát của yêu. Nếu con người có tình yêu, không
thể có quốc gia được; quốc gia tồn tại trên ghét. Người
Ấn Độ ghét người Pakistan, và người Pakistan ghét
người Ấn Độ - chỉ thế thì hai quốc gia này mới tồn tại.
Nếu tình yêu xuất hiện, các biên giới sẽ biến mất. Nếu
tình yêu xuất hiện, thế thì ai sẽ là người Ki tô giáo và
thế thì ai sẽ là người Do Thái? Nếu tình yêu xuất hiện,
tôn giáo sẽ biến mất.
Nếu tình yêu xuất hiện, ai sẽ đi tới đền chùa? Để
làm gì? Chính bởi vì tình yêu bị mất đi mà bạn tìm
kiếm Thượng đế. Thượng đế không là gì ngoài thứ
thay thế cho tình yêu bị mất của bạn. Bởi vì bạn không
phúc lạc, bởi vì bạn không an bình, bởi vì bạn không

cực lạc, do đó bạn đi tìm Thượng đế - bằng không, ai
bận tâm? Ai cần? Nếu cuộc sống của bạn là điệu vũ,
Thượng đế đã được đạt tới rồi. Trái tim yêu thương
tràn đầy Thượng đế. Không cần bất kì tìm kiếm nào,
không cần bất kì lời cầu nguyện nào, không cần đi tới
bất kì đền chùa nào, tới bất kì tu sĩ nào.
Do đó, tu sĩ và chính khách, hai loại người này là
kẻ thù của nhân loại. Và họ là trong một mưu đồ, bởi
vì chính khách muốn cai quản thân thể bạn và tu sĩ
muốn cai quản linh hồn bạn. Và bí mật là như nhau:
phá huỷ tình yêu. Thế thì con người không là gì ngoài
cái hổng hoác, trống rỗng, sự tồn tại vô nghĩa. Thế thì
bạn có thể làm bất kì điều gì bạn muốn với nhân loại
và không ai sẽ nổi dậy, không ai sẽ có đủ dũng cảm để
nổi dậy.
Tình yêu cho dũng cảm, tình yêu lấy đi mọi nỗi sợ
- và những kẻ áp bức phụ thuộc vào nỗi sợ của bạn. Họ
tạo ra sợ trong bạn, cả nghìn lẻ một nỗi sợ. Bạn bị bao
quanh bởi những nỗi sợ, toàn thể tâm lí của bạn đầy
những sợ. Sâu bên dưới bạn run rẩy. Chỉ trên bề mặt
bạn giữ vẻ ngoài nào đó; bằng không, bên trong có
tầng tầng sợ.
Một người đầy sợ chỉ có thể ghét - ghét là kết quả
tự nhiên của sợ. Một người đầy sợ cũng đầy giận dữ,
và một người đầy sợ chống cuộc sống nhiều hơn là
ủng hộ cuộc sống. Cái chết dường như là trạng thái
nghỉ ngơi của người đầy sợ. Người sợ có tính tự tử,
người đó có tính phủ định cuộc sống. Cuộc sống
dường như nguy hiểm với người đó, bởi vì sống nghĩa
là bạn sẽ phải yêu - làm sao bạn có thể sống được?
Cũng như thân thể cần việc thở để sống, linh hồn cần
yêu để sống. Và yêu hoàn toàn bị đầu độc.

Bằng việc đầu độc năng lượng yêu của bạn họ đã
tạo ra chia chẻ trong bạn, họ đã làm ra kẻ thù bên trong
bạn, họ đã chia bạn thành hai. Họ đã tạo ra cuộc nội
chiến, và bạn bao giờ cũng trong xung đột. Và trong
xung đột năng lượng của bạn bị tiêu tán; do đó cuộc
sống của bạn không có say mê, phấn khởi. Nó không
tràn ngập với năng lượng, nó đờ đẫn, tẻ nhạt, nó không
thông minh.
Yêu mài sắc thông minh, sợ làm cùn lụt nó đi. Ai
muốn bạn thông minh? Không phải là những người
đang nắm quyền. Làm sao họ có thể muốn bạn thông
minh được? - bởi vì nếu bạn thông minh, bạn sẽ bắt
đầu thấy ra toàn thể chiến lược, trò chơi của họ. Họ
muốn bạn ngu xuẩn và tầm thường. Họ chắc chắn
muốn bạn hiệu quả khi có liên quan tới công việc,
nhưng không thông minh; do đó nhân loại sống ở mức
thấp nhất, ở mức tối thiểu của tiềm năng của nó.
Các nhà nghiên cứu khoa học nói rằng người
thường chỉ dùng năm phần trăm thông minh tiềm năng
của mình trong cả đời mình. Người thường, chỉ năm
phần trăm - thế người phi thường thì sao? Albert
Einstein, Mozart, Beethoven thì sao? Các nhà nghiên
cứu nói rằng ngay cả những người rất tài năng, họ
cũng không dùng nhiều hơn mười phần trăm. Và
những người chúng ta gọi là thiên tài, họ chỉ dùng
mười lăm phần trăm.
Nghĩ về thế giới nơi mọi người đều dùng một trăm
phần trăm tiềm năng của mình... thế thì các thần cũng
sẽ ghen tị với trái đất, thế thì các thần cũng muốn được
sinh ra trên trái đất. Thế thì trái đất sẽ là thiên đường,
siêu thiên đường. Ngay bây giờ nó là địa ngục.

Zareen, bạn nói rằng yêu đáng phải dễ dàng hơn
ghét. Nếu con người bị bỏ một mình, không bị đầu
độc, thế thì yêu sẽ đơn giản, rất đơn giản. Sẽ không có
vấn đề gì. Nó sẽ giống như nước chảy xuống vậy, hay
như hơi nước bốc lên, cây nở hoa, chim hót. Nó sẽ tự
nhiên thế và tự phát thế!
Nhưng con người không bị bỏ một mình. Khi đứa
trẻ được sinh ra, những kẻ áp bức sẵn sàng nhảy lên
nó, nghiền nát năng lượng của nó, bóp méo năng
lượng tới mức nào đó, bóp méo chúng sâu sắc đến mức
người đó sẽ không bao giờ trở nên nhận biết rằng mình
đang sống cuộc sống giả, cuộc sống rởm, rằng người
đó không sống như người đó đã được dự định để sống,
như người đó đã được sinh ra để sống; rằng người đó
đang sống cái gì đó tổng hợp, bằng nhựa, rằng đây
không phải là linh hồn thực của người đó. Đó là lí do
tại sao hàng triệu người khổ thế - bởi vì họ cảm thấy ở
đâu đó rằng họ đã bị phân tán, rằng họ không phải là
cái ta riêng của họ, rằng cái gì đó về cơ sở đã đi sai...
Yêu là đơn giản nếu đứa trẻ được phép trưởng
thành, được giúp đỡ để trưởng thành, theo cách tự
nhiên - theo cách của dhamma - pháp. Nếu đứa trẻ
được giúp để hài hoà với tự nhiên và trong hài hoà với
bản thân mình, nếu đứa trẻ được hỗ trợ theo mọi cách,
được nuôi dưỡng, được động viên là tự nhiên và là bản
thân nó, là ánh sáng lên bản thân nó, thế thì yêu là đơn
giản. Người ta đơn giản sẽ yêu!
Ghét sẽ gần như không thể được, bởi vì trước khi
bạn có thể ghét ai đó khác, trước hết bạn phải tạo ra
chất độc bên trong bản thân bạn. Bạn có thể cho ai đó
cái gì đó chỉ khi bạn có nó. Bạn có thể ghét chỉ nếu
bạn đầy ghét. Và đầy ghét là đang chịu địa ngục rồi.

Đầy ghét là đang trong lửa rồi. Đầy ghét nghĩa là bạn
đang tự làm mình tổn thương trước hết. Trước khi bạn
có thể làm ai đó khác tổn thương, bạn phải làm cho
bản thân mình bị tổn thương. Người khác có thể không
bị tổn thương, điều đó sẽ phụ thuộc vào người khác.
Nhưng một điều là tuyệt đối chắc chắn: rằng trước khi
bạn có thể ghét, bạn phải trải qua đau khổ và khổ lâu
dài. Người khác có thể không chấp nhận sự hận thù
của bạn, có thể bác bỏ điều đó. Người khác có thể là vị
phật - người đó có thể đơn giản cười vào nó. Người đó
có thể tha thứ cho bạn, người đó có thể không phản
ứng. Bạn không thể nào làm tổn thương được người đó
nếu người đó không sẵn sàng phản ứng. Nếu bạn
không thể khuấy động được người đó, bạn có thể làm
được gì? Bạn sẽ cảm thấy bất lực trước người đó.
Cho nên không nhất thiết như vậy, rằng người
khác sẽ bị tổn thương. Nhưng một điều là tuyệt đối
chắc chắn, rằng nếu bạn ghét ai đó, đầu tiên bạn phải
làm tổn thương cho linh hồn riêng của bạn theo nhiều
cách; bạn phải đầy những chất độc đến mức bạn có thể
ném chất độc lên người khác.
Ghét là phi tự nhiên. Yêu là trạng thái của lành
mạnh; ghét là trạng thái của ốm yếu. Cũng giống như
ốm yếu là phi tự nhiên. Nó xảy ra chỉ khi bạn đánh mất
dấu vết của tự nhiên, khi bạn không còn trong hài hoà
với sự tồn tại, không còn trong hài hoà với bản thể của
bạn, với cốt lõi bên trong nhất của bạn; thế thì bạn bị
ốm, về tâm lí, ốm tâm linh. Hận thù chỉ là biểu tượng
của ốm yếu, còn tình yêu là biểu tượng của lành mạnh
và toàn thể và thiêng liêng.
Zareen, yêu đáng phải là một trong những điều tự
nhiên nhất, nhưng nó không phải vậy. Ngược lại, nó đã

trở thành điều khó khăn nhất - gần như điều không thể
được. Ghét đã trở thành dễ dàng; bạn được huấn luyện,
bạn được chuẩn bị để ghét. Là người Hindu là tràn đầy
ghét người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, người
Do Thái; là người Ki tô giáo là tràn đầy ghét các tôn
giáo khác. Là người quốc gia là tràn đầy ghét các quốc
gia khác.
Bạn chỉ biết một cách yêu: đó là, ghét người khác.
Bạn có thể bầy tỏ tình yêu của mình với đất nước mình
bằng việc ghét các nước khác, và bạn có thể bầy tỏ
tình yêu của mình với nhà thờ của mình bằng việc ghét
nhà thờ khác. Bạn là trong đống lộn xộn!
Cái gọi là những tôn giáo này cứ nói mãi về tình
yêu, và mọi điều họ làm trên thế giới là tạo ra ngày
một nhiều ghét hơn. Người Ki tô giáo nói về tình yêu
và họ đã tạo ra các cuộc chiến tranh, thập tự chinh.
Người Mô ha mét giáo nói về tình yêu và họ đã tạo ra
jihads - thánh chiến, chiến tranh tôn giáo. Người
Hindus nói về tình yêu, nhưng bạn có thể nhìn vào
kinh sách của họ - chúng đầy những ghét, ghét các tôn
giáo khác. Bạn có thể nghiên cứu cái gọi là những
cuốn sách vĩ đại của Dayanand, Satyarth Prakash, và
bạn sẽ thấy ghét trên từng trang, trong từng câu. Và
những sách này được coi là sách kinh đấy.
Và chúng ta chấp nhận tất cả những điều vô nghĩa
này! Và chúng ta chấp nhận nó mà không kháng cự gì,
bởi vì chúng ta đã được ước định để chấp nhận những
điều này, chúng ta đã được dạy rằng đây là cách mọi
sự như vậy. Và thế rồi bạn cứ phủ nhận bản tính riêng
của mình.

Mới hôm nọ tôi mới đọc một chuyện cười:
Một phụ nữ đi thú tội - cô ta là xơ - cô ta thú tội
với mẹ bề trên, vừa khóc, nước mắt lăn dài trên đôi
má; cô ta trông cực kì bối rối. Và cô ta nói, "Con đã
phạm phải một tội lỗi - điều không thể tha thứ được.
Người đàn ông này đã vào phòng con đêm qua, và con
có mỗi mình. Và với mũi súng người đó đã làm tình
với con. Người đó chỉ cho con hai cách: 'Hoặc chết
hoặc làm tình với ta.' Con bị hư hỏng rồi!" cô ta nói.
"Cả đời con hỏng rồi!"
Mẹ bề trên nói, "Đừng bối rối thế, đừng lo lắng thế
- từ bi của Thượng đế là vô hạn. Và trong các kinh
sách cổ có nói rằng người ta được phép làm bất kì cái
gì nếu đấy là vấn đề sống chết - ngoại trừ việc khạc
nhổ vào Kinh Thánh. Con người được phép làm bất kì
cái gì nếu đó là vấn đề sống chết, và đó là vấn đề sống
chết đối với con. Cho nên đừng lo - con được tha thứ!"
Nhưng người đàn bà vẫn còn bối rối và bắt đầu
khóc và nói, "Không. Điều đó không ích gì!"
Mẹ bề trên nói, "Sao không ích gì?"
Và xơ này nhìn lên và cô ta nói, "Bởi vì con thích
điều đó."

Bạn có thể phủ nhận tự nhiên nhưng bạn không thể
phá huỷ được nó. Nó vẫn còn ở đâu đó trong chỗ sâu
kín nhất của bản thể bạn, vẫn sống. Và đó là hi vọng
duy nhất.
Tình yêu đã bị đầu độc, nhưng không bị phá huỷ.
Chất độc có thể được tống ra, ra khỏi hệ thống của bạn
- bạn có thể được chùi sạch. Bạn có thể nôn ra tất cả

những cái mà xã hội đã ép buộc vào bạn. Bạn có thể
vứt bỏ tất cả những niềm tin của mình và tất cả những
ước định của mình - bạn có thể tự do. Xã hội không
thể giữ bạn làm nô lệ mãi mãi được nếu bạn quyết định
phải tự do.
Đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì.
Zareen, đây là lúc đấy - bây giờ trở thành
sannyasin đi. Đây là lúc vứt bỏ mọi hình mẫu cũ và bắt
đầu cách sống mới, cách sống tự nhiên, cách sống
không kìm nén, cuộc sống không phải của từ bỏ mà
của hân hoan.
Thông thường, nếu bạn nhìn vào con người, yêu là
không thể, chỉ ghét là có thể. Nhưng không gian mà tôi
đang tạo ra ở đây hoàn toàn khác: ở đây yêu là khả
năng duy nhất. Ghét sẽ trở thành ngày một không thể
được. Ghét là cực đối lập của yêu - theo nghĩa là ốm
yếu là cực đối lập của mạnh khoẻ. Nhưng bạn cần
không chọn ốm yếu.
Ốm yếu có vài ưu thế mà mạnh khoẻ không thể có
được; đừng trở nên bị gắn bó với những ưu thế này.
Ghét cũng có vài ưu thế mà yêu không thể có được. Và
bạn phải có tính rất quan sát. Người ốm nhận được
thông cảm từ mọi người khác; không ai làm tổn
thương người đó, mọi người đều cẩn thận về điều họ
nói với người đó, người đó ốm thế. Người đó vẫn còn
là sự hội tụ, là trung tâm của mọi người - gia đình, bạn
bè - người đó trở thành người trung tâm. Người đó trở
thành quan trọng. Bây giờ, nếu người đó trở nên quá
gắn bó với sự quan trọng này, với việc đáp ứng bản
ngã này, người đó sẽ không bao giờ muốn mạnh khoẻ
lần nữa. Bản thân người đó sẽ níu bám lấy ốm yếu. Và
các nhà tâm lí nói có nhiều người đang níu bám lấy ốm

yếu bởi vì ưu thế mà ốm yếu có. Và họ đã đầu tư vào
ốm yếu của họ lâu đến mức họ đã hoàn toàn quên mất
rằng họ đang níu bám lấy những ốm yếu đó. Họ sợ nếu
họ trở nên mạnh khoẻ họ sẽ lại là không là ai cả.
Bạn dạy cả điều đó nữa. Khi đứa trẻ nhỏ bị ốm, cả
gia đình chú ý thế. Điều này tuyệt đối phi khoa học.
Khi đứa trẻ ốm, chăm sóc thân thể nó nhưng đừng chú
ý quá nhiều. Điều đó là nguy hiểm, bởi vì nếu ốm yếu
và sự chú ý của bạn trở nên được liên kết... điều nhất
định xảy ra nếu nó cứ xảy ra lặp đi lặp lại. Bất kì khi
nào đứa trẻ ốm nó trở thành trung tâm của cả gia đình:
bố nó tới và ngồi bên cạnh nó và hỏi han về sức khoẻ
của nó, rồi bác sĩ tới, rồi hàng xóm bắt đầu tới, rồi bạn
bè thăm hỏi, và mọi người đem quà tới cho nó... Bây
giờ nó có thể trở thành quá bị gắn bó với tất cả những
điều này; điều đó có thể là sự nuôi dưỡng cho bản ngã
của nó đến mức nó có thể không muốn khoẻ mạnh lại.

Và nếu điều này xảy ra, thế thì nó không thể khoẻ
mạnh được. Bây giờ không thuốc nào có thể giúp
được. Người này đã trở nên dứt khoát dính líu vào ốm
bệnh. Và đó là điều đã xảy ra cho nhiều người - đa số
mọi người.
Khi bạn ghét, bản ngã của bạn được thoả mãn. Bản
ngã có thể tồn tại chỉ nếu nó ghét, bởi vì trong ghét
bạn cảm thấy cao hơn, trong ghét bạn trở thành tách
biệt, trong ghét bạn trở thành được xác định, trong
ghét bạn đạt tới cá tính nào đó. Trong yêu bản ngã phải
biến mất. Trong yêu bạn không còn tách biệt - yêu
giúp bạn tan biến với người khác. Đó là gặp gỡ và hội
nhập.
Nếu bạn quá bị gắn bó vào bản ngã, thế thì ghét là
dễ dàng và yêu là khó khăn nhất. Tỉnh táo, có tính

quan sát đi: ghét là cái bóng của bản ngã, và yêu cần
dũng cảm lớn. Nó cần dũng cảm lớn bởi vì nó cần hi
sinh bản ngã. Chỉ những người sẵn sàng trở thành
không ai cả mới có khả năng yêu. Chỉ những người
sẵn sàng trở thành cái không, hoàn toàn trống rỗng bản
thân mình, mới có khả năng nhận món quà của tình
yêu từ cõi bên kia.
Nếu bạn có tính quan sát, Zareen này, yêu sẽ trở
thành rất đơn giản và ghét sẽ trở thành không thể được.
Và cái ngày ghét trở thành không thể được và yêu trở
thành tự nhiên, bạn đã về tới nhà. Thế thì không đâu
mà đi - Thượng đế đã được đạt tới.
Tuyệt đối tự nhiên là mọi điều được ngụ ý bởi việc
tìm thấy Thượng đế.

**************************************************

#6Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Cái gì có?

Prabhati, có hai loại sự vật trong sự tồn tại: một,
cái có thể được giải thích; và cái kia, cái chỉ có thể
được kinh nghiệm. Những điều có thể được giải thích
là trần tục, bình thường, không có giá trị thực chất
trong chúng. Và những thứ không thể được giải thích
thực sự có ý nghĩa, có giá trị thực chất.
Chẳng hạn, dục có thể được giải thích, yêu không
thể được giải thích. Do đó, dục trở thành hàng hoá - nó
có thể được bán, nó có thể được mua. Yêu không phải

là hàng hoá; bạn không thể bán được nó, bạn không
thể mua được nó - không có cách nào. Dục có thể được
giải thích bởi vì nó là một phần của sinh lí. Yêu không
thể được giải thích - nó là một phần của bí ẩn bên
trong của bạn.
Chừng nào dục tình của bạn chưa dâng lên và đạt
tới yêu, nó vẫn còn trần tục, chẳng có gì thiêng liêng
về nó. Khi dục của bạn trở thành yêu, thế thì nó đi vào
trong một chiều hướng hoàn toàn khác - chiều hướng
của bí ẩn và huyền bí. Bây giờ nó trở thành có tính tôn
giáo, thiêng liêng, nó không còn phàm tục nữa.
Và thậm chí còn có giai đoạn cao hơn yêu - tôi gọi
nó là cầu nguyện - điều tuyệt đối không thể giải thích
nổi, tuyệt đối không thể tả được. Không cái gì có thể
được nói về nó.
Khi một đệ tử hỏi Jesus, "Lời cầu nguyện là gì?"
Jesus quì đầu gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Bạn có
thể làm gì khác được? Lời cầu nguyện không thể được
giải thích, không cái gì có thể được nói về nó, nhưng
nó có thể được bày tỏ ra. Bạn có thể nói gì về chết, bạn
có thể nói gì về sống? Bất kì cái gì bạn nói đều sẽ
thiếu; nó không thể soải cánh bay lên những đỉnh cao
của sống và chết. Đấy là những kinh nghiệm.
Bạn có thể nói gì về cái đẹp? Ngay cả cái hồ có
đầy hoa sen đẹp và đó là đêm trăng tròn, và tất cả đều
là phúc lành, ai đó có thể hỏi, "Đẹp là gì?" Bạn có thể
nói được gì? Bạn có thể bày tỏ! Bạn có thể nói, "Nó là
thế này chứ còn gì nữa!" Nhưng người đó sẽ nói, "Tôi
đang hỏi định nghĩa cơ."

Rabindranath, một trong những nhà thơ vĩ đại nhất
của đất nước này, đã sống trên một chiếc nhà thuyền
nhỏ. Ông ấy thường sống hàng tháng trên chiếc nhà
thuyền đó; ông ấy thích sống trên nhà thuyền. Lúc đó
là đêm trăng tròn và ông ấy đang đọc sách trong
phòng, một ca bin nhỏ, chỉ với một cây nến nhỏ, và
ông ấy đang đọc về thẩm mĩ - cái đẹp là gì? Và trăng
tròn bên ngoài, và tiếng chim cu cu vọng từ phía bờ xa,
và trăng phản chiếu khắp trên hồ, và cả hồ ánh lên
bàng bạc...! Đó là một đêm vô cùng yên lặng, không ai
xung quanh, ngoại trừ tiếng chim cu cu vọng lại. Thỉnh
thoảng một con chim bay qua thuyền, hay một con cá
quẫy trong hồ - và những âm thanh đó làm sâu lắng
thêm cho cái im lặng này. Và ông ấy đang nghiền
ngẫm trên cuốn sách vĩ đại về thẩm mĩ trong việc tìm
kiếm định nghĩa cái đẹp là gì.
Mệt mỏi, cạn kiệt, vào giữa đêm, ông ấy thổi tắt
nến... và ông ấy sửng sốt, ngạc nhiên. Khi ông ấy thổi
tắt nến, ánh trăng len qua cửa sổ, qua cửa ra vào, vào
trong cabin. Ánh sáng lờ mờ của cây nến đã giữ trăng
ở ngoài. Bỗng nhiên, ông ấy nghe thấy tiếng chim cu
cu vọng từ phía bờ xa xa. Bỗng nhiên, ông ấy trở nên
nhận biết về im lặng vô cùng, chiều sâu của im lặng
bao quanh chiếc thuyền. Một con cá nhảy lên, và ông
ấy bước ra... Ông ấy chưa bao giờ thấy đêm đẹp như
vậy. Vài đám mây trắng nổi trên trời, và trăng và hồ và
tiếng chim cu cu vọng lại... ông ấy đã được mang vào
một thế giới khác.
Ông ấy viết vào nhật kí của ông ấy, "Tôi ngốc quá!
Tôi đã tìm kiếm trong sách vở về đẹp là gì, mà cái đẹp
đang đứng bên ngoài cửa nhà tôi, gõ cửa nhà tôi! Tôi
đã đi tìm cái đẹp, bằng cây nến nhỏ, và ánh sáng cây
nến nhỏ đã giữ ánh trăng ở ngoài." Ông ấy đã viết vào

nhật kí, "Dường như là bản ngã nho nhoi của tôi đang
giữ Thượng đế ở ngoài - bản ngã nhỏ bé, như ánh nến
mờ nhạt, giữ ánh sáng của Thượng đế ở ngoài. Và ngài
đang đợi ở ngoài. Mọi điều tôi cần làm là gấp sách lại,
thổi tắt cây nến bản ngã đi và bước ra ngoài - và nhìn!"

Prabhati, bạn hỏi tôi, "Cái gì có?"
Cái này... tính này... khoảnh khắc này bạn được
bao quanh bởi cái đang đấy. Nó là ở bên trong bạn và
bên ngoài bạn. Tiếng líu lo của chim... và cái im lặng
này... và bạn hỏi tôi cái gì vậy?
Đấy không phải là câu hỏi có thể được trả lời. Nó
là câu hỏi nguy hiểm nữa, nguy hiểm theo nghĩa rằng
bạn có thể tìm thấy vài người ngu trả lời nó, và thế rồi
bạn có thể níu bám lấy câu trả lời đó. Ai đó sẽ nói,
"Thượng đế đấy," và bạn sẽ níu bám lấy câu trả lời đó.
Và thế rồi câu hỏi khác sẽ nảy sinh: "Thượng đế là
gì?" Và bây giờ bạn sẵn sàng rơi vào cuộc truy hồi vô
hạn.

Một người có lần đã làm cho Thượng đế một ân
huệ, nhận được phần thưởng của ngài là lời hứa trả lời
cho một câu hỏi, câu hỏi bất kì. Nhưng Thượng đế đã
cảnh báo anh ta rằng vài điều chỉ có thể được kinh
nghiệm chứ không thể được giải thích. Khi anh ta đắn
đo suy nghĩ và rồi bắt đầu hỏi câu hỏi vũ trụ của mình,
Thượng đế cảnh báo anh ta về kinh nghiệm so với với
giải thích.
Người này không thể kìm được câu hỏi của mình
mình lâu hơn nữa, và đã yêu cầu được biết, "Cái gì ở

sau cái chết?" và Thượng đế giết chết anh ta ngay chỗ
anh ta đứng.
Thượng đế còn có thể làm được gì khác? Ông ấy
giết chết anh ta ngay chỗ anh ta đứng, lập tức ông ấy
giết chết anh ta, bởi vì nếu bạn muốn biết cái gì sau cái
chết, bạn phải chết chứ! Rất cẩn thận vào. Bạn có thể
được trao cho lời giải thích về mọi thứ, cái thuộc về
thế giới này, thuộc về thế giới khách quan. Với điều đó
bạn nên hỏi nhà khoa học; ông ấy biết, đó là mối quan
tâm của ông ấy. Đừng hỏi nhà huyền môn về những
thứ có thể được giải thích; đó không phải là mối quan
tâm của ông ấy. Mối quan tâm của ông ấy là với những
điều có thể được kinh nghiệm.
Đừng hỏi tôi câu hỏi nào mà không thể được giải
thích. Ở trong sự hiện diện của tôi, cảm thấy sự hiện
diện của tôi, cởi mở và mong manh. Chúng ta ở đây để
kinh nghiệm điều gì đó. Mọi lời giải thích về những bí
ẩn của cuộc sống đều không là gì ngoài việc giải thích
xa xôi cho những điều đó.
Nghĩa cơ sở, gốc rễ của từ 'giải thích -
explaination' là 'làm phẳng một vật ra' - nhưng làm
phẳng một vật là phá huỷ nó. Nếu bất kì ai có thể trả
lời, "Thượng đế là gì? Tình yêu là gì? Lời cầu nguyện
là gì? Cái gì?" người đó đã làm phẳng một kinh
nghiệm cực kì đẹp, không thể tin được thành những lời
xấu xí. Mọi lời đều không thích hợp.
Hiện hữu và biết! Tĩnh lặng và biết! Bạn ở đây
không phải để học thêm lời; bạn ở đây để được ở sâu
hơn vào trong im lặng. Dùng lời của tôi như những
hướng dẫn tới sự tồn tại vô lời.

Nó là điều này! Bạn đang hỏi về cái gì? Cảm thấy
khoảnh khắc này... trong tính toàn bộ của nó, trong
mọi chiều hướng của nó, và cái đẹp lớn lao sẽ giáng
xuống, phúc lớn, phúc lành lớn lao sẽ bao quanh bạn;
duyên dáng, cực lạc rất im lặng sẽ bắt đầu dâng lên
trong bạn. Bạn sẽ cảm thấy ngất ngây với sự tồn tại.
Ngất ngây với sự tồn tại đi - đó là cách duy nhất để
biết nó.

**************************************************

#6Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Ý kiến của thầy về khoa học luận là gì?

Aida, điều đó là kì quái đấy... tôi ngụ ý chuyện
nhảm nhí, hoàn toàn nhảm nhí! Nhận biết về những
điều ngu xuẩn như vậy đi. Họ đi vào thế giới nhân
danh khoa học bởi vì khoa học có công trạng, cho nên
bất kì loại ngu xuẩn nào cũng có thể giả vờ có tính
khoa học. Và mọi người đều rất bị ấn tượng bởi những
từ: 'khoa học luận'. Mọi người rất bị ấn tượng bởi các
đồ vật, các công cụ bóng loáng... Con người không
nhận biết và vô ý thức về bản thân mình tới mức người
ta thành nạn nhân của bất kì cái gì! Bạn chỉ cần tuyên
truyền về nó, quảng cáo nó - và thế kỉ của chúng ta có
một phương tiện hiệu quả nhất để quảng cáo, để tuyên
truyền mọi thứ.

Khoa học luận không là gì ngoài một loại thôi
miên - nó có thể thôi miên bạn. Và tôn giáo thực chính
là cái đối lập lại: nó giải thôi miên. Bạn đã bị thôi
miên, bạn không cần khoa học luận nào thêm nữa. Bạn
cần quá trình giải thôi miên, bạn cần hoá giải ước định,
bạn cần thoát ra khỏi mọi loại ý thức hệ. Khoa học
luận là một ý thức hệ. Nó nói theo thuật ngữ khoa học,
và khoa học có sức hấp dẫn lớn. Khoa học là mê tín
hiện đại.
Con người hiện đại lập tức bị ấn tượng nếu bạn
mang khoa học vào. Cho nên bất kì cái gì và mọi thứ
đều phải được chứng minh một cách khoa học. Và có
những kẻ bất tài thậm chí còn đi chứng minh Thượng
đế một cách khoa học, và những người cố gắng đo
trạng của thái thiền - cứ dường như thiền có thể được
đo. Bất kì cái gì bạn có thể đo được đều sẽ là tâm trí;
vô trí không thể được đo. Tất cả những sóng alpha của
bạn, vân vân, đều sẽ chẳng ích gì. Chúng chỉ có thể đi
vào tâm trí tới mức nào đó. Nhưng thiền chỉ bắt đầu
nơi tâm trí chấm dứt.
Tâm trí là đo được, bởi vì tâm trí là cỗ máy.
Nhưng vô trí là không thể đo được, nó không có giới
hạn. Cho nên tất cả những cái vô nghĩa này cứ nhân
danh việc đo… và mọi người rất bị ấn tượng. Họ ngồi
trước những đồ vật bóng loáng - nó cho ấn tượng về
khoa học - dây dợ được gắn vào đầu, vào tay, giống
như điện tâm đồ. Họ đang cố gắng hình dung ra im
lặng bên trong. Điều đó là không thể được! Bất kì cái
gì bạn ghi đều là tâm trí. Mọi sóng đều là của tâm trí.

Thiền là vô sóng bởi vì nó vô ý nghĩ. Thiền không
thể được ghi lại; không điện thiền đồ, không máy nào
có thể ghi được nó. Nó rất khó nắm bắt, nó rất chủ thể,

nó không thể bị rút thành đối thể. Nhưng bởi vì tâm trí
phương Tây rất có tính đối thể, được huấn luyện trong
khoa học, bây giờ có những kẻ bất tài quanh quẩn đâu
đây, những người kiếm chác được bởi sự hấp dẫn này
và sự huấn luyện này.
Khoa học luận là một trong những tôn giáo giả đó.
Tôn giáo thực không có nhu cầu về điều như vậy.
Khoa học luận đang phá huỷ tâm trí con người.
Con người hiện đại đang ở trong tình huống đặc
biệt: các tôn giáo cũ đã đánh mất sự kìm kẹp của
chúng, sự tín nhiệm của chúng, còn tôn giáo mới chưa
tới - có lỗ hổng. Con người không thể sống mà không
có tôn giáo, điều đó là không thể được; tôn giáo là nhu
cầu thế. Cho nên nếu cái đúng không có sẵn, cái giả
trở thành phổ biến, cái giả trở thành cái thay thế. Khoa
học luận là tôn giáo giả, và có nhiều thứ như khoa học
luận.
Tôn giáo thực bao gồm việc trở nên im lặng hoàn
toàn, vô điều kiện, không bị thôi miên. Nó đi ra ngoài
tâm trí, ra ngoài ý thức hệ; nó đi ra ngoài kinh sách và
bên ngoài tri thức. Nó đơn giản rơi vào trong lãnh thổ
riêng của bạn, trở thành im lặng hoàn toàn, không biết
tới điều gì, và vận hành từ trạng thái của không biết, từ
hồn nhiên đó. Khi bạn vận hành từ hồn nhiên, hành
động của bạn có cái đẹp của riêng chúng. Đó là điều
đức hạnh là gì - aes dhammo sanantano.

**************************************************

#6Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Phân tâm không thể giải quyết được vấn đề của
con người sao? Tôn giáo có thực sự cần chút nào
không?

Neelima, phân tâm là thứ hời hợt - có ích nhưng
rất nông cạn. Nó chỉ phân tích tình trạng bất thường bề
mặt của tâm trí bạn. Nó tốt hơn khoa học luận nhiều,
chắc chắn đấy, bởi vì ít nhất nó phân tích thực tại hiện
thời. Nó liên quan tới tâm trí mà bạn đã có. Nó cố
gắng thấm vào trong vô thức của bạn, vào trong phần
bị kìm nén của tâm trí bạn. Nó có thể giúp bạn, nhưng
nó không thể giải quyết được mọi vấn đề của bạn bởi
vì tầm với của nó rất hạn chế. Do đó, Freud đã không
thể thoả mãn, ông ấy chỉ có thể chạm tới một phần của
tâm trí bạn. Adler đã chạm tới phần khác của tâm trí
bạn - ông ấy cũng không thể thoả mãn được. Jung
chạm tới phần khác nữa của tâm trí bạn - ông ấy đã
không thoả mãn, bởi vì bộ phận là bộ phận và vấn đề
thuộc về toàn thể.
Assagioli đi sâu hơn một chút so với cả ba người
này. Ông ấy vứt phân tâm đi và bắt đầu gọi nỗ lực của
mình là ‘Tổng hợp đồng bộ’. Điều đó có tốt hơn chút ít
- ông ấy tổng hợp. Freud là người cuồng tín; ông ấy
tuyên bố rằng bất kì điều gì ông ấy nói đều là chân lí
và là chân lí duy nhất và chân lí toàn thể. Và bất kì ai
chống điều đó là chống chân lí. Không thể có khả năng
khác - đây là con đường duy nhất. Người cuồng tín
bao giờ cũng tuyên bố, "Đây là con đường duy nhất."

Người cuồng tín không cho phép cuộc sống có sự
phong phú của nó, tính đa dạng của nó.
Và Adler cũng vậy. Họ về cơ bản đều là đệ tử của
Freud, mặc dầu họ bác bỏ tri thức của ông ấy. Nhưng
họ không bao giờ bác bỏ chủ nghĩa cuồng tín cơ sở của
ông ấy. Họ bác bỏ điều ông ấy nói, nhưng họ không
bao giờ có thể bác bỏ ấn tượng mà ông ấy đã để trên
con người họ.
Jung cũng là một tín đồ, một đệ tử, thế rồi đã nổi
dậy chống ông ấy. Nhưng ngay cả trong nổi dậy của
ông ấy, sâu bên dưới, ông ấy vẫn còn là cùng con
người đó - cùng sự nhấn mạnh và việc tuyên bố cái
toàn thể, việc biết cái toàn thể.
Assagioli là tốt hơn nhiều, vì ông ấy nói cả ba
người này đều nói điều có nghĩa nhưng họ là bộ phận -
họ phải được tổng hợp lại. Cách tiếp cận tổng hợp
được cần để tổ hợp tất cả những nỗ lực này lại. Nhưng
Assagioli phạm sai lầm rất cơ bản. Bạn có thể giải
phẫu thân thể con người để biết cái gì bên trong; một
khi bạn đã giải phẫu nó rồi bạn sẽ không tìm thấy linh
hồn nào - đó không phải là cách để tìm ra linh hồn.
Bạn sẽ thấy tay và chân và đầu và mắt và tim và thận,
cả nghìn thứ bạn sẽ tìm thấy, và bạn có thể làm ra một
danh sách dài... nhưng bạn sẽ không tìm thấy linh hồn.
Và một cách tự nhiên bạn sẽ kết luận không có linh
hồn.
Đó là điều Freud, Adler và Jung đã làm. Thế rồi
tới Assagioli. Ông ấy nói, "Điều này không đúng. Giải
phẫu không phải là con đường, phân tích không phải là
con đường - tôi sẽ thử tổng hợp." Thế là ông ấy gắn tất
cả những bộ phận lại, khâu chúng với nhau; làm việc
khâu thật khéo, nhưng dầu vậy người này vẫn không

sống, linh hồn không có đó. Một khi linh hồn đã ra đi,
chỉ bằng việc gắn thân thể bạn không thể đem nó được.
Cho nên bây giờ nó là cái xác - có tốt hơn Freud, Adler
và Jung, bởi vì họ chỉ giống như những người mù
trong chuyện cách ngôn, năm người mù, tới xem voi.
Từng người đều tuyên bố, "Kinh nghiệm của tôi về voi
là con voi." Người đã chạm vào chân voi nói rằng voi
không là gì ngoài cái cột chống... vân vân và vân vân.
Freud, Jung và Adler tất cả đều là người mù, cảm nhận
từng bộ phận của con voi. Và con voi của cuộc sống
thực sự khổng lồ, to lớn.
Bây giờ điều Assagioli đã làm là ở chỗ ông ấy đã
thu thập ý kiến của năm người mù và ông ấy đã gắn tất
cả những ý kiến này với nhau, và ông ấy nói, "Đây
mới là điều đúng. Tôi đã làm việc tổng hợp, đây mới là
chân lí." Đây không phải là cách để tìm ra chân lí.
Bằng việc gắn ý kiến của năm người mù lại, bạn không
đi tới được con voi thật.
Con voi thật cần mắt để thấy. Phân tâm là mù và
tổng hợp đồng bộ cũng vậy - khôn hơn chút ít những
mù vẫn hoàn mù. Họ không thể giải quyết được vấn đề
của con người bởi vì vấn đề cơ sở của con người
không phải là tâm lí mà là tâm linh, không phải là tâm
lí mà là tính tồn tại. Con người không chỉ là thân thể;
bằng không các nhà sinh lí đã giải quyết được mọi vấn
đề của con người. Và con người không chỉ là tâm lí;
bằng không các nhà tâm lí đã giải quyết được vấn đề
của con người. Con người còn nhiều hơn nữa kia: con
người là sự thống nhất hữu cơ - thân thể, tâm trí, linh
hồn... ba cái này cộng thêm điều gì đó bí ẩn: cái thứ tư.
Các nhà huyền môn ở Ấn Độ đã gọi nó là cái thứ tư -
turiya. Họ không cho nó cái tên nào bởi vì không tên
nào có thể được đặt cho nó.

Thân thể, tâm trí, linh hồn, ba cái này là có thể đặt
tên được. Thân thể sẵn đấy cho quan sát khách quan.
Tâm trí sẵn đấy cho cả quan sát khách quan và chủ
quan - bạn có thể quan sát nó từ bên ngoài như hành vi
và từ bên trong như ý tưởng, ý nghĩ, tưởng tượng, kí
ức, bản năng, cảm giác vân vân và vân vân. Linh hồn
sẵn đấy chỉ như kinh nghiệm chủ quan. Và bên ngoài
tất cả ba cái này là cái thứ tư giữ cho chúng gắn với
nhau: turiya - cái thứ tư, không đặt tên được. Cái thứ
tư đó đã được gọi là Thượng đế, cái thứ tư đó đã được
gọi là niết bàn, cái thứ tư đó đã được gọi là chứng ngộ.
Vấn đề của con người là phức tạp. Nếu con người
chỉ là thân thể, mọi sự đã đơn giản; khoa học đã giải
quyết mọi sự. Nếu như con người chỉ là tâm trí, tâm lí
học đã là đủ. Nhưng con người là hiện tượng rất phức
tạp, bốn chiều. Và chừng nào bạn chưa biết cái thứ tư,
chừng nào bạn chưa đi vào cái thứ tư, bạn vẫn không
biết con người trong tính toàn bộ của nó. Và không
biết con người trong tính toàn bộ của nó, vấn đề không
thể được giải quyết.
Phân tâm có thể cho bạn cách tiếp cận triết lí,
nhưng không cho biến đổi có tính tồn tại.

Trong những ngày cuối của cuộc hội nghị của các
nhà phân tâm, một trong các tiến sĩ trình bày bài giảng
kết thúc đã để ý tới một nữ tiến sĩ hấp dẫn đang bị một
ông ngồi bên cạnh cứ lấy chân đá đá vào.
"Ông ấy có làm cô bận tâm không?" người quan
sát hào hoa hỏi người đàn bà.
"Sao tôi phải bận tâm?" cô ấy đáp. "Đấy là vấn đề
của ông ấy."

Phân tâm học, tâm thần học, tâm lí học có thể cho
bạn cách tiếp cận triết lí tới cuộc sống. Chúng có thể
cho bạn phẩm chất của việc ở xa vấn đề của cuộc sống,
nhưng vấn đề không được giải quyết. Và nhà tâm thần
thậm chí còn không giải quyết được vấn đề của riêng
mình - làm sao ông ấy có thể giúp người khác giải
quyết vấn đề của họ được?
Ngay cả Sigmund Freud không phải là vị phật, vẫn
còn đầy vấn đề - thực ra còn nhiều hơn cái gọi là con
người. Ông ấy rất sợ chết, sợ chết quá mức - sợ đến
nỗi ngay cả từ 'chết' các đệ tử cũng không được thốt ra
trước ông ấy, bởi vì một hay hai lần, chỉ nghe thấy từ
'chết' là ông ấy đã ngất xỉu. Chỉ mỗi từ 'chết' là đủ!
Ông ấy sẽ ngất đi, ông ấy sẽ trở nên vô ý thức, ông ấy
ngã khỏi ghế của mình.
Freud đưa dục ra ánh sáng. Ông ấy đã làm một
việc lớn: ông ấy phá huỷ điều kiêng kị, điều kiêng kị
đã được duy trì nhiều thế kỉ. Dục là chủ đề kiêng kị,
không được nói tới. Ông ấy đã đem nó ra ánh sáng.
Ông ấy đã làm một công việc tiên phong - ông ấy nên
được kính trọng về điều đó. Nhưng chết là điều kiêng
kị với ông ấy; ông ấy thậm chí không thể nghe từ này
được. Dường như có mối nối.
Đây là quan sát của tôi: rằng đã có hai loại xã hội
trên thế giới - một xã hội làm cho dục thành kiêng kị,
thế thì nó không sợ chết; và xã hội kia vứt bỏ kiêng kị
với dục, thế thì nó lập tức trở nên sợ chết. Chúng ta
vẫn chưa có khả năng tạo ra xã hội trong đó cả dục lẫn
chết đều không phải là điều kiêng kị.
Các sannyasin của tôi phải làm điều đó.

Tại sao điều đó xảy ra như vậy?
Chẳng hạn, ở Ấn Độ, dục là kiêng kị - bạn không
nên nói về nó - nhưng chết không phải là kiêng kị. Bạn
có thể nói về nó; thực ra, mọi thầy giáo tôn giáo đều
nói về chết, nói đi nói nói tái nói hồi về nó. Họ tạo ra
nhiều sợ trong mọi người tới mức mọi người bắt đầu
trở nên có tính tôn giáo. Mọi kinh sách Ấn Độ đều đầy
những mô tả về chết. Chết dường như là một trong
những chủ đề được nói tới nhiều nhất ở Ấn Độ - không
phải dục. Dục là kiêng kị. Dục là cuộc sống, và nếu
bạn chọn cái chết bạn không thể chọn dục được - hoặc
nọ hoặc kia thôi.
Freud đã làm việc phục vụ lớn lao cho nhân loại;
ông ấy đã đem dục từ góc tối của linh hồn ra thế giới
công khai. Nhưng lập tức chết trở thành kiêng kị; bản
thân ông ấy sợ chết. Chúng là các cực đối lập, và con
người toàn bộ sẽ có khả năng để hiểu cả hai.
Và con người toàn bộ, con người toàn thể, là định
nghĩa của tôi về con người linh thiêng. Người đó sẽ có
khả năng nói về dục, quan sát, phân tích, mổ xẻ, đi vào
trong nó, thiền - và người đó sẽ có khả năng làm cùng
điều đó với chết... Bởi vì bạn không phải là dục không
là chết: bạn là nhân chứng cho cả hai. Bạn không sống
không chết: bạn là nhân chứng cho cả hai. Việc chứng
kiến này sẽ đem bạn tới cái thứ tư - turiya. Và chỉ khi
bạn đi vào cái thứ tư mọi vấn đề biến mất, tan biến.
Trước điều đó, vấn đề vẫn còn lại.
Bạn có thể trở thành rất, rất chuyên gia trong phân
tích vấn đề - điều đó sẽ chẳng có ích gì.

Một người đàn bà đẹp tới thăm nhà phân tâm. "Cởi
quần áo ra," nhà phân tâm nói ngay khi bà ấy bước
vào.
"Nhưng thực sự tôi..."
"Tôi bảo bà cởi quần áo ra," bác sĩ tâm thần nhấn
mạnh không để cho bà ấy có thời gian trả lời.
"Nhưng bác sĩ ơi, tôi tới bởi vì tôi có vấn đề và tôi
nghĩ..."
"Đừng nghĩ ngợi gì cả. cởi quần áo ra và đừng phí
thời gian của tôi," bác sĩ tâm thần khăng khăng thậm
chí còn thô lỗ hơn.
Người đàn bà sửng sốt và bối rối cởi quần áo ra và
lập tức bác sĩ tâm thần nhảy lên bà ta.
Sau nửa giờ, bác sĩ tâm thần vừa cài quần lại, nhìn
vào người đàn bà vẫn còn không hiểu điều gì vừa xảy
ra và bình thản nói, "Được rồi, bởi vì tôi đã giải quyết
được vấn đề của tôi, ta xem liệu tôi có thể giải quyết
được việc của bà không."

Chỉ vị phật mới có thể giúp bạn giải quyết vấn đề
của bạn - người không có vấn đề gì của riêng mình.
Tôn giáo không thể bị vứt bỏ, không bao giờ có
thể bị vứt bỏ. Tôn giáo không phải là cái gì đó hời hợt
và ngẫu nhiên: nó là một nhu cầu bản chất, nó tuyệt
đối cần thiết.
Neelima, bạn hỏi tôi, "Phân tâm không thể giải
quyết được vấn đề của con người sao?" Không. Nó có
thể giúp bạn hiểu vấn đề của bạn thêm một chút, và
bằng việc hiểu vấn đề của mình bạn có thể kiểm soát

được cuộc sống của mình theo cách nào đó, tới chừng
mực nào đó. Phân tâm có thể giúp cho bạn trở nên
bình thường hơn một chút so với bạn đang thế; nó có
thể giảm cái bất thường bừng bừng, kích động của bạn
thành không gian bình thản hơn và điềm tĩnh hơn chút
ít - có vậy thôi. Nó có thể đưa nhiệt độ của bạn xuống
một chút, nhưng nó không thể giải quyết được. Nó chỉ
có thể giúp đỡ, nó chỉ có thể an ủi.

Tôi đã nghe nói về một người hay hút ba điếu
thuốc một lúc - đó là nỗi ám ảnh của anh ta. Bây giờ,
điều đó gây ngượng ngùng lắm; mọi người sẽ nhìn vào
anh ta, điều anh ta đang làm, và anh ta cảm thấy rất
bẽn lẽn và xấu hổ. Nhưng điều đó là không thể được,
anh ta không thể đừng làm điều đó được, anh ta phải
hút theo cách đó thì mới đã; bằng không thì anh ta sẽ
còn rất không được thoả mãn.
Anh ta đã cố gắng mọi cách có thể, bất kì điều gì
được gợi ý cho anh ta. Chẳng cái gì có tác dụng cả.
Thế rồi ai đó gợi ý, "Anh tới nhà phân tâm đi."
Sau một năm làm phân tâm và cả nghìn đô la phí
hoài, một người bạn hỏi anh ta, "Phân tâm có giúp ích
gì cho anh không?"
Anh ta nói, "Chắc chắn có!"
Nhưng người này không thể tin được điều đó, bởi
vì người đó thấy anh ta vẫn hút ba điếu thuốc lá. Thế là
người này hỏi, "Nhưng anh vẫn hút ba điếu thuốc cơ
mà, cho nên tôi không hiểu làm sao việc phân tâm có
ích được cho anh."

Anh ta nói, "Bây giờ tôi không còn xấu hổ nữa!
Nhà phân tâm của tôi đã giúp cho tôi hiểu rằng điều
này là bình thường. Cái gì sai trong nó nào? Vài người
hút một điếu, tôi đã nghe nói về người hút hai điếu, tôi
thì hút ba điếu! Khác biệt chỉ là số lượng - và có gì sai
trong việc hút ba điếu thuốc đâu? Trong một năm nhà
phân tâm của tôi cứ kiên trì nói rằng chẳng có gì sai
trong đó cả; bây giờ tôi không cảm thấy xấu hổ nữa.
Thực ra, tôi là người duy nhất trên thế giới hút ba điếu
thuốc đồng thời! Bây giờ tôi cảm thấy mình siêu đấy."

Phân tâm có thể cho bạn nhiều an ủi. Nó có thể
giúp bạn hợp lí hoá, nó có thể giúp bạn bình thường
hoá, nó có thể giúp bạn không cảm thấy xấu hổ -
nhưng nó không giải quyết được. Nó không thể giải
quyết được. Vấn đề chưa bao giờ được giải quyết nếu
bạn vẫn còn ở cùng bình diện của sự tồn tại. Đây là cái
gì đó rất nền tảng cần được hiểu.
Nếu bạn muốn giải quyết một vấn đề thì bạn phải
vươn lên trên bình diện vấn đề đó. Nó không thể được
giải quyết trên cùng bình diện. Khoảnh khắc bạn đạt
tới bình diện cao hơn, các vấn đề của bình diện thấp
hơn đơn giản biến mất. Đó là cách thức của tôn giáo:
giúp bạn đi lên cao hơn và cao hơn nữa, cao nữa.
Khoảnh khắc bạn đạt tới trạng thái thứ tư, turiya, mọi
vấn đề biến mất, tan biến, mất đi ý nghĩa. Không phải
là bạn đã tìm thấy giải pháp, không, không phải chút
nào - tôn giáo không quan tâm tới các giải pháp.
Không giải pháp nào có thể giải quyết cho dù là một
vấn đề; nó có thể giúp bạn giải quyết vấn đề này,
nhưng nó sẽ tạo ra vấn đề khác. Bản thân giải pháp có

thể trở thành vấn đề. Bạn có thể trở thành bị gắn bó
quá nhiều và phụ thuộc vào giải pháp này...
Điều đó xảy ra gần như mọi ngày trong cuộc sống
của bạn: bạn ốm, bạn uống thuốc nào đó, nó có tác
dụng, và thế rồi bạn trở nên phụ thuộc vào thuốc này;
thế rồi bạn đâm nghiện, thế rồi bạn không thể bỏ được
thuốc này. Bây giờ thuốc này có hiệu quả phụ của nó -
bây giờ chúng bắt đầu hành hạ bạn. Bây giờ để trị
chúng bạn sẽ cần thuốc khác... và cứ thế cứ thế mãi.
Không có chấm dứt cho điều đó.
Không giải pháp nào có thể thực sự trở thành giải
pháp cả. Tôn giáo có cách tiếp cận hoàn toàn khác. Nó
không cho bạn giải pháp, nó đơn giản giúp bạn nâng
mức độ tâm thức của bạn lên. Tôn giáo là việc nâng
tầm tâm thức lên. Nó nâng bạn lên cao hơn vấn đề, nó
cho bạn góc nhìn toàn cảnh từ trên cao. Bây giờ bạn
đứng trên đỉnh núi nhìn xuống thung lũng... và vấn đề
của thung lũng đơn giản là vô nghĩa. Chúng không có
ý nghĩa gì với người đang đứng trên đỉnh núi ngập
nắng. Chúng đơn giản mất đi mọi sự liên quan.

**************************************************

#6Câu hỏi thứ năm:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi đã ở đây chín tháng rồi và đang làm sinh ra
câu hỏi thứ nhất của tôi.
Hôm nay trong bài giảng thầy nói, "Dục là mệt
mỏi..." Với tôi, dục là sự bùng nổ dịu ngọt nhất
của âm nhạc, màu sắc, ánh sáng, đầy ắp và bùng
ra mọi tế bào thân thể tôi. Nó đang trượt ra khỏi

mạng lưới làn da tôi, tan chảy với tình yêu trong
cánh tay của Thượng đế, bị mất đi một cách thanh
nhã, ra ngoài thời gian, ra ngoài tâm trí - là
Thượng đế. Mà những lời này không nói điều đó.
Chính những kinh nghiệm này dẫn tôi tới thầy. Tôi
thậm chí không có đến một thoáng nhìn về "cái
ngu xuẩn của dục". Dục là cội nguồn thảnh thơi
sâu lắng nhất của tôi và là năng lượng vô tận,
cũng như là phúc lạc cao nhất: cái đối lập với mệt
mỏi.
Đàn ông có thấy mệt mỏi vì dục hơn đàn bà không,
hay tôi còn ở xa mới đi tới được việc vứt bỏ nó?
Hay cái gì? Xin thầy bình luận.

Apurna, kinh nghiệm của bạn hoàn toàn hợp thức,
nhưng bởi vì nó là cực lạc như vậy, kích động như
vậy, bao lâu bạn có thể tiếp tục lặp lại nó được? Sớm
hay muộn một khoảnh khắc sẽ tới khi nó trở thành lặp
lại, cùng một thứ, và thế rồi nó sẽ bắt đầu mất đi vui vẻ
của nó. Khoảnh khắc đó nó trở thành mệt mỏi.

Kinh nghiệm của bạn hoàn toàn hợp thức, nhưng
rất giới hạn. Cuộc sống còn nhiều hơn nhiều. Nó bắt
đầu trong dục, nhưng nó không kết thúc trong dục. Tôi
hoàn toàn sung sướng là bạn đang tận hưởng dục - tận
hưởng nó thật nhiều nhất đi khi nó còn kéo dài. Và bạn
càng tận hưởng nó, bạn càng sớm bị mệt mỏi vì nó.

Nhưng không cần lo nghĩ về điều đó. Tôi đã trả lời
câu hỏi của ai đó rồi, người mệt mỏi về nó. Người đó
đã sống tất cả những vui vẻ này, người đó đã chơi với
tất cả những trò chơi này. Bạn đang cho những trò
chơi này cái tên lớn lao - đây toàn là gấu nhồi bông
thôi. Bạn có thể gọi gấu nhồi bông của mình là

"Thượng đế," và chẳng có gì sai cả... Khi đứa trẻ mang
theo con gấu nhồi bông của mình và gọi nó là "Thượng
đế" và không thể ngủ được mà không có gấu, điều đó
rất thảnh thơi, và nếu bạn lấy con gấu bông đó đi nó
trở nên rất căng thẳng! Cho dù con gấu bông bẩn
thỉu... mà nó vẫn cứ mang theo mình. Ngay cả bố mẹ
cũng cảm thấy xấu hổ bởi vì nếu họ đi nghỉ mà nó
mang con gấu bông đó đi theo - bẩn thỉu, bốc mùi...
nhưng đứa trẻ không thể sống mà thiếu nó được. Nó là
chính cuộc sống của đứa bé. Nhưng rồi một ngày nào
đó, hi vọng vậy, nó sẽ mệt mỏi về con gấu và nó sẽ vứt
con gấu vào góc nhà và sẽ quên hết về con gấu mãi
mãi.
Thực sự là khó trả lời câu hỏi của bạn, bởi vì câu
hỏi của một người là liên quan chỉ với người đó, và
câu trả lời tôi đưa ra chỉ liên quan tới người đó. Điều
đó không thể là kinh nghiệm của bạn được.

Một hôm tôi đã nói rằng đồng dục là hư hỏng. Lập
tức vài bức thư được gửi tới - giận lắm, bởi vì có vài
người đồng dục ở đây. Và họ nói, "Thầy đang nói về
cái gì vậy? Chúng tôi đã tới đây chỉ bởi vì chúng tôi
nghĩ rằng thầy chấp nhận tất cả, rằng thầy không bác
bỏ, không lên án điều gì." Tôi đã không lên án. Nhưng
câu hỏi và câu trả lời là dành cho một người đặc biệt.
Bạn không cần lo nghĩ về nó; nó có thể không liên
quan tới bạn.
Với người đồng dục, tính đồng dục là tôn giáo -
tôn giáo của người đó - người đó không tin vào dị dục.
Người đó nghĩ người dị dục có chút ít hư hỏng, hay ít
nhất cũng là những người lạc hậu, rất chính thống...
không nên tồn tại thêm nữa, không còn đương đại nữa
- họ đang nói những điều vô nghĩa gì thế nhỉ?

Với người dị dục, người đồng dục dường như rất
hư hỏng, thú tính, thậm chí còn thấp hơn con vật. Và
với người đồng dục, người dị dục mang thú tính, bởi vì
đồng dục là phát minh của con người, con người cao
siêu. Con vật không đồng dục - ít nhất không trong
trạng thái hoang dã của chúng. Vâng đôi khi trong
vườn thú cũng có, chúng trở nên bị ảnh hưởng bởi con
người, chúng học từ con người. Nhưng trong hoang dã
chúng không đồng dục.
Cho nên đồng dục là cái gì đó đặc biệt mà con
người đã phát minh ra. Nó là hiện tượng xác định.
Cũng như Aristotle nói con người là sinh linh hợp lí
hoá, người đồng dục nói con người là sinh linh đồng
dục - chỉ con người có năng lực vươn lên tầm cao như
vậy. Dị dục rất bình thường: chó làm điều đó... nó
chẳng có gì đặc biệt cả! Người ta không nên ba hoa về
nó.

Hai con lạc đà tiến dần nhau trong sa mạc, những
người cưỡi chúng ăn vận hệt nhau trong bộ quấn sooc
dài quá cỡ Bermuda và đội mũ cát. Họ tạm dừng lại,
và những người cưỡi lên tiếng - bằng thứ nhấn giọng
tiếng Anh quá đáng:
"Nói tiếng Anh chứ?"
"Tất liên rồi."
"Làm văn phòng ngoại quốc à?"
"Chụp ảnh phim."
"Oxford à?"
"Cambridge."

"Đồng dục không?"
"Chắc chắn không!"
"Đáng thương!"
Và hai con lạc đà tiếp tục những con đường rời xa
nhau ngang qua sa mạc.

Tôi phải nói cho nhiều loại người - lạc đà có đó.
Cho nên nếu đấy không phải là câu hỏi của bạn, đừng
bị bận tâm với câu trả lời của tôi, quên hết nó đi. Nó
liên quan tới ai đó khác, người chín muồi hơn bạn
nhiều...

**************************************************

#6Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Lời cuối cùng của thầy là gì trước khi thầy đi khỏi
thế giới này?

Điều đó làm tôi nhớ tới câu chuyện mà George
Gurdjieff hay kể cho các đệ tử thân cận nhất. Câu
chuyện này là về một thầy vĩ đại trong quá khứ, vị
phật, ông này có một tín đồ tay phải, tự chỉ định, một
tín đồ trung thành hết năm nọ tới năm kia. Và khi thầy
đang trong phòng của mình trên giường chờ chết, mọi
tín đồ đều im lặng chờ đợi trước cửa mà không biết

phải làm gì và không thể tin được rằng thầy huyền
môn của họ đã thực sự chết.
Cuối cùng, tĩnh lặng buồn bã, mọi người nghe thấy
tiếng nói yếu ớt của thầy gọi tên tín đồ tay phải của
mình, và mọi tín đồ đều chăm chú nhìn anh ta khi anh
ta đi tới cánh cửa phòng thầy. Khi anh ta tới nắm đấm
cửa anh ta liếc nhìn các khuôn mặt đồng môn quanh
mình và hình dung ra sự ghen tị và kính trọng của họ
với mình vì là người duy nhất được gọi tới bên thầy
trong những khoảnh khắc cuối cùng của thầy. Anh ta
đã tưởng tượng sau cái chết của thầy anh ta sẽ dần nổi
lên thế nào từ căn phòng này như một thủ lĩnh mới của
hệ thống, một Peter-of-the-Rock thực sự.
Một cách yên tĩnh, anh ta đi vào căn phòng tối và
từ từ tới và quì bên cạnh giường. Thầy già gật đầu bảo
anh ta tới gần hơn, và anh ta nghiêng người ghé tai vào
mồm của ông già, và thầy thì thào, "Đéo mày."
Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

#7 Thìa có nếm canh không?

**Đêm dài làm sao với người gác,
Đường dài làm sao với lữ khách mệt lử,
Lang thang lâu sao qua nhiều kiếp
với người ngu bỏ lỡ con đường.
Nếu lữ khách không thể tìm ra
thầy hay bạn đi cùng mình,
để người đó đi một mình
hơn là đi cùng người ngu.
"Con ta, của cải của ta!"
Người ngu tự gây rắc rối cho mình.
Nhưng người đó làm sao có con hay của cải?
Người đó thậm chí không là người chủ riêng của
mình.
Người ngu biết mình là ngu
là khôn hơn nhiều.

Người ngu nghĩ mình khôn
thực sự là người ngu.
Thìa có nếm canh không?
Người ngu có thể sống cả đời
cùng với thầy
và vẫn lỡ con đường.
Lưỡi nếm canh.
Nếu ông thức trong hiện diện của thầy
một khoảnh khắc sẽ chỉ cho ông con đường.
Người ngu là kẻ thù riêng của mình.
Tai hoạ người đó gây ra phá huỷ của người đó.
Người đó chịu cay đắng làm sao!
Tại sao làm điều ông sẽ hối tiếc?
Tại sao mang nước mắt theo bản thân ông?
Làm chỉ điều ông không tiếc,
và rót đầy bản thân ông bằng vui vẻ.**

Con người là cây cầu giữa cái biết và cái không
biết. Vẫn còn bị giới hạn trong cái biết là kẻ ngu. Đi
tìm cái không biết là bắt đầu của trí huệ. Trở thành một
với cái không biết là trở thành người thức tỉnh, vị phật.

Nhớ lấy, lặp đi lặp lại, rằng con người vẫn chưa là
sự hiện hữu - con người đang trên đường, một lữ
khách, một người hành hương. Con người chưa ở nhà,
con người đang đi tìm nhà. Người nghĩ rằng mình
đang ở nhà là người ngu, vì thế thì việc tìm kiếm dừng
lại, thế thì việc tìm không còn nữa. Và khoảnh khắc

bạn dừng tìm tòi và tìm kiếm, bạn trở thành cái vũng
năng lượng tù đọng, bạn bắt đầu bốc mùi. Thế thì bạn
chỉ chết, thế thì bạn không sống chút nào.
Sống là trong tuôn chảy, sống là trong duy trì dòng
sông - bởi vì chỉ dòng sông sẽ đạt tới đại dương. Nếu
bạn trở thành cái ao tù đọng thế thì bạn chẳng đi đâu
cả. Thế thì bạn không thực sự sống. Người ngu không
sống, người đó chỉ giả vờ sống. Người đó không biết,
người đó chỉ giả vờ biết. Người đó không yêu, người
đó chỉ giả vờ yêu. Người ngu tự phụ.
Người trí huệ sống, yêu, người trí huệ truy tìm.
Người trí huệ sẵn sàng, bao giờ cũng sẵn sàng, đi vào
biển chưa lập bản đồ. Người trí huệ có tính phiêu lưu.
Người ngu sợ.
Khi Phật dùng từ 'ngu' bạn phải nhớ mọi nghĩa này
của từ này. Không phải là nghĩa thường mà Phật đem
cho từ 'ngu'. Với ông ấy, người ngu nghĩa là người
sống trong tâm trí và không biết gì về vô trí; người
sống trong thông tin, tri thức, và đã không nếm trải cái
gì của trí huệ; người sống cuộc sống vay mượn, bắt
chước, nhưng chẳng biết gì về bất kì cái gì nảy sinh
trong bản thể riêng của mình.
Với "người ngu" Phật ngụ ý người đã quá quen
thuộc với kinh sách, nhưng chưa nếm trải lấy một
khoảnh khắc của chân lí. Người đó có thể là học giả
lớn, rất thông thái - thực ra, người ngu là các học giả;
họ phải như vậy bởi vì đó là cách duy nhất để che giấu
cái ngu của họ. Người ngu là những người rất có học;
họ phải như vậy, bởi vì chính là chỉ qua những lời có
học, các lí thuyết, các triết lí mà họ mới có thể che
giấu cái dốt nát bên trong của họ, mà họ mới có thể

che giấu cái trống rỗng của họ, mà họ mới có thể tin
rằng họ cũng biết.
Nếu bạn muốn tìm thấy người ngu, vào các đại
học, vào các viện hàn lâm. Tại đó bạn sẽ tìm thấy họ -
trong dốt nát hoàn toàn của họ, nhưng vẫn giả vờ biết.
Họ chắc chắn biết điều người khác đã nói, nhưng đấy
không phải là cái biết thực. Người mù có thể thu thập
mọi thông tin có đó về ánh sáng, nhưng người đó sẽ
vẫn còn mù. Người đó có thể nói về ánh sáng, người
đó có thể viết ra các chuyên luận về ánh sáng; người
đó có thể rất láu lỉnh trong dự đoán, trong nguỵ tạo các
lí thuyết, nhưng dầu vậy người đó vẫn còn là người mù
và người đó chẳng biết gì về ánh sáng cả. Nhưng thông
tin mà người đó thu thập có thể không chỉ lừa dối
người khác, nó có thể lừa dối bản thân người đó nữa.
Người đó có thể bắt đầu nghĩ rằng mình biết, rằng
mình không mù nữa.
Khi Phật dùng từ 'ngu' ông ấy không ngụ ý đơn
giản là dốt nát, bởi vì nếu người dốt nát mà nhận biết
rằng mình dốt nát, người đó không phải là người ngu.
Và điều có thể hơn đối với người dốt nát là nhận biết
rằng mình dốt nát hơn chính cái gọi là những người có
học. Bản ngã của họ cũng được thổi phồng thế; rất khó
cho họ thấy - điều đó đi ngược lại đầu tư của họ. Họ đã
dành cả các kiếp sống của họ cho tri thức, và bây giờ,
thật là khó khăn, thật là gian nan để nhận ra sự kiện là
tất cả tri thức này là vô nghĩa, vô tích sự, vì bản thân
họ đã không nếm trải chân lí.
Người dốt nát có thể nhớ rằng mình dốt nát -
người đó chẳng có gì để mất; nhưng người có học,
người đó không thể nhận ra được rằng mình dốt nát -
người đó có nhiều thứ để mất. Người thông thái là

người ngu thực. Người dốt nát là hồn nhiên; người đó
biết rằng mình không biết, và bởi vì người đó biết rằng
mình không biết, vì người đó là người dốt nát, nên
người đó ở ngay ngưỡng cửa của trí huệ. Bởi vì người
đó biết mình không biết, người đó có thể truy tìm, và
cuộc truy tìm của người đó sẽ thuần khiết, không định
kiến. Người đó sẽ truy tìm mà không có kết luận nào.
Người đó sẽ truy tìm mà không là người Ki tô giáo hay
người Mô ha mét giáo hay người Hindu giáo. Người
đó đơn giản sẽ truy tìm như người truy tìm. Việc truy
tìm của người đó sẽ không bắt nguồn từ những câu trả
lời làm sẵn, việc truy tìm của người đó sẽ bắt nguồn từ
trái tim riêng của người đó. Việc truy tìm của người đó
sẽ không phải là sản phẩm phụ của tri thức, việc truy
tìm của người đó sẽ có tính tồn tại. Người đó truy tìm
bởi vì đó là vấn đề sống và chết với người đó. Người
đó truy tìm bởi vì người đó thực sự muốn biết. Người
đó biết rằng mình không biết - đó là lí do tại sao người
đó truy tìm. Việc truy tìm của người đó có cái đẹp của
riêng nó. Người đó không phải là người ngu, người đó
đơn giản dốt nát. Người ngu thật là người nghĩ mình
biết mà chẳng biết gì cả.
Socrates đã cố gắng làm cùng điều đó ở Athens:
ông ấy đã cố gắng làm cho những người ngu có học
này nhận biết rằng mọi học vấn của họ đều là giả, rằng
họ thực sự là người ngu, kẻ giả vờ, đạo đức giả. Một
cách tự nhiên, mọi giáo sư và mọi triết gia và mọi cái
gọi là nhà tư tưởng... và Athens đầy những họ. Athens
là thủ đô của tri thức vào những ngày đó. Cũng như
ngày nay mọi người nhìn vào Oxford hay Cambridge,
mọi người đã nhìn tới Athens. Nơi đó đầy những
người ngu có học, và Socrates đang cố gắng đưa họ
xuống đất, làm tan nát tri thức của họ, đang nêu ra

những câu hỏi - đơn giản theo cách nào đó, nhưng khó
được trả lời bởi những người chỉ đi góp nhặt tri thức từ
người khác.
Athens trở nên giận Socrates lắm. Họ đã đầu độc
con người này. Socrates là một trong những người vĩ
đại nhất đã từng bước đi trên trái đất; và điều ông ấy
đã làm rất ít người đã làm được. Phương pháp của ông
ấy là phương pháp cơ bản. Phương pháp của Socrates
để truy tìm là tới mức nó phơi bày người ngu là ngu.
Phơi bày người ngu là ngu là điều nguy hiểm, tất
nhiên, bởi vì người đó sẽ trả thù. Socrates đã bị đầu
độc, Jesus đã bị đóng đinh, Phật đã bị kết án.
Ngày Phật chết, Phật giáo bị tống khỏi đất nước
này, bị trục xuất khỏi đất nước này. Các học giả, các
nhà bác học, những người brahmins, không thể cho
phép nó còn lại. Nó quá không thoải mái cho họ. Công
kích cơ sở của nó là vào các brahmins, những kẻ ngu
có học, và một cách tự nhiên họ đều bị bực mình. Họ
đã không thể đối diện được với Phật, họ đã không thể
đương đầu được với ông ấy. Họ chờ đợi cơ hội của họ
theo cách tinh ranh: khi Phật chết, thế rồi họ bắt đầu
đánh các tín đồ. Khi ánh sáng đã tắt rồi, thế thì đó là
thời gian cho cú, cho người ngu có học, để cai trị đất
nước này lần nữa. Và kể từ lúc đó họ đã cai trị mãi cho
tới nay - họ vấn đang nắm quyền. Vẫn cùng những
người ngu đó!
Thế giới đã chịu đựng nhiều rồi. Con người có thể
đã trở thành vinh quang của trái đất, nhưng bởi vì
những kẻ ngu này... và bởi vì họ có quyền họ có thể
gây hại, và bởi vì họ có quyền họ có thể phá huỷ bất kì
khả năng nào, bất kì cơ hội nào cho con người tiến
hoá. Con người đã đi trong vòng tròn, và những người

ngu này không muốn con người trở thành trí huệ, bởi
vì nếu con người trở thành trí huệ những người ngu
này sẽ không ở đâu cả. Họ sẽ không trong quyền lực
nữa - về tôn giáo, chính trị, xã hội, tài chính, mọi
quyền lực sẽ mất đi. Họ có thể vẫn còn trong quyền
lực chỉ nếu họ có thể cứ phá huỷ đi mọi khả năng của
trí huệ đối với con người.
Nỗ lực của tôi ở đây là để tạo ra lần nữa việc truy
tìm kiểu Socrates, để hỏi những câu hỏi nền tảng mà
Phật đã nêu ra.
Trong công xã mới này chúng ta sẽ có bẩy vòng
đồng tâm gồm những người. Vòng thứ nhất, vòng bề
ngoài nhất, sẽ bao gồm những người chỉ tới do tính tò
mò trẻ con, hay tới do các định kiến đã tích luỹ, những
người mà, sâu bên dưới, là đối kháng - các nhà báo,
vân vân.
Họ sẽ được phép chỉ thấy phần bề mặt của công xã
- không phải là cái gì sẽ bị che giấu, mà chỉ bởi vì cách
tiếp cận của họ nên họ sẽ không có khả năng thấy cái
gì nhiều hơn cái bề ngoài nhất. Họ sẽ thấy chỉ cái vỏ
ngoài. Ở đây cùng điều đó vẫn cứ xảy ra. Họ tới và họ
chỉ thấy cái bên ngoài.
Mới hôm nọ tôi đã đọc một phóng sự của một nhà
báo; anh ta đã ở đây trong năm ngày. Anh ta viết,
"trong năm ngày," dường như đó là thời gian rất dài ở
đây; năm ngày, dường như anh ta đã ở đây năm kiếp
rồi! Bởi vì anh ta đã ở đây nên anh ta trở thành người
có thẩm quyền. Bây giờ anh ta biết điều đang xảy ra ở
đây bởi vì anh ta đã xem mọi người thiền. Làm sao bạn
có thể xem mọi người thiền được? Hoặc bạn có thể
thiền hoặc không, nhưng bạn không thể xem mọi
người thiền được. Vâng, bạn có thể xem cử chỉ vật lí

của mọi người, những chuyển động, nhảy múa, hay
việc ngồi im lặng của họ dưới gốc cây, nhưng bạn
không thể thấy được thiền! Bạn có thể xem tư thế vật lí
của thiền nhân, nhưng bạn không thể thấy được kinh
nghiệm bên trong của người đó. Để thấy điều đó, bạn
phải thiền, bạn phải trở thành người tham dự.
Và điều kiện cơ bản cho việc là người tham dự là ở
chỗ bạn phải vứt bỏ ý tưởng này về việc là người xem.
Ngay cả nếu bạn tham gia, nếu bạn nhảy múa với các
thiền nhân, với ý tưởng này rằng bạn đang tham gia
chỉ để xem điều xảy ra, thế thì chẳng cái gì sẽ xảy ra
cả. Và tất nhiên, bạn sẽ đi với kết luận rằng tất cả điều
này là vô nghĩa - chẳng cái gì xảy ra cả. Và bạn sẽ cảm
thấy hoàn toàn đúng bên trong bản thân bạn rằng
chẳng cái gì xảy ra, bởi vì bạn thậm chí đã tham gia
vào mà có gì xảy ra đâu.
Người đó viết rằng anh ta đã dự vào buổi darshan
trao đổi tâm tình và nhiều điều đã xảy ra cho các
sannyasins - nhiều điều đã xảy ra rằng sau khi tiếp xúc
năng lượng sâu với tôi tới mức họ thậm chí không thể
bước trở về chỗ của mình được - họ phải được khiêng
đi. Và thế rồi anh ta nhắc tới, "Nhưng chẳng cái gì xảy
ra cho tôi cả." Điều đó là đủ chứng minh rằng mọi điều
xảy ra chỉ là thôi miên, hay mọi người giả vờ chỉ bởi vì
nhà báo có đó, hay đấy chỉ là vở diễn được bố trí, cái
gì đó được dàn xếp - bởi vì có gì xảy ra với anh ta đâu.
Có những điều có thể xảy ra chỉ khi bạn sẵn có,
cởi mở, không định kiến. Có những điều có thể xảy ra
chỉ khi bạn gạt tâm trí của mình sang bên.
Nhà báo này lại viết, "Những người tới đó, họ bỏ
tâm trí của mình ở nơi họ bỏ giầy - nhưng tôi không
thể làm được điều đó. Tất nhiên," anh ta nói, "nếu tôi

mà bỏ tâm trí mình đằng sau, tôi chắc cũng phải bị ấn
tượng." Nhưng anh ta nghĩ tâm trí mà anh ta có là cái
gì đó giá trị thế - làm sao anh ta có thể bỏ nó đằng sau
được? Anh ta cảm thấy bản thân mình rất tinh ranh bởi
vì anh ta đã không bỏ tâm trí mình đằng sau.
Tâm trí là rào chắn, không phải là cây cầu. Trong
công xã mới này, vòng đồng tâm thứ nhất sẽ dành cho
những người tới như nhà báo - những người có định
kiến, người đã biết rằng họ biết. Nói tóm lại, dành cho
người ngu.
Vòng đồng tâm thứ hai sẽ dành cho những người
là người truy tìm - không định kiến, không Hindu giáo
không Mô ha mét giáo không Ki tô giáo, những người
tới mà không có kết luận gì, người tới với tâm trí cởi
mở. Họ sẽ có khả năng thấy sâu hơn một chút. Cái gì
đó của điều bí ẩn sẽ khuấy động con tim họ. Họ sẽ
vượt qua rào chắn của tâm trí. Họ sẽ trở nên nhận biết
rằng điều gì đó có tầm quan trọng mênh mông đang
xảy ra - đích xác nó là cái gì họ sẽ không có khả năng
hình dung ra ngay lập tức, nhưng họ sẽ trở nên nhận
biết mơ hồ rằng cái gì đó có giá trị đang xảy ra. Họ có
thể không có đủ dũng cảm để tham gia vào trong nó;
việc truy tìm của họ có thể có tính trí tuệ nhiều hơn
tính tồn tại, họ có thể không có khả năng trở thành một
phần, nhưng họ sẽ trở nên nhận biết - tất nhiên, theo
cách rất mơ hồ và lẫn lộn, nhưng chắc chắn có nhận
biết - rằng rõ ràng có cái gì đó hơn nữa đang diễn ra.

Vòng thứ ba sẽ dành cho những người đồng cảm,
người trong đồng cảm sâu sắc, người đã sẵn sàng đi
với công xã thêm một chút ít, người sẵn sàng nhảy
múa và ca hát và tham gia, người không chỉ là người
truy tìm mà còn sẵn sàng thay đổi bản thân mình nếu

việc truy tìm yêu cầu điều đó. Họ sẽ trở nên nhận biết
rõ ràng hơn về những cõi giới sâu hơn.
Và vòng thứ tư sẽ là thấu cảm. Đồng cảm nghĩa là
người có thân thiện, người không đối kháng. Thấu cảm
nghĩa là người không chỉ thân thiện; mà là người cảm
thấy có một loại thống nhất, cái một. Thấu cảm nghĩa
là người cảm với công xã, với mọi người, với điều
đang xảy ra. Người ta gặp gỡ, hội nhập, tan chảy, trở
thành một.
Vòng thứ năm sẽ là những người điểm đạo, các
sannyasins - người không chỉ cảm thấy trong tim mình
mà còn là người sẵn sàng cam kết, sẵn sàng tham dự.
Người sẵn sàng mạo hiểm. Người sẵn sàng cam kết,
bởi vì người đó cảm thấy một tình yêu lớn lao, cuồng
nhiệt - đang nảy sinh trong mình. Sannyasin, người
điểm đạo.
Và vòng thứ sáu sẽ là những người đã bắt đầu tới
nơi - những người lão luyện. Những người có cuộc
hành trình đang tới gần đích hơn, những người không
còn là sannyasins mà đang trở thành siddhas, người có
cuộc hành trình sắp tới điểm chấm dứt hoàn toàn, đang
ngày một tới gần sự kết thúc hơn. Nhà không còn xa
nữa, chỉ vài bước thêm nữa thôi. Theo một cách nào
đó, họ đã đạt tới rồi.
Và vòng thứ bảy sẽ bao gồm các a la hán và bồ tát.
Các a la hán là những sannyasins đã đạt tới nhưng
không quan tâm tới việc giúp người khác đạt tới. Phật
giáo có một cái tên đặc biệt cho họ: a la hán - lữ khách
đơn độc, đã tới nơi và rồi biến mất vào trong điều tối
thượng. Còn bồ tát là những người đã đạt tới nhưng họ
cảm thấy từ bi lớn lao với những người chưa tới. Bồ
tát là a la hán có từ bi. Người đó dừng lại, ngoái nhìn

sau và cứ vẫy gọi những người vẫn còn đang dò dẫm
trong bóng tối. Người đó là người giúp đỡ, người phục
vụ nhân loại.
Có hai kiểu người. Một kiểu là những người thấy
thoải mái chỉ khi người đó được một mình; người đó
cảm thấy chút ít không thoải mái trong mối quan hệ,
người đó cảm thấy chút ít nhiễu loạn, phân tán trong
mối quan hệ. Kiểu người đó trở thành a la hán. Khi
người đó đạt tới, người đó được kết thúc với mọi thứ.
Bây giờ người đó không nhìn lại.
Bồ tát là loại người thứ hai: người cảm thấy thoải
mái trong mối quan hệ, thực ra khi người đó đang
trong quan hệ người đó thoải mái hơn khi người đó
một mình. Người đó nghiêng nhiều hơn về yêu. A la
hán nghiêng nhiều hơn về thiền. Con đường của a la
hán là của thiền thuần khiết, còn con đường của bồ tát
là con đường của yêu thuần khiết. Yêu thuần khiết bao
hàm thiền, và thiền thuần khiết bao hàm yêu - nhưng
thiền thuần khiết chỉ chứa yêu như hương vị, hương
thơm; nó không là lực trung tâm trong đó. Và yêu
thuần khiết bao hàm thiền như hương thơm; nó không
là trung tâm trong đó.
Hai kiểu người này tồn tại trên thế giới. Kiểu thứ
hai - tín đồ trên con đường của yêu - trở thành bồ tát.
Vòng thứ bẩy sẽ bao gồm các a la hán và bồ tát.
Bây giờ, vòng thứ bẩy sẽ nhận biết về tất cả sáu
vòng kia, và vòng thứ sáu sẽ nhận biết về năm vòng
kia - vòng cao hơn sẽ nhận biết về vòng thấp hơn,
nhưng vòng thấp hơn sẽ không nhận biết về vòng cao
hơn. Vòng thứ nhất sẽ không nhận biết gì khác hơn
vòng thứ nhất. Người đó sẽ thấy nhà cửa và khách sạn
và bể bơi và trung tâm mua bán và việc thêu may và

làm đồ gốm và đồ mộc. Người đó sẽ thấy cây cối, toàn
thể khung cảnh… người đó sẽ thấy mọi thứ này.
Người đó sẽ thấy hàng nghìn sannyasins, và người đó
sẽ nhún vai: "Những người này làm gì ở đây thế nhỉ?"
Người đó sẽ có chút ít phân vân, bởi vì người đó
không nghĩ rằng có thể tìm thấy nhiều người điên thế ở
một chỗ: "Tất cả đều bị thôi miên!" Người đó sẽ tìm ra
lời giải thích. Người đó sẽ đi hoàn toàn thoả mãn rằng
mình đã biết về công xã này. Người đó sẽ không nhận
biết về các vòng cao hơn - vòng thấp hơn không thể
nhận biết được vòng cao hơn. Đó là một trong những
luật nền tảng của cuộc sống - aes dhammo sanantano -
chỉ vòng cao hơn biết vòng thấp hơn, bởi vì người đó
đã đi từ vòng thấp hơn.
Khi bạn đứng trên đỉnh núi chan hoà ánh nắng, bạn
biết mọi thứ bên dưới thung lũng. Người dưới thung
lũng có thể không nhận biết về bạn chút nào, điều đó
là không thể được cho họ. Thung lũng có mối bận tâm
riêng của nó, vấn đề riêng của nó. Thung lũng bận tâm
với bóng tối riêng của nó.
Người ngu có thể tới một thầy nhưng sẽ vẫn còn
chẳng được lợi lộc gì bởi vì người đó sẽ chỉ thấy cái
bên ngoài. Người đó sẽ không có khả năng thấy được
cái bản chất, người đó sẽ không có khả năng thấy được
cái cốt lõi. Người ngu cũng tới đây nữa, nhưng người
đó chỉ nghe những lời - và người đó cứ diễn giải
những lời này theo ý tưởng riêng của mình. Người đó
cứ thoả mãn hoàn toàn rằng mình biết điều đang xảy
ra.
Có nhiều người ngu không tới đây - họ không cảm
thấy cần thiết. Họ đơn giản phụ thuộc vào các báo cáo
của những người ngu. Thế là đủ. Chỉ một người ngu có

thể thuyết phục cả nghìn người ngu, bởi vì ngôn ngữ
của họ là như nhau, định kiến của họ là như nhau,
quan niệm của họ là như nhau… không có vấn đề gì!
Một người ngu đã thấy, và tất cả những người ngu
khác bị thuyết phục. Một người ngu tường trình trên
báo chí và tất cả những người ngu khác đọc nó vào
buổi sáng, và được thuyết phục.
Lời kinh:

**Đêm dài làm sao với người gác,
Đường dài làm sao với lữ khách mệt lử,
Lang thang lâu sao qua nhiều kiếp
với người ngu bỏ lỡ con đường.**

 Đêm rất dài đối với người gác đêm - tại sao?
Người đó không thể thảnh thơi, người đó phải giữ bản
thân mình thức bằng cách nào đó. Đó là cuộc vật lộn.
Người đó phải giữ bản thân mình thức đi ngược tự
nhiên, bởi vì đêm có nghĩa là dành cho thảnh thơi và
nghỉ ngơi và đi vào giấc ngủ. Người đó đang tranh đấu
chống lại tự nhiên - người ngu là như vậy. Người ngu
cứ tranh đấu chống lại tự nhiên. Người đó cố gắng bơi
ngược dòng; do đó, khổ của người đó kéo dài, dài
không cần thiết. Người đó nhân nó lên cả nghìn lần bởi
vì người đó không thể buông bỏ được, người đó không
thể thảnh thơi được.
Chỉ dẫn thứ nhất về tâm trí ngu si là ở chỗ nó
không thể thảnh thơi được, nó bao giờ cũng căng
thẳng, nó bao giờ cũng canh gác, nó bao giờ cũng sợ.
Đêm dài làm sao với người gác... Nó không dài
như vậy với những người đang nghỉ ngơi, thảnh thơi,

và đã đi vào trong giấc ngủ sâu. Nó trôi qua nhanh thế!
Mới khoảnh khắc này bạn còn thức, thế rồi bạn rơi vào
giấc ngủ... và khoảnh khắc sau bạn thức dậy, trời đã
sáng rồi. Bạn không thể tin được đêm đã bay qua
nhanh thế. Nếu bạn thực sự nghỉ... bạn càng nghỉ
nhiều, đêm bay qua càng nhanh. Nếu bạn nghỉ toàn bộ,
thời gian biến mất. Đây là điều gì đó cần được hiểu.

Thời gian là hiện tượng tâm lí. Tôi không nói về
thời gian bạn thấy trên đồng hồ, tôi đang nói về thời
gian tâm lí. Khi bạn hạnh phúc, thảnh thơi, an bình,
thời gian bay qua nhanh. Khi bạn đau đớn, khổ sở,
buồn phiền, thời gian trôi qua rất chậm; nó dường như
không chấm dứt.
Bạn đã ngồi bên cạnh người sắp chết trong đêm
chưa? Dường như sáng chẳng bao giờ tới. Đêm dường
như dài thế... vẫn cùng đêm đó thôi. Cùng đêm đó bạn
ngồi cùng người yêu, và đêm bay qua nhanh tới mức
bạn không thể tin được vào điều đó - bởi vì bạn hạnh
phúc và bạn thảnh thơi và bạn tận hưởng và bạn đi với
tự nhiên, không tranh đấu. Yêu nghĩa là buông xuôi,
yêu nghĩa là thảnh thơi.
Người ta cứ hỏi Albert Einstein lặp đi lặp lại mãi
trong đời ông ấy, "Lí thuyết tương đối là gì?" Đó là
một lí thuyết phức tạp và nó không thể được giải thích
một cách dễ dàng cho những người không biết về toán
học cao cấp. Thực ra, người ta nói rằng chỉ có mười
hai người trên cả trái đất hiểu đích xác điều Einstein
ngụ ý bởi lí thuyết tương đối. Làm sao giải thích nó
cho người thường được?
Cho nên ông ấy đã đưa ra cách giải thích hay này.
Ông ấy sẽ nói, "Ngồi trên bếp lò nóng thì một giây
dường như vĩnh viễn, không chấm dứt - nó nóng thế,

nó đau thế. Và thế rồi cầm tay người yêu và ngồi bên
cô ấy trên bờ sông trong đêm trăng tròn, và hàng giờ
trôi qua như khoảnh khắc." Điều này, ông ấy thường
nói, là lí thuyết tương đối.
Mọi thứ đều phụ thuộc vào bạn, vào trạng thái tâm
lí của bạn. Thời gian không phải là hiện tượng vật lí,
vật chất; nó có tính tâm lí. Do đó, trong thiền sâu thời
gian biến mất toàn bộ. Và điều này không phải là cái
gì mới, các nhà huyền môn đã biết tới nó trong nhiều
thời đại. Họ đã nói, mọi nhà huyền môn của mọi nước,
rằng thời gian dừng khi thiền thực sự bắt đầu.
Jesus được ai đó hỏi, "Ông nói nhiều thế về vương
quốc của Thượng đế - cái gì rất đặc biệt về nó, cái gì
đó mà chúng tôi không biết chút nào vậy? Nói cho
chúng tôi điều gì đó về vương quốc của Thượng đế mà
tuyệt đối đặc biệt xem nào."
Và bạn có biết ông ấy nói gì không? Câu trả lời rất
kì lạ - ông ấy nói, "Sẽ không có thời gian nữa."
Vâng, trong vương quốc của Thượng đế không thể
có thời gian nữa, bởi vì thời gian chỉ tỉ lệ với đau đớn,
khổ sở, lo âu. Nếu mọi lo âu, mọi đau đớn, mọi ác
mộng biến mất, thời gian biến mất. Thời gian là hiện
tượng tâm trí: nếu không có tâm trí, không có thời
gian. Và bạn cũng biết về điều đó. Tính tương đối này
bạn đã cảm thấy.
Vivek mới nói hôm nọ, nhiều lần cô ấy đã nói điều
đó, rằng thời gian ở đây bay nhanh tới mức cô ấy
không thể tin được rằng cô ấy đã ở đây bẩy năm rồi.
Có vẻ như cô ấy mới đến đây chỉ bẩy ngày thôi.
Và vậy mà chúng ta vẫn đang trong thế giới này!
Một khi chúng ta đã đi khỏi thế giới, một khi chúng ta

có thể giới nhỏ của riêng mình, một khi chúng ta vứt
bỏ mọi cây cầu, thời gian sẽ bắt đầu biến mất. Nỗ lực
của tôi là để cho bạn hương vị của vô thời gian. Một
khi bạn đã nếm trải nó, thế thì bạn có thể quay trở về
thế giới này và nó sẽ vẫn còn với bạn. Điều quan trọng
nhất là nếm trải nó ít nhất một lần - vô thời gian - và
bỗng nhiên bạn được đưa vào thế giới khác.

Thế giới này bao gồm thời gian và không gian. Đó
là cách Albert Einstein định nghĩa nó: không-thờigian.
Ông ấy tạo ra một từ từ hai từ, bởi vì ông ấy nói
thời gian không là gì ngoài chiều thứ tư của không
gian. Cho nên thế giới này bao gồm không gian và thời
gian, và trong thiền bạn biến mất khỏi cả hai, hay cả
hai biến mất khỏi bản thể bạn. Bạn không biết bạn ở
đâu. Bạn hiện hữu, chắc chắn, còn hơn cả bạn đã từng
hiện hữu; bạn toàn bộ ở đó nhưng không có không
gian giới hạn bạn và không có thời gian xác định bạn.
Sự tồn tại thuần khiết. Một khi được nếm trải rồi, mọi
cái ngu ngốc biến mất.
Người ngu sống trong thời gian, người trí huệ sống
trong vô thời gian.
Người ngu sống trong tâm trí, người trí huệ sống
trong vô trí.
Đêm dài làm sao với người gác, đường dài làm
sao với lữ khách mệt lử... nhìn vào mặt mọi người mà
xem - họ trông mệt mỏi làm sao, mòn mỏi, hoàn toàn
thất vọng. Và họ không chỉ trông như vậy, họ là như
vậy đấy. Linh hồn của họ mệt mỏi, chính bản thể họ đã
trở thành một loại chán ngán. Họ đang kéo lê bản thân
mình - họ không vui vẻ, không nhảy múa trong bước
đi của họ, không bài ca trong trái tim họ, không biết

ơn, không cám ơn... ngược lại, nhiều phàn nàn ca cẩm
thế.
Một trong những nhân vật của Dostoevsky trong
cuốn Anh em nhà Karamazov nói, "Tôi muốn trả lại
cuộc sống này cho Thượng đế nếu tôi gặp ngài. Tôi
không muốn sống thêm nữa. Cuộc sống đầy khổ não
thế!" Anh ta muốn trả vé. Làm sao anh ta có thể cám
ơn được?
Nghĩ mà xem: nếu bạn gặp Thượng đế một ngày
nào đó, bạn định nói gì với ngài? Thậm chí khó mà nói
"Chào ngài!" Bạn sẽ giận ngài thế, hoàn toàn bực tức
thế, cáu bẳn vì rằng đây là người đã tạo ra bạn, đây là
người đã tạo ra thế giới này! Điều đó là đơn giản bởi vì
điều này mà Thượng đế cứ trốn tránh; bằng không thì
mọi người nhất định giết chết ngài. Họ sẽ không để
cho ngài sống đâu; ngài phải đi trốn, chỉ để sống sót
mà ngài phải đi trốn.
Đêm dài làm sao với người gác, đường dài làm
sao với lữ khách mệt lử, lang thang qua nhiều kiếp dài
làm sao với người ngu bỏ lỡ con đường. Và người ngu
nhất định bỏ lỡ con đường rồi. Tại sao? - bởi vì người
đó nghĩ mình đã biết con đường rồi, bởi vì người đó
nghĩ người đó đang trên đường rồi. Mọi người khác
đều sai, người đó đúng. Người đó tin rằng nếu mọi
người theo người đó, mọi thứ sẽ đúng trên thế giới.
Người đó là cuồng tín. Người đó có Kinh Thánh,
Koran, Vedas - còn cần gì khác nữa? Người đó biết
mọi giáo điều hay của mọi tôn giáo rồi - còn cần gì
thêm nữa? Người đó biết con đường rồi!
Nhưng khi Phật dùng từ 'đạo', ông ấy ngụ ý pháp
dhamma - aes dhammo sanantano. Ông ấy ngụ ý con
đường đưa bạn ra khỏi bản ngã của bạn, con đường

đưa bạn ra khỏi tâm trí của bạn, con đường đưa bạn ra
khỏi sự đồng nhất của mình, con đường làm cho bạn
thành cái không tuyệt đối... con đường giúp bạn tan
biến vào trong cái toàn thể.
Ông ấy không nói về tôn giáo, ông ấy không nói
về cái gọi là kĩ thuật, phương cách, phương pháp. Khi
ông ấy dùng từ 'con đường', ông ấy ngụ ý đích xác
điều Lão Tử ngụ ý bởi 'đạo'. Đạo đích xác nghĩa là
"con đường" - con đường tới cái gì? Con đường đi ra
ngoài bản thân bạn, con đường dẫn bạn đi ra khỏi trạng
thái bi giới hạn của bạn, trạng thái bị cầm tù, vào chỗ
mở.
Lang thang qua nhiều kiếp dài làm sao... Và điều
đó thực sự dài, việc lang thang dài - không phải một
ngày hay một kiếp, mà nhiều kiếp, hàng triệu kiếp. Và
nếu mọi người mệt mỏi, điều đó không gây ngạc
nhiên. Nếu mắt họ đầy bụi, điều đó không gây ngạc
nhiên. Nếu linh hồn họ bị bao phủ bởi nhiều tầng bụi
bặm, điều đó không gây ngạc nhiên. Nếu chúng không
còn phản chiếu, nếu những tấm gương của họ bị mất,
điều đó không phải là ngẫu nhiên - điều đó là hiểu
được, mặc dầu không tha thứ được, bởi vì không ai
khác chịu trách nhiệm cho tình huống này ngoại trừ
bạn. Nếu bạn quyết định, bạn có thể vứt bỏ mọi tầng
bụi bặm này ngay chính khoảnh khắc này, và khoảnh
khắc bạn vứt đi mọi bụi bặm của ý nghĩ của mình, bạn
đang trên đường. Bạn là con đường rồi!
Jesus nói, "Ta là con đường, ta là chân lí, ta là lối
cổng." Người Ki tô giáo cứ diễn giải điều đó như thể
Jesus là con đường; điều đó không đúng, điều đó là
làm sai lạc Jesus hoàn toàn. Khi Jesus nói, "Ta là con
đường," ông ấy đang nói, "Bất kì ai có thể nói 'tôi hiện

hữu', có con đường." Ông ấy không nói về Jesus, con
của Joseph và Mary; ông ấy đang nói về "tính tôi đây".
Khoảnh khắc này, trong thiền im lặng sâu sắc, bạn
bắt gặp tính tôi đây, bạn là con đường. Vấn đề không
phải là việc là người Ki tô giáo. Không phải là điều
người Ki tô giáo cứ đi nói với cả thế giới, "Chừng nào
các ông chưa tới với Jesus, các ông sẽ không tìm thấy
đường tới Thượng đế đâu." Điều đó là cực kì vô nghĩa!
- bởi vì Phật đã tìm thấy mà đâu có là người Ki tô giáo,
và Mohammed đã tìm thấy mà đâu có là người Ki tô
giáo, và Mahavira đã tìm thấy và Krishna đã tìm thấy
và Lão Tử đã tìm thấy... tôi đã tìm thấy mà đâu có là
người Ki tô giáo. Điều đó là vô nghĩa.
Nhưng điều Jesus thực sự ngụ ý là đúng.
Moses đã hỏi Thượng đế khi ông ấy gặp ngài...
một câu chuyện hay; nhớ lấy, nó là chuyện kể thôi,
không phải là lịch sử. Lịch sử là điều rất bình thường;
lịch sử bao gồm Tamerlane, và Genghis Khan và
Adolf Hitler và Joseph Stalin và Mao Trạch Đông -
lịch sử rất bình thường. Nó bao gồm tất cả những cái
xấu xa. Đây không phải là lịch sử, đây là chuyện cách
ngôn, ẩn dụ, có tính thơ ca và cái đẹp vô cùng.
Chuyện kể rằng khi Moses gặp Thượng đế ông ấy
hỏi, "Ngài là ai?" Và Thượng đế tương truyền đã nói,
"Ta là cái ta đang là đây này."
Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói, "Ta là con
đường."
Nếu bạn có thể cảm thấy bản thể riêng của mình,
'cái đây' riêng của mình, bạn sẽ thấy con đường. Người
ngu không thể tìm thấy được nó. Người đó cứ đi mãi...
sống trong cùng ham muốn, cùng những ý nghĩ ngu

xuẩn, trong cùng kí ức. Người ngu có tính lặp lại;
người đó chỉ lặp điều mình biết - người đó chưa bao
giờ cố gắng vượt ra ngoài tri thức của mình. Và chân lí
là cái không biết.
Quan sát tâm trí bạn và bạn sẽ có khả năng hiểu
điều tôi đang cố truyền đạt cho bạn. Tâm trí bạn có
tính lặp lại! Nó nói, "Hôm qua thức ăn rất ngon, chúng
ta tới khách sạn đó đi... Hôm qua người đó rất thân
thiện, chúng ta tìm người đó đi." Nó muốn lặp cái hôm
qua, và nó không cho phép hôm nay có sự hiện hữu
riêng của hôm nay. Nó thậm chí không cho phép ngày
mai có sự hiện hữu riêng của ngày mai; với các ngày
mai cũng vậy, nó có kế hoạch để lặp chính điều nó đã
biết trong quá khứ. Và bạn đã biết gì trong quá khứ
ngoại trừ khổ? Nhưng bạn đã trở nên quen thuộc với
nó và bạn cứ lặp nó.
Người ngu có tính lặp lại: người trí huệ sống mọi
khoảnh khắc đều mới.

Tất cả lính tráng của trung đoàn Mĩ ở Hàn Quốc
đóng góp mỗi người một đô la rồi mở sổ số cho người
trúng số được lấy số tiền đó và sống một đêm ở nhà
chứa xịn nhất ở Phương Đông.
Hymie Kaplowitz, kẻ ghê gớm vùng Brooklyn, tự
nhiên trúng giải, và khi trở về từ nhà chứa huyền thoại
đó, tả điều đã xảy ra cho bạn cùng phòng đã tụ tập:
bức màn vàng kéo lên, âm nhạc phương đông cuốn
hút, thức ăn kì lạ, kích dục được các cô gái mười hai
tuổi trần truồng nhỏ nhắn phục vụ trước, vân vân, kết
thúc mọi đoạn bằng "... chẳng cái gì giống như
Brooklyn cả!"

Cuối cùng anh ta tả cách người đàn bà đẹp nhất mà
anh ta đã từng thấy chậm rãi bước xuống cầu thang
lộng lẫy, chỉ mặc khăn trùm đầu kiểu nhà chùa với
mạng che mặt kéo dài bằng dải đăng ten trắng, và nắm
tay đưa anh ta lên cầu thang tới giường đượm hương
thơm của cô ta "... chẳng cái gì giống Brooklyn cả!"
"Thế rồi sao?" mọi lính khác hỏi một cách sốt ruột.
"Rồi sao á?" Hymie trả lời. "Ồ, thế rồi giống như
Brooklyn thôi."

Tâm trí người ngu cứ làm lặp đi lặp lại cùng một
điều mãi. Tâm trí người ngu là cái vòng luẩn quẩn - nó
đi theo vòng tròn. Người trí huệ không lặp chút nào.
Người đó sống từng khoảnh khắc mới mẻ, người đó
được sinh ra mới từng khoảnh khắc. Người đó chết đi
quá khứ mọi khoảnh khắc, và lại được sinh ra lần nữa.
Toàn thể cuộc sống của người trí huệ là quá trình
tái sinh. Người trí huệ không được sinh ra một lần,
người đó được sinh ra mọi khoảnh khắc lặp đi lặp lại.
Cái cũ không bao giờ nắm giữ người đó. Nhưng người
ngu được sinh ra chỉ mỗi một lần, và thế rồi người đó
cứ lặp lại.
Nếu bạn cứ lặp bạn sẽ bỏ lỡ con đường, bởi vì linh
hồn bạn, bản thể bạn tuyệt đối tươi tắn và bao gờ cũng
trẻ trung. Nó không bao giờ già. Tâm trí già đi, thân
thể già đi, nhưng bản thể không biết gì về thời gian cả
- làm sao nó có thể già đi được? Nó bao giờ cũng trẻ,
nó bao giờ cũng thanh xuân. Nó tươi trẻ như giọt
sương trong ánh mặt trời buổi sớm, nó tươi trẻ như lá
sen trong hồ.

**Nếu lữ khách không thể tìm ra
thầy hay bạn đi cùng mình,
để người đó đi một mình
hơn là đi cùng người ngu.**

Điều tốt nhất là tìm ra thầy, bởi vì thầy là người
bạn vĩ đại nhất có thể có; do đó Phật nói thầy hay bạn.
Nếu lữ khách không thể tìm ra thầy hay bạn đi
cùng mình, để người đó đi một mình thay vì đi cùng
người ngu. Nhưng tránh người ngu ra. Và đó là điều
bạn chưa bao giờ làm. Bạn thu thập những người ngu
quanh bản thân bạn. Có bí mật nào đó trong việc ấy:
khi bạn được bao quanh bởi những người ngu, bạn
dường như cao siêu. Đó chính là việc thoả mãn bản
ngã; do đó không ai muốn sống với ai đó cao siêu hơn.
Mọi người muốn sống với người thấp kém hơn, bởi vì
những người thấp kém hơn bạn cho bạn ý tưởng rằng
bạn vĩ đại.
Sống cùng với thầy bạn sẽ phải vứt bỏ ý tưởng đó
rằng bạn vĩ đại, bạn sẽ phải vứt bỏ tất cả những rác
rưởi đó, bạn sẽ phải vứt bỏ toàn thể bản ngã của mình,
bạn sẽ phải buông xuôi. Bạn sẽ phải tan biến đi trong
thầy; do đó mọi người tránh né thầy. Làm sao nhiều
người tới với Jesus được? Rất ít người, họ có thể được
đếm trên đầu ngón tay. Bao nhiêu người tới với Phật?
Rất ít... Điều này bao giờ cũng như vậy. Nhưng mọi
người rất sung sướng tới câu lạc bộ Rotary. Người ta
cảm thấy rất thích khi bạn được những kẻ ngu bao
quanh - điều đó cho cảm giác rất thích thú: mọi kẻ ngủ
đều ăn vận tề chỉnh, và mọi kẻ ngu đều cảm thấy hơn
người khác, và mọi kẻ ngu đều ba hoa về bản thân
mình, và mọi kẻ ngu đều được những kẻ ngu khác
nâng đỡ.

Mọi người thích ở trong đám đông, bởi vì trong
đám đông bạn có thể quên đi cái kém cỏi của mình. Đó
là lí do tại sao mọi người không rời bỏ đám đông. Đám
đông này là của người Hindus, đám đông khác là của
người Mô ha mét giáo, đám đông thứ ba là của người
Ki tô giáo vân vân và vân vân. Chẳng ai muốn rời bỏ
đám đông cả.
Và ngay cả đôi khi mọi người rời bỏ đám đông
này, họ lập tức gia nhập đám đông khác. Bằng cách
nào đó họ trốn khỏi nhà tù này để đi vào trong nhà tù
khác - họ không thể sống một mình được. Phật nói
sống một mình tốt hơn là sống với người ngu. Nếu bạn
có thể tìm thấy thầy hay bạn, tốt; nếu bạn không thể
tìm được, thế thì tốt hơn cả là một mình thôi. Tất
nhiên, một mình sẽ vất vả, sẽ khó khăn bởi vì đám
đông sẽ tạo ra nhiều khó khăn cho bạn. Đám đông
không thích cá nhân, nó không muốn ai độc lập cả; nó
muốn mọi người đều phụ thuộc vào đám đông. Nó sẽ
tạo ra rắc rối cho bạn. Nhưng tất cả những rắc rối đó là
việc lau sạch, tất cả những rắc rối đó đều là thách thức.
Chúng mài sắc thông minh của bạn, chúng sẽ làm cho
bạn trí huệ.

**"Con ta, của cải của ta!"
Người ngu tự gây rắc rối cho mình.
Nhưng người đó làm sao có con hay của cải?
Người đó thậm chí không là người chủ riêng của
mình.**

Người ngu sống quanh ý tưởng về "của tôi" và "cái
của tôi": quốc gia của tôi, tôn giáo của tôi, giống nòi
của tôi, gia đình của tôi, của cải của tôi, con tôi, bố mẹ
tôi... người đó sống quanh "của tôi" và "cái của tôi."

Và người đó đã tới một mình rồi sẽ đi một mình;
không ai đem bất kì cái gì vào thế giới này và không ai
lấy bất kì cái gì khỏi thế giới này. Một mình, với đôi
bàn tay trống chúng ta tới; một mình, với đôi bàn tay
trống chúng ta đi. Người trí huệ biết điều đó; do đó
người trí tuệ chẳng tuyên bố cái gì là "cái của tôi" cả.
Người đó dùng mọi thứ, nhưng người đó không sở hữu
chúng. Việc dùng là hoàn toàn tốt - dùng mọi thứ của
thế giới này, chúng là dành cho bạn. Thế giới là món
quà từ Thượng đế - dùng nó đi, nhưng đừng sở hữu nó.
Khoảnh khắc bạn trở thành kẻ sở hữu, bạn không thể
dùng mọi thứ được - mọi thứ bắt đầu dùng bạn.
Khoảnh khắc bạn trở thành kẻ sở hữu, thực ra bạn bị
các vật của mình sở hữu, bạn trở thành nô lệ. Và chính
ý tưởng về sở hữu là ngu xuẩn. Làm sao bạn có thể sở
hữu được cái gì? Bạn thậm chí không sở hữu được bản
thể riêng của mình. Bạn có thể sở hữu được cái gì
khác? Bạn thậm chí không là người chủ của bản thân
mình.
Phật nói: "Con ta, của cải của ta!" Cho nên người
ngu tự gây rắc rối cho mình. Và bao nhiêu lo âu nảy
sinh từ cái "của tôi" này, từ công việc "của tôi" này?
Giả dối toàn bộ! Về căn bản là giả, nhưng nó có thể
tạo ra nhiều, nhiều khổ. Điều đó cũng giống như là
trong đêm tối bạn nhìn chiếc dây thừng và bạn cứ
tưởng là đó là con rắn. Thế là bạn vùng chạy, la hét,
run rẩy, bạn có thể bị đau tim nữa. Và chẳng có rắn
chút nào - chỉ có mỗi chiếc dây thừng! Nhưng cơn đau
tim sẽ là thực, nhớ lấy: con rắn không thực có thể tạo
ra cơn đau tim thực.
Đây là những vấn đề không thực. Tuyên bố "cái
của tôi" - bất kì cái gì! Quốc gia, nhà thờ, con cái, của
cải, bất kì cái gì - khi bạn công bố "Nó là của tôi!" bạn

đang tạo ra một nguồn lo âu phiền não lớn cho bản
thân bạn. Bạn đang tạo ra địa ngục quanh bản thân
bạn.
Nhưng người đó làm sao có con hay của cải? Phật
hỏi. Người đó thậm chí là người chủ riêng của mình.
Một kẻ ngu ngã từ cửa sổ tầng thứ sáu. Anh nằm
trên đất với một đám đông lớn bu xung quanh. Một
cảnh sát tới và nói, "Có chuyện gì vậy?"
Người ngu nói, "Tôi không biết. Tôi vừa mới tới
đây."
Bạn biết gì về cách bạn tới đây? Bạn biết gì về chỗ
mà bạn tới không? Bạn biết gì về nơi bạn nhất định sẽ
tới không? Bạn biết gì về bạn là ai không? Những câu
hỏi nền tảng nhất vẫn còn trong bóng tối, và dầu vậy
bạn cứ tuyên bố, "Đây là nhà của tôi..."
Khi Phật trở nên chứng ngộ, ông ấy đã trở về nhà.
Người bố giận lắm, hiển nhiên - đây là đứa con duy
nhất của ông ấy và nó đã trở thành kẻ bỏ dở nửa
chừng. Người bố đang già đi, và ông ta đã cai quản
một vương quốc lớn. Ông ta rất lo âu: "Ai sẽ sở hữu
nó? Ai sẽ cai trị nó đây? Thằng ngu kia, con ta, đã bỏ
trốn mất rồi."
Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để thuyết phục
Phật quay về, nhưng tất cả đều thất bại. Khi ông ấy đã
trở nên chứng ngộ ông ấy đã tới theo cách riêng của
ông ấy - cuộc chạm trán đó là một trong những cuộc
chạm trán hay nhất trong lịch sử nhân loại.

Người bố đã già của Phật giận lắm, giận tới mức
nước mắt giận dữ bắt đầu trào ra từ đôi mắt già nua
của ông ấy. Ông ấy quát tháo, la hét, lăng mạ, còn Phật
đứng đó, hoàn toàn bình thản và yên tĩnh, cứ dường
như chẳng có gì xảy ra cả. Phải đến cả nửa giờ, một
giờ... thế rồi người bố, ông già này, kiệt sức. Thế rồi
ông ấy trở nên nhận biết rằng đứa con thậm chí đã
không thốt ra lấy một lời, đứa con đã không phản ứng
chút nào. "Và nó trông bình thản và yên tĩnh thế!
Chuyện gì vậy? Nó điếc hay cái gì đó không nhỉ? Nó
đã phát điên hay cái gì vậy?" Ông ấy hỏi, "Sao con
không trả lời ta?"
Phật nói, "Người đã rời bỏ ông không còn nữa rồi.
Ông không nói với ta - ông đang nói với con ông,
người không còn nữa. Nhiều nước đã chảy qua sông
Hằng từ ngày đó rồi. Mười hai năm đã qua rồi. Ta là
người hoàn toàn khác."
Phật, tất nhiên, ngụ ý ẩn dụ. Ông ấy ngụ ý, "Ta
không còn là cùng tâm thức ấy nữa, không còn là cùng
tâm trí ấy nữa. Thái độ của ta đã bị bỏ đi rồi, định kiến
của ta đã mất rồi. Ta là người hoàn toàn tươi tắn. Bây
giờ ta biết mình là ai. Thời đó ta đã là kẻ ngu. Bây giờ
ánh sáng đã tới bên trong linh hồn ta. Đó là lí do tại
sao," ông ấy nói, "ta không còn là người cũ nữa."
Ông bố già của Phật trở nên tức điên lên. Ông ấy
nói, "Con ngụ ý gì việc con không là người cũ nữa?
Chẳng lẽ ta không thể nhận ra con trai ta sao? Ta
không biết con sao? Ta đã sinh ra con, máu của ta chảy
trong huyết quản con, con được tạo ra từ máu và
xương ta - và ta không biết con sao? Con phải đã thần
kinh khi nói điều này rồi!"

Và Phật nói, "Ta xin lỗi, nhưng ta phải nói rằng
thân thể ta có thể là một phần của thân thể ông - nhưng
ta thì không. Bây giờ ta biết rằng ta không là thân thể,
không là tâm trí. Bây giờ ta biết ta là ai. Và ông chẳng
liên quan gì tới bản thể ta cả; ông đã không tạo ra bản
thể của ta, ông đã không cho sinh thành ra bản thể của
ta. Ta đã từng hiện hữu từ trước việc sinh của ta, và ta
sẽ hiện hữu sau cái chết của ta. Xin cố gắng hiểu ta;
đừng tức giận làm gì, đừng bực mình làm gì. Ta tới chỉ
để chia sẻ vui vẻ mà ta đã tìm ra."

Nhưng các bố mẹ cứ nghĩ con cái là của họ, con
cái nghĩ bố mẹ là của họ. Trong thế giới này, bản thể
bạn là tuyệt đối một mình. Vâng, chia sẻ vui vẻ của
bạn với người khác, nhưng đừng bao giờ sở hữu. Chỉ
kẻ ngu mới sở hữu, người trí huệ không có tính sở
hữu.

**Người ngu biết mình là ngu
là khôn hơn nhiều.
Người ngu nghĩ mình khôn
thực sự là người ngu.**

Đào sâu về điều đó: bạn nghĩ gì về bản thân mình?
Thấy ra cái ngu xuẩn của mình sẽ là điều đau đớn. Dễ
dàng nhìn người khác như những người ngu - thực ra,
mọi người đều biết rằng mọi người khác là ngu -
nhưng thấy cái ngu riêng của bạn là bước tiến lớn tới
trí huệ. Thấy cái ngu riêng của bạn là đã biến đổi bản
thể bạn, tâm thức bạn.

Một người tới thăm nước Pháp. Anh ta đi lang
thang chút ít trong đêm đầu tiên. Làm tình với vợ ông
chủ, với con gái ông ta, với người nấu ăn, người hầu
gái, vân vân. Ông chủ mắng mỏ người đó vào buổi
sáng.
"Ý tưởng to tát gì thế này? Ở đây anh là khách của
tôi. Tôi đón anh như người bạn. Còn anh làm gì? Anh
làm tình với vợ tôi, con gái tôi và nửa số người hầu -
còn với tôi, chẳng làm gì cả sao?"

Người ngu bao giờ cũng quan tâm chỉ với một điều
- bản ngã của người đó. Bất kì cái gì ủng hộ cho người
đó đều tốt - bất kì cái gì. Và người đó sẵn sàng níu
bám lấy nó. Người ngu thậm chí còn níu bám lấy khổ,
bởi vì đó là khổ của người đó. Người đó cứ tích lũy bất
kì cái gì người đó có thể kiếm được, bởi vì người ngu
không có ý tưởng gì về vương quốc bên trong của
mình, về kho báu bên trong của mình; người đó cứ tích
luỹ những đồ đồng nát bởi vì người đó nghĩ đây là tất
cả những gì có thể được sở hữu. Đồ đồng nát bên
ngoài và đồ đồng nát bên trong; đó là điều mọi người
cứ thu thập - mọi vật họ thu thập và ý nghĩ họ cũng thu
thập. Mọi vật là đồ đồng nát bên ngoài, ý nghĩ là đồ
đồng nát bên trong, và bạn bị chìm nghỉm trong đống
đồng nát của mình.
Nhìn đi, nhìn một cách thản nhiên, tách rời vào
cuộc sống của bạn mà xem, bạn đã làm gì với nó, và
bạn đã được cái gì từ nó. Và đừng cố gắng tự lừa
mình, bởi vì đây là cách tâm trí cứ tiếp diễn. Nó nói,
"Trông mình được nhiều thế! Bao nhiêu là tiền trong
ngân hàng, bao nhiêu là người biết tới mình, kính
trọng mình, tôn vinh mình; mình có vị trí lớn lao thế,

về mặt chính trị mình quyền hành thế... còn cái gì
khác? Người ta có thể hi vọng vào cái gì khác? Cuộc
sống đã cho tất cả những cái người ta có thể hi vọng
rồi."
Nhưng tiền hay quyền hay danh chẳng là gì cả, bởi
vì cái chết sẽ tới và tất cả những thành trì vĩ đại của
bạn về của cải, quyền lực, danh vọng, kính trọng, sẽ
chỉ bắt đầu sụp đổ đi cứ dường như bạn đã làm chúng
bằng con bài. Chỉ một cú đáng của cái chết và mọi thứ
tan tành.
Chừng nào bạn chưa có cái gì đó mà bạn có thể
đem ra bên ngoài cái chết, nhớ lấy, bạn không có cái gì
cả đâu - tay bạn trống rỗng. Chừng nào bạn chưa có
cái gì đó bất tử, vĩnh hằng, bạn vẫn cứ là người ngu.
Phật gọi người trí huệ là người đã đạt tới kho báu thực
nào đó - của thiền, của từ bi, của chứng ngộ.

**Thìa có nếm canh không?
Người ngu có thể sống cả đời
cùng với thầy
và vẫn lỡ con đường.**

Thìa không thể nếm được canh, thìa là thứ chết -
người ngu cũng vậy. Người đó chỉ dường như là sống
thôi; bằng không, trái tim người đó chết rồi, gần như
chết, bởi vì trái tim người đó không hoạt động. Người
đó sống qua cái đầu, và cái đầu chỉ là cái thìa.
Qua cái đầu bạn không thể nếm trải bất kì vui vẻ
nào của cuộc sống được. Bạn có thể thấy cái đẹp qua
cái đầu không? Bạn có thể thấy được đoá hoa, nhưng
bạn sẽ bỏ lỡ cái đẹp; bạn sẽ thấy mặt trăng, nhưng bạn

sẽ bỏ lỡ cái đẹp; bạn sẽ thấy mặt trời lặn, nhưng bạn sẽ
bỏ lỡ cái đẹp. Đầu bạn không thể biết gì về cái đẹp.
Đầu bạn có thể biết cái gì đó về dục nhưng không
thể biết cái gì về tình yêu. Đầu bạn có thể hiểu phần
văn xuôi của cuộc sống, đầu bạn là cái máy tính -
nhưng nó không thể biết tới thơ ca của sự tồn tại. Và
thơ ca của sự tồn tại chứa chân lí. Âm nhạc của sự tồn
tại chứa ích lợi thực sự. Nó chỉ có thể được biết tới
bằng trái tim. Chỉ trái tim mới có thể kinh nghiệm
được điều đó.
Nhớ lấy, tất cả những điều là vô nghĩa, cái đầu là
hiệu quả với nó; còn tất cả những cái có ý nghĩa, chỉ
trái tim mới có khả năng biết nó. Và tất cả chúng ta
đều đang sống trong đầu. Các trường phổ thông, cao
đẳng, đại học chỉ tồn tại vì mỗi một chủ định, vì mỗi
cái tội duy nhất mà chúng tồn tại, và tội đó là: làm
chệch năng lượng của mọi người khỏi trái tim để
hướng lên đầu, để cho họ tất cả đều có thể trở thành
máy tính, các thư kí hiệu quả và những người thu thuế,
trưởng ga... Nhưng hệ thống giáo dục không cho phép
bạn trở thành người yêu, nhà thơ, ca sĩ. Nó không cho
phép bạn biết ý nghĩa thực của cuộc sống. Nó không
cho phép bạn đi vào trong đền chùa, nó giữ bạn ở
ngoài.
Cái đầu là ở bề mặt, trái tim là ở trung tâm. Và nếu
trái tim không vận hành, bạn chỉ là cái thìa, cái thìa gỗ.
Bạn sẽ không nếm canh. Người ngu có thể sống cả đời
cùng với thầy và vẫn lỡ con đường.
Sống cùng với thầy là phúc lành lớn lao nhất có
thể có, bởi vì sống cùng một người đã thức tỉnh, khả
năng mở ra cho bạn cũng được thức tỉnh. Người thức
tỉnh có thể làm cho bạn thức tỉnh, bởi vì thức tỉnh có

tính lây nhiễm. Người đó có thể lay bạn ra khỏi mơ và
ác mộng của bạn. Nhưng người ngu có thể sống cùng
với thầy cả đời và bỏ lỡ. Người đó bỏ lỡ thế nào? Bởi
vì ở cùng với thầy người đó vẫn nối qua đầu - đó là
cách bỏ lỡ thầy.
Bây giờ, có vài người ở đây đang bỏ lỡ và vài
người cứ lỡ mãi nếu họ vẫn còn hướng theo cái đầu.
Đây không phải là chỗ để sống trong cái đầu. Không
đầu đi! Sannyasin thực sự sẽ không có đầu. Người đó
sẽ có tính trái tim, bởi vì chính là qua trái tim mà tôi có
thể thấm nhuần vào trong bạn. Chính là chỉ qua trái
tim mà mới có khả năng giao cảm. Bằng không, bạn sẽ
nghe lời tôi và bạn sẽ cóp nhặt lời tôi, và bạn sẽ trở
thành vẹt và bạn sẽ lặp lời tôi - và đó là mọi sự vô tích
sự... chừng nào bạn chưa nếm trải, chừng nào bạn chưa
uống lấy tôi.
Lưỡi nếm canh. Xin đừng là thìa, là lưỡi đi. Khi
bạn ở quanh vị phật, đừng là thìa, là lưỡi đi - sống
động, nhạy cảm, mang tính trái tim, đáng yêu, tin cậy.

**Lưỡi nếm canh.
Nếu ông thức trong hiện diện của thầy
một khoảnh khắc sẽ chỉ cho ông con đường.**

Một khoảnh khắc là đủ! Vấn đề không phải là sống
với thầy cả thời gian dài; thời gian không đi vào trong
nó. Đấy không phải là vấn đề số lượng, về việc bạn đã
sống bao lâu với thầy. Vấn đề là bạn đã yêu thầy sâu
sắc thế nào, không phải là bạn đã sống bao lâu với thầy
- bạn đã trở nên bị thu hút vào thầy mạnh mẽ, đam mê
thế nào... không ở chiều dài thời gian, mà ở chiều sâu
của tình cảm của bạn. Thế thì một khoảnh khắc của
nhận biết, của trái tim thức tỉnh, một khoảnh khắc của

im lặng... và việc truyền trao, việc truyền trao bên
ngoài mọi kinh sách.

**Người ngu là kẻ thù riêng của mình.
Tai hoạ người đó gây ra phá huỷ của người đó.
Người đó chịu cay đắng làm sao!**

Người ngu là kẻ thù riêng của mình, Phật nói. Tại
sao? - bởi vì điều đó đơn giản là từ thoả thuận riêng
của mình mà người đó cứ bỏ lỡ tất cả những điều có ý
nghĩa trong sự tồn tại. Không ai cản đường cả. Thơ ca
của cuộc sống là sẵn có cho mọi người. Người ngu vẫn
còn điếc, người đó giữ cho tai mình bị bịt kín. Cuộc
sống tràn đầy ánh sáng, nhưng người ngu cứ giữ cho
mắt nhắm lại. Cuộc sống liên tục mưa rào niềm vui
thiêng liêng, hoa cứ mưa xuống, nhưng người ngu vẫn
còn quên lãng hoàn toàn. Cho dù đôi khi mặc cho bản
thân mình người đó bắt gặp một đoá hoa, người đó
không tin vào điều đó. Người đó nói, "Mình phải bị
lừa rồi."
Điều đó xảy ra gần như mọi ngày. Mọi người viết
thư cho tôi rằng trong thiền của họ điều gì đó kì lạ
đang xảy ra: họ cảm thấy rất hạnh phúc - điều đó
không thể đúng được! Không ai đã viết cho tôi, "Tôi
cảm thấy bất hạnh - nó không thể đúng được!" Nhưng
bất kì khi nào hạnh phúc được cảm thấy, vui vẻ phát
sinh, họ trở nên sợ, họ không thể tin được vào điều đó.
Họ bắt đầu nghi ngờ. Họ bắt đầu nghi ngờ và họ bắt
đầu lí thuyết hoá rằng điều đó chắc phải là do tính thôi
miên của chỗ này, điều đó phải là do nhiều người áo
da cam bao quanh, đó là lí do tại sao họ bị ảnh hưởng.
Làm sao họ có thể hạnh phúc được?! Họ chỉ biết mỗi
khổ trong toàn thể các kiếp sống của mình, họ đã trở

nên quen với điều đó, khổ đã trở thành bản thể của họ.
Bây giờ cực lạc sao? Không, những hoa này không thể
đúng được - cái gì đó sai rồi.
Trong hầu hết mọi ngôn ngữ trên thế giới đều có
câu ngạn ngữ như câu này trong tiếng Anh: bạn nói,
"Điều đó không thể thật được bởi vì nó tốt thế." Cái tốt
không thể thật được sao? Không ai tin vào cái tốt cả.
"Quá tốt để là thật," bạn nói. Không ai nói, "Quá xấu
để là thật." Không câu ngạn ngữ nào giống như vậy có
trong bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới: "Quá xấu để là
thật." Cái xấu được chấp nhận, cái xấu xí được chấp
nhận, cái trần tục được chấp nhận - còn cái linh thiêng
bị phủ nhận.
Và cho dù bạn chấp nhận cái linh thiêng, bạn cũng
chỉ chấp nhận nó một cách hình thức. Bạn đi tới đền
chùa và nhà thờ như các nghi thức xã hội; bạn không
thực tin vào Thượng đế, bạn không thực tin vào đền
chùa. Điều đó là tốt, nó giữ cho mọi sự được trôi chảy,
nó giống như chất bôi trơn. Nếu bạn đi tới đền chùa và
nhà thờ, mọi người nghĩ bạn là người tốt, chân thành,
tôn giáo; và nếu mọi người nghĩ bạn có tính tôn giáo,
chân thành và tốt bụng, bạn có thể lừa họ theo cách
ngoạn mục hơn là bạn có thể làm điều ngược lại. Họ sẽ
tin cậy bạn, và bạn có thể lừa họ và dối họ chỉ nếu họ
tin cậy vào bạn. Đó là nghi thức xã hội, có thể là một
chiến lược xã hội để lừa và dối mọi người. Nhưng bạn
không tin.
Bất kì khi nào cái gì đó mênh mông, khổng lồ, lớn
hơn bạn, mà giáng xuống bạn, bạn đơn giản co lại, bạn
nhắm mắt lại, bạn trở thành con đà điểu. Bạn đơn giản
phủ nhận nó! Điều đó không thể như vậy được. Không
phải là Thượng đế không tới trên con đường của bạn -

ngài đã tới nhiều lần rồi, ngài đã gõ cửa nhà bạn nhiều
lần rồi, nhưng bạn không mở cửa. Ngược lại, bạn cứ
tìm cách hợp lí hoá. Khi thì bạn nói, "Đấy chỉ là gió
thôi, đấy phải là trời mưa, đấy phải là con hàng xóm
đang chơi trên bậu cửa, gõ vào cánh cửa." Bạn cứ giải
thích cho mình... nhưng bạn chưa bao giờ mở cửa ra và
xem ai có đó.

**Người ngu là kẻ thù riêng của mình.
Tai hoạ người đó gây ra phá huỷ của người đó.
Người đó chịu cay đắng làm sao!
Tại sao làm điều ông sẽ hối tiếc?
Tại sao mang nước mắt theo bản thân ông?
Làm chỉ điều ông không tiếc,**

Từ từ bi lớn lao của mình, ông ấy nêu ra câu hỏi -
ông ấy đang nói với bạn - Tại sao làm điều ông sẽ hối
tiếc? Tại sao cứ mang nước mắt mãi theo bản thân
ông?

**Làm chỉ điều ông không tiếc,
và rót đầy bản thân ông bằng vui vẻ.**

Nhớ lấy, để điều này là tiêu chuẩn: bất kì điều gì
đem tới vui vẻ và phúc lạc và phúc lành đều là thực -
bởi vì phúc lạc là bản tính của Thượng đế. Chân lí là
cái tên khác của phúc lạc. Giả dối đem tới khổ. Nếu
bạn sống trong dối trá, bạn sẽ sống trong khổ. Và nếu
bạn sống trong khổ, nhớ và tìm ra cuộc sống bạn đã
dựa trên điều dối trá nào. Tự rút lui bản thân mình khỏi
những dối trá đó. Đừng phí thời gian và đừng trì hoãn.
Rút lui ngay lập tức! Việc rút lui đó tôi gọi là tính chất
sannyas.

Nó không phải là rút lui khỏi thế giới, nó là rút lui
khỏi những dối trá mà bạn đã từng sống mãi cho tới
giờ. Nó không phải là từ bỏ thế giới, nó là từ bỏ những
dối trá mà bạn đã dựa cả đời mình vào. Khoảnh khắc
bạn tự rút bản thân mình khỏi dối trá, chúng bắt đầu
sụp đổ, bắt đầu chết, bởi vì chúng phụ thuộc vào bạn,
chúng tự nuôi dưỡng chúng trên bạn - chúng không thể
sống mà thiếu sự hỗ trợ của bạn được. Rút đi sự hợp
tác của bạn, và mọi dối trá đều biến mất. Và khi mọi
dối trá biến mất, cái còn là chân lí.
Chân lí là bản tính bên trong nhất của bạn. Chân lí
phải không được tìm ở bất kì đâu khác. Aes dhammo
sanantano - đây là luật tối thượng, luật không cạn,
chân lí tối thượng, cái ở bên trong bạn. Bạn không cần
đi đâu cả. Bạn có thể tìm thấy nó bên trong bản thân
bạn nếu bạn có thể hoàn thành chỉ một điều kiện này:
rút lui khỏi mọi điều dối trá mà bạn đã đã đầu tư vào
nhiều thế - rút lui khỏi chúng. Từ bỏ tất cả những cái
không thật. Khổ là chỉ dẫn cho cái không thật.
Bất kì khi nào phúc lạc nào đó xảy ra, tin cậy vào
nó, và đi vào theo chiều hướng đó... và bạn sẽ đi
hướng tới Thượng đế. Phúc lạc là hương thơm của
ngài. Nếu bạn có thể theo phúc lạc, bạn sẽ không bao
giờ đi lạc lối. Nếu bạn theo phúc lạc, bạn sẽ đi theo tự
nhiên. Và nếu bạn tự nhiên, phúc lạc, thảnh thơi, trí
huệ nảy sinh.
Trí huệ là trạng thái rất thảnh thơi của bản thể. Trí
huệ không phải là tri thức, không phải là thông tin; trí
huệ là sự thức tỉnh bản thể bên trong của bạn, tỉnh táo,
có tính quan sát, chứng kiến, đầy ánh sáng. Tràn đầy
ánh sáng đi - đó là quyền tập ấm của bạn. Nếu bạn bỏ

lỡ, bạn là người ngu. Và bạn đã bỏ lỡ nhiều kiếp rồi -
lần này, xin từ bi thêm chút nữa cho bản thân mình.
Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

#8 Thượng đế yêu tiếng cười

Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Ở phương Tây tôi đã được huấn luyện là một công
nhân xã hội. Tôi được dạy rằng điều quan trọng là
một người kính trọng và yêu mến bản thân mình và
cảm thấy xứng đáng. Tôi đã được dạy rằng điều
quan trọng là hỗ trợ để giúp làm mạnh cho bản
ngã. Thầy nói giết chết bản ngã. Tôi bị lẫn lộn.

Prem Aradhana, bản ngã được cần tới bởi vì cái ta
thực chưa được biết tới. Bản ngã là cái thay thế, nó là
thực thể giả. Bởi vì bạn không biết bản thân mình nên
bạn phải tạo ra một trung tâm nhân tạo; bằng không
hoạt động trong cuộc sống sẽ không thể được. Bởi vì
bạn không biết khuôn mặt thật của mình, bạn phải đeo

mặt nạ. Không biết về cái bản chất, bạn phải tin cậy
vào cái bóng.
Chỉ có hai cách sống trong cuộc sống. Một là sống
nó từ chính cốt lõi của bản thể bạn - đó đã là cách của
các nhà huyền môn. Thiền không là gì ngoài phương
cách làm cho bạn nhận biết về cái ta thực của mình -
cái không do bạn tạo nên, cái bạn đã là vậy rồi. Bạn
được sinh ra với nó, bạn là nó! Nó cần được phát hiện
ra. Nếu điều này là không thể, hay nếu xã hội không
cho phép điều đó xảy ra... và không xã hội nào cho
phép nó xảy ra cả, bởi vì cái ta thực là nguy hiểm -
nguy hiểm cho nhà thờ đã được lập, nguy hiểm cho
nhà nước, nguy hiểm cho đám đông, nguy hiểm cho
truyền thống - bởi vì một khi con người biết tới cái ta
thực của mình, người đó trở thành cá nhân. Người đó
không còn thuộc vào tâm lí đám đông nữa; người đó sẽ
không mê tín, và người đó không thể bị khai thác.
Người đó không thể bị dẫn đi như trâu bò, người đó
không thể bị ra lệnh và chỉ huy. Người đó sẽ sống theo
ánh sáng của mình, người đó sẽ sống từ nội tâm riêng
của mình. Cuộc sống của người đó sẽ có cái đẹp, sự
toàn vẹn vô cùng. Nhưng đó là nỗi sợ của xã hội.
Con người được hợp nhất trở thành cá nhân, và xã
hội muốn bạn trở thành phi cá nhân. Thay vì tính cá
nhân, xã hội dạy bạn là cá tính. Từ 'cá tính -
personality' phải được hiểu. Nó bắt nguồn từ một gốc,
'persona' - persona nghĩa là mặt nạ. Xã hội cho bạn
một ý tưởng giả tạo về bạn là ai; nó cho bạn mỗi một
thứ đồ chơi, và bạn cứ níu bám lấy đồ chơi này cả đời
bạn.
Cách duy nhất là sống qua thiền - thế thì bạn sống
cuộc sống của nổi dậy, của phiêu lưu, của dũng cảm.

Thế thì bạn thực sự sống! Cách khác để sống, hay để
sống giả, là cách thức của bản ngã - làm mạnh bản
ngã, nuôi dưỡng bản ngã; để cho bạn không cần nhìn
vào cái ta, cứ níu bám lấy bản ngã. Bản ngã là vật
phẩm do xã hội tạo ra để lừa dối bạn, làm sao lãng bạn.

Bản ngã là do con người tạo ra, được chúng ta chế
tạo ra. Và bởi vì nó do xã hội chế tạo ra, xã hội có
quyền trên nó. Bởi vì nó do nhà nước và nhà thờ tạo
ra, và do những người đang có quyền lực tạo ra, họ có
thể phá huỷ nó vào bất kì lúc nào; điều đó tuỳ thuộc
vào họ. Bạn phải thường xuyên trong sợ, và bạn phải
thường xuyên vâng lời họ, tuân theo họ, để cho bản
ngã của bạn còn nguyên không bị động chạm. Xã hội
cho bạn sự kính trọng nếu bạn không phải là cá nhân.
Xã hội tôn vinh bạn nếu bạn không phải là một Jesus,
không phải là một Socrates, không phải là một Phật.
Nó kính trọng bạn chỉ nếu bạn là con cừu, không phải
là con người.
Phương Tây đã hoàn toàn quên mất cách thiền - và
Ki tô giáo đã là nguyên nhân. Ki tô giáo đã tạo ra một
tôn giáo rất giả tạo, chẳng biết gì về thiền. Ki tô giáo là
rất hình thức; nó là nghi lễ. Nó là một phần của xã hội
và cấu trúc chính trị của xã hội. Karl Marx hoàn toàn
đúng về điều đó, rằng nó là thuốc phiện của mọi
người. Bởi vì Ki tô giáo, phương Tây đã mất dấu vết
của bản thể riêng của nó. Và người ta không thể sống
mà không có ý tưởng nào đó về cái ta của mình - và
nếu bạn không thể phát hiện được, thế thì tạo ra cái gì
đó đi. Nó sẽ là giả, nhưng cái gì đó vẫn còn tốt hơn là
không cái gì.
Aradhana, điều bạn đã được bảo cho là hoàn toàn
vô nghĩa. Không thành vấn đề ai nói điều đó - các đại

học, các chính khách, các tu sĩ. Chắc chắn, bạn sẽ cảm
thấy bị lẫn lộn, bởi vì tôi đang nói cho bạn chính cái
đối lập lại: Tôi đang bảo bạn gạt bỏ bản ngã, bởi vì
nếu bạn gạt bỏ bản ngã, bạn gạt bỏ tảng đá đang ngăn
cản luồng tâm thức của bạn.
Tâm thức của bạn có đó, ngay ở sau tảng đá này;
nó phải không được đem từ đâu đó khác lại. Loại bỏ
tảng đá này đi - tôn giáo thực chỉ bao gồm việc loại bỏ
cái không cần thiết, và thế rồi cái cần thiết bắt đầu
tuôn chảy. Cái không bản chất phải bị loại bỏ đi. Và
cái bản chất đã có đó rồi, nó đã là hoàn cảnh rồi! Bạn
loại bỏ tảng đá và bạn sẽ ngạc nhiên: bạn không cần
tạo ra cái ta thực - nó tự lộ ra cho bạn.
Và cái thực có cái đẹp, và cái thực là bất tử. Bởi vì
nó bất tử nó không sợ. Cái không thực thường xuyên
run rẩy. Bản ngã bao giờ cũng trong nguy hiểm - bất kì
ai đều có thể phá huỷ được nó. Bởi vì nó đã được
những người khác trao cho bạn, họ có thể lấy lại nó.
Hôm nay họ kính trọng bạn, ngày mai họ có thể không
kính trọng bạn. Nếu bạn không theo ý tưởng của họ về
cuộc sống, nếu bạn không xác nhận phong cách hiện
hữu của họ, họ sẽ rút lại sự kính trọng của họ. Và bạn
sẽ bị xẹp lép trên đất… và bạn sẽ không biết mình là
ai.

Borges viết:
"Tôi mơ rằng tôi thức dậy từ một giấc mơ khác -
đầy những biến động và rối loạn - và rằng tôi thức dậy
trong một căn phòng tôi không nhận ra. Bình minh đã
bừng lên: ánh sáng khuếch tán yếu ớt làm hằn đường
nét của chân giường sắt, bàn. Tôi hoảng sợ nghĩ 'Mình

ở đâu thế này?' và nhận ra rằng tôi đã không biết. Tôi
nghĩ 'Mình là ai?' và tôi không thể nhận ra được bản
thân mình. Nỗi sợ lớn dần lên trong tôi. Tôi nghĩ, 'Việc
thức tỉnh đau đớn này đã là địa ngục rồi, việc thức tỉnh
không tương lai này sẽ là cái vĩnh hằng của tôi.' Thế
rồi tôi thực sự thức dậy, run rẩy."

Không biết tới bản thân mình, không biết tới số
phận mình, đó chắc chắn là địa ngục thực. Và con
người không biết tới bản thân mình. Bây giờ, cách
thức rẻ hơn là tạo ra bản ngã, và phương Tây đã đi
theo cách thức rẻ hơn này. Mà cũng không chỉ phương
Tây: đa số mọi người ở phương Đông nữa, cũng đã
làm cùng điều đó. Chỉ bỏ vài người đã chứng ngộ sang
bên, và cả thế giới đã từng làm cùng một điều.
Phương Tây chiếm tới chín mươi chín phẩy chín
phần trăm người trên thế giới; phương Đông chỉ gồm
vài người, họ có thể được đếm trên đầu ngón tay. Với
tôi, phương Đông và phương Tây không phải là về địa
lí - chúng là chiều hướng tâm linh. Phật Gautam, Lão
Tử, Zarathustra, Abraham, Moses, Christ, Thánh
Francis - phương Đông bao gồm những người này.
Nơi họ sinh ra không quan trọng, không liên quan.
Chắc chắn Thánh Francis không được sinh ra ở
phương Đông, nhưng tôi tính cả ông ấy như một phần
của phương Đông.
Chiều hướng tâm linh, chiều hướng nơi mặt trời
bên trong mọc, là phương Đông. Và đêm tối của linh
hồn, cái không biết gì về mặt trời mọc cả, là phương
Tây. Bạn không trở nên có tính tôn giáo chỉ bởi việc
được sinh ra ở Ấn Độ. Tôn giáo không rẻ thế. Nó là
thứ đắt nhất trong sự tồn tại, bởi vì nó là quí giá nhất.

Không có lối tắt cho nó, còn những người tìm kiếm lối
tắt nhất định bị lừa dối bởi ai đó. Họ sẽ được cho đồ
chơi, và bạn có thể cứ tin vào đồ chơi bởi vì bạn không
muốn liều mạng phiêu lưu vào cái không biết.
Cái không biết lớn nhất tồn tại bên trong bạn. Biển
chưa được thăm dò nhất là tâm thức bạn, và nguy hiểm
lớn nhất nữa, bởi vì khi bạn bắt đầu đi vào bên trong,
bạn bắt đầu rơi vào trong cái trống rỗng, và hoảng sợ
lớn lao nảy sinh, sợ bị điên, sợ mất căn cước của bạn...
Bởi vì bạn đã biết tới bản thân mình như cái tên, bạn
đã biết tới bản thân mình như một người đặc biệt - bạn
đã biết tới bản thân mình như bác sĩ, như kĩ sư, như
doanh nhân; bạn đã biết tới bản thân mình như người
Ấn Độ, người Đức, người Trung Quốc; bạn đã biết tới
bản thân mình như người da đen hay da trắng; bạn đã
biết tới bản thân mình như đàn ông hay đàn bà; bạn đã
biết tới bản thân mình như người có giáo dục hay
không giáo dục - tất cả những phân loại này bắt đầu
biến mất.
Khi bạn đi vào bên trong, bạn không là đàn ông
không là đàn bà: Neti, neti - không cái này không cái
nọ, không da trắng không da đen, không Hindu giáo
không Mô ha mét giáo, không người Ấn Độ không
người Pakistan. Khi bạn đi vào bên trong, tất cả những
phân loại này bắt đầu tuột khỏi tay bạn. Thế thì bạn là
ai? Bạn bắt đầu mất dấu vết bản ngã của bạn, và nỗi sợ
lớn nảy sinh - sợ cái không. Bạn rơi vào trong cái vô
hạn. Ai biết liệu bạn sẽ có khả năng quay lại hay
không? Và ai biết cái gì sẽ là kết quả của việc thám
hiểm này? Kẻ hèn nhát níu bám lấy bến bờ và quên
mất tất cả về biển. Đó là điều đang xảy ra trên khắp thế
giới. Mọi người níu bám lấy bản ngã bởi vì bản ngã
cho bạn ý tưởng nào đó về bạn là ai, cho bạn sáng tỏ

nào đó. Nhưng bản ngã là giả, và sáng tỏ này cũng là
giả.
Thà bị lẫn lộn bởi thực tại còn tốt hơn là được sáng
tỏ với cái không thực ra.

Aradhana, bạn đúng đấy: với tôi lẫn lộn lớn nhất
định xảy ra - bởi vì mọi tri thức của bạn, dần dần, dần
dần sẽ được chứng tỏ đơn giản là dốt nát chứ không gì
khác. Ẩn giấu đằng sau tri thức của bạn là dốt nát của
bạn. Ẩn đằng sau cái láu lỉnh của bạn là tâm trí ngu
đần của bạn. Và đằng sau bản ngã chẳng có gì cả - nó
là cái bóng.
Một khi điều này trở thành rõ ràng cho bạn, rằng
bạn đã níu bám lấy cái bóng, sợ hãi lớn và lẫn lộn lớn,
hỗn độn lớn nhất định xảy ra. Nhưng từ hỗn độn này
các ngôi sao được sinh ra. Người ta phải trải qua
những hỗn độn như vậy - đó là một phần của trưởng
thành tâm linh. Bạn phải làm mất đi cái giả để có được
cái thật. Nhưng giữa hai điều này sẽ là một khoảng hở
mà cái giả sẽ mất đi và cái thật sẽ chưa tới. Đó là
những khoảnh khắc, khoảnh khắc mấu chốt nhất... đây
là những khoảnh khắc mà bạn cần thầy hay bạn.
Mới hôm nọ, Phật đã nói, "Thầy hay bạn là được
cần." Đây là những khoảnh khắc đó khi bạn sẽ cần bàn
tay của ai đó, người có thể giữ bạn, người có thể đỡ
bạn, người có thể nói, "Đừng sợ. Cái trống rỗng này sẽ
biến mất. Chẳng mấy chốc bạn sẽ tuôn trào - chỉ chút
ít chờ đợi thêm nữa, chút ít kiên nhẫn thêm nữa." Thầy
không thể cho bạn cái gì, nhưng thầy có thể cho bạn
dũng cảm. Thầy có thể đưa bàn tay của mình cho bạn

vào những khoảnh khắc mấu chốt đó khi tâm trí bạn
muốn quay lại, trở lại, níu bám bến bờ này.
Vui vẻ của thầy, niềm tin của thầy, thẩm quyền
của thầy... nhớ lấy, khi tôi nói "thẩm quyền của thầy"
tôi không ngụ ý rằng thầy là người cầm quyền. Thầy
không bao giờ là người cầm quyền, nhưng thầy có
thẩm quyền, bởi vì thầy là nhân chứng cho cái ta riêng
của mình. Thầy biết về bờ bên kia, thầy đã từng ở bờ
bên kia. Bạn chỉ mới nghe nói về bờ bên kia, bạn đã
đọc về nó; bạn chỉ biết về bờ bên này, sự thoải mái và
an ninh, và an toàn của bờ này. Và khi cơn bão hoành
hành dữ dội và bạn bắt đầu mất cái nhìn về bờ này, và
bạn không có khả năng thấy được bờ bên kia, tâm trí
bạn sẽ nói, "Quay lại thôi! Quay lại nhanh nhất có thể
được đi! Bờ cũ đang biến mất và bờ mới không xuất
hiện. Có thể không có gì ở bờ bên kia cả, có thể không
có bờ bên kia chút nào. Và cơn bão to thế!"
Trong những khoảnh khắc đó, nếu bạn ở cùng
thầy, và ai đó đang ngồi trong thuyền im lặng, hoàn
toàn bình thản và yên tĩnh, cười lớn và nói, "Đừng lo,"
vẫn cứ thổi sáo, hay ca hát bài ca, hay kể chuyện cười
cho bạn, và người đó nói, "Đừng lo. Có bờ bên kia - ta
biết, ta đã từng ở đó. Kiên nhẫn thêm chút nữa đi..."
Nhìn vào mắt người đó... vào sự tự tin tuyệt đối
của người đó sẽ là giúp đỡ duy nhất. Thấy sự bình
thản, yên tĩnh của người đó, sự toàn vẹn của người
đó... Người đó không nhìn lại, người đó không sợ:
người đó phải đã thấy bờ bên kia rồi, người đó phải đã
ở đó rồi. Toàn bộ bản thể của người đó nói lên điều đó,
toàn thể bản thể của người đó chứng minh cho điều đó.
Và khi người đó cầm tay bạn, bạn có thể cảm thấy
rằng tay người đó không run; bạn có thể cảm thấy rằng

bất kì điều gì người đó nói, người đó nói từ kinh
nghiệm riêng của mình, không phải bởi vì nó được viết
trong Kinh Thánh, trong Gita, trong Dhammapada.
Người đó biết điều đó theo cách riêng của mình! - đó
là thẩm quyền của người đó.
Một khi tự tin của người đó, tin cậy của người đó,
trở thành lây nhiễm cho bạn, bạn cũng sẽ bắt đầu cười.
Tất nhiên, tiếng cười của bạn sẽ có chút ít thần kinh
trong nó, nhưng bạn sẽ bắt đầu cười. Bạn có thể bắt
đầu hát cùng người đó, có thể chỉ để tránh sợ, cũng
như mọi người huýt sáo trong bóng tối. Bạn có thể
tham gia cùng điệu vũ của người đó, chỉ để quên đi tất
cả về điều đang xảy ra. Bạn không muốn thấy cơn bão
bao quanh mình, và bạn không muốn nhớ quá khứ và
bạn không muốn nghĩ về tương lai. Nó dường như đen
tối và ảm đạm với bạn. Bạn có thể tham gia vào trong
điệu vũ của người đó...
Khi nhảy múa với người đó, cho dù là từ sợ, khi ca
hát với người đó cho dù việc hát của bạn nhất định là
thần kinh, khi cười cùng người đó mặc dầu tiếng cười
của bạn không toàn bộ, cơn bão sẽ chóng qua đi. Kiên
nhẫn của bạn càng sâu, điều đó càng chóng xảy ra -
bạn cũng sẽ có khả năng thấy bờ bên kia, bởi vì khi
mắt không bị trục trặc, khi mắt không đầy sợ, chúng
trở thành có tính cảm nhận. Việc thấy nảy sinh trong
bạn - bạn trở thành người thấy.
Bờ bên kia không xa xôi gì; chỉ tại mỗi mắt bạn
đầy khói đến mức bạn không thể thấy được. Thực ra,
chính bờ này là bờ bên kia. Nếu mắt bạn sáng tỏ, nếu
cảm nhận của bạn không bị u ám, nếu sáng suốt đã nảy
sinh trong bản thể bạn, nếu bạn có thể thấy và nghe,
chính bờ này là bờ bên kia. Khi người ta biết, người ta

thực sự cười vào toàn thể cái nhố nhăng của cuộc sống
- bởi vì chúng ta đã thu được cái chúng ta khao khát.
Kho báu này đi cùng với chúng ta, và chúng ta cứ chạy
quanh đây đó.
Bản ngã phải không được tạo ra, bởi vì bạn có cái
ta tối cao bên trong mình.
Nhưng tôi có thể hiểu được lẫn lộn của bạn. Vẫn
còn bị lẫn lộn đi. Đừng quay sự sáng tỏ cũ của bạn - nó
là lừa dối. Ở trong lẫn lộn này, ở cùng tôi thêm chút
nữa, và chẳng mấy chốc lẫn lộn sẽ tản mát đi và biến
mất. Và thế rồi một loại sáng tỏ hoàn toàn mới tới.
Có hai loại sáng tỏ - một, sáng tỏ chỉ đơn giản có
tính trí tuệ, bất kì khoảnh khắc nào cũng có thể bị lấy
đi, hoài nghi có thể được tạo ra vào bất kì khoảnh khắc
nào... Trí tuệ đầy những hoài nghi. Bất kì cái gì bạn đã
nghe thấy và bất kì cái gì bạn đã được bảo đều bị tôi dễ
dàng lấy đi thế; nó chẳng giá trị gì mấy. Huấn luyện cả
đời của bạn, và tôi đã lấy đi mảnh đất từ dưới chân bạn
dễ dàng thế... và bạn bị lẫn lộn. Sáng tỏ như vậy có thể
có giá trị gì? Nếu tôi có thể làm cho bạn lẫn lộn dễ
dàng thế, điều đó nghĩa là nó không thực sự sáng tỏ
đâu. Tôi sẽ cho bạn một loại sáng tỏ mới mà không thể
bị làm lẫn lộn được.

Có lần một triết gia lớn tới gặp Ramakrishna. Triết
gia này biện luận chống Thượng đế, và ông ấy biện
luận thực giỏi. Tên ông ấy là Keshav Chandra Sen.
Ramakrishna hoàn toàn thất học; ông ấy chẳng biết gì
về triết học cả, ông ấy chưa bao giờ tới đại học, ông ấy
chỉ đọc được tới mức lớp hai thôi. Ông ấy có thể viết
và đọc một chút tiếng Bengali.

Triết gia này là người rất có giáo dục, nổi tiếng thế
giới, ông ấy đã viết nhiều sách. Ông ấy biện luận, còn
Ramakrishna cười. Và mỗi lần triết gia này nêu ra một
luận cứ hay, sâu sắc chống Thượng đế, Ramakrishna
nhảy lên và ôm chầm lấy ông ta. Một đám đông lớn đã
tụ tập để xem cảnh tượng này, điều đang xảy ra. Triết
gia này xấu hổ lắm, bởi vì ông ấy đã tới để tranh biện,
và đây là cái loại tranh biện gì thế này? Người này
cười, nhảy múa - đôi khi còn ôm chầm.
Triết gia này nói, "Ông không bị xáo động bởi
luận cứ của tôi sao?"
Ramakrishna nói, "Làm sao tôi có thể bị xáo động
được? Tôi thực sự thích luận cứ của ông. Ông láu lỉnh,
ông thông minh, luận cứ của ông thật là cừ - nhưng tôi
có thể làm gì được? Tôi biết Thượng đế! Đấy không
phải là vấn đề luận cứ, không phải là tôi tin vào
Thượng đế. Nếu mà tôi tin, ông sẽ làm cho tôi xáo
động, ông sẽ lấy đi mọi sự sáng tỏ của tôi và ông sẽ
làm cho tôi lẫn lộn. Nhưng tôi biết ngài hiện hữu mà!"

Nếu bạn biết, bạn biết - không có cách nào làm sao
lãng bạn được. Tôi sẽ cho bạn loại sáng tỏ đó - cái
biết, không phụ thuộc vào bất kì luận cứ nào, và nảy
sinh từ kinh nghiệm tồn tại. Thế thì bạn không cần
phải được dạy kính trọng bản thân mình hay yêu lấy
bản thân mình hay cảm thấy có giá trị. Biết bản thân
mình, người ta biết người là Thượng đế. Bây giờ bạn
có thể bày tỏ kính trọng thêm nào nữa cho bản thân
mình? Khi kinh nghiệm này nảy sinh trong bạn -
"aham brahmasmi! Ta là Thượng đế!" - bạn còn có thể
bày tỏ kính trọng thêm nào nữa cho bản thân mình?

Và ai có đó để cho kính trọng? Chỉ mỗi Thượng đế
có đó. Khi trong chỗ thầm kín sâu sắc nhất của bản thể
bạn việc nhận ra xảy tới: "Ana'l haq! - Ta là chân lí!"
bạn còn cần cảm thấy xứng đáng nào thêm nữa? Bạn
đã đi tới điều tối thượng, và bạn đã đi tới biết điều tối
thượng như bản thể cốt lõi nhất của mình, lãnh thổ của
mình.
Vâng, bạn đã được bảo kính trọng bản thân mình
bởi vì bạn không biết bạn là ai. Bạn đã được bảo cảm
thấy xứng đáng bởi vì bạn cảm thấy vô giá trị. Bạn đã
được bảo yêu lấy bản thân mình bởi vì bạn ghét bản
thân mình. Và điều kì lạ này, điều kì khôi này, là ở chỗ
cũng cùng những người đó đã làm cả hai điều đối với
bạn.
Cùng những người đó trước hết làm cho bạn cảm
thấy vô giá trị; đây là bí mật thương mại của mọi nhà
thờ, của tất cả cái gọi là tôn giáo, của mọi ý thức hệ
chính trị, của mọi xã hội, các nền văn minh và văn hoá
đã tồn tại cho tới nay. Đây là bí mật thương mại: trước
hết họ làm cho bạn cảm thấy vô giá trị - mọi đứa trẻ
đều bị làm cho cảm thấy vô giá trị. Nó được bảo, "Nếu
cháu chưa trở thành thế này thế nọ, cháu chẳng có giá
trị gì." Khi nó bắt đầu cảm thấy vô giá trị, chúng ta bắt
đầu bảo nó, "Cảm thấy xứng đáng đi, cảm thấy giá trị
nào đó. Nếu cháu không thể cảm thấy xứng đáng, cuộc
đời cháu bị phí hoài."
Trước hết chúng ta bảo nó ghét bản thân nó và kết
án bản thân nó; mọi thứ nó làm đều sai, do đó nó bắt
đầu ghét bản thân nó bởi vì nó không phải là người
đẹp. Bố mẹ, thầy giáo, tu sĩ, họ tất cả đều cùng chung
tay vào trong mưu đồ này. Mọi đứa trẻ đều bị qui về
trạng thái bị kết án đến mức nó bắt đầu cảm thấy,

"Mình phải là người xấu nhất trên thế giới, bởi vì mình
làm những điều không nên làm, và mình không làm
những điều nên làm." Và thế rồi một ngày nào đó
chúng ta bắt đầu bảo đứa trẻ, "Sao cháu không yêu bản
thân mình? Bằng không, làm sao cháu sống sót được?"
Chúng ta lấy đi mọi kính trọng khỏi đứa trẻ, và khi
nó trở thành bất kính đối với bản thân nó chúng ta bắt
đầu bảo nó tạo ra kính trọng. Đây là tình huống ngớ
ngẩn thế! Từng đứa trẻ được sinh ra với kính trọng lớn
lao về bản thân mình. Từng đứa trẻ đều biết giá trị của
nó, giá trị cố hữu của nó. Nó không xứng đáng bởi vì
nó giống Phật hay Krishna hay Christ - nó đơn giản
biết nó có giá trị bởi vì nó hiện hữu, nó có sự hiện hữu.
Thế là đủ! Và mỗi đứa trẻ đều yêu bản thân nó, kính
trọng bản thân nó.
Chính bạn là người dạy cho nó điều đối lập. Trước
hết bạn phá huỷ tất cả những cái đẹp trong nó, và thế
rồi bạn bắt đầu vẽ bức tranh giả. Phá đi cái đẹp tự
nhiên và thế rồi vẽ khuôn mặt nó, làm cho nó thành
tuyệt đối giả. Nhưng sao điều này được thực hiện? -
bởi vì chỉ người giả mới có thể là nô lệ, chỉ người giả
mới có thể tuân theo các chính khách ngu xuẩn, chỉ
người giả mới có thể là nạn nhân của các tu sĩ hoàn
toàn dốt nát. Nếu mọi người đều thực, họ không thể bị
khai thác và không thể bị áp bức.

Aradhana, vẫn còn bị lẫn lộn đi - điều đó là tốt.
Điều tốt là bạn đã tới điểm này nơi lẫn lộn lớn đã nảy
sinh trong bạn. Bạn có thể không còn tin cậy vào bản
ngã của bạn nữa - tốt! Điều đó cực kì quan trọng, bởi
vì bây giờ bước thứ hai trở thành có thể. Tôi sẽ trả cho
bạn thời thơ ấu của bạn, giá trị bên trong của bạn, điều

không phải là một hiện tượng được tạo ra; tình yêu tự
nhiên của bạn, điều không được trau dồi nên; kính
trọng tự phát của bạn, điều nảy sinh chỉ khi bạn bắt
đầu cảm thấy rằng mình là một phần của Thượng đế,
rằng bạn là điều thiêng liêng.
Nhớ lấy, bản ngã có tính so sánh - nó bao giờ cũng
so sánh bản thân nó với người khác - và cái ta không
so sánh. Khi bạn biết tới bản thân mình nó chẳng kém
cỏi hơn chẳng cao siêu hơn bất kì ai, nó đơn giản là
bản thân nó. Nhưng bản ngã có tính so sánh. Và nhớ
lấy, nếu bạn cảm thấy cao siêu so với ai đó, bạn nhất
định cảm thấy kém cỏi so với ai đó khác. Cho nên bản
ngã là hiện tượng rất rắc rối: một mặt nó làm cho bạn
cảm thấy cao siêu, mặt khác nó làm cho bạn cảm thấy
kém cỏi. Nó giữ bạn trong mù quáng kép, nó cứ kéo
bạn về một bên. Nó làm bạn phát rồ.
Một mặt bạn biết rằng mình là cao siêu hơn người
phục vụ của mình, nhưng với ông chủ của bạn thì sao?
Bạn buộc người hầu phải phục tùng bạn, và bạn phục
tùng ông chủ. Bạn buộc người phục vụ của mình hay
vợ mình hay con mình là nô lệ cho mình. Và thế rồi
với ông chủ của bạn thì sao? Bạn vẫy đuôi ở đó.
Làm sao bạn có thể phúc lạc được? Cả hai điều
đều sai. Làm cho người khác cảm thấy kém cỏi là bạo
hành, đó là tội chống lại Thượng đế; và làm cho bản
thân bạn cảm thấy kém cỏi trước ai đó lại là tội chống
lại Thượng đế. Khi bạn biết cái ta thực, cả hai điều này
biến mất. Thế thì bạn là bạn, và người khác là người
khác, và không có so sánh - không ai siêu hơn và
không ai kém hơn.
Đây là điều tôi gọi là chủ nghĩa cộng sản tâm linh,
nhưng điều này là có thể chỉ khi việc tự biết mình đã

xảy ra. Karl Marx hay Friedrich Engels, Joseph Stalin
hay Mao Trạch Đông, những người này không phải là
người cộng sản thực. Họ sống trong bản ngã. Người
cộng sản thực là Phật Gautam, Jesus, Lão Tử - không
ai biết họ là người cộng sản nhưng họ là người cộng
sản thực, bởi vì nếu bạn hiểu cái nhìn của họ, mọi so
sánh biến mất. Và khi không có so sánh, có chủ nghĩa
cộng sản. Bình đẳng là có thể chỉ khi so sánh biến mất
khỏi thế giới.
Không biết tới bản thân mình, bạn gần như ngủ
say; không biết tới bản thân mình, bạn giống như
người say cứ đi hỏi người khác, "Nhà tôi đâu?" Người
say thậm chí đôi khi còn hỏi, "Thưa ông, xin ông bảo
tôi là ai?"

Một lần một người say quay lại chỗ người đứng
quầy rượu và hỏi anh ta, "Ông có thấy bạn tôi không?
Anh ấy có ở đây không?"
Người đứng quầy nói, "Có đấy, mới vài phút trước
đây thôi, anh ấy đã ở đây."
Và người say hỏi, "Xin anh vui lòng cho tôi biết,
tôi có ở cùng đó với anh ấy không?"

Một hôm có một người say đứng tại quầy rượu.
Anh ta quay sang người bên phải mình và nói, "Anh
đổ bia vào túi quần tôi đấy à?"
"Tôi chắc chắn không làm đâu," người này nói.
Thế rồi người say quay sang người bên trái mình
và nói, "Anh có đổ bia vào túi quần tôi không đấy?"

Người này nói, "Tôi chắc chắn không đổ bia vào
túi quần anh đâu."
Người say nói, "Vậy như tôi nghĩ rồi - việc bên
trong rồi."

**************************************************

#8Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Tầm nhìn của thầy về công xã mới là gì?

Krishna Prem, công xã mới là một thực nghiệm về
chủ nghĩa cộng sản tâm linh. Từ 'cộng sản' bắt nguồn
từ 'công xã - commune'. Chỉ có một khả năng của chủ
nghĩa cộng sản trên thế giới và khả năng đó là qua
thiền. Chủ nghĩa cộng sản là không thể có được qua
thay đổi cấu trúc kinh tế của xã hội.
Thay đổi cấu trúc kinh tế của xã hội sẽ chỉ đem tới
các giai cấp mới; nó không thể đem tới xã hội phi giai
cấp được. Giai cấp vô sản có thể biến mất, giai cấp tư
sản có thể ra đi, nhưng thế rồi người cai trị và người bị
cai trị... đó là điều đã xảy ra ở nước Nga Xô viết, đó là
điều đã xảy ra ở Trung Quốc. Những phân biệt mới,
các giai cấp mới đã nảy sinh.
Chủ nghĩa cộng sản về cơ bản là tầm nhìn tâm
linh. Vấn đề không phải là thay đổi cấu trúc kinh tế
của xã hội, mà là thay đổi viễn kiến tâm linh của mọi
người. Công xã mới sẽ là không gian nơi chúng ta có

thể tạo ra con người không bị ám ảnh bởi so sánh,
những người không bị ám ảnh bởi bản ngã, những
người không bị ám ảnh bởi cá tính.
Công xã mới sẽ là hoàn cảnh để trong đó con
người mới có thể trở thành có thể. Socrates nói rằng
thầy là bà đỡ, và ông ấy đúng: mọi thầy đều là bà đỡ.
Họ bao giờ cũng mang nhân loại mới vào sự tồn tại.
Qua họ mà con người mới được sinh ra.
Con người cũ bị kết thúc. Con người cũ không còn
hợp thức nữa. Và với con người cũ, tất cả những cái
thuộc vào con người cũ cũng đã trở thành không hợp
thức, không liên quan. Con người cũ có tính phủ định
cuộc sống. Công xã mới sẽ tạo ra tính tôn giáo khẳng
định cuộc sống. Khẩu hiệu của công xã mới là: Chính
thân thể này là Phật, chính trái đất này là Thiên đường
Hoa sen.
Công xã mới sẽ thần thánh hoá trái đất, làm cho
mọi thứ đều thành thiêng liêng. Chúng ta không định
phân chia sự tồn tại thành thế giới này và thế giới kia:
chúng ta định sống sự tồn tại trong tính toàn bộ của nó.
Chúng ta định sống như các nhà khoa học, như các nhà
thơ, như các nhà huyền môn - tất cả cùng nhau!
Nhà khoa học có tính bộ phận. Ông ấy chỉ tin vào
thân thể, ông ấy không thể vượt ra ngoài nó; tầm nhìn
của ông ấy rất hạn chế, thiển cận. Nhà thơ níu bám lấy
khía cạnh khác của nhân loại, phần cảm giác. Ông ấy
có thể thấy cái đẹp, nhưng cái đẹp của ông ấy có tính
rất nhất thời. Ông ấy không có ý tưởng gì về cái vĩnh
hằng. Nhà huyền môn sống trong bản thể, ông ấy sống
trong trạng thái vô thời gian, bất tử. Bởi vì ông ấy sống
trong trạng thái vô thời gian, bất tử, ông ấy trở thành
dửng dưng với thế giới của thời gian và không gian.

Ông ấy trở thành dửng dưng cả với khoa học và với
thơ ca. Đây là tất cả ba khía cạnh của thực ra, ba
khuôn mặt của Thượng đế, ba ngôi, tam thể.
Nỗ lực của tôi trong công xã mới là để tạo ra con
người không bộ phận... con người toàn bộ, toàn thể,
linh thiêng. Con người nên là cả ba đồng thời. Con
người phải có tính chính xác và khách quan như nhà
khoa học; và con người phải có tính nhạy cảm, tràn
đầy của trái tim, như nhà thơ; và con người phải được
bắt rễ sâu vào trong bản thể mình như nhà huyền môn.
Con người không nên chọn lựa. Con người nên cho
phép tất cả ba chiều hướng này cùng tồn tại.
Phương Đông đã khổ bởi vì chúng ta trở nên quá
quan tâm tới bản thể; chúng ta mất lối của khoa học,
chúng ta mất lối của nghệ thuật. Phương Tây đã khổ,
đang khổ, bởi vì nó đã làm mất lối của bản thể.
Phương Đông trở thành giầu có nội tâm nhưng nghèo
khó ngoại diên; phương Tây đã trở nên giầu có ngoại
diên, nghèo khó nội tâm. Công xã mới sẽ giầu có theo
cả hai cách.
Tôi tin vào giầu có. Tôi không phải là kẻ tôn thờ
nghèo khó. Điều đó đơn giản là ngu xuẩn. Tôi muốn
nhân loại giầu có theo mọi cách có thể: giầu trong
khoa học, giầu trong công nghệ, giầu trong thơ ca, giầu
trong âm nhạc, giầu trong thiền, giầu trong huyền môn.
Cuộc sống nên được sống trong tính đa chiều của nó.
Thượng đế nên được tiếp cận tới qua mọi con đường
có thể. Sao làm nghèo nàn linh hồn bạn?
Công xã mới sẽ tạo ra không gian, hoàn cảnh, cho
nhân loại đa chiều này được sinh ra. Và tương lai
thuộc vào con người mới này.

Con người cũ tin vào từ bỏ; con người cũ đã tin
rằng nếu bạn muốn tới gần Thượng đế hơn, bạn phải
lánh xa khỏi thế giới, cứ dường như có xung đột giữa
Thượng đế và thế giới. Điều đó hiển nhiên sai. Thế
giới tồn tại qua Thượng đế! Thế giới là thân thể của
Thượng đế - không thể có bất kì xung đột nào được!
Nếu như có bất kì xung đột nào, thế thì thế giới đã biến
mất từ lâu trước đây rồi.
Thế giới thở, đang sống, và cuộc sống là Thượng
đế. Cây là thiêng liêng bởi vì nó sống, và đá là thiêng
liêng bởi vì đá cũng sống theo cách riêng của nó, đá
cũng trưởng thành. Toàn thể sự tồn tại tràn đầy cuộc
sống, tuôn chảy với cuộc sống. Thượng đế không
chống lại thế giới - làm sao hoạ sĩ có thể chống lại bức
tranh của mình được? và làm sao nhà thơ có thể chống
lại thơ ca của mình được? và làm sao nhạc sĩ có thể
chống âm nhạc của mình được? Thế giới là thơ ca của
ngài, bức tranh của ngài, âm nhạc của ngài - nó là điệu
vũ của ngài.
Con người cũ đã sống trong từ bỏ, trốn chạy khỏi
thế giới vào hang động, vào các tu viện, lên
Himalayas. Con người cũ là kẻ đào tẩu, con người cũ
sợ sống, con người đó sẵn sàng chết hơn. Bằng cách
nào đó con người cũ có tính tự tử.
Con người mới của tôi sẽ ở sâu trong tình yêu với
cuộc sống. Và tôn giáo của tôi không phải là từ bỏ mà
là hân hoan. Công xã mới sẽ tạo ra mọi cơ hội có thể
có để hân hoan, ca hát, nhảy múa.
Công xã mới sẽ là một loại tính tôn giáo mới toàn
bộ, có tính tâm linh. Không ai là người Hindu giáo hay
người Mô ha mét giáo hay người Ki tô giáo hay người
Jaina giáo, nhưng mọi người đều sẽ có tính tôn giáo -

chỉ tính tôn giáo. Với tôi, tôn giáo không cần có tính
từ. Và khoảnh khắc tôn giáo trở nên bị gắn với một
tính từ, nó không còn là tôn giáo nữa - nó trở thành
chính trị.
Bayazid không phải là người Mô ha mét giáo. Bản
thân Mohammed không là người Mô ha mét giáo,
không thể là vậy được. Christ không phải là người Ki
tô giáo và Phật không phải là Phật tử. Họ đơn giản có
tính tôn giáo. Họ có hương vị nào đó, im lặng nào đó,
duyên dáng nào đó, bao quanh họ. Họ là những cánh
cửa sổ mở sang cõi bên kia. Qua họ bạn có thể thấy cõi
bên kia, qua họ Thượng đế cứ ca hát cả nghìn lẻ một
bài ca.
Công xã mới sẽ không phải là của bất kì tôn giáo
nào. Nó sẽ có tính tôn giáo. Nhưng tôn giáo sẽ không
phải là siêu phàm, nó sẽ rất sát đời thường; do đó nó sẽ
có tính sáng tạo, nó sẽ thám hiểm mọi khả năng có tính
sáng tạo. Mọi loại sáng tạo sẽ được hỗ trợ, nuôi dưỡng.
Con người tôn giáo thực phải đóng góp cho thế
giới này. Người đó phải làm nó đẹp hơn một chút so
với nó lúc người đó thấy nó khi đi vào thế giới. Người
đó phải làm cho nó vui vẻ hơn một chút. Người đó
phải làm cho nó thơm hương hơn một chút. Người đó
phải làm cho nó hài hoà hơn một chút. Đó sẽ là đóng
góp của người đó.
Trong quá khứ chúng ta đã kính trọng mọi người
bởi các lí do sai. Chúng ta kính trọng ai đó bởi vì
người đó nhịn ăn. Bây giờ việc nhìn ăn chẳng đóng
góp gì cho thế giới cả. Và người cứ nhịn ăn lâu đơn
giản là bạo hành với bản thân mình. Kính trọng người
đó là kính trọng bạo hành, kính trọng người đó là kính
trọng bản năng tự tử, kính trọng người đó là kính trọng

tự bạo. Người đó ốm yếu về tinh thần! Người đó
không tự nhiên, người đó bất bình thường. Người đó
cần điều trị tâm lí, người đó cần sự giúp đỡ. Nhưng
bạn kính trọng người đó, và bởi vì kính trọng của bạn,
bản ngã của người đó được thổi phồng; cho nên nếu
người đó định nhịn ăn trong một tháng, người đó sẽ
nhịn ba tháng luôn. Và người đó càng nhịn ăn nhiều,
người đó càng hành hạ thân thể mình nhiều, bạn càng
bầy tỏ kính trọng của bạn cho người đó hơn.
Công xã mới sẽ không kính trọng bất kì khuynh
hướng tự bạo nào. Nó sẽ không kính trọng bất kì chủ
nghĩa khổ hạnh nào, nó sẽ không kính trọng bất kì
khuynh hướng bất thường, phi tự nhiên nào - nó sẽ
kính trọng con người tự nhiên. Nó sẽ kính trọng đứa
trẻ trong con người, nó sẽ kính trọng hồn nhiên, và nó
sẽ kính trọng tính sáng tạo. Nó sẽ kính trọng người vẽ
bức tranh đẹp, nó sẽ kính trọng người thổi sáo hay.
Người thổi sáo sẽ có tính tôn giáo, và hoạ sĩ sẽ có tính
tôn giáo, và vũ công sẽ có tính tôn giáo; không phải là
người nhịn ăn lâu, người hành hạ thân thể mình, người
nằm trên giường gai, người làm bản thân mình què
quặt.
Đó sẽ là việc bắt đầu của một nhân loại mới. Điều
đó là cần thiết, tuyệt đối cần thiết. Nếu chúng ta không
thể tạo ra được con người mới trong hai mươi năm sắp
tới - đến cuối thế kỉ này - thế thì nhân loại không có
tương lai. Con người cũ đã đi tới chỗ kết thúc phạm vi
của nó. Con người cũ sẵn sàng tự tử toàn cầu. Chiến
tranh thế giới thứ ba sẽ là tự tử toàn cầu. Điều đó có
thể tránh được chỉ nếu loại người mới có thể được tạo
ra.

Đây sẽ là một thực nghiệm, một thực nghiệm lớn
mà theo đó nhiều điều sẽ phụ thuộc vào. Nó có tác
động cực kì to lớn tới tương lai. Sẵn sàng cho nó đi.
Được chuẩn bị cho nó đi. Đạo tràng này chỉ là cầu
nhảy xuất phát... Ở một qui mô nhỏ tôi đang làm thực
nghiệm. Công xã mới sẽ ở qui mô lớn: mười nghìn
sannyasins sống cùng nhau như một thân thể, một sinh
linh. Không ai sẽ sở hữu cái gì; mọi người sẽ dùng mọi
thứ, mọi người sẽ tận hưởng. Mọi người sẽ sống một
cách tiện nghi, một cách giầu có, vì chúng ta có thể
đảm đương được. Nhưng không ai sẽ sở hữu cái gì cả.
Không chỉ đồ vật không bị sở hữu, mà con người cũng
sẽ không bị sở hữu trong công xã mới. Nếu bạn yêu
một người đàn bà, sống với cô ấy - từ tình yêu cực kì,
từ vui vẻ cực kì - nhưng đừng trở thành chồng cô ấy,
bạn không thể thế được. Bạn không trở thành vợ. Trở
thành "vợ" hay "chồng" là xấu bởi vì nó đem tới quan
hệ sở hữu; thế thì người kia bị thu thành tài sản.

Công xã mới sẽ không có tính sở hữu, tràn đầy
tình yêu - sống trong tình yêu nhưng không có tính sở
hữu chút nào; chia sẻ mọi loại vui vẻ, tạo ra toàn
những vui vẻ... Khi mười nghìn người đóng góp, điều
đó có thể trở nên có tính bùng nổ. Hân hoan sẽ lớn lao.
Jesus nói đi nói lại mãi: Hân hoan! Hân hoan! Hân
hoan! Nhưng ông ấy vẫn chưa được chưa ai nghe.
Người Ki tô giáo trông nghiêm chỉnh thế, và họ đã vẽ
Jesus cũng theo cách đó dường như là bản thân ông ấy
chưa bao giờ hân hoan cả. Người Ki tô giáo nói Jesus
chưa bao giờ cười! Điều này là khôi hài. Người nói
"Hân hoan!" người hay thích thức ăn ngon, rượu ngon,
người hay ăn tiệc tùng và tham dự lễ hội, người mà
quanh mình bao giờ cũng có tiệc tùng - người đó

không bao giờ cười sao? Người Ki tô giáo đã đem một
Christ giả cho thế giới.
Trong công xã của tôi, Phật sẽ cười và nhảy múa,
Christ sẽ cười và nhảy múa. Những anh chàng đáng
thương này, chẳng ai đã theo họ mãi cho tới giờ! Từ bi
với họ đi - để cho họ nhảy múa và ca hát và nô đùa.
Công xã mới của tôi sẽ biến công việc thành vui đùa,
nó sẽ biến cuộc sống thành tình yêu và tiếng cười.
Nhớ lấy khẩu hiệu này một lần nữa - thần thánh
hoá trái đất này, làm cho mọi thứ thành thiêng liêng,
biến đổi cái bình thường, cái trần tục thành những điều
phi thường, tâm linh. Toàn thể cuộc sống phải là ngôi
đền chùa của bạn, công việc phải là tôn thờ của bạn,
tình yêu phải là lời cầu nguyện của bạn.
Chính thân thể này là Phật, chính trái đất này là
Thiên đường Hoa sen.

**************************************************

#8Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi là nhà tâm lí. Tôi đã hi vọng rằng việc nghiên
cứu tâm lí sẽ giúp làm thay đổi cuộc đời tôi, nhưng
chẳng cái gì như thế đã xảy ra. Tôi phải làm gì
bây giờ?

Tâm lí học vẫn còn là khoa học rất, rất chưa chín
muồi. Nó còn rất thô sơ, nó chỉ mới là bắt đầu. Nó

chưa là cách sống - nó không thể biến đổi bạn được.
Nó chắc chắn có thể cho bạn vài sáng suốt trong tâm
trí, nhưng những sáng suốt đó sẽ không là biến đổi. Tại
sao? - bởi vì biến đổi bao giờ cũng xảy ra từ bình diện
cao hơn. Biến đổi chưa bao giờ có nghĩa là giải quyết
vấn đề - vẫn còn ở cùng bình diện cũ - điều đó nghĩa là
điều chỉnh. Tâm lí học vẫn đang cố gắng giúp bạn điều
chỉnh - điều chỉnh theo xã hội, cái bản thân nó đã điên
khùng rồi, điều chỉnh theo gia đình, điều chỉnh theo
các ý tưởng đang chi phối quanh bạn. Nhưng tất cả
những ý tưởng đó - gia đình bạn, xã hội bạn - bản thân
chúng đều ốm yếu, bệnh tật, và điều chỉnh theo chúng
sẽ cho bạn sự bình thường nào đó, ít nhất có vẻ bề
ngoài lành mạnh, nhưng điều đó sẽ không làm biến đổi
bạn.
Biến đổi có nghĩa là thay đổi bình diện của hiểu
biết của bạn. Nó tới qua việc siêu việt lên. Nếu bạn
muốn thay đổi tâm trí bạn, bạn phải đi sang trạng thái
vô trí. Chỉ từ tầm cao đó bạn mới có khả năng thay đổi
tâm trí mình, bởi vì từ chiều cao đó bạn sẽ là người
chủ. Vẫn còn trong tâm trí và cố thay đổi tâm trí bằng
bản thân tâm trí là quá trình vô tích sự. Điều đó cũng
giống như tự kéo mình lên qua dây giầy của mình.
Điều đó cũng giống như con chó cố bắt đuôi của nó;
đôi khi chúng làm vậy, đôi khi chúng hành xử rất con
người. Con chó đang ngồi sưởi nắng mặt trời buổi
sáng sớm và nó thấy cái đuôi ngay bên cạnh nó - một
cách tự nhiên, tò mò phát sinh: Sao không bắt lấy nó?
Nó thử, không được, cảm thấy bực mình, khó chịu; thử
mạnh hơn, thất bại mạnh hơn, trở nên điên, khùng.
Nhưng nó sẽ không bao giờ có khả năng bắt được đuôi
- đấy là đuôi riêng của nó. Nó càng nhảy lên, cái đuôi
cũng sẽ càng nhảy lên.

Tâm lí học có thể cho bạn vài điều sáng suốt nhìn
vào tâm trí, nhưng bởi vì nó không thể đưa bạn vượt ra
ngoài tâm trí nên nó không thể có ích gì được.
Sam trở thành nhà tâm thần và bắt đầu làm ăn phát
đạt. Anh ta mua về một chiếc xe hơi to đắt tiền và lái
nó lần đầu tiên. Anh ta vừa lái được một chốc, một
chiếc xe khác đâm sầm vào anh ta. Anh ta nhảy ra khỏi
chiếc Cadillac bẹp dúm, đi tới chiếc xe đã đụng vào xe
mình, rung rung nắm đấm với nó, và gầm lên, "Đồ
ngu! Đồ khờ! Đồ đê tiện! Đồ chó... !" Thế rồi anh ta
sực nhớ mình là nhà tâm thần và hạ giọng xuống hỏi
một cách mềm mỏng, "Sao anh ghét mẹ anh?"
Tâm lí học chẳng thể giúp ích được. Tôi đã nghe
kể một câu chuyện khác về cũng anh chàng Sam này -
một câu chuyện khi anh ta không còn trên thế giới này
nữa, anh ta đã chết.
Bà quả phụ chăm sóc cây quanh nấm mồ của
chồng mình. Khi bà ấy nghiêng người qua, vài nhành
cỏ xuyên vào chỗ da trần dưới váy bà ấy. Giật mình,
bà ấy nhanh chóng quay lại, nhưng chẳng thấy ai cả.
Thở dài, bà ấy quay nấm mồ và thì thào, "Sam ơi, cư
xử cho phải phép vào! Và nhớ đấy, anh được coi là
chết rồi mà."
Tâm lí học sẽ không giúp gì mấy cho bạn cả trong
sống lẫn trong chết. Bạn có thể được giúp đỡ chỉ bởi
tôn giáo.

Bây giờ các nhà tâm lí đang cố gắng đóng vai trò
của người thầy, hoàn toàn chỉ giả vờ. Nhà tâm lí, nhà
phân tâm và nhà tâm thần đều không phải là thầy! Họ
không biết bản thân họ. Vâng, họ đã hiểu chút ít về cơ
chế của tâm trí, họ đã nghiên cứu, họ có thông tin tốt.
Nhưng thông tin không bao giờ thay đổi ai cả, nó chưa
bao giờ đem tới bất kì cách mạng nào. Sâu bên dưới
người này vẫn còn như cũ. Người đó có thể nói hay,
người đó có thể cho bạn lời khuyên tốt, nhưng người
đó không thể đi theo lời khuyên riêng của mình.
Nhà phân tâm không thể là thầy được. Nhưng đặc
biệt ở phương Tây ông ta đã trở nên thành công một
cách chuyên nghiệp tới mức ngay cả linh mục cũng
cực kì kính nể. Ngay cả các linh mục - Cơ đốc giáo và
Tin Lành - đang nghiên cứu phân tâm học và các
trường phái khác của tâm lí, bởi vì họ thấy rằng mọi
người không tới các linh mục nữa, họ tới nhà phân
tâm. Linh mục trở nên sợ rằng mình mất việc.
Linh mục đã chi phối mọi người từ hàng trăm năm
nay. Ông ta là người khôn ngoan - ông ta đã mất hấp
dẫn rồi. Và mọi người không thể sống được mà thiếu
các cố vấn; họ cần ai đó bảo họ phải làm gì bởi vì họ
chưa bao giờ trưởng thành. Họ giống như trẻ nhỏ, bao
giờ cũng cần được bảo cho cái gì làm và cái gì không
làm. Mãi cho tới nay các linh mục vẫn thường làm
điều đó; bây giờ linh mục đã mất sức mê hoặc của
mình, sự hợp thức của mình. Ông ta không còn đương
đại nữa, ông ta đã trở thành lạc hậu rồi. Bây giờ nhà
phân tâm đã chiếm vị trí của ông ta, nhà phân tâm là tu
sĩ thời nay.
Nhưng như tu sĩ là giả, nhà phân tâm cũng vậy. Tu
sĩ đã dùng lối nói tôn giáo để khai thác mọi người; nhà

phân tâm dùng lối nói khoa học để khai thác cũng
người đó. Tu sĩ không thức tỉnh mà nhà phân tâm cũng
không thức tỉnh.
Con người có thể được giúp đỡ chỉ bởi ai đó đã là
vị phật; bằng không người đó không thể được giúp đỡ.
Mọi cố vấn của bạn sẽ làm cho bạn ngày một trở
thành đống lộn xộn nhiều hơn. Bạn càng nghe cố vấn,
bạn sẽ càng trở thành đống lộn xộn lớn hơn - bởi vì họ
không biết điều họ nói! Họ thậm chí không đồng ý
trong bản thân họ. Freud nói điều này, Adler nói điều
khác, Jung lại nói điều khác. Và bây giờ có cả nghìn lẻ
một trường phái. Và mọi trường phái đều cuồng tín về
triết học của nó - rằng nó có chân lí, toàn thể chân lí và
không có gì ngoài chân lí. Mà không chỉ nó nói rằng
nó đúng đâu; nó nói nó có chân lí, và mọi người khác
đều nói dối, lừa dối.
Nếu bạn nghe theo các nhà phân tâm này, nếu bạn
đi từ nhà phân tâm này sang nhà phân tâm khác, bạn sẽ
còn bị phân vân hơn. Giúp đỡ duy nhất họ có thể trao
cho bạn là ở chỗ nếu bạn đủ thông minh bạn sẽ trở nên
ngán họ, chán họ tới mức bạn sẽ đơn giản vứt bỏ cái ý
tưởng về được biến đổi, và bạn có thể bắt đầu sống
cuộc sống của bạn một cách bình thường, chẳng bận
tâm nhiều tới biến đổi - nếu bạn thông minh, điều rất
hãn hữu, bởi vì thông minh đã bị nghiền nát từ ngay
ban đầu. Bạn bị làm cho thành người xoàng xĩnh. Từ
ngay chính ban đầu, thông minh đã bị phá huỷ. Chỉ vài
người bằng cách nào đó trốn thoát khỏi xã hội và vẫn
còn thông minh.
Nagesh, bạn hỏi tôi, "Tôi phải làm gì bây giờ?"

Gợi ý của tôi là: bạn đã làm đủ rồi. Bây giờ học cái
gì đó không phải là làm mà là vô làm. Ở đây đi, và học
- không làm mà hiện hữu. Ngồi im lặng, không làm gì.
Trong vòng ba tới chín tháng, nếu người ta đủ kiên
nhẫn và nếu người ta có thể đơn giản cứ ngồi đó hàng
giờ với nhau mọi ngày - chừng nào người ta có thể tìm
thấy thời gian để ngồi... Ban đầu, rối loạn lớn sẽ nảy
sinh trong tâm trí bạn; mọi thứ từ vô thức sẽ bắt đầu
nổi lên bề mặt. Bạn sẽ thấy nó dường như bạn sắp phát
điên. Cứ quan sát - đừng lo nghĩ. Bạn không thể phát
điên được bởi vì bạn đã điên rồi, cho nên chẳng có gì
để mất và không cái gì để sợ .

Một chính khách, một chính khách lớn, tới tư vấn
một nhà phân tâm. Chính khách này đang bị phức cảm
kém cỏi - mọi chính khách đều bị phức cảm kém cỏi.
Nếu họ không bị phức cảm kém cỏi, họ sẽ không là
chính khách ngay chỗ đầu tiên. Là chính khách nghĩa
là cố gắng là cao siêu, có quyền lực, để cho người ta
có thể chứng minh cho người khác và cho bản thân
mình, "Tôi không kém cỏi. Trông đây! Tôi là thủ
tướng. Trông đây! Mỗi tôi là thủ tướng của đất nước
chứ không phải ai khác - làm sao tôi có thể kém cỏi
được?"
Chính trị nảy sinh từ phức cảm kém cỏi - mọi
chính trị quyền lực đều nảy sinh từ phức cảm kém cỏi.
Cho nên không phải hiếm hoi mà chính khách bị
chứng phức cảm kém cỏi.
Nhà phân tâm làm việc trên chính khách này hết
năm nọ tới năm kia. Sau hai hay ba năm, nghe đủ mọi
điều lảm nhảm vô nghĩa của ông ta... bởi vì chính

khách có thể nói gì được? Trong hàng giờ ông ta nằm
dài trên tràng kỉ và nói những điều vô nghĩa.
Sau ba năm, một hôm khi ông ta tới, nhà phân tâm
đón ông ta với vui vẻ lớn và nói, "Tôi vui mừng tuyên
bố, sau nghiên cứu ba năm trên ông, rằng ông không bị
chứng phức cảm kém cỏi. Tôi đã đi tới kết luận này
sau một nỗ lực dài rằng điều đó không thể sai được.
Ông không bị chứng phức cảm kém cỏi - đơn giản
quên hết về nó đi."
Chính khách này rất sung sướng và ông ta nói,
"Tôi biết ơn ông lắm, nhưng ông có thể cho tôi biết
làm sao ông đã đi tới kết luận này không?"
Nhà phân tâm nói, "Bởi vì ông đơn giản kém cỏi
rồi - làm sao ông có thể bị chứng phức cảm kém cỏi
được?"

Nagesh, bạn không cần lo nghĩ. Nếu ngồi im lặng
bạn bắt đầu cảm thấy điên khùng nảy sinh, đừng lo
nghĩ - bạn không thể điên hơn bạn đã điên vậy rồi. Con
người không thể sa ngã thêm nữa. Con người đã ngã
xuống đá đáy rồi. Bây giờ không còn sa ngã thêm nữa.
Ngồi im lặng bạn sẽ thấy điên khùng nảy sinh
trong mình, bởi vì nó vẫn còn bị kìm nén. Và bạn bị
giữ bận tâm với mọi thứ - tâm lí học vân vân - bây giờ
bạn sẽ trở nên bận tâm với thiền và tính chất sannyas,
nhưng đây tất cả là bận tâm và bạn không cho phép vô
thức của mình làm lộ bản thân nó ra cho bạn. Điều đó
gây kinh hãi.
Gợi ý của tôi cho bạn là, chỉ ngồi im lặng nhiều
nhất khi bạn có thể có thời gian cho nó. Thiền nhân
ngồi im lặng ít nhất sáu tới tám giờ một ngày. Ban đầu

điều đó thực sự là điên khùng. Tâm trí giở ra nhiều thủ
đoạn với bạn, cố dẫn bạn phát rồ, tạo ra những hình
ảnh kinh sợ, những ảo giác. Thân thể bắt đầu giở trò
với bạn... đủ loại điều sẽ xảy ra. Nhưng nếu bạn có thể
cứ chứng kiến, trong vòng ba tới chín tháng mọi sự
được lắng đọng, và lắng đọng theo cách riêng của nó -
không phải bởi vì bạn phải làm cái gì đó. Không có
việc làm của bạn, nó đơn giản lắng đọng, và khi tĩnh
lặng nảy sinh, cái không được trau dồi, cái không được
thực hành, nó là cái gì đó tuyệt vời, cái gì đó cực kì
duyên dáng, thanh tú. Bạn chưa bao giờ nếm trải cái gì
giống như nó trước đây - nó là nước cam lồ thuần
tuý...
Bạn đã siêu việt lên trên tâm trí! Mọi vấn đề tâm
trí đều được giải quyết. Không phải là bạn đã tìm thấy
giải pháp, mà đơn giản chúng đã tự rơi rụng đi - bởi
việc chứng kiến, chỉ bởi việc chứng kiến.
Bạn đã quá thông thái. Đừng thêm tri thức nữa;
bạn cần dỡ bỏ bớt. Người thông thái là người rất tinh
ranh - họ bao giờ cũng có thể tìm ra cớ để vẫn còn như
cũ.

Một giáo sư triết học và tâm lí học nghiện rượu
lậu. Một đêm, sau khi ăn uống no nê, ông ta đi và
buồng ngủ, cởi quần áo lên giường, và cố gắng thổi tắt
nến. Hơi thở nồng nặc rượu của ông ta làm bùng lên
ngọn lửa.
Rùng mình buồn bã bởi kinh nghiệm này, ông ta
gọi vợ, "Đem cho anh cuốn Kinh Thánh, Martha. Đây
là bài học ghê rợn với anh. Anh sẽ phải thề."

Người vợ sung sướng vội vàng đem cuốn Kinh
Thánh lại, đứng cạnh trong khi chồng mình đặt tay lên
cuốn sách và nhìn lên trời: "Tôi xin thề với thánh thần
linh thiêng rằng tôi sẽ không bao giờ thổi tắt ngọn nến
đang cháy nữa."
Tâm trí tinh ranh. Bạn phải vượt ra ngoài tâm trí -
đó là điều thiền tất cả là gì.

**************************************************

#8Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy dường như là thầy chứng ngộ đầu tiên kể
chuyện cười - sao điều đó là như vậy?

Garima, tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện. Câu
chuyện sau trong tiếng Talmud đặc biệt được yêu mến
bởi thầy Hassid vĩ đại, Baal Shem.
Giáo sĩ Baruch hay tới thăm bãi chợ nơi nhà tiên
tri Elijah thường xuất hiện với ông ấy. Người ta tin
rằng ông ấy xuất hiện với người thánh thiện nào đó để
trao cho họ hướng dẫn tâm linh.
Một lần Baruch hỏi nhà tiên tri, "Có người nào ở
đây có phần trong thế giới để tới không?"
Ông ấy đáp, "Không."

Trong lúc họ đang nói chuyện, hai người đi qua và
Elijah nhận xét, "Hai người này có phần trong thế giới
để tới."
Giáo sĩ Baruch tiến gần và hỏi họ, "Các ông làm
nghề gì vậy?"
Họ đáp, "Chúng tôi pha trò cười. Khi thấy mọi
người nản chí chúng tôi làm cho họ cười đùa lên."
Thượng đế thích tiếng cười, Thượng đế thích
người vui vẻ. Thượng đế không quan tâm khi thấy bạn
với khuôn mặt dài.
Khi Baal Shem sắp chết, ai đó hỏi, "Thầy đã chuẩn
bị đi gặp Trời chưa?"
Ông ấy nói, "Ta bao giờ cũng đã sẵn sàng rồi.
Không phải là vấn đề trở nên sẵn sàng bây giờ - ta bao
giờ cũng đã sẵn sàng. Bất kì lúc nào ngài đều có thể
gọi ta!"
Người này hỏi, "Sẵn sàng của thầy là gì?"
Baal Shem nói, "Ta biết vài chuyện cười hay - ta
sẽ kể cho ngài những chuyện cười đó. Và ta biết ngài
sẽ thích chúng và ngài sẽ cười cùng ta. Và ta còn có
thể cúng dường cho ngài cái gì khác được nữa? Toàn
thể thế giới đều là của ngài, toàn thể vũ trụ là của ngài,
cho nên ta có thể cúng dường ngài cái gì? Chỉ vài
chuyện cười thôi!"

Baal Shem là một trong những chư phật vĩ đại
người đã bắt nguồn từ truyền thống Do Thái, một

trong những người được các đệ tử của mình yêu mến
nhất. Ông ấy là người sáng lập ra Hassid giáo.
Và nhớ lấy, tôi không phải là người đầu tiên kể
cho bạn chuyện cười. Có nhiều người rồi... Nhưng mọi
người buồn tới mức họ quên mất về những người đã là
cội nguồn cho tiếng cười và vui vẻ - họ chỉ nhớ những
người buồn. Mọi người đều buồn; do đó họ tìm ra
đồng cảm nào đó với người buồn. Bạn chỉ nhớ chư
phật buồn - cho dù họ không buồn, bạn làm cho họ
thành buồn. Trong tâm trí mình bạn bịa ra chuyện, bạn
chế tác ra các ý tưởng, và bạn làm cho họ trông buồn.

Bây giờ người Jaina sẽ bị xúc phạm lắm nếu tôi
nói rằng Mahavira đã cười. Tiếng cười dường như trần
tục thế, trần gian thế. Làm sao Mahavira có thể cười
được? Nếu tôi nói Phật đã cười, các phật tử, đặc biệt là
phật tử tiểu thừa, sẽ tức giận. Tôi đã từng cực kì yêu
mến Phật; tôi nghĩ không có người nào khác trên trái
đất này ngày nay đã yêu Phật nhiều như tôi. Nhưng
mới hôm nọ tôi đọc trên báo chí: ông chủ tịch của Hội
Phật giáo Ấn Độ định nêu ra câu hỏi chống tôi ở nghị
viện trong phiên họp sắp tới. Tôi có thể hiểu được,
những người này phải cảm thấy rất bị xúc phạm bởi vì
tôi đang cho Phật màu sắc mới - màu sắc của ông ấy,
màu của Phật. Tôi đang cố gắng đem thực tại của ông
ấy cho bạn. Và những người này đã bóp méo toàn bộ
hình ảnh của ông ấy; họ đã làm cho ông ấy trông buồn
thế, họ sẽ không cho phép ông ấy cười. Nếu ông ấy
cười, họ sẽ nêu ra câu hỏi chống ông ấy trong nghị
viện.
Tôi xúc phạm mọi người bởi vì tôi đang cố gắng
làm sống tôn giáo không theo các ý tưởng của họ. Tôi
bảo bạn, một cách riêng tư tất nhiên, rằng Jesus thường

đùa - nhưng đừng kể điều đó cho người Ki tô giáo nhé,
họ sẽ không hiểu. Họ có thể chỉ hiểu Jesus bị đóng
đinh. Thực ra, họ đang tôn thờ cái chết, không phải
Jesus; họ đang tôn thờ cây thập tự, không phải Christ.
Do đó tôi gọi Ki tô giáo là Chữ thập giáo - nó chẳng
liên quan gì tới Christ. Tôi biết con người này, về mặt
cá nhân tôi biết con người này!
Ông ấy thường yêu mến mọi điều tốt của cuộc
sống. Làm sao ông ấy có thể tránh được chuyện cười?
Ông ấy thích chuyện tầm phào, và người ta nói ông ấy
chỉ toàn chuyển giao sách phúc âm! Ông ấy là con
người rất, rất bắt rễ vào đất. Ông ấy đi với tụi đánh
bạc, với kẻ say, với cả gái đĩ nữa. Ông ấy chẳng sợ tất
cả những kẻ ngu này - đó là lí do tại sao ông ấy phải
chịu khổ.
Đó là lí do tại sao tôi chịu khổ...
Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

#9 Gieo mầm phúc lạc

**Thỉnh thoảng người ngu láu lỉnh
nếm đồ ngọt, ngọt như mật.
nhưng đến cuối nó biến thành đắng.
Và người đó chịu đắng làm sao!
Người ngu có thể nhịn ăn vài tháng,
ăn từ đầu nhành cỏ.
Dầu vậy người đó không đáng một xu
bên cạnh thầy có thức ăn là con đường.
Sữa tươi cần thời gian để chua.
Láu lỉnh của người ngu cũng vậy
cần thời gian để bắt vào người đó.
Giống như than hồng của lửa
nó cháy âm ỉ bên trong người đó.
Bất kì điều gì người ngu học,
điều đó chỉ làm cho người đó mụ mị hơn.
Tri thức dính đầu người đó.

Với điều đó người ấy muốn thừa nhận.
vị trí trước mọi người khác.
vị trí trên mọi người khác.
"Để họ biết công việc của ta,
để mọi người nhìn ta xin chỉ dẫn."
Ham muốn của người đó là vậy,
tự hào thổi phồng của người đó là vậy.
Một đường đưa tới giàu có và tiếng tăm,
Đường kia đi tới chấm dứt con đường này.
Đừng tìm thừa nhận
mà đi theo người đã thức tỉnh
và làm cho bản thân ông được tự do.**

Lời cuối cùng của Phật Gautama trên thế gian là:
Là ánh sáng lên bản thân ông đi. Đừng đi theo người
khác, đừng bắt chước, bởi vì bắt chước, đi theo, tạo ra
ngu xuẩn. Bạn được sinh ra với khả năng vô cùng về
thông minh. Bạn được sinh cùng với ánh sáng bên
trong bạn. Lắng nghe tiếng nói tĩnh lặng, nhỏ bé ở bên
trong, và cái đó sẽ hướng dẫn bạn. Không ai khác có
thể hướng dẫn được bạn, không ai khác có thể trở
thành mô hình cho cuộc sống của bạn, bởi vì bạn là
duy nhất. Không ai đã từng hiện hữu đích xác giống
như bạn, và không ai sẽ lại đích xác giống bạn. Đây là
vinh quang của bạn, vĩ đại của bạn - rằng bạn là hoàn
toàn không thể thay thế được, rằng bạn chỉ là bản thân
bạn và không là ai khác.

Người đi theo người khác trở thành giả, người đó
trở thành rởm, người đó trở thành máy móc. Người đó
có thể là thánh nhân lớn trong mắt người khác, nhưng
sâu bên dưới, người đó đơn giản không thông minh và
chẳng có gì khác. Người đó có thể có tính cách rất
đáng kính nhưng đó chỉ là bề mặt, nó thậm chí không
sâu hơn làn da. Cào vào người đó một chút và bạn sẽ
ngạc nhiên rằng bên trong người đó là một người hoàn
toàn khác, chính cái đối lập với vẻ ngoài của người đó.

Bằng việc theo người khác bạn có thể trau dồi một
tính cách đẹp, nhưng bạn không thể có tâm thức đẹp,
và chừng nào bạn chưa có tâm thức đẹp bạn chẳng thể
nào tự do. Bạn có thể cứ thay đổi các nhà tù của mình,
bạn có thể cứ thay đổi tù túng của mình, cảnh nô lệ của
mình. Bạn có thể là người Hindu giáo hay người Mô
ha mét giáo hay người Ki tô giáo hay người Jaina giáo
- điều đó sẽ không giúp được bạn. Là người Jaina giáo
nghĩa là đi theo Mahavira như mô hình. Bây giờ,
không có ai giống Mahavira hay có thể bao giờ giống
thế. Đi theo Mahavira bạn sẽ trở thành thực thể giả.
Bạn sẽ làm mất đi mọi thực tại, bạn sẽ mất đi mọi chân
thực, bạn sẽ không thực là bản thân bạn. Bạn sẽ trở
thành nhân tạo, phi tự nhiên và là nhân tạo, là phi tự
nhiên là con đường của người tầm thường, kẻ ngu, kẻ
khờ.
Phật định nghĩa trí huệ là sống theo ánh sáng của
tâm thức riêng của bạn, và ngu xuẩn là đi theo người
khác, bắt chước người khác, trở thành cái bóng của ai
đó khác.
Thầy thực tạo ra thầy, không tạo ra tín đồ. Thầy
thực ném bạn trở lại bản thân bạn. Toàn thể nỗ lực của
thầy là để làm cho bạn độc lập với thầy, bởi vì bạn đã

phụ thuộc từ nhiều thế kỉ rồi, và điều đó chẳng dẫn bạn
tới đâu. Bạn vẫn tiếp tục dò dẫm trong đêm tối của linh
hồn.
Chỉ ánh sáng bên trong của bạn mới có thể trở
thành bình minh. Thầy giả thuyết phục bạn đi theo ông
ta, bắt chước ông ta, chỉ là bản sao của ông ta. Thầy
thực sẽ không cho phép bạn được là bản sao, thầy
muốn bạn là nguyên bản. Thầy yêu bạn! Làm sao thầy
có thể làm bạn thành người bắt chước được? Thầy có
từ bi với bạn, thầy muốn bạn hoàn toàn tự do - tự do
với mọi phụ thuộc bên ngoài.
Nhưng người thường không muốn được tự do.
Người đó muốn phụ thuộc. Người đó muốn ai đó khác
hướng dẫn mình. Tại sao? - bởi vì thế thì người đó có
thể đổ toàn bộ trách nhiệm lên vai ai đó khác. Và bạn
càng đổ trách nhiệm lên vai ai đó khác, càng ít khả
năng cho bạn trở nên thông minh. Chính trách nhiệm,
thách thức của trách nhiệm, cái đó tạo ra trí huệ.
Người ta phải chấp nhận cuộc sống với mọi vấn đề
của nó. Người ta phải đi qua cuộc sống không được
bảo vệ; người ta phải tìm và kiếm con đường của
mình. Cuộc sống là cơ hội, là thách thức để tìm ra bản
thân bạn. Nhưng người ngu không muốn đi con đường
gian khó, người ngu chọn lối tắt. Người đó tự nhủ
mình, "Phật đã đạt tới - sao mình phải bận tâm? Mình
sẽ chỉ quan sát hành vi của ông ấy rồi bắt chước. Jesus
đã đạt tới, sao mình phải tìm và kiếm? Mình có thể
đơn giản trở thành cái bóng của Jesus. Mình có thể
đơn giản cứ đi theo ông ấy tới mọi nơi ông ấy đi."
Nhưng đi theo ai đó khác, làm sao bạn sẽ trở nên
thông minh? Bạn sẽ không trao bất kì cơ hội nào cho
thông minh của bạn bùng nổ. Nó cần cuộc sống thách

thức, cuộc sống phiêu lưu, cuộc sống biết cách mạo
hiểm và cách đi vào cái không biết, để thông minh nảy
sinh. Và chỉ thông minh mới có thể cứu được bạn -
không ai khác - thông minh của riêng bạn, lưu ý vào,
nhận biết riêng của bạn, có thể trở thành niết bàn của
bạn.
Là ánh sáng lên bản thân mình và bạn sẽ trí huệ;
để người khác trở thành người lãnh đạo bạn, người
hướng dẫn bạn, và bạn sẽ vẫn còn ngu xuẩn, và bạn sẽ
cứ bỏ lỡ mọi kho báu của cuộc sống - cái vốn là của
bạn! Và làm sao bạn có thể quyết định được rằng tính
cách của người khác là tính cách đúng để bạn theo?
Một Phật sống theo cách riêng của mình, một
Mahavira theo cách riêng của mình, một Jesus lại
khác. Một Mohammed là Mohammed, ông ấy không
phải là Mahavira. Bạn sẽ theo ai? Chỉ bởi ngẫu nhiên
của việc sinh thành mà bạn quyết định cuộc sống của
mình, định mệnh của mình sao? Thế thì bạn sẽ vẫn còn
ngẫu nhiên. Và người ngu là có tính ngẫu nhiên.
Người trí huệ không bao giờ sống theo ngẫu nhiên.
Người đó không trở thành người Hindu bởi vì được
sinh ra trong gia đình Hindu; người đó không trở thành
người Ki tô giáo bởi vì bố mẹ người đó là người Ki tô
giáo; người đó không trở thành người cộng sản bởi vì
người đó được sinh ra ở Nga. Người đó tìm kiếm,
người đó truy tìm.
Cuộc sống là cuộc hành hương cực kì đẹp đẽ,
nhưng chỉ dành cho những người sẵn sàng tìm và
kiếm.
Jesus nói: Tìm và ông sẽ thấy; hỏi và điều đó sẽ
được trao cho ông; gõ cửa và cửa sẽ mở ra cho ông.

Ông ấy không nói: Đi theo, bắt chước. Ông ấy
không nói: Là người Ki tô giáo và cửa sẽ mở ra cho
ông. Ông ấy không nói: Ta đã gõ cửa và đã mở chúng
cho ông. Ông ấy nói: Gõ cửa và cửa sẽ mở ra cho ông.
Và mọi người đều phải gõ cửa, bởi vì mọi người đều
phải đi vào bằng các cánh cửa khác nhau. Mọi người
duy nhất thế, mọi người là các cá nhân.
Đây là vinh quang của bạn. Đừng phủ nhận nó;
bằng không bạn sẽ vẫn còn là kẻ ngu. Điều đó không
có nghĩa là không học từ chư phật, những người đã
thức tỉnh - học chứ! Thấm đẫm tinh thần này! Uống
dòng suối của họ, dòng suối tươi mát của vui vẻ. Ở
trong cùng nhóm của họ, trở nên hoà đồng với âm
nhạc bên trong của họ, lắng nghe hài hoà của họ, và
được tràn ngập với vui vẻ lớn lao rằng một người như
bạn, hệt như bạn, đã đạt tới, cho nên bạn cũng có thể
đạt tới. Trở nên được xúc động rằng một người như
bạn, làm bằng xương bằng máu, đã trở nên chứng ngộ,
cho nên bạn cũng có thể trở nên chứng ngộ.
Vị phật phải không được theo sau mà phải được
hiểu. Vị phật phải không bị bắt chước mà được lắng
nghe - lắng nghe cái im lặng, tình yêu, tin cậy vô cùng.
Và bạn càng hiểu nhiều về vị phật, bạn sẽ càng cảm
thấy ông ấy đang nói không từ bên ngoài mà từ bên
trong, từ chính cốt lõi của bản thể bạn. Ông ấy là tấm
gương phản xạ khuôn mặt nguyên bản của bạn - nhưng
ông ấy chỉ là gương. Mọi thầy vĩ đại đều là những tấm
gương, họ phản xạ khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn.
Nhưng đừng níu bám lấy gương. Gương không phải là
khuôn mặt bạn!
Những lời kinh này của Phật có giá trị mênh
mông. Đi vào chúng theo cách có tính thiền. Và khi tôi

nói đi vào chúng có tính thiền, tôi ngụ ý không ở trong
tâm trạng tranh cãi - đó không phải là cách lắng nghe.
Trong tâm trạng cảm nhận, mang nữ tính. Đừng đề
phòng, đừng có tính phòng thủ. Đừng ẩn giấu đằng sau
áo giáp. Đừng đem tâm trí của bạn vào để diễn giải
điều được nói. Gạt tâm trí sang bên và để cho trái tim
nhảy múa với những lời kinh này. Đó là điều tôi ngụ ý
khi tôi nói lắng nghe có tính thiền. Để cho trái tim hân
hoan. Và trong việc hân hoan đó là một loại hiểu biết
khác toàn bộ - không từ trí tuệ mà từ thông minh.
Bạn sẽ không trở thành thông thái nếu bạn lắng
nghe từ trái tim; bạn sẽ trở thành ngày một trí huệ hơn.
Nếu bạn lắng nghe từ cái đầu, ngay chỗ đầu tiên việc
nghe của bạn sẽ bị bóp méo bởi vì mọi định kiến của
bạn sẽ trở nên bị xoắn xuýt với nó, và tất cả những kết
luận suy diễn của bạn sẽ là sao lãng, và tâm trí bạn sẽ
cho màu sắc của nó vào điều được nói với bạn. Ngay
chỗ đầu tiên bạn sẽ không lắng nghe điều được nói;
tâm trí bạn sẽ gây ra nhiều tiếng ồn và bạn sẽ nghe
theo tiếng ồn của riêng mình. Điều thứ hai, bất kì điều
gì bạn thu thập sẽ trở thành tri thức, không phải trí huệ.
Tri thức là nông cạn, nó không đi sâu, nó không thể đi
sâu được. Tri thức là cách thức che giấu dốt nát của
bạn, nó không phá huỷ dốt nát. Trí huệ là ánh sáng, nó
xua tan bóng tối.
Nhưng trí huệ bao giờ cũng là của trái tim, nhớ
lấy, nó không bao giờ là của cái đầu. Khi bạn tới vị
phật, quên tất cả về cái đầu của bạn đi. Đó là cách tiếp
cận hoàn toàn khác tới bản thể bạn - qua trái tim. Lắng
nghe nhịp đập của trái tim, trở nên đồng điệu - dường
như bạn đang lắng nghe âm nhạc vĩ đại. Nó là âm nhạc
vĩ đại; thực ra còn có thể có âm nhạc nào vĩ đại hơn?

Những lời kinh này là thơ ca vĩ đại nhất, thơ ca
của bản thể tối thượng. Những lời kinh này là hoa sen,
được sinh ra trong hồ tâm thức của người đã thức tỉnh.
Lắng nghe chăm chú, có tính thiền, yêu mến, trong tin
cậy sâu sắc, và bạn sẽ được phúc lành mênh mông,
được ân huệ.
Lời kinh thứ nhất:

**Thỉnh thoảng người ngu láu lỉnh
nếm đồ ngọt, ngọt như mật.
nhưng đến cuối nó biến thành đắng.
Và người đó chịu đắng làm sao!**

Có một câu chuyện cách ngôn Phật giáo nổi tiếng.
Phật thích kể đi kể lại nó mãi:
Một người bị kẻ thù của mình săn đuổi. Họ tới
ngày một gần hơn; anh ta có thể nghe thấy âm thanh
của vó ngựa mỗi lúc một tới gần hơn mọi khoảnh
khắc. Đó là cái chết! Và dường như không có cách nào
để trốn thoát cả, bởi vì anh ta đã tới đường cụt, đường
hết. Anh ta đang đối diện với một vực thẳm lớn. Nếu
nhảy xuống anh ta nhất định chết. Anh ta không thể
quay lại bởi vì kẻ thù sẽ giết chết anh ta. Anh đang hi
vọng rằng có thể có cơ hội nếu anh ta nhảy - anh ta có
thể bị què, nhưng có thể, nhờ phép mầu, anh ta có thể
sống sót - nhưng điều đó nữa dường như cũng là
không thể được bởi vì anh ta thấy sâu dưới vực thẳm
hai con sư tử đang nhìn lên anh ta, sẵn sàng ăn sống
nuốt tươi anh ta.
Chẳng tìm thấy đường nào khác - không thể quay
lại, không thể tiến lên trước - anh ta treo mình trên rễ

của một cái cây, ở ngay chính giữa. Đó là buổi sáng
lạnh lẽo, tay anh ta trở nên lạnh cóng. Anh ta biết
trong vòng vài phút nữa mình sẽ không thể có khả
năng giữ chiếc rễ chút nào nữa; tay anh ta đang tuột
dần ra, anh ta đang mất dần việc nắm giữ. Anh ta biết
cái chết đang trở nên chắc chắn hơn mọi khoảnh khắc.
Và thế rồi anh ta thấy rằng hai con chuột, một
trắng một đen, đang ăn chiếc rễ, gặm mòn chiếc rễ.
Hai con chuột đó đại diện cho ngày và đêm - chúng đại
diện cho thời gian, cái đang cắt đi gốc rễ cuộc sống
của mọi người. Ngày và đêm, cái chết đang tới gần
hơn. Cho nên bây giờ sự việc trở thành tuyệt đối rõ
ràng hơn rằng vấn đề chỉ là vài khoảnh khắc nữa thôi
và anh ta sẽ đi đời. Cái rễ đang trở nên yếu hơn mỗi
khoảnh khắc, mỏng hơn mọi khoảnh khắc. Chuột vẫn
cần mẫn làm việc; tay anh ta ngày một cóng dại hơn và
anh ta có thể nghe thấy tiếng sư tử gầm sâu trong
thung lũng và anh ta có thể nghe thấy kẻ thù đang mỗi
lúc một gần hơn. Bạn có thể hiểu hoàn cảnh tuyệt vọng
của người đó.
Và thế rồi đột nhiên anh ta thấy rằng ngay trên
ngọn cây có một tổ ong, và một giọt mật tuột xuống từ
chiếc tổ này. Anh ta quên phắt tất cả về kẻ thù, tất cả
về sư tử gầm, chuột trắng và chuột đen, đôi bàn tay
anh ta đang tê cóng - trong một khoảnh khắc, anh ta
hoàn toàn quên mất mọi thứ. Toàn thể tâm trí anh ta bị
hội tụ vào giọt mật đó. Anh ta há mồm, giọt mật rơi
vào lưỡi anh ta... và nó ngọt thế.

Đây là tình huống của người ngu. Đây là tình
huống của mọi người trên trái đất. Vị nó ngọt làm sao!
Nhưng vị này có thể còn được bao lâu? Chẳng mấy

chốc cái chết sẽ tới từ mọi hướng. Nhưng đó là cách
chúng ta cứ sống - sống cho những thú vui nhất thời,
những mê đắm, thức ăn, dục, tiền, quyền, danh... toàn
những giọt mật ong. Vị nó ngọt làm sao, và trong
khoảnh khắc đó chúng ta hoàn toàn quên mất điều sắp
xảy ra. Khoảnh khắc này chiếm lĩnh chúng ta và chúng
ta trở nên quên lãng thực tại của cuộc sống: rằng nó
được bắt rễ vào cái chết, rằng nó sắp sửa biến mất.
Phật nói: Thỉnh thoảng người ngu láu lỉnh nếm đồ
ngọt, ngọt như mật. Nhưng đến cuối nó biến thành
đắng. Và người đó phải chịu đắng làm sao!
Quan sát bản thân bạn đi. Bạn đang làm gì ở đây
trên thế gian này? Bạn đã làm gì mãi cho tới nay?
Cuộc sống của bạn bao gồm những cái gì? Bạn đã làm
gì thực sự là thật, hay bạn chỉ sống trong mơ? Bạn đã
tiếp cận tới cái vĩnh hằng theo cách nào chưa? Hay bạn
quá bận tâm với cái nhất thời? Bạn đã làm kế hoạch
nào, dự án nào, cho chân lí tối thượng? Hay bạn vẫn
còn say sưa với cái trần tục, với cái bình thường, đi
vào cùng đường mòn mọi ngày, chuyển vào cùng
đường mọi ngày? Sáng đến và bạn xô ra bãi chợ, và tối
đến và bạn mệt lử và bạn về nhà... và cùng cái vòng đó
cứ chuyển động, cùng cái bánh xe ấy. Và điều này đã
tiếp diễn và tiếp diễn trong nhiều kiếp rồi. Khi nào bạn
sẽ trở nên chán nó? Khi nào bạn sẽ trở nên tỉnh táo hơn
một chút về điều bạn đang làm cho cuộc sống của
mình? Đây là lãng phí cực kì.
Nhưng Phật nói: Chắc chắn, có vị ngọt nào đó,
nhất thời, và người ta chịu khổ cho vị ngọt đó. Điều
không tránh khỏi là nó biến thành đắng. Quan sát cuộc
sống của bạn đi. Bạn có thể kiếm nhiều tiền, và trong
khi bạn kiếm tiền nó có vị ngọt. Nhưng bạn không

nhận biết rằng bạn đang đánh mất đi cuộc sống của
mình trong việc kiếm những thứ rác rưởi, rằng cuộc
sống đang tuột khỏi tay bạn, rằng nó là chuyện rất tốn
kém mà bạn theo đuổi, hoàn toàn ngu xuẩn, đần độn.
Cuộc sống không thể được mang trở lại; ngay cả
một khoảnh khắc cũng không thể được mang lại, bằng
mọi của cải của bạn, bạn có thể mua lại được không?
Nó không thể được đòi lại. Thời gian quí giá như vậy
đang bị phí hoài! Bạn đang chất đống của cải mà sẽ bị
cái chết lấy đi, và bạn sẽ ra đi tay trắng... tay trắng như
khi bạn đã tới thế gian. Thế rồi bạn sẽ cảm thấy cay
đắng về nó, rằng bạn đã phí hoài toàn thể cuộc sống
của mình vì cái gì đó sẽ không đi cùng bạn. Bạn đã phí
hoài toàn thể cuộc sống của mình vì cái gì đó sẽ không
là của bạn. Bạn đã phí hoài toàn thể cuộc sống trong
quyền lực, chính trị; bạn đã phí hoài toàn thể cuộc
sống của mình trong việc trở nên đáng kính, và bây giờ
cái chết đã tới và tất cả sẽ bị lấy đi. Và bạn đã không
nếm trải được một khoảnh khắc của thực tại vĩnh hằng
của bạn - bạn đã không nếm trải cái gì bất tử.
Đây là điều Phật gọi là cách tiếp cận của người
ngu tới cuộc sống. Mọi thứ đều biến thành đắng: tình
yêu của bạn, tình bạn của bạn, gia đình bạn, công việc
của bạn, chính trị của bạn... mọi thứ, chung cuộc, đều
chứng tỏ là độc, biến thành đắng. Người trí huệ sẽ trở
nên nhận biết trong khi vẫn còn thời gian và cái gì đó
có thể được làm.

**Người ngu có thể nhịn ăn vài tháng,
ăn từ đầu nhành cỏ.
Dầu vậy người đó không đáng một xu
bên cạnh thầy có thức ăn là con đường.**

Phật không nói trở thành người khổ hạnh. Phật
không nói từ bỏ thế giới, từ bỏ thức ăn, bỏ đói bản thân
bạn, nhịn ăn, hành hạ thân thể bạn - ông ấy không nói
điều đó. Ông ấy không thể nói điều đó được. Ông ấy
đã học được bài học, một bài học lớn bằng việc tự
mình thực hiện tất cả những điều này.
Khi ông ấy rời bỏ cung điện của mình ông ấy đã
theo con đường truyền thống trong sáu năm, hành hạ
bản thân mình, nhịn ăn, phá huỷ thân thể mình. Ông ấy
đã đi tới điểm ông ấy ở ngay bên bờ vực cái chết - ông
ấy đã tự hành hạ bản thân mình quá nhiều. Trong
khoảnh khắc đó ông ấy đã trở nên nhận biết, "Mình
đang làm gì? Trước hết mình đã mê đắm, cả ngày và
đêm đều dành cho mê đắm: đàn bà, rượu, đồ ăn ngon,
quần áo, cung điện, xe vàng, đi săn... Đó đã là cuộc
sống của mình, cuộc sống của hoàng tử. Mình đã làm
cái gì đó được chứng tỏ là vô tích sự."
Ông ấy chỉ mới hai mươi chín tuổi khi ông ấy rời
bỏ cung điện - phải đã là một con người có thông minh
lớn lao. Có những người đến bẩy mươi tuổi hay bẩy
mươi chín tuổi và họ vẫn chưa trở nên nhận biết về cái
ngu xuẩn của các kiếp sống của họ. Ông ấy chỉ mới hai
mươi chín. Phải là một con người của sáng suốt hiếm
hoi. Phải đã quan sát, nhìn vào điều mình đã làm, thiền
về mọi thứ. Đột nhiên ông ấy trở nên nhận biết, "Toàn
thể điều này đều là rác rưởi - mọi đàn bà này, mọi
rượu này, đi săn này, tất cả những thứ mê đắm này đều
không cho ta cái gì vĩnh hằng."
Phương Đông bao giờ cũng đi tìm cái vĩnh hằng.
Định nghĩa về chân lí ở phương Đông là: cái có tính
vĩnh hằng. Và định nghĩa về phi chân lí? - cái có tính
nhất thời. Khi các nhà huyền môn phương Đông nói

rằng cái gì đó là ảo tưởng, họ ngụ ý nó là nhất thời. Họ
không ngụ ý rằng nó không có, họ biết nó có, nhưng
chỉ trong một khoảnh khắc thôi, như bong bóng xà
phòng. Nó có! Và đôi khi bong bóng xà phòng có thể
trông thực sự đẹp. Nếu ánh mặt trời xuyên qua nó, nó
có thể được bao quanh bởi cầu vồng, đủ mọi mầu sắc.
Bong bóng xà phòng có đó, nhưng hiện hữu của nó
nhất thời, lừa dối đến mức tốt hơn cả là nói rằng nó
không có; do đó các nhà huyền môn phương Đông nói
thế giới là maya - ảo vọng. Không phải là nó không có
đó, nhưng nó nhất thời tới mức gần như vô nghĩa dù
nó có hay không. Tốt hơn cả là gọi nó là ảo tưởng, bởi
vì điều đó sẽ làm cho bạn tỉnh táo, thức tỉnh.
Hai mươi chín năm đó là đủ để làm cho ông ấy
nhận biết rằng ông ấy đã chơi với bong bóng xà phòng.
Ông ấy đã trốn đi, ông ấy đã từ bỏ vương quốc. Nhưng
như điều đó gần như bao giờ cũng xảy ra, tâm trí đi
vào cái đối lập. Tâm trí giống như quả lắc đồng hồ cổ:
đi từ phải qua trái, từ trái qua phải - sang cái đối lập.
Nó không bao giờ dừng ở giữa. Và ở giữa là bí mật.
Nếu con lắc dừng ở giữa, đồng hồ dừng lại, thời gian
dừng lại, thế giới dừng lại. Nhưng quả lắc cứ đi từ trái
qua phải, từ phải qua trái, và nó giữ cho đồng hồ chạy
- nó giữ cho thời gian sống. Và thời gian là thế giới.
Vượt ra ngoài thời gian là biết cái gì đó bất tử; do
đó, ở Ấn Độ, với thời gian và cái chết chúng ta dùng
cùng một từ, kal - cùng một từ cho thời gian và cùng
một từ cho cái chết. Điều đó không phải là trùng hợp
ngẫu nhiên, nó có ý nghĩa. Thời gian là cái chết, bởi vì
trong thời gian mọi thứ đều nhất thời, mọi thứ đều sẽ
chết. Một khoảnh khắc nó có đó, khoảnh khắc khác nó
qua rồi, và qua mãi mãi. Khoảnh khắc bạn vượt ra
ngoài thời gian, bạn vượt ra ngoài cả cái chết.

Nhưng cũng như tâm trí vận hành - nó chuyển
sang cái đối lập - tâm trí của Phật cũng đi sang cái đối
lập. Ông ấy đã trốn khỏi cung điện. Mãi cho tới nay
ông ấy đã chăm nom thân thể mình; bây giờ ông ấy bắt
đầu hành hạ thân thể. Mãi cho tới nay ông ấy đã quá bị
ám ảnh với thức ăn ngon; bây giờ ông ấy bắt đầu nhịn
ăn, nhịn dài ngày. Ông ấy trở thành nhà khổ hạnh nổi
tiếng. Mọi người bắt đầu kính trọng ông ấy, mọi người
bắt đầu theo ông ấy. Ông ấy là một người đẹp, một
trong những người đẹp nhất đã từng bước đi trên trái
đất này, nhưng sáu năm tự hành hạ mình và tự bạo này
đã phá huỷ thân thể ông ấy. Ông ấy đã trở nên ngăm
đen, ông ấy đã trở nên gầy còm, ông ấy đã trở nên xấu
xí.
Nhưng rồi một hôm một sáng suốt lớn lao đã nảy
sinh trong ông ấy, "Mình đang làm gì? Trước hết mình
đã bị ám ảnh bởi thức ăn, bây giờ mình bị ám ảnh bởi
nhịn ăn - về cơ bản mình vẫn bị ám ảnh bởi thức ăn.
Trước hết nó là ám ảnh tích cực, bây giờ nó là ám ảnh
tiêu cực. Nhưng mình đã không thay đổi lấy tí ti nào.
Trước hết mình đã bị ám ảnh với đàn bà, bây giờ mình
bị ám ảnh bởi brahmacharya - vô dục. Về cơ bản mình
đã không thay đổi - mình vẫn bị ám ảnh với dục.
Trước hết mình đã chạy tới dục, bây giờ mình chạy xa
khỏi dục, nhưng dục vẫn còn là trung tâm của con
người mình."
Khải lộ này thật lớn lao. Chính khải lộ đó đã tạo ra
hoàn cảnh trong đó ông ấy đã trở nên chứng ngộ. Buổi
tối ông ấy hiểu ra điều này, cái gì đó cực kì quan trọng
đã xảy ra cho ông ấy. Ông ấy đã cười vào toàn bộ cái
lố bịch của tâm trí mình. Ông ấy đã cười vào cái tâm
trí thủ đoạn đó - điều ông ấy nghĩ rằng ông ấy đã
chống tâm trí, nhưng ông ấy không chống tâm trí - tâm

trí đã giở thủ đoạn. Tâm trí đã phỉnh ông ấy, tâm trí đã
lừa ông ấy. Tâm trí đã tới theo lối cửa sau. Trước tiên
nó tới theo lối cửa trước, bây giờ nó tới từ cửa sau, và
khi nó tới từ cửa sau thì còn nguy hiểm hơn. Theo
đường cửa trước ít nhất bạn cũng nhận biết về điều
mình đang làm. Khi nó tới từ cửa sau, một cách gián
tiếp, theo cách tinh vi, ẩn giấu, nó tới ẩn sau cái mẽ
ngoài.
Tâm trí tinh ranh tới mức nó có thể ẩn nấp trong
cái vỏ ngoài của chính cái đối lập của nó. Từ mê đắm
nó có thể trở thành khổ hạnh, từ việc là người duy vật
nó có thể trở thành người tâm linh, từ việc trong thế
giới này nó có thể trở thành thế giới khác. Nhưng tâm
trí là tâm trí - dù bạn ủng hộ thế giới hay chống thế
giới bạn vẫn còn bị giam hãm trong tâm trí. Ủng hộ
hay chống đối, cả hai đều là những bộ phận của tâm
trí.
Khi tâm trí biến mất, tâm trí biến mất trong nhận
biết vô chọn lựa, khi bạn dừng việc chọn lựa, khi bạn
không ủng hộ không chống đối - điều đó là dừng ở
giữa. Chọn lựa này dẫn sang trái, cực đoan này; chọn
lựa kia dẫn sang phải, cực đoan kia. Nếu bạn không
chọn lựa, bạn đích xác ở giữa. Đó là thảnh thơi, đó là
nghỉ ngơi. Đó là từ bỏ đúng. Nó không đối lập với thế
giới, nó không đối lập với thân thể, nó chẳng liên quan
gì tới thân thể. Nó là việc thức tỉnh cực kì của tâm
thức. Bạn trở thành vô chọn lựa, không bị ám ảnh, và
trong trạng thái không bị ám ảnh đó, tâm thức vô chọn
lựa, thông minh nảy sinh, cái đã từng nằm sâu, ngủ
bên trong bản thể bạn. Bạn trở thành ánh sáng lên bản
thân mình. Bạn không còn là người ngu nữa.

Từ mê đắm bạn có thể đi vào kìm nén; điều đó
chẳng có ích gì. Đó là nơi mọi tôn giáo đã móc vào.
Xơ trưởng bị cướp vào buổi tối khi từ ngân hàng
trở về, nơi bà ấy vừa gửi số tiền từ thiện quyên góp
được trong tuần. "Cậu chỉ làm phí thời gian của mình
thôi, anh bạn trẻ," bà ấy nói với tên cướp. "Tôi chẳng
có tiền. Tôi đã để tất cả tiền ở chỗ gửi đêm trong ngân
hàng rồi."
"Chúng ta sẽ xem về điều đó," nó nói một cách dứt
khoát, và bắt đầu sờ soạng xuống dưới áo choàng của
bà ta để tìm tiền.
"Ô! Cậu làm gì thế?" bà ta kêu lên. "Ô! Ô! Ô
Jesus, Mary! Đừng dừng bây giờ - tôi sẽ viết cho cậu
séc!"

Kìm nén không phải là con đường, không thể là
con đường được. Tất cả những điều bạn đã kìm nén
đều chờ đợi cơ hội của nó. Nó đơn giản đi vào trong
vô thức - nó có thể quay lại vào bất kì khoảnh khắc
nào. Bất kì khêu gợi nào và nó sẽ trồi lên bề mặt. Bạn
không tự do với nó. Kìm nén không phải là con đường
tới tự do. Kìm nén là loại tù túng còn tồi tệ hơn mê
đắm, bởi vì qua mê đắm người ta trở nên mệt mỏi sớm
hay muộn, nhưng qua kìm nén người ta chưa bao giờ
trở nên mệt mỏi.
Thấy ra vấn đề đi: đam mê nhất định làm bạn mệt
mỏi và làm bạn chán. Sớm hay muộn bạn sẽ bắt đầu
nghĩ tới cách gạt bỏ tất cả nó. Nhưng kìm nén sẽ giữ
mọi thứ sống động. Bởi vì bạn đã không sống, làm sao
bạn có thể chán được? Bạn đã không sống, làm sao

bạn có thể ngán được? Bởi vì bạn đã không sống, sức
hấp dẫn vẫn tiếp tục, thôi miên vẫn tiếp tục; sâu bên
dưới, nó chờ đợi.
Và những người mê đắm là bình thường theo cách
nào đó nếu so với người kìm nén; người kìm nén trở
thành bệnh hoạn. Người mê đắm ít nhất là tự nhiên -
đó là cách tự nhiên đã làm ra bạn - nhưng kìm nén là
trở thành phi tự nhiên. Dễ dàng đi từ tự nhiên thấp hơn
lên tự nhiên cao hơn. Rất khó đi từ phi tự nhiên lên tự
nhiên cao hơn. Phật gọi chân lí tối thượng là "tự nhiên
tối thượng" - aes dhammo sanantano. Đây là tự nhiên
tối thượng, luật tối thượng, ông ấy tuyên bố. Luật tối
thượng là gì? Cái vĩnh hằng, cái không chết, tâm thức
thuần khiết.
Dễ dàng đạt tới luật tối thượng này từ tự nhiên, bởi
vì tự nhiên là thấp hơn nhưng dầu vậy nó vẫn là tự
nhiên. Và từ chỗ thấp hơn lên chỗ cao hơn bạn có thể
bước đi; chỗ thấp hơn có thể trở thành bàn đạp. Nhưng
khoảnh khắc bạn trở thành phi tự nhiên điều đó trở
thành rất khó. Từ phi tự nhiên, không có đường đi tới
tự nhiên tối cao.
Do đó, gợi ý của tôi là: nếu bạn định chọn lựa,
chọn mê đắm thay vì kìm nén. Điều tốt nhất là không
chọn lựa, vẫn còn vô chọn lựa, hiện hữu chỉ là nhân
chứng, để nhìn bản năng của bạn, các ham muốn, và
không bị đồng nhất với chúng, ủng hộ hay chống đối.
Điều tốt nhất chỉ là nhân chứng bởi vì trong việc
chứng kiến, trong ngọn lửa của việc chứng kiến, mọi
ham muốn đều bị thiêu cháy - không chỉ ham muốn,
mà chính hạt mầm của ham muốn bị thiêu cháy. Người
ta trở thành nirbeej - vô hạt mầm.

Nhưng đừng chọn cái tiêu cực. Một khi bạn trở
nên kìm nén, bạn trở thành bệnh hoạn, bạn ốm bệnh.
Thực ra, chỉ những người bệnh hoạn mới trở nên quan
tâm tới hệ thống kìm nén các ý nghĩ.

Mọi xơ trừ một xơ ở nữ tu viện Bỉ đều được phát
hiện có thai ngay sau chiến tranh. Hồng y giáo chủ tiến
hành một cuộc điều tra cá nhân và biết rằng các ni cô
này tất cả đều đã bị lính Đức hiếp.
"Nhưng sao họ không hiếp xơ?" ông ta hỏi một
người gầy còm, nhỏ bé, xấu xí và trông kinh tởm,
người không có thai.
"Ai, tôi á?" cô ấy nói. "Tôi đã cưỡng lại!"

Bệnh hoạn cũng có thể tìm cách hợp lí hoá. Bạn
biết chuyện ngụ ngôn cổ của Aesop chứ?
Cáo nói, "Nho chua lắm," bởi vì cáo không thể với
tới chùm nho được - chúng quá cao. Cáo nhìn quanh,
nó cố gắng vất vả để với lên, nhưng nho ở quá cao, bên
ngoài tầm với của nó. Nó nhìn quanh, chẳng có ai cả.
Nó bỏ đi, nhưng một con thỏ đã quan sát, ẩn nấp sau
bụi cây. Và thỏ nói, "Chị cáo ơi, có chuyện gì vậy?
Chị không lấy được nho sao?"
Cáo nói, "Không, vấn đề không phải là lấy nho -
chúng chưa chín, chúng rất chua."

Những người không thể lấy được nho có thể hợp lí
hoá rằng nho còn chua. Việc hợp lí hoá này có thể lừa
họ, nhưng làm sao chúng có thể lừa bạn được? Cáo

biết hoàn toàn rõ rằng nó không có khả năng với tới.
Bây giờ, đó là việc hợp lí hoá, và tâm trí rất láu lỉnh
trong việc hợp lí hoá.

Jake về nhà vào giữa chiều. Anh ta gặp vợ và con
ngay tại cửa. Con anh ta kêu lên, "Bố ơi, có ông ba bị
trong buồng xép!"
Jake chạy xô vào buồng nhỏ và đẩy tung cửa mở
ra. Ở đó, lộn xộn trong đống áo choàng là anh bạn đối
tác của mình, Sam. "Sam," Jake gầm lên, "sao cậu tới
đây vào buổi chiều và làm cái quỉ gì doạ con tớ thế?"

Tâm trí rất tinh ranh và láu lỉnh trong việc hợp lí
hoá mọi thứ, trong việc tìm ra cách thức và phương
tiện. Tâm trí có thể gợi ý kìm nén với bạn rất dễ dàng,
bởi vì nếu bạn kìm nén thì bạn sẽ tiến xa trong quyền
lực của tâm trí hơn nhiều khi bạn trong cuộc sống của
mê đắm. Và tâm trí sẽ có nắm giữ lên bạn mạnh hơn
nhiều.
Phật đã học điều đó qua kinh nghiệm riêng của
mình - sáu năm của việc hành hạ lớn lao. Với Phật thế
giới đã đi vào một pha mới của tính tôn giáo. Trước
Phật không ai đã nói điều này: rằng kìm nén, khổ
hạnh, nhịn ăn, hành hạ thân thể mình, sẽ không ích lợi
gì. Với Phật, nhân loại đã đi vào một pha mới, pha cao
hơn.
Phật là cột mốc rất, rất có ý nghĩa trong tiến hoá
của tâm thức con người, nhưng ông ấy đã không được
hiểu đúng, bởi vì lại những người diễn giải là những
học giả cũ, các bác học, tu sĩ. Họ diễn giải Phật theo
cách mà... họ bắt đầu diễn giải Phật gần như hoàn toàn

chống kinh nghiệm riêng của ông ấy. Họ bắt đầu nói
nhiều về sáu năm này; kinh sách Phật giáo đầy những
mô tả về sáu năm này. Và nếu bạn đọc kinh sách Phật
giáo bạn sẽ thấy rằng dường như là chính bởi vì sáu
năm khổ hạnh đó mà ông ấy đã đạt tới chứng ngộ. Nó
không phải vậy. Không phải bởi sáu năm khổ hạnh này
mà ông ấy đã đạt tới chứng ngộ; ông ấy đã đạt tới
chứng ngộ vào ngày ông ấy vứt bỏ đi tất cả những khổ
hạnh đó. Chính bởi việc vứt bỏ chúng mà ông ấy mới
đạt tới chứng ngộ, không phải bởi hoặc qua chúng.
Nhưng nếu bạn đọc kinh sách, đặc biệt là kinh
sách được viết ở Ấn Độ, bạn sẽ được cho ấn tượng
hoàn toàn sai. Họ làm cứ dường như Phật đã không
đóng góp gì mới cho tâm thức con người, cứ dường
như ông ấy chỉ là một kiểu khổ hạnh cổ - có thể thông
minh hơn nhiều trong diễn đạt, thuyết phục hơn nhiều,
logic, đi sâu hơn nhiều vào sáng suốt của ông ấy,
nhưng không cái gì mới cả. Đấy vẫn là cùng tôn giáo
cũ mà ông ấy đã đưa vào những từ mới, với logic mới;
vẫn rượu cũ trong bình mới, có vậy thôi. Đó là điều
người Ấn Độ đã làm cho Phật giống vậy. Đó là xuyên
tạc. Phật không đại diện cho cái cũ. Ông ấy là bước đi
ra ngoài cái cũ. Ông ấy là một pha mới. Và cũng vì
ông ấy đã lấy bước đi mới, một bước nữa là cần thiết.
Hai mươi nhăm thế kỉ đã qua rồi.
Công xã mới của tôi sẽ là bước mới đó - một bước
tiến thêm nữa trong tiến hoá nhân loại, trong tâm thức
con người.
Mặc dầu Phật đã vứt bỏ khổ hạnh, ông ấy đã
không nói nhiều để chống lại nó; ông ấy không thể nói
chống được, bởi vì ông ấy phải trao đổi với những
người còn đầy những học vấn cổ và ý thức hệ cổ điển.

Ông ấy phải nói cho những người đã từng tuyệt đối
không có khả năng hiểu nếu ông ấy đã nói như tôi.
Ngay cả tôi cũng không phải là hiểu được đối với mọi
người. Hai mươi nhăm thế kỉ đã qua và mọi người vẫn
còn bị mắc kẹt. Rất hãn hữu tìm thấy một người đương
đại. Mọi người đều trong thế kỉ hai mươi, nhưng chỉ về
mặt vật lí thôi; về mặt tâm linh họ còn ở sau hàng
nghìn năm. Phật thậm chí không thể làm nỗ lực được.
Ông ấy đã nói với những đệ tử gần gũi nhất, "Không
phải là qua khổ hạnh mà ta đã đạt tới. Ta đã đạt tới
bằng việc vứt bỏ khổ hạnh - đó tất cả đều là ngu xuẩn."
Những lời kinh này được trao cho các đệ tử gần gũi
nhất.
Ông ấy nói: Người ngu có thể nhịn ăn vài tháng,
ăn từ đầu nhành cỏ. Người đó không đáng một xu bên
cạnh thầy mà thức ăn là con đường.
Nếu bạn thực sự muốn việc biến đổi, làm pháp
thành thức ăn của bạn đi - để chính con đường tới
Thượng đế là thức ăn của bạn. Tự nuôi dưỡng bản thân
bạn theo điều đó đi! Jesus nói điều đó theo cách khác:
Ăn ta đi! Ông ấy nói với các đệ tử của mình: Uống ta
đi! Hấp thu ta, tiêu hoá ta!
Phật nói: ...thức ăn là con đường. Con đường
nghĩa là pháp - dhamma, tôn giáo, luật tối thượng, cái
giữ cho toàn thể thế giới trong hài hoà. Người mà bắt
đầu ăn từ sự hài hoà này, người đó đạt tới - không phải
bởi việc nhịn ăn. Không phải là bằng việc nhịn ăn thức
ăn thô, mà bằng việc ăn thức ăn tinh tế mà người ta đạt
tới.
Vâng, có thức ăn tinh tế sẵn có. Khi bạn nhìn vào
bông hồng, quan sát đi. Để cái đẹp của bông hồng
được hấp thu vào trong bạn, và bạn sẽ cảm thấy được

nuôi dưỡng. Bạn đã không ăn bông hồng mà ăn cái gì
đó tinh tế bao quanh bông hồng, hào quang của bông
hồng, điệu vũ của bông hồng trong gió, hương thơm
vô hình. Bạn không cảm thấy điều đó sao? Nhìn đoá
hoa đẹp, bỗng nhiên bạn cảm thấy được bão hoà, được
mãn nguyện. Nhìn lên bầu trời đầy sao, bạn không
cảm thấy được nuôi dưỡng sao? Ngắm bình minh hay
hoàng hôn, hay chỉ lắng nghe tiếng văng vẳng của
chim cu cu, một bài ca xa xôi, bạn không cảm thấy bản
thân mình trở nên được tràn đầy cái gì đó không biết
sao...?
Thân thể bạn cần thức ăn, linh hồn bạn cũng cần
thức ăn. Thức ăn cho thân thể là thô, hiển nhiên; thân
thể là một phần của thế giới thô. Thức ăn tâm linh là
vô hình - trong âm nhạc, trong thơ ca, trong cái đẹp,
trong điệu vũ, trong bài ca, trong lời cầu nguyện, trong
thiền... và bạn đi ngày một sâu hơn hướng tới việc nuôi
dưỡng tâm linh.
Phật nói: Không phải bởi việc vứt bỏ thức ăn thô,
bằng việc nhịn ăn, mà người ta đạt tới, nhưng bằng
việc ăn con đường. Một cách diễn đạt kì lạ - bằng việc
ăn pháp. Pháp là gì? Mới hôm nọ ai đó đã hỏi, "Thưa
thầy kính yêu, tôi thích điều đó khi thầy nói: Aes
dhammo sanantano, nhưng điều đó đích xác nghĩa là
gì?" Nó nghĩa là hài hoà của sự tồn tại, nó nghĩa là giai
điệu của sự tồn tại, nó nghĩa là điệu vũ tối thượng đang
diễn ra mãi. Nó nghĩa là lễ hội ở mọi nơi. Cây cối đang
mở hội và chim chóc và con vật và các dòng sống và
núi non... toàn thể vũ trụ này được tạo nên từ chất liệu
gọi là phúc lạc.
Đó là điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói: Aes
dhammo sanantano - đây là luật tối thượng, không cạn.

Bạn có thể cứ ăn mãi từ nó, nhưng bạn không thể làm
cạn kiệt nó được. Và bạn càng ăn nhiều, bạn sẽ càng
có nhiều linh hồn. Bạn càng ăn nó nhiều, bạn càng trở
thành thiêng liêng hơn. Phật đang nói: ta không dạy
nhịn ăn - ta dạy các ông cách mê đắm mới, loại mê
đắm cao hơn. Ông ấy không nói điều đó đích xác theo
cách đó, nhưng tôi đang nói điều đó. Tôi đang dạy bạn
cách yêu cao hơn, cách hân hoan cao hơn, cách nhảy
múa cao hơn, cách hấp thu cao hơn năng lượng của
Thượng đế vào bản thân bạn - trở thành ngày một cảm
nhận và nữ tính hơn để cho bạn có thể thai nghén với
Thượng đế.
Ông ấy gọi người cứ nhịn ăn là ngu. Nhưng những
người ngu đó được tôn thờ ở Ấn Độ, và không chỉ ở
Ấn Độ - gần như khắp trên thế giới. Thực ra, đại đa số
đám đông bao gồm những người ngu; do đó, bất kì khi
nào người ngu bắt đầu đi theo con đường mòn vết, vô
giá trị, con đường truyền thống của đám đông, đám
đông xúc động lắm. Bản ngã của họ được thoả mãn
lắm. Người này chứng minh rằng họ đã đúng, bố mẹ
họ đã đúng, di sản kế thừa của họ được chứng minh là
đúng: "Nhìn đây, người này đang nhịn ăn đấy!" Và
người tâm linh bao giờ cũng nhịn ăn - đó là ý tưởng
của họ.
Vâng, đôi khi chuyện xảy ra là người tâm linh đã
nhịn ăn, nhưng lí do khác toàn bộ với điều bạn nghĩ.
Mahavira đã nhịn ăn, và đã nhịn trong mười hai năm,
và nhịn những thời kì lâu, dài. Người ta nói rằng trong
mười hai năm đó ông ấy đã ăn chỉ trong ba trăm sáu
mươi lăm ngày - điều đó nghĩa là chỉ một năm. Một
tháng ông ấy nhịn ăn và ông ấy sẽ ăn trong một ngày;
trong mười hai năm, một năm nghĩa là cứ sau mười hai

ngày ông ấy mới ăn một ngày - trung bình. Đó là cách
nhịn ăn của ông ấy.
Nhưng Mahavira chưa bao giờ trở nên mệt mỏi và
Phật đã trở nên mệt mỏi sau sáu năm. Vấn đề là gì? Và
ông ấy đã đạt tới cũng như Phật đã đạt tới. Phật đạt tới
bởi việc vứt bỏ nhịn ăn và khổ hạnh; Mahavira chưa
bao giờ vứt bỏ nó. Bây giờ, cả hai không thể đúng - và
tôi nói với bạn cả hai đều đúng. Nhưng lí do khác biệt
thế, gần như không thể quan niệm nổi.
Việc nhịn ăn của Mahavira có phẩm chất hoàn
toàn khác. Ông ấy không phải là nhà khổ hạnh, ông ấy
không nhịn ăn - thực ra, ông ấy ăn nhiều Thượng đế
tới mức ông ấy không cảm thấy cần ăn. Linh hồn của
ông ấy tràn đầy với năng lượng tinh tế đến mức thân
thể ông ấy cảm thấy được thoả mãn. Ông ấy không
cảm thấy cần ăn. Thực ra, nói rằng ông ấy nhịn ăn là
không đúng. Nếu tôi được phép thì tôi sẽ nói: ông ấy
không thể ăn được. Và bạn đôi khi cũng đã quan sát
điều đó.
Khi tôi tới Pune, tôi hay ở chỗ Sohan, và cô ấy rất
phân vân. Một hôm cô ấy hỏi tôi, "Có chuyện gì vậy?
Một hay hai lần một năm thầy mới tới Pune. Tôi đợi cả
năm trường - thầy sẽ tới, thầy sẽ tới - và thế rồi trong
ba hay bốn ngày thầy tới. Trong ba hay bốn ngày này
tôi không thể ăn được chút nào. Cái gì là lí do tại sao
tôi không thể ăn được? Tôi không nhịn ăn," cô ấy bảo
tôi. "Tôi muốn ăn, nhưng tôi đơn giản không thể ăn
được. Tôi cảm thấy no thế."
Tôi bảo cô ấy, "Bất kì khi nào bạn cực kì hạnh
phúc, bạn sẽ không có khả năng ăn. Phúc lạc của bạn
tràn đầy tới mức nó không để chỗ cho cảm giác thèm
ăn, nó không để chỗ trống trong bạn. Không chỉ linh

hồn bạn tràn đầy, thân thể bạn bắt đầu bị ảnh hưởng
bởi linh hồn. Thân thể bạn là cái bóng của linh hồn
bạn."
Bạn sẽ ngạc nhiên: người khổ ăn nhiều hơn, người
hạnh phúc ăn ít hơn. Người khổ cảm thấy trống rỗng
đến mức người đó muốn rót đầy bản thân mình, tống
vào mình cái gì đó này nọ. Người khổ cứ ăn mãi,
người đó cứ tống vào bên trong cái này cái nọ. Người
đó cảm thấy hoàn toàn trống rỗng và thiếu đến mức
người đó không biết phải làm gì. Dường như dễ dàng
đi tới tủ lạnh và ăn cái gì đó thêm nữa; có thể cái đó sẽ
cho bạn cảm giác no. Và chắc chắn điều đó cho cảm
giác no, ở mức độ rất thô.
Bây giờ, nước Mĩ đang chịu đựng nhiều nhất việc
ăn quá nhiều, và lí do là đơn giản: Mĩ bây giờ đang
chịu trống rỗng bên trong lớn lao. Lí do là tâm linh, do
đó không chế độ ăn kiêng nào có thể có ích. Và bạn có
thể ăn kiêng được bao lâu? Bạn có thể ăn kiêng trong
vài ngày với sức mạnh ý chí lớn lao; bạn phải ép buộc
bản thân mình. Thế rồi sau vài ngày bạn trở nên mệt
mỏi do phải nỗ lực và rồi bạn nhảy trở về thức ăn với
sự báo thù; và bạn sẽ tăng cân hơn là bạn đã làm mất
cân bằng ăn kiêng.
Ở Mĩ đây là vấn đề. Ở mọi nước giầu điều này
đang là vấn đề, bởi vì bạn có thức ăn và bạn có sự
trống rỗng cả hai đều sẵn đấy. Chỉ thức ăn là còn lại để
rót đầy vào bản thân bạn, dục còn lại để rót đầy vào
bản thân bạn. Cứ mua đồ dùng mới, đồ vật mới; nếu
bạn không thể có gì khác ít nhất bạn có thể tích trữ đồ
đạc. Bạn có thể chất đầy nhà nếu bạn không thể chất
đầy bản thân mình. Hệt như cách thay thế cảm giác no
đủ. Chính cái đối lập xảy ra khi bạn thực sự hạnh

phúc, vui vẻ, khi bạn đang bay, khi bạn cảm thấy vô
trọng lượng.
Tôi bảo Sohan, "Điều này hoàn toàn logic. Đây là
nhịn ăn thực sự!"
Trong tiếng Phạn, từ cho 'nhịn ăn' có cái đẹp của
riêng nó. Từ tiếng Anh không có phẩm chất đó. Từ
tiếng Anh 'nhịn ăn' đơn giản nghĩa là để đói bằng ý
chí. Từ tiếng Phạn là upawas - nó nghĩa là 'ở gần với
Thượng đế'. Theo từng chữ nó có nghĩa là ở gần với
Thượng đế; nó chẳng liên quan gì tới nhịn ăn. Nó ngụ
ý ở gần Thượng đế, tràn đầy Thượng đế, tới mức bạn
quên mất tất cả về thân thể mình, tới mức bạn quên
mất tất cả về việc nuôi dưỡng thân thể mình. Bạn được
nuôi dưỡng bằng thức ăn vi tế, năng lượng vi tế tới
mức nó cứ mưa rào lên bạn.
Mahavira không nhịn ăn theo cùng cách như Phật
đã nhịn; Mahavira đã ăn Thượng đế, và Buddha đơn
giản đã nhịn ăn. Việc nhịn ăn của Mahavira là upawas
- ở gần Thượng đế. Việc nhịn ăn của ông ấy là điều nó
ngụ ý trong tiếng Phạn; việc nhịn ăn của Phật là điều
nó ngụ ý trong tiếng Anh - chỉ là bỏ đói. Do đó
Mahavira đã đạt tới mà không vứt bỏ nhịn ăn của
mình. Đó không phải là nhịn ăn ngay chỗ đầu tiên -
không cần vứt bỏ nó. Phật đã phải vứt bỏ nó, đó chính
là cái đối lập của mê đắm. Ông ấy đơn giản bỏ đói bản
thân mình với động cơ rằng bằng việc bỏ đói người ta
có thể đạt tới.
Làm sao bạn có thể đạt tới Thượng đế bằng việc
bỏ đói thân thể được? Logic của điều này là gì? Có lập
luận khoa học nào trong điều đó không? Bạn có cho
rằng Thượng đế là ai đó như Adolf Hitler người thích
thú việc hành hạ của bạn không? Ai thích xem con

mình đói và mơ về thức ăn? Ai thích xem mọi người
trở thành xấu, ốm bệnh? Thượng đế là từ bi, Thượng
đế là tình yêu. Ngài muốn bạn tràn đầy ngài. Và khi
bạn tràn đầy ngài, bạn có thể không cảm thấy nhu cầu
ăn. Mahavira không nhịn ăn, ông ấy đơn giản không
cảm thấy thích ăn, có vậy thôi. Và đó là khác biệt lớn
lao.
Phật nói: Người ngu có thể nhịn ăn vài tháng, ăn
từ đầu nhành cỏ. Người đó không đáng một xu bên
cạnh thầy mà thức ăn là con đường.
Một hôm ông ấy phát hiện ra rằng có loại thức ăn
khác: người ta có thể ăn từ sự hài hoà của sự tồn tại,
người ta có thể trở thành một phần của sự hài hoà,
người ta có thể trở thành một phần của lễ hội, của ngày
hội đang diễn ra mãi, không bắt đầu và không kết thúc.
Thế thì bạn no và được hoàn thành.

**Sữa tươi cần thời gian để chua.
Láu lỉnh của người ngu cũng vậy
cần thời gian để bắt vào người đó.
Giống như than hồng của lửa
nó cháy âm ỉ bên trong người đó.**

Nếu bạn làm điều gì đó, sẽ cần thời gian để kết quả
của nó tới. Và bạn thậm chí không có khả năng kết nối
được hai điều này, nguyên nhân và hậu quả.
Bạn có biết rằng ở châu Phi, vẫn còn có các bộ lạc
nguyên thuỷ chẳng có khái niệm rằng việc sinh con có
liên hệ tới giao hợp - bởi vì lỗ hổng quá lớn, những
chín tháng. Và không chỉ lỗ hổng lớn thế... và họ
không có cách nào tính thời gian, cho nên với họ chín
tháng thực sự là thời gian dài; họ không thể giữ dấu

vết thời gian. Họ không có lịch, không có đồng hồ,
không ý tưởng về thời gian chút nào. Họ sống trong
thế giới nguyên thuỷ thực sự nơi thời gian chưa được
phát minh ra, cho nên làm sao họ có thể quan niệm
được rằng giao hợp giữa đàn ông và đàn bà có thể là
nguyên nhân của việc sinh ra đứa bé?
Và thế rồi có các nguyên nhân khác nữa: điều đó
không phải bao giờ cũng xảy ra. Bạn có thể làm tình
với người đàn bà và có thể không có con, cho nên đó
không phải là điều chắc chắn xảy ra. Thế thì làm sao
đứa trẻ được sinh ra? Đứa trẻ được sinh ra không phải
bởi giao hợp, không phải bởi quan hệ dục, nó không có
sinh học đằng sau nó - nó tới như món quà từ Thượng
đế, bất kì ai ngài chọn. Nếu bạn theo tôn giáo của bộ
lạc này, bạn sẽ được ân huệ với trẻ con; bằng không thì
không có khả năng nào.
Khi các nhà truyền giáo Ki tô giáo lần đầu tiên
phát hiện ra bộ lạc này, họ không thể tin được rằng
những người này trong hàng thế kỉ đã sống, cho sinh ra
trẻ con, và chẳng có ý tưởng chút nào về nguyên nhân
và hậu quả. Và đó là cách tất cả chúng ta đang có tính
nguyên thuỷ, theo nhiều cách thức.
Hôm nay bỗng nhiên bạn bắt đầu cảm thấy buồn
mà chẳng nguyên nhân nào cả; bạn không thể tìm thấy
bất kì nguyên nhân nào ở gần đó - chẳng cái gì đã xảy
ra. Trong đêm khi bạn đã lên giường, mọi thứ đều tốt;
bạn thanh thoát, sinh động, và đến sáng bạn đột nhiên
buồn. Không ai xúc phạm bạn, không cái gì xảy ra cả,
không tin xấu nào tới... tại sao? Từ đâu mà nỗi buồn
này tới? Bạn phải đã làm điều gì đó; có thể có lỗ hổng
thời gian, có thể lỗ hổng ba tháng hay ba năm. Và
những người đã đi sâu vào trong hiện tượng này, họ

nói thậm chí có thể trong kiếp quá khứ... đôi khi vài
hạt mầm lấy thời gian rất lâu để mọc ra.
Và bởi vì điều này, người ngu cứ sống theo cùng
cách, theo cùng cách ngu xuẩn, bởi vì người đó không
thể thấy được rằng khổ của cuộc sống của mình bị gây
ra bởi chọn lựa riêng của mình. Những chọn lựa đó có
thể đã được làm lâu từ trước rồi. Bạn có thể đã tung ra
hạt mầm một năm trước đây, và thế rồi bạn đã hoàn
toàn quên mất về những hạt mầm đó. Mưa tới, hạt
mầm bắt đầu mọc lên, và bạn ngạc nhiên - từ đâu vậy?
Từ đâu mà những cây này tới? Và tất nhiên, những hạt
mầm này mà chúng ta cứ gieo vào linh hồn mình đều
rất, rất vô hình. Bạn có thể đã giận dữ, bạo hành, ghen
tị, và nó vẫn còn bên trong bạn.
Phật nói: Giống như than hồng của lửa nó cháy
âm ỉ bên trong người đó. Nó diễn ra bên trong bạn, trở
nên sẵn sàng, chờ đợi mùa xuân tới, và thế rồi nó đột
nhiên bùng nổ. Con người chịu trách nhiệm cho bất kì
điều gì xảy ra với mình. Người trí huệ trở nên nhận
biết về nó và dừng gieo hạt mầm khổ và bắt đầu gieo
hạt mầm của vui. Sớm hay muộn bạn sẽ sẵn sàng để
thu hoạch mùa màng.
Đó là điều cõi trời là gì: người trí huệ gieo hạt
mầm của phúc lạc, tình yêu, từ bi. Và một ngày nào đó
khu vườn sẵn sàng. Bạn có biết không? - từ 'thiên
đường - paradise' bắt nguồn từ tiếng Persian, có một
nghĩa hay. Trong tiếng Persian nó là firdaus; từ
'firdaus' nó đã trở thành 'paradise' trong tiếng Anh.
'Firdaus' nghĩa là khu vườn chân lí có tường bao
quanh. Nếu bạn cứ gieo hạt mầm của vui vẻ, cái đẹp,
điệu vũ, bài ca, thiền, lời cầu nguyện, chẳng mấy chốc
bạn sẽ tạo ra một khu vườn chân lí có tường bao quanh

- đó là paradise thiên đường. Bằng không, bạn nhất
định tạo ra địa ngục. Sống vô ý thức, sống máy móc,
sống ngu xuẩn, và địa ngục sẽ là kết quả của nó.

**Bất kì điều gì người ngu học,
điều đó chỉ làm cho người đó mụ mị hơn.
Tri thức dính đầu người đó.**

Người ngu không quan tâm mấy tới việc trở nên
thông minh, bởi vì thông minh là nguy hiểm. Thông
minh có tính nổi dậy, do đó nó nguy hiểm. Thông
minh đem tới tính cá nhân cho bạn, và khoảnh khắc
bạn trở thành cá nhân tích hợp đám đông bắt đầu quay
sang chống bạn; họ không thể dung thứ được một cá
nhân. Họ không thể tha thứ cho một Jesus hay một
Phật. Họ rất sung sướng với những người ngu, bởi vì
người ngu cũng hệt như họ - thực ra, có chút ít được
khuếch đại hơn, chút ít được trang hoàng hơn, chút ít
được làm phức tạp hơn. Họ rất sung sướng với người
ngu. Họ sung sướng với chính khách, họ sung sướng
với các giáo sư, họ sung sướng với các bác học nhưng
họ không sung sướng với một Jesus hay một Socrates
hay một Phật. Tại sao? - bởi vì sự hiện diện của vị phật
làm cho họ có vẻ ngu xuẩn. Chính sự hiện diện của vị
phật và họ bắt đầu cảm thấy đần độn. Làm sao họ có
thể tha thứ cho ông ấy được?
Và họ không muốn bản thân mình thông minh, bởi
vì đó là cuộc hành trình dài và không có lối tắt cho nó.
Điều đó là vất vả, khó nhọc. Trở nên thông minh nghĩa
là làm sắc bén tâm thức bạn liên tục; trở nên thông
minh nghĩa là tràn đầy tình yêu. Yêu là trung tâm của
thông minh, logic của trung tâm trí thức.

Người ngu trở thành trí thức; thế thì người đó có
thể ba hoa rằng mình biết. Người đó quan tâm tới tri
thức. Người đó sẽ đọc Kinh Thánh và Vedas và Koran,
người đó sẽ nhồi nhét thông tin. Người đó biến tâm trí
mình thành cái máy tính, người đó trở thành cuốn
Bách khoa toàn thư biết đi. Điều đó là dễ dàng, điều đó
là đơn giản, điều đó có thể được thực hiện bằng cái
máy; nó không cần thông minh nào. Và các trường học
của bạn, các cao đẳng và đại học chỉ làm cho mọi
người thành máy tính.
Chúng ta phải tạo ra các đại học nơi thông minh
được mài sắc. Các đại học của chúng ta chỉ làm cùn lụt
thông minh bởi vì họ chuẩn bị các nô lệ cho xã hội.
Các đại học đang phục vụ cho các quyền lợi được đầu
tư; họ là tác nhân của nguyên trạng đã được thiết lập.
Họ không phục vụ cho tương lai của nhân loại, họ
phục vụ cho quá khứ, họ phục vụ cho người chết. Họ
không quan tâm tới việc tạo ra những người thông
minh, sáng tạo, tỉnh táo, nhận biết; họ quan tâm tới
những người mụ mị, ngu xuẩn, nhưng hiệu quả. Các
thư kí, người thu thuế, trưởng ga - thật hiệu quả! Họ có
thể làm việc của họ rất hiệu quả. Và nhớ lấy, máy là
hiệu quả hơn con người, cho nên họ không quan tâm
tới con người; họ quan tâm tới việc thu con người
thành máy.
Phật nói: Bất kì điều gì người ngu học, điều đó chỉ
làm cho người đó mụ mị hơn. Người đó càng thu thập
nhiều tri thức, người đó càng trở nên mụ mị hơn,
người đó càng trở nên ngu xuẩn hơn. Và đó cũng là
quan sát của tôi nữa. Tôi đã thấy những dân làng dốt
nát còn thông minh hơn nhiều so với cái gọi là các tiến
sĩ khoa học và tiến sĩ văn chương và các giáo sư đại
học, các chủ nhiệm khoa, phó hiệu trưởng và hiệu

trưởng. Họ dường như là những người mụ mị nhất trên
thế giới.
Một dân làng, người tiều phu, dường như còn
thông minh hơn nhiều. Người đó không có thông tin,
tất nhiên; người đó không thông thái - nhưng người đó
hồn nhiên, và hồn nhiên là một phần của thông minh.
Thông thái là tựa máy móc - và máy móc thì đờ đẫn.
Bạn đã bao giờ thấy cái máy nào thông minh chưa? Cứ
nhìn vào máy mà xem, và nhìn vào vào ông chủ nhiệm
khoa hay ông hiệu phó...!
Thực ra, bạn càng đờ đẫn, càng có khả năng lớn
hơn để bạn trở thành phó hiệu trưởng - bởi vì các
chính khách sẽ không thích một Phật trở thành phó
hiệu trưởng, họ sẽ không cho phép Socrates trở thành
phó hiệu trưởng. Đây là tội người ta buộc lên Socrates:
rằng ông ấy làm hư hỏng thanh niên. Socrates, và làm
hư hỏng thanh niên sao? Và những người ngu này -
các quan toà và phó hiệu trưởng và thủ tướng và tổng
thống - những kẻ ngu này không làm hư hỏng sao?
Socrates đang làm hư hỏng thanh niên - bạn ngụ ý điều
đó là gì?
Theo một cách nào đó, họ cũng phải: ông ấy đang
làm hư hỏng thanh niên bởi vì ông ấy đang chuẩn bị họ
cho tương lai. Ông ấy phải phá huỷ quá khứ, ông ấy
phải tạo ra hoài nghi, truy tìm, ông ấy phải tạo ra
người tìm kiếm, không phải là người tin. Và xã hội
muốn có những người tin, và những người đờ đẫn là
những người tin tốt. Người Mô ha mét giáo, người Ki
tô giáo, người Hindu giáo, người Jaina giáo - họ càng
là những người đờ đẫn, họ càng tin nhiều hơn, họ tin
càng tốt hơn... bởi vì người đờ đẫn không thể truy tìm,
người đó không thể mạo hiểm. Người đó sợ; người đó

biết rằng mình không có khả năng biết tới chân lí của
riêng mình, người đó phải tin vào ai đó khác.
Tri thức dính đầu người đó, Phật nói. Tri thức
không ích gì cho người đó mà trở thành gánh nặng,
một trọng lượng Himalaya đè lên bản thể người đó.

**Với điều đó người ấy muốn thừa nhận.
vị trí trước mọi người khác.
vị trí trên mọi người khác.**

Toàn thể tri thức của người đó trở thành trò chơi
bản ngã, và bản ngã là tù túng lớn nhất có đó. Được tự
do với bản ngã là được cứu thoát. Nhưng người ngu
học chỉ để trở nên nổi tiếng, để được thừa nhận là
người có thẩm quyền, là chuyên gia. Người ngu tích
luỹ tri thức để cho người đó có thể ba hoa và khoe
khoang, để cho người đó có thể bầy tỏ cho mọi người
mình thông minh thế nào. Và thông minh không phải
là từ bản ngã; thông minh chỉ tới khi bạn ở trong trạng
thái vô ngã sâu sắc. Thông minh là biến mất của bản
ngã, gặp gỡ và hội nhập với cái toàn thể, quên đi sự
tách bạch của bạn, trở thành con sóng trong đại dương
của Thượng đế - thế thì bạn thông minh.

**"Để họ biết công việc của ta,
để mọi người nhìn ta xin chỉ dẫn."
Ham muốn của người đó là vậy,
tự hào thổi phồng của người đó là vậy.
Một đường đưa tới giàu có và tiếng tăm,**

Phật nói: Nhưng để ta làm cho ông nhận biết rằng
nếu ông muốn của cải và danh vọng, thế thì theo con

đường của người ngu - bởi vì người ngu có khả năng
trở thành nổi tiếng dễ dàng hơn người thông minh.
Nếu người thông minh trở nên nổi tiếng, điều đó chỉ là
ngẫu nhiên - người đó chưa bao giờ cố gắng cả. Nếu
người thông minh nổi tiếng, điều đó không phải bởi vì
nỗ lực của người đó. Hương thơm của người đó có thể
đã đạt tới mọi người, nhưng không có nỗ lực tích cực
về phần người đó để được thừa nhận. Người đó biết
bản thể mình, người đó không phụ thuộc vào thừa
nhận của người khác. Người đó biết mình là ai, người
đó không cần xác nhận của bất kì ai khác.

Khi tôi ra khỏi trường đại học tôi tới gặp ông bộ
trưởng giáo dục. Tôi bảo ông ấy, "Đây là văn bằng của
tôi. Ông có thể bố trí cho tôi chỗ nào đó ở bất kì đâu,
chỗ nào cũng được." Ông ấy nhìn vào tấm văn bằng
của tôi, rất bị ấn tượng - mọi người đều bị ấn tượng
bởi những điều vô nghĩa - bởi vì tôi được huân chương
vàng, hạng nhất, thứ nhất. Ông ấy rất bị ấn tượng. Ông
ấy nói, "Lập tức tôi sẽ bổ nhiệm anh làm giảng viên.
Nhưng một điều anh sẽ phải làm: anh đã có chứng chỉ
tính cách chưa?"
Tôi nói, "Tôi đã có tính cách, nhưng không có
chứng chỉ tính cách. Nhìn vào mắt tôi, cầm tay tôi đi!
Tôi có thể ôm ghì ông...!"
Ông ấy nói, "Nhưng cái đó... cái đó không phải là
vấn đề. Chứng chỉ tính cách của anh đâu?" Tôi nói,
"Tôi không có chứng chỉ tính cách."
Ông ấy nói, "Anh có thể tới ông phó hiệu trưởng,
hay ông trưởng bộ môn của anh - chỉ một cái chứng
chỉ tính cách thôi. Thế mới đúng thủ tục."

Tôi nói, "Tôi không thể yêu cầu ông phó hiệu
trưởng được, bởi vì tôi không tin rằng ông ấy có tính
cách chút nào! Xác nhận của ông ấy mang trọng lượng
gì? Và ông trưởng bộ môn của tôi sao? - tôi biết ông
ấy còn rõ hơn là ông ấy biết bản thân mình. Tôi không
thể cho ông ấy chứng chỉ tính cách được!"
Ông ấy rất phân vân. Ông ấy thực sự muốn giúp
đỡ. Thực ra, ông ấy cũng đã trở nên thực sự quan tâm
tới tôi. Ông ấy chưa bao giờ bắt gặp một người như
vậy - biết bao nhiêu người phải đã tiếp cận ông ấy,
nhưng chẳng ai đã nói, "Nhìn vào mắt tôi, hay cầm lấy
tay tôi và cảm nhận đi! Hay tôi có thể tới và sống cùng
ông trong một tuần, trong nhà ông. Nhìn tính cách của
tôi theo mọi cách có thể. Tôi thậm chí sẽ không khoá
cửa nhà tắm của mình. Tôi sẽ để mọi thứ mở, cho nên
ông có thể cứ quan sát...!"
Ông ấy nói, "Những điều này không cần chút nào!
Chỉ cần mỗi chứng chỉ tính cách đơn giản thôi."
Thế là tôi nói, "Thế thì tôi có thể viết tờ chứng chỉ
tính cách cho bản thân tôi được " - và đó là điều tôi đã
làm. Tôi viết tờ chứng chỉ, ngay trước ông ấy, và ông
ấy nói, "Anh làm gì vậy? Nhưng điều này chưa bao
giờ được làm cả: bản thân anh trao chứng chỉ tính cách
cho anh sao? Cần có chữ kí của ai đó khác chứ!"
Thế là tôi nói, "Thôi được, thế thì tôi sẽ kí thay
cho ông trưởng bộ môn vậy, nhân danh ông ấy. Đây là
bản sao đúng," tôi bảo ông ấy, "và bản gốc tôi sẽ lấy từ
ông trưởng bộ môn của tôi."
Thế là tôi đi tới ông trưởng bộ môn mình. Tôi nói,
"Tôi đã đưa tờ chứng chỉ này nhân danh ông - xin ông
cho bản gốc."

Ông ấy nói, "Điều này thực lạ! Bản gốc cần có
trước chứ. " Nhưng ông ấy thích ý tưởng này và ông
ấy đã cho tôi bản gốc.
Một đường đưa tới giàu có và tiếng tăm... Nếu bạn
theo con đường của người ngu, bạn có thể trở thành rất
giàu có, bạn có thể trở nên nổi tiếng. Bạn có thể trở
thành tổng thống của đất nước, thủ tướng của đất nước
- bạn có thể trở thành bất kì cái gì. Bạn có thể có nhiều
của cải tuỳ ý - chỉ cần theo con đường của kẻ ngu.
Đừng thông minh, vẫn cứ còn là ngu đi, bởi vì thực ra,
ngoại trừ người ngu ai muốn chạy theo tiền? Vâng, đôi
khi điều đó xảy ra, tiền chạy tới người thông minh,
nhưng nó tới chạy theo người đó, người đó không đi
theo... Danh tiếng cũng đôi khi tới với người thông
minh. Nó tới theo cách riêng của nó; người đó không
quan tâm chút nào.

**...Đường kia đi tới chấm dứt con đường này.**

Nhưng nếu bạn muốn chấm dứt toàn thể cái vô
nghĩa này mà đã từng dai dẳng qua nhiều thời đại
trong nhiều kiếp thế, cùng cái bánh xe sinh tử lặp lại
cứ chuyển động mãi; nếu bạn muốn dừng nó lại, thế
thì con đường kia, con đường của người thông minh,
con đường của người trí huệ... là ánh sáng lên bản thân
bạn.

**Đừng tìm thừa nhận
mà đi theo người đã thức tỉnh
và làm cho bản thân ông được tự do.**

Đừng bị bận tâm, đừng ham muốn sự thừa nhận.
Nếu hàng triệu người ngu thừa nhận bạn, điều đó
thành vấn đề gì? hàng triệu người ngu thừa nhận bạn
đơn giản chứng tỏ rằng bạn là kẻ ngu vĩ đại hơn họ.
Chẳng cái gì khác được chứng minh .
Mà đi theo người đã thức tỉnh... Phật ngụ ý gì khi
ông ấy nói đi theo người đã thức tỉnh? Ông ấy không
ngụ ý bắt chước. Ông ấy đơn giản ngụ ý trở nên thức
tỉnh như người thức tỉnh đã trở nên thức tỉnh. Thức
dậy đi - đó là đi theo người đã thức tỉnh. Đừng đi theo
các chi tiết: cách người đó sống, cái người đó ăn, lúc
người đó đi ngủ - điều đó là ngu xuẩn. theo người thức
tỉnh trong việc trở nên thức tỉnh.
Và làm cho bản thân mình được tự do - bởi vì đó
là nhận biết duy nhất, trạng thái của tâm thức thức tỉnh
đem tới tự do. Thông minh là tự do. Thiền là tự do.
Nhận biết là tự do. Và những người sống một cách
máy móc, vô ý thức, không thông minh, họ sống trong
tù. Và sống trong tù là đau khổ.
Tự do là giá trị tối thượng của cuộc sống.
đi theo người đã thức tỉnh
và làm cho bản thân mình được tự do.
Aes dhammo sanantano...
Đủ cho hôm nay.

*************************************************************************************************************

#10 Luật - cổ đại và không thể cạn

Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Xin thầy kể cho chúng tôi thêm về điều thầy ngụ ý
bởi chiều hướng của âm nhạc.

Yoga Chinmaya, cuộc sống có thể được sống theo
hai cách - hoặc như tính toán hoặc như thơ ca. Con
người có hai mặt của bản thể bên trong của mình: mặt
tính toán tạo ra khoa học, kinh doanh, chính trị; và mặt
không tính toán, tạo ra thơ ca, điêu khắc, âm nhạc. Hai
mặt này vẫn chưa được bắc cầu qua nhau, chúng có sự
tồn tại tách rời. Bởi vì điều này mà con người bị bần
cùng hoá vô cùng, vẫn còn bị không cân xứng một
cách không cần thiết - chúng phải được bắc cầu qua.

Trong ngôn ngữ khoa học người ta nói rằng bộ não
của bạn có hai bán cầu não. Bán cầu não bên trái tính
toán, là toán học, là văn xuôi; và bán cầu bên phải của
bộ não là thơ ca, là tình yêu, là bài ca. Một bên là
logic, bên kia là tình yêu. Một bên là suy luận, bên kia
là bài ca. Và chúng không thực sự được bắc cầu, do đó
con người sống theo một loại chia chẻ.
Nỗ lực của tôi ở đây là để bắc cầu cho hai bán cầu
này.
Con người nên có tính khoa học nhiều nhất có thể
được, khi có liên quan tới thế giới khách quan, và nên
có tính âm nhạc nhiều nhất khi có liên quan tới thế giới
của mối quan hệ.
Có hai thế giới bên ngoài bạn. Một là thế giới các
đồ vật: nhà cửa, tiền bạc, đồ đạc. Thế giới kia là thế
giới của con người: vợ, chồng, mẹ, con, bạn bè. Với đồ
vật là tính khoa học; đừng bao giờ có tính khoa học
với con người. Nếu bạn có tính khoa học với con
người bạn thu họ thành đồ vật, và đó là một trong
những tội lớn nhất mà người ta có thể phạm phải. Nếu
bạn đối xử với vợ mình chỉ như đồ vật, như đồ vật dục,
bạn đang cư xử theo cách rất xấu xa. Nếu bạn đối xử
với chồng mình chỉ như chỗ dựa tài chính, như một
phương tiện, thế thì đây là vô đạo đức, thế thì mối
quan hệ này là vô đạo đức - nó là mãi dâm, thuần tuý
mãi dâm chứ không gì khác.
Đừng đối xử với con người như phương tiện, họ là
mục đích lên bản thân họ. Quan hệ với họ - trong tình
yêu, trong kính trọng. Đừng bao giờ sở hữu họ và
đừng bao giờ bị họ sở hữu. Đừng phụ thuộc vào họ và
đừng làm mọi người xung quanh bạn thành phụ thuộc.

Đừng tạo ra phụ thuộc theo bất kì cách nào; vẫn còn
độc lập và để cho họ vẫn còn độc lập.
Đây là âm nhạc. Chiều hướng này tôi gọi là chiều
hướng âm nhạc. Và nếu bạn có thể có tính khoa học
nhiều nhất với các đồ vật, cuộc sống bạn sẽ giầu có,
phong phú; nếu bạn có thể có tính âm nhạc nhiều nhất,
cuộc sống của bạn sẽ có cái đẹp. Và cũng có cả chiều
hướng thứ ba, cái ở bên ngoài tâm trí. Hai chiều hướng
này thuộc vào tâm trí: nhà khoa học và nghệ sĩ. Có
chiều hướng thứ ba, vô hình - chiều hướng của vô trí.
Cái đó thuộc vào huyền môn. Cái đó là sẵn có qua
thiền.
Do đó, tôi nói ba từ này cần được nhớ - ba M cũng
giống như ba R: toán học (mathematics), cái thấp nhất;
âm nhạc (music), ở ngay giữa; và thiền (meditation),
cái cao nhất. Con người hoàn chỉnh có tính khoa học
về các sự vật, có tính thẩm mĩ, âm nhạc về con người,
và có tính thiền về bản thân mình. Nơi tất cả ba điều
này hội tụ, hân hoan lớn xảy ra.
Đây là ba ngôi thực, tam thể. Ở phương Đông, đặc
biệt ở Ấn Độ, chúng ta tôn thờ nơi ba con sông gặp gỡ
- chúng ta gọi điều đó là sangham, nơi gặp gỡ. Và con
sông lớn nhất trong số chúng là Prayag, nơi sông Hằng
và Jamuna và Saraswati gặp gỡ. Bây giờ, bạn có thể
thấy sông Hằng và bạn có thể thấy sông Jamuna,
nhưng Saraswati là vô hình - bạn không thể thấy được
nó. Nó là ẩn dụ! Nó đơn giản đại diện, một cách biểu
tượng, cho sự gặp gỡ bên trong của cả ba. Bạn có thể
thấy toán học, bạn có thể thấy âm nhạc, nhưng bạn
không thể thấy được thiền. Bạn có thể thấy nhà khoa
học, công trình của ông ấy là ở ngoài. Bạn có thể thấy
nghệ sĩ, công việc của người đó cũng ở bên ngoài.

Nhưng bạn không thể thấy được nhà huyền môn, công
việc của người đó có tính chủ thể. Đó là saraswati -
dòng sông vô hình.
Bạn có thể trở thành một chỗ linh thiêng, bạn có
thể thần thánh hoá thân thể này và trái đất này; chính
thân thể này là Phật, chính trái đất này là Thiên đường
Hoa sen. Đây là khẩu hiệu của tôi cho các sannyasins.
Một sannyasin phải là sự tổng hợp tối thượng của mọi
cái là Thượng đế.
Thượng đế chỉ được biết tới khi bạn đã đi tới sự
tổng hợp này; bằng không, bạn có thể tin vào Thượng
đế, nhưng bạn sẽ không biết. Và tin tưởng chỉ là việc
che giấu dốt nát của bạn. Hiểu biết là biến đổi, chỉ tri
thức mới đem hiểu biết. Và tri thức không phải là
thông tin: tri thức là tổng hợp, tích hợp, của tất cả tiềm
năng của bạn.
Nơi nhà khoa học và nhà thơ và nhà huyền môn
gặp gỡ và trở thành một - khi sự tổng hợp lớn này xảy
ra, khi tất cả ba khuôn mặt của Thượng đế được diễn
đạt trong bạn - bạn trở thành thượng đế. Thế thì bạn có
thể tuyên bố, "aham brahmasmi! - Ta là Thượng đế!"
Thế thì bạn có thể nói với gió và trăng và mưa và mặt
trời, "ana'l haq! - ta là chân lí!" Trước điều đó, bạn chỉ
là hạt mầm.
Khi sự tổng hợp này xảy ra, bạn đã nở hoa, nở
tung - bạn đã trở thành hoa sen một nghìn cánh, kim
liên, hoa sen vĩnh cửu, cái không bao giờ chết, aes
dhammo sanantano. Đây là luật không cạn mà tất cả
chư phật đã từng thuyết giảng qua nhiều thời đại.

**************************************************

#10Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Ở phương Tây chúng tôi thường được rèn luyện
với câu cách ngôn: Đừng chỉ đứng đấy - làm điều
gì đó đi! Vậy mà, Phật nói: Đừng làm cái gì đó -
đứng đó thôi! Người vô ý thức phản ứng trong khi
người trí huệ quan sát. Nhưng về tính tự phát thì
sao? Tính tự phát có tương hợp với quan sát
không?

Phật chắc chắn nói: Đừng làm cái gì đó - đứng đó
thôi! Nhưng đó mới chỉ là bắt đầu của cuộc hành
hương, không phải là đích. Khi bạn đã học cách đứng,
khi bạn đã học cách ngồi hoàn toàn im lặng, bất động,
không bị rối loạn, khi bạn biết cách ngồi... ngồi im
lặng, không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.
Nhưng cỏ mọc lên, nhớ lấy!
Hành động không biến mất: cỏ tự nó mọc lên. Phật
không trở thành bất hoạt; hành động lớn xảy ra qua
ông ấy, mặc dầu không có người làm thêm nữa. Người
làm biến mất, việc làm tiếp tục. Và khi không có người
làm, việc làm là tự phát; nó không thể khác được.
Chính người làm không cho phép tính tự phát.
Người làm có nghĩa là bản ngã, bản ngã có nghĩa
là quá khứ. Khi bạn hành động, bạn bao giờ cũng hành
động qua quá khứ, bạn hành động từ kinh nghiệm bạn
đã tích luỹ, bạn hành động từ những kết luận mà bạn
đã đi tới trong quá khứ. Làm sao bạn có thể tự phát
được? Quá khứ chi phối, và bởi vì quá khứ mà bạn
thậm chí không thể thấy được hiện tại. Mắt bạn đầy

những quá khứ thế, khói mù của quá khứ nhiều tới
mức việc thấy là không thể được. Bạn không thể thấy
được! Bạn gần như hoàn toàn mù - mù bởi vì khói, mù
bởi vì những kết luận quá khứ, mù bởi vì tri thức.
Người thông thái là người mù nhất trên thế giới.
Bởi vì người đó vận hành từ tri thức của mình, người
đó không thấy cái đang là hoàn cảnh. Người đó đơn
giản cứ vận hành một cách máy móc. Người đó đã học
cái gì đó; điều đó đã trở thành cái máy làm sẵn trong
người đó... người đó hành động từ nó.

Có một câu chuyện nổi tiếng:
Có hai chùa ở Nhật Bản, cả hai là kẻ thù của nhau,
vì chùa bao giờ cũng như vậy trong suốt nhiều thời
đại. Các sư đối kháng nhau đến mức họ đã chấm dứt
ngay cả việc nhìn nhau. Nếu họ bắt gặp nhau trên
đường, họ sẽ không nhìn nhau. Nếu họ bắt gặp nhau
trên đường họ sẽ dừng nói; trong hàng thế kỉ hai ngôi
chùa này và các sư của họ đã không nói chuyện.
Nhưng cả hai sư có hai chú tiểu - để phục vụ họ,
chỉ để chạy đi làm việc vặt. Cả hai sư đều sợ rằng lũ
trẻ, sau rốt, sẽ vẫn cứ là lũ trẻ, và chúng có thể bắt đầu
trở thành bạn bè của nhau.
Một sư nói với chú tiểu của mình, "Nhớ đấy, chùa
bên kia là kẻ thù của chúng ta. Đừng bao giờ nói với
chú tiểu của chùa kia! Họ là những người nguy hiểm -
tránh họ như người ta tránh bệnh, như người ta tránh
dịch. Tránh họ ra!" Đứa trẻ này bao giờ cũng quan
tâm, bởi vì nó quá bị nhàm chán khi nghe các buổi
thuyết pháp lớn - nó không thể hiểu được các buổi
thuyết pháp này. Kinh sách kì lạ được đọc lên, nó

không thể hiểu được ngôn ngữ. Những vấn đề lớn lao,
tối thượng được bàn cãi. Chẳng có ai chơi cùng, thậm
chí chẳng ai nói với nó. Và khi nó được bảo, "Đừng
nói chuyện với chú tiểu của ngôi chùa kia," một cám
dỗ lớn nảy sinh trong nó. Đó là cách cám dỗ nảy sinh.
Hôm đó nó không thể tránh được việc nói với đứa
trẻ kia. Khi nó thấy cậu này đang trên đường nó hỏi,
"Đằng ấy đi đâu đấy?"
Đứa trẻ kia có chút ít triết lí; nghe những triết lí
lớn lao nó đã trở nên có tính triết lí. Nó nói, "Đi sao?
Không có ai đến và đi! Nó là điều xảy ra - tới bất kì
đâu gió đưa tớ tới..." Nó đã nghe thầy nói nhiều lần
rằng đó là cách vị phật sống, như chiếc lá khô: bất kì
chỗ nào gió đưa nó đi, nó đi. Cho nên đứa trẻ này nói,
"Tớ không có! Không có người làm. Cho nên làm sao
tớ có thể đi được? Đằng ấy đang nói điều vô nghĩa gì
vậy? Tớ là chiếc lá khô. Bất kì chỗ nào gió đưa tớ
đi..."
Đứa trẻ kia bị làm cho im tịt. Nó thậm chí không
thể trả lời được. Nó không thể tìm được cái gì để nói.
Nó thực sự bị lúng túng, xấu hổ, và cũng cảm thấy,
"Thầy mình nói đúng, không nên nói với những người
này - đây là những người nguy hiểm! Đây là cái loại
nói gì thế nhỉ? Mình hỏi một câu hỏi đơn giản: 'Đằng
ấy đi đâu đấy?' Thực ra mình đã biết chỗ nó đi rồi, bởi
vì chúng ta cả hai cùng đi mua rau ngoài chợ. Một câu
trả lời đơn giản cũng đã xong."
Nó quay về, nói với thầy mình, "Con rất tiếc, con
xin lỗi. Thầy đã cấm con, con đã không nghe lời thầy.
Thực ra, vì thầy cấm mà con mới bị cám dỗ. Đây là lần
đầu tiên con nói chuyện với những người nguy hiểm
đó. Con chỉ hỏi mỗi một câu hỏi đơn giản. 'Đằng ấy đi

đâu đấy?' và nó bắt đầu nói những điều kì lạ: 'Không
có đi, không có đến. Ai đến? Ai đi? Tớ là trống rỗng
hoàn toàn,' nó nói, 'hệt như lá khô theo gió. Và tới bất
kì chỗ nào gió đưa tớ tới...'"
Thầy nói, "Ta bảo con trước rồi! Bây giờ, ngày
mai đứng ở cùng chỗ đó và khi nó tới hỏi nó, 'Đằng ấy
đi đâu đấy?' Và khi nó nói những điều này, con đơn
giản nói, 'Điều đó đúng. Vâng, đằng ấy là chiếc lá khô,
tớ cũng vậy. Nhưng khi gió không thổi, đằng ấy đi
đâu? Thế thì đằng ấy có thể đi đâu?' Cứ nói điều đó, và
điều đó sẽ làm cho nó lúng túng - và nó phải bị lúng
túng, nó phải bị thất bại. Chúng ta đã thường cãi nhau,
và những người đó đã không có khả năng đánh bại
được chúng ta trong bất kì tranh cãi nào. Cho nên ngày
mai điều đó phải được thực hiện!"
Đứa bé dậy sớm, chuẩn bị câu trả lời của mình,
nhẩm nó nhiều lầm trước khi đi. Thế rồi nó đứng ở chỗ
mà đứa trẻ kia hay đi qua đường, nhẩm đi nhẩm lại, tự
chuẩn bị cho mình, và thế rồi nó thấy đứa trẻ kia tới.
Nói nói, "Được rồi, bây giờ!"
Đứa trẻ kia tới. Nó hỏi, "Đằng ấy đi đâu đấy?" Và
nó hi vọng rằng bây giờ cơ hội sẽ tới...
Nhưng đứa trẻ này nói, "Tới bất kì chỗ nào chân tớ
đưa tớ tới..." Chẳng nhắc gì tới gió cả! Không nói về
cái không! Không có vấn đề về không người làm! Bây
giờ làm gì đây? Toàn thể câu trả lời chuẩn bị sẵn của
nó có vẻ ngớ ngẩn. Bây giờ nói về gió sẽ chẳng liên
quan.
Lại ỉu xìu, bây giờ thực sự xấu hổ là mình đơn
giản đần: "Và đứa trẻ này chắc chắn biết điều kì lạ nào

đó - bây giờ nó nói, 'Tới bất kì chỗ nào chân đưa tớ
tới...'"
Nó trở lại với thầy. Thầy nói, "Ta đã bảo con đừng
nói chuyện với những người đó - họ là nguy hiểm!
Đây là kinh nghiệm dài cả thế kỉ của chúng ta. Nhưng
bây giờ cái gì đó phải được làm. Cho nên mai con lại
hỏi, 'Đằng ấy đi đâu đấy?' và khi nó nói, 'Bất kì nơi
nào chân tớ đưa tớ tới,' bảo nó, 'Nếu cậu không có
chân,...?' Nó phải im lặng theo cách này cách khác!"
Thế là ngày hôm sau nó lại hỏi, "Đằng ấy đi đâu
đấy?" và chờ đợi.
Và đứa bé kia nói, "Tớ đi ra chợ kiếm rau đây."

Người thường vận hành từ quá khứ, và cuộc sống
cứ thay đổi luôn. Cuộc sống không có nghĩa vụ phải
khớp với các kết luận của bạn. Đó là lí do tại sao cuộc
sống rất lẫn lộn - lẫn lộn với người thông thái. Người
đó có tất cả những câu trả lời làm sẵn: Bhagavadgita,
Koran linh thiêng, Kinh Thánh, Vedas. Người đó có
mọi thứ được nhồi nhét, người đó biết mọi câu trả lời.
Nhưng cuộc sống chẳng bao giờ nêu cùng câu hỏi; do
đó người thông thái bao giờ cũng thất bại.
Phật chắc chắn nói: biết cách ngồi im lặng. Điều
đó không có nghĩa là ông ấy nói: Cứ ngồi im lặng mãi
mãi. Ông ấy không nói bạn phải trở thành bất hoạt;
ngược lại, chính từ im lặng đó mà hành động nảy sinh.
Nếu bạn không im lặng, nếu bạn không biết cách ngồi
im lặng, hay đứng im lặng trong thiền sâu, bất kì điều
gì bạn làm đều là phản ứng, không phải là hành động.
Bạn phản ứng.

Ai đó xúc phạm bạn, nhấn vào một nút, và bạn
phản ứng. Bạn giận dữ, bạn chồm lên người đó - và
bạn gọi nó là hành động sao? Nó không phải là hành
động, xin nhắc bạn, nó là phản ứng. Người đó là kẻ
thao túng và bạn là người bị thao túng. Người đó đã
nhấn nút và bạn đã vận hành như cái máy. Cũng hệt
như bạn nhấn nút và đèn bật lên, và bạn nhấn nút và
đèn tắt đi - đó là điều mọi người vẫn đang làm với bạn:
họ bật bạn lên, họ tắt bạn đi.
Ai đó tới và ca ngợi bạn và thổi phồng bản ngã bạn
lên, và bạn cảm thấy hoành tráng thế; và thế rồi ai đó
tới và chọc vào bạn, và bạn đơn giản lép tẹt ra đất. Bạn
không phải là người chủ của riêng mình: bất kì ai cũng
có thể xúc phạm bạn và làm bạn buồn, giận, cáu bẳn,
bực mình, bạo hành, điên khùng. Và bất kì ai có thể ca
ngợi bạn và làm cho bạn cảm thấy lâng lâng, có thể
làm cho bạn cảm thấy rằng bạn là vĩ đại nhất - rằng
Alexander Đại đế không là gì so với bạn.
Và bạn hành động theo sự thao túng của người
khác. Đây không phải là phản ứng thực.

Phật đi qua làng và mọi người tới và họ xúc phạm
ông ấy. Và họ dùng đủ mọi lời lẽ xấc xược mà họ có
thể dùng - mọi từ tục tĩu họ biết. Phật đứng đó, lắng
nghe một cách im lặng, rất chăm chú, và rồi nói, "Cám
ơn các ông đã tới với ta, nhưng ta đang vội. Ta phải
sang làng bên, mọi người đợi ta ở đó. Ta không thể
dành thêm nhiều thời gian cho các ông hôm nay được,
nhưng mai khi quay lại ta sẽ có thêm thời gian. Các
ông có thể tụ lập lại, và mai nếu điều gì đó còn lại mà
các ông muốn nói và chưa thể nói được, các ông có thể
nói điều đó cho ta. Nhưng hôm nay thì xin lỗi nhé."

Những người này không thể nào tin được vào tai
họ, mắt họ: người này vẫn còn hoàn toàn không bị tác
động, không bị phân tán. Một người trong số họ hỏi,
"Ông không nghe chúng tôi sao? Chúng tôi đã lăng mạ
ông đủ mọi thứ, và ông thậm chí đã không trả lời!"
Phật nói, "Nếu các ông muốn câu trả lời thế thì các
ông đã tới quá muộn rồi. Các ông đáng phải đến từ
mười năm trước đây, thế thì ta sẽ trả lời các ông.
Nhưng trong mười năm này ta đã chấm dứt việc bị
người khác thao túng rồi. Ta không còn là nô lệ nữa, ta
là người chủ riêng của mình. Ta hành động theo bản
thân mình, không theo bất kì ai khác. Ta hành động
theo nhu cầu bên trong của mình. Các ông không thể
buộc ta làm được cái gì. Điều đó hoàn toàn tốt; các
ông muốn lăng mạ ta, các ông đã lăng mạ ta! Cảm thấy
được hoàn thành đi. Các ông đã làm công việc của
mình hoàn hảo lắm. Nhưng khi có liên quan tới ta, ta
không nhận xúc phạm của các ông, và chừng nào ta
không nhận chúng, chúng là vô nghĩa."
Khi ai đó xúc phạm bạn, bạn phải trở thành người
nhận, bạn phải nhận điều người đó nói; chỉ thế thì bạn
mới có thể phản ứng. Nhưng nếu bạn không nhận, nếu
bạn đơn giản tách rời, nếu bạn giữ một khoảng cách,
nếu bạn vẫn còn bình thản, người đó có thể làm được
gì?
Phật nói, "Ai đó có thể ném bó đuốc đang cháy
vào dòng sông. Nó sẽ còn cháy sáng cho tới khi nó
chạm dòng sông. Khoảnh khắc nó rơi vào dòng sông,
tất cả lửa đều tắt - dòng sông làm nguội nó đi. Ta đã
trở thành dòng sông. Các ông ném những lời lăng mạ
vào ta. Chúng là lửa khi các ông ném chúng, nhưng
khoảnh khắc chúng đạt tới ta, trong bình thản của ta,

lửa của chúng bị tắt đi. Chúng không gây tổn thương
nữa. Các ông ném gai - rơi vào trong im lặng của ta
chúng trở thành hoa. Ta hành động từ bản tính cố hữu
riêng của ta."
Đây là tự phát. Người của nhận biết, hiểu biết,
hành động. Người không nhận biết, vô ý thức, máy
móc, như người máy, phản ứng.
Curtis, bạn hỏi tôi, "Người vô ý thức phản ứng
trong khi người trí huệ quan sát." Không phải là người
đó đơn giản quan sát - quan sát là một khía cạnh của
bản thể của người đó. Người đó không hành động mà
không quan sát. Nhưng đừng hiểu lầm Phật. Chư phật
bao giờ cũng bị hiểu lầm; bạn không phải là người đầu
tiên hiểu lầm. Cả đất nước này đã từng hiểu lầm Phật;
do đó cả đất nước này đã trở thành bất hoạt. Cho rằng
mọi thầy vĩ đại đều nói: Ngồi im lặng, cả nước trở
thành lười biếng, tệ hại; đất nước mất năng lượng, sự
sinh động, cuộc sống. Nó đã trở thành hoàn toàn tẻ
nhạt, không thông minh, bởi vì thông minh trở nên
được mài sắc chỉ khi bạn hành động.
Và khi bạn hành động từ khoảnh khắc sang khoảnh
khắc, từ nhận biết và quan sát của mình, thông minh
lớn nảy sinh. Bạn bắt đầu chói sáng, rực rỡ, bạn trở
thành toả sáng. Nhưng điều đó xảy ra qua hai điều:
quan sát, và hành động từ quan sát đó. Nếu quan sát
trở thành bất hoạt, bạn đang tự tử. Quan sát nên dẫn
bạn vào hành động, một loại hành động mới; một
phẩm chất mới được đưa vào cho hành động.
Bạn quan sát, bạn hoàn toàn yên tĩnh và im lặng.
Bạn thấy tình huống là gì, và từ việc thấy đó bạn đáp

ứng. Con người của nhận biết đáp ứng, người đó có
trách nhiệm - đúng theo từng từ! Người đó đáp ứng,
người đó không phản ứng. Hành động của người đó
được sinh ra từ nhận biết của người đó, không từ thao
túng của bạn; đó là khác biệt. Do đó, không có vấn đề
về việc có bất kì sự không tương hợp giữa quan sát và
tự phát. Quan sát là bắt đầu của tự phát; tự phát là hoàn
thành của quan sát.
Con người thực của hiểu biết hành động - hành
động vô cùng, hành động toàn bộ, nhưng người đó
hành động trong khoảnh khắc, từ tâm thức mình.
Người đó như tấm gương. Người thường, người vô ý
thức, không giống như tấm gương, người đó giống như
tấm kẽm ảnh. Sự khác biệt giữa tấm gương và tấm
kẽm ảnh là gì? Tấm kẽm ảnh, một khi đã lộ sáng, trở
thành vô dụng. Nó nhận được vết in hằn, trở nên bị in
vào - nó mang bức ảnh đó. Nhưng nhớ lấy, bức ảnh
này không là thực tại - thực tại vẫn cứ phát triển. Bạn
có thể đi vào vườn và bạn có thể chụp ảnh bụi hồng.
Ngày mai bức ảnh vẫn thế, ngày kia bức ảnh vẫn thế.
Tới và xem bụi hồng: nó không còn thế nữa. Hoa hồng
đã mất đi rồi, hay hoa hồng mới đã tới. Cả nghìn lẻ
một điều đã xảy ra.

Người ta nói rằng có lần một triết gia hiện thực đi
tới thăm danh hoạ nổi tiếng, Picasso. Triết gia này tin
vào chủ nghĩa hiện thực và ông ấy đã tới để phê bình
Picasso vì tranh của Picasso trừu tượng, chúng không
hiện thực. Chúng không mô tả thực tại như nó vậy.
Ngược lại, chúng là biểu tượng, có chiều hướng khác
toàn bộ - chúng có tính biểu tượng.

Nhà hiện thực nói, "Tôi không thích tranh của ông.
Tranh phải thực chứ! Nếu ông vẽ vợ tôi, thế thì bức
tranh của ông phải trông giống vợ tôi chứ." Và ông ấy
rút ra một bức tranh của vợ mình và nói, "Ông trông
bức tranh này! Tranh phải giống thế này chứ."
Picasso nhìn bức tranh và nói, "Đây mà là vợ ông
à?"
Ông ta nói, "Vâng, vợ tôi đấy!"
Picasso nói, "Tôi ngạc nhiên đấy! Bà ấy rất nhỏ và
phẳng."
Bức tranh không thể là người vợ được!

Câu chuyện khác đươc kể lại:
Một người đàn bà đẹp tới Picasso và nói, "Mới
hôm nọ tôi thấy bức tranh tự hoạ của ông ở nhà một
người bạn. Nó đẹp thế, tôi bị ảnh hưởng, gần như bị
thôi miên, tới mức tôi đã ôm lấy bức tranh đó và hôn
nó."
Picasso nói, "Thật à! Và thế rồi bức tranh đó làm
gì bà? Bức tranh đó có hôn bà không?"
Người đàn bà này nói, "Ông có điên không?! Bức
tranh đâu có hôn tôi."
Picasso nói, "Thế thì nó không phải là tôi rồi."

Bức tranh là vật chết. Máy ảnh, tấm kẽm ảnh, chỉ
bắt lấy hiện tượng tĩnh tại. Và cuộc sống không bao
giờ tĩnh tại, nó cứ thay đổi. Tâm trí bạn vận hành như

máy ảnh, nó cứ thu thập các bức ảnh - nó là quyển an
bum. Và thế rồi từ những bức ảnh đó bạn cứ phản ứng.
Do đó, bạn không bao giờ thực với cuộc sống, bởi vì
bất kì cái gì bạn làm đều sai; bất kì cái gì bạn làm, tôi
nói, đều sai. Nó chưa bao giờ khớp .
Một người đàn bà đang chỉ cho con mình xem bộ
ảnh gia đình, và họ bắt gặp một bức ảnh một người
đàn ông đẹp: râu tóc dài, rất trẻ, rất sống động.
Đứa bé hỏi, "Mẹ ơi, ông này là ai thế?"
Và người đàn bà nói, "Con không nhận ra ông ấy
à? Ông ấy là bố con đấy!"
Đứa bé trông có vẻ phân vân và nói, "Nếu ông ấy
là bố con, ai là ông hói đầu vẫn sống với chúng ta?"

Bức tranh là tĩnh tại. Nó vẫn còn như nó vậy, nó
không bao giờ thay đổi. Tâm trí vô ý thức vận hành
tựa như chiếc máy ảnh, nó vận hành tựa như tấm kẽm
ảnh. Tâm trí quan sát, tâm trí thiền, vận hành như tấm
gương. Nó không bắt dấu vết nào; nó vẫn còn hoàn
toàn trống rỗng, bao giờ cũng trống rỗng. Cho nên bất
kì cái gì tới trước tấm gương, nó đều được phản xạ.
Nếu bạn đứng trước tấm gương, nó phản xạ bạn. Nếu
bạn đi khỏi, đừng nói rằng tấm gương phản bội bạn.
Gương đơn giản là gương. Khi bạn đi rồi, nó không
còn phản xạ bạn nữa; nó không có nghĩa vụ nào phải
phản xạ bạn thêm nữa. Bây giờ ai đó khác đang đối
diện với nó - nó phản xạ ai đó khác. Nếu không ai có
đó, nó không phản xạ gì. Nó bao giờ cũng đúng với
cuộc sống.

Tấm kẽm ảnh không bao giờ đúng với cuộc sống.
Cho dù tấm ảnh của bạn được chụp ngay bây giờ, vào
lúc người chụp ảnh lấy nó ra khỏi máy ảnh, bạn không
còn như vậy nữa rồi! Nhiều nước đã trôi xuôi qua sông
Hằng. Bạn đã lớn lên, thay đổi, bạn đã trở nên già hơn.
Có thể chỉ một phút trôi qua thôi, nhưng một phút có
thể là điều lớn lao - bạn có thể chết! Chỉ một phút
trước bạn còn sống; sau một phút, bạn có thể chết. Bức
ảnh sẽ không bao giờ chết.
Nhưng trong tấm gương, nếu bạn sống, bạn sống;
nếu bạn chết, bạn chết.
Phật nói: học ngồi im lặng - trở thành tấm gương.
Im lặng tạo ra tấm gương từ tâm thức của bạn, và thế
rồi bạn vận hành khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Bạn
phản xạ cuộc sống. Bạn không mang cuốn an bum nào
bên trong đầu mình. Thế thì mắt bạn trong trẻo và hồn
nhiên, bạn có sáng tỏ, bạn có trí huệ, và bạn không bao
giờ không thật với cuộc sống.
Đây là sống đích thực.

**************************************************

#10Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Tại sao có chuyện chẳng ai thích bị phê bình, vậy
mà mọi người đều thích phê bình người khác?

Gayatri, bản ngã rất nhạy cảm và rất mong manh,
và rất sợ phê bình. Bản ngã phụ thuộc vào ý kiến của
người khác. Nó không có thực tại của riêng nó. Nó
không phải là thực thể thực, nó không có bản chất - nó
chỉ là tuyển tập ý kiến của người khác.
Ai đó nói, "Bạn đẹp," và bạn thu lấy điều đó. Ai đó
nói, "Bạn thông minh," và bạn thu thập lấy điều đó. Và
ai đó nói, "Tôi chưa bao giờ bắt gặp một người duy
nhất như vậy," và bạn thu lấy điều đó. Và rồi một hôm
một người tới và người đó nói, "Bạn kinh tởm!" Bây
giờ làm sao bạn có thể chấp nhận được phê bình? Điều
đó chống hình ảnh mà bạn đã từng tạo ra cho bản thân
mình. Bạn sẽ trả đũa, bạn sẽ tranh đấu một mất một
còn. Nhưng bất kì điều gì bạn làm, tâm trí đã lấy ấn
tượng về ý kiến này nữa. Thế rồi ai đó nói, "Bạn xấu,"
và ai đó nói, "Bạn ngu." Và có cả triệu người trên thế
giới và họ tất cả đều có ý kiến riêng của mình, thích và
không thích.
Do đó, bản ngã bạn trở thành thứ hẩu lốn, một hiện
tượng rất mâu thuẫn. Mảnh này nói, "Mình đẹp!"
mảnh khác nói, "Vô nghĩa, mình xấu!" Mảnh này nói,
"Mình thông minh," mảnh khác nói, "Im đi! Đừng có
ngoạc mồm to thế! Mình chỉ là đứa đại ngu chứ không
gì khác!" Do đó mọi người sống trong trạng thái lẫn
lộn. Họ không biết họ là ai, họ thông minh hay ngu
xuẩn, đẹp hay xấu, tốt hay dở, thánh nhân hay tội nhân
- bởi vì người này có thể gọi bạn là thánh nhân, người
khác có thể gọi bạn là tội nhân. Có những giá trị khác
nhau và những tiêu chí khác nhau trên thế giới, có
những đạo đức khác nhau trên thế giới.
Hàng xóm nhà bạn có thể là người Ki tô giáo và
bạn có thể là người Jaina giáo. Bây giờ người Ki tô

giáo không có vấn đề gì với việc uống rượu; thực ra,
bản thân Christ cũng thích uống rượu. Nhưng người
Jaina không thể quan niệm được, thậm chí cả trong mơ
của mình, về Mahavira uống rượu. Điều đó là không
thể được, chính cái ý tưởng này là không thể quan
niệm nổi. Nhưng với người Ki tô giáo phép màu lớn
nhất mà Jesus đã làm là biến nước thành rượu. Nếu
Mahavira mà ở quanh đó, ông ấy chắc đã làm chính
phép màu đối lập ngay lập tức! Ông ấy chắc đã biến
rượu thành nước.
Bây giờ, nếu thỉnh thoảng bạn uống rượu, bạn là
thánh nhân hay tội nhân? Những người khác nhau sẽ
nói những điều khác nhau. Trong đạo tràng của
Mahatma Gandhi trà bị cấm; nói gì tới rượu! Trà, trà
đáng thương, trà vô tội đã bị cấm! Và mọi sư phật giáo
trong nhiều thời đại đã từng uống trà. Thực ra họ cho
rằng nó giúp cho thiền, và có thể có một chút chân lí
trong điều đó, bởi vì nó giữ cho bạn thức tỉnh. Và thiền
Phật giáo là làm sao cho bạn có khuynh hướng khỏi
ngủ lơ mơ: ngồi hàng giờ trong một tư thế... thử điều
đó đi. Sau mười phút bạn sẽ bắt đầu mơ. Sau một giờ
thì không thể giữ thức tỉnh được.
Trà có thể có ích. Thực ra, trà đã được các Phật tử
phát hiện. Một trong những thầy phật giáo vĩ đại nhất,
Bồ đề đạt ma, đã phát hiện ra trà. Cái tên này bắt
nguồn từ một tu viện, Ta, tại đó Bồ đề đạt ma đã sống
ở Trung Quốc. Tu viện đó ở trên đỉnh đồi, Ta. Trong
tiếng Trung Quốc 'ta' có thể được phát âm theo hai
cách: hoặc nó có thể được phát âm là 'ta' hay 'cha' - do
đó tiếng Hindu là chai, tiếng Marathi là cha, và tiếng
Anh là 'tea'. Bồ đề đạt ma, người sáng lập vĩ đại của
Thiền, đã phát hiện ra nó.

Và rượu đã được làm ra từ các tu viện Cơ đốc giáo
từ nhiều thời đại. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng rượu
ngon nhất đã được các linh mục và xơ Cơ đốc giáo làm
ra. Rượu cổ nhất đã có tại các hầm rượu của các tu
viện cổ đại ở châu Âu, rượu cổ nhất và ngon nhất.
Rượu, được làm từ các tu viện sao? Đây là loại tu viện
gì vậy? Ai sẽ quyết định?
Thực ra, có chút ít chân lí trong điều đó. Thiền
phật giáo nghĩa là tính quan sát, và trà có hoá chất nào
đó trong nó giúp cho tính quan sát - nó có chất kích
thích. Bây giờ một ngày nào đó có thể là một Bồ đề
đạt ma khác sẽ tới và nói, "Hút thuốc là tốt," bởi vì
thuốc lá cũng có chất kích thích - nicotine. Hút thuốc
cũng có thể có ích cho thiền nếu trà có thể có ích cho
nó. Hút thuốc vẫn còn đang chờ đợi Bồ đề đạt ma của
nó xuất hiện. Thế rồi bạn sẽ có khả năng hút thuốc và
cảm thấy rất đức hạnh: bạn càng hút nhiều, bạn sẽ
càng thánh thiện!
Không phải ngẫu nhiên mà rượu đã trở thành một
phần của tính sáng tạo của tu viện. Jesus nói: Được
chìm ngập trong Thượng đế là lời cầu nguyện. Con
đường của Jesus là con đường của yêu, con đường của
Phật là con đường của thiền; do đó, Phật sẽ không bao
giờ đồng ý với rượu, nhưng với trà ông ấy có thể đồng
ý. Jesus đồng ý với rượu bởi vì rượu cho bạn mùi vị
của việc bị mất đi hoàn toàn, của việc bị đắm chìm,
của việc thoát ra khỏi bản ngã, của việc quên đi bản
ngã và mọi lo nghĩ của nó. Nó cho bạn mùi vị, thoáng
nhìn về cái không biết.
Nhưng ai sẽ quyết định về ai là phải và ai là trái?
Tất cả những điều này có đó trong khí quyển, và bạn
có thể bắt giữ chúng. Từ những điều này bạn làm ra

một loại hình ảnh nào đó; nó nhất định vẫn còn là món
hẩu lốn, nó không thể rõ ràng được. Do đó bạn rất sợ
ai đó phê bình bạn vì người đó lôi cái hẩu lốn của bạn
lên bề mặt. Không phải bạn chống phê bình của người
đó; bạn chống sự kiện là người đó lôi vấn đề lên bề
mặt, điều bạn bằng cách nào đó vẫn kìm nén bên trong
bản thân mình. Người đó làm cho bạn nhận biết về các
vấn đề, và không ai muốn nhận biết về các vấn đề, vì
thế thì vấn đề muốn được giải quyết, và đó là chuyện
phức tạp và gian khó. Nó cần bạo dạn để giải quyết
vấn đề. Thực ra bạn có thể không thích giải quyết vấn
đề, bởi vì bạn có thể có đầu tư nào đó vào vấn đề của
mình - bạn phải có chứ, bởi vì bạn đã sống với chúng
lâu đến mức bạn phải đã đầu tư vào chúng. Bạn có thể
không thích thay đổi phong cách sống của mình. Nếu
bạn khổ bạn có thể muốn vẫn còn khổ - bất kì điều gì
bạn nói trên bề mặt, đấy là vấn đề khác. Mặc cho điều
bạn nói, sâu bên dưới bạn có thể vẫn thích còn khổ.

Chẳng hạn, vợ biết rằng chồng hướng tình yêu về
mình chỉ khi cô ấy ốm. Bất kì khi nào cô ấy mạnh
khoẻ anh ta đơn giản quên hết về cô ấy, anh ta chưa
bao giờ chăm chút gì khi cô ấy mạnh khoẻ. Khi cô ấy
ốm, vì nghĩa vụ, trách nhiệm cao, anh ta tới, ngồi bên
cạnh cô ấy, đưa tay lên đầu cô ấy; bằng không thì anh
ta chẳng thèm cho cô ấy một cái nhìn. Hỏi người
chồng, "Đã bao lâu rồi kể từ khi anh nhìn vào mặt vợ
mình, mặt đối mặt?" Bạn có thể có khả năng nhận ra
con chó của mình nếu nó bị lạc, nhưng nếu vợ bạn bị
lạc bạn sẽ phải hỏi hàng xóm bởi vì họ sẽ nhận ra cô
ấy tốt hơn - cũng như bạn sẽ nhận ra vợ của hàng xóm
tốt hơn. Ai nhìn vào vợ riêng của mình?

Mulla Nasruddin đã đi xem kịch. Một người trong
tình yêu lớn thế trong vở kịch, anh ta diễn lãng mạn tới
mức Nasruddin nói với vợ mình, "Người đàn ông này
là một nghệ sĩ lớn."
Người vợ nói, "Và anh biết không? - người đàn bà
anh ta đang đóng cùng thực sự là vợ anh ta trong đời
thường."
Nasruddin nói, "Thế thì anh ta là nghệ sĩ vĩ đại
nhất trên thế giới!"

Bầy tỏ nhiều lãng mạn với vợ riêng của mình...
điều đó gần như là điều không thể được.
Tôi đã du hành trong hai mươi năm ở đất nước
này. Tôi đã ở trọ trong hàng nghìn gia đình, và tôi thấy
điều đó liên tục: khi chồng không có nhà, vợ dường
như rất vui vẻ, rất hạnh phúc. Khoảnh khắc chồng
bước vào nhà cô ấy bị đau đầu, và cô ấy nằm dài trên
giường. Và tôi đã quan sát, bởi vì tôi chỉ ở nhờ trong
ngôi nhà này. Mới khoảnh khắc trước, mọi thứ đều ổn
- cứ dường như chồng chưa vào mà đau đầu đã vào.
Dần dần, tôi hiểu ra logic này. Có đầu tư lớn trong
đó. Và nhớ lấy, tôi không nói rằng cô ấy đơn giản giả
vờ. Nếu bạn giả vờ quá lâu nó có thể trở thành thực tại,
nó có thể trở thành tự thôi miên. Tôi không nói rằng cô
ấy không bị đau đầu, nhớ lấy. Cô ấy có thể đau: chỉ
khuôn mặt của chồng là đủ làm lẩy cò cho quá trình
này! Điều đó xảy ra nhiều lần đến mức bây giờ nó trở
thành quá trình tự động. Cho nên tôi không nói rằng cô
ấy lừa dối chồng; cô ấy bị lừa dối bởi chính đầu tư
riêng của cô ấy.

Bạn có hình ảnh nào đó và bạn không muốn nó bị
thay đổi, và phê bình nghĩa là gây rối loạn.

Bạn chắc chắn biết câu chuyện của Cô bé quàng
khăn đỏ:
Cô bé này đi gặp bà mình sống trong rừng. Sói ác,
muốn ăn cô bé, đã chiếm chỗ của bà trong giường sau
khi đã nuốt chửng bà. Thế là nó nằm dưới chăn đeo
chiếc khăn quàng của bà và đội mũ ngủ của bà.
Khi cô bé quàng khăn đỏ tới, cô bé để ý điều gì đó
khác lạ, và nhìn vào mắt bà, cô bé hỏi:
"Bà ơi, sao mắt bà to thế!"
"Mắt to là để nhìn cháu rõ hơn."
"Nhưng bà ơi, sao mũi bà to thế!"
"Để ngửi cháu rõ hơn."
"Nhưng bà ơi, sao tay bà to thế!"
"Để ôm cháu được chặt hơn."
"Nhưng bà ơi, sao tay bà nhiều lông thế!"
"Này! Cháu đến đây chỉ để phê bình sao?"

Có một giới hạn. Bên ngoài điều đó không ai thích
bị phê bình cả. Nhưng phía bên kia của câu chuyện là
ở chỗ mọi người đều thích phê bình người khác; điều
đó cho bạn cảm giác thoải mái. Nếu người khác xấu,
một cách gián tiếp nó giúp bạn cảm thấy thoải mái.
Nếu mọi người đều là kẻ lừa đảo, đạo đức giả, không
thành thật, tinh ranh, điều đó cho bạn cảm giác thoải
mái: bạn không là người xấu đó, bạn không là người

không thành thật đó. Việc so sánh làm bạn thảnh thơi.
Nó giúp bạn vẫn còn không thành thật, bởi vì mọi
người không thành thật hơn bạn. Trong thế giới không
thành thật này làm sao bạn có thể sống sót được? Bạn
phải chơi trò chơi.
Mọi sáng, sáng sớm khi bạn đọc báo, báo bao giờ
cũng cho bạn cảm giác thoải mái - nhiều điều đã xảy ra
trên khắp thế giới, nhiều điều xấu, nhiều bạo hành, giết
người, tự tử, hãm hiếp, cướp bóc đến mức so với tất cả
những điều này bạn là thánh nhân. Do đó mọi người
không thích đọc Kinh Thánh vào buổi sáng, hay Gita,
mà đọc báo! Đọc Gita bạn cảm thấy giống như tội
nhân, đọc Kinh thánh bạn bắt đầu cảm thấy run rẩy,
rằng địa ngục nhất định xảy ra cho bạn, rằng bạn đang
trên đường rồi. Và kinh sách mô tả địa ngục sống động
thế, với những màu sắc tới mức nó có thể làm cho bất
kì ai hoảng sợ. Và một điều dường như chắc chắn:
rằng bạn không thể đạt tới cõi trời. Điều đó dường như
là không thể được, điều đó yêu cầu điều không thể
được.
Không ai thích đọc kinh sách, không ai thích nghe
kinh sách. Đó là lí do tại sao nếu bạn đi tới đền chùa
bạn sẽ thấy gần như mọi người đều ngủ say. Có các
bác sĩ điều trị tôi biết đã gửi người tới các bài giảng
tôn giáo nếu họ bị chứng mất ngủ. Nếu thuốc an thần
không có tác dụng, đừng lo: tới bài giảng tôn giáo đi.
Đó là điều tối thượng trong thuốc an thần - mãi cho tới
bây giờ không cái gì có khả năng đánh bại điều đó.
Nghe kinh sách tôn giáo người ta bắt đầu rơi vào giấc
ngủ. Đó là việc bảo vệ, đó là việc né tránh; bằng
không, điều trở nên tuyệt đối chắc chắn là cõi trời
không dành cho bạn, bạn được ngụ ý dành cho địa
ngục. Và điều đó khuấy động trái tim bạn, làm dâng

lên nỗi sợ lớn lao, và dường như không có cách nào
thoát khỏi nó.
Do đó, mọi người đều thích phê bình, và không chỉ
phê bình - mọi người đều thích khuếch đại lỗi lầm của
người khác. Bạn cố gắng làm cho lỗi của người khác
thành to nhất có thể bởi vì thế thì, trong so sánh, lỗi
của bạn là bỏ qua được. Và Thượng đế từ bi: Rahim,
rehman! Thượng đế từ bi! Bạn chỉ có lỗi nhỏ thôi, và
nhìn vào thế giới mà xem nơi biết bao nhiêu kẻ tội lỗi
tồn tại...
Khi Ngày phán xử tới bạn có thể hoàn toàn chắc
chắn rằng số của bạn sẽ không được gọi tới, bạn sẽ
không bị gọi đâu. Hàng đợi sẽ quá dài, và điều đó phải
được quyết định trong hai mươi tư giờ. Một ngày phán
xử và hàng triệu và hàng triệu người - Tamerlane và
Genghis Khan và Alexander Đại đế và Adolf Hitler và
Mussolini và Joseph Stalin và Mao Trạch Đông...
những người này sẽ là những người đứng trước. Bạn
sẽ là người cuối cùng trong hàng đợi này. Số của bạn
sẽ không tới. Bạn có thể chắc chắn về điều đó nếu bạn
nhìn vào mọi người bằng kính lúp.

Sau khi chạy vào đám đông điên cuồng trong trận
bóng rổ buổi tối, ông trọng tài đón vợ và bảo cô ấy tốt
hơn cả là cô ấy nên lánh xa trận đấu còn mà ông ấy
làm trọng tài. "Sau hết," ông ấy nói, "chắc em sẽ phải
bối rối khi mọi người đều đứng dậy và la ó anh."
"Cũng không tệ đến thế," cô ấy nói. "Em cũng
đứng dậy và la ó nữa."

Bản ngã không muốn bị phê bình và muốn phê
bình mọi người. Trở nên nhận biết về chiến lược này
của bản ngã, cách nó tự nuôi dưỡng nó, cách nó tự bảo
vệ nó. Chừng nào bạn chưa trở thành tuyệt đối nhận
biết về tất cả những phương cách tinh ranh của bản
ngã, bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng gạt bỏ nó. Và
gạt bỏ nó là việc bắt đầu của cuộc sống tôn giáo, là
việc bắt đầu của tính chất sannyas. Thế thì bạn không
còn lo nghĩ điều người khác nói về bạn.
Nhìn tôi đây... Toàn thế giới cứ nói mọi điều về
tôi. Tôi thậm chí không đọc chúng. Mọi ngày Laxmi
đem tới hàng trăm bài báo xuất hiện trong các ngôn
ngữ khác nhau từ các nước khác nhau. Ai quan tâm?
Nếu họ thích tin đồn, cứ để cho họ thích; họ chẳng có
gì khác để tận hưởng trong các kiếp sống của mình. Cứ
để cho họ có chút ít vui đùa. Chẳng có gì sai trong nó,
họ không thể làm hại tôi được. Họ có thể phá huỷ thân
thể tôi, nhưng họ không thể làm hại được tôi. Và tôi
không có hình ảnh của riêng mình; họ không thể phá
huỷ được cái đó. Và tôi không phản ứng, tôi hành
động. Hàng động của tôi nảy sinh từ cái ta của tôi, nó
không bị người khác thao túng. Tôi là người tự do, tự
do. Tôi hành động theo cách riêng của tôi.
Học nghệ thuật hành động theo cách riêng của bạn
đi. Đừng lo nghĩ về những lời phê bình và đừng quan
tâm tới lời ca ngợi. Nếu bạn quan tâm tới việc được
người khác ca ngợi, thế thì bạn không thể không quan
tâm tới phê bình. Vẫn còn tách rời. Dù ca ngợi hay phê
bình, tất cả đều như nhau. Thành công hay thất bại, nó
đều như nhau. Aes dhammo sanantano.

**************************************************

#10Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Mặc dầu tôi muốn buông xuôi bản thân mình cho
thầy và lấy tính chất sannyas, tôi cảm thấy bất lực
để làm như vậy. Sao nó như vậy? Xin thầy làm
sáng tỏ điều này.

S.D. Prasad, điều đó rất đơn giản, không có gì để
làm sáng tỏ cả. Bạn sợ mọi người, bạn sợ xã hội. Bạn
sợ nhà thờ đã thiết lập, tôn giáo đã thiết lập, các tu sĩ,
chính khách - bạn đơn giản sợ. Chính nỗi sợ này ngăn
cản bạn. Tính chất sannyas cần dũng cảm, tính chất
sannyas cần bạo dạn, đặc biệt tính chất sannyas của
tôi.
Tính chất sannyas cũ không cần bạo dạn, bởi vì nó
đã là một phần của nguyên trạng. Nó đã được chấp
nhận, được kính trọng. Nếu bạn trở thành sannyasin
kiểu cũ mọi người sẽ tôn thờ bạn. Nếu bạn trở thành
sannyasin của tôi bạn sẽ trong nguy hiểm thường
xuyên. Mọi người sẽ coi bạn là điên, mọi người sẽ coi
bạn bị thôi miên. Mọi người sẽ coi rằng cái gì đó đã đi
sai - rằng bạn đã thành dở hơi. Mọi người sẽ nói,
"Người tốt thế! Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ, mơ rằng
điều này đã xảy ra cho anh."
Mọi người sẽ cười, đồn đại về bạn, xì xào về bạn,
sẽ tạo ra cả nghìn lẻ một loại rắc rối cho bạn. Và bạn
phải tồn tại cùng mọi người, bạn phải sống với họ.
Trên từng bước họ sẽ tạo ra rào chắn và họ sẽ đặt đá
lên đường của bạn. Và không chỉ những người là một
phần của xã hội lớn hơn này, mà thậm chí cả những

người rất gần gũi: vợ bạn có thể tạo ra nhiều rắc rối
cho bạn... con bạn, bố mẹ bạn. Từ mọi xó xỉnh ngóc
ngách bạn sẽ phải đối diện với khó khăn.
Bạn sợ. Cố hiểu sợ của bạn đi, và thế thì nó sẽ rất
dễ dàng. Một khi bạn thấy rằng nó là nỗi sợ, vứt nó đi.
Mặc cho mọi nỗi sợ, nhảy vào tính chất sannyas, bởi vì
còn trong sợ là trở thành kẻ hèn nhát, còn trong sợ là
bỏ lỡ toàn bộ vui vẻ của cuộc sống. Cuộc sống thuộc
vào những người biết cách mạo hiểm. Cuộc sống thuộc
vào người phiêu lưu, và tính chất sannyas là cuộc
phiêu lưu lớn nhất có đó. Và bởi vì tôi đang đem một
khái niệm hoàn toàn mới cho tính chất sannyas vào thế
giới - tính chất sannyas không phải là người trốn chạy,
tính chất sannyas không tin vào từ bỏ, tính chất
sannyas tin vào han hoan, tính chất sannyas muốn sống
trong thế giới vậy mà không là của nó...
Tính chất sannyas cũ là dễ dàng: bạn trốn khỏi thế
giới, bạn bỏ các cơ hội nơi cám dỗ là có thể, bạn trốn
lên hang động Himalaya. Ngồi đó bạn sẽ là thánh
nhân, bởi vì bạn không có cơ hội nào khác. Bạn phải là
thánh nhân. Bạn có thể làm gì khác ở đó?
Trong thế giới đủ mọi loại cám dỗ tồn tại. Là
thánh nhân trong thế giới là cái gì đó siêu phàm, cái gì
đó phi thường. Nếu không có đàn bà nào trong các
hang động Himalayan... và tôi không nghĩ rằng có.
Đàn bà chưa bao giờ ngu đến thế; họ trần tục hơn, họ
trực giác hơn, họ không trí thức. Họ rất hiện thực, họ
không chạy theo lời và lí thuyết và triết lí. Chính đàn
ông trở nên bị hấp dẫn rất nhiều bởi cái trừu tượng.
Đàn bà không bận tâm mấy tới thế giới khác, cô ấy
muốn bộ quần áo ngủ sari đẹp ở đây bây giờ! Bạn ngu
nếu bạn chờ đợi người đàn bà đẹp nào đó trên trời.

Tâm trí nữ tính không bận tâm mấy tới thế giới
khác. Tâm trí nữ tính nói, "Chúng ta sẽ xem. Nếu
chúng ta có thể xoay xở được ở đây, chúng ta sẽ xoay
xở được ở đó nữa. Nếu chúng ta có thể tìm thấy người
ngu ở đây, cùng người ngu đó sẽ sẵn có ở đó nữa. Cho
nên tại sao lo nghĩ về thế giới khác?"
Nhưng đàn ông sống trong những điều trừu tượng.
Đó là nhược điểm lớn nhất của tâm trí nam tính. Nó
sống trong lí thuyết. Nó trở thành bị thôi miên nhiều
thế bởi những từ mà nó sẵn sàng hi sinh bản thân cuộc
sống. Nó sẵn sàng đi vào hang động, từ bỏ cuộc sống
để đạt tới cuộc sống khác. Nó sống trong quá khứ, nó
sống trong tương lai. Đàn bà sống nhiều hơn trong
hiện tại. Do đó, đã không có đàn bà nào ở trong các
hang động Himalaya. Bạn có thể đi và ngồi ở đó và
mơ mộng đủ mọi loại mơ, nhưng không cơ hội nào có
đó. Tiền bạc không có đó, quyền lực không có đó, cái
đẹp không có đó - chẳng có cái gì cả! Ngồi trong hang
động của mình bạn trở thành ngày một đờ đẫn hơn, từ
từ, từ từ nó là một loại tự tử dần dần.
Tính chất sannyas của tôi là không vứt bỏ thế giới
mà đi sâu hơn vào trong nó, đi vào chính cốt lõi của
nó, bởi vì Thượng đế là ở chính cốt lõi của thế giới.
Thượng đế là linh hồn của thế giới. Bạn không thể tìm
thấy ngài bằng trốn chạy khỏi thế giới. Bạn có thể tìm
thấy ngài chỉ bằng việc đi ngày một sâu hơn vào trong
thế giới. Khi bạn đạt tới chính trung tâm của sự tồn tại,
bạn sẽ thấy ngài. Ngài bị ẩn kín trong thế giới, toàn thể
thế giới đều được thấm đẫm bởi ngài. Ngài ở trong cây
cối và trong tảng đá và trong chim chóc và trong con
người. Vâng, ngài là trong vợ bạn, trong chồng bạn và
trong con bạn. Ngài ở trong bạn! Và khả năng tốt nhất

để tìm thấy ngài là trong thế giới, không ở ngoài thế
giới.
Đi ra khỏi thế giới đã là hấp dẫn lớn; điều đó nữa
cũng bởi vì sợ. Người trốn chạy là kẻ hèn nhát; người
đó không thể có đủ tính quan sát để sống trong thế giới
vậy mà không bị ảnh hưởng bởi nó. Người đó không
thể có tính quan sát thế - người đó không có nhiều
thông minh tới mức đó, người đó không thể làm được
nỗ lực lớn để thức tỉnh - do đó người đó trốn đi. Người
đó là kẻ hèn nhát.
Cho nên các sannyas cũ, S.D. Prasad, có thể khớp
với bạn hoàn hảo đấy, nhưng điều đó sẽ chẳng ích gì.
Bạn sẽ vẫn còn là kẻ hèn nhát, và bạn sẽ vẫn còn có
khuynh hướng sợ. Trên bề mặt dường như là sannyasin
rời bỏ thế giới là rất bạo dạn. Không phải vậy. Đừng bị
lừa bởi hình tướng. Người lính đi vào chiến tranh
trông bạo dạn thế - đừng bị lừa bởi hình tướng - sâu
bên dưới anh ta đang run rẩy, anh ta sợ.

Adolf Hitler đang chuẩn bị quân phục của mình
cho mùa đông ảm đạm thứ hai trên mặt trận lạnh cóng
ở nước Nga.
"Mein Fuhrer," một trong những tuỳ tùng của ông
ta gợi ý, "nhớ tới điều Napoleon đã làm khi ông ấy ở
Nga. Ông ấy đã mặc quân phục đỏ tươi để cho trong
trường hợp ông ấy bị thương thì người của ông ấy sẽ
không để ý tới sự kiện đó rằng ông ấy đã chảy máu."
"Ý tưởng tuyệt vời! Ý tưởng tuyệt vời!" Adolf
ngẫm nghĩ. "Ném cho ta chiếc quần nâu."

Đừng bị lừa bởi hình tướng. Ngay cả những người
như Adolf Hitler cũng cực kì sợ hãi, run rẩy. Và cái
gọi là sannyasins của bạn, người đã trốn khỏi thế giới
cũng đã trốn do sợ.
Tôi dạy bạn cách bạo dạn. Chính chỉ nỗi sợ chứ
không cái gì khác đang ngăn cản bạn, mặc dầu bạn sẽ
không cảm thấy rất sung sướng với câu trả lời của tôi.
Bạn phải đã trông đợi rằng tôi sẽ nói điều gì đó rất vừa
lòng cho bản ngã của bạn. Tôi xin lỗi, tôi không thể
nói cái gì phi chân lí. Tôi chỉ có thể nói chân lí, và nếu
nó gây tổn thương, nó gây tổn thương. Chính chỉ qua
chân lí mà ánh sáng bắt đầu đi vào trong bản thể bạn.
Cho nên nếu bạn cảm thấy bị tổn thương... bởi vì tên
của bạn dường như không quen thuộc với tôi, bạn phải
là người mới. Và với người mới tôi chưa bao giờ thô
thiển đến thế, nhưng tôi thấy một khả năng bên trong
bạn, do đó tôi mới nghiêm khắc thế.
Bất kì khi nào tôi thấy một khả năng ở một người,
tôi đều trở nên nghiêm khắc. Bất kì khi nào tôi không
thấy khả năng nào tôi đều vẫn còn rất lịch sự. Nếu tôi
lịch sự, điều đó đơn giản nghĩa là tôi muốn gạt bỏ bạn.
Nếu tôi nghiêm khắc, nếu tôi nện búa lên đầu bạn, điều
đó nghĩa là tôi đã bắt đầu kính trọng bạn.

**************************************************

#10Câu hỏi thứ năm:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi rất tham tiền. Thầy có cho rằng tôi đã từng là
người Do Thái trong kiếp sống quá khứ của mình
không?

Suresh, sao trong kiếp quá khứ? Bạn là người Do
Thái ngay bây giờ chứ! Chỉ bởi việc được sinh ra ở Ấn
Độ, chỉ bởi việc được sinh ra trong gia đình Hindu,
không tạo ra khác biệt gì. 'Do Thái' không có nghĩa
giống nòi, nó là tâm lí, nó là siêu hình. Người Marwari
là người Do Thái - Do Thái Ấn Độ. Thực ra, bất kì ai
tham đều là người Do Thái - tham lam là Do Thái.
Jesus không phải là người Do Thái mặc dầu ông ấy
đã được sinh ra là người Do Thái - ông ấy không phải
là người Do Thái chút nào. Khi tôi dùng từ như 'Do
Thái', bao giờ cũng nhớ rằng tôi không nói về giống
nòi. Tôi không quan tâm tới dòng máu. Máu người Do
Thái và máu người Ki tô giáo và máu người Hindu tất
cả đều như nhau. Bạn có thể lấy vài mẫu máu - bạn có
thể lấy mọi mẫu máu ở đây - bạn có thể lấy vài mẫu
máu đem tới bác sĩ và hỏi ông ấy máu nào là người Do
Thái và máu nào là người Hindu và máu nào là Phật
tử, và ông ấy sẽ lúng túng. Ông ấy không thể tìm ra
cách nào để hình dung ra điều đó - máu là máu thôi!
Tất nhiên có các kiểu máu, nhưng chúng không là máu
Do Thái và máu Hindu và máu Phật tử.
'Do Thái' không là gì ngoài cái tên khác cho tham
lam. Theo nghĩa đó toàn thể thế giới bao gồm người
Do Thái, ngoại trừ vài người ngoại lệ. Gần như mọi
người đều là người Do Thái! Hoặc bạn là một Jesus
hoặc bạn là một người Do Thái - đây là hai phương án
duy nhất. Nếu bạn không muốn là người Do Thái thế
thì là Jesus đi. Và đừng cố gắng an ủi mình rằng trong
kiếp quá khứ... Những điều đó là phát minh thủ đoạn
của tâm trí con người: "Trong kiếp quá khứ có thể
mình đã là người Do Thái." Bạn là người Do Thái

ngay bây giờ. Ném trách nhiệm vào các kiếp quá khứ
để giữ cho bạn được nguyên vẹn; thế thì bạn có thể
tiếp tục như bạn đang vậy.

Một ông già Do Thái đề nghị trả cho một gái mãi
dâm thêm hai đô la so với phí cô ta yêu cầu nếu cô ấy
để cả hai tay lên đầu ông ấy trong khi làm tình. Về sau
cô ấy hỏi ông ta ông ấy thu được kích động đặc biệt gì
bởi điều này.
"Chẳng kích động gì cả," ông ấy nói, lấy ra từ túi
một cuộn tiền lớn, "nhưng với hai đồng đô la thêm tôi
biết tay cô ở trên đầu tôi chứ không trong túi tôi!"

Một chuyện khác cho bạn, Suresh:
Nhà kinh doanh Do Thái về hưu gần như bị khánh
kiệt bởi yêu cầu của con mình về tiền để trả cho những
đứa con gái mà chúng đã dụ dỗ và làm mang thai.
Nhưng ông ấy trả tiền để giữ cho danh tiếng gia đình
khỏi bị ô nhục.
Vài ngày sau con gái ông ấy tới ông ấy và thú tội,
"Bố ơi, con có thai."
"Đội ơn Thượng đế, việc kinh doanh được phục
hồi rồi," ông già nói.

Và câu chuyện thứ ba:
Một căn phòng đầy những người Do Thái đang
thảo luận việc kinh doanh nào là lãi nhất. Cuối cùng
một ông già có râu nói, "Chúng ta chấm dứt nói dối lẫn

nhau đi. Việc kinh doanh nhà thổ là lãi nhất: họ được
nó, họ bán nó, họ vẫn được nó."
"Ông nói gì vậy?" một ông già kinh tởm khác kêu
lên.
"Tôi nói gì à? Tôi nói: không tổng phí, không bảo
dưỡng, không kiểm kê - ai có thể trội hơn điều đó? Và
vâng, đó là tất cả việc bán buôn."

Tham là tính Do Thái, và mọi người đều là người
người Do Thái theo nghĩa đó. Và nhớ rằng tham là
phóng chiếu của sợ. Chính vì sợ mà con người trở nên
tham. Người đó sợ tới mức người đó muốn tích luỹ
cho tương lai. Người đó sợ tới mức người đó hi sinh
ngày hôm nay của mình cho ngày mai, và ngày mai
chẳng bao giờ tới. Người tham là người ngu nhất trên
thế giới. "Người ngu" Phật gọi người đó - người ngu
xuất sắc, bởi vì người đó cứ hi sinh hiện tại cho tương
lai không bao giờ tới. Người đó tích luỹ tiền nhưng
người đó không thể dùng được nó; người đó vẫn còn
nghèo.
Người tham chưa bao giờ trở nên giầu. Người đó
có thể có cả thế giới trong tay, nhưng người đó vẫn
còn nghèo. Người đó không thể tận hưởng nó, lòng
tham của người đó không cho phép điều đó. Người đó
vẫn còn keo kiệt. Người đó bao giờ cũng trong sợ cho
tương lai tới mức người đó không thể chia tay với tiền
của mình được. Người đó tích luỹ, tích luỹ, phí hoài cả
đời mình và một ngày nào đó người đó chết. Người đó
là người nghèo trong cả đời mình - với tay trống rỗng
người đó tới, với tay trống rỗng người đó đi. Và toàn

thể cuộc đời của người đó cứ mòn mỏi đi mà chẳng có
ý nghĩa gì .
Đừng cố tự an ủi mình rằng trong kiếp quá khứ
bạn đã là người Do Thái. Nhìn vào bản thể bạn đi! Bạn
là người Do Thái. Và thế thì có một khả năng rằng bạn
sẽ thấy điều đó: "Mình là người Do Thái, mình tham.
Từ đâu mà tham của mình tới?" Đi sâu hơn vào tham,
phân tích tham và bạn sẽ tìm thấy sợ. Và khi bạn thấy
sợ bạn đã đi tới điều rất nền tảng.
Chỉ có hai cách sống cuộc sống: một cách là của
sợ và cách kia là của yêu. Người sống từ sợ trở nên
tham lam, trở nên hung hăng, trở nên bạo hành, trở nên
bản ngã. Và người sống từ yêu là từ không tham tất
yếu, bởi vì yêu biết cách chia sẻ. Yêu tận hưởng chia
sẻ, yêu không biết tới vui vẻ nào lớn hơn chia sẻ. Bất
kì cái gì tình yêu có, tình yêu đều chia sẻ. Và tình yêu
đi tới biết một bí mật lớn lao: rằng bạn càng chia sẻ
nhiều, năng lượng tình yêu càng đạt tới bạn nhiều hơn,
tuôn ra từ cội nguồn không biết, không cạn nào đó -
aes dhammo sanantano.
Bạn càng yêu nhiều, bạn càng có tính cầu nguyện
nhiều. Bạn càng yêu nhiều, Thượng đế càng cho bạn
nhiều, bởi vì bạn đang cho. Bất kì điều gì bạn làm cho
mọi người, Thượng đế làm cho bạn. Nếu bạn keo kiệt,
Thượng đế trở thành keo kiệt với bạn. Nếu bạn chia sẻ,
Thượng đế chia sẻ. Sự tồn tại chỉ là tấm gương, nó
phản xạ khuôn mặt bạn, nó vang vọng bản thể bạn.
Sống qua yêu và bạn sẽ là một Jesus.
Jesus nói: Thượng đế là tình yêu. Sống qua sợ và
bạn là người Do Thái. Bạn có thể là người Do Thái
Hindu hay người Do Thái Mô ha mét giáo hay người

Do Thái Ki tô giáo - không thành vấn đề gì. Tính từ
không thành vấn đề.

**************************************************

#10Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao tôi không hiểu thầy?

Ram Gopal, hiểu là bước thứ hai. Bước thứ nhất là
nghe. Bạn không nghe tôi. Bạn bỏ lỡ bước thứ nhất;
thế thì bước thứ hai không thể được.
Trong khi bạn nghe tôi, cả nghìn lẻ một ý nghĩ
lang thang trong tâm trí bạn. Chúng làm bạn điếc. Lời
tôi chưa bao giờ đạt tới bạn, vẫn còn nguyên, trong sự
thuần khiết của chúng. Chúng bị bóp méo, chúng được
tô mầu bởi các ý nghĩ của bạn, các định kiến của bạn,
bởi các kết luận đã có sẵn của bạn. Bạn nghe tôi qua tri
thức của bạn - đó là lí do tại sao bạn thực sự không
lắng nghe. Và bất kì cái gì đạt tới bạn đều là cái gì đó
hoàn toàn khác với điều đã được truyền đạt. Tôi đang
nói điều này, bạn nghe thấy cái gì đó khác; do đó mới
có hiểu lầm. Đó là lí do tại sao bạn không hiểu tôi;
bằng không, tôi dùng những từ rất đơn giản.
Tôi không dùng bất kì lối nói trí thức nào, tôi dùng
ngôn ngữ thường ngày. Tôi chưa bao giờ dùng những
từ đao to búa lớn - từ ngữ của tôi đơn giản, đơn giản
như chúng có thể vậy. Nếu bạn không hiểu, điều đó
đơn giản nghĩa là bằng cách nào đó bạn điếc bên trong.
Những tiếng la ó lớn của lời và ý nghĩ và kết luận và lí

thuyết và định kiến và tri thức và kinh nghiệm - người
Hindu, người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, người
Do Thái giáo - họ tất cả đều có đó bên trong. Rất khó
cho tôi tìm ra con đường tới bạn. Gần như không thể
nào đạt tới bạn được.
Vấn đề không phải là hiểu biết. Hiểu biết sẽ nở
hoa theo cách riêng của nó nếu bạn có thể làm một
điều: nếu bạn có thể lắng nghe, nếu bạn có thể cho
phép tôi đạt tới bạn, nếu bạn có thể mở trái tim bạn,
nếu bạn không điếc - thế thì hiểu biết nhất định xảy ra.
Chân lí được nghe thấy sẽ được hiểu, nhất định được
hiểu. Hiểu biết không cần nỗ lực khác, nó đơn giản cần
chỗ mở, sự mong manh. Mở cửa sổ với tôi đi, chỉ một
cửa sổ cũng được, và tôi có thể lẻn vào bạn. Chỉ một
cửa sổ cũng đủ. Nếu bạn không thể mở được cửa
trước, đừng lo, cửa sau sẽ có tác dụng. Nhưng mở cánh
cửa nào đó cho tôi, để tôi vào, và thế rồi việc không
hiểu là không thể được, việc hiểu lầm là không thể
được.
Chân lí có sự sáng tỏ tới mức một khi được hiểu,
nó làm biến đổi cuộc sống của bạn. Một khi được
nghe, nó được hiểu. Chân lí có quá trình rất đơn giản:
một khi được nghe, nó được hiểu; một khi được hiểu,
nó biến đổi cuộc sống của bạn. Nếu được nghe đúng
bạn không bao giờ hỏi cách hiểu. Nếu được hiểu đúng
bạn không bao giờ hỏi, "Bây giờ tôi phải làm gì để
biến đổi cuộc sống mình theo nó?" Chân lí biến đổi,
chân lí giải thoát.
Suy ngẫm về giai thoại nhỏ này:

Một người bước vào quán rượu New York và đặt
hai cốc uýtski, một cho mình và một cho người bạn
mình. Người đứng quầy rót ra hai cốc uytski và người
này đổ một chút uytski vào cái đê mà anh ta đặt trên
chiếc đàn piano lớn đã được thu nhỏ hoàn hảo, cái anh
ta lấy ra từ túi xách của mình. Anh ta cũng lấy ra từ túi
xách của mình một người cao quãng ba mươi xăng ti
mét trong bộ quần áo buổi tối, người ngồi trước chiếc
piano và bắt đầu chơi "Bản xô nát Ánh trăng."
Người bán quán hoài nghi và hỏi gặng để biết
người nhỏ bé này từ đâu tới. Người này giải thích,
"Tôi vừa lướt qua hiệu tạp hoá thì tôi thấy một chiếc
đèn dầu cổ. Tôi cọ nó một chút bằng ống tay áo của
mình để kiểm tra nó có tốt hơn thì có một chớp loá và
một thần xuất hiện nói ông ấy là nô lệ của chiếc đèn và
bất kì ước muốn nào của tôi cũng là nhiệm vụ mà ông
ấy phải hoàn thành. Thế là tôi bảo ông ấy tôi muốn
chim dài ba mươi xăng ti mét, và đây là điều đồ chó đẻ
điếc đã cho tôi!"

Ông ấy nghe thành "người chơi piano1"

[Nguyên văn là pennis và pianist: chim và người chơi piano]

và bỏ lỡ
toàn bộ vấn đề.
Bạn cứ nghe điều bạn có thể nghe. Bạn cứ nghe
những điều không được nói ra chút nào. Và thế rồi bạn
diễn giải chúng và mọi cách diễn giải đều là diễn giải
sai. Và bất kì điều gì bạn sẽ làm đều sẽ cho cảm giác
thất vọng, bởi vì diễn giải sai của bạn không thể đem
bạn tới chân lí được. Chân lí là giao cảm.
Phật nói: tìm ra bạn, tìm ra thầy và trong giao cảm
với thầy. Giao cảm là gì? Giao cảm nghĩa là rút bỏ mọi

điều kiện, rút bỏ mọi định kiến, trở thành hồn nhiên
với ai đó đã đạt tới, trở thành đứa trẻ trước người đã
trở nên thức tỉnh. Lắng nghe như đứa trẻ nhỏ: tỉnh táo,
tràn đầy kính nể, ngạc nhiên, và trái tim bạn sẽ lập tức
được xuyên thấu. Tôi sẽ đạt tới bạn như mũi tên.
Vâng, sẽ có chút ít đau nữa, nhưng rất dịu dàng...
dịu dàng tới mức bạn chưa bao giờ biết tới cái gì dịu
dàng hơn thế. Vâng, khi lần đầu tiên chân lí thấm
nhuần vào trái tim bạn như mũi tên, nó giết chết bạn -
nó giết chết bạn như một bản ngã. Đó là việc đóng
đinh, nhưng ngay lập tức có phục sinh. Một mặt bạn
chết đi như bạn đã từng như vậy từ trước cho tới giờ,
mặt khác bạn được sinh ra lần nữa. Bạn trở thành
người được sinh ra hai lần, dwij; bạn trở thành
brahmin, bạn trở thành người biết.
Nhưng việc biết cần chuyện tình lớn lao giữa đệ tử
và thầy. Việc biết là có thể chỉ khi chuyện tình là toàn
bộ, khi cam kết là toàn bộ, khi tham dự là toàn bộ. Nếu
bạn lắng nghe chỉ như khán giả, bạn sẽ cứ bỏ lỡ. Nếu
bạn lắng nghe chỉ từ tò mò, bạn sẽ cứ bỏ lỡ. Nếu bạn
lắng nghe với mọi ý tưởng và triết lí của bạn, bạn sẽ
nghe thấy cái gì đó khác chưa từng được nói ra.
Vấn đề không phải là hiểu lời tôi, vấn đề là hiểu sự
hiện diện của tôi. Chỉ đệ tử mới được ân huệ.
Ram Gopal, bạn chưa là đệ tử. Bạn đang tò mò.
Bạn đã tới để xem cái gì đang xảy ra. Bạn chưa cam
kết. Bạn nghe tôi, nhưng bạn giữ khoảng cách, để cho
nếu mọi sự trở thành quá nhiều bạn có thể trốn đi dễ
dàng. Bạn vẫn còn ở ngoại vi, bạn chưa đi vào trong
vòng tròn.

Vào vòng đi - tôi cho bạn lời mời đấy. Trở thành
khách của tôi đi, để tôi là chủ của bạn. Uống tôi và bạn
sẽ bị chìm ngập, và bạn sẽ được biến đổi. Đó là lời
hứa.
Đủ cho hôm nay.

END

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro