Con đường của Phật (Tập 11)
OSHO
Dhammapada: Con đường của Phật
Đây là con đường đi tới chân lí tối thượng
The Dhammapada: The Way of the Buddha
This is the Path to the Ultimate Truth
Tập 11
Mục lục
Chương 1 Giữ mồm miệng
Chương 2 Vào đúng khoảnh khắc
Chương 3 Con đường yên tĩnh tới nước hạnh
phúc
Chương 4 Tôi lại bỏ lỡ!
Chương 5 Được tự do dịu ngọt làm sao
Chương 6 Vươn lên trong tình yêu
Chương 7 Bên kia cõi bên kia
Chương 8 Tiếng cười: tình yêu, vui vẻ, biết ơn
Chương 9 Tai hại làm sao!
Chương 10 Cười con đường của bạn tới Thượng đế
Về Osho
Bài nói ngẫu hứng cho các đệ tử và bạn bè của Osho tại Thính phòng Phật Gautam Poona, Ấn Độ
**************************************************************************************************************
#1Giữ mồm miệng
Giữ mồm miệng.
Không tự đề cao mình
Nhưng làm sáng lên đạo
vì lời của ông là dịu ngọt.
Theo chân lí của đạo.
Phản ánh lên nó.
Làm nó thành của ông.
Sống nó.
Nó bao giờ cũng nâng đỡ ông.
Đừng ngoảnh mặt đi với điều được cho ông,
không với lấy điều được cho người khác,
Sợ rằng ông quấy rối yên tĩnh của người khác.
Nói lời cám ơn
với điều đã được trao cho ông,
Dù nó nhỏ thế nào.
Thuần khiết, đừng bao giờ nao núng.
Cuộc sống đầy những điều phức tạp. Ngay cả khi
chúng ta được sinh ra cũng có sợi dây được gắn vào.
Điều phức tạp nhất, cội nguồn của mọi phức tạp là vô
nhận biết, vô ý thức. Chúng ta bị hội tụ vào thế giới
khách quan và chúng ta hoàn toàn không nhận biết
chúng ta là ai.
Toàn thể thông điệp của Phật Gautama là quay
vào trong. Thông điệp này là đơn giản, nhưng thực
hiện lại gian truân. Nó gian truân bởi vì nhiều, nhiều
kiếp chúng ta đã sống ở bên ngoài, chúng ta đã sống
cuộc sống của người hướng ngoại. Chúng ta hoàn
toàn quên mất cách quan hệ với bản thể riêng của
mình, cách hiện hữu với bản thân chúng ta. Chúng ta
đã quên mất con đường, ngôn ngữ, phương pháp.
Không chỉ thế, chúng ta đã hoàn toàn quên lãng rằng
có lãnh thổ cho chúng ta. Chúng ta nghĩ dường như
chúng ta chỉ có bên ngoài. Bây giờ điều đó là ngu
xuẩn. Cái bên ngoài chỉ có thể tồn tại với cái bên
trong; không có bên trong, bên ngoài là không thể có
được. Nếu chúng ta có thể nhìn ra ngoài, chúng ta
cũng có thể nhìn vào trong. Thực tế, nhìn vào trong là
dễ hơn bởi vì chính tại đó chúng ta được bắt rễ.
Nhưng chẳng bao giờ nhìn vào trong, chúng ta cứ
xô vào trong mọi hướng, làm đủ mọi thứ, chẳng biết
tại sao, chỉ bởi vì người khác đang làm chúng. Chúng
ta bắt chước, theo sau. Chúng ta trở thành bản sao. Đó
là điêu xấu nhất trong cuộc sống: là bản sao. Con
người không bao giờ có thể phúc lạc chừng nào người
đó không nguyên bản, chừng nào người đó không biết
khuôn mặt nguyên thuỷ của mình.
Tôi đã nghe một câu chuyện rất hay. Nó có thể
đúng, nó có thể không đúng. Tính thực của nó không
mang nghĩa lịch sử, nhưng điều có ý nghĩa quan trọng
hơn nhiều, nó mang tính biểu dụ.
Câu chuyện là: Alexander Đại đế đang trên đường
tới Ấn Độ. Ông ấy gặp một fakir - nhà sư khổ hạnh,
đang ngồi bên đường với một vật tròn, nhỏ, như con
mắt trong tay.
"Cái gì đó?" Alexander hỏi.
"Tôi sẽ không nói cho ông đâu," fakir nói, "nhưng
tôi sẽ cá với ông rằng nó nặng hơn tất cả vàng, bạc và
châu báu của ông."
Alexander ra lệnh đem một cái cân khổng lồ tới
cùng với tất cả kho báu của ông ấy. Một bên cân ông
ấy chồng tất cả kho báu lên; ông fakir để vật hình mắt
tròn nhỏ lên đĩa cân kia và, trông lạ chưa kìa! nó nặng
hơn. Nó đi xuống và kho báu bao la bị nhấc lên không
trung. Alexander sững sờ.
Thế rồi ông fakir nói, "Tôi sẽ chỉ cho ông xem
một điều nữa." Ông ấy lấy ít bụi và rải lên con mắt.
Nó lập tức trở nên nhẹ, nâng bổng lên trong không
trung; còn kho báu đi xuống.
Alexander không thể kìm được ngạc nhiên thêm
nữa và hỏi ông fakir, "Thưa ông, ông phải nói cho ta
biết. Vật này là cái gì vậy?"
Ông fakir nói, "Nó chẳng là cái gì đặc biệt cả. Nó
chỉ là mắt người."
Con người có khả năng nhìn bản thân mình nữa,
nhưng năng lực đó bị phủ đầy bụi. Chúng ta có con
mắt bên trong nữa - con mắt thứ ba - nhưng con mắt
đó không hoạt động, và chúng ta đã không dùng nó
lâu tới mức nó đã mất hoàn toàn chức năng; nó đã trở
thành phần tê liệt trong con người chúng ta.
Bây giờ ngay cả các nhà sinh lí học cũng đã phát
hiện ra một phần nào đó trong não người mà dường
như tuyệt đối thừa. Họ phân vân bởi vì tự nhiên
không bao giờ tạo ra cái gì thừa. Nó phải có mục đích
nào đó, nhưng dường như nó chẳng có mục đích gì.
Nó có thể bị bỏ đi và điều đó sẽ không ảnh hưởng tới
bạn chút nào.
Nhưng tất cả các nhà huyền môn trong nhiều thời
đại đều đã nói cùng một điều - tất nhiên, không theo
thuật ngữ khoa học; họ có cách riêng của mình để nói
điều đó. Họ gọi nó là con mắt thứ ba. Một phần nào
đó của tâm trí bạn có khả năng vận hành theo cách chỉ
hướng nội. Thiền tạo ra bầu không khí đúng, bầu khí
hậu đúng cho nó vận hành.
Thiền đơn giản nghĩa là loại bỏ đi cát bụi mà ông
fakir kia đã ném vào con mắt này. Và cát bụi không là
gì ngoài toàn thể quá trình tâm trí các ý nghĩ, ham
muốn, tưởng tượng, ghi nhớ. Nếu bạn trở nên có khả
năng về vài khoảng hở, lỗ hổng, khi mọi quá trình ý
nghĩ dừng lại... bỗng nhiên bạn hiện hữu và không có
gì để nhìn ở bên trong. Thế thì chỗ rẽ xảy ra; thế thì
lập tức có thay đổi triệt để trong tầm nhìn của bạn,
thay đổi động thái của bạn. Thế giới bên ngoài biến
mất và thế giới bên trong xuất hiện.
Chính bởi vì điều này mà các nhà huyền môn nói
rằng thế giới bên ngoài là ảo tưởng. Không phải là nó
không tồn tại; nó tồn tại đấy, nhưng nó là ảo tưởng
bởi vì nhà huyền môn biết một trạng thái nào đó của
tâm thức khi nó đơn giản bay hơi, nó không được tìm
thấy ở đâu cả. Bạn đi vào trong một chiều hướng hoàn
toàn khác: chiều hướng của phúc lạc, chiều hướng của
an bình, chiều hướng của Phật, Christ, Krishna.
Những lời kinh này rất đặc biệt. Toàn thể loạt
kinh này... đây là loạt cuối cùng các kinh của Phật.
Mãi cho tới giờ ông ấy đã nói cho các đệ tử, người đã
sẵn sàng. Bây giờ phần cuối cùng của lời kinh của
ông ấy được ngụ ý dành cho bồ tát, cho những người
đã trở nên sẵn sàng, cho những người đã kinh nghiệm
cái gì đó của bên trong. Nó không dành cho người
mới điểm đạo, nó không dành cho người tinh thông
lão luyện. Do đó phần cuối này là phần quan trọng
nhất.
Phật nói có hai loại người chứng ngộ trên thế giới;
ông ấy rất khoa học về cách tiếp cận này. Phân loại
của ông ấy là rất có ý nghĩa; không ai đã làm điều đó
trước đây hay kể từ đó. Ông ấy nói loại người chứng
ngộ thứ nhất được gọi là a la hán. A la hán là nhà
huyền môn; ông ấy đã biết, ông ấy đã nhận ra, nhưng
ông ấy hoàn toàn không quan tâm tới người khác.
Ông ấy đã tìm ra con đường. Ông ấy đã đạt tới nhà
của mình và ông ấy không quan tâm tới người khác,
người đang tìm và kiếm, bởi vì hiểu biết của ông ấy là
ở chỗ nếu họ tìm và kiếm một cách đích thực họ sẽ tự
mình tìm ra con đường. Và nếu họ không phải là
người tìm kiếm thực, không ai có thể làm cho họ
thành người tìm kiếm thực được; do đó chẳng cần tới
giúp đỡ. A la hán không giúp thêm nữa. Ông ấy đã du
hành một mình và ông ấy biết mọi người đều phải du
hành một mình.
Khi bản thân Phật trở nên chứng ngộ, ý tưởng đầu
tiên của ông ấy là trở thành a la hán. Trong bẩy ngày
ông ấy vẫn còn tuyệt đối im lặng, không nói lấy một
lời.
Câu chuyện là: Các thần trên trời xuống. Họ rất lo
nghĩ bởi vì thỉnh thoảng mới có một người được thức
tỉnh, và nếu người đó vẫn còm im lặng tuyệt đối thì
thế giới sẽ bỏ lỡ thông điệp của người đó. Và thông
điệp của ông ấy là dành cho những người đang chết;
thông điệp của ông ấy là đồ nuôi dưỡng cho những
người bị đói về chân lí. Thông điệp của ông ấy có thể
là con thuyền sang bờ bên kia. Thông điệp của ông ấy
phải được chuyển giao, ông ấy phải được thuyết phục.
Họ đã tới, và họ biện minh.
Nhưng Phật nói, "Các ông phải đồng ý với ta là
không ai đã có thể giúp ta được - tất nhiên, ta đã gõ
nhiều cánh cửa - bởi vì nó là cái gì đó không thể
truyền trao được. Cho dù họ có nó họ cũng không thể
trao nó cho ta được; ta phải tìm nó bằng nỗ lực của
riêng ta. Do đó ta nghĩ đó là cách duy nhất: mọi người
phải tìm và kiếm; nó không thể được vay mượn."
Ông ấy đúng và các thần phải đồng ý. Và ông ấy
nói, "Cho dù ta nói điều đó, chỉ một trong mười nghìn
người mới hiểu. Những người còn lại sẽ không hiểu;
ngược lại, họ sẽ hiểu lầm. Cho nên tại sao tạo ra nhiều
hiểu lầm thế trên thế giới làm gì? Thế giới này đã lẫn
lộn rồi - sao tạo ra thêm lẫn lộn nữa? Vì từ bi mà ta
mới im lặng. Và người sẽ hiểu bản thân người đó sẽ
tìm thấy nó bằng cách nào đó. Người có thể hiểu điều
ta nói còn thông minh tới mức thực sự người đó
không cần giúp đỡ. Cho nên phỏng có ích gì? Sao ta
phải bận tâm?"
Các thần bị làm cho im lặng. Họ đi vào rừng để
cân nhắc lại vấn đề. "Làm sao thuyết phục được Phật?
Ông ấy dường như đúng, ông ấy logic, nhưng phải
tìm ra cách nào đó chứ." Cũng tốt là họ đã có thể tìm
ra cách nào đó, bằng không chúng ta đã lỡ
Dhammapada; những lời kinh tuyệt vời này chắc đã
bị bỏ lỡ. Thế giới chắc đã nghèo hơn nhiều. Toàn thể
công trạng được ghi cho các vị thần vô danh này,
những người đã thuyết phục Phật!
Họ đắn đo về vấn đề này trong nhiều giờ; họ tìm
ra cách. Họ quay lại và họ nói, "Chúng tôi đồng ý với
thầy, nhưng chỉ một điều chúng tôi không thể đồng ý
được. Và điểm đó là ở chỗ chúng tôi hiểu rằng duy
nhất một người sẽ hiểu trong số mười nghìn người,
cho nên thầy không cần bận tâm về người đó; người
đó tự bản thân mình chẳng chóng thì chầy sẽ tìm thấy.
Vấn đề chỉ là thời gian, và thời gian không thành vấn
đề bởi vì sự tồn tại là vĩnh hằng. Cho nên có thành
vấn đề gì, làm sao lại thành vấn đề, dù người này đạt
tới hôm nay và ai đó đạt tới ngày mai hay ngày kia?
Tất cả những người đã trở nên thức tỉnh đều đương
đại; điều đó chẳng tạo ra gì mấy khác biệt chút nào."
Đó là lí do tại sao tôi nói tôi là người đương đại
với Phật, người đương đại với Jesus, người đương đại
với Zarathustra, người đương đại với Lão Tử. Một khi
bạn biết, bạn trở nên đương đại với tất cả mọi người
biết. Mọi lỗ hổng thời gian nhỏ bé đơn giản biến mất,
chúng tí hon thế. Hai mươi nhăm thế kỉ cũng chẳng
tạo ra khát biệt chút nào.
Đó là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta đã
không bận tâm về thời gian. Không ai biết khi nào
Krishna được sinh ra. Chúng ta cũng có thể đã tạo ra
lịch nhân danh Krishna - trước Krishna, sau Krishna -
chúng ta có thể đã tạo ra lịch sử. Và Krishna chắc
chắn đi trước Jesus ít nhất ba nghìn năm, cho nên lịch
của ông ấy chắc đã năm nghìn năm so với bây giờ.
Nhưng chúng ta chưa bao giờ bận tâm về điều đó.
Không ai biết khi nào người sáng lập ra Jaina giáo,
Adinatha, được sinh ra hay khi nào ông ấy chết. Ông
ấy phải trước ngay cả Krishna ít nhất năm nghìn năm.
Nếu chúng ta có lịch thì, lịch của ông ấy đến bây giờ
ít nhất cũng đã mười nghìn năm tuổi. Tôi đang nói "ít
nhất," bởi vì người Jaina nói rằng ông ấy còn cổ hơn.
Theo họ ông ấy cổ đại gần chín mươi nghìn năm; điều
đó là có thể.
Nhưng chúng ta đã không tạo ra lịch sử, chúng ta
đã không viết lịch sử, với lí do đơn giản là những
người đáng viết tới thì đi trước thời đại; với họ thời
gian trở thành không liên quan. Và những người
không đáng viết tới, chỉ họ mới làm om sòm trong thế
giới thời gian. Genghis Khan, Tamerlane, Adolf
Hitler, Joseph Stalin, Ayatollah Khomeiniac, những
người này làm nhiều ồn ào trong thế giới thời gian.
Một Buddha, một Krishna, một Jesus, một Zarathustra
đơn giản không để lại dấu vết trong thời gian; họ biến
mất không để lại dấu vết gì, cứ dường như họ không
phải là một phần của lịch sử, hay họ là một phần của
một loại lịch sử hoàn toàn khác mà không có tính thời
gian.
Các thần biện minh với Phật. Họ nói, "Chúng tôi
đồng ý rằng một người: người đó sẽ tìm thấy nó dù
thầy có nói cho người đó hay không, người đó thông
minh thế; nếu người đó có thể hiểu được thầy ngay
lập tức, thế thì người đó sẽ tự mình tìm ra nó. Và
chúng tôi cũng đồng ý về những người khác, hàng
nghìn người sẽ không hiểu thầy chút nào; ngược lại
họ sẽ hiểu lầm thầy. Nhưng họ đã hiểu lầm rồi, hiểu
lầm nào hơn nữa còn có thể có đó được? Cho nên
thầy không cần lo nghĩ về điểm đó. Họ đã trong lẫn
lộn rồi, thầy không thể làm họ lẫn lộn thêm nữa
được."
Và đây là kinh nghiệm của tôi nữa: dù tôi có cố
gắng đến đâu tôi vẫn không thể làm lẫn lộn bạn thêm
được! Bạn đã chạm tới đáy tảng đá rồi; không có gì
dưới nó, bạn không thể đi sâu hơn vào trong đó được.
Bạn hoàn toàn an toàn.
Cho nên các thần nói, "Thầy không thể làm lẫn
lộn họ thêm được nữa. Họ đủ tài làm lẫn lộn mình rồi,
họ đã làm điều đó tới mức tối đa. Cho nên về điều đó
chúng tôi không đồng ý.
"Và một điều nữa: có thể có một hay hai người
trong số cả nghìn người đó, người ở giữa hai loại
người này - người có thể hiểu thầy và cả triệu người
không thể hiểu được thầy và nhất định hiểu lầm thầy.
Giữa hai loại người này thầy nghĩ xem," họ nói với
Phật, "không có khả năng của vài người, một hay hai
hay ba gì đó sao - vâng, họ sẽ rất ít, họ có thể được
đếm trên đầu ngón tay - người có thể ở chính giữa,
không bị lẫn lộn tới mức họ không thể được giúp chút
nào mà lại cũng không sáng tỏ tới mức họ có thể tìm
ra con đường của mình theo cách của mình? Nói với
họ đi, họ sẽ được thầy giúp đỡ đấy."
Và Phật phải đồng ý; đó không phải là biện luận
chỉ vì biện luận; ông ấy đã thấy chân lí của điều đó.
Ông ấy nói, "Ta phải đồng ý với các ông. Đúng, có
vài người đích xác ở giữa, trên đường biên. Nếu ta
không nói gì cho họ, họ có thể bị lạc trong đám đông;
nếu sự giúp đỡ nào đó được trao cho họ, một bàn tay
nhỏ, họ có thể được kéo ra khỏi vũng bùn của mình.
Ta sẽ nói cho họ."
Ông ấy sắp sửa là một a la hán. A la hán nghĩa là
người đã đạt tới nhưng không quan tâm tới người
khác, gần như lạnh lùng, không chăm sóc chút nào.
Ông ấy trở thành bồ tát; đó là phân loại thứ hai.
Bồ tát nghĩa là người không chỉ là nhà huyền môn
mà còn là thầy, người đã không chỉ biết tới bản thân
mình, mà còn cố làm cho điều đó được người khác
biết tới. Tất nhiên, công việc của Bồ tát khó khăn hơn
nhiều; a la hán ở vị trí tốt hơn. Bồ tát phải vật lộn với
đủ mọi loại không lành mạnh - người điên, người chia
chẻ, người tinh thần phân liệt, người thần kinh, người
tâm thần. Nhân loại đầy những người này. Bồ tát phải
đi vào trong đám đông, vào trong bùn nơi bạn đang ở,
bởi vì đó là cách duy nhất để giúp bạn thoát ra. Chừng
nào ông ấy còn chưa đi vào trong số các bạn, chừng
nào ông ấy còn chưa sống với bạn, chừng nào ông ấy
còn chưa có quan hệ với bạn, chưa trao đổi với bạn,
theo cả nghìn lẻ một cách dụ dỗ bạn, tạo ra niềm khao
khát chân lí trong bạn, ông ấy không thể giúp bạn
được. Và những điều này không phải là điều dễ dàng.
Mọi người không quan tâm tới chân lí chút nào.
Họ quan tâm tới tiền bạc, họ quan tâm tới quyền lực,
tới danh vọng. Họ không quan tâm tới việc được giải
thoát, họ không muốn lành mạnh. Họ bảo vệ cái
không lành mạnh của mình theo đủ mọi cách bởi vì
họ đã đầu tư nhiều thế vào cái không lành mạnh của
họ. Nó là cái không lành mạnh của họ và họ rất tự hào
về nó.
Bạn không tự hào là người Ki tô giáo, là người
Hindu, là người Mô ha mét giáo sao? Bạn không tự
hào là người Đức hay người Anh hay người Ấn Độ
sao? Bạn tự hào về tất cả những cái không lành mạnh
này. Những phân chia này đã mang tính phá huỷ.
Những phân chia này đã chứng tỏ là tai ương cho
nhân loại. Chúng đã là thảm hoạ, nhưng bạn rất tự
hào. Mọi người đều dường như tự hào.
Tôi đã nghe:
Một người Anh nói với một người Italia. Và
người Anh hỏi người Italia, "Nếu ông được cho chọn
lựa quốc tịch trước khi sinh, ông sẽ chọn quốc tịch
nào?"
Người kia nói, "Tất nhiên tôi sẽ là người Anh!"
Và người Anh hỏi, "Ông cảm thấy thế nào?"
Người kia nói, "Tôi sẽ cảm thấy rất tự hào!"
Những ngày đó là của chiến tranh thế giới thứ hai
và người Italia và người Đức bị thất bại. Họ bị mất
danh giá và quyền lực, họ bị kết án trên khắp thế giới.
Người Italia hỏi người Anh, "Nếu ông mà không
được sinh ra là người Anh, ông sẽ cảm thấy thế nào?"
Và người Anh nói, "Tôi sẽ cảm thấy xấu hổ."
Đó là lí do tại sao người Anh dường như là người
thần kinh nhất trong mọi người - rất bị ám ảnh bởi là
người Anh, cứ dường như nó là cái gì đó rất lớn lao.
Cùng điều đó là trường hợp với người Ấn Độ; họ
cũng chịu cùng bệnh kinh niên này. Họ cảm thấy rất
tự hào là người Ấn Độ. Họ không nghĩ rằng bất kì ai
khác trên thế giới là người thực; tất cả đều ở dưới hơn
chút ít. Nhưng đó là cách mọi người nghĩ sâu bên
dưới.
Khi lần đầu tiên người châu Âu tới Trung Quốc,
họ đã viết trong nhật kí của họ rằng họ không thể tin
được người Trung Quốc là người. Đương đầu với
giống nòi khác lần đầu tiên phải rất khó chấp nhận
những người đó là người. Thế còn với người Trung
Quốc thì sao? Sử sách của họ nói rằng nhìn người
phương Tây họ rất phân vân - họ chưa bao giờ nghĩ
rằng khỉ có thể nói như con người!
Mọi người đều cố gắng bảo vệ cái không lành
mạnh của mình; do đó đấy là công việc khó khăn.
"Tâm thần học có nhiều thứ vô giá trị," một người
nói với người khác.
"Ồ?" bạn đồng hành của anh ta nói. "Sao anh nói
điều đó?"
"Thế này, hôm nay nhà tâm thần bảo tôi rằng tôi
đang yêu cái ô của tôi. Anh đã bao giờ nghe điều gì
ngu xuẩn thế không?"
"Điều đó có vẻ dớ dẩn thật."
"Tôi ngụ ý, tôi và cái ô của tôi có quí mến chân
thành với nhau. Nhưng yêu sao? Điều đó thật nực
cười!"
Quí mến thì được: "... Quí mến nào đó giữa tôi và
chiếc ô của tôi, điều đó là được, nhưng yêu sao? Điều
đó thật nực cười!"
Quan sát bản thân bạn, sự vận hành của tâm trí
bạn, cách bạn cứ bảo vệ bản thân mình. Và bạn là gì?
Chẳng là gì ngoài một chùm những không lành mạnh!
Những lời kinh này dành cho Bồ tát, cho những
người đang làm việc với đám đông, với người không
lành mạnh. Đây là gợi ý cho họ. Cố hiểu từng lời kinh
một sâu nhất có thể được.
Giữ mồm miệng.
Phật nói: Nói, nhưng chỉ nói khi điều đó tuyệt đối
cần thiết. Nói, nhưng chỉ nó cho những người sẵn
sàng lắng nghe. Đừng cứ nói cho từng và mọi người;
điều đó là cực kì phí phạm. Chỉ nói cho các đệ tử bởi
vì chỉ đệ tử mới sẵn sàng mạo hiểm. Biến đổi bản
thân bạn là thực sự mạo hiểm. Nó là mạo hiểm đương
đầu với bản thân mình, biết bản thân mình. Nó là mạo
hiểm bởi vì bằng việc biết bản thân mình tất cả các dự
án cũ của bạn sẽ sụp đổ thành cát bụi, và toàn thể
cuộc sống của bạn mà bạn đã để ra làm việc cho
chúng sẽ khô kiệt. Bạn sẽ phải bắt đầu từ ABC, mới
toanh.
Chừng nào bạn còn chưa rất dũng cảm, bạn không
thể làm nỗ lực để biết bản thân mình được. Vâng, bạn
muốn biết về bản thân mình; điều đó là rẻ. Việc biết
là rẻ bởi vì nó chỉ là thông tin, nó không phải là biến
đổi. Nhưng biết bản thân mình là biến đổi; nó gây
đau, nó cắt xé bạn. Nó phải cắt đi nhiều chùm trong
con người bạn, những thứ không cần thiết, những thứ
chỉ là điều trở ngại cho bạn, những cái chỉ là trọng
lượng không cần thiết và rào chắn trưởng thành của
bạn. Và nó gây đau bởi vì nó đi ngược lại ý tưởng của
bản thân bạn, hình ảnh về bản thân bạn.
Do đó Phật nói: Nói, nhưng tỉnh táo - chỉ nói cho
những người sẵn sàng lắng nghe. Chỉ nói cho những
người được buông xuôi để lắng nghe. Bằng không:
Giữ mồm miệng.
Phật được đủ loại người hỏi hàng nghìn câu hỏi;
ông ấy hiếm khi trả lời. Ông ấy chỉ trả lời khi đệ tử
hỏi.
Điều này xảy ra ở đây mọi ngày. Nhiều người hỏi
các câu hỏi, những người với mới tới được một hôm -
khách thăm, khách du lịch và lập tức họ hỏi những
câu hỏi lớn lao. Tôi chưa bao giờ trả lời các câu hỏi
của họ; họ cảm thấy bị xúc phạm. Họ viết những bức
thư giận dữ: "Sao thầy không trả lời câu hỏi của tôi?"
Tôi không thể trả lời được câu hỏi của bạn chừng nào
bạn còn chưa sẵn sàng nghe, chừng nào bạn còn chưa
là đệ tử.
Đệ tử nghĩa là người sẵn sàng học. Nếu câu hỏi
của bạn tới từ tri thức của bạn, tôi không định trả lời
nó đâu; nếu nó tới từ sự hồn nhiên của bạn, chắc chắn
tôi ở đây để trả lời nó. Nếu bạn chỉ hỏi để được xác
nhận rằng bất kì cái gì bạn nghĩ cũng là đúng, tôi sẽ
không trả lời bởi vì tôi không ở đây để xác nhận mọi
loại ý thức hệ ngu xuẩn.
Ai đó tin vào vật thể lạ bay UFO và cứ hỏi, "Thầy
nghĩ gì về vật thể lạ bay UFO?" Sao tôi phải nghĩ?
Tôi không nghĩ chút nào!
Mới vài ngày trước ai đó đã ở đây, người hỏi về lí
thuyết trái đất hổng. Tôi cười câu hỏi của anh ta, tôi
đùa về câu hỏi của anh ta. Nhưng mọi người bị bao
bọc trong tri thức của họ thế. Quay về Mĩ anh ta đã
viết thư cám ơn tôi, "Bất kì điều gì thầy nói, tôi biết
thầy tin vào lí thuyết trái đất hổng." Làm sao anh ta
biết rằng tôi tin vào lí thuyết trái đất hổng? Anh ta nêu
lí do rằng với người đã chứng ngộ thì không thể nào
không tin được. Bây giờ nếu tôi là người đã chứng
ngộ thì tôi phải tin vào lí thuyết trái đất hổng. Phật
chưa bao giờ nghe nói về điều đó và ông ấy đã chứng
ngộ; Jesus chưa bao giờ biết về nó và ông ấy đã
chứng ngộ. Nhưng người này viết lá thư đang nói,
"Thầy có thể đùa, thầy có thể cười vào điều đó, bởi vì
thầy không muốn nói điều gì về nó. Có thể có lí do
nào đó tại sao thầy không muốn nói nó, nhưng tôi
truyệt đối chắc chắn thầy biết nó là vậy."
Cho dù bạn phủ nhận nó, cho dù bạn cười và đùa,
những người bị thuyết phục về ý tưởng nào đó, dù
chúng là bất kì cái gì, dù chúng không lành mạnh, ngớ
ngẩn, đều sẽ tìm ra cách thức và phương tiện để kiếm
hỗ trợ cho nó. Nếu bạn không trả lời họ sẽ nghĩ bạn
không trả lời vì người khác, những người thường, sẽ
không hiểu nó; nó là vấn đề tinh tế tới mức chỉ rất ít
người mới có thể hiểu được nó.
Bây giờ một người đàn bà đã hỏi, "Thưa Thầy
kính yêu, thầy nói gì đây? Tôi cảm thấy tôi đã trở nên
chứng ngộ." Tôi chưa bao giờ hỏi bất kì ai. Sao bạn
phải hỏi tôi? Nếu bạn chứng ngộ, rất tốt! Mất hút đi!
Bạn đang làm gì ở đây? Bây giờ trở thành Bồ tát và đi
giúp đỡ người khác trở nên chứng ngộ đi. Đi tới
California đi bởi vì ở đó bạn sẽ thấy nhiều người
chứng ngộ thế, và tất cả đều xác nhận cho nhau!
Phật nói: Điều đầu tiên cần nhớ khi ông đi vào
trong quần chúng là giữ mồm miệng.
Một lần ông ấy được thuyết phục về sự kiện là
mọi người đang cần sự giúp đỡ lớn lao, ông ấy nhấn
mạnh cả đời mình rằng chừng nào bạn còn chưa tìm
thấy điều tuyệt đối mâu thuẫn với bản tính bên trong
nhất của bạn, hãy trở thành Bồ tát. Nhưng có vài
người mà với họ điều đó có thể ngược lại với bản tính
bên trong của họ; thế thì họ phải vẫn còn là a la hán.
Đừng ép buộc họ. Nhớ lấy: mọi người cần giúp đỡ.
Nếu bạn có thể có ích gì, làm bất kì cái gì bạn có thể
làm, nhưng nếu bạn không thể, nếu điều đó cho cảm
giác đơn giản là cái gì đó ngược lại bản tính cố hữu
của bạn, tiếng nói bên trong của bạn, thì quên hết về
nó đi.
A la hán cũng giúp theo cách riêng của ông ấy;
không có việc giúp nhưng ông ấy vẫn giúp - bởi sự
hiện diện của ông ấy. Ông ấy vẫn còn trong im lặng
của mình, ông ấy sống cuộc sống bình thường của
mình không nói với ai điều gì cả, không biểu lộ kinh
nghiệm của mình, không diễn đạt niềm vui của mình.
Ông ấy sống một cách vui vẻ, nhưng ông ấy không
làm nỗ lực có chủ định nào để trao đổi. Dầu vậy, vài
linh hồn nhạy cảm sẽ bị hấp dẫn tới ông ấy. Họ sẽ bắt
đầu theo ông ấy một cách im lặng, họ sẽ ngồi bên
cạnh ông ấy. Ông ấy sẽ không nói cái gì cả; họ sẽ
nghe im lặng của ông ấy. Nếu ông ấy đã đạt tới, có
hào quanh quanh ông ấy; họ sẽ được nuôi dưỡng bằng
hào quang này. Nếu ông ấy đã tìm thấy nhà mình, sẽ
có an bình toả ra mà bạn sẽ được tắm trong nó, bạn sẽ
được ân huệ ở cùng với ông ấy. Ông ấy sẽ có khả
năng giúp đỡ bạn chỉ theo cách gián tiếp.
Một dân thành thị hào hoa, nóng nảy và bận rộn
trong chiếc xe hơi lớn bị lạc vô vọng trong mê cung
các đường làng quê. Nhận ra một người địa phương
đang ngồi ở cổng, nhai cọng rơm, ông ta dừng xe đối
diện và kêu to, "Ông ơi, ông bạn tốt ơi, ông có thể cho
tôi biết con đường này đi tới đâu không?"
"Không," là lời đáp.
"Ông có thể cho tôi biết con đường kia dẫn tới
đâu không, đường rẽ sang trái đó?"
"Không."
Bắt đầu bị hơi chút bực dọc quí ông thành thị gào
lên, "Này, con đường kia rẽ sang phải đi tới đâu?"
"Không biết," là lời đáp.
"Ông phải là loại người ngốc nào đó!" quí ông
thất vọng gào lên.
"Có thể," người bình thản này nói, "nhưng ít nhất
tôi biết tôi đang ở đâu."
Đây là cách thức của a la hán: ông ấy biết nơi ông
ấy đang ở. Ông ấy sẽ không nói gì về bất kì con
đường nào, bất kì cái gì về bất kì con đường nào,
nhưng ông ấy biết nơi ông ấy ở và ông ấy hoàn toàn
mãn nguyện với điều đó. Bạn có thể ngồi bên cạnh
ông ấy, bạn có thể được nuôi dưỡng bởi sự hiện diện
của ông ấy, nhưng ông ấy sẽ không làm nỗ lực trực
tiếp nào. Một cách gián tiếp... nếu bạn có thể uống sự
hiện diện của ông ấy, bạn được đón chào, nhưng ông
ấy sẽ không gọi bạn tới, ông ấy sẽ không tìm và kiếm
bạn.
Phật nói: Phần lớn điều xảy ra là năm mươi phần
trăm người chứng ngộ là a la hán và năm mươi phần
trăm là Bồ tát. Đó là cách tự nhiên giữ cân bằng trên
mọi bình diện. Cho nên đừng lo nếu một ngày nào đó
bạn cảm thấy rằng bạn đã đạt tới, nhưng không có
ham muốn giúp đỡ bất kì ai; thế thì đừng áp đặt điều
đó. Áp đặt nó sẽ là xấu, sẽ là bạo hành, sẽ là huỷ diệt.
Nếu nó không có đó thì nó không có đó. Thế thì
Thượng đế hạnh phúc với bạn như bạn vậy.
Nhưng nếu bạn cảm thấy rằng có ham muốn nảy
sinh trong bạn để giúp đỡ, để từ bi, để nắm tay ai đó,
để làm thành chiếc thuyền và đưa mọi người sang bờ
xa hơn, thế thì đừng lo về rắc rối. Rắc rối có đó,
nhưng thế giới cần một số người có thể chỉ ra con
đường, và chỉ những người biết mới có thể chỉ ra con
đường. Ngay cả với họ cũng là khó. Và thế giới này
lại đang vô cùng cần bởi vì nó đang bị những người
ngu dẫn đi. Nó đang bị hướng dẫn bởi các chính
khách và tu sĩ, đủ mọi loại người không biết điều họ
đang làm. Đó là lí do tại sao bao giờ cũng có hỗn độn
như thế.
Con của Mulla Nasruddin về nhà muộn từ trường.
Mulla vồ lấy nó và cho nó một bạt tai, nói, "Đây là
bài học cho con lần sau chớ có về nhà muộn!"
Hôm sau cậu con trai về nhà với quần áo bẩn thỉu
do chơi đùa. Mulla cho nó một bợp, nói, "Đây là bài
học cho con chớ có làm bẩn quần áo!"
Ngày hôm sau cậu con trai về nhà với điểm xấu.
Mulla lại đánh nó, nói, "Đây là bài học cho con chớ
có bị điểm xấu!"
Ngày thứ tư, ngay khi cậu con vừa về tới nhà,
Mulla vồ lấy nó và đánh nó.
"Có chuyện gì thế bố?" cậu con trai vừa hỏi vừa
khóc. "Hôm nay con về nhà đúng giờ, quần áo sạch
sẽ, và có điểm tốt!"
"Đây là bài học cho con," Mulla Nasruddin nói.
"Không có công bằng trên thế giới này!"
Bây giờ đây là những người đã tạo ra thế giới này
và những người đang hướng dẫn nó và những người
đang dạy dỗ và nuôi dưỡng trẻ con mới - để tạo ra
nhiều hỗn loạn hơn trên thế giới.
Vâng, Bồ tát là cần thiết, nhưng con đường của họ
gian nan hơn con đường của a la hán nhiều lắm. Nhà
huyền môn tận hưởng phúc lạc của mình. Ông ấy
giống như hoa hồng đẹp, ngát hương, nhảy múa trong
gió, trong ánh mặt trời, trong mưa, nhưng không quan
tâm về bất kì cái gì khác. Bồ tát đỡ gánh nặng của
người khác trên vai mình. Ông ấy cố gắng giúp những
người không có khả năng nhận sự giúp đỡ nào, người
không chỉ không có khả năng nhận sự giúp đỡ nào mà
còn rất bướng bỉnh trong sự từ chối điều đó của họ,
người cảm thấy bị xúc phạm nếu bạn cố giúp họ.
Đó là lí do tại sao Phật nói: Giữ mồm miệng.
Phải rất có ý thức về điều bạn đang nói, bạn đang
nói điều đó với ai, vì vài lí do. Thứ nhất: chân lí bạn
đã tìm ra không thể được nói ra; ngôn ngữ là không
thích hợp. Bạn chỉ có thể nêu chỉ dẫn, bạn chỉ có thể
làm vài cử chỉ - ngón tay chỉ trăng. Bạn không thể
biện minh cho nó được. Bạn có thể thuyết phục,
nhưng bạn không thể làm cho ai tin được. Nó không
phải là kinh nghiệm của họ, cho nên đừng giận nếu họ
không nghe bạn. Nếu họ đi ngược lại bạn, đừng cảm
thấy rằng họ là bạc bẽo. Họ đơn giản cư xử theo cách
họ có thể cư xử. Bạn phải rất, rất kiên nhẫn với họ.
Bạn phải chấp nhận mọi loại lăng mạ mà họ sẽ ném
vào bạn. Bạn phải chấp nhận đá và hoa của họ. Cho
dù họ giết bạn, bạn phải chết đi mà vẫn yêu mến họ.
Đó là cách Jesus chết: với lời cầu nguyện trên môi
ông ấy với Thượng đế, "Xin tha thứ cho họ, vì họ
không biết điều họ đang làm."
Thứ hai: nói ra chân lí là làm sai nó đi - cho nên
cố gắng nói nó một cách gián tiếp; đừng bao giờ đưa
ra phát biểu trực tiếp về nó. Đừng nói "có Thượng đế"
hay "không có Thượng đế." Những phát biểu trực tiếp
này đã tạo ra nhiều lẫn lộn trên thế giới; thay vì giúp
cho mọi người họ đã tạo ra xung đột, chiến tranh, sát
hại. Đừng đưa ra phát biểu trực tiếp về Thượng đế
hay chân lí hay niết bàn. Bạn phải rất, rất tinh tế. Bạn
phải sống theo cách mà mọi người trở nên nhận biết
rằng bạn đã đạt tới cái gì đó đang bị bỏ lỡ trong cuộc
sống của họ, rằng có cái gì đó nhiều hơn trong cuộc
sống mà không sẵn có cho họ. Đó là mọi điều bạn có
thể làm được.
Đừng nói theo văn xuôi mà nói theo thơ ca. Ca bài
ca - không cần tam đoạn luận. Để cho tiếng cười của
bạn và niềm vui của bạn làm lẩy cò quá trình nào đó
trong họ để cho họ cũng có thể bắt đầu tìm và kiếm.
Để cho bạn là bằng chứng thay vì đưa ra những biện
luận lớn lao. Bồ tát không phải là nhà thượng đế học,
ông ấy không biện minh cái gì cả. Ông ấy là bằng
chứng; ông ấy không đưa ra bằng chứng khác.
Chân lí là cái gì đó bên ngoài lời và bên ngoài
ngay cả nghĩa. Nó gần với âm nhạc hơn. Cho nên để
âm nhạc bao quanh bạn: Giữ mồm miệng... bằng
không, lời của bạn có thể phá huỷ âm nhạc. Im lặng
còn nhiều nhạc tính hơn, mang tính hùng biện nhiều
hơn. Lời cho chân lí một nghĩa nào đó, một cách tự
nhiên, bởi vì lời có nghĩa. Nghĩa đóng khung chân lí,
cái vốn vô hạn.
Cũng giống như khi bạn đang nhìn từ cửa sổ lên
bầu trời sao và cửa sổ của bạn tạo ra khung cho bầu
trời. Bầu trời không có khung; nó bắt đầu ở không
đâu, kết thúc ở không đâu, nhưng bây giờ cửa sổ của
bạn đang tạo ra khung cho bầu trời. Khung đó thuộc
về cửa sổ, nhưng người bao giờ cũng sống bên trong
cửa sổ và không bao giờ đi ra ngoài nó sẽ nghĩ rằng
bầu trời là hình vuông giống như cửa sổ, rằng nó có
cùng hình và dạng.
Mọi người sống trong lời, họ chưa bao giờ biết gì
tới vô lời, cho nên cho họ một kinh nghiệm về vô lời
đi. Giúp họ thiền. Thay vì cho họ học thuyết, cho họ
kinh nghiệm.
Thứ ba: bao giờ cũng nhớ lấy, bất kì điều gì bạn
nói đều nhất định bị hàng triệu người hiểu lầm. Cho
nên đừng cảm thấy bị xúc phạm, đừng cảm thấy giận
dữ, đừng cảm thấy bị đánh giá. Khi họ đang hiểu lầm
bạn, họ đơn giản nói điều gì đó về bản thân họ, không
về bạn. Chừng nào bạn chưa thể bình thản với mọi
loại hiểu lầm đang dồn đống lên bạn, bạn không thể
có ích gì cho họ; thế thì bản thân bạn sẽ cần giúp đỡ.
Hai kẻ cực hippie đang bước đi trên đường làng
quê.
Kẻ hippie này quay sang kẻ hippie kia và hỏi,
"Mày có ỉa ra quần không?"
"Không," người kia đáp.
Đi xa thêm một chút kẻ hippie thứ nhất lại hỏi kẻ
kia, "Mày có chắc mày không ỉa ra quần khôngs?"
"Hoàn toàn chắc," kẻ kia nói.
Đi xa thêm chút nữa kẻ hippie thứ nhất nói, "Lại
đây, cởi quần mày ra và để tao xem."
Khi kẻ kia đang vâng lời, kẻ hippie thứ nhất kêu
lên, "Đấy, tao đã bảo mày thế rồi!"
"Ồ," người kia nói, "tao cứ tưởng mày nói hôm
nay!"
Mọi người hiểu tương ứng theo bản thân họ.
Mulla Nasruddin đi Italy, cho nên tôi bảo anh ta,
"Nasruddin, học chút tiếng Italia đi."
Anh ta nói, "Tôi đã học rồi. Tôi đã học bài học từ
Radha."
Khi anh ta quay về từ Italy anh ta rất giận. Tôi
nói, "Có chuyện gì vậy?"
Anh ta nói, "Một hôm tôi đi-a tới một thị trấn lớn.
Vào buổi sáng, tôi xuống ăn sáng. Tôi bảo-a người
phục vụ, 'Tôi muốn hai miếng bánh mì nướng nước
đái1.'
[1 Mulla phát âm nhầm, piece - miếng bị phát âm thành piss -
nước đái.]
"Cô ấy mang-a cho tôi chỉ mỗi một nước đái. Tôi
bảo cô ấy, 'Tôi muốn hai nước đái.'
"Cô ấy nói, 'Vào nhà xí.'
"Tôi nói, 'Không, cô không hiểu - tôi muốn hai
bãi trên đĩa của tôi.'
"Cô ấy nói, 'Tốt hơn cả ông không nên đái trên
đĩa, ông là đồ chó đẻ!'
"Sau đó tôi đi ăn ở một nhà hàng lớn. Người phục
vụ đem-a cho tôi một cái thìa và con dao, nhưng
không có đéo2.
[2 Mulla phát âm nhầm, fork - cái dĩa bị phát âm thành fuck - đéo.]
Tôi bảo cô ấy, 'Tôi muốn đéo.'
"Cô ấy nói, 'Mọi người đều muốn đéo.'
"Tôi bảo cô ấy, 'Cô không hiểu - tôi muốn đéo
trên bàn.'
"Cô ấy nói, 'Ông tốt hơn cả là không đéo trên bàn,
ông là đồ chó đẻ!'
"Thế là tôi đi về phòng mình trong-a khách sạn và
không có cứt3
[3 Mulla phát âm nhầm, sheet - ga trải giường bị phát âm shit -
cứt.]
trên-a giường tôi. Tôi gọi-a người quản
lí và bảo ông ta, 'Tôi muốn cứt.'
"Ông ta bảo tôi, 'Vào nhà xí.'
"Tôi nói, 'Ông không hiểu - tôi muốn cứt trên
giường.'
"Ông ta nói, 'Tốt hơn cả ông đừng cứt trên
giường, ông là đồ chó đẻ!'
"Tôi ra khỏi khách sạn và người ở quầy nói, 'Chúc
ông an bình.'
"Tôi nói, 'Đái4
[4 Mulla hiểu nhầm, peace - an bình bị nghe âm thành piss - đái.]
lên ông ấy, ông là đồ chó đẻ. Tôi
về nhà đây!'"
Khi bạn học tiếng Italia, tránh Radha ra! Tôi cũng
đã học từ cô ấy, nhưng từ khi Mulla Nasruddin kể cho
tôi, tôi đã thôi học - nó là nguy hiểm!
Mọi người có ngôn ngữ riêng của họ, tâm trí riêng
của họ, định kiến riêng của họ, khái niệm riêng của
họ, hệ thống triết lí, tôn giáo riêng của họ. Khi bạn
nói với họ bạn đang nói với tâm trí đầy rác rưởi; bạn
không nói với ai đó im lặng. Và chừng nào người ta
còn chưa im lặng thì nhất định có hiểu lầm. Do đó
Phật nói: Giữ mồm miệng.
Và lí do thứ tư là: chân lí là cái gì đó mang tính
tồn tại, nó không mang tính triết học. Triết học có thể
nói về; thực tế, bạn không thể làm gì được với triết
học ngoại trừ nói về nó. Nó cứ nói về và về, nó cứ
loanh quanh. Từ 'về' nghĩa là lòng vòng, loanh quanh.
Nhưng chân lí mang tính tồn tại. Bạn phải giúp mọi
người nếm trải nó. Cho nên chỉ nói, nếu bạn thấy rằng
qua việc nói bạn có thể thuyết phục một người thiền,
im lặng.
Đó là nỗ lực rất ngược đời, do đó mới khó. Bạn
phải nói cho mọi người để giúp họ trở nên im lặng.
Bạn phải nói về im lặng bởi vì mọi người không thể
hiểu được im lặng một cách trực tiếp. Điều đó rất ngớ
ngẩn - nói về im lặng, dạy mọi người im lặng - nhưng
điều đó phải được làm, đặc biệt ở lúc bắt đầu.
Thứ hai: Không tự đề cao mình....
Điều đó rất tự nhiên khi bạn trở nên chứng ngộ.
Điều đó không phải là bản ngã, điều đó xảy ra rất tự
nhiên. Nó chẳng liên quan gì tới bản ngã bởi vì nếu
bản ngã vẫn có đó thì bạn không thể trở nên chứng
ngộ được.
Phật nói: Giữ mồm miệng. Không tự đề cao
mình... bởi vì khi bạn trở nên chứng ngộ thì bản ngã
đã biến mất - bạn có thể trở nên chứng ngộ chỉ khi
bạn đã hoàn thành điều kiện đó - nhưng bây giờ kinh
nghiệm này bao la, tràn ngập, cực lạc tới mức nó bắt
đầu tự diễn đạt bản thân nó. Bạn phải học....
Người ta nói về al-Hillaj Mansoor - người đã bị
đóng đinh như Jesus, theo cách còn vô nhân đạo và
độc ác hơn bản thân Jesus - người ta nói về ông ấy
rằng cái ngày ông ấy trở nên chứng ngộ, ông ấy kêu
to, "Ana'l haq - Ta là chân lí! Ta là Thượng đế!"
Thầy ông ấy, Junnaid, cũng có mặt. Ông ấy tới
gần ông này, thì thào vào tai ông này, "Mansoor, giữ
điều đó trong ông thôi. Xin giữ điều đó bên trong
ông! Kìm nó lại! Ta biết rất khó kìm nó lại - nó bao la
thế, gần như không thể nào kìm lại được. Nó tự diễn
đạt bản thân nó. Ta biết ông không thốt ra điều đó, nó
được thốt ra bởi lực không biết nào đó, bởi bản thân
Thượng đế, nhưng dầu vậy ta nói với ông, giữ mồm
miệng!"
Và Mansoor hứa, "Tôi sẽ giữ mồm miệng." Ông
ấy hiểu ra vấn đề, nhưng rồi lặp đi lặp lại ông ấy
quên. Lặp đi lặp lại ông ấy đi tới cùng trạng thái của
ánh sáng, niềm vui, phúc lạc đó, và việc hét to lên -
tiếng gầm của sư tử, như Phật thường gọi nó - lại tới
từ ông ấy mặc cho bản thân ông ấy.
Ông sẽ tới và xin lỗi Junnaid, thầy ông ấy, nhưng
thầy nói, "Mansoor, cái gì đó phải được làm; bằng
không ông sẽ bị rắc rối không cần thiết. Ông có thể là
sự giúp đỡ lớn lao cho nhân loại, nhưng theo cách này
ông sẽ lâm vào rắc rối không cần thiết. Và không chỉ
ông, ông sẽ chấm dứt công việc của ta nữa. Điều đó
xảy ra cho ta nữa, nhưng ta phải kìm nó lại và ông
cũng phải kìm nó lại."
Nhưng Mansoor không có khả năng về điều đó.
Junnaid phái ông ta tới Kaaba trong cuộc hành hương
ba năm. "Có thể trong cuộc hành hương dài ba năm
này, ở cùng nhiều nhà huyền môn, ông ấy có thể bình
thản lại. Kinh nghiệm này mới thế; dần dần ông ấy trở
nên quen với nó." Nhưng ông ấy không thể trở nên
quen với nó được; khi ông ấy quay về ông ấy lại trong
cùng trạng thái đó. Ông ấy bị bắt bởi nhà vua, bởi mọi
người... bởi vì đó là nước Mô ha mét giáo và một
trong những tội ác lớn nhất, tội lỗi lớn nhất là tự gọi
mình là Thượng đế, tuyên bố mình là Thượng đế. Ông
ấy đã bị giết chết.
Trong hàng thế kỉ đã có thảo luận giữa những
người Sufi ai vĩ đại hơn, Junnaid hay Mansoor. Bình
thường người ta sẽ nói Mansoor: ông ấy thực sự là
người tử vì đạo: ông ấy chịu đựng và chịu đựng bằng
cách cười to. Ông ấy chết đi với tiếng cười. Ngay cả
Jesus cũng đã ở vào tình trạng bị từ bỏ chút ít. Khi
chiếc đinh cuối cùng được đóng vào tay ông ấy, ông
ấy đã nhìn lên trời và nói, "Thượng đế ơi, ngài đã từ
bỏ con rồi sao? Ngài đã quên con rồi sao?" Phải đã có
chút ít hoài nghi, chỉ là cái bóng của hoài nghi. Ông
ấy lập tức hiểu ra, ông ấy xin lỗi. Ông ấy nói, "Không,
con xin lỗi. Cứ để ý ngài được thực hiện." Nhưng
trong một khoảnh khắc ông ấy đã ngập ngừng.
Mansoor chưa bao giờ ngập ngừng.
Và ông ấy đã bị giết một cách tàn nhẫn tới mức
việc đóng đinh của Jesus dường như còn rất nhân đạo
nếu so với việc đóng đinh của Mansoor. Đầu tiên
chân ông ấy bị chặt ra, thế rồi tay bị chặt ra, rồi mắt bị
móc ra, rồi lưỡi bị cắt đi, rồi đầu bị chặt ra. Nhưng
ngay cả qua tất cả đau đớn này ông ấy vẫn là tiếng
cười.
Trước khi lưỡi bị cắt, ai đó hỏi, "Sao ông cười?"
Ông ấy nói, "Ta cười bởi vì các ông không thể
phá huỷ được kinh nghiệm của ta; bất kì điều gì các
ông làm đều không liên quan. Và ta đang cười bởi vì
các ông đang giết một người và ta là ai đó khác. Các
ông là những kẻ ngu thế, đó là lí do tại sao ta cười!
Và ta cũng cười Thượng đế. Ta cười ông ấy, 'Ngài
không thể lừa tôi được. Dù ngài tới dưới bất kì dạng
nào tôi đều sẽ nhận ra ngài. Tôi nhận ra ngài trong kẻ
đồ tể người đã chặt chân tôi, người đã chặt tay tôi. Đó
vẫn là ngài đang ở trong người đó, và không ai khác
cả.'"
Thực tế, Junnaid dường như có vẻ hơi chút hèn
nhát; nhiều người nghĩ rằng ông ấy là kẻ có hơi chút
hèn nhát. Sao ông ấy phải bảo Mansoor giữ điều đó
bên trong? Nhưng điều đó là không đúng - ông ấy
không phải là kẻ hèn nhát. Thực tế, ông ấy đã hi sinh
nhiều hơn Mansoor. Hi sinh của Mansoor là hiển
nhiên; hi sinh của Junnaid là không hiển nhiên, nó rất
tinh tế.
Kìm chân lí lại khi nó xảy ra là kì công siêu nhân,
đó là phép màu. Và ông ấy cố kìm nó để cho ông ấy
có thể giúp được mọi người. Ông ấy là Bồ tát còn
Mansoor là a la hán. Ông này không quan tâm gì vì
công việc, ông này không quan tâm gì về bất kì ai
khác. Ông này đã đạt tới, bây giờ không có vấn đề gì.
Cái chết không phải là vấn đề chút nào, ông ấy biết
mình là bất tử.
Junnaid đang làm việc im lặng, trong bóng tối, để
giúp mọi người đang mù. Và bạn không biết đau khổ
của ông ấy. Đau khổ của ông ấy là ở chỗ ông ấy phải
kìm cái gì đó mà không thể kìm nổi.
Phật nói: Không tự đề cao mình.... Tránh bất kì
việc đề cao nào, tránh bất kì công bố nào - trừ phi bạn
thấy nó sẽ có ích, trừ phi bạn thấy nó sẽ chuẩn bị con
đường; thế thì nó là được.
Bản thân Phật đã tuyên bố, "Ta là người chứng
ngộ hoàn hảo nhất." Ông ấy biết rằng điều này sẽ có
ích. Nhưng nếu Jesus mà hỏi ông ấy thì ông ấy sẽ nói,
"Không, kìm nó lại," bởi vì Jesus ở nước sai với
người sai. Tuyên bố ở đó rằng, "Ta là Thượng đế" chỉ
là mời cái chết của bạn, không gì khác.
Jesus chỉ có thể làm việc trong ba năm. Do đó Ki
tô giáo nghèo nàn thế, bởi vì thầy chỉ sống ba năm.
Cho tới năm thứ ba mươi của mình ông ấy vẫn làm
việc cho chứng ngộ riêng của mình. Khi ông ấy thực
sự ra khỏi các tu viện, bắt đầu làm việc, và thế rồi
sống chỉ ba năm. Đến ba mươi ba tuổi ông ấy bị đóng
đinh. Bây giờ, thời gian ba năm là không đủ chút nào.
Phật đã làm việc trong bốn mươi hai năm; ngay cả
điều đó cũng không đủ.
Nếu Jesus mà hỏi Phật, Phật sẽ bảo ông ấy, "Giữ
im lặng, làm việc im lặng. Cứ là giáo sĩ bình thường
thôi. Không cần tuyên bố rằng ông là Con của
Thượng đế. Ông biết điều đó, thế là đủ; và Thượng đế
biết điều đó, thế là đủ."
Nhưng ở Ấn Độ, bản thân Phật đã tuyên bố điều
đó. Đó là một chỗ hoàn toàn khác, đó là bầu khí hậu
hoàn toàn khác. Trong hàng thế kỉ chư phật đã xảy ra
trên đất nước này, họ đã chuẩn bị con đường; do đó
việc tuyên bố là rất đơn giản, không có vấn đề gì.
Dầu vậy Phật nói: Phải rất thận trọng, bởi vì chức
năng của ông là làm sáng con đường. Đừng tạo ra
nhiều rắc rối cho những người theo ông. Họ đã trong
rắc rối rồi, họ đang sống trong địa ngục. Bạn phải làm
cho họ nhẹ gánh.
vì lời của ông là dịu ngọt.
Nếu lời của bạn bắt nguồn từ im lặng, từ bi, hiểu
biết, từ trống rỗng tuyệt đối - nếu lời của bạn không
tới từ ai đó phi thường mà tới từ người bình thường -
thế thì chúng sẽ dịu ngọt và chúng sẽ giúp mọi người
sâu sắc hơn bất kì cái gì khác.
Theo chân lí của đạo.
Chân lí của đạo là gì? Phật bao giờ cũng ủng hộ
kinh nghiệm và không bao giờ ủng hộ tin tưởng. Ông
ấy nói: Bất kì điều gì ông đã kinh nghiệm, bây giờ đi
theo nó. Đừng tin vào nó bởi vì nó đã được chư phật
khác nói; theo nó chỉ khi ông đã kinh nghiệm và theo
nó chỉ tới mức độ mà ông đã kinh nghiệm. Nếu ông
theo nó tới mức độ đó, ánh sáng của ông sẽ chiếu xa
hơn một chút phía trước và ông sẽ có khả năng theo
ánh sáng đó thêm chút nữa và chút nữa. Và chỉ bằng
ngọn đèn nhỏ người ta có thể du hành qua hàng nghìn
dặm; người ta có thể đi qua đêm tối của linh hồn rất
dễ dàng, dù nó dài bao lâu.
Và nhớ đừng bao giờ tìm lối tắt. Niềm tin là lối
tắt; kinh nghiệm không phải là lối tắt.
Mới vài ngày trước đây một võ sư trưởng, Shiva,
đã bị ngã từ một bức tường. Bây giờ, một võ sĩ đạo
được mọi người coi là không thể bị ngã không dậy
được! Cho nên tôi mới hỏi, "Chuyện gì xảy ra?" Tôi
đi tới biết rằng anh ấy đang cố tìm lối tắt từ nhà này
sang nhà khác bằng việc đi qua tường. Và lối tắt hoá
ra là lối tắt dài - anh ta bị mười hai mũi khâu!
Tránh lối tắt; lối tắt không ích gì đâu. Không có
lối tắt trong cuộc sống. Cuộc sống phải được sống
trong tất cả tính toàn bộ của nó. Lối tắt nghĩa là bạn
đang né tránh vài điều. Bạn đang nhảy vào kết luận,
né tránh quá trình, né tránh vài bước. Bạn có thể đạt
tới kết luận, nhưng nó sẽ không là kết luận của bạn.
Và nếu nó không phải là kết luận của bạn thì nó chẳng
có giá trị gì, nó được vay mượn. Bạn giống như con
vẹt. Ngay cả vẹt cũng có thể rất thông thái, nhưng
điều đó không làm cho nó thành phật.
Rastus, một anh bạn da đen Harlem, sôi nổi, quyết
định rằng anh ta cần một con vẹt lai cho căn hộ xuất
sắc của mình.
Sau khi tìm một thời gian, anh ta cuối cùng cũng
tìm thấy một cửa hàng sinh vật cảnh bán vẹt biết nói.
Người chủ cửa hàng chỉ cho anh ta một con giá hai
mươi nhăm đô la.
"Vẹt muốn ăn bánh không?" Rastus hỏi, con vẹt
không đáp lại. "Con vẹt này không biết nói," Rastus
nói, "Tôi muốn có con vẹt biết nói. Ông có con nào
khác không?"
Người chủ nói có một con bẩy mươi nhăm đô la.
Ông ta đem ra một cái chuồng từ sau quầy và mở ra
có một con chim trông hấp dẫn nhất.
"Vẹt muốn ăn bánh không?" Rastus lại hỏi, và lại
không có đáp ứng lại. "Con vẹt này không biết nói,"
Rastus quát lên bực bội, "Ông không có con nào biết
nói sao?"
Người chủ tiệm bảo anh ta rằng ông ấy quả còn
giữ một con khác trong phòng sau, nhưng nó rất đắt -
hai trăm năm mươi đô la.
Ông ấy đem ra con chim đẹp nhất mà Rastus đã
từng thấy, và anh ta kích động kêu lên, "Vẹt muốn ăn
bánh không?" Không có đáp ứng. Rastus phát rồ.
"Ông có hay ông không có con chim biết nói?" anh ta
hỏi.
Người chủ tiệm ngần ngại và rồi đáp rằng ông có
một con chim hoàn toàn ngoại lệ, và mặc dầu ông ấy
không lên kế hoạch bán nó, nhưng với hai nghìn đô la
thì ông ấy có thể xem xét việc bán. Ông ta đưa Rastus
vào một phòng ở tận cùng cửa tiệm. Ở đó, được bao
quanh bởi một trong những thư viện đầy đủ nhất mà
Rastus đã từng thấy, là con vẹt đó. Nó đang đậu trên
ghế bọc dưới chiếc đèn đọc, sách ôm trong lòng, đeo
kính, mặc chiếc áo vét ám khói và đi dép lê. Nó đang
hút tẩu thuốc, chìm sâu trong việc đọc sách.
"Vẹt muốn ăn bánh không?" Rastus hỏi nín thở từ
cửa vào.
Chậm rãi, từ từ con vẹt nhìn lên từ trang sách và
nhăn nhó đáp lại, "Người da đen có muốn ăn dưa hấu
không?"
Cho dù thế thì vẹt vẫn là vẹt thôi!
Chừng nào bạn còn chưa kinh nghiệm, bất kì
niềm tin nào bạn có cũng đều tuyệt đối vô giá trị. Do
đó Phật nói: Theo chân lí của đạo. Ông ấy ngụ ý rằng
điều bạn đã kinh nghiệm bằng việc đi trên con đường
của thiền, phản ánh lên nó. Trước khi bạn bắt đầu
giúp người khác, hãy phản ánh theo kinh nghiệm đã
xảy ra cho bạn qua thiền - bởi vì kinh nghiệm nó là
một điều, diễn đạt nó là điều hoàn toàn khác. Thiền
không khó thế khi diễn đạt kinh nghiệm của thiền và
thuyết phục mọi người thiền. Các nhà huyền môn đã
từng có nhiều, các bậc thầy có rất ít.
Thầy có cái chạm vàng. Khoảnh khắc thầy chạm
vào bạn, cái gì đó trong bạn bắt đầu trưởng thành.
Thầy giống như người làm vườn có ngón tay mầu lục.
Phản ánh lên nó.
Làm nó thành của riêng ông.
Hấp thu nó một cách toàn bộ đi. Thiền lúc ban
đầu chỉ là kinh nghiệm và bạn là người kinh nghiệm.
Dần dần, dần dần khoảng cách giữa người kinh
nghiệm và kinh nghiệm biến mất; nó cần thời gian.
Chừng nào kinh nghiệm và người kinh nghiệm còn
chưa trở thành một, bạn không thể giúp được người
khác. Chừng nào thiền còn chưa trở thành chính nhịp
tim đập của bạn, bạn sẽ không có khả năng thuyết
phục được ai cả. Điều đó gần như là việc dụ dỗ! Làm
nó thành của riêng ông.
Sống nó.
Trước khi bạn bắt đầu giúp cho người khác, sống
nó theo mọi cách có thể đi. Bước đi có tính thiền, ăn
có tính thiền, ngồi có tính thiền, ngay cả ngủ cũng có
tính thiền. Để thiền bắt đầu lan toả khắp cuộc sống
của bạn. Nó phải trở thành hiện tượng hai mươi tư
giờ, giống như thở - nhiều tới mức bạn không cần nhớ
tới thiền. Nó trở thành của riêng của bạn nhiều tới
mức nó bao giờ cũng có đó như dòng chảy ngầm. Chỉ
thế thì bạn mới có thể giúp đỡ.
Sống nó.
Nó bao giờ cũng nâng đỡ ông.
Đừng ngoảnh mặt đi với điều được cho ông...
Nhớ lấy, thiền sẽ cho bạn nhiều vui vẻ, nhiều
phúc lành, nhiều món quà sẽ giáng xuống bạn.
Đừng ngoảnh mặt đi với điều được cho ông.
Đừng là kẻ keo kiệt trong việc nhận. Mọi người keo
kiệt trong việc cho, họ keo kiệt cả trong việc nhận
nữa. Khi món quà lớn giáng xuống bạn, bạn co lại,
bạn lùi lại; bạn trở nên sợ bởi vì những món quà đó
lớn tới mức bạn cảm thấy bạn có thể bị nhận chìm.
Khi phúc lạc tới với bạn nó giống như trận lụt.
Do đó Phật nói: Đừng ngoảnh mặt đi với điều
được cho ông... bởi vì nếu bạy quay mặt đi bạn sẽ bỏ
lỡ cơ hội này, và nó có thể không gõ cửa nhà bạn lần
nữa trong thời gian dài. Người ta chẳng bao giờ biết
khi nào khoảnh khắc đó sẽ tới nữa. Cho nên bất kì khi
nào cái gì đó xảy ra cho bạn trong thiền, mở trái tim
bạn ra. Cho dù bạn sợ cái không biết, dầu vậy vẫn đi
vào trong cái không biết. Và đi với nhảy múa, đi một
cách vui vẻ, bởi vì trong thiền không cái gì sai có thể
xảy ra cho bạn. Trong thiền, chỉ phúc lành là có thể.
không với lấy điều được cho người khác...
Nhưng đó là cách tâm trí chúng ta vận hành. Ngay
cả khi tâm trí mất rồi, ngay cả khi rắn không có đó, nó
vẫn để lại dấu vết của nó trên cát. Mọi người trở nên
quan tâm nhiều hơn tới điều đang diễn ra cho người
khác. Thay vì nhận cái đang xảy ra cho họ, họ bắt đầu
quan tâm tới điều đang xảy ra cho người khác; họ bắt
đầu cố gắng vì những điều khác.
Nhớ lấy, cái đang xảy ra cho bạn là của bạn và cái
không xảy ra cho bạn, bạn còn chưa chín cho điều đó;
và nó không thể xảy ra được trước thời của nó, cho
nên đừng khao khát điều đó. Chờ đợi. Giữ cho bản
thân mình kiên nhẫn nhất có thể được. Nhận bất kì cái
gì tới và đừng khao khát về cái không tới trên con
đường của bạn; nó sẽ tới.
...Sợ rằng ông quấy rối yên tĩnh của người khác.
Bạn có thể quấy rối yên tĩnh của mình theo hai
cách. Một: bằng việc từ chối cái tới với bạn, do sợ. Và
hai: bằng việc đòi hỏi cái đã không tới với bạn, do
tham vọng.
Nói lời cám ơn...
Với tất cả những cái tới với bạn, hãy biết ơn.
...với điều đã được trao cho ông,
Dù nó nhỏ thế nào.
Thuần khiết, đừng bao giờ nao núng.
Bất kì khi nào Phật dùng từ 'thuần khiết' ông ấy
bao giờ cũng ngụ ý hồn nhiên. Đừng trở nên thông
thái. Cho dù bạn đã đi tới biết bản thân mình, đừng
trở nên thông thái. Cho dù bạn đã đương đầu với
Thượng đế, đừng trở nên thông thái. Dù bạn đã biết
bất kì cái gì, quên hết tất cả về nó đi. Lại trở thành
hồn nhiên. Bao giờ cũng vẫn trong trạng thái của
không biết, thế thì nhiều điều hơn nữa sẽ xảy ra cho
bạn.
Điều thường xảy ra khi bạn đi vào trong thiền là ở
chỗ cái gì đó xảy ra, nhưng bạn không cảm thấy biết
ơn; ngược lại, bạn cảm thấy đây là quyền của bạn -
thực tế nó đáng phải xảy ra lâu trước đây rồi. Bạn là
người xứng đáng thế, đức hạnh thế, linh thiêng thế, và
bạn đã làm nhiều điều thế; sao bạn phải biết ơn?
Đó là cách tiếp cận sai; điều đó nghĩa là bạn đang
dừng quá trình lại. Trong việc biết ơn nhiều điều nữa
sẽ tới với bạn. Cho nên cho dù một thoáng nhìn nhỏ
bé tới với bạn, cảm thấy biết ơn đi. Chỉ một tia sáng
và cảm thấy biết ơn, cứ dường như toàn thể mặt trời
đã tới với bạn. Và toàn thể mặt trời sẽ tới, đi theo tia
sáng này. Nhưng nếu bạn không biết ơn, bạn trở nên
bị đóng; thậm chí tia sáng này sẽ biến mất và bạn sẽ
lại trong bóng tối của mình, trở lại trong bóng tối của
bạn.
Và nhớ bao giờ cũng vẫn còn trong trạng thái
không biết. Đừng bắt đầu trở nên thông thái, đừng bắt
đầu triết lí hoá, đừng bắt đầu tạo ra hệ thống ý nghĩ.
Điều này xảy ra; đó là lí do tại sao Phật đang làm cho
các Bồ tát của ông ấy tỉnh táo.
Tôi muốn bạn nhớ những lời kinh này bởi vì
nhiều người trong các bạn - ít nhất năm mươi phần
trăm trong các bạn - đang trở thành Bồ tát chẳng
chóng thì chầy. Cho nên nhớ lấy những lời kinh này -
chúng dành cho bạn. Tôi không quan tâm tới
Dhammapada, tôi quan tâm tới các bạn! Tôi nói cho
các bạn! Dhammapada chỉ là cái cớ. Tôi muốn nói
cùng điều đó cho bạn, nhưng Phật đã nói chúng tuyệt
vời, thơ ca tới mức tôi không thấy cần gì để nói chúng
theo cách riêng của tôi; tôi chỉ có thể bình luận về ông
ấy - bởi vì chân lí là vĩnh hằng và nó vẫn còn như thế
mãi mãi.
Tránh triết lí hoá khi bạn đi vào thế giới của thiền.
Nó nảy sinh, nó tới một cách không tránh được - rất
mong muốn triết lí - bởi vì nhiều điều hay thế đang
xảy ra và bạn muốn tạo ra hệ thống ý nghĩ quanh
chúng. Tất cả những triết học trên thế giới đã nảy sinh
theo cách này. Cái gì đó, chỉ chút ít, đã xảy ra, và họ
bắt đầu tạo ra lâu đài lớn từ cái đó. Một viên gạch có
đó là họ làm ra ngôi nhà lớn, cung điện, chỉ cung điện
tưởng tượng, từ nó. Ngay cả gạch cũng mất đi trong
lâu đài tưởng tượng đó.
Ba con chuột nhỏ ngồi trước lỗ chuột trên cánh
đồng. Chúng đang trong tâm trạng buồn bã, khi chúng
im lặng quan sát chim bay từ cây nọ sang cây kia. Sau
một chốc một con chuột nói, "Được là chim và bay
trên bầu trời thì thật tuyệt vời."
Cả ba con chuột ủ ê về điều đó trong một lúc lâu
và chúng trở nên buồn hơn.
Cuối cùng, con chuột thứ hai nói, "Là một con
chin đã rất hay rồi, nhưng sẽ còn hay hơn để là hai
con chim. Nếu mình là hai con chim mình có thể bay
sau bản thân mình."
Lũ chuột nghĩ về điều này thậm chí con lâu hơn
và chúng thậm chí trở nên buồn hơn trước.
Sau một lúc lâu con chuột thứ ba nói, "Điều tuyệt
vời nhất phải là ba con chim, bởi vì thế thì mình có
thể quan sát bản thân mình bay sau bản thân mình!"
Đây là điều triết học là gì. Mọi người cứ nghĩ mãi
về những thứ chẳng ở đâu cả. Nhưng bạn có thể tận
hưởng điều đó. Triết học được nhiều người thích thú
bởi lẽ đơn giản là mọi người đều có thể đảm đương
được triết lí. Nếu ba con chuột kia có thể đảm đương
được điều đó, còn nói gì tới con người? Mọi người
đều là triết gia.
Phật cực lực chống lại triết lí. Ông ấy nói triết lí
làm biến chất, nó làm cho bạn thành thông thái -
không làm bạn thành người biết, nó làm bạn thành
thông thái. Nó đem vào cái không thuần khiết; nó làm
ô nhiễm bản thể bên trong của bạn. Thuần khiết và
đừng bao giờ vấp ngã khỏi thuần khiết của bạn.
Nếu bạn muốn giúp người khác, những lời kinh
này phải được ghi nhớ thường xuyên. Thiền về chúng,
làm cho chúng thành của riêng bạn, sống chúng.
Chúng bao giờ cũng nâng đỡ bạn; chúng là sự nuôi
dưỡng lớn lao.
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#2Vào đúng khoảnh khắc
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao tôi không thể nhận tính chất sannyas? Tôi cứ
nghĩ và nghĩ và nghĩ.
Richard, tính chất sannyas chẳng liên quan gì tới
suy nghĩ chút nào. Đó là con đường của người điên
tới chứng ngộ! Bằng suy nghĩ bạn không bao giờ đi
tới quyết định khi có liên quan tới tính chất sannyas.
Suy nghĩ, nhiều nhất, chỉ có thể giúp bạn trì hoãn nó,
và bạn có thể cứ trì hoãn nó tới vô hạn. Suy nghĩ, thực
tế, là quá trình trì hoãn.
Tính chất sannyas không phải là cái gì đó bạn có
thể nghĩ về. Bạn không biết nó, bạn đã không kinh
nghiệm nó. Suy nghĩ đi vào bên trong thế giới của cái
đã biết; nó không có cách tiếp cận nào hướng tới cái
không biết, không bắc cầu với cái không biết. Và tính
chất sannyas là không biết với bạn. Bạn có thể đã thấy
các sannyasin; điều đó không có nghĩa là bạn biết tính
chất sannyas là gì. Bằng việc thấy người yêu bạn
không thể biết tình yêu là gì. Bằng việc thấy thiền
nhân bạn không thể biết thiền là gì. Có những điều chỉ
được biết bằng việc tồn tại.
Tính chất sannyas không phải là hiện tượng triết
lí, nó là cái gì đó có tính tồn tại. Bạn phải lấy cú
nhảy... thế rồi nghĩ về sau, thế rồi nghĩ nhiều tuỳ
thích, tới mãn nguyện của trái tim bạn. Nhưng một
khi bạn đã nếm trải nó, thế thì không có cách nào
quay lui.
Suy nghĩ là một phần của cái đầu còn tính chất
sannyas xảy ra trong tim; nó là chuyện tình. Nó hoàn
toàn điên, điên như tình yêu hay thậm chí còn điên
hơn, bởi vì tình yêu xảy ra về mặt sinh học còn tính
chất sannyas xảy ra về mặt tâm linh.
Tính chất sannyas xảy ra chỉ cho rất ít, rất hiếm
người. Tình yêu là bình thường; nó xảy ra cho con
vật, cho chim chóc, ngay cả cho cây cối. Nó không có
gì đặc biệt. Tôn giáo là tuyệt đối siêu tự nhiên: nó
vượt qua thế giới bản năng của bạn. Nhưng trái tim
chúng ta không vận hành, còn cái đầu không thể làm
việc được ở chỗ trái tim.
Đó là điều bạn đang làm đấy, Richard. Bạn có thể
cứ làm nó, nhưng bạn sẽ không bao giờ đi tới thế giới
của tính chất sannya. Cái đầu bất lực; nó không thể
hành động được bởi vì nó không bao giờ tự phát.
Chính chỉ là cái đầu hành động. Cái đầu chỉ phản ứng;
cái đầu chỉ cứ lặp lại quá khứ. Bạn đã không là
sannyasin trước đây, cho nên làm sao bạn có thể nghĩ
về nó được? Bạn có thể nghĩ gì về nó? Không có cơ
sở để bắt đầu.
Chỉ trái tim mới đủ dũng cảm lấy cú nhảy vào
trong cái không biết, vào trong cái không quen thuộc.
Nhưng với cái không quen thuộc hàng triệu khả năng
mở ra. Với cái không biết bạn bắt đầu trưởng thành.
Với cái biết bạn cứ đi theo vòng tròn. Có chút ít trái
tim đi, đừng nhiều ý nghĩ thế.
Richard, tên của bạn nghĩa là cứng rắn. Siêu việt
lên trên tính cứng, trở nên mềm mỏng thêm chút ít, nữ
tính thêm chút ít, tròn trĩnh thêm chút ít đi. Mất đi vài
góc nhọn sẽ cực kì có ích. Logic là cứng rắn, tình yêu
là mềm mại. Logic là hình vuông, tình yêu là đường
cong! Logic bao giờ cũng là kẻ hèn nhát; nó nghĩ và
nghĩ trước khi nó hành động. Và, thực tế, lúc thời
gian tới để hành động thì đã quá muộn rồi; khoảnh
khắc đó đã qua rồi.
Cuộc sống không tĩnh tại. Nó sẽ không đứng tĩnh
lặng vì bạn đâu, nó sẽ không đợi bạn đâu. Ai biết
được? Ngày mai tôi có thể dừng cho tính chất sannyas
- thế thì sao? Thế thì bạn sẽ lỡ tầu! Và nhớ lấy, tính
chất sannyas tôi đang trao cho bạn không ai khác có
thể trao cho bạn được. Thu lấy chút dũng cảm đi.
Hôm nay là ngày đó rồi!
Hai bộ xương trong góc phòng đang càu nhàu về
trái tim, bụi bặm, chán chường.
"Dẫu sao đi chăng nữa chúng ta đang ở đây để
làm gì?" một bộ xương hỏi.
"Chết tiệt nếu tao biết," bộ xương thứ hai đáp.
"tao sẽ đi ngay nếu tao có lòng."
#2Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi sợ sống còn hơn chết. Điều đó là có thể
không?
Yogananda, điều đó phải là có thể nếu nó xảy ra
cho bạn! Bạn có nghĩ rằng bạn đang xoay xở làm điều
không thể được không? Thực tế, đó là hiện tượng rất
thông thường, chẳng có gì phi thường về nó cả - rất
bình thường. Không ai sợ chết hơn sống. Sợ chết
không là gì nếu so với sợ sống.
Đó là lí do tại sao hàng nghìn người quanh trái đất
tự tử, và nhiều người nữa nghĩ nhiều lần trrong đời họ
về tự tử. Nhiều người thử nhưng bị ngăn cản; nhiều
người thử nhưng nửa vời. Nhưng rất ít người thử
sống. Con số người thử sống cuộc sống còn ít hơn
nhiều so với những người thử tự tử hay thực tế tự tử.
Người sống cuộc sống trở thành vị phật. Bạn có
bao nhiêu chư phật? Họ có thể được đếm trên đầu
ngón tay bạn. Chỉ thỉnh thoảng mới có người như
Jesus, Zarathustra, Lão Tử. Hàng thế kỉ qua đi; hàng
triệu người tới và đi, thế rồi chỉ có một người thực sự
sống, sống đích thực, sống tới cực điểm, sống bạo
dạn. Thế thì những người khác làm gì? Cuộc sống của
họ không phải là cuộc sống; ngược lại, nó là việc né
tránh cuộc sống thường xuyên. Họ đơn giản tự bảo vệ
bản thân mình khỏi cuộc sống. Họ đang ẩn trong lỗ
đen nhân danh an ninh, an toàn, thoải mái. Họ đơn
giản cố gắng lảng tránh cuộc sống.
Bạn có thể quan sát bản thân mình - bạn có sống
không? Bạn có thể quan sát người khác quanh bạn -
họ có thực sự sống không? Mọi người chỉ trở nên
nhận biết rằng họ đã sống khi họ chết. Khi cái chết gõ
cửa bạn, bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết: "Trời đất,
mình đã sống! Và bây giờ cái chết đã tới." Nhưng khi
cái chết tới, cả triệu người cảm thấy được nhẹ gánh -
nhẹ gánh nặng, về những lo âu, về sợ sống thường
xuyên.
Chết không có sợ trong nó. Khi bạn không còn
nữa, có thể có sợ nào được? Chết không thể làm đau
bạn được - sống có thể làm đau bạn. Sống làm đau
bởi vì người ta cần rất thông minh, tỉnh táo để sống.
Nếu bạn sống vô ý thức, sống nhất định là kinh
nghiệm đau đớn, phiền não. Sống có thể là cực lạc
nữa, nhưng chỉ khi bạn tỉnh táo, nhận biết. Sống là cơ
hội, nhưng nó đòi hỏi; nó là thách thức, nó là phiêu
lưu, phiêu lưu từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc
khác vào nơi chưa hề có bản đồ.
Bạn không thể là kẻ bắt chước nếu bạn thực sự
muốn sống. Bạn không thể là người Ki tô giáo và
người Hindu và người Mô ha mét giáo. Nếu bạn thực
sự muốn sống bạn phải là bản thân mình - đơn giản là
bản thân mình. Bạn không thể là bất kì ai khác được;
đó là cách né tránh cuộc sống thực.
Thượng đế chưa bao giờ lặp lại. Ông ấy tạo ra
từng và mọi cá nhân duy nhất, tuyệt đối duy nhất. Bạn
không được chế tạo như xe hơi trên dây chuyền lắp
ráp. Do đó Jesus sẽ không bao giờ có lần nữa, Krishna
sẽ không bao giờ có lần nữa, dù họ đẹp đến đâu.
Thượng đế không tin vào bản sao; ông ấy bao giờ
cũng tạo ra các cá nhân. Ông ấy là đấng sáng tạo và
không đấng sáng tạo nào muốn lặp lại.
Nhưng đó là điều bạn đã từng được bảo phải làm,
và bạn đang làm điều đó. Ai đó cố gắng giống
Krishna hay giống Khổng Tử hay giống Mohammed;
những người này đã trở thành lí tưởng của bạn. Thế
thì bạn cứ bỏ lỡ cái bạn đang là - và đó là cách duy
nhất bạn có thể là. Bạn trở thành rởm. Vâng, là rởm
dường như có chút ít thoải mái hơn là nguyên bản, bởi
vì bạn có thể điều chỉnh theo xã hội rởm dễ dàng hơn,
thuận tiện hơn. Khi mọi người đều giả như bạn, bạn
có thể dễ dàng trở thành một phần của đám đông. Khi
bạn thực và đích thực, sống cuộc sống theo cách riêng
của bạn, theo ánh sáng riêng của bạn, không bản kế
hoạch tổng thể nào do người khác trao cho bạn - bởi
cha mẹ, bởi tu sĩ, bởi chính khách - khi bạn đang đi
mọi ngày vào trong cái không biết không có ý tưởng
về cái gì sẽ xảy ra, với sáng tạo lớn lao, nhạy cảm,
nhận biết, nhưng không có ý thức hệ cố định; khi bạn
thám hiểm những đồng cỏ mới hơn, những đỉnh mới
của bản thể, thế thì chắc chắn bạn không còn là một
phần của đám đông.
Và đám đông ghét cá nhân bởi lẽ đơn giản là họ
khác biệt thế. Nó ghét họ bởi vì họ là người nổi dậy.
Nó ghét họ bởi vì họ không thể bị bắt làm nô lệ một
cách dễ dàng; thực tế, không thể nào bắt họ làm nô lệ
được. Nó ghét họ vì thông minh của họ, nó ghét họ vì
niềm vui của họ, nó ghét họ vì tính sáng tạo của họ.
Nó muốn phá huỷ họ.
Yogananda, đó là lí do tại sao mọi người sợ sống:
sống có nhiều nguy hiểm. Phần sống đầy hiểm nguy.
Người ta chẳng bao giờ biết cái gì sẽ xảy ra khoảnh
khắc tiếp; mọi thứ đều có thể. Bạn không thể sống với
mong đợi được bởi vì cuộc sống không có nghĩa vụ
phải hoàn thành ham muốn của bạn. Bạn có thể sống
với trái tim cởi mở, nhưng bạn không thể sống với
mong đợi được. Bạn càng có nhiều mong đợi, bạn sẽ
càng thất vọng.
Và thế rồi bạn có thể đi lạc lối. Trong chết, không
ai có thể đi lạc lối; trong sống bạn có thể đi lạc lối.
Trong sống bạn có thể phạm lầm lỗi, sai lầm. Thực tế,
nếu bạn thực sự muốn sống bạn sẽ phải phạm nhiều
lỗi và nhiều sai lầm. Nhớ lấy điều đó: đừng bao giờ sợ
phạm lỗi và sai lầm; bằng không bạn sẽ bị tê liệt bởi
vì sợ. Cứ phạm sai lầm và lỗi đi. Chỉ nhớ một điều:
đừng phạm cùng sai lầm lần nữa. Một lần là đủ. Phát
minh ra sai lầm mới, khám phá ra lỗi lầm mới! Đừng
cứ rơi vào cùng rãnh - tìm ra rãnh mới! Bằng việc
phạm sai lầm, bằng việc đi lạc lối, bạn trưởng thành.
Đó là cách duy nhất để trưởng thành.
Sống là nguy hiểm; chết là rất ấm cúng, rất thoải
mái. Nằm ra trong nấm mồ của mình, có nguy hiểm
nào? Không có vấn đề gì, không lo âu. Bạn không thể
phá sản, vợ bạn không thể rời bỏ bạn, bạn không thể
chết thêm được nữa. Bạn an toàn thế trong chết! Sống
là không an toàn - bất kì cái gì cũng có thể. Sống đầy
ngẫu nhiên. Người điên nào đó có thể chặt đầu bạn...!
Tôi đã nghe:
Một nhà phân tâm lớn đang đọc, ngồi trong vườn
dưới gốc cây, và con gái ông ta, mới tám, chín tuổi
đang chơi với bạn trên bãi cỏ. Bỗng nhiên nó đánh
vào đầu đứa bạn bằng gậy cứng tới mức máu bắt đầu
chảy ra từ đầu. Nhà phân tâm chạy xô tới, nhưng
trước khi ông ta có thể nói được cái gì, con gái ông ta
quay sang ông ta và hỏi, "Bố ơi, bây giờ bảo con sao
con lại làm điều này!"
Nó phải đã nghe lặp đi lặp lại rằng bố nó cứ đi tìm
lí do cho mọi hành động, lí do vô ý thức và thế này và
thế nọ, cho nên nó hỏi, "Bây giờ bảo con sao con lại
làm điều này."
Sống có thể làm bất kì cái gì và bạn thậm chí
không thể hỏi tại sao: bạn phải chấp nhận điều đó.
Không có ai trả lời. Do đó có nỗi sợ, Yogananda. Bạn
nói, "Tôi sợ sống hơn là chết."
Mọi người đều sợ sống hơn; đó là lí do tại sao mọi
người chết. Mọi người chết gần như vào độ tuổi ba
mươi. Tất nhiên, họ không được đưa vào nấm mồ của
mình vào lúc đó; họ đi tới nấm mồ của mình quãng
tuổi bẩy mươi, tám mươi. Năm mươi năm giữa cái
chết của họ và việc họ vào trong nấm mồ chỉ là việc
kéo lê. Chính phép màu là thấy người chết vẫn bước
đi, nói, làm đủ mọi thứ. Điều đó chắc chắn là phép
màu!
Yêu cuộc sống đi. Đó là lí do tại sao với tôi sống
là tôn giáo duy nhất, thượng đế duy nhất. Sống cuộc
sống trong tính toàn bộ của nó. Và cái đẹp là ở chỗ
nếu bạn sống cuộc sống trong tính toàn bộ của nó thì
không có cái chết. Thân thể nhất định chết đi một
ngày nào đó, nhưng bạn không phải là thân thể. Nếu
bạn đã sống cuộc sống của mình một cách toàn bộ,
nếu bạn đã yêu cuộc sống của mình một cách toàn bộ,
bạn đã bắt gặp điều vĩnh hằng trong mình. Đó là gặp
gỡ với Thượng đế. Đó là đương đầu với chân lí siêu
việt trên thời gian. Và biết nó là biết phúc lạc; biết nó
là biết tất cả những cái đáng biết.
#2Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy gọi chỗ này là quán rượu ạ? Quán rượu
sao? Tôi đã bị bám vào quanh quán rượu này
trong hai năm và tôi vẫn không thể nào có được
bia đúng!
Niranjan, Perce bước vào chỗ mà bữa tối cuối
cùng đã được tổ chức, ngồi xuống bàn và nói với
người phục vụ, "Cho tôi rượu scotch và soda!"
"Tôi rất tiếc, thưa ngài," người phục vụ nói, "mọi
thứ chúng tôi phục vụ chỉ là rượu thôi."
"Được, cho tôi một miếng thịt nướng ngon vào
khoai tây bỏ lò và salad."
"Rất tiếc, nhưng mọi thứ chúng tôi phục vụ là
bánh mì thôi."
"Lạ quá! chỉ bánh mì và rượu! Anh chàng tổ chức
bữa tiệc này đáng phải bị đóng đinh!"
Niranjan, xin đừng đóng đinh tôi! Đây không phải
là bữa tối cuối cùng! Và nếu bạn không thể tìm được
bia đúng, lí do là vì bạn không phải là người đúng.
Bạn đã đầy bia rồi, làm sao có thể tìm được bia đúng?
Làm sao bạn có thể xoay xở biết cái gì là đúng và cái
gì là sai? Tôi không nghĩ rằng mạch máu của Niranjan
có máu - chỉ toàn bia! Tới Trung tâm y tế và khám
xem sao. Bạn không thể có máu trong mạch máu của
mình được: bạn thực sự đầy bia!
Nếu kẻ ăn thịt người nào đó tìm thấy bạn thì họ sẽ
nhảy múa vui vẻ lắm. Họ sẽ tìm ra bia đúng! Và họ sẽ
không giết bạn hay nấu bạn đâu - họ sẽ nhấm nháp
bạn!
Michael đón một cô tóc vàng ở quán rượu và sau
vài chầu rượu họ đi về phòng khách sạn và làm tình.
Vào giữa đêm Michael thức dậy ra nhà tắm và để ý
rằng người đàn bà đã tháo chân gỗ ra và để nó bên
cạnh giường.
Khi cô gái ngủ, Michael bắt đầu đùa với lò xo và
phanh của chân gỗ đó và cuối cùng thấy mình đã làm
rời chân gỗ ra và không thể nào gắn lại được nữa.
Anh ta đi vào trong phòng và dừng một người
nồng nặc hơi rượu, nói, "Ông có thể giúp tôi được
không? Tôi có một người đàn bà trong phòng với một
chân bị rời ra và tôi dường như không thể gắn nó lại
được."
"Đồ chết tiệt!" người say nói, "Tôi có một người
đàn bà trong phòng tôi với cả hai chân rời ra và tôi
thậm chí không thể tìm được cái phòng phải gió đó!"
#2Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Người tìm kiếm có phải chịu khổ không tránh khỏi
trên đường không?
Deva Louis, điều đó tất cả còn tuỳ. Trưởng thành
trong bản thân nó không có khổ; khổ tới từ việc chống
cự của bạn hướng tới trưởng thành. Khổ do bạn tạo ra
bởi vì bạn chống lại liên tục, bạn không cho phép nó
xảy ra. Bạn sợ đi toàn bộ với nó; bạn chỉ đi nửa vời.
Do đó mới có khổ - bởi vì bạn trở nên bị phân chia,
bạn trở nên chia chẻ. Một phần của bạn hợp tác và
một phần của bạn chống lại nó, kháng cự lại nó. Xung
đột này bên trong bạn tạo ra đau khổ.
Cho nên vứt bỏ ý tưởng này đi - nhiều người có ý
tưởng đó - rằng bạn phải khổ nếu bạn định trưởng
thành. Điều đó là cực kì vô nghĩa. Nếu bạn hợp tác
một cách toàn bộ thì không có khổ chút nào. Nếu bạn
đang trong buông bỏ, thay vì đau khổ bạn sẽ hân
hoan. Mọi khoảnh khắc của nó đều sẽ là khoảnh khắc
của phúc lạc và phúc lành.
Cho nên đừng đổ trách nhiệm lên sự trưởng thành.
Tâm trí chúng ta rất thủ đoạn và tinh ranh: nó bao giờ
cũng đổ trách nhiệm lên ai đó, lên cái gì đó; nó chưa
bao giờ nhận trách nhiệm về bản thân nó. Bạn là
nguyên nhân của khổ.
Nếu bạn có thể nhớ được ba điều.... Điều thứ nhất
là: vứt bỏ quá khứ nếu bạn muốn trưởng thành, bởi vì
chính từ quá khứ mà chống cự nảy sinh. Bạn bao giờ
cũng phán xét từ quá khứ. Quá khứ không còn nữa,
nó tuyệt đối không liên quan, nhưng nó cứ can thiệp.
Bạn cứ phán xét theo nó; bạn cứ nói, "Cái này là đúng
và cái kia là sai," và tất cả những ý tưởng đó về đúng
và sai, tất cả những phán xét đó đều tới từ cái gì đó đã
chết. Phần chết của bạn vẫn còn đè nặng lên bạn tới
mức nó không cho phép bạn di chuyển.
Vứt bỏ quá khứ hoàn toàn đi và bạn sẽ ngạc
nhiên: nhiều khổ đã biến mất.
Điều thứ hai cần nhớ là: đừng tạo ra mong đợi về
tương lai. Nếu bạn mong đợi, thế thì bạn lại sẽ tạo ra
khổ, bởi vì mọi sự sẽ không xảy ra theo ý bạn đâu;
mọi sự sẽ xảy ra theo cái toàn thể. Sóng, con sóng nhỏ
trong đại dương, không thể là nhân tố quyết định
được. Đại dương quyết định; sóng phải trong trạng
thái buông bỏ. Nếu sóng muốn đi sang phương đông,
thế thì sẽ có rắc rối, thế thì sẽ có đau đớn. Nếu gió
không thổi về phương đông, nếu đại dương không sẵn
lòng, thế thì sóng sẽ làm gì? Nó sẽ khổ. Nó sẽ gọi đó
là số mệnh, nó sẽ gọi đó là hoàn cảnh, điều kiện xã
hội, cấu trúc kinh tế, xã hội tư bản, văn hoá tư sản, vô
ý thức Freud... và bây giờ bạn sẽ gọi nó là đau đớn
phát triển. Nhưng bạn đơn giản dịch chuyển trách
nhiệm.
Điều thực là ở chỗ bạn khổ từ mong đợi của bạn.
Khi chúng không được hoàn thành - và chúng chẳng
bao giờ được hoàn thành cả - thất vọng nảy sinh, thất
bại nảy sinh, và bạn cảm thấy bị bỏ mặc, cứ dường
như sự tồn tại không chăm nom gì tới bạn.
Vứt bỏ mong đợi về tương lai đi. Vẫn còn cởi mở,
vẫn còn sẵn có cho bất kì cái gì xảy ra, nhưng đừng
lập kế hoạch trước. Đừng tạo ra ý tưởng tâm lí, cố
định nào về tương lai - rằng mọi sự phải như thế này -
và nhiều khổ nữa sẽ biến mất. Hai điều này là nguyên
nhân gốc rễ của khổ.
Và điều thứ ba là: phong trào Tiềm năng Con
người thiếu cái gì đó bản chất. Nó cố giúp bạn trưởng
thành, nhưng nó lại chưa có khả năng tạo ra không
gian thiền trong bạn. Cho nên có vật lộn thường
xuyên, nỗ lực, ý chí, nhưng không có thảnh thơi,
không có nghỉ ngơi. Do đó điều thứ ba cần được nhớ
và mọi khổ sẽ biến mất: tạo ra năng lượng thiền, tạo
ra không gian thiền trong bạn. Phương pháp phương
Tây thiếu cái gì đó rất bản chất.
Đó là lí do tại sao ở đây trong công xã của tôi nỗ
lực là để dùng mọi phương pháp phương Tây bên
cạnh mọi phương pháp phương Đông. Đây có thể là
chỗ duy nhất trên toàn thế giới ngày nay nơi Đông và
Tây thực sự gặp gỡ, và không gặp gỡ theo cách ngoại
giao như họ gặp nhau ở Liên hợp quốc. Ở đây họ thực
sự hội nhập - không chính trị, không ngoại giao, bởi
vì gặp gỡ ngoại giao không phải là gặp gỡ, nó chỉ là
mẽ ngoài, nó là rởm. Chính gặp gỡ tình yêu đang xảy
ra ở đây. Lần đầu tiên Đông và Tây ở trong chuyện
tình.
Phương Tây đã phát triển vài phương pháp rất
quan trọng: động thái, đương đầu, nguyên thuỷ, sinh
năng và nhiều thứ khác. Phương Đông cũng đã phát
triển nhiều phương pháp: ngồi thiền, Vipassana, xoáy
tít Sufi, yoga, Mật tông. Cách tiếp cận của họ khác
nhau, khác tới mức cả hai chỉ có một nửa của một
toàn thể; do đó cả hai đều thiếu cái gì đó. Phương
pháp phương Đông có thể tạo ra không gian thiền,
nhưng họ làm cho bạn hướng nội tới mức bạn bắt đầu
trốn khỏi cuộc sống; mọi phương pháp phương Đông
đề đã chứng tỏ là kẻ trốn chạy trong quá khứ. Bạn
muốn đi vào tu viện, bạn muốn đi lên Himalaya, bạn
muốn đi vào hang động ở đâu đó và sống một mình.
Họ dạy bạn cách ở một mình, vui vẻ một mình -
nhưng thế thì cái gì đó bị lỏ lỡ.
Sống cũng là quan hệ, sống cũng là cùng nhau,
sống cũng là giao cảm. Điều hay là phúc lạc khi bạn
một mình, nhưng đó chỉ là một nửa câu chuyện; bạn
cũng nên phúc lạc khi bạn ở cùng với ai đó. Và khi
bạn phúc lạc với ai đó, phúc lạc đạt tới đỉnh cao hơn.
Khi bạn một mình bạn giống như người độc tấu sáo;
khi bạn phúc lạc với nhau trong quan hệ, âm nhạc
giống dàn nhạc nhiều hơn.
Phương Tây đã tạo ra các phương pháp cho bạn
sức thúc đẩy nhiều hơn tới hướng ngoại. Họ cho phép
bạn dùng các phương pháp, kĩ năng để quan hệ, và để
tận hưởng mối quan hệ. Chúng là các phương pháp
yêu, nhưng cái gì đó bị lỡ. Bạn tận hưởng quan hệ,
nhưng bất kì khi nào bạn một mình... và về bản chất
bạn đều một mình. Bạn được sinh ra một mình và bạn
sẽ chết đi một mình, và tại cốt lõi sâu nhất của bản thể
mình, bạn bao giờ cũng một mình. Cho nên trên bề
mặt bạn vẫn còn hạnh phúc, nhưng sâu bên dưới dòng
chảy tinh tế của khổ vẫn tiếp tục. Bạn không thể
đương đầu với bản thân mình được, bạn không thể đối
diện với bản thân mình, bạn không thể gặp gỡ bản
thân mình.
Phương Tây đã thất bại bởi vì mọi thứ nó đã phát
triển đều hướng ngoại; phương Đông đã thất bại bởi
vì tất cả những điều nó đã phát triển đều hướng nội.
Và con người không hướng ngoại không hướng nội.
Tôi muốn điều được nói công khai ra là phân loại
của Carl Gustav Jung là tuyệt đối sai. Con người
không thể bị phân chia dễ dàng thế thành các phân
loại - rằng ai đó là hướng ngoại và ai đó là hướng nội
- bởi vì con người là toàn bộ, một toàn thể. Con người
có bên trong và con người có bên ngoài, và cả hai đều
phải được nuôi dưỡng và cả hai đều phải được hoàn
thành.
Cho nên nếu bạn chỉ theo phương pháp phương
Tây bạn sẽ trải qua nhiều đau đớn bởi vì bạn sẽ không
có khả năng tạo ra không gian thiền qua chúng. Nếu
bạn chỉ theo phương pháp phương Đông bạn sẽ có
khả năng tạo ra không gian thiền, nhưng bạn sẽ trở
nên tuyệt đối vô dụng trong thế giới, và bạn sẽ bỏ lỡ
sự giầu có tới trong giao cảm với các sinh linh khác.
Nỗ lực của tôi ở đây là để tạo ra sự tổng hợp đầu
tiên giữa hướng ngoại và hướng nội và giúp con
người trở nên có khả năng của cả hai, cùng nhau,
đồng thời, dễ dàng chuyển từ hướng ngoại sang
hướng nội và từ hướng nội sang hướng ngoại tới mức
không cần phân chia con người thành các phân loại
như thế. Con người có thể trở nên linh động thế.
Điều đó đơn giản như khi bạn ra khỏi nhà mình:
bạn không nghĩ rằng bạn đang trở nên hướng ngoại
khi đi ra khỏi nhà mình. Khi bạn cảm thấy trời lạnh
bên trong nhà và ngoài nhà không có mây và trời
nắng, bạn bước ra, nhưng bạn không nghĩ chút nào.
Bạn không quyết định, "Bây giờ mình muốn là người
hướng ngoại." Hay khi mặt trời trở nên quá nóng và
bạn bắt đầu cảm thấy bức, bạn không ra quyết định
một cách có chủ ý, "Mình phải đi vào. Bây giờ mình
muốn là người hướng nội." Không, khi mặt trời quá
nóng bạn đơn giản đi vào nhà! Và khi bên trong quá
lạnh bạn đi ra ngoài. Đi ra khỏi nhà hay đi vào nhà
không phải là vấn đề chút nào, bởi vì bạn tự do với
bên trong và bên ngoài.
Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn được tự do với
bên trong và bên ngoài, bởi vì bạn không là bên trong
không là bên ngoài, bạn là cái gì đó siêu việt trên cả
hai. Cái bên trong và cái bên ngoài chỉ là các bộ phận
của tính cách của bạn; nó là ngôi nhà trong đó bạn
sống mà có cả bên ngoài và bên trong. Nhưng nhận
biết của bạn không có bên trong và không có bên
ngoài.
Cho nên ba điều này cần được nhớ: vứt bỏ quá
khứ, vứt bỏ mong đợi tương lai, và điều thứ ba, tạo ra
sự tổng hợp giữa hướng ngoại và hướng nội... và mọi
khổ biến mất.
Deva Louis, khổ không phải là không thể tránh
được đối với người tìm kiếm tâm linh. Khổ của bạn là
vì bạn không nhận biết về trách nhiệm riêng của
mình. Không phải bởi vì sự trưởng thành mà bạn khổ.
Khổ của bạn là vì bạn vô ý thức về sự chống đối của
mình, về khuynh hướng quá khứ của bạn, về mong
đợi tương lai của bạn, và bạn vô nhận biết rằng bạn
không có không gian thiền nào bên trong mình.
#2Câu hỏi thứ năm:
Thưa Thầy kính yêu,
Liệu có thể bỏ lỡ người quí hoàn hảo không?
Điều đó là có thể không?
Prem Maitri, điều đó tuỳ thuộc vào bạn có ý thức
thế nào. Nếu bạn có ý thức thì không thể bỏ lỡ được.
Nếu bạn thực sự biết người quí hoàn hảo, nếu bạn
nhận ra nó, nếu nó là linh ảnh riêng của bạn, hiểu biết
riêng của bạn, thì không thể nào bỏ lỡ nó được.
Nhưng nó có thể không như vậy. Bạn có thể đã nghe
người khác nói, "Đây là người quí hoàn hảo"; điều đó
có thể là hiểu biết được vay mượn. Thế thì đấy không
chỉ là khả năng bỏ lỡ nó, điều tuyệt đối không tránh
khỏi là bạn bỏ lỡ nó - không thể nào không bỏ lỡ nó.
Nếu bạn bắt gặp vị phật và bạn bày tỏ kính trọng
chỉ bởi vì người khác đang bày tỏ kính trọng của họ,
bởi vì người khác đang nói, "Ông ấy là vị phật, ông ấy
đã chứng ngộ, ông ấy đã thức tỉnh," bạn sẽ lỡ. Nhưng
nếu bạn cho dù có một thoáng nhìn của riêng mình
vào bản thể của vị phật, chỉ chút ít hương vị môi
trường của ông ấy, chỉ một kinh nghiệm nhỏ về
hương thơm của ông ấy, thế là đủ; không thể nào bỏ
lỡ được. Thế thì không lực nào trên thế giới có thể
làm sao lãng được bạn. Nhưng nó phải là kinh nghiệm
riêng của bạn. Và chúng ta vô ý thức tới mức chẳng
cái gì dường như là kinh nghiệm riêng của chúng ta.
Mọi người nói rằng Jesus là Christ, cho nên bạn
tin vào điều đó. Nhưng những người đã đóng đinh
ông ấy, họ chẳng thể thấy được cái gì trong ông ấy cả;
bằng không, bạn có cho rằng có khả năng cho họ
đóng đinh một người như Jesus không? Họ đã đóng
đinh ông ấy dễ dàng thế. Chẳng cảm thấy vấn đề gì;
lương tâm của họ không bị quấy rối. Họ đã làm điều
đó cũng như họ vẫn thường giết các tội phạm mọi
năm. Ngày họ đóng đinh Jesus họ cũng đã đóng đinh
hai kẻ cắp. Họ đối xử với cả ba người này theo cùng
cách; thực tế, họ đối xử với kẻ cắp theo cách còn nhân
đạo hơn vởi vì kẻ cắp giống họ nhiều hơn.
Hàng nghìn người đã tụ tập lại để xem. Không ai
than, không ai khóc, không ai có đau đớn gì trong tim.
Ngay cả các đệ tử riêng của Jesus cũng trốn hết, sợ
rằng họ có thể bị bắt.
Khi mọi người đã đi rồi - khi màn trình diễn đã
xong rồi - và Jesus đã gần chết trên cây thập tự, ba
người lính ở đó chơi bài. Họ có bổn phận canh giữ để
không ai có thể đánh cắp xác chết của Jesus. Cho nên
chỉ ngồi dưới cây thập tự họ chơi bài!
Và Maitri, bạn hỏi, "Liệu có thể bỏ lỡ người quí
hoàn hảo không?"
Ba người lính kia là người hệt như bạn thôi. Tất
nhiên, bây giờ bạn sẽ nghĩ, "Những người lính kia
phải đã hoàn toàn ngu xuẩn, những kẻ tội đồ lớn, vô ý
thức, không biết điều họ đang làm - chúng ta không
thể làm điều đó," bởi vì bây giờ bạn đã nghe tuyên
truyền trong hai nghìn năm liên tục rằng Jesus là
Christ. Nhưng người Do Thái vẫn không nghĩ rằng
ông ấy là Christ; họ vẫn nghĩ rằng ông ấy là lang băm,
rằng ông ấy là kẻ lừa dối, rằng ông ấy là cứu tinh giả.
Tuyên truyền liên tục trong hai nghìn năm đã không
ích chút nào; họ vẫn níu bám lấy ý tưởng của họ.
Bạn có cho rằng bạn sẽ nhận ra Phật không? Bây
giờ, tất nhiên - bởi vì bây giờ hai mươi nhăm thế kỉ đã
qua rồi và Phật đã trở nên ngày càng lớn hơn, khổng
lồ thế; ông ấy lừng lững trên đường chân trời như mặt
trời mọc đẹp đẽ - bạn không thể nào tin được rằng
mọi người có thể đã bỏ lỡ ông ấy. Nhưng họ đã bỏ lỡ
ông ấy! Ngay cả bố của ông ấy cũng không thể nhận
ra được rằng ông ấy đã chứng ngộ; ngay cả vợ của
ông ấy cũng không thể nào nhận ra được rằng ông ấy
đã chứng ngộ. Chỉ có vài người có dũng cảm nhận ra
ông ấy - bởi vì nhận ra ông ấy nghĩa là bạn phải thay
đổi kiểu sống của mình, nhận ra ông ấy nghĩa là bạn
không thể vẫn còn như cũ chút nào. Nhận ra vị phật
nghĩa là bạn đang thức dậy.
Quán cà phê lớn đang đông đúc. Một hàng người
dài mang khay di chuyển chậm chạp tới quầy thì ai đó
hô lên, "Cháy! Nhà McGinty cháy rồi!"
Khay đĩa vỡ lảng xoảng khi một người Italia ở
đầu hàng nhảy bổ điên cuồng ra khỏi nhà hàng, chạy
quanh góc phố, và sang bên kia phố, đâm sầm vào
mọi người và xô ngã nhiều người khi anh ta tìm lối
chạy về nhà.
Thế rồi, bất ngờ, sau khi anh ta thoát chết trong
gang tấc nhiều lần, người này dừng lại, vỗ tay lên đầu
và gào lên, "Này, tôi đang làm gì nhỉ? Tên tôi không
phải là McGinty!"
Mọi người đang sống trong vô ý thức thế. Nói gì
tới việc nhận ra vị phật? - bạn thậm chí không biết
mình là ai!
Maitri, có thể bỏ lỡ người quí hoàn hảo nếu bạn
không nhận biết. Nhưng nếu bạn nhận biết thì không
thể nào bỏ lỡ được. Tất cả đều tuỳ thuộc vào nhận
biết của bạn.
#2Câu hỏi thứ sáu:
Thưa Thầy kính yêu,
Thượng đế có thực sự làm ra thế giới không, và
chỉ trong sáu ngày?
Sujata, nhìn vào thế giới, một điều là chắc chắn:
nó đã được làm ra trong vội vàng. Bất kì ai đã làm ra
nó, nó trong đống lộn xộn tới mức nó phải đã được
làm ra trong sáu ngày. Liệu Thượng đế có làm ra nó
hay không thì tôi không thể nói được, bởi vì nếu bạn
nhìn vào thế giới nó dường như giống sáng tạo của
quỉ hơn là của Thượng đế!
Con người có tính phá huỷ, bạo hành, điên khùng
tới mức rất không thể nào có chuyện Thượng đế đã
làm ra kiểu tâm trí này. Hoặc là quỉ làm ra nó hoặc đó
chỉ là lần đầu tiên Thượng đế làm ra nó cho nên ông
ấy đã phạm phải nhiều sai lầm. Và ông ấy đã trở nên
sợ việc sáng tạo riêng của mình tới mức ông ấy đã
không thử lại nữa. Dường như ông ấy đã trốn mất rồi!
Nhìn điều mình đã làm, ông ấy phải đã trở nên khiếp
đảm.
Câu chuyện là ở chỗ ông ấy đã làm ra cấy cối và
núi non và dòng sông và con vật. Vào ngày thứ sáu
ông ấy làm ra con người và kể từ đó ông ấy đã không
làm cái gì nữa. Dường như con người đã đưa ông ấy
về ý thức của ông ấy: "Mình đang làm gì nhỉ?" Ông
ấy đơn giản dừng lại một cách tuyệt đối.
Nhưng, Sujata, sao những câu hỏi như vậy lại làm
bạn bận tâm? Nó chẳng phải là việc của bạn! Một
điều là chắc chắn: bạn đã không làm ra nó, cho nên
sao bạn phải lo nghĩ? Bạn không chịu trách nhiệm, tôi
không chịu trách nhiệm - tôi đã không làm ra nó. Cho
nên sao chúng ta phải phí thời gian của mình với nó?
Có nhiều người khùng người chẳng có gì để làm - để
điều đó cho họ nghĩ đi. Đây là chủ đề lớn lao; người
ta có thể cứ nghĩ về chúng mãi mãi; chúng không
chấm dứt. Đó là lí do tại sao triết lí bắt đầu nhưng
không bao giờ chấm dứt, thượng đế học bắt đầu
nhưng không bao giờ chấp dứt. Nó đi trong vòng tròn.
Từng câu trả lời đều đem tới nhiều câu hỏi hơn nó trả
lời.
Nếu tôi nói, "Vâng, Thượng đế đã làm ra nó," thế
thì lập tức nhiều câu hỏi sẽ nảy sinh: "Tại sao ông ấy
đã làm ra nó ngay chỗ đầu tiên? Sao ông ấy không hỏi
chúng ta liệu chúng ta có muốn được làm ra hay
không? Điều này dường như là hành độc độc đoán
thế, không dân chủ chút nào - mọi người được làm ra
mà thậm chí không hỏi họ! Và tại sao ông ấy làm ra
kiểu thế giới này khi ông ấy là toàn năng, toàn diện,
toàn thức? Ông ấy phải đã thấy điều gì sắp xảy ra,
ông ấy phải thấy tương lai chứ. Ông ấy phải đã thấy
rằng sẽ có Genghis Khan và Tamerlane và Adolf
Hitler và Mussolini và Tojo; ông ấy phải đã thấy tất
cả những người này chứ. Ông ấy phải đã thấy rằng
con người sẽ đánh nhau hàng nghìn cuộc chiến tranh.
Ông ấy phải đã thấy rằng chẳng chóng thì chầy con
người sẽ khám phá ra bom nguyên tử và bom khinh
khí và tia chết và đủ thứ linh tinh khác. Thế thì tại sao
ông ấy đã tạo ra thế giới này? Ông ấy có là bạo chúa
không? Ông ấy có thích thú mọi khổ sở này không?
Và cả triệu người sống trong khổ thế - và ông ấy tiếp
tục làm gì? Ông ấy không thể tới và giúp được sao?"
Trong kinh sách có nói... trong Shrimad
Bhagavadgita, Krishna tuyên bố: Ta sẽ tới bất kì khi
nào có quá nhiều khổ sở. Thế chưa đủ sao, nỗi khổ
mà con người đang sống bây giờ? Khi nào ông ấy sẽ
tới? Và ông ấy làm gì khi ông ấy thực sự tới? Ông ấy
đã chẳng giúp người nào. Thực tế, vào thời của ông
ấy đã diễn ra cuộc chiến lớn nhất ở Ấn Độ. Nếu
chúng ta tin vào kinh sách, biết bao nhiêu người đã
chết trong cuộc chiến đó... toàn thể Ấn Độ đã không
thể chứa được nhiều người thế. Thậm chí bây giờ toàn
thế giới chỉ chứa nhiều hơn ba lần. Đó phải đã là cuộc
chiến nào đó! Ngày nay cuộc chiến như vậy chắc đã
là còn một người trong ba người; vào những ngày đó,
năm nghìn năm trước, dân số không lớn thế. Nó có
thể đã là tận cùng của toàn thể nhân loại. Đó là loại
giúp đỡ gì vậy?
Và Thượng đế tới trong Jesus: ngài chỉ phái đứa
con duy nhất của ngài tới cứu nhân loại. Không ai
dường như đã được cứu. Jesus thậm chí đã không thể
cứu được bản thân mình - ông ấy đã bị đóng đinh! Vị
cứu tinh bị đóng bởi những người mà ông ấy đã tới;
ông ấy đã tới để cứu họ.
Cả nghìn câu hỏi sẽ nảy sinh. Bỏ những câu hỏi
đó cho người điên đi.
Hai bạn tù của viện tâm thần Michigan đang tán
gẫu trong phòng giải trí. Người điên thứ nhất nói,
"Đừng nói với ta, ta là Napoleon!"
"Ông ngụ ý gì vậy, ông là Napoleon à?" người
điên thứ hai hỏi.
"Ta bảo ông đừng nói với ta. Ta là Napoleon."
"Làm sao ông biết ông là Napoleon?"
"Thượng đế bảo ta, ta là Napoleon."
Một tiếng nói nhỏ bé lanh lảnh cất ra từ góc
phòng, "Ta không nói thế!"
Cứ để những vấn đề thượng đế học như thế cho lũ
điên!
Một số khách thăm tới nhà thương điên được
người gác đưa đi quanh.
"Ông thấy người đàn ông ở chỗ kia không?"
người gác nói. "Anh ta nghĩ anh ta là Trời."
Một trong những khách thăm tiến tới người điên
và hỏi, "Ông có thực sự làm ra trái đất này trong bẩy
ngày không?"
Người điên cười khẩy vào ông ấy, "Ta không
trong tâm trạng nói tới công việc!"
Sujata, đây không thực sự là những câu hỏi tôn
giáo đâu, mặc dầu người tôn giáo đã từng nói về
những câu hỏi này trong hàng thế kỉ - bởi vì tôn giáo
đã từng bị người mất trí chi phối hàng thế kỉ.
Những câu hỏi tôn giáo thực liên quan tới bạn, với
vô ý thức của bạn và cách biến đổi vô ý thức của bạn
thành ý thức. Tôn giáo thực không phải là siêu hình;
nó được bắt rễ trong tâm hồn, nó có tính tâm hồn, bởi
vì tôn giáo thực nghĩa là cách siêu việt lên trên tâm
trí. Chừng nào bạn chưa hiểu tâm trí bạn không thể
siêu việt lên trên nó được.
#2Câu hỏi thứ bẩy:
Thưa Thầy kính yêu,
"Giữ mồm miệng," thầy nói.
Khó thay! Gần như không thể được cho người
Italia. Cách tiếp cận của tôi tới Bồ đề tâm trong
những ngày này được chứa trong câu chuyện nhỏ
này mà đã từng ám ảnh tôi trong nhiều tháng:
Có người nhỏ bé này (bất kì ai) mà tôi gặp trên
phố (bất kì đâu) và người đó rất khổ, giống như
mọi người ở mọi nơi... và thấy tôi sau một thời
gian dài, người đó nói, "Này, anh trông khá thế!"
"Hừ," tôi đáp, "tôi muốn nói cùng điều đó với
anh, nhưng anh trông buồn thế!"
"Này, anh biết cuộc đời tôi đấy... Tôi cảm thấy
khổ thế. Nhưng anh thì sao? Sao anh trông rạng
ngời thế?"
"Thế này," tôi nói với anh ta bằng một nụ cười,
"tôi đã tìm ra thầy."
"À!" anh ta nhìn tôi một cách buồn bã. "và sao
anh lại không bảo tôi?"
Cho nên xin thầy, thầy và các anh chàng khác,
Phật, đừng bảo tôi giữ mồm miệng. Tôi không thể
chịu được anh chàng nhỏ bé cứ gõ cửa ngay cả
khi tôi đang nhảy múa, và hỏi, "Sao anh không
bảo tôi?"
Sarjano, bây giờ bạn đã bảo anh ấy rồi, điều gì
xảy ra? Người nhỏ bé đó chưa tới tôi. Chỉ việc bạn
bảo người đó thì sẽ không tạo ra khác biệt gì đâu;
người đó đơn giản nghĩ rằng bạn điên.
Người khổ nghĩ rằng nếu bạn trông phúc lạc thì
bạn điên. Họ không thể tin được rằng bất kì ai cũng
có thể phúc lạc; điều đó ở bên ngoài việc hiểu thấu
của họ. Toàn thể cuộc sống của họ là khổ thế, làm sao
họ có thể tin được có khả năng nào của việc được
phúc lạc? - trừ phi bạn điên. Nếu bạn bảo họ rằng bạn
đã tìm thấy thầy họ có thể không nói gì trước mặt bạn,
nhưng sau lưng bạn họ sẽ cười bạn; họ sẽ nghĩ cái gì
đó đã đi sai. Họ sẽ không tin bạn. Làm sao người ta
có thể trở nên phúc lạc bằng việc tìm ra thầy được?
Họ không thể thấy ra được mối quan hệ họ hàng nào
giữa vấn đề của họ và việc tìm ra thầy. Nếu vợ của họ
chì chiết họ tới chết, làm sao việc tìm ra thầy sẽ thay
đổi được điều đó? Bây giờ thầy sẽ chì chiết bạn còn
hơn! Nếu họ khổ do ác mộng - và mọi người đều khổ
từ ác mộng, ngày nọ, ngày kia - làm việc tìm ra thầy
sẽ giúp được sao? Họ không thể hiểu được nghĩa nào
của phát biểu này.
Tôi có thể hiểu được khó khăn của bạn, Sarjano.
Rất khó giữ im lặng khi bạn biết câu trả lời, nhưng
một phần của việc là Bồ tát là học nghệ thuật im lặng.
Để cho họ hỏi đi hỏi lại. Để cho họ cảm thấy rằng
phúc lạc của bạn không phải chỉ là cái gì đó điên rồ,
rằng phúc lạc của bạn là cái gì đó thực, đích thực. Cứ
để họ cảm thấy điều đó theo cách riêng của họ. Để họ
tới và gõ cửa nhà bạn lặp đi lặp lại.
Chỉ vào đúng khoảnh khắc, khi bạn thấy rằng họ
có thể hiểu được, khi bạn cảm thấy rằng trái tim họ
cởi mở, khi bạn thấy niềm khao khát thực, niềm mong
ước trong họ, khi việc tìm kiếm đã nảy sinh trong họ,
chỉ thế thì mới nói với họ; bằng không bạn sẽ đơn
giản làm phí hơi mình. Và nếu bạn cứ nói với mọi
người và không ai lắng nghe, chẳng chóng thì chầy
bạn sẽ cảm thấy rất mệt mỏi về toàn thể sự việc.
Phật là phải - rằng anh chàng kia gần như bao giờ
cũng đúng. Tất nhiên, ông ấy không nói cho người
Italia! Đó không phải là vấn đề của ông ấy, đó là vấn
đề của tôi! Nhưng tôi biết cách xoay xở điều đó.
Chân lí khăng khăng rằng nó phải được nói ra,
mặc dầu nó không thể được nói ra - đó là điều ngược
đời - nhưng nó khăng khăng rằng nó phải được nói ra.
Khi bạn biết và bạn thấy rằng người khác có thể
được giúp, không thể nào cưỡng lại được cám dỗ nói
cho họ - nhưng đó là phần của việc là Bồ tát.
Ai đó khác đã hỏi: "Thưa Thầy kính yêu, thầy nói
năm mươi phần trăm số người trở thành a la hán và
năm mươi phần trăm trở thành Bồ tát. Dầu vậy thầy
nói đi nói lại rằng có nhiều nhà huyền môn mà rất ít
thầy - dường như có mâu thuẫn trong đó...?"
Không có mâu thuẫn nào trong đó cả. Vâng,
dường như có đấy, nhưng chỉ dường như thôi. Không
phải tất cả Bồ tát đều là thầy. Bồ tát là người cố giúp
người khác; thầy là người thành công trong việc giúp
người khác. Chỉ cố không có nghĩa là bạn sẽ thành
công. Nhiều người cố, rất ít người thành công. Bất kì
ai đạt tới chân lí đều nhất định bị cám dỗ nói nó. Nếu
người đó theo bản chất không phải là a la hán thì
người đó sẽ cố nói nó cho từng người và mọi người,
và người đó sẽ bị coi là dở hơi. Trao đổi là nghệ thuật
khó, và trao đổi chân lí tối thượng là hiện tượng khó
nhất trên thế giới. Thầy là người chờ cho tới đúng
thời.
Nhiều người đã hỏi tôi tại sao tôi giữ im lặng mặc
dầu tôi đã trở nên chứng ngộ năm 1953. Trong gần
hai mươi năm tôi chưa bao giờ nói điều gì về nó cho
bất kì ai, trừ phi ai đó đích thân hoài nghi về nó, trừ
phi ai đó nói với tôi về hoài nghi của người đó,
"Chúng tôi cảm thấy rằng cái gì đó đã xảy ra cho ông.
Chúng tôi không biết nó là gì, nhưng một điều là chắc
chắn: rằng cái gì đó đã xảy ra và ông không còn là
cùng người như chúng tôi đang là - và ông đang che
giấu điều đó."
Trong hai mươi năm đó không quá mười người đã
hỏi tôi, và cho dù tôi đã né tránh họ nhiều nhất có thể
được trừ phi tôi cảm thấy rằng ham muốn của họ là
chính đáng. Và tôi chỉ nói với họ khi họ đã hứa giữ bí
mật điều đó. Và họ tất cả đều hoàn thành điều đó. Bây
giờ họ tất cả đều là sannyasin, nhưng họ tất cả đều
hoàn thành điều đó, họ giữ nó là điều bí mật. Tôi nói,
"Ông đợi đấy. Đợi cho đúng khoảnh khắc. Chỉ thế thì
tôi sẽ công bố nó."
Tôi đã học nhiều từ chư phật quá khứ. Nếu Jesus
mà giữ yên tĩnh hơn chút ít về việc là con của Thượng
đế thì chắc đã ích lợi cho nhân loại hơn nhiều. Tôi đã
thấy ra vấn đề là chừng nào tôi chưa dừng việc du
hành trong cả nước tôi sẽ không tuyên bố về nó; bằng
không tôi sẽ bị giết - bạn chắc đã không ở đây.
Có lần tôi đã chấm dứt việc du hành, trộn lẫn vào
đám đông, chuyển từ thị trấn này sang thị trấn khác....
Trong hai mươi năm liên tục tôi đã di chuyển, và đã
không có một vệ sĩ nào. Shiva và các võ sĩ đạo của
anh ấy còn chưa tới! Và tôi thường xuyên trong nguy
hiểm. Đá ném vào tôi, giầy ném vào tôi.
Tôi tới một thị trấn sau khi du hành hai mươi bốn
giờ trên tàu hoả và đám đông không cho tôi xuống ga;
họ buộc tôi quay về. Đánh nhau xảy ra sau đó giữa
những người muốn tôi xuống tàu và những người
không muốn tôi xuống, ít nhất là vào thị trấn của họ.
Nếu tôi mà công bố điều đó tôi chắc đã bị giết rất
dễ dàng. Sẽ chẳng có vấn đề gì trong điều đó; nó sẽ
đơn giản thế. Nhưng trong hai mươi năm tôi đã giữa
tuyệt đối im lặng về điều đó. Tôi đã tuyên bố điều đó
chỉ khi tôi thấy rằng bây giờ tôi đã thu thập đủ người
có thể hiểu được điều đó. Tôi đã thu thập được đủ
người, những người của tôi, người thuộc về tôi. Tôi
tuyên bố điều đó chỉ khi tôi biết rằng bây giờ tôi có
thể tạo ra thế giới nhỏ riêng của tôi và tôi không còn
quan tâm tới đám đông và quần chúng và dân chúng
ngu xuẩn.
Sarjano, có khó khăn đấy. Tôi có thể hiểu được
khó khăn của bạn. Nhưng xin giữ cái mồm to của bạn
ngậm lại - người Italy hay không Italy! Bằng không
bạn sẽ đơn giản bị coi là dở hơi. Và nếu bạn không
thể giữ được mồm đóng lại, thế thì tôi sẽ tuyên bố,
"Anh ấy dở hơi!" Thế thì chẳng ai sẽ nghe bạn. Thế
thì bạn có thể cứ nói với những người nhỏ bé này,
"Tôi đã tìm thấy thầy," nhưng họ sẽ nói, "Thầy nói
ông dở hơi!"
#2Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao mọi thứ đều lộn tùng phèo ở đây?
Anurati, nó phải thế thôi bởi vì người Italia đấy!
Người ta phải tìm ra lí do nào đó....
Người Italia chết và lên Ngọc Môn tại đó anh ta
được Thánh Peter đón chào và có ấn tượng với Sách
Vàng. Sau khi nhìn chăm chú vào khuôn mặt nông,
cằm yếu và đôi mắt gian giảo của đương đơn mới,
Thánh Peter tuyên bố với giọng rền vang như sấm,
"Ta tin ông không phải là người Italia?"
Giọng của Thánh Peter trở nên sang sảng, "Ông
có phải là người Italia không?"
Lời đáp của người Italia thật nhu mì, "Dạ không ạ,
thưa ngài, tôi là người Puerto Rico."
Thánh Peter mỉm cười. "Qua, anh bạn," ông ấy
nói, "Vào đi."
Ngay cả Thánh Peter cũng sợ!
Và thế rồi có một cô gái Italia - xấu tới mức khi
cô ấy đi vào phòng tất cả chuột đều nhảy lên ghế.
Người nào có thể hoài nghi rằng New York là
thành phố lớn?
Người Do Thái sở hữu nó, người Ai rơ len cai
quản nó - và người Italia sau năm mươi năm vẫn còn
tự hỏi cái gì đã xảy ra!
Columbus tình cờ phát hiện ra châu Mĩ thế nào?
Ông ấy cố gắng thoát ra khỏi Italy.
Thượng đế đã nói gì khi ngài làm ra người Italy
đầu tiên?
"Cứt! Tao đéo làm nữa!"
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#3Con đường yên tĩnh tới nước hạnh phúc
Ông không có tên và không có hình hài.
Sao bỏ lỡ điều ông không có?
Người tìm kiếm không buồn khổ.
Yêu và vui vẻ
đi theo đạo,
Con đường yên tĩnh tới nước hạnh phúc.
Người tìm kiếm!
Làm rỗng thuyền,
Làm nhẹ tải,
đam mê và ham muốn và hận thù.
Và lên tàu nhanh chóng.
Có năm người ở cửa
hãy đuổi đi, và năm người nữa,
và có năm người đón vào.
Và khi năm người đã ra đi
bị mắc cạn trên bờ,
Người tìm kiếm được gọi là oghatinnoti -
"Người đã đi qua."
Một bạn tù mới được đưa vào nhà thương điên
California. Anh ta dường như hoàn toàn sung sướng -
thực tế, anh ta còn cười hô hố. "Họ hàng gần nhất?"
bác sĩ khám hỏi.
"Anh em sinh đôi," anh chàng này đáp. "Chúng
tôi là anh em sinh đôi hệt nhau. Khôn ai có thể phân
biệt được chúng tôi. Ở trường nó ném đạn giấy và
thầy mắng tôi. Có lần nó bị bắt vì chạy quá tốc độ và
chánh án phạt tôi. Tôi có bạn gái, nó đi với cô ấy."
"Thế sao anh cười?"
"Vì tôi thậm chí đã gặp nó tuần trước."
"Chuyện gì xảy ra?"
"Tôi chết và họ chôn nó."
Con người điên. Tính điên không phải là bệnh, nó
là ước định thông thường của nhân loại. Vâng, mọi
người khác nhau ở mức độ, nhưng điều đó chẳng có
gì mấy khác biệt. Con người như người đó tồn tại trên
trái đất đã là không lành mạnh.
Nỗ lực của mọi chư phật là để đem lành mạnh lại
cho bạn, xua tan cái điên khùng của bạn. Nhưng bởi
vì mọi người đều điên, cũng giống bạn, bạn vẫn còn
quên lãng về sự kiện này trong cả đời mình. Chừng
nào bạn còn chưa bắt gặp một vị phật bạn sẽ không
bao giờ nhận biết về sự kiện rằng bạn điên. Vị phật
trở thành tấm gương: ông ấy phản chiếu thực tại của
bạn, ông ấy chỉ ra khuôn mặt của bạn như nó vậy - và
nó toàn toàn bị bóp méo. Nó không phải là cách bạn
được ngụ ý là vậy. Cái gì đó về căn bản đã đi sai, cái
gì đó rất cơ bản đang bị bỏ lỡ.
Con người được sinh ra trong trạng thái vô ý thức
tới mức bất kì điều gì người đó làm cũng đều đem lại
ngày một nhiều khổ hơn cho người đó và cho người
khác. Người đó cứ oán trách số phận, người đó cứ oán
trách tự nhiên, người đó cứ oán trách xã hội - nhưng
người đó bao giờ cũng cứ oán trách người khác,
người đó không bao giờ tự trách mình. Khoảnh khắc
bạn thu đủ dũng cảm để trách bản thân mình, khoảnh
khắc bạn chấp nhận trách nhiệm về bất kì cái gì bạn
là, một tia sáng đi vào trong bản thể bạn. Bạn đang
trên con đường của biến đổi bên trong.
Những lời kinh này là dành cho các Bồ tát. Bây
giờ Phật đang nói cho các Bồ tát của ông ấy - cho
những đệ tử đang trở thành người giúp đỡ cho nhân
loại, người sẵn sàng đi vào trong thế giới và giúp
những người đang chìm trong cái không lành mạnh
của riêng họ - Phật đang nói với các Bồ tát của ông
ấy, "Đây là những điều cơ bản các ông phải bắt đầu
việc thuyết giảng của mình."
Điều thứ nhất ông ấy nói: Nói với mọi người
rằng... Ông không có tên và không có hình hài - bởi vì
đó là nơi hàng triệu người mắc kẹt. Mọi người sống
và chết vì tên tuổi và danh vọng. Dường như mục
đích sống của họ là để có tên được toàn thế giới biết
tới, cái tên sẽ được viết bằng chữ vàng trong lịch sử,
cái tên sẽ cứ vang vọng theo hành lang thời gian tới
mãi mãi.
Và toàn thể chuyện này sao ngu thế, lố bịch thế,
bởi vì bạn không có tên nào ngay chỗ đầu tiên. Bạn
được sinh ra vô danh, bạn vô danh. Mọi cái tên đều là
tuỳ tiện. Đừng hi sinh cuộc sống của mình vì cái tên.
Đừng hi sinh cái thực vì cái gì đó không thực. Chúng
ta hi sinh cái gì đó đúng vì cái gì đó không đúng và
không thể được làm thành đúng.
Khi đứa trẻ được sinh ra, bạn biết nó không mang
tên cùng nó; nó được sinh ra là vô danh. Nhưng tất
nhiên cái tên là cần; nó có tiện dụng nào đó nhưng
không phải là thực tại. Nó là tuỳ tiện. Bạn có thể gọi
nó là bất kì cái gì, bất kì cái tên nào cũng có tác dụng
- X, Y, Z đều có tác dụng. Trong thời đại khoa học
hơn có mọi khả năng là chúng ta sẽ vứt bỏ các cái tên
cũ này. Ai đó sẽ là O-11, ai đó sẽ là X-13. Cái tên sẽ
thành toán học hơn một ngày nào đó bởi vì chúng sẽ
chính xác hơn. Và không có nhu cầu có cùng tên cho
hai người; máy tính có thể quyết định. Máy tính có
thể nói rằng đây là tên mới, không ai có nó trên khắp
thế giới. Ngay bây giờ nhiều người thế có cùng tên;
điều đó nhất định xảy ra. Điều đó không thật khoa
học, nhưng nó có tác dụng.
Phật muốn các Bồ tát của ông ấy nói với mọi
người điều đầu tiên: Bạn là vô danh. Cho nên đừng lo
nghĩ về tên tuổi hay danh vọng của mình. Bạn cũng
vô hình hài: bản thể bên trong nhất của bạn không có
hình hài. Thân thể bạn có hình hài, nhưng thân thể
bạn cứ thay đổi; mọi ngày nó đều thay đổi. Trong bẩy
năm thân thể bạn hoàn toàn mới, mới toàn bộ. Thậm
chí không một tế bào nào của thân thể cũ còn tồn tại
trong nó, mọi thứ cứ thay đổi.
Nếu bạn bắt gặp tinh trùng đầu tiên của bố bạn mà
bắt đầu cuộc sống của bạn, bạn liệu có khả năng nhận
ra nó là bản thân mình không? Không thể được. Bạn
sẽ có khả năng nhận ra trứng của mẹ bạn là bản thân
mình không? Không thể được. Đó là hình hài của bạn
một ngày nào đó, nhưng bạn đã không là nó. Và thế
rồi trong thời gian chín tháng trong bụng mẹ, bạn đã
trải qua nhiều hình hài.
Các nhà khoa học nói rằng từng đứa trẻ đều trải
qua một cách nhanh chóng, rất nhanh, toàn thể tiến
hoá của nhân loại. Từ cá tới khỉ tới người, nó trải qua
mọi pha - tất nhiên trong sự kế tiếp rất nhanh chóng
bởi vì nó phải hoàn thành toàn thể tiến hoá trong chín
tháng. Đó là lí do tại sao đứa trẻ sinh non có chút ít
chậm phát triển, bởi vì nó chưa tiến hoá đầy đủ; nó
chưa có khả năng hoàn chỉnh toàn thể vòng tiến hoá.
Mọi đứa trẻ đều bắt đầu như cá trong bụng mẹ. Bạn
có khả năng nhận ra rằng con cá đó là bạn không?
Nhưng một ngày nào đó nó đã là hình hài của bạn.
Bạn có khả năng nhận ra khuôn mặt của bạn vào ngày
bạn được sinh ra không? Nếu ảnh được chụp cho bạn,
sẽ không thể nào có ai nhận ra rằng, "Đây là tôi."
Ngay bây giờ bạn có hình hài nào đó; hình hài đó
cũng sẽ mòn mỏi đi theo cùng cách. Mọi khoảnh khắc
nó đều thay đổi.
Nhưng có cái gì đó vĩnh hằng trong bạn: tâm thức
của bạn, bản thể của bạn, nhận biết của bạn. Bạn có
thể gọi nó là linh hồn của mình, bất kì cái gì bạn
muốn gọi nó; cái tên không thành vấn đề. Nhưng một
điều là chắc chắn: rằng bạn không có bất kì hình hài
đặc biệt nào; bạn trải qua nhiều hình hài. Bạn có thể
trải qua nhiều hình hài chỉ bởi vì bạn không có hình
hài nào, cho nên đừng trở nên bị gắn bó với bất kì
hình hài nào. Đừng trở nên bị gắn bó với bất kì cái tên
nào và đừng trở nên bị gắn bó với bất kì hình hài nào.
Đây là chỗ bắt đầu của tính chất sannyas. Đây là
chỗ bắt đầu của điểm đạo vào con đường.
Thực tế, bạn không có bố nào, bạn không có mẹ
nào; bạn không thể có được. Người bố là bố của thân
thể bạn và người mẹ là mẹ của thân thể bạn; họ cả hai
đều đóng góp cho thân thể bạn, cho hình hài bạn,
nhưng không cho cốt lõi bản chất của bạn. Bạn đã
từng ở trong nhiều thân thể trước đây, hàng nghìn
thân thể. Bạn đã trải qua, bạn đã sống trong nhiều,
nhiều ngôi nhà, và khi bạn sống trong ngôi nhà nào đó
bạn trở nên bị đồng nhất với nó.
Do đó mới có đau đớn của chết. Đau không phải
bởi vì cái chết, nhớ lấy; đau chỉ bởi vì sự đồng nhất
của bạn với thân thể, với hình hài thôi. Nếu bạn hiểu
thông điệp của Phật, không có đau trong chết. Nếu
bạn không bị đồng nhất với bất kì cái tên nào hay
hình hài nào thì không có ai được sinh ra và không có
ai chết đi.
Thực tế, điều đó nên là nghĩa thực của việc sinh
đồng trinh của Jesus. Mọi người đều được sinh ra theo
cùng cách. Không chỉ là bạn không có bố, bạn không
có cả mẹ nữa. Ngày bạn khám phá ra bản thể nguyên
thuỷ của mình, bạn sẽ biết rằng bạn đi qua mẹ và bố,
bạn tới qua họ, nhưng bạn không do họ tạo ra.
Một công nhân xã hội nghiên cứu các hoàn cảnh
trong một căn hộ cũ dừng một đứa trẻ rách rưới, lôi
thôi lại và hỏi nói mẹ nó sống ở đâu.
"Không có mẹ," đứa trẻ đáp.
"Thế bố con thì sao?"
"Không có đâu, thưa bà."
"Cái gì, cả bố và mẹ đều chết à!" công nhân xã
hội kêu lên.
"Không, chẳng bao giờ có gì."
"Buồn quá, nhưng điều đó là không thể được, con
à!"
"Nếu bà muốn biết, thưa bà," thằng nhóc khinh
khỉnh nói, "tên kẻ cướp ghê tởm chơi trò bẩn thỉu với
cô cháu."
Thực tế, không ai có bố hay có mẹ - và không tên
cướp ghê tởm nào đã chơi trò bẩn thỉu lên cô bạn. Bạn
là sinh linh vĩnh hằng: bạn chưa bao giờ sinh và bạn
chưa bao giờ chết. Chết và sinh là các chương hồi
trong cuộc hành trình dài, trong cuộc hành trình vĩnh
hằng của cuộc sống của bạn. Cuộc sống không bắt
đầu với sinh và không kết thúc với chết.
Nhưng đây là khả năng để biết chỉ nếu bạn trở nên
chút ít tách biệt với hình hài mà bạn đã trở nên quá
nhiều gắn bó thế. Bạn không phải là đàn ông và bạn
không phải là đàn bà; thân thể bạn là nam hay thân
thể bạn là nữ. Bạn không là người, bạn không là con
vật, bạn không là rau cỏ. Đây tất cả đều là hình hài,
hình hài ngẫu nhiên, chỉ là chu vi, không là trung tâm
của bản thể bạn. Trung tâm của bản thể bạn là hoàn
toàn khác với chu vi. Và chúng ta đã trở nên bị gắn bó
với chu vi tới mức chúng ta đã hoàn toàn quên hết
trung tâm.
Đây là nguyên nhân cơ sở và nền tảng của sự
không lành mạnh của chúng ta. Người không biết
trung tâm của mình là không lành mạnh.
Phật nói, bảo mọi người:
Ông không có tên và không có hình hài.
Sao bỏ lỡ điều ông không có?
Mọi người khổ nhiều biết bao nếu họ không nổi
tiếng, nếu họ không được biết tới! Là người vô danh
cho cảm giác bẽ mặt thế. Nếu không ai biết bạn, bạn
cảm thấy dường như bạn không sống. Mọi người càng
biết bạn, bạn càng cảm thấy sống hơn. Nếu toàn thế
giới biết bạn, bản ngã của bạn được thổi lên cực điểm,
nó nổ tung.
Đó là lí do tại sao chính trị được mọi người quan
tâm nhiều thế, bởi vì đó là cách dễ nhất để trở nên nổi
tiếng thế giới. Bạn không cần rất thông minh để là
chính khách; thực tế, nếu bạn rất thông minh bạn
không thể là chính khách được. Bạn cần ngu xuẩn nào
đó, theo lượng đủ, để là chính khách. Bạn cần bướng
bỉnh, bạn cần bạo hành, bạn cần hoàn toàn tầm
thường - để cho bạn không thể thấy được điều bạn
đang làm, để cho bạn không thể thấy được cách bạn
đang phí hoài cuộc sống của mình, và bạn cứ tiếp diễn
mãi.... Bạn phải hoàn toàn mù, bạn phải rất thô. Chính
trị có hấp dẫn lớn bởi vì nó có thể cho bạn cả tên tuổi
lớn và danh vọng lớn; nó có thể làm cho bạn thành
nhân vật thế giới.
Tôi đã nghe:
Một hôm giáo hoàng và chính khách cả hai cùng
lên trình diện trên cõi trời. Thánh Peter đón chào họ
và dẫn giáo hoàng tới chỗ ông ấy sẽ được dành cho ở
vĩnh hằng. Khi mở cửa ra, giáo hoàng thấy một căn
phòng nhỏ, đầy đồ đạc nhưng có một cửa sổ. Khi ông
ấy nhìn ra ông ấy để ý thấy chính khách được dành
cho căn hộ xa hoa ngay bên đường, được trang bị với
bồn tắm nóng, bể bơi, sân tennis và những cái như
thế.
Đầy phẫn nộ chính đáng, ông ta quay sang Thánh
Peter và phản đối kịch liệt, "Tôi là giáo hoàng! Sao
chính khách này lại được đối xử như thế này trong khi
tôi gần như chẳng được gì?"
"Thế này," Thánh Peter đáp, "chúng tôi có hai
trăm giáo hoàng cho tới giờ ở đây, nhưng đây là lần
đầu tiên chúng tôi thấy một chính khách!"
Nhưng ở đây trên trái đất này chính khách làm ra
nhiều điều nhặng xị. Chính trị đã trở thành trung tâm
của cuộc sống; báo chí đầy về nó, các chương trình
radio đầy về nó. Mọi thứ dường như được tô mầu bởi
chính trị bởi lẽ đơn giản là những người này đã được
cái gì đó mà tất cả các bạn đều khao khát - họ được
tên tuổi và danh vọng.
Nhưng Phật nói: Sao bỏ lỡ điều ông không có?
Và, thực tế, sao bỏ lỡ cái mà bạn không có và có thể
không bao giờ có? Tin rằng bạn nổi tiếng là sống
trong thiên đường của kẻ ngu. Và cho dù tên bạn có
được viết vào lịch sử... bạn có thể gây thiệt hại nhiều
tới mức họ sẽ phải viết điều đó vào lịch sử. Adolf
Hitler và Joseph Stalin và Mao Trạch Đông, tất nhiên
tên họ sẽ vẫn còn trong lịch sử, nhưng không bằng
chữ vàng. Lịch sử không được viết bằng chữ vàng
chút nào, và tên của họ sẽ chỉ ở cước chú nào đó. Và
cho dù họ có đó, có thành vấn đề gì? Toàn thể lịch sử
của bạn là thứ vô nghĩa! Nó ít tính lịch sử hơn và
nhiều cuồng loạn hơn! Tất nhiên, nếu bạn rất cuồng
loạn, bạn sẽ trở thành có tính lịch sử. Nhưng phỏng có
ích gì về tất cả điều đó? Bạn đã bỏ lỡ cơ hội lớn.
Con người thực không quan tâm về tên tuổi và
danh vọng. Con người đích thực sống cuộc sống của
mình bất kể tên tuổi và danh vọng; người đó không
quan tâm chút nào liệu bất kì ai biết mình hay không.
Người tìm kiếm không buồn khổ.
Phật nói: Dạy mọi người rằng tìm kiếm chân lí
không phải là tìm kiếm buồn. Đây là một trong những
điều đã bị hiểu lầm nhiều lắm. Bằng cách nào đó
người buồn đã chi phối toàn thể cảnh quan tôn giáo
trong nhiều thời đại. Chỉ thỉnh thoảng bạn mới tìm
thấy một Phật hay một Jesus hay một Zarathustra
những người nói về vui vẻ, người nói về sống trong
phúc lạc. Chỉ thỉnh thoảng bạn mới tìm thấy một
Krishna - người không chỉ dạy nhảy múa mà còn tự
mình nhảy múa, người không chỉ dạy hát mà còn tự
mình hát. Ngoài ra khung cảnh bị chi phối bởi những
người bệnh hoạn, hoặc bởi những kẻ tự bạo hay kẻ
bạo ác.
Chín mươi chín phần trăm cái gọi là người tôn
giáo đều là những người ốm yếu, ốm nặng. Họ đã đi
vào tôn giáo bởi vì họ đã thất bại trong cuộc sống, họ
đã đi vào trong tôn giáo bởi vì họ không thể đương
đầu được với cuộc sống. Đó là trốn tránh - và kẻ trốn
tránh không bao giờ có thể hạnh phúc.
Người Ki tô giáo nói rằng Jesus không bao giờ
cười. Bây giờ, không thể nào có dối trá nào lớn hơn
điều đó. Jesus, và không bao giờ cười sao? Thế thì ai
sẽ có khả năng cười? Thế thì không ai sẽ có khả năng
cười chút nào! Và toàn thể cuộc sống của Jesus chứng
minh rằng ông ấy phải đã là con người có bản tính rất
vui vẻ. Ông ấy phải thực sự tâm linh - theo nghĩa
người Pháp dùng từ spirituel. Trong tiếng Pháp từ
'spirituel' này nghĩa là cả "tâm linh" và "hóm hỉnh."
Dường như có sáng suốt lớn trong nó - cùng từ mang
nghĩa cả hai. Ông ấy phải đã cười với bầu bạn của
mình. Điều ai cũng biết là ông ấy thường tận hưởng
ăn uống, và khi một người tận hưởng ăn uống thì rất
khó nghĩ về người đó không bao giờ cười. Những
người tận hưởng ăn uống, những người tận hưởng tiệc
tùng, cũng tận hưởng nhảy múa và ca hát và cười đùa.
Ông ấy phải đã cười, ông ấy phải đã đùa. Người ta
không thể nào tin được rằng hai mươi bốn giờ một
ngày ông ấy toàn chuyển giao chỉ mỗi sách phúc âm -
ông ấy phải đã tán gẫu chứ!
Nhưng những người buồn, họ muốn ông ấy cũng
buồn. Mọi hình ảnh, tượng, tranh vẽ về Jesus dường
như là giả. Và chúng đã thay đổi qua các thời đại. Ở
những bức tranh sớm nhất ông ấy được vẽ không có
râu cằm và ria. Sau hai thế kỉ, bỗng nhiên râu cằm và
ria xuất hiện - bởi vì không có râu và ria ông ấy trông
không giống nhà tiên tri; ông ấy trông quá trẻ, không
đủ chín chắn. Khuôn mặt không râu và không ria
trông chút ít như trẻ con... bỗng nhiên râu xuất hiện.
Ở phương Đông chính điều đối lập lại là hoàn
cảnh. Phật không bao giờ được vẽ có râu, Krishna hay
Mahavira cũng không râu, Rama hay Patanjali cũng
không râu... chẳng ai có. Tại sao? - bởi vì ý tưởng
phương Đông là ở chỗ những người này đều trẻ thế,
trẻ tâm linh, tới mức tốt hơn cả là để họ có vẻ trẻ từ
bên ngoài nữa. Bên ngoài nên đại diện cho bên trong.
Phật trở nên rất già, ông ấy chết khi ông ấy tám
mươi hai tuổi, nhưng dầu vậy ông ấy không bao giờ
được vẽ có râu. Jesus chết khi ông ấy mới chỉ ba
mươi ba tuổi, nhưng râu đã xuất hiện sau hai thế kỉ.
Dầu vậy khuôn mặt của ông ấy không buồn. Sau hai
thế kỉ ngay cả khuôn mặt đó đã thay đổi. Ông ấy trở
nên ngày một buồn hơn - cứ dường như ông ấy đang
mang toàn thể gánh nặng của trái đất. Bây giờ họ đã
đổi ông ấy thành vị cứu tinh; ông ấy đang mang cây
thánh giá. Ông ấy đã tới để giải thoát bạn khỏi đau
khổ của bạn, ông ấy đang nhận đau khổ của bạn lên
bản thân ông ấy. Và họ đã làm sai lạc con người đẹp
đẽ này, người thường tận hưởng với bầu bạn gồm
những người rất bình thường - thợ mộc, nhân công,
người làm vườn, ngư phủ, kẻ đánh bạc, gái mãi dâm,
người say, người thu thuế, đủ mọi loại người - ngay
cả người thu thuế! Họ đang làm cho ông ấy ngày một
trừu tượng hơn; ông ấy mất đi tính nhân gian. Ông ấy
đang trở nên ngày một là khái niệm hơn là con người
thực; ông ấy đang mất đi tính nhân loại của mình.
Ông ấy không còn là Con của Người, ông ấy đang trở
thành chỉ là Con của Thượng đế.
Đây là những người buồn, người phóng chiếu cái
buồn của họ lên ông ấy. Họ nói ông ấy chưa bao giờ
cười - tôi không thể tin được vào điều đó. Tôi có thể
tin vào điều không thể được nhiều hơn....
Tín đồ của Zarathustra nói rằng ông ấy đã cười từ
chính khoảnh khắc ông ấy được sinh ra - tôi có thể tin
được điều đó, rằng ông ấy sinh ra đang cười. Điều đó
có vẻ như tuyệt đối không thể được - không đứa trẻ
nào được sinh ra mà cười cả - nhưng nó có điều gì đó
đẹp về nó. Zarathustra ra khỏi bụng mẹ, đang cười,
hấp dẫn tôi nhiều hơn. Một tâm linh vui vẻ thế! Đó là
lí do tại sao Zarathustra không thể trở thành một tôn
giáo thế giới. Các tín đồ của Zarathustra bị giới hạn
chỉ vào Bombay. Và họ là người tốt - không tôn giáo
theo nghĩa thông thường, không chút nào.
Không ai nghĩ rằng người Parsis có tính tôn giáo;
ở Ấn Độ không ai nghĩ họ có tính tôn giáo. Họ tận
hưởng ăn, họ tận hưởng quần áo đẹp, họ tận hưởng
những thứ đẹp của cuộc sống, họ tận hưởng nhà đẹp...
họ tận hưởng mọi thứ! Và chúng ta có ý tưởng về tôn
giáo như việc từ bỏ.
Tôi có thể tin Zarathustra tới thế giới này mà
cười, nhưng tôi không thể tin Jesus chưa bao giờ cười,
bởi vì với tôi buồn rầu không bao giờ có thể trở thành
nguồn cho tìm kiếm - mặc dầu cả triệu người đi vào
tìm Thượng đế chỉ bởi vì họ buồn. Bạn nhớ tới
Thượng đế chỉ khi bạn bất hạnh, khổ sở; khi bạn trong
phiền não sâu sắc thì bạn nhớ tới Thượng đế, bằng
không ai quan tâm?
Nhưng để tôi nói cho bạn: nếu bạn nhớ Thượng
đế chỉ khi bạn khổ, việc nhớ của bạn không đáng giá
gì cả. Nó gần như phàn nàn; nó không là lời cầu
nguyện, nó không thể thế được. Bạn không thể biết ơn
về việc bị khổ, và lời cầu nguyện cần biết ơn về bản
chất.
Phật nói: Người tìm kiếm không buồn khổ. Ông ấy
đang nói cho các Bồ tát của mình: Hãy đi tới mọi
người và bảo họ rằng nếu họ không vứt bỏ buồn khổ
của họ, họ không bao giờ có thể trở thành người tìm
kiếm thực. Tìm Thượng đế từ hạnh phúc, tìm Thượng
đế từ vui vẻ, tìm Thượng đế vì tiếng kêu này của con
chim cúc cu sao hay thế, vì tiếng hót của chim chóc
sao vui thế, vì hoa sao cực lạc thế, vì cuộc sống sao
ân huệ thế. Nhìn vào ân hệ mà đó chính là cuộc sống
và thế rồi đi tới cội nguồn của nó. Tất cả những tiếng
hót này và tất cả những hoa này và tất cả những vì sao
này được sinh ra từ đâu vậy? Nguyên nhân của tất cả
nó là gì, của sự tồn tại huyền bí này là gì?
Đừng đi vào tìm kiếm bởi vì bạn buồn, khổ, thất
bại. Nếu bạn đi với thất bại trong tim mình, bạn sẽ
đơn giản kìm nén nỗi buồn của mình. Bạn có thể bắt
đầu mỉm cười, nhưng nụ cười đó sẽ chỉ là nụ cười tô
vẽ. Bạn có thể thấy các tu sĩ mỉm cười, nhưng nụ cười
đó không thực, nó không thể thực được. Họ chưa bao
giờ yêu cuộc sống đủ để nụ cười của họ là thực, họ
chưa bao giờ sống cuộc sống đủ để nụ cười của họ là
thực. Họ là những kẻ trốn tránh, họ sợ cuộc sống. Và
những người sợ cuộc sống, việc tìm kiếm của họ là
sai từ chính lúc bắt đầu. Nhưng hiểu lầm này đã xảy
ra và hiểu lầm này phải bị xua tan.
Một cảnh sát đi tuần trên làn của những người yêu
lúc khá muộn trong đêm chiếu đèn pin vào cửa sổ của
chiếc xe và thấy một đôi đang làm tình. Anh ta gõ lên
cửa sổ và nói, "Tôi đợi tiếp!" Trong mười phút anh ta
lại tới và đôi này vẫn làm tình, cho nên anh ta lại gõ
lên cửa sổ và nói, "Tôi đợi tiếp!"
Sau hai mươi phút anh ta quay lại và đôi này vẫn
làm tình. Anh ta lại gõ lên cửa sổ và nói, "Tôi đợi
tiếp. Dẫu sao các vị làm gì là lâu thế?"
Người đàn ông nhìn lên và nói, "Này ông, tôi thực
sự thần kinh. Tôi chưa bao giờ giao cấu với cớm
trước đây!"
Hiểu lầm và hiểu lầm....
Chư phật đã từng bị hiểu lầm nhiều tới mức bất kì
cái gì bạn nghĩ về Jesus, Krishna, Phật, Lão Tử, phải
rất thận trọng - chín mươi chín phần trăm của việc
nghĩ đó sẽ là hiểu lầm. Nếu bạn hỏi tôi, "Ai là người
Ki tô giáo?" Tôi nói "Những người đã hiểu lầm
Christ." Nếu bạn hỏi tôi, "Ai là Phật tử?" Tôi sẽ nói,
"Những người đã hiểu lầm Phật."
Hiểu lầm dễ dàng thế bởi vì nếu bạn muốn hiểu vị
phật bạn sẽ phải vươn cao lên chút ít để xem ông ấy
đang biểu lộ cái gì. Nhưng nếu bạn muốn hiểu lầm
bạn không cần di chuyển đi bất kì chỗ nào; dù bạn ở
bất kì chỗ nào, vẫn cứ ở đấy và bạn có thể hiểu lầm.
Hiểu lầm là thoải mái thế, ấm cúng thế. Bạn có thể
hiểu lầm mà không cần nỗ lực nào; nó không đòi hỏi
thay đổi về phần bạn. Nhưng nó sẽ chỉ ra trong cuộc
sống của bạn.
Mọi người đi tới đền chùa, nhưng không có điệu
vũ trong mắt họ. Đi tới đền chùa và không có điệu vũ
trong chân bạn và không có điệu vũ trong mắt bạn -
thế thì sao bạn lại đi? Phỏng có ích gì? Sao bạn phí
thời gian của mình? Mọi người đang cầu nguyện,
nhưng không có vui vẻ, không có ánh sáng trên khuôn
mặt họ. Thế thì tại sao bạn lại phí thời gian của mình
và thời gian của Thượng đế? Nhưng một điều là tốt:
rằng Thượng đế hoàn toàn điếc - điếc với mọi ngôn
ngữ. Ông ấy chỉ nghe im lặng, ông ấy sẵn có chỉ cho
im lặng. Cho nên bạn có thể cứ cầu nguyện - chẳng ai
nghe. Nó là độc thoại thôi.
Martin Buber nói rằng lời cầu nguyện là đối thoại.
Tôi nói không, chừng nào lời cầu nguyện chưa là im
lặng tuyệt đối, nó không phải là đối thoại. Martin
Buber nói lời cầu nguyện nghĩa là đối thoại Tôi/
Người. Nếu có tôi, thì không thể có Người; hai thứ
này không thể cùng tồn tại được. Nếu có Tôi và
Người, thế thì Người chỉ là phóng chiếu và không có
đối thoại chút nào; nó là độc thoại. Bạn có thể tin rằng
ai đó đang nghe - chẳng ai đang nghe cả. Bạn đơn
giản phí thời gian của mình, phí hơi mình. Làm cái gì
đó khác đi, bất kì cái gì cũng sẽ tốt hơn. Ngay cả chơi
bài cũng sẽ tốt hơn nhiều, uống Coca-Cola sẽ tốt hơn
nhiều!
Lời cầu nguyện của bạn là vô nghĩa. Bạn không
thể che giấu được sự kiện này. Nếu bạn đi tới Thượng
đế hay chân lí trong buồn, trong khổ, theo cách này
hay cách khác, cuộc sống của bạn sẽ chỉ ra điều đó.
Chân lí không thể bị kìm nén.
Gia đình Gladwells có bé mới sinh mà không có
tai. Họ đem nó về nhà và hàng xóm của họ, nhà
Petersons, đang chuẩn bị sang thăm nó. "Bây giờ, xin
hãy cẩn thận," bà Peterson nói với chồng mình.
"Đừng nói gì về đứa bé không có tai."
"Đừng lo," Peterson nói. "Tôi sẽ không làm gì tổn
hại tình cảm của họ đâu."
Thế là họ đi sang nhà bên cạnh, leo lên phòng
dành riêng cho trẻ nhỏ và đứng nói với gia đình
Gladwell qua cũi của đứa bé mới sinh. "Nó trông xinh
thế," bà Peterson nói với người mẹ đứa bé.
"Dạ vâng ạ," bà Peterson đồng ý. "Đứa bé có chân
tay rắn chắc làm sao - nó lớn lên phải là võ sĩ nhà
nghề."
"Cám ơn," người bố đứa bé nói.
"Mắt đứa bé thế nào?"
"Mắt hoàn hảo!" Gladwell nói.
"Mắt thế là tốt hơn rồi - nó thậm chí không có khả
năng đeo kính!"
Bằng cách nào đó này khác điều đó sẽ bật ra. Làm
sao bạn tránh được điều đó? Bạn càng né tránh, khả
năng càng lớn là bạn sẽ loạng choạng vồ phải nó.
Thực tế, chính nỗ lực để tránh nó làm cho bạn bị hội
tụ vào nó; thế thì bạn không thể thấy được cái gì khác.
Một người rất linh thiêng một hôm tới bác sĩ nhãn
khoa để đặt một đôi kính mới. Đằng sau quầy là một
cô gái cực kì xinh, điều làm cho khách hàng bị lẫn lộn
toàn bộ.
"Tôi có thể giúp ông chứ, thưa ông?" cô ấy hỏi
với nụ cười mê hồn.
"Ờ - vâng - ờ... Tôi muốn có một cặp sựng kính
gòng... Tôi ngụ ý tôi muốn một cặp gọng sính cừng ...
ơ... tôi ngụ ý...."
Tại chỗ đó đích thân chuyên gia nhãn khoa tới
giải cứu.
"Thôi được rồi, cô Jones. Điều con người linh
thiêng này muốn là cặp kọng gính sừng."
Do đó Phật nói người tìm kiếm phải bắt đầu cuộc
hành trình của mình không từ khổ mà từ vui. Hân
hoan trong cuộc sống đi. Ông ấy nói:
Yêu và vui vẻ
đi theo đạo,
Con đường yên tĩnh tới nước hạnh phúc.
Khi người ta lần đầu tiên bắt gặp những từ này
người ta cảm thấy chút ít ngạc nhiên. Phật, và câu nói:
Yêu và vui vẻ đi theo đạo, con đường yên tĩnh tới
nước hạnh phúc...? Vâng, người ta hơi chút bị choáng
bởi vì các tu sĩ Phật giáo đã từng né tránh những lời
hay này, họ đã bỏ qua chúng. Họ đã từng nhấn mạnh
những từ đó của Phật, người nhấn mạnh vào bi quan.
Và ông ấy không phải là người bi quan chút nào, ông
ấy không thể thế được. Người đã biết, làm sao ông ấy
có thể là người bi quan được? Điều đó là không thể
được. Ông ấy thậm chí không phải là người lạc quan,
nhớ lấy, bởi vì người lạc quan được gắn với người bi
quan; người đó là cực đoan kia.
Phật ở bên ngoài cả hai; ông ấy không là người bi
quan không là người lạc quan. Ông ấy đơn giản muốn
bạn nhìn cái đang đó - và điều đó là đủ để làm cho
bạn yêu cuộc sống. Điều đó là đủ, quá đủ, để làm cho
bạn nhảy múa với vui vẻ, với lòng biết ơn.
Và cách thức là im lặng, rất yên tĩnh. Do đó phật
đã không dạy lời cầu nguyện nào, ông ấy chỉ dạy
thiền. Khi lời cầu nguyện là im lặng, nó là thiền; khi
thiền trở thành hùng biện nó là lời cầu nguyện. Nhưng
trước hết bạn phải học thiền; bằng không bạn sẽ đi
theo hướng sai. Không biết thiền mọi lời cầu nguyện
của bạn đều sẽ sai. Bạn sẽ rót rác rưởi của mình lên
Thượng đế - rác rưởi linh thiêng, nhưng nó tất cả là
cứt bò linh thiêng thôi!
Trước hết hãy học im lặng đã. Và vâng, từ im
lặng bài ca nào đó được sinh ra, từ im lặng hoa nào đó
nở ra. Thế thì cúng dường những bài ca đó, những
bông hoa đó cho Thượng đế. Nhưng chúng sẽ là từ
vui vẻ, từ cực kì vui vẻ.
Người tìm kiếm!
Làm rỗng thuyền,
Làm nhẹ tải,
đam mê và ham muốn và hận thù.
Để tôi nhắc đi nhắc lại cho bạn: Phật đang nói với
các Bồ tát của ông ấy, với các sứ giả của ông ấy, với
các tông đồ của ông ấy, người sắp đi tới quần chúng.
Ông ấy đang giúp họ về điều cần nói, bắt đầu từ đâu.
Ông ấy đang nói điều đầu tiên người tìm kiếm phải
hoàn thành, yêu cầu đầu tiên của người tìm kiếm thực,
là người đó phải không có hệ thống niềm tin nào, là
người đó phải không có triết lí nào, ý thức hệ nào.
Nếu bạn đã tin thế thì không có vấn đề về tìm, truy
tìm. Truy tìm nghĩa là bạn bắt đầu với trạng thái của
không biết. Do đó: Người tìm kiếm! Làm rỗng
thuyền.... Làm rỗng tâm trí bạn về tất cả những rác
rưởi mà bạn đã mang theo mình. Trở nên hoàn toàn
trống rỗng. Thế thì cùng tâm trí đã từng gây cho bạn
nhiều không lành mạnh thế, nhiều rối loạn thế, nhiều
phiền não thế... cùng tâm trí đó khi trống rỗng trở
thành con thuyền để sang bờ bên kia, sang bờ xa hơn.
Trống rỗng, nó trở thành phương tiện; bị nặng gánh
với đủ loại ý nghĩ, với đủ loại niềm tin, kinh sách, với
từng thế hệ cứ trao tay cho thế hệ tiếp.... Chúng ta bị
nặng gánh nhiều tới mức chúng ta đang mang gần như
trọng lượng của cả rặng Himalayas trên đầu mình;
không thể nào đi được với tải trọng như thế. Bạn cần
tháo dỡ ra. Bạn đã có quá nhiều tri thức; mọi tri thức
này đều phải bị vứt bỏ.
Làm rỗng thuyền, làm nhẹ tải.... Khi bạn hoàn
toàn trống rỗng, khi bạn nói, "Tôi không biết gì," thế
thì cuộc truy tìm bắt đầu. Nó tươi tắn, nó trẻ trung, nó
đích thực, bởi vì có một luật nền tảng của cuộc sống
là nếu bạn ở trong trạng thái không biết, một thôi thúc
lớn sẽ nảy sinh trong bạn để biết. Cũng như tự nhiên
ghét chân không và nó xô tới lấp đầy, đích xác theo
cùng cách nếu tâm trí bạn trống rỗng toàn bộ, chân lí
xô vào và rót đầy tâm trí
Nhưng ngay bây giờ không có không gian. Tâm
trí của bạn đầy thế, ngay cả bạn cũng không thể vào
được. Bạn phải sống ở đâu đó bên ngoài. Mọi người
đều đang sống trong hành lang của mình; nhà họ đầy
ắp những đồ đồng nát mà họ sợ đi vào. Họ có thể bị
lạc, và không có không gian nữa.
Và ba điều Phật đặc biệt nhắc tới, điều làm cho
bạn bị nặng tải, quá nặng tải. Điều thứ nhất ông ấy gọi
là si mê, điều thứ hai, ham muốn và điều thứ ba hận
thù.
Si mê nghĩa là thèm khát mang tính con vật, thèm
khát sinh học, vô ý thức. Mọi con vật đều có điều đó,
không có gì đặc biệt về nó. Nếu con người có nó, con
người đơn giản vẫn là một phần của vương quốc con
vật; đó là vốn thừa kế của con vật. Bạn không thực sự
trở thành người trừ phi bạn vượt ra ngoài thèm khát.
Bạn nghĩ rằng nó là tình yêu của bạn và bạn có những
lời to lớn, lãng mạn để mô tả nó và bạn dùng thơ ca
lớn lao, nhưng đó toàn là rác rưởi. Nếu bạn nhìn sâu
xuống dưới nó là sinh học, nó là hoá học, nó là hooc
môn và không gì khác. Nếu hooc môn của bạn bị thay
đổi bạn sẽ không quan tâm tới bất kì đàn bà nào nữa,
hay nếu bạn là đàn bà và hooc môn của bạn bị thay
đổi bạn sẽ không quan tâm tới bất kì đàn ông nào nữa,
và mọi thơ ca và mọi lãng mạn sẽ biến mất. Don Juan
đơn giản cần việc mổ nhỏ... và anh ta sẽ biến mất.
Phật nói điều đầu tiên là giữ tâm trí bạn đầy đồ
đồng nát chính là thèm khát. Và theo một cách nào
đó, điều đó là tự nhiên bởi vì trong hàng triệu năm
chúng ta đã từng trong thân thể con vật; chúng ta vẫn
đang mang những dấu vết đó, chúng ta đầy những
thừa kế của con vật. Chúng ta chín mươi chín phần
trăm là con vật; chỉ một phần trăm - cái đó nữa cũng
là có thể - chúng ta là con người. Chỉ một phần nhỏ
của chúng ta đã vươn cao lên trên một chút.
Một linh mục Italy nói năng bốc lửa vừa tuyên bố
những ngôn từ nặng nề về dục và đạo đức. Chĩa ngón
tay xương xẩu của mình vào giáo đoàn Italy Nhỏ bé,
linh mục người Ghi Nê gầm vang, "Dục là-a bẩn thỉu!
Tôi muốn-a thấy chỉ những cô gái tốt-a đêm nay. Tôi
muốn-a mọi gái trinh trong-a nhà thờ đứng-a dậy."
Giận dữ vì thiếu đáp ứng của giáo dân của mình,
ông ấy lặp lại lời hô hào của mình.
Sau một quãng dừng lâu, một cô gái trông gợi tình
bế đứa con trong tay đứng dậy.
"Gái trinh là điều tôi muốn-a!" người thuyết giảng
bị xúc phạm nói.
"Này, Cha ơi," người đàn bà hỏi, "cha có trông
đợi đứa trẻ hai tháng này tự nó đứng lên không?"
Người ta nói đó là lí do tại sao Jesus đã chọn được
sinh ra từ hai nghìn năm trước chúng ta, bởi vì chúng
ta có thể tìm đâu ra gái trinh? Và, hơn nữa, bạn sẽ tìm
đâu ra ba người đàn ông khôn ngoan? Cho dù bạn tìm
ra gái trinh - đứa trẻ hai tháng tuổi, được - nhưng ba
người đàn ông khôn ngoan? Những điều kiện này bây
giờ không thể được hoàn thành.
Mọi người cứ nói đi nói lại với tôi, "Jesus đã hứa
ông ấy sẽ quay lại." Tôi nói với các bạn, quên mọi
chuyện đó đi! - ông ấy không thể tới được đâu. Các
điều kiện không thể được hoàn thành. Nếu ông ấy vứt
bỏ các điều kiện của mình, thế thì được. Nhưng thế
thì ông ấy sẽ không là một Jesus nữa, nhớ lấy - ông ấy
sẽ chỉ là kẻ hippie khác, có thể một Jesus đồng bóng
nhưng không là Jesus!
Nhớ lấy, Phật không muốn bạn kìm nén thèm khát
của mình, ông ấy muốn bạn hiểu biết, ông ấy muốn
bạn thiền về điều đó. Ông ấy muốn bạn không kìm
nén nó, bởi vì kìm nén chưa bao giờ có ích cả. Chính
kìm nén đã làm ra tình huống buồn này trong đó nhân
loại đang sống. Chính kìm nén đã đưa nhân loại tới
điên khùng.
Phật muốn bạn biến đổi năng lượng dục, không
kìm nén nó, bởi vì nó là năng lượng duy nhất bạn có.
Nó có thể được tinh chế, nó có thể được nâng lên, nó
có thể được đổi kênh sang chiều hướng mới; nó có thể
được chuyển tới những bình diện cao hơn của bản thể.
Và nó tất cả xảy ra qua quá trình đơn giản của thiền.
Quá trình thiền không phức tạp chút nào. Nếu tâm
trí bạn có thể trở nên tuyệt đối trống rỗng, ngay lập
tức năng lượng dục của bạn bắt đầu vươn lên để lấp lỗ
hổng, cứ dường như trống rỗng kéo nó lên. Một luật
mới bắt đầu vận hành: luật của sự bay lên. Bình
thường chúng ta sống dưới luật hấp dẫn: mọi thứ cứ
kéo xuống. Và bạn nặng trên đỉnh tới mức không cái
gì có thể đi lên đỉnh được; đỉnh đã đầy rồi, mọi thứ đi
xuống. Làm đỉnh nhẹ đi.
Ở Nhật Bản họ làm ra con rối lật đật daruma.
Daruma là cái tên Nhật Bản của Bồ đề đạt ma, một đệ
tử lớn nhất của Phật, người sáng lập ra Thiền ở Trung
Quốc; ông ấy là tổ sư đầu tiên của Thiền. Bồ đề đạt
ma có tên Ấn Độ, Daruma là tên Nhật Bản của ông
ấy. Họ đã làm con rối với tên ông ấy, để kỉ niệm ông
ấy; trong hàng thế kỉ con rối này đã được làm ra. Nó
là một trong những con rối đẹp nhất; nó có thông điệp
lớn lao. Bạn ném con rối theo bất kì cách nào, nó bao
giờ cũng ngồi dậy theo tư thế Phật; bạn không thể đặt
nó lộn ngược được. Bạn có thể ném nó, bạn có thể
nghiêng nó, bạn có thể làm bất kì cái gì với nó, nhưng
bạn không thể lay động hay làm cho Daruma đổ được.
Nó bao giờ cũng ngồi lại trong tư thế hoa sen, như
Phật thường ngồi.
Bí mật là: đỉnh của nó không nặng, đáy của nó
nặng. Nó có cái đầu hổng, cái đầu rỗng; không có gì
bên trong. Cái đầu trống rỗng thế và cái đáy nặng tới
mức nó tự nhiên ngồi lại vào tư thế Phật. Nó là con
rối hay. Nó được các thiền sư phát minh ra cho trẻ
con chơi, và trẻ con nhất định hỏi, "Bí mật là gì?" Và
bí mật là ở chỗ cái đầu trống rỗng toàn bộ - bí mật là
thiền.
Điều thứ hai là ham muốn. Ham muốn có tính tâm
lí; cũng như thèm khát có tính sinh học, ham muốn có
tính tâm lí. Ham muốn nghĩa là nữa và nữa, bao giờ
cũng nữa. Không cái gì thoả mãn, không cái gì hoàn
thành; bạn cứ chạy theo nữa và nữa. Và bạn biết điều
đó, bởi vì nhiều lần bạn đã đạt tới mục tiêu của mình
nhưng không hài lòng của bạn vẫn còn như cũ. Ham
muốn lại nảy sinh về nữa, và bạn bắt đầu chạy mà
không cho nó suy nghĩ thứ hai.
Phật nói: Đợi, suy tư đi. Nó sẽ chấm dứt ở đâu?
Bạn đang săn đuổi ảo tưởng. Ham muốn nữa không
bao giờ có thể được hoàn thành. Bạn có thể có mười
nghìn ru pi và tâm trí bạn đòi một trăm nghìn; bạn có
thể có một trăm nghìn, tâm trí bắt đầu đòi nữa - và cứ
thế mãi. Bất kì cái gì bạn có, khoảng cách giữa điều
bạn có và điều tâm trí đòi hỏi vẫn còn là một. Nó là
không thể hoàn thành được. Nó lái người ta tới dở
hơi. Thấy nó, thấy ra vấn đề của nó, người ta vứt bỏ
nó. Hay tốt hơn thì nên nói: khoảnh khắc bạn thấy ra
cái vô tích sự của nó, nó rơi rụng đi theo cách riêng
của nó.
Và điều thứ ba là hận thù. Hận thù nảy sinh bởi vì
hai điều đầu tiên này, si mê và ham muốn. Bất kì ai
chen vào con đường đam mê của hạn hay con đường
ham muốn của bạn, bất kì ai trở thành cản trở, bất kì
ai trở thành kẻ cạnh tranh, đều trở thành kẻ thù của
bạn. Bất kì ai cố giằng lấy cái gì đó bạn muốn đều tạo
ra hận thù trong bạn. Nếu hai điều đầu biến mất, điều
thứ ba biến mất theo cách riêng của nó.
Hai điều đầu giống như lửa và điều thứ ba chỉ là
khói. Nếu bạn vẫn cảm thấy hận thù vì cái gì đó, vì ai
đó, thế thì nhớ lấy ở đâu đó vẫn còn có lửa. Bất kì chỗ
nào có khói đều có lửa. Hận thù và giận dữ đơn giản
chỉ ra rằng bạn vẫn sống qua thèm khát và ham muốn,
dù có ý thức hay vô ý thức. Nhưng khói của bạn chỉ
ra rằng lửa vẫn chưa bị dập tắt. Quay lại sâu bên trong
bản thể bạn và dập lửa ở đó đi. Và nó có thể dập được
không phải bởi kìm nén mà bởi hiểu biết.
Hiểu biết là thông điệp nền tảng nhất của Phật
Gautama. Nếu nó xảy ra, bạn có thể lên tàu nhanh
chóng.
Và lên tàu nhanh chóng.
Có năm người ở cửa
hãy đuổi đi, và năm người nữa,
và có năm người đón vào.
Và khi năm người đã ra đi
bị mắc cạn trên bờ,
Người tìm kiếm được gọi là oghatinnoti -
"Người đã đi qua."
Năm người này phải được hiểu. Có năm người ở
cửa....
Năm người đầu: Phật nói người thứ nhất là vị kỉ,
người thứ hai là hoài nghi, người thứ ba là tâm linh
giả, người thứ tư là đam mê và thứ năm là hận thù. Họ
bao giờ cũng đứng ở cửa. Bạn phải rất có ý thức; bằng
không họ sẽ nhảy lên bạn.
Ngay cả người nghĩ họ đang làm phục vụ vị tha -
phục vụ của họ cũng vẫn vị kỉ. Họ hi vọng được phần
thưởng nào đó ở thế giới kia, ở thiên đường; do đó họ
phục vụ. Phục vụ của họ không phải từ tình yêu, phục
vụ của họ là mặc cả. Nó là việc tìm kiếm phần thưởng
lớn nào đó - cõi trời, thiên đường và niềm vui cõi trời.
Cẩn thận với vị kỉ.
Thứ hai là hoài nghi. Ngay cả những người tin
cũng đầy hoài nghi; thực tế, nếu bạn không đầy hoài
nghi thì không có nhu cầu tin. Niềm tin đơn giản
nghĩa là bạn đã che đậy hoài nghi. Bạn có vết thương,
bạn che đậy nó bằng hoa đẹp, nhưng vết thương vẫn
còn.
Thứ ba là tâm linh giả. Khi mọi người muốn tâm
linh thì tâm linh giả là dễ dàng hơn vì nó chẳng tốn gì.
Bạn có thể là người Ki tô giáo, bạn có thể là người
Hindu, bạn có thể là người Mô ha mét giáo; nó dễ
dàng thế, nó hình thức thế. Bạn đi và làm nghi lễ nào
đó trong đền chùa và bạn là người Hindu, hay bạn vào
nhà thờ mọi chủ nhật và bạn là người Ki tô giáo - và
điều đó dễ dàng thế!
Nhưng tâm linh thực sẽ là qua lửa. Tâm linh thực
là nổi dậy chống lại mọi cái mục nát, chống lại mọi
cái là quá khứ, chống lại mọi cái bị áp đặt lên bạn bởi
người khác, chống lại mọi ước định. Tâm linh thực là
cuộc nổi dậy vĩ đại nhất có đó. Nó là mạo hiểm, nó là
phiêu lưu, nó là nguy hiểm.
Cho nên cẩn thận với tâm linh giả, cái bao giờ
cũng có đó, sẵn có, dễ dàng sẵn có tại cửa.
Và đam mê.... Bạn có thể vứt bỏ đam mê ở đây,
bạn có thể kìm nén nó ở đây, nhưng thế thì bạn đang
đòi hỏi nó ở đâu đó khác. Trong cõi trời, tất cả các tôn
giáo đều cung cấp cho đam mê của bạn - đàn bà đẹp
sẵn có ở đó. Tất nhiên, bởi vì những câu chuyện này
đã từng được viết bởi những người chỉ nói về đàn bà
đẹp. Bây giờ tôi nghĩ một số đàn bà được giải phóng
sẽ viết vài kinh sách; thế thì họ sẽ xoay xở với đàn
ông đẹp nào đó, đàn ông rất đẹp người bao giờ cũng
vẫn còn trẻ, không bao giờ trở nên già, bao giờ cũng
điển trai....
Cái gọi là các mahatmas và thánh nhân, tất cả đều
hi vọng rằng đàn bà đẹp đang đợi; vấn đề chỉ là vài
ngày. Cứ hành hạ bản thân mình thêm chút nữa và
bạn sẽ được người thậm chí còn tốt hơn. Đi vào trong
kinh sách của các tôn giáo và nhìn và bạn sẽ có khả
năng - điều đó rõ ràng thế ở đó - thấy sự phóng chiếu.
Trong thiên đường Hindu con gái chưa bao giờ
lớn hơn mười sáu tuổi, bởi vì ở Ấn Độ điều đó được
coi là tuổi đẹp nhất. Cho nên hàng nghìn năm đã trôi
qua, nhưng trong cõi trời vẫn cùng những đàn bà đẹp
đó vẫn treo quanh tuổi mười sáu. Họ không vã mồ
hôi; trong cõi trời bạn không cần chất khử mùi, bạn
không cần dùng nước hoa, vân vân! Thân thể họ được
làm bằng vàng. Tôi nghĩ nếu ngay bây giờ bạn viết lại
kinh sách bạn sẽ không làm thân thể bằng vàng bởi vì
chúng sẽ quá nặng. Bế đàn bà vàng sẽ gây cho bạn
cơn đau tim! Người nhựa sẽ tốt hơn nhiều - với những
bộ phận giặt được, đổi được! Và chỉ có vài nút... cho
nên bạn nhấn một nút và người đàn bà mỉm cười và
bạn nhấn nút khác và người đàn bà đi vào cực thích
và bạn nhấn nút khác... và ngày nay nó sẽ khoa học
hơn nhiều. Trong thời xưa những người ngu không
thể nghĩ được gì tốt hơn - thân thể bằng vàng! và nếu
nó là vàng cứng thì sẽ thực sự khó.
Nhưng bạn có thể thấy ham muốn.... Cho nên Phật
nói: Cẩn thận! Ông có thể kìm nén ở đây, nhưng ông
sẽ ham muốn ở đâu đó khác. Đam mê sẽ không rời bỏ
bạn dễ dàng thế.
Và hận thù: tất cả các thánh nhân của bạn đều đầy
hận thù - hận thù tội nhân. Đó là lí do tại sao họ đã tạo
ra địa ngục: cõi trời cho bản thân họ và địa ngục cho
tội nhân; cõi trời cho bản thân họ và địa ngục cho
những người không theo tôn giáo của họ. Nếu bạn là
người Cơ đốc giáo bạn sẽ lên cõi trời - theo các linh
mục Cơ đốc giáo. Người Hindu chẳng có hi vọng nào.
Trước hết người đó phải trở thành người Cơ đốc giáo
đã, thế rồi người đó có thể hi vọng; bằng không người
đó nhất định xuống địa ngục. Và hỏi người Hindu mà
xem: họ cười vào toàn thể ý tưởng này! Kinh sách của
họ còn cổ đại hơn và họ có truyền thống lâu hơn - và
tuyên truyền lâu hơn. Họ nghĩ rằng ngoại trừ người
Hindu không ai sẽ lên cõi trời; và thậm chí không
phải tất cả người Hindu đâu - người sudras, tiện dân,
không có chỗ ở đó.
Đây là hận thù! Đây vẫn là cùng tâm trí, cùng tâm
trí xấu xí đang chơi trò chơi mới, nhưng chẳng có gì
đã thay đổi.
Có năm người ở cửa phải đuổi đi.... Đây là năm
người đó. Phật nói: Đuổi họ đi. Hãy có tính quan sát
để cho họ không bắt giữ bạn.
Và năm người nữa.... Năm người này là rất dễ
thấy, và có năm người nữa không dễ thấy thế, nhưng
họ cũng có đó ẩn đằng sau năm người này. Năm
người đó là: thứ nhất, thèm sống.... Dễ dàng vứt bỏ
thèm khát đàn bà hay thèm khát đàn ông, nhưng rất
khó vứt bỏ thèm khát bản thân cuộc sống. Mọi người
đều muốn sống và sống lâu nhất có thể được.
Bạn có thể hỏi ở Ấn Độ - nhà yoga đang cố gắng
vất vả để sống lâu có thể được. Bây giờ đó là gì? Sao
họ phải quan tâm nhiều thế tới việc sống lâu? Và cái
gì sẽ xảy ra ngay cả khi bạn sống lâu?
Trước khi Bernard Shaw chết ông ấy để lại một
thông điệp để khắc như một văn bia trên nấm mồ của
ông ấy. Thông điệp là, "Tôi biết tất cả đều tiến nếu tôi
sống đủ lâu, cái gì đó giống như thế này sẽ xảy ra."
Cho nên dù bạn sống chín mươi năm hay một
trăm năm hay hai trăm năm, phỏng có ích gì về điều
đó? Cái chết sẽ xảy ra. Nhưng thèm khát sống.... Phật
nói rằng người thường thèm khát tiền bạc, quyền lực,
danh vọng, và cái gọi là thánh nhân của bạn thèm khát
cuộc sống, sống lâu. Và các nhà yoga cứ giả vờ rằng
họ nhiều tuổi hơn họ đang vậy.
Tôi đã nghe:
Một nhà yoga nói với mọi người rằng tuổi ông ấy
là bẩy trăm, và tất cả người Ấn Độ đều gật đầu. Một
người phương Tây cũng có ở đó, một khách du lịch,
người không thể tin được vào điều này. Người này
trông không quá bẩy mươi - và ông ấy nói ông ấy bẩy
trăm tuổi? Không thể được! Ông khách muốn tìm ra
cho nên ông ấy ở lại đó.
Ông ấy thấy một người thường phục vụ cho người
già ngày; ông ấy hối lộ anh thanh niên. Và hối lộ bất
kì ai dễ dàng thế ở Ấn Độ! Thực tế, không ai cảm
thấy bị xúc phạm bởi điều đó; điều đó là tuyệt đối
được chấp nhận. Nó là cách sống ở Ấn Độ, không có
vấn đề trong nó.
Và anh thanh niên này sung sướng. Anh ta nói,
"Ông muốn gì?"
Người phương Tây nói, "Tôi muốn biết mỗi một
điều thôi. Thầy anh có thực bẩy trăm tuổi không? -
bởi vì chỉ anh mới có thể nói được cho tôi; anh đã ở
cùng ông ấy."
Anh ta nói, "Có, tôi có thể nói cho ông chỉ một
điều thôi, nhiều hơn thế tôi không biết. Tôi đã sống
cùng với ông ấy mới chỉ ba trăm năm."
Và người này không quá ba mươi tuổi!
Và có những cuốn sách - bây giờ chúng được dịch
sang mọi ngôn ngữ trên thế giới - nói rằng nếu bạn
thực hành yoga bạn sẽ kéo dài cuộc sống của mình.
Và nếu bạn ăn cái này và nếu bạn ăn cái kia, và nếu
bạn làm asana này, tư thế này, cuộc sống của bạn sẽ
được kéo dài. Nếu bạn thở theo cách này hay theo
cách nọ....
Phật đang nói điều này là cùng thèm khát thôi.
Cho nên điều tinh vi đầu tiên là ham sống.
Và điều thứ hai: ham sinh ra ở cõi giới cao hơn.
Cho dù bạn vứt bỏ nó từ đây - "Thôi được, tôi không
muốn sống lâu ở đây " - thế thì bạn có ham muốn sâu
hơn để được sinh ra ở bình diện tinh tế nào đó, bình
diện cao hơn nào đó, bình diện vô thân thể. Bạn sẽ
muốn là thiên thần. Cẩn thận với tất cả những trò chơi
này!
Điều thứ ba là hão huyền. Những người đức hạnh
là rất hão huyền, họ không khiêm tốn. Thực tế họ có
thể đã thực hành khiêm tốn trong nhiều năm, nhưng
việc thực hành của họ về tính khiêm tốn đã cho họ chỉ
một loại hão huyền, một loại bản ngã.
Điều thứ tư: bất ổn. Những người này là bất ổn,
họ không thoải mái ở đây bây giờ, họ không thể thế
được. Tất cả hi vọng của họ đều ở đâu đó khác, bên
ngoài cái chết, trong cõi trời, trong thiên đường. Làm
sao họ có thể thoải mái ở đây bây giờ được?
Người tâm linh thực sự tuyệt đối thoải mái ở đây
bây giờ. Người đó không có thời gian khác; thời gian
duy nhất của người đó là bây giờ, và chỗ duy nhất của
người đó là ở đây. Và người đó hoàn toàn thoải mái, ở
nhà. Người đó không khao khát cái gì.
Và điều thứ năm là dốt nát về cái ta. Những người
này cứ thực hành yoga... cả nghìn lẻ một phương
pháp sẵn có. Bạn có thể xoáy vặn thân thể mình theo
cách này cách khác - bạn có thể trở thành diễn viên
giỏi trong rạp xiếc - nhưng điều đó sẽ không giúp bạn
biết mình là ai. Và chừng nào bạn còn chưa biết
"Mình là ai?" mọi tri thức của bạn và mọi đức hạnh
và thực hành được trau dồi của bạn đơn giản là vô
tích sự - bài tập trong vô tích sự hoàn toàn.
Và có năm người đón vào. Và năm người đó là
gì? Niềm tin.... Nhớ lấy, với niềm tin Phật không ngụ
ý đức tin; với niềm tin ông ấy ngụ ý tin cậy, tin cậy
đáng yêu, tin cậy trong sự tồn tại - không trong lí
thuyết, không trong kinh sách, không trong giáo điều
và tín điều, mà trong bản thân sự tồn tại, sự tin cậy -
bởi vì đây là nhà của chúng ta, chúng ta là một phần
của nó. Nếu chúng ta sống trong hoài nghi, chúng ta
sống bị ngắt rời khỏi cái toàn thể; nếu chúng ta sống
trong tin cậy, cây cầu dần dần, dần dần được tạo ra
giữa bộ phận và toàn thể. Chỉ với tin cậy người ta mới
có thể biết người ta là gì và cái toàn thể là gì; và
chúng không khác nhau. Giọt sương chứa toàn thể đại
dương; theo đích xác cùng cách này, mọi người đều
chứa cái toàn thể của Thượng đế.
Người thứ hai: tỉnh giác. Người ta phải rất tỉnh
táo. Tỉnh táo là phương pháp của Phật; yoga duy nhất
của ông ấy mà ông ấy đã dạy là yoga về việc tỉnh táo.
Chúng ta đang sống gần như máy móc, như robot.
Đem tỉnh táo về cho hành động của bạn, cho ý nghĩ
của bạn, cho tình cảm của bạn đi.
Và người thứ ba là năng lượng. Chúng ta cứ tiêu
tán năng lượng vào những điều ngu xuẩn - cãi lộn,
tranh biện, chẳng vì lí do nào cả. Gìn giữ năng lượng
của bạn đi bởi vì chừng nào bạn còn chưa có năng
lượng tràn ngập bạn sẽ không có khả năng lấy cú
nhảy tối thượng. Cú nhảy tối thượng nghĩa là dòng
sông đi vào trong đại dương, dòng sống biến mất
trong đại dương và trở thành đại dương. Nếu bạn
không đầy năng lượng bạn sẽ không có khả năng đạt
tới đại dương; bạn sẽ mất hút đâu đó trong sa mạc.
Và người thứ tư là thiền. Với "thiền" ông ấy ngụ ý
vẫn còn ngày một im lặng hơn để dần dần, dần dần
dịch chuyển xảy ra từ tâm trí sang vô trí, để dần dần,
dần dần động thái thay đổi từ ồn ào sang im lặng.
Và người thứ năm: trí huệ. Trí huệ không phải là
tri thức. Tri thức được vay mượn, trí huệ là của bạn.
Tri thức có thể được thu lấy từ thư viện; bạn có thể
chứa cả thư viện trong tâm trí mình. Dầu vậy bạn sẽ
vẫn còn dốt nát như trước; thực tế, bạn sẽ dốt nát hơn
trước bởi vì bây giờ tải là lớn hơn. Trí huệ tới từ trái
tim riêng của bạn; nó là tiếng nói của bản thể bên
trong riêng của bạn. Nó xảy ra trong thiền: khi bạn im
lặng bạn bắt đầu nghe thấy tiếng nói nhỏ bé, tĩnh lặng
bên trong. Đó là trí huệ.
Và khi năm người đã bị bỏ lại mắc cạn trên bờ....
Năm người này là gì? Tham, giận, ảo tưởng, bản ngã,
giáo huấn giả. ... Người tìm kiếm được gọi là
oghatinnoti - " Người đã đi qua."
Đây là thông điệp của Phật cho người tìm kiếm.
Ông ấy đang nói với các Bồ tát của mình hãy đi và
trao nó cho những người đã sẵn sàng, cho những
người đã được chuẩn bị, cho những người sẵn lòng
lắng nghe, hiểu, đi theo con đường.
Thiền về những lời kinh này đi - chúng dành cho
bạn đấy. Mọi thứ mà Phật nói đều rất có ý nghĩa. Nó
không phải là tôn giáo thường, nó là tính tôn giáo
thuần khiết.
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#4Tôi lại bỏ lỡ!
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Có cái gì đó mà ngay cả thầy cũng không thể làm
được. Thầy không để đưa người Italy vào chuyện
đùa của người Ai rơ len được. Điều đó là ngược
lại pháp.
Dharma Chetana, điều đó đúng đấy, tôi lại bỏ lỡ!
Cứ nhắc nhở tôi nhé. Những chuyện đùa phải gió này
là nguy hiểm! Và tôi yêu người Italy nhiều tới mức
bất kì khi nào tôi có thể tìm được chỗ cho họ tôi đều
cố gắng xoay xở. Thỉnh thoảng tôi thành công, đôi khi
tôi thất bại, nhưng bạn đã bắt tôi.
Để có ghi đúng, chuyện đùa là:
Hai quí ông đang ngồi trong vườn, một người
Anh, một người Ai rơ len.
Quí ông người Anh hỏi người Ai rơ len, "Nếu như
ông không là người Ai rơ len, ông sẽ là người gì?"
Người Ai rơ len nói, "Tất nhiên tôi sẽ là người
Anh."
Và thế rồi anh ta hỏi người Anh, "Nếu như ông
không là người Anh, ông sẽ là người gì?"
Và người Anh nói, "Tôi sẽ xấu hổ."
Nhưng tôi đã trộn lẫn rồi. Đó là lí do tại sao tôi có
mọi chuyện đùa xếp theo kiểu tôi. Chuyện đó không
theo kiểu của tôi. Về Thượng đế và về chân lí và về
tôn giáo không có rắc rối gì - tôi biết họ từ kinh
nghiệm cá nhân của tôi. Nhưng những chuyện đùa
này!
Vâng, Chetana, nó là ngược lại Pháp. Và tôi hi
vọng nó sẽ không xảy ra nữa.
Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao tôi không thể thấy được lỗi riêng của tôi khi
tôi cực kì có khả năng thấy lỗi của người khác,
cho dù là lỗi nhỏ nhặt nhất của họ?
Prageeta, điều đó rất thông thường. Nó không
phải là cái gì đó ngoại lệ. Mắt của chúng ta hội tụ vào
người khác; chúng ta hướng sang người khác. Chúng
ta chỉ thấy người khác - vấn đề không chỉ là lỗi -
chúng ta chưa bao giờ thấy bản thân mình. Cho dù
chúng ta có muốn thấy bản thân mình chúng ta cũng
phải nhìn vào gương, chúng ta phải tạo ra ảnh. Khi
ảnh có đó người khác đã xuất hiện. Gương giúp chúng
ta nhìn bản thân mình bởi vì nó tạo ra người khác.
Bằng không chúng ta là người hướng ngoại tuyệt đối;
chúng ta đã quên ngôn ngữ về cách nhìn vào trong.
Do đó, xem như hệ quả, bạn không thể thấy được lỗi
của riêng mình; không ai có thể thấy được.
Khoảnh khắc bạn bắt đầu thấy lỗi của mình chúng
bắt đầu rơi rụng đi như lá khô. Thế thì chẳng cái gì
khác phải được làm; thấy chúng là đủ. Chỉ nhận biết
về lỗi của mình là mọi điều được cần. Trong nhận biết
đó chúng bắt đầu biến mất, chúng bay hơi. Người ta
có thể cứ phạm lỗi nào đó chỉ nếu người ta vẫn còn vô
ý thức về nó. Vô ý thức là điều phải có để cứ phạm
cùng lỗi. Cho dù bạn cố gắng thay đổi bạn sẽ phạm
phải cùng lỗi dưới dạng khác nào đó, trong hình dạng
khác nào đó. Và chúng tới trong đủ mọi kích cỡ và
mọi hình dáng. Bạn sẽ trao đổi, bạn sẽ thay thế,
nhưng bạn không thể vứt bỏ được nó bởi vì sâu bên
dưới bạn không thấy rằng nó là lỗi. Người khác có thể
nói cho bạn bởi vì họ có thể thấy.
Đó là lí do tại sao mọi người nghĩ bản thân mình
đẹp thế, thông minh thế, đức hạnh thế, thánh thiện thế
- và chẳng ai đồng ý với người đó! Lí do là đơn giản:
bạn nhìn vào người khác, bạn thấy thực tại của họ, và
về bản thân mình bạn mang hư cấu - hư cấu đẹp đẽ.
Về bản thân mình bạn rất hư cấu. Tất cả mọi điều bạn
biết về bản thân mình đều ít nhiều hoang đường; nó
chẳng liên quan gì tới thực tại.
Khoảnh khắc người ta thấy ra lỗi của mình, thay
đổi triệt để được tạo ra. Do đó mọi chư phật trong các
thời đại đều đã từng nói chỉ một điều: nhận biết. Họ
không dạy bạn cá tính. Cá tính do tu sĩ, chính khách
dạy bạn, không do chư phật dạy. Chư phật dạy bạn
tâm thức - không phải lương tâm. Lương tâm là thủ
đoạn người khác chơi trên bạn. Người khác nói với
bạn cái gì là đúng và cái gì là sai; họ ép buộc ý tưởng
của họ lên bạn. Và họ cứ ép buộc những điều đó từ
chính thời thơ ấu của bạn, khi bạn còn hồn nhiên thế,
mong manh thế, tinh tế tới mức có khả năng gây bất
kì ấn tượng nào lên bạn, bất kì dấu ấn nào lên bạn. Họ
đã ước định bạn từ chính lúc ban đầu. Ước định đó
được gọi là lương tâm và lương tâm đó cứ chi phối
toàn thể cuộc sống của bạn. Lương tâm là chiến lược
của xã hội để làm bạn thành nô lệ.
Chư phật dạy tâm thức. Tâm thức nghĩa là bạn
không học từ người khác cái gì đúng và cái gì sai;
không có nhu cầu học từ bất kì ai. Bạn đơn giản phải
đi vào trong; cuộc hành trình vào trong là đủ. Bạn đi
càng sâu, tâm thức càng toả ra nhiều. Khi bạn đạt tới
trung tâm, bạn đầy ánh sáng tới mức bóng tối biến
mất. Khi bạn đem ánh sáng vào trong phòng, bạn
không phải đẩy bóng tối ra khỏi phòng. Sự hiện diện
của ánh sáng là đủ bởi vì bóng tối chỉ là không có ánh
sáng. Mọi cái không lành mạnh, điên khùng của bạn
cũng như vậy.
Nhưng mọi người có thể thấy lỗi của người khác,
cho nên đừng lo nghĩ về điều đó, Prageeta. Đây là
tình huống trong đó mọi người đang sống.
Một người ăn mặc hệt như Adolf Hitler tới thăm
nhà tâm thần.
"Ông có thể thấy tôi không có vấn đề gì," người
đó nói. "Tôi có quân đội lớn nhất thế giới, mọi tiền
bạc tôi cần và mọi thứ xa hoa có thể quan niệm được
mà ông có thể hình dung ra."
"Thế thì cái gì dường như là vấn đề của ông?" bác
sĩ hỏi.
"Đó là vợ tôi," người đó nói. "Cô ấy nghĩ cô ấy là
bà Weaver."
Đừng cười người đáng thương này. Đấy không
phải là ai khác ngoài bạn.
Một người đi tới cửa hàng may và thấy một người
đang treo mình bằng một tay từ giữa trần nhà.
"Anh ta đang làm gì ở đó thế?" người đó hỏi thợ
may.
"Ồ, đừng chú ý," thợ may nói, "anh ta nghĩ anh ta
là bóng đèn đấy."
"Này, sao ông không bảo anh ta không phải là
vậy?" khách hàng thất kinh hỏi.
"Cái gì?" thợ may đáp. "Và làm việc trong bóng
tối sao?"
Khoảnh khắc bạn biết bạn điên, bạn không còn
điên nữa. Đó là tiêu chí duy nhất về lành mạnh.
Khoảnh khắc bạn biết bạn là người dốt nát bạn đã trở
thành trí huệ.
Nhà tiên tri ở Delphi tuyên bố Socrates là người
trí huệ nhất trên thế gian. Vài người chạy xô tới
Socrates và họ bảo ông ấy, "Vui lòng đi, hân hoan đi:
nhà tiên tri ở Delphi đã tuyên bố ông là người trí huệ
nhất trên thế giới."
Socrates nói, "Điều đó tất cả đều vô nghĩa. Tôi
biết chỉ mỗi một điều thôi: rằng tôi chẳng biết gì cả."
Mọi người đâm ra phân vân và lẫn lộn. Họ quay
trở lại ngôi đền, họ nói với nhà tiên tri, "Ông nói rằng
Socrates là người trí huệ nhất trên thế giới, nhưng bản
thân ông ấy lại phủ nhận điều đó. Ngược lại, ông ấy
nói ông ấy hoàn toàn dốt nát. Ông ấy nói ông ấy chỉ
biết mỗi một điều: rằng ông ấy không biết gì."
Nhà tiên tri cười to và nói, "Đó là lí do tại sao ta
đã tuyên bố ông ấy là người trí huệ nhất trên thế giới,
người trí huệ vĩ đại nhất trên thế giới. Đó là lí do tại
sao - chính xác bởi vì ông ấy biết rằng ông ấy là
người dốt nát."
Người dốt nát tin họ khôn ngoan. Người không
lành mạnh tin họ là người lành mạnh nhất.
Vâng, Prageeta, điều đó xảy ra; chính một phần
của bản tính con người là chúng ta cứ nhìn ra ngoài.
Chúng ta quan sát mọi người ngoại trừ bản thân mình.
Do đó chúng ta biết nhiều về người khác hơn là về
bản thân mình; chúng ta chẳng biết gì về bản thân
mình. Chúng ta không là nhân chứng cho sự vận hành
riêng của tâm trí, chúng ta không quan sát bên trong.
Bạn cần quay một trăm tám mươi độ - đó chính là
thiền tất cả là gì. Bạn phải nhắm mắt lại và bắt đầu
quan sát. Lúc đầu bạn sẽ thấy chỉ toàn bóng tối và
không gì khác. Và nhiều người trở nên hoảng sợ và
chạy xô ra bởi vì bên ngoài có ánh sáng. Vâng, có ánh
sáng bên ngoài nhưng ánh sáng đó sẽ không làm bừng
sáng bạn, ánh sáng đó sẽ không giúp ích cho bạn chút
nào. Bạn cần ánh sáng bên trong, ánh sáng có cội
nguồn của nó ở trong chính bản thể bạn, ánh sáng
không thể bị tắt đi ngay cả bởi cái chết, ánh sáng vĩnh
hằng. Và bạn có nó, tiềm năng có đó! Bạn được sinh
ra với nó, nhưng bạn để nó đằng sau bạn; bạn chưa
bao giờ nhìn vào nó.
Và bởi vì trong hàng thế kỉ, trong nhiều kiếp, bạn
đã nhìn ra ngoài, nó đã trở thành thói quen máy móc.
Ngay cả khi bạn ngủ bạn cũng nhìn trong mơ. Mơ
nghĩa là phản xạ của cái bên ngoài. Khi bạn nhắm mắt
bạn lại bắt đầu mơ ngày hay suy nghĩ; điều đó nghĩa
là bạn trở nên quan tâm tới những cái khác. Điều này
đã trở thành thói quen kinh niên tới mức thậm chí
không có khoảng hở nhỏ, cửa sổ nhỏ trong bản thể
riêng của bạn từ đó bạn có thể có thoáng nhìn về mình
là ai.
Lúc ban đầu nó là cuộc vật lộn gian khó, nó là
gian nan, nó là khó khăn - nhưng không phải là không
thể được. Nếu bạn quyết tâm, nếu bạn cam kết với
cuộc thám hiểm bên trong, thế thì chẳng chóng thì
chầy nó xảy ra. Bạn phải cứ đào xuống, bạn phải cứ
vật lộn với bóng tối. Chẳng mấy chốc bạn sẽ đi qua
bóng tối và bạn sẽ đi vào trong cõi ánh sáng. Và ánh
sáng đó là ánh sáng đúng, còn đúng hơn nhiều so với
ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng, bởi vì mọi ánh
sáng ở bên ngoài đều tạm thời; chúng là duy nhất cho
thời gian hiện đấy.
Ngay cả mặt trời cũng sẽ chết một ngày nào đó.
Không chỉ ngọn đèn nhỏ cạn kiệt nguồn của chúng và
chết đi vào buổi sáng, ngay cả mặt trời với nguồn
mênh mông thế cũng đang chết đi mọi ngày. Chẳng
chóng thì chầy nó sẽ trở thành lỗ đen; nó sẽ chết và
không ánh sáng nào sẽ tới từ nó. Dù nó sống lâu đến
đâu thì nó cũng không vĩnh hằng. Ánh sáng bên trong
là vĩnh hằng; nó không có bắt đầu, không kết thúc. Nó
đồng nghĩa với Thượng đế.
Và tôi không quan tâm tới việc bảo bạn vứt bỏ lỗi
của bạn, làm cho bản thân bạn thành tốt, cải tiến cá
tính của bạn - không, không chút nào. Tôi không quan
tâm tới cá tính của bạn chút nào; tôi chỉ quan tâm tới
tâm thức của bạn.
Trở nên tỉnh táo hơn đi, ý thức hơn đi. Đi ngày
càng sâu hơn vào bản thân mình cho tới khi bạn thấy
trung tâm của bản thể mình. Bạn đang sống ở ngoại
vi, và ở ngoại vi bao giờ cũng có rối loạn. Bạn càng đi
sâu hơn, im lặng sâu hơn càng ngự trị. Và trong
những kinh nghiệm đó về im lặng, ánh sáng, niềm
vui, cuộc sống của bạn bắt đầu chuyển vào chiều
hướng khác. Lỗi, sai lầm bắt đầu biến mất.
Cho nên đừng lo nghĩ về sai sót và lỗi lầm và lỗi.
Quan tâm về một điều thôi, một hiện tượng thôi; đưa
toàn bộ năng lượng của bạn vào một mục đích, và đó
là cách ý thức nhiều hơn, cách thức tỉnh nhiều hơn.
Nếu bạn đưa toàn bộ năng lượng của mình vào trong
nó, nó sẽ xảy ra, nó là không tránh khỏi. Nó là quyền
tập ấn của bạn.
#4Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy ngụ ý gì bằng việc gọi Sarjano là mồm to?
Nirmal, đích xác điều đó: cái mồm to!
Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện hư cấu:
Tôi đi lên Himalayas; Radha đi cùng tôi. Tầu hoả
dừng lại giữa đêm trong rừng rậm và cả đoàn tầu bị
cướp. Bọn cướp cũng vào khoang chúng tôi.
Tôi bảo chúng, "Đừng quấy rầy chúng tôi. Cứ lấy
bất kì cái gì các anh muốn."
Thế là bọn chúng khênh đi hai va li. Tôi lo về
Radha, rằng cô ấy có thể rất khiếp đảm, có thể trở nên
rất quan tâm về các thứ của cô ấy, nhưng tôi ngạc
nhiên. Khi chúng đi rồi cô ấy cười ha hả, "Ha, ha! Ha,
ha!"
Tôi nói, "Có chuyện gì thế, Radha? Chuyện gì?"
Cô ấy nói, "Tôi lừa được chúng rồi! Tôi đã cứu
chiếc đồng hồ kim cương năm mươi nghìn đô la của
tôi, tôi đã cứu được chiếc Rolex của tôi, tôi đã cứu
được vòng tai của tôi, tôi đã cứu được vòng vàng và
kim cương của tôi và mọi thứ có giá trị."
Tôi nói, "Bạn xoay xở thế nào?"
Cô ấy nói, "Tôi để tất cả chúng vào trong mồm
tôi."
Tôi nói, "Điều đó làm tôi rất buồn."
Cô ấy nói, "Sao thế?"
Tôi nói, "Nếu như chúng ta mang Sarjano đi cùng,
anh ấy chắc đã cứu được hai va li! Lần sau chúng ti
tới Himalayas đừng bao giờ quên: Sarjano phải đi
cùng chúng ta!"
Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Đeo vòng hạt ảnh hay cây thập tự có cùng nghĩa
không?
Jan, nó không có cùng nghĩa đâu - chúng là các
đối lập cực. Những người đã trở nên quan tâm tới cây
thập tự đều bệnh hoạn. Họ không quan tâm tới Christ,
họ quan tâm tới cây thập tự. Nếu họ thực sự quan tâm
tới Christ họ cũng sẽ quan tâm tới Phật, tới Lão Tử,
tới Krishna, tới Kabir. Nhưng họ không quan tâm tới
Christ, họ quan tâm tới cây thập tự.
Do đó tôi không gọi Ki tô giáo là "Ki tô giáo," tôi
gọi nó là "Thập tự giáo." Nếu Jesus mà không bị đóng
đinh thì đã không có điều như vậy khi bạn tìm thấy
trên khắp thế giới cái tên của Ki tô giáo. Những người
này trở nên quan tâm tới cái chết; mối quan tâm này
là bệnh tật. Họ trở nên quan tâm tới việc tôn thờ cái
chết. Jesus là phụ, cây thập tự trở thành chính. Bởi vì
ông ấy bị đóng đinh, bởi vì ông ấy khổ, ông ấy thu hút
sự chú ý của họ. Có những người bao giờ cũng quan
tâm tới đau khổ, tới khổ, tới chết.
Mối quan tâm của tôi không phải là về chết, mối
quan tâm của tôi là về sống. Tôi yêu cuộc sống vô
điều kiện. Tôi mở hội cho chết nữa, chỉ bởi vì nó là
một phần của sống - không phải như chết mà là một
phần của sống, như cái chạm kết thúc, như cao trào,
như việc nở hoa tối thượng của sống. Nếu bạn đã
sống đúng, chết của bạn là hiện tượng đẹp. Nhưng
mối quan tâm của tôi về căn bản, về cốt yếu là sống.
Vòng hạt biểu thị sống, cây thập tự biểu thị chết.
Vòng hạt biểu thị nghệ thuật nào đó của việc làm
sống thành vòng hoa. Các hạt là những khoảnh khắc.
Từng hạt phải hoàn hảo; từng khoảnh khắc phải được
sống trong sự hoàn hảo của nó. Và có sợi chỉ chạy
qua chúng, cái vốn vô hình, xuyên qua từng hạt; sợi
chỉ đó là của vĩnh hằng. Từng khoảnh khắc đều được
xâu chuỗi bằng vĩnh hằng.
Chừng nào cuộc sống của bạn còn chưa biết vĩnh
hằng là gì, cuộc sống của bạn sẽ chỉ là đống hạt hay
đống hoa, nhưng nó sẽ không là vòng hoa, nó sẽ
không là vòng hạt. Nó sẽ không có hài hoà bên trong
nào - các hạt sẽ vẫn còn không có liên quan. Nó sẽ là
hỗn độn, nó sẽ không là hài hoà; sẽ không có trật tự,
không có kỉ luật. Nhưng kỉ luật phải là vô hình như
sợi chỉ.
Và làm sao người ta đi tới biết cái vĩnh hằng?
Cách duy nhất để biết sợi chỉ là đi vào bên trong hạt.
Ở đó, tại chính trung tâm của hạt, bạn sẽ thấy sợi chỉ
đi qua. Đi sâu hơn vào từng khoảnh khắc, đi toàn bộ
vào trong nó, bạn sẽ thấy cái vĩnh hằng. Từng khoảnh
khắc đều là một phần của cuộc diễu hành vĩnh hằng,
của lễ hội vĩnh hằng.
Vòng hạt biểu thị thời gian như các hạt, thấy
được, và sợi chỉ như cái vĩnh hằng, cái vô hình. Có
một trăm linh tám hạt trong vòng hạt. Một trăm linh
tám hạt biểu thị cho một trăm linh tám phương pháp
thiền; tất cả các phương pháp thiền đều có thể được
rút lại thành một trăm linh tám phương pháp - một
trăm linh tám phương pháp là phương pháp nền tảng
của thiền. Thế rồi chúng có thể có hàng nghìn phương
pháp với sự khác biệt chút ít, thay đổi chút ít - gắn hai
phương pháp hay ba phương pháp lại hay vài phần
của phương pháp này và vài phần của phương pháp
khác. Người ta có thể làm ra nhiều phương pháp có
thể có, nhưng phương pháp nền tảng là một trăm linh
tám.
Vòng hạt có một trăm linh tám hạt và có trái tim
có ảnh của ai đó... không ai biết người đó là ai. Ai đó
vô danh, ai đó nhiều tính không ai cả hơn là ai đó;
người đã chết từ lâu như một thực thể tách biệt, người
không tồn tại thêm nữa như một "tôi" mà chỉ là một
không gian mở. Đó là chỗ bạn phải đạt tới, đó là chỗ
bạn phải tới. Đó là nhà tối thượng của bạn.
Vòng hạt không phải là thập tự. Ki tô giáo tôn thờ
cái chết và đó là chỗ nó đã đi sai. Nó đã làm mất niềm
vui cuộc sống, tiếng cười, khôi hài. Nó đã mất tiếp
xúc với Jesus. Nó cứ tôn thờ Jesus bị đóng đinh,
nhưng nó không có khả năng tôn thờ Jesus sống.
Và nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn tôn thờ
cuộc sống, để sống vui vẻ, với khôi hài tới mức cuộc
sống của bạn trở thành điệu vũ. Tôi không muốn bạn
trở nên buồn và nghiêm chỉnh - chân thành tất nhiên,
nhưng nghiêm chỉnh, không bao giờ. Tôi muốn bạn đi
sâu hơn vào trong sự tồn tại. Nhảy múa cùng hoa! Đối
thoại cùng sao! Nhìn vào mắt mọi người và yêu và
không giữ lại. Người phi tâm linh duy nhất là những
người giữ lại, người sống theo cách keo kiệt, người
sống chỉ bộ phận, phân mảnh, người không tích hợp.
Và đừng sống cuộc sống ngẫu nhiên; để có sợi chỉ
chạy qua nó. Từ tiếng Phạn cho sợi chỉ là sutra. Đó là
lí do tại sao những câu nói vĩ đại này của Phật,
Patanjali, Krishna, Mahavira được gọi là sutras - kinh:
đây là những sợi chỉ. Nếu bạn hiểu chúng cuộc sống
của bạn sẽ không còn chỉ là cái đống, cái đống ngẫu
nhiên. Bạn sẽ không chỉ là mẩu gỗ trôi giạt phó mặc
cho các lực vô ý thức. Cuộc sống của bạn sẽ trở thành
chuyển động có ý thức, cuộc sống của bạn sẽ trở
thành nghệ thuật. Nó sẽ có ý nghĩa về chiều hướng, và
từng hành động sẽ được nối với mọi hành động khác
của cuộc sống của bạn. Bạn sẽ không là ngẫu nhiên.
Nếu bạn ngẫu nhiên bạn sẽ chỉ là tiếng ồn; nếu bạn
không ngẫu nhiên bạn có thể trở thành âm nhạc.
Vòng hạt biểu thị cho âm nhạc, nó biểu thị cho hài
hoà. Nó chỉ ra rằng bạn đã tìm ra sutra, sợi chỉ làm
cho cuộc sống của bạn thành một toàn thể, một mảnh.
Cuộc sống đẹp khi nó là một mảnh; cuộc sống xấu khi
nó phân nhiều mảnh - khi bạn chỉ là đám đông và khi
đám đông bao giờ cũng đánh nhau bên trong bạn, khi
bao giờ cũng có nội chiến.
Tất nhiên, cây thập tự có ảnh hưởng tới nhân loại
rất nhiều, bởi vì hàng triệu người thấy nghĩa trong cây
thập tự - bởi vì nó khớp với cuộc sống của họ. Các
kiếp sống của họ gần như trên cây thập tự: họ sống
trong khổ não, họ chưa bao giờ nếm trải cực lạc là gì.
Không phải ngẫu nhiên mà thông điệp của
Krishna đã không tới được hàng triệu người. Mới
hôm nọ tôi đã kể cho bạn rằng Zarathustra đã không
đạt tới hàng triệu người bởi lí do đơn giản là ông ấy
yêu cuộc sống. Jesus đã đạt tới hàng triệu người
không phải bởi vì bản thân ông ấy mà bởi vì một tai
nạn trong cuộc đời ông ấy. Chính bởi vì người Do
Thái và người La Mã: nếu họ không đóng đinh ông
ấy, nếu họ đã dung thứ cho ông ấy, ông ấy chắc đã tự
chết đi và không ai đã nghe nói gì về ông ấy cả. Tất
cả các nhà thờ này và hàng nghìn thầu tu và xơ chắc
chúng ta đã không được thấy chút nào - họ đã tụ tập
quanh cây thập tự. Cây thập tự trở thành có ý nghĩa
bởi vì nó đồng bộ với cái gì đó trong cuộc sống của
họ. Cuộc sống của họ toàn khổ và cây thập tự đại diện
cho điều đó. Họ cũng đang trên cây thập tự. Cả đời họ
là đau khổ, cả đời họ là địa ngục.
Điều tôi đang nói sẽ không hấp dẫn với nhiều
người. Nó sẽ hấp dẫn chỉ với vài người thông minh,
người dũng cảm, chỉ với vài người thực sự mạnh khoẻ
và toàn thể. Điều này là không may, nhưng điều này
đã từng là vậy cho tới giờ.
Bất kì khi nào ai đó tới đây để dạy cuộc sống cho
bạn, người đó đều dường như là xa xăm; dường như
không đối thoại nào xảy ra giữa người đó và bạn.
Người đó nói về nhảy múa và bạn thậm chí không
biết cách bước đi! Người đó nói về cực lạc và bạn
không biết từ đó ngụ ý gì.
Một trong các sannyasin của tôi mới tới từ Hi
Lạp. Cô ấy đã thông báo cho tôi rằng ở Hi Lạp
'ecstasy-cực lạc' - ekstasis - nghĩa là điểm dừng xe
bus! Điều đó dường như có nghĩa nhiều hơn. Và theo
một nghĩa nào đó nó là điểm dừng xe bus thật, thực tế
là điểm cuối - terminus, điểm dừng cuối. Bên ngoài
chỗ đó không có cách đi - điểm dừng xe cuối cùng.
Bạn nghe từ 'ecstasy-cực lạc', âm thanh tới bạn,
nhưng nghĩa bị bỏ lỡ. Nhưng khi bạn nghe từ
'suffering-khổ' không chỉ âm thanh tới bạn, bạn biết
nghĩa nữa. Khi bạn biết cây thập tự là gì, bạn hoàn
toàn đồng ý; cuộc sống của bạn đồng ý với nó.
Nhưng cuộc sống của bạn là sai. Cuộc sống của
bạn còn chưa là cuộc sống, bạn còn chưa được sinh
ra. Đó là lí do tại sao Jesus cứ nói đi nói lại: Chừng
nào các ông còn chưa được sinh ra lần nữa....
Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để cho bạn việc
tái sinh. Vòng hạt không phải là cây thập tự.
#4Câu hỏi thứ năm:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao các nhà báo bao giờ cũng viết chống lại
thầy?
Sudarshan, cảm thấy hạnh phúc là họ bao giờ
cũng viết đi; đừng lo về điều họ viết. Nếu họ viết điều
đó nghĩa là cái gì đó đang xảy ra ở đây. Và họ chỉ có
thể viết chống lại bởi vì khi bạn viết ủng hộ cái gì đó,
bạn phải kinh nghiệm điều đang xảy ra ở đây; không
kinh nghiệm nó bạn không thể viết được bài báo ủng
hộ nó. Bạn phải ở đây trong vài tháng.
Họ tới chỉ một ngày, họ nhìn quanh, họ thấy các
thiền nhân - nhưng bằng việc nhìn các thiền nhân bạn
không thể thấy được thiền. Họ thấy rằng cái gì đó
đang xảy ra và cái gì đó mới với họ tới mức nó không
khớp với ý tưởng của họ về đạo tràng, về tu viện. Do
đó, một cách tự nhiên họ quay sang chống tôi, họ trở
thành đối kháng.
Nếu họ là người Hindu họ nhất định tuyệt đối
chống lại tôi - bởi lí do đơn giản là đây không phải là
đạo tràng Hindu; nó không khớp với ý tưởng của họ
về đạo tràng. Đạo tràng Hindu phải rất đờ đẫn và chết.
Và ở đây có nhiều nhảy múa thế và nhiều bài ca thế
và nhiều vui vẻ thế và nhiều tình yêu thế, họ bị
choáng. Và mọi thứ lại mãnh liệt thế ở đây.
Trong hàng thế kỉ họ đã tạo ra ý tưởng nào đó về
đạo tràng Hindu. Mọi người phải không được tích cực
ở đó; bất hành được tôn thờ. Mọi người phải từ bỏ
cuộc sống - và ở đây chúng ta hân hoan với cuộc
sống. Làm sao họ có thể viết để ủng hộ được? Với họ
dường như là tôi đang phá huỷ toàn thể lí tưởng của
họ. Với họ dường như là trong nhiều thế kỉ họ đã tôn
thờ một lí tưởng nào đó còn tôi đang phá nó. Và theo
một cách nào đó họ đúng.
Tôi muốn phá cái ý tưởng ngu xuẩn đó về đạo
tràng: rằng nó phải chết, mọi người phải bất hoạt, mọi
người phải đờ đẫn, không sáng tạo, chống lại cuộc
sống, chống lại tình yêu, chống lại mọi thứ có mùi vui
vẻ - họ phải là những cái xác biết đi!
Và ý tưởng Hindu về tính chất sannya là ở chỗ
người ta phải trở thành sannyasin chỉ sau bẩy mươi
nhăm tuổi. Điều đó nghĩa là ở Ấn Độ, không ai có thể
trở thành sannyasin được! Tuổi trung bình là ba mươi
sáu, cho nên khi có liên quan tới tuổi trung bình thì
dường như không có khả năng nào cho bất kì ai trở
thành sannyasin. Bẩy mươi nhăm tuổi, thế thì lấy tính
chất sannyas: giai đoạn thứ tư của cuộc sống, khi cái
chết bắt đầu gõ cửa nhà bạn, khi một chân đã trong
nấm mồ - thế thì bạn phải trở thành sannyasin.
Và ở đây họ thấy thanh niên, trẻ thế, họ không thể
nào tin được vào mắt mình. Sao những người này đã
trở thành sannyasins? Đây không phải là thời gian
dành cho tính chất sannyas!
Tôi đang cố gắng tạo ra một quan niệm mới toàn
bộ về tính chất sannyas. Bởi vì họ chống lại cuộc
sống... tất nhiên, nếu bạn chống lại cuộc sống thì bẩy
mươi nhăm tuổi dường như là đúng thời. Bởi vì cuộc
sống đã rời bỏ bạn bây giờ bạn có thể từ bỏ, ít nhất
bạn cũng có thể tận hưởng ý tưởng rằng bạn đang từ
bỏ cuộc sống. Cuộc sống đã rời bỏ bạn - phỏng có ích
gì mà từ bỏ bây giờ? Bạn từ bỏ cái gì? Toàn thể ý
tưởng này là ngu xuẩn. Thế thì sao không lấy tính
chất sannyas khi bạn chết rồi? Chỉ đợi vài ngày nữa,
có thể một tuần. Sao lại vội vàng thế? Thêm chút nữa
đi!
Ở Ấn Độ khi một người chết, họ phủ người đó
bằng vải da cam. Tôi không biết họ đang lừa ai; xác
chết được phủ bằng quần áo của sannyasin. Và họ
tụng tên Thượng đế khi họ đem xác chết đi hoả thiêu
nó. Bây giờ tôi không biết ai nghe lời tụng của họ -
anh chàng đáng thương kia không còn đó nữa. Họ đơn
giản tự lừa mình.
Người Hindu nhất định chống lại tôi. Người Jaina
tới đây, họ nhất định chống lại tôi - đây không phải là
đạo tràng Jaina. Thực tế, người Jaina bao giờ cũng
chống lại đạo tràng; không có điều như thế như đạo
tràng Jaina. Họ muốn các sannyasin của họ là người
lang thang. Họ rất sợ rằng nếu một người ở một chỗ,
người đó có thể trở nên bị gắn bó với chỗ này; với
ngôi nhà này, với mọi người bao quanh người đó. Và
họ sợ cuộc sống tới mức tốt hơn cả là cứ di chuyển.
Sư Jaina chỉ được ở lại một chỗ không quá ba ngày;
ngày thứ tư ông ấy phải ra đi. Cho nên không có gắn
bó, không tình bạn, không chuyện tình nào là có thể;
nhiều nhất người đó trở nên quen thuộc. Trong ba
ngày bạn không thể có thân mật với mọi người. Một
ngày bạn tới, thực tế chỉ một ngày bạn còn ở làng,
ngày thứ ba bạn chuẩn bị ra đi. Đây là nỗi sợ cuộc
sống! Và với tôi, sannyasin phải bạo dạn.
Cho nên khi một người Jaina tới đây, thấy nhiều
người đang sống cùng nhau với nhiều vui vẻ thế, với
tình yêu thế, trong tham dự sâu sắc với nhau, trong
thân mật lớn lao, tình bạn, chuyện tình.... Nhiều tình
yêu đang xảy ra trong diện tích này hơn nó có thể xảy
ra trên khắp thế giới. Thực tế, đôi khi tôi tự hỏi sao
diện tích ba mẫu này có thể chứa được nhiều tình yêu
thế! Dường như năng lực chứa tình yêu này là vô hạn.
Và bất kì ai tới... nếu người Ki tô giáo tới người
đó không thể nào tìm thấy ý tưởng về tu viện của
mình. Có những tu viện Ki tô giáo nơi đàn bà không
được phép vào; trong một nghìn năm không đàn bà
nào đã bao giờ vào. Thậm chí cả bé gái nhỏ, đứa trẻ
hai tháng tuổi cũng không được phép. Loại người nào
đang sống bên trong vậy - sư hay quỉ? Họ sợ cả đứa
bé hai tháng tuổi. Đứa bé hai tháng tuổi đáng thương
đó có thể làm gì được họ? Họ sợ bản thân mình - họ
có thể làm cái gì đó. Họ đang sôi lên! Và họ đang
phạm đủ mọi loại hư hỏng, họ trở thành bị đồi bại.
Nếu người ta không được phép tự nhiên thì năng
lượng của họ trở thành bị hư hỏng.
Mọi đồi bại dục đều bắt nguồn từ tu viện, nhớ lấy
điều đó. Chúng tất cả đều có nguồn gốc tôn giáo,
chúng rất rất tâm linh và linh thiêng. Mọi đồi bại dục
đều có cội nguồn của chúng ở đâu đó trong tôn giáo.
Bây giờ chỉ các sư là đang sống trong tu viện... bạn
nghĩ họ có thể tránh đồng dục được bao lâu? Chỉ các
ni đang sống trong nữ tu viện; họ có thể tránh đồng
dục nữ được bao lâu? - không thể nào tránh được. Nó
là tự nhiên, cái gì đó nhất định xảy ra.
Cho nên khi những người này tới đây họ là ai đó.
Rất khó tìm ra một nhà báo không có định kiến của
riêng mình; người đó tới với định kiến của mình. Và
chỗ này mới toàn bộ, cho nên tự nhiên họ bị khó chịu,
bị xúc phạm. Và các phát biểu của tôi toàn xúc phạm
- chúng được ngụ ý để xúc phạm. Chúng là choáng
điện cho những người này. Họ bị rất rối loạn và họ trả
thù.
Nhớ một điều: nếu bạn tường thuật cái gì đó tốt
nó chẳng bao giờ là tin tức. Không ai quan tâm tới thứ
tốt; mọi người quan tâm tới cái gì đó xấu, cái gì đó
giật gân. Cho nên họ đang tìm điều giật gân. Và bạn
có thể thấy đủ thứ giật gân ở đây, nhiều hơn bạn có
thể tìm thấy ở bất kì nơi nào khác. Bạn không cần
phát minh ra chúng - chúng tôi cung cấp chúng!
Cha Murphy là một linh mục trong giáo xứ rất
nghèo. Ông ấy xin gợi ý về cách ông ấy có thể xin
tiền cho nhà thờ của mình, và được bảo cho biết là
người chủ ngựa bao giờ cũng có tiền.
Ông ấy đi tới cuộc đấu giá ngựa, nhưng ông ấy lại
mua bán rất kém khi ngựa lại biến thành lừa.
Tuy nhiên, ông ấy nghĩ mình có thể đưa lừa vào
cuộc đua. Con lừa này về thứ ba, và sáng hôm sau các
tít trong báo đều đưa tin, "Con lừa5
[5 Ass trong tiếng Anh vừa có nghĩa là con lừa vừa có nghĩa là đít]
của cha Murphy
trình diễn."
Tổng giám mục đọc báo và giận lắm.
Hôm sau con lừa về nhất và tiêu đề báo đăng,
"Con lừa của cha Murphy về trước."
Tổng giám mục chồm dậy và hình dung ra cái gì
đó cần phải được làm.
Cha Murphy đưa con lừa vào đua lần thứ ba và nó
về nhì. Bây giờ báo chí đăng, "Con lừa của cha
Murphy ở chỗ sau." Tổng giám mục nghĩ điều này là
quá thể cho nên ông ấy cấm linh mục này đưa lừa đi
thi hôm sau, điều lại gây hứng khởi cho biên tập viết
tiêu đề, "Tổng giám mục rút lừa của cha Murphy khỏi
cuộc đua."
Cuối cùng, tổng giám mục nghe nói về điều này
và ra lệnh cho cha Murphy phải gạt bỏ con lừa đi.
Nhưng ông ấy lại không thể bán được nó, cho nên ông
ấy cho xơ Agatha làm con vật nuôi. Khi tổng giám
mục nghe thấy điều này ông ấy ra lệnh cho xơ Agatha
phế bỏ con vật này ngay. Cô ấy bán nó được mười đô
la.
Hôm sau dòng tiêu đều đăng, "Xơ Agatha rao bán
con lừa của mình với giá mười đô la."
Đừng lo nghĩ về các nhà báo. Tận hưởng bất kì
cái gì họ viết và giúp họ tìm ra những thứ để họ có thể
tiếp tục viết. Tôi quan tâm nhiều hơn ngay bây giờ là
họ nên tiếp tục viết, bởi vì dù họ viết ủng hộ hay
chống đối họ vẫn đem ngày một nhiều người tới tôi.
Và một khi một người tới đây thì rất khó trốn thoát!
Cho nên tôi tuyệt đối biết ơn các nhà báo, dù họ làm
bất kì điều gì. Họ đang làm công việc nhân đạo thế,
phục vụ lớn lao thế cho tôi!
Cho nên khi họ tới đây, đừng cảm thấy đối kháng.
Giúp họ theo mọi cách có thể đi.
#4Câu hỏi thứ sáu:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi ngồi im lặng không làm gì, và cỏ dại đang
mọc khắp quanh tôi.
Roderick, cỏ dại là thiêng liêng. Đừng gọi chúng
là cỏ dại. Chúng cũng tâm linh như chư phật. Chúng
cùng chia sẻ Thượng đế nhiều như hoa hồng. Bỏ con
người khỏi trái đất - sẽ có khác biệt gì giữa cỏ dại và
hoa hồng không? Tất cả những phân biệt này đều do
tâm trí tạo ra.
Bạn không thực sự ngồi im lặng đâu; bằng không,
ai đang nói với bạn cỏ dại đang mọc? Tâm trí bạn vẫn
vận hành, thì thào mọi thứ cho bạn. Nó là tâm trí của
bạn đấy! Nếu bạn thực sự im lặng thì không có tâm trí
đâu - thế thì dù cỏ dại mọc hay hoa hồng mọc tất cả
đều như nhau với bạn. Khác biệt gì có đó? Bạn không
thể tận hưởng được cỏ dại sao? Chúng là người đẹp
đấy! Nhìn cỏ dại lay động, nhảy múa trong gió, trong
ánh mặt trời.... Bạn nghĩ cái gì thiếu trong chúng mà
hoa hồng có? Chẳng cái gì thiếu cả. Đây chỉ là ý
tưởng, và ý tưởng thay đổi. Có thể một ngày nào đó
hoa hồng có thể hết thời thượng, cỏ dại có thể trở
thành một thứ "vào trong nhà."
Một trăm năm trước không ai đã bao giờ nghĩ
rằng xương rồng sẽ được mọi người yêu thích, nhưng
bây giờ xương rồng "vào trong" và hoa hồng "ra
ngoài." Nói về hoa hồng có vẻ nệ cổ, có vẻ chính
thống, theo tục lệ; nói về xương rồng là tiên tiến, nó
chứng tỏ rằng bạn là hiện đại, đương đại. Mọi người
đang để xương rồng trong phòng ngủ - xương rồng
nguy hiểm, xương rồng đầu độc, nó có thể giết chết
bạn! Nhưng chúng đã thành thời thượng, và một khi
cái gì đó đi vào thời thượng thì có nhiều kẻ ngu bắt
đầu tán thưởng nó.
Mọi người đơn giản cứ chạy theo bất kì cái gì
được làm thành thời thượng bởi vài người láu cá và
tinh ranh. Mới một trăm năm trước không ai thích
tranh của Picasso, còn bây giờ Picasso là nghệ sĩ vĩ
đại nhất - không chỉ của thế kỉ này mà của toàn thể
lịch sử. Điều gì đã xảy ra? Chỉ kiểu mốt đã thay đổi.
Mọi người phát mệt về thứ này; họ cứ chuyển sang
cực đoan đối lập.
Roderick, không có gì sai trong cỏ dại cả! Không
có gì sai trong bất kì cái gì. Ý tưởng về đúng và sai
nghĩa là tâm trí có đó. Bạn không ngồi im lặng đâu và
bạn không ngồi mà không làm gì. Bạn đang khu biệt,
và đó là hành động. Bạn đang dán nhãn, và đó là suy
nghĩ. Và bạn đang phán xét.
Vứt mọi phán xét đi, mọi việc dán nhãn, mọi khu
biệt... và chỉ quan sát cỏ dại mọc. Vậy thì sao - cứ để
chúng mọc! Khi bạn không có tâm trí chút nào, bạn
cũng là cỏ dại; cho nên cỏ dại mọc khắp quanh bạn,
đó không phải là cái gì đó kì lạ - cỏ dại bao quanh cỏ
dại! Tận hưởng đi!
Có lần một Thiền sư được vua yêu cầu - vì thầy là
hoạ sĩ lớn - vẽ bức tranh trúc.
Thầy nói, "Sẽ mất thời gian đấy."
"Bao lâu?" vua hỏi.
Thầy nói, "Khó nói được, nhưng ít nhất cũng phải
hai hay ba năm."
Vua nói, "Ông có điên hay cái gì không? Ông là
hoạ sĩ lớn nhất. Ta nghĩ ông có thể vẽ nó ngay bây
giờ!"
Thầy nói, "Chả thành vấn đề, vẽ trúc không phải
là vấn đề - nhưng trước hết ta phải là trúc đã; bằng
không làm sao ta biết trúc là gì? Ta muốn biết trúc từ
bên trong! Cho nên ta sẽ phải đi và sống trong rừng
trúc. Bây giờ, người ta chưa bao giờ biết điều đó sẽ
mất bao lâu. Chừng nào ta chưa biết trúc từ bên trong
ta không thể vẽ nó được. Đó đã từng là thực hành cả
đời ta: ta vẽ chỉ cái ta đã biết cốt lõi sâu nhất của nó."
Vua nói, "Thôi được, ta sẽ đợi."
Một năm trôi qua. Ông ấy phái vài người tới xem
điều gì xảy ra, liệu người này còn sống hay chết rồi.
Họ quay về và nói, "Người này vẫn sống, nhưng
chúng tôi nghĩ rằng người này không còn là người
nữa - người này là trúc rồi! Người này lay động cùng
trúc trong gió. Chúng tôi đi qua bên cạnh ông ấy; ông
ấy chẳng chú ý gì. Chúng tôi nói, 'Xin chào!' Người
này không nghe. Chúng tôi muốn nói với người này.
Chúng tôi đã nhìn vào mắt ông ta - chúng trống rỗng
tới mức chúng tôi trở nên hoảng sợ; hoặc là người này
đã điên hay cái gì đó đã xảy ra. Và người này có thể
làm bất kì cái gì, cho nên chúng tôi trốn mất. Người
này có thể giết hay, ai mà biết được? - người này có
thể nhảy lên chúng tôi! Người này không còn là cùng
người trước nữa."
Đích thân nhà vua tới xem, và thầy đang lay động
trong gió, trong mặt trời. Và vua hỏi, "Thưa ngài, bức
tranh của tôi thì sao?" Thầy không trả lời.
Sau ba năm thầy xuất hiện ở triều đình và thầy
nói, "Bây giờ đem vải vẽ và thuốc mầu lại đây, ta đã
sẵn sàng. Và tại sao bệ hạ là người quấy rối ta lặp đi
lặp lại thế? Nếu bệ hạ mà không quấy rối ta, ta chắc
đã tới sớm hơn chút ít rồi. Những kẻ ngu này từ triều
đình bệ hạ, họ nói mọi thứ với ta. Họ nói, 'Xin chào!'
Bệ hạ có nói chào với trúc không? Họ làm rối loạn
toàn thể sự việc. Phải mất nhiều tháng ta mới thu lại
được lắng đọng trong việc là trúc và quên rằng ta là
người. Và thế rồi bệ hạ tới và bệ hạ nói, 'Thưa ngài.'
Đó có phải là cách nói với cây trúc không? 'Khi nào
ngài sẽ vẽ?' Có ai đã bao giờ nghe thấy trúc vẽ
không? Bệ hạ là kẻ ngu, bệ hạ bị bao quanh toàn kẻ
ngu! Ta đã bảo bệ hạ rằng ta sẽ tới bất kì khi nào ta
sẵn sàng."
Vải vẽ được đưa tới, chổi vẽ và mầu, và trong vài
giây thầy đã vẽ xong trúc. Và người ta nói rằng nhà
vua khóc vì vui sướng. Ông ấy chưa bao giờ thấy bức
tranh như vậy: nó sống động thế! Nó không phải là
bức tranh thường. Nó không là từ bên ngoài, nó là từ
chính trúc - cứ dường như trúc đã mọc ra trên vải vẽ,
không được vẽ ra.
Roderick, ngồi im lặng không làm gì, và để mọi
sự xảy ra - bất kì cái gì đang xảy ra. Nếu cỏ dại mọc,
để chúng mọc. Chúng có quyền mọc nhiều như bạn
có quyền trưởng thành. Và nếu bạn cho phép mọi thứ
mà không có phán xét, nếu bạn vô phán xét, bạn sẽ
trưởng thành tới cực đỉnh của vui vẻ và phúc lành mà
bạn không thể nào hình dung ra được ngay bây giờ.
#4Câu hỏi thứ bẩy:
Thưa Thầy kính yêu,
Thật là kinh khủng về điều thầy nói về người Italy.
Đúng, tất nhiên, nhưng kinh khủng.
Adi, tôi biết nó là kinh khủng, nhưng tôi có thể
làm được gì? Tôi yêu người Italy và tôi muốn nói về
họ nhiều nhất có thể được. Họ là những người hay.
Tôi đánh chỉ khi tôi yêu. Bạn nên lo nghĩ về những
người tôi không đánh. Chẳng hạn, tôi chưa đánh
người Hà Lan. Tôi chờ đợi - khi tôi thu được đủ tình
yêu với họ thì tôi sẽ đánh họ nữa! Đó là cách của tôi
bày tỏ tình yêu và mưa rào tình yêu.
Sao người Italy không tin vào hoá thân?
Này, nhìn vào nó theo cách này: ai muốn quay lại
cuộc sống là người Italy?
Một người đàn bà ẵm đứa bé trong tay đang ngồi
trong phòng đợi tại ga tầu hoả ở Italy, nức nở một
cách cay đắng. Một người phục vụ tới và hỏi cô ấy có
rắc rối gì.
"Ôi, trời ơi," cô ấy kêu, "ai đó đã ở đây và họ đã
khiếm nhã thế với tôi về đứa con trai tôi. Tôi rất bực
tức - họ nói nó xấu thế!"
"Đó, đó bây giờ, em," người phục vụ nói một cách
mềm mỏng. "Đừng lo về điều đó. Anh bảo em cái gì -
uống chén trà ngon nhé?"
"Anh rất tốt," cô ấy nói, đưa tay chùi mắt. "Điều
đó rất tốt."
"Và trong khi anh làm điều đó," anh ta nói, "thế
chuối cho con khỉ của em thì sao?"
Một người Italy với một người cao một chân ngồi
trên vai anh ta bước vào quán rượu và gọi rượu scotch
và soda. Người chủ quán sững sờ những vẫn giao đồ
uống như đã gọi. Ngay khi anh chàng này định uống,
người nhỏ bé kia đánh cho đồ uống rơi ra khỏi tay anh
ta. Anh ta gọi cốc khác, và lần nữa người nhỏ bé lại
đánh cho đồ uống rơi ra sàn. Cảnh này lặp lại ba lần.
Cuối cùng, người đứng quầy không thể đừng
được lâu hơn. "Cái gì diễn ra ở đây thế?" ông ta hỏi.
"Đó là câu chuyện dài," người Italy nói, "nhưng
nhiều năm trước tôi đã ở Ai Cập và đã tìm ra cây đèn
thần. Tôi cọ vào nó và một thần hiện ra cho tôi ba
điều ước. Đầu tiên tôi ước có mười triệu đô la. Thế rồi
tôi ước có cuộc sống lâu mãi."
"Hay đấy," người đứng quầy nói. "Điều ước thứ
ba của ông là gì?"
"Tôi ước cho chim dài ba mươi centimet."
Hiểu chưa? Nhớ lấy nếu bạn bắt gặp một thần lúc
nào đó, đừng bao giờ hỏi điều ước thứ ba. Xem từ
điển mà tìm nghĩa thực của "chim."
#4Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi cảm thấy choáng khi thầy dùng từ 'đéo'. Phải
làm gì?
Sargamo, đó là một trong những từ hay nhất.
Tiếng Anh nên tự hào về nó. Tôi không nghĩ ngôn
ngữ nào khác có từ hay như thế.
Một hôm Tom từ California đã làm nghiên cứu
lớn lao nào đó về nó. Tôi nghĩ ông ấy phải là Tôm nổi
tiếng về tiếng tăm của Tom, Dick và Harry.
Anh ấy nói:
Một trong những từ thú vị nhất trong tiếng Anh là
từ 'fuck-đéo'. Nó là một từ ma lực: chỉ bởi âm thanh
của nó, nó có thể mô tả đau đớn, hoan lạc, ghét và
yêu. Trong ngôn ngữ nó rơi vào nhiều phân loại văn
phạm. Nó có thể được dùng như động từ, cả ngoại
động từ (John đéo Mary) và nội động từ (Mary bị đéo
bởi John), và như danh từ (Mary là kiểu đéo đẹp). Nó
có thể được dùng như tính từ (Mary đang đéo đẹp).
Như bạn có thể thấy không có mấy từ có tính linh
động của 'đéo'.
Bên cạnh nghĩa dục, cũng có các cách dùng sau:
Lừa gạt: Tôi bị đéo với chiếc xe dùng rồi.
Dốt nát: Bị đéo rồi nếu mình biết.
Rắc rối: Tôi đoán tôi bị đéo bây giờ!
Hùng hổ: Đéo mày!
Không bằng lòng: Cái đéo gì đang diễn ra ở đây?
Khó khăn: Tôi không thể hiểu được cái việc đéo
này.
Bất tài: Nó đéo đi ngay.
Nghi ngờ: Anh đang làm cái đéo gì?
Tận hưởng: Tôi có một thời gian tốt đéo ra.
Yêu cầu: Làm cái đéo gì ở đây đi!
Thù địch: Tôi sẽ gõ vào cái đầu đéo ra gì của anh!
Đón chào: Anh thế đéo nào rồi?
Hờ hững: Ai cho cái đéo gì?
Canh tân: Kiếm cái búa đéo nào to hơn.
Ngạc nhiên: Đéo mẹ! Mày sợ cứt gì tao!
Lo âu: Hôm nay thực sự đéo ra gì.
Và nó rất mạnh khoẻ nữa. Nếu mọi sáng bạn làm
nó như Thiền Siêu việt - kiểu như khi bạn thức dậy,
điều đầu tiên, nhẩm mật chú "Đéo mày!" năm lần - nó
làm sạch cổ họng. Đó là cách tôi giữ cho cổ tôi sạch!
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#5Được tự do dịu ngọt làm sao
Người tìm kiếm!
Đừng khinh suất.
Thiền thường xuyên
nếu không ông sẽ nuốt lửa
và kêu la: "Không thêm nữa!"
Nếu ông không trí huệ,
Làm sao ông có thể làm vững chắc được tâm trí?
Nếu ông không thể làm yên tĩnh bản thân mình,
Ông bao giờ học được cái gì?
Ông sẽ trở nên tự do thế nào?
Với tâm trí yên tĩnh
đi vào trong nhà trống đó, trái tim ông,
và cảm thấy niềm vui của đạo
Bên ngoài thế giới.
Nhìn vào trong -
Cái lên và cái xuống.
Hạnh phúc làm sao!
Tự do ngọt ngào làm sao!
Đó là bắt đầu của cuộc sống,
của việc làm chủ và kiên nhẫn,
của bạn tốt cùng trên đường,
của cuộc sống thuần khiết và tích cực.
Cho nên sống trong tình yêu.
Làm việc của ông.
Làm chỗ kết thúc của nỗi buồn của ông.
Để thấy cách hoa nhài
nở ra và làm rơi xuống
những bông hoá héo của nó.
Để rơi rụng đi chủ tâm và hận thù.
Ông có yên tĩnh không?
Làm yên tĩnh thân thể ông.
Làm yên tĩnh tâm trí ông.
Ông không muốn gì.
Lời ông tĩnh lặng.
Ông tĩnh lặng.
Bằng nỗ lực riêng của ông
đánh thức bản thân mình, quan sát bản thân mình.
và sống vui vẻ.
Ông là người chủ,
Ông là chỗ trốn tránh.
Như lái buôn luyện ngựa tốt,
Làm chủ bản thân ông.
Sung sướng làm sao ông đi theo
Lời của người đã thức tỉnh.
Yên tĩnh làm sao, chắc chắn làm sao
Ông tiến tới nước hạnh phúc,
Trái tim của tĩnh lặng.
Dù trẻ thế nào,
người tìm kiếm khởi hành trên đạo
chiếu sáng lên cả thế giới.
như mặt trăng,
ló ra từ sau đám mây!
chiếu sáng.
Người đánh cá Scots chết, tìm đường lên cõi trời,
và bị Thánh Peter bắt dừng lại trước cửa và nói, "Ông
đã nói quá nhiều điều dối trá nên không vào đây
được!"
"Có lòng đi ông," người đánh cá đáp. "Nhớ là bản
thân ông có thời cũng đã là người đánh cá rồi!"
Phật Gautama đang nhắc nhở các Bồ tát của mình
rằng con đường mà bản thân họ đi theo, chính chỗ bắt
đầu của con đường, họ có thể đã quên hoàn toàn bây
giờ. Ai nhớ những giấc mơ buổi sáng khi mình tỉnh
dậy? Trong vòng vài giây những giấc mơ đó bị quên
đi.
Cùng điều đó xảy ra khi bạn trở nên chứng ngộ:
mọi khổ, mọi ác mộng, mọi nỗi buồn mà bạn đã chịu
đựng nhiều thế đơn giản trở thành không có ý nghĩa,
không liên quan tới mức chúng biến mất khỏi tâm
thức bạn. Chúng không còn là một phần của câu
chuyện cuộc sống của bạn - cứ như chúng đã xảy ra
cho ai đó khác và không cho bạn. Do đó Phật nhắc
nhở các Bồ tát của ông ấy về cách cuộc hành trình bắt
đầu từ chính lúc đầu; chỉ thế thì những người này mới
có thể có ích cho người khác.
Điều đầu tiên ông ấy nói: Nhớ chỉ nói cho người
tìm kiếm. Có nhiều người là người hỏi nhưng không
phải là người tìm kiếm, nhiều người tò mò nhưng
không là người tìm kiếm. Người tò mò có chút ít trẻ
con. Mọi đứa trẻ đều tò mò - tò mò về từng và mọi
thứ, tò mò về cả nghìn lẻ một thứ, nhưng không thực
sự quan tâm tới việc biết. Nó hỏi một câu hỏi; đến lúc
bạn trả lời, nó đã bắt đầu hỏi cái gì đó khác. Nó không
lắng nghe câu trả lời của bạn chút nào, nó không quan
tâm tới câu trả lời đó thêm nữa; đó là hiện tượng tạm
thời. Nó trở nên bị hấp dẫn tới cái gì đó: nó thấy bông
hoa và nó hỏi về bông hoa, và thế rồi nó nghe tiếng
động của máy bay và nói bắt đầu hỏi về máy bay, và
thế rồi cái gì đó khác bắt lấy mắt nó....
Người tìm kiếm nghĩa là người mà việc hỏi của
mình không chỉ là tò mò, không là hiện tượng trẻ con,
mà là việc hỏi chín chắn, với người đó nó đã trở thành
câu hỏi sống và chết. Chừng nào chân lí còn chưa trở
thành câu hỏi sống và chết thì bạn còn chưa là người
tìm kiếm.
Phật đang nói cho các Bồ tát của ông ấy, các tông
đồ của ông ấy: Chỉ nói cho người tìm kiếm, chỉ đề cập
bản thân mình cho người tìm kiếm. Đừng phí hoài
thời gian của bạn với những người ấu trĩ, người tò mò
về từng và mọi thứ. Câu hỏi của họ có thể có vẻ lớn
lao, nhưng trái tim họ không trong câu hỏi của họ. Họ
đã hỏi chỉ để hỏi; họ không quan tâm tới việc tìm ra
câu trả lời và họ không sẵn sàng mạo hiểm bất kì cái
gì. Nếu họ có thể có được câu trả lời tự do, có thể họ
sẵn sàng nghe; nhưng họ không sẵn sàng trả giá. Và
câu hỏi thực của cuộc sống không phải để được giải
theo cách rẻ thế. Bạn phải trả giá và bạn phải trả bằng
toàn thể bản thể của bạn. Bạn phải tham dự vào; nó
cần cam kết.
Bất kì ai cũng có thể hỏi về Thượng đế, nhưng rất
ít người sẵn sàng mạo hiểm bất kì cái gì, để đi vào cái
không biết, đi vào trong cuộc phiêu lưu - và cuộc
phiêu lưu vì Thượng đế là cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất
có đó. Và nó đòi hỏi; nó rất đòi hỏi - nó đòi hỏi cam
kết toàn bộ của bạn. Nó sẽ không cho phép bạn vào
bất kì tham dự nào khác. Nó không thể chỉ là một
tham dự trong nhiều tham dự khác; nó phải là một và
chỉ một tham dự. Chỉ thế thì mới có hi vọng rằng một
ngày nào đó bạn có thể tìm ra câu trả lời, điều giải
thoát cho bạn. Do đó ông ấy nói:
Người tìm kiếm!
Đừng khinh suất.
Và điều đầu tiên cần được dạy cho những người
này, người là người tìm kiếm, là không khinh suất.
Mọi người đang sống rất khinh suất, mọi người đang
sống rất ngẫu nhiên. Các kiếp sống của họ không có
khả năng định hướng. Họ không biết họ đi đâu, họ tới
từ đâu, tại sao họ làm điều gì đó. Có thể người khác
đang làm nó cho nên họ bắt chước, nhưng người bắt
chước không phải là người tìm kiếm. Có thể người
khác đi tới nhà thờ hay đền chùa nên họ cũng đi. Họ
không thực sự là người mà là cừu.
Người tìm kiếm phải là sư tử. Người đó phải học
tự do khỏi tâm lí đám đông, khỏi tâm lí quần chúng.
Người đó phải học cách thức của tính cá nhân, của sự
độc lập. Người đó phải nghĩ về điều mình đang làm
và tại sao. Người đó không nên chỉ là nạn nhân của
các sinh lực tự nhiên; người đó nên có khả năng định
hướng nào đó. Chỉ thế thì mới có khả năng đạt tới,
khả năng quay về nhà, khả năng đạt tới đâu đó, khả
năng đạt tới mãn nguyện, hoàn thành, nở hoa, kết quả.
Bằng không cuộc sống vẫn còn vô nghĩa; nó chỉ là mớ
bòng bong các biến cố không liên quan.
Đừng khinh suất. Điều thứ nhất: Đừng chỉ tò mò.
Điều thứ hai: Đừng khinh suất.
Thành phố New York bị kẹt cứng vì cuộc hội
nghị. Mọi khách sạn và nhà nghỉ đều đầy. Phillips mệt
mỏi - anh ta đơn giản phải tìm ra chỗ để ngủ đêm đó.
"Cái gì cũng được," anh ta nói với nhân viên
khách sạn.
"Tôi có thể cho ông một cũi trong phòng khiêu
vũ," nhân viên đáp, "Nhưng có người đàn bà ở góc
đối diện. Nếu ông không làm gì ầm ĩ gì cô ấy sẽ
không khôn hơn đâu."
"Tốt," Phillips nói. Anh ta đi vào phòng khiêu vũ
nhưng năm phút sau chạy ra chỗ nhân viên khách sạn.
"Này," anh ta kêu lên, "người đàn bà kia chết rồi!"
"Tôi biết," là câu trả lời, "nhưng làm sao anh đã
tìm ra?"
Mọi người đều tò mò chẳng bởi lí do nào cả - đấy
không phải việc của người đó. Cho dù người đó
không thể trả lời được tại sao - bản năng vô thức nào
đó, có thể là sinh học, có thể là hoá chất, nhưng
không phải là tâm thức của người đó.
Ai hay cái gì quyết định cuộc sống của bạn? - sinh
học của bạn, hoá chất của bạn, tâm lí của bạn, hooc
môn của bạn? Ai quyết định cuộc sống của bạn? Bạn
có đó không? - bạn có như một sinh linh có ý thức
không?
Một người say bước vào quán rượu ở Glasgow và
hỏi, "Đêm qua tôi có ở đây không?"
"Có, ông có ở đây," người chủ quán đáp.
"Tôi có tiêu nhiều tiền không?"
"Quãng ba mươi bảng."
"Ơn trời - tôi cứ tưởng tôi đã đánh mất nó!"
Angus loạng choạng về nhà sau một đêm với các
bạn thân về câu cá, anh ta bắt gặp một bù nhìn, tay
thò ra ngoài.
"Này, Jimmy," anh ta nói, "tôi từ chối tin vào anh.
Chưa bao giờ có cá hồi cỡ đó."
Một số lính Scot bị đưa ra toà án quân sự vì phá
hoại một nhà công cộng, và một người trong số họ
được yêu cầu giải thích với toà án sự việc rắc rối đó
đã bắt đầu thế nào.
"Dạ thưa ngài," anh ta nói, "Binh nhì McSporran
gọi binh nhì McDougall là đồ dối trá, và binh nhì
Paterson dùng ghế nện lên đầu anh ta. Binh nhì Fraser
rút dao găm của mình ra và chặt một mảnh chân của
binh nhì McDougall. Hai hay ba bạn thân của binh
nhì McDougall đè lên binh nhì Fraser, và đôi người
khác bắt đầu ném cốc và bàn xung quanh. Điều nọ
dẫn tới điều kia và thế rồi đánh nhau bắt đầu."
Phật nói:
Người tìm kiếm! Đừng khinh suất.
Thiền thường xuyên
nếu không ông sẽ nuốt lửa
và kêu la: "Không thêm nữa!"
Thiền thường xuyên. Người là người tìm kiếm sẽ
không thực sự quan tâm tới việc có được các câu trả
lời triết lí từ người khác; người đó sẽ quan tâm tới
việc biết của riêng mình. Người đó sẽ không quan tâm
tới triết lí, người đó sẽ quan tâm tới tôn giáo. Đó là
khác biệt giữa triết học và tôn giáo. Triết học đang
tung hứng với lời, nghệ thuật chẻ sợi tóc ra, biện luận
vô hạn về các ý tưởng trừu tượng, chẳng đi tới đâu cả.
Tôn giáo giống khoa học nhiều hơn: nó thực nghiệm,
nó nhấn mạnh vào kinh nghiệm. Khoa học là tôn giáo
của thế giới khách quan, và tôn giáo là khoa học của
thế giới chủ quan.
Triết học sẽ chết một ngày nào đó; nó đã trên
giường chết rồi. Bạn có thể tới các đại học và nhìn:
mọi năm càng ngày càng ít người chuyển sang khoa
triết học. Nhiều khoa triết trống rỗng, bỏ trống. Mọi
người đang đi vào khoa học hay tôn giáo. Những
người quan tâm tới việc biết chân lí về thế giới đều đi
vào cuộc truy tìm khoa học, vào vật lí, vào hoá học,
vào toán học, vào sinh học. Hay, những người quan
tâm tới lãnh thổ riêng của mình, tính chủ quan riêng
của mình, tâm thức riêng của mình, đều đi tới tôn
giáo, càng ngày càng hướng tới tôn giáo.
Tôn giáo là khoa học về cái bên trong. Triết học
không là cả hai: nó không là khoa học của cái bên
ngoài, không là khoa học của cái bên trong; nó ở giữa.
Nó chỉ nghĩ; nó nghĩ về mọi thứ - về khoa học, về tôn
giáo - nhưng nó chỉ nghĩ. Và chỉ bằng suy nghĩ, chẳng
cái gì đã bao giờ xảy ra. Bạn có thể làm ra câu trả lời
rất thông minh, nhưng chúng sẽ không giải quyết
được vấn đề thực của bạn; vấn đề là thực và câu trả
lời là trừu tượng. Vấn đề thực có thể được giải quyết
chỉ bởi câu trả lời thực.
Do đó Phật nói: Người tìm kiếm có thể được
thuyết phục thiền - chỉ người tìm kiếm mới có thể
được thuyết phục thiền. Thiền nghĩa là bạn bắt đầu
thay đổi thế giới bên trong của mình. Bạn bắt đầu loại
bỏ bụi khỏi thế giới bên trong, bạn bắt đầu loại bỏ tất
cả những cái không cần thiết trong thế giới bên trong.
Bạn loại bỏ mọi lộn xộn, mọi rác rưởi mà bạn đầy
trong mình. Thiền nghĩa là làm trống rỗng bản thân
bạn khỏi mọi điều xã hội đã đưa vào trong bạn để cho
bạn có thể có cái nhìn rõ ràng, sạch sẽ, để cho bạn có
thể có phẩm chất như tấm gương. Khi tấm gương có
đó mà không có bụi nào, nó phản xạ thực tại; đấy
cũng là trường hợp với thiền.
Thiền nghĩa là làm cho tâm thức của bạn thành
tấm gương. Ý nghĩ giống như bụi, chúng phải được
loại bỏ. Và ý nghĩ chứa mọi thứ thuộc về tâm trí: ham
muốn, tham vọng, kí ức, mơ mộng... mọi chất liệu
tâm trí đều là những dạng khác nhau của ý nghĩ, các
loại khác nhau, các tầng bụi khác nhau. Và bụi dầy tới
mức tấm gương không hoạt động chút nào - do đó bạn
phải hỏi người khác. Một khi bụi bị loại bỏ đi bạn
không cần hỏi người nào, bản thân bạn có thể thấy.
Sự tồn tại đã cho bạn tấm gương thần - nó ở bên trong
bạn.
Tôi đã nghe một chuyện ngụ ngôn hay; nó phải là
ngụ ngôn, nó không thể là hiện tượng lịch sử được:
Khi Alexander Đại đế tới Ấn Độ ông ấy thu thập
nhiều châu báu có giá trị. Và khi ông ấy ra đi ông ấy
bắt gặp một fakir, người tu khổ hạnh, một fakir trần
trụi. Ông ấy hỏi ông này, "Ông có thấy kho báu của ta
không? Ông đã bao giờ thấy người nào với nhiều
châu báu thế không?"
Fakir nói, "Mọi châu báu của ông đều không là gì,
nhưng tôi có thể cho ông một thứ mà sẽ thực sự làm
cho ông giầu có!"
Alexander không thể hình dung được người fakir
trần trụi này có thể cho mình cái gì. Trong bình bát ăn
xin của mình ông ta có một tấm gương nhỏ. Ông ta
đưa tấm gương cho Alexander.
Alexander nói, "Tấm gương này sẽ làm cho ta
thành người giầu nhất thế giới sao? Ông phải điên
rồi!"
Fakir nói, "Trước hết nhìn vào tấm gương đã."
Và Alexander nhìn vào trong tấm gương: nó
không hiện lên khuôn mặt ông ấy - nó hiện lên bản
thể bên trong của ông ấy, nó hiện lên lãnh thổ bên
trong của ông ấy, nó hiện lên tính chủ quan của ông
ấy. Bản thể của ông ấy được phản xạ trong tấm
gương.
Ông ấy chạm chân fakir và nói, "Ông đúng rồi -
mọi châu báu của ta chẳng là gì trước tấm gương
này."
Và tương truyền ông ấy đã giữ tấm gương đó liên
tục với mình.
Câu chuyện ngụ ngôn này là hay. Tấm gương đó
đại diện cho thiền. Fakir phải đã đưa cho ông ấy cách
thiền nào đó bởi vì chỉ thiền mới có thể làm cho bạn
nhận biết về mình là ai.
Nhưng Phật nói thiền phải trở thành cái gì đó
thường hằng. Phật đem tầm nhìn mới toàn bộ về thiền
cho thế giới. Trước Phật, thiền là cái gì đó bạn phải
làm một hay hai lần một ngày, một giờ buổi sáng, một
giờ buổi tối, và đó là tất cả. Phật đã cho cách diễn giải
mới toàn bộ cho toàn thể quá trình thiền. Ông ấy nói:
Loại thiền này mà ông làm một giờ buổi sáng, một
giờ buổi tối, ông có thể làm năm lần hay bốn lần một
ngày, chẳng có giá trị gì mấy. Thiền không thể là cái
gì đó mà bạn có thể làm bên ngoài cuộc sống chỉ
trong một giờ hay mười lăm phút. Thiền phải trở
thành cái gì đó đồng nghĩa với cuộc sống của bạn; nó
phải giống như thở. Bạn không thể thở một giờ buổi
sáng và một giờ buổi tối, bằng không tối sẽ không bao
giờ tới. Nó phải là cái gì đó giống như thở: ngay cả
khi bạn ngủ việc thở vẫn tiếp tục. Bạn có thể đi vào
cơn mê, nhưng việc thở vẫn tiếp tục.
Phật nói thiền nên trở thành hiện tượng thường
xuyên; chỉ thế thì nó mới có thể biến đổi bạn. Và ông
ấy đã mở ra một kĩ thuật thiền mới.
Đóng góp lớn lao nhất của ông ấy cho thế giới là
Vipassana; không thầy giáo nào khác đã đem cho thế
giới món quà lớn thế. Jesus là đẹp, Mahavira là đẹp,
Lão Tử là đẹp, Zarathustra là đẹp, nhưng đóng góp
của họ, so với Phật, không là gì cả. Cho dù họ tất cả
gắn với nhau, thế nữa đóng góp của Phật vẫn lớn hơn
bởi vì ông ấy đã cho phương pháp khoa học thế - đơn
giản, vậy mà xuyên thấu tới mức một khi bạn hài hoà
với nó, nó trở thành nhân tố thường xuyên trong cuộc
sống của bạn.
Thế thì bạn không cần làm nó; bạn phải làm nó
chỉ lúc bắt đầu. Một khi bạn đã học được mẹo về nó,
nó còn lại với bạn; bạn không cần làm nó. Thế thì bất
kì cái gì bạn làm, nó đều có đó. Nó trở thành phông
màn cho cuộc sống của bạn, nền tảng cho cuộc sống
của bạn. Bạn bước đi, nhưng bạn bước có tính thiền.
Bạn ăn, nhưng bạn ăn có tính thiền. Bạn ngủ, nhưng
bạn ngủ có tính thiền. Nhớ lấy, ngay cả phẩm chất của
giấc ngủ của thiền nhân cũng hoàn toàn khác với
phẩm chất của giấc ngủ của người không là thiền
nhân. Mọi thứ đều trở thành khác bởi vì một nhân tố
mới đã đi vào làm thay đổi toàn thể động thái.
Vipassana đơn giản nghĩa là quan sát hơi thở của
bạn, nhìn vào hơi thở của bạn. Nó không giống như
yoga pranayam: nó không thay đổi hơi thở của bạn
sang nhịp điệu nào đó - thở sâu, thở nhanh. Không, nó
không thay đổi việc thở của bạn chút nào; nó không
liên quan gì tới việc thở. Việc thở chỉ phải được dùng
như phương cách để quan sát bởi vì nó là hiện tượng
thường xuyên trong bạn. Bạn có thể đơn giản quan sát
nó, và đó là hiện tượng tinh tế nhất. Nếu bạn có thể
quan sát hơi thở của mình thế thì sẽ dễ dàng cho bạn
quan sát ý nghĩ của mình.
Một điều lớn lao vô cùng mà Phật đã đóng góp là
khám phá ra mối quan hệ giữa hơi thở và ý nghĩ. Ông
ấy là người đầu tiên trong toàn thể lịch sử nhân loại
đã làm tuyệt đối rõ ràng là việc thở và suy nghĩ có
quan hệ sâu sắc Việc thở là phần thân thể của suy
nghĩ và suy nghĩ là phần tâm lí của việc thở. Chúng
không tách rời, chúng là hai mặt của cùng một đồng
tiền. Ông ấy là người đầu tiên nói về thân tâm như
một đơn vị. Ông ấy nói lần đầu tiên về con người như
hiện tượng tâm thân. Ông ấy không nói về thân thể và
tâm trí, ông ấy nói về thân tâm. Chúng không phải là
hai, do đó không cần có 'và' để nối chúng. Chúng đã
là một rồi - thân tâm - thậm chí không cần dấu gạch
nối; thân tâm là một hiện tượng. Và từng quá trình
thân thể đều có phần tương ứng của nó trong tâm lí và
ngược lại.
Bạn có thể quan sát điều đó, bạn có thể thử thực
nghiệm. Dừng thở trong một chốc và bạn sẽ ngạc
nhiên: khoảnh khắc bạn dừng thở, suy nghĩ của bạn
dừng lại. Hay bạn có thể quan sát điều khác: bất kì
khi nào suy nghĩ của bạn đi quá nhanh việc thở của
bạn thay đổi. Chẳng hạn, nếu bạn đầy thèm khát dục
và suy nghĩ của bạn trở nên quá nóng, việc thở của
bạn sẽ khác: nó sẽ không theo nhịp điệu, nó sẽ mất
nhịp điệu của nó. Nó sẽ hỗn độn hơn, nó sẽ không
nhịp điệu.
Khi bạn giận dữ việc thở của bạn thay đổi bởi vì
việc nghĩ của bạn đã thay đổi. Khi bạn yêu việc thở
của bạn thay đổi bởi vì suy nghĩ của bạn đã thay đổi.
Khi bạn an bình, thoải mái, ở nhà, thảnh thơi, việc thở
của bạn khác. Khi bạn bất ổn, trong rối loạn, trong
đau khổ, việc thở của bạn khác. Chỉ bằng việc quan
sát hơi thở của mình bạn có thể biết loại trạng thái nào
đang xảy ra trong tâm trí mình.
Thiền nhân đi tới một điểm: khi tâm trí thực sự
dừng lại đầy đủ, việc thở cũng dừng lại. Và thế thì nỗi
sợ lớn nảy sinh - đừng sợ. Nhiều thiền nhân đã báo
cáo cho tôi, "Chúng tôi trở nên sợ lắm, rất hoảng, bởi
vì bỗng nhiên chúng tôi trở nên nhận biết rằng việc
thở đã dừng lại." Một cách tự nhiên, người ta nghĩ
rằng khi việc thở dừng lại cái chết ở cận kề. Đó chỉ là
vấn đề vài khoảnh khắc - bạn đang chết. Việc thở
dừng lại trong cái chết; việc thở cũng dừng lại trong
thiền sâu. Do đó thiền sâu và chết có một điểm tương
tự: trong cả hai việc thở dừng lại. Do đó, nếu một
người biết thiền người đó cũng đã biết chết. Đó là lí
do tại sao thiền nhân trở nên tự do khỏi sợ chết: người
đó biết việc thở có thể dừng lại và dầu vậy người đó
vẫn hiện hữu.
Việc thở không phải là sống; sống là hiện tượng
lớn hơn nhiều. Việc thở chỉ là nối với thân thể. Việc
nối có thể bị cắt rời; điều đó không có nghĩa là cuộc
sống đã chấm dứt. Cuộc sống vẫn có đó; cuộc sống
không chấm dứt chỉ bởi không xuất hiện việc thở.
Phật nói: Quan sát việc thở của ông; để nó bình
thường, như nó vậy. Ngồi im lặng, quan sát hơi thở
của bạn. Tư thế ngồi cũng sẽ có ích; tư thế Phật, tư
thế hoa sen, là rất có ích. Khi xương sống của bạn
dựng thẳng và bạn đang ngồi trong tư thế hoa sen,
chân bạn xếp chéo, xương sống bạn được gióng thẳng
theo lực trọng trường, và thân thể ở trạng thái thảnh
thơi nhất. Để xương sống được dựng thẳng và thân
thể chùng lỏng, treo trên xương sống - không căng
thẳng. Thân thể nên chùng lỏng, thảnh thơi, xương
sống dựng thẳng, cho nên sức hút có lực kéo ít nhất
lên bạn.
Bạn có quan sát điều đó không? Nếu bạn muốn đi
ngủ bạn phải nằm ra, bởi lẽ đơn giản là khi bạn nằm
ngang trên đất bạn trong tiếp xúc với lực hút ở mức
tối đa, bởi vì trên khắp thân thể lực hút trọng trường
tác động, nó kéo bạn. Bạn lập tức bắt đầu rơi vào giấc
ngủ. Đứng thì khó rơi vào giấc ngủ. Tư thế khó nhất
để rơi vào giấc ngủ là tư thế hoa sen. Thân thể thảnh
thơi thế không cần rơi vào giấc ngủ, và lực trọng
trường ở mức tối thiểu; do đó chúng không thể kéo
bạn xuống được; chúng không thể làm cho bạn nặng
nề và đờ đẫn và lờ phờ. Bạn hoạt bát, bạn đầy cuộc
sống. Bạn thông minh khi ở tư thế hoa sen hơn là bạn
có thể ở trong bất kì tư thế nào khác. Thân thể ảnh
hưởng tới tâm trí bạn.
Các nhà khoa học bây giờ đồng ý với điều này:
rằng chỉ bởi vì vài con khỉ bằng cách nào đó... họ đã
không có khả năng tìm ra lí do tại sao và làm sao điều
đó đã xảy ra, và khỉ vẫn là khỉ - có thể chỉ ngẫu nhiên
do tò mò, vài con khỉ cố đứng trên hai chân và đây là
những con khỉ đã trở thành con người nguyên thuỷ;
chúng là người khởi thuỷ. Đó là đổi mới vĩ đại nhất;
không cái gì khác lớn hơn điều đó. Vài con khỉ đứng
thẳng trên hai chân chúng đã tạo ra cuộc cách mạng vĩ
đại; cuộc cách mạng xảy ra trong trưởng thành của
tâm trí. Tư thế đứng thẳng giúp cho tâm trí thoát ra
khỏi giấc ngủ. Tâm trí trở nên thông minh hơn, nó trở
nên tỉnh táo hơn, nó trở nên ý thức hơn.
Các con vật khác di chuyển trên bốn chân đã
không có khả năng phát triển thông minh, mặc dầu
nhiều con trong chúng có trí não gần cùng năng lực
như con người. Chẳng hạn, voi có trí não gần cùng
năng lực như con người, nhưng đã không có khả năng
phát triển nó và tôi không nghĩ điều đó sẽ xảy ra.
Trong rạp xiếc họ cố gắng vất vả để dạy voi ngồi
trong ghế hay đứng trong vài giây trên hai chân,
nhưng thân thể nặng nề thế, voi không thể xoay xở
đứng trên hai chân được. Do đó não vẫn còn bị đóng;
lực hút trọng trường giữ cho nó vô ý thức.
Do đó tư thế hoa sen này là cái gì đó có giá trị. Nó
không chỉ là hiện tượng thân thể; nó ảnh hưởng tới
tâm trí. Nó làm thay đổi tâm trí. Ngồi trong tư thế hoa
sen - toàn thể vấn đề là ở chỗ xương sống của bạn
phải dựng thẳng và phải làm thành góc chín mươi độ
với đất. Đó là điểm mà bạn có khả năng thông minh
nhất, tỉnh táo nhất, ít buồn ngủ nhất.
Và thế rồi quan sát hơi thở của bạn, hơi thở tự
nhiên. Bạn không cần thở sâu, bạn không thay đổi
việc thở của mình; bạn đơn giản quan sát nó như nó
vậy. Nhưng bạn sẽ ngạc nhiên bởi một điều: khoảnh
khắc bạn bắt đầu quan sát, nó thay đổi - bởi vì ngay
cả sự kiện quan sát cũng là việc thay đổi và việc thở
không còn như cũ.
Hơi chút thay đổi trong tâm thức của bạn lập tức
ảnh hưởng tới việc thở của bạn. Bạn sẽ có khả năng
nhìn thấy nó; bất kì khi nào bạn quan sát bạn sẽ thấy
việc thở của mình đã trở nên sâu hơn chút ít. Nếu nó
trở nên như vậy theo cách riêng của nó thì thế là tốt,
nhưng bạn không làm nó bằng ý chí của mình. Quan
sát hơi thở của mình, dần dần, dần dần bạn sẽ ngạc
nhiên là khi hơi thở của bạn trở nên bình thản và yên
tĩnh, tâm trí của bạn cũng trở nên bình thản và yên
tĩnh. Và quan sát hơi thở sẽ làm cho bạn có khả năng
quan sát tâm trí.
Đó mới chỉ là bắt đầu, phần đầu tiên của thiền,
phần vật lí. Và phần thứ hai là phần tâm lí. Thế thì
bạn có thể quan sát những điều tinh tế hơn trong tâm
trí mình - ý nghĩ, ham muốn, kí ức.
Và khi bạn đi sâu hơn vào trong tính quan sát,
phép màu bắt đầu xảy ra: khi bạn trở nên có tính quan
sát, càng ngày càng ít giao thông xảy ra trong tâm trí,
càng ngày càng tĩnh lặng, im lặng hơn; càng ngày
càng nhiều không gian im lặng hơn, càng ngày càng
nhiều lỗ hổng và khoảng hở. Các khoảnh khắc trôi
qua và bạn không bắt gặp một ý nghĩ nào. Dần dần,
dần dần nhiều phút trôi qua, nhiều giờ trôi qua....
Và có số học nào đó trong nó: nếu bạn có thể vẫn
còn tuyệt đối trống rỗng trong bốn mươi tám phút,
chính ngày đó bạn sẽ trở nên chứng ngộ, chính
khoảnh khắc đó bạn sẽ trở nên chứng ngộ. Nhưng đó
không phải là vấn đề về nỗ lực của bạn; đừng cứ nhìn
đồng hồ bởi vì mỗi lần bạn nhìn, ý nghĩ đã tới. Bạn
phải đếm lại từ chính ban đầu; bạn quay lại số không.
Không cần bạn quan sát thời gian.
Nhưng điều này đã từng là kinh nghiệm ở phương
Đông của mọi thiền nhân vĩ đại: rằng bốn mươi tám
phút dường như là điểm tối thượng. Nếu lỗ hổng ngần
đó là có thể, nếu trong lỗ hổng như thế suy nghĩ dừng
lại và bạn vẫn còn tỉnh táo, không ý nghĩ nào bắt chéo
qua tâm trí bạn, bạn có khả năng đón nhận Thượng đế
bên trong. Bạn đã trở thành người chủ và khách lập
tức tới.
Nếu ông không trí huệ,
Làm sao ông có thể làm vững chắc được tâm trí?
Bạn phải rất thông minh; chỉ thế thì bạn mới có
thể làm vững chắc tâm trí. Và ông ấy ngụ ý gì bởi
thông minh? Thông thường chúng ta cư xử theo cách
rất không thông minh: chúng ta cư xử theo niềm tin;
niềm tin giữ chúng ta không thông minh. Chúng ta cư
xử theo tri thức vay mượn; điều đó giữ chúng ta
không thông minh.
Thử chấp nhận trực tiếp thách thức của cuộc sống;
đừng hành động từ niềm tin hay tri thức. Đừng tuân
theo kinh sách và truyền thống. Chúng là căn nguyên
của việc làm cho bạn thành ngu, bởi vì chừng nào bạn
còn chưa đối diện trực tiếp với cuộc sống, chừng nào
những thách thức đó còn chưa được đương đầu, thông
minh của bạn sẽ không nảy sinh - bởi vì sẽ không có
cơ hội cho nó nảy sinh. Cho nó cơ hội đi. Cuộc sống
cho nhiều cơ hội nhưng bạn cứ bỏ lỡ cơ hội bởi vì bạn
sống trên những câu trả lời vay mượn.
Đối diện cuộc sống và những câu hỏi của nó và
các thực tại của nó theo cách riêng của bạn, cho dù
đáp ứng riêng của bạn không lớn vậy - chúng không
thể thế được. Tất nhiên bạn không thể đáp ứng như vị
phật, nhưng bằng vay mượn câu trả lời nào đó từ Phật
bạn sẽ không bao giờ đủ thông minh để tự mình trở
thành vị phật. Vâng, bạn sẽ phạm nhiều lỗi, nhiều sai
lầm. Vâng, bạn sẽ đi lạc lối nhiều lần - cứ đi, đừng lo
nghĩ! Cuộc sống được ngụ ý cho điều đó, để cho bạn
có thể thử. Chính là quan thử, nhiều lỗi, nhiều sai lầm
mà người ta học. Khi bạn học bằng nỗ lực riêng của
mình, bạn trở nên thông minh. Và chỉ người thông
minh mới có thể thấy cái đẹp của thiền, mới có thể
hiểu ý nghĩa của thiền.
Nếu ông không thể làm yên tĩnh bản thân mình,
Ông bao giờ học được cái gì?
Và tất cả việc học xảy ra qua thiền; nó không xảy
ra qua nghiên cứu. Nghiên cứu là tích luỹ thông tin,
đó không phải là học. Bao giờ cũng tỉnh táo về tri
thức vay mượn: dù nó có vẻ quí giá thế nào nó cũng
là giả, rởm - cho bạn. Nó không rởm cho người đã
sống nó. Nó là đúng cho Phật, đúng cho Jesus, đúng
cho Krishna, nhưng không đúng cho bạn. Bạn sẽ phải
sống....
Phật cũng có kinh sách sẵn có. Ông ấy có thể đã
đọc Krishna; Gita có sẵn rồi. Và ông ấy là người được
giáo dục tốt - ông ấy là con vua. Mọi kinh sách đều
phải có sẵn cho ông ấy và các học giả lớn và các học
giả lớn cũng sẵn có cho ông ấy. Ông ấy có thể đã trích
đọc Gita mọi ngày; ông ấy có thể đã học Gita cho nên
tuyệt đối chắc là ông ấy đã có khả năng lặp lại nó từ
kí ức, nhưng thế thì ông ấy đã bỏ lỡ phật tính.
Và trong thời của Krishna Vedas cũng đã sẵn có
rồi, nhưng Krishna đã không vay mượn tri thức từ
Vedas. Vào thời của Jesus Kinh Cựu ước đã sẵn có
rồi, nhưng Jesus cố tìm ra chân lí cho bản thân mình.
Đây là cái gì đó rất bản chất cần hiểu: chân lí phải
được tìm thấy bởi bản thân người ta. Chỉ thế thì nó
mới giải thoát; bằng không nó trở thành tù túng - tù
túng đẹp, nhưng tất mọi dạng tù túng đều như nhau.
Và nếu bạn không thể học....
Ông sẽ trở nên tự do thế nào?
Chính chỉ qua kinh nghiệm chân lí theo cách riêng
của bạn mà tự do mới xảy ra. Tự do là hương thơm
của kinh nghiệm về chân lí.
Với tâm trí yên tĩnh
đi vào trong nhà trống đó, trái tim ông,
và cảm thấy niềm vui của đạo
Bên ngoài thế giới.
Phật nói: Với tâm trí im lặng, tâm trí yên tĩnh... đi
vào trong nhà trống đó, trái tim ông.
Trái tim bạn là nhà thực của bạn; nó hoàn toàn
trống rỗng. Cái đầu bạn đầy rác rưởi, trái tim bạn
trống rỗng toàn bộ. Đi từ đầu xuống tim đi! Toàn thể
quá trình thiền là đi từ cái đầu xuống trái tim, từ tâm
trí sang vô trí.
Đi vào trong nhà trống đó, trái tim ông, và cảm
thấy niềm vui của đạo - và bạn sẽ đầy niềm vui - bên
ngoài thế giới. Niềm vui không của thế giới này,
hương thơm tới từ cõi bên kia.
Nhìn vào trong -
Cái lên và cái xuống.
Lên và xuống của hơi thở của bạn: đó là cách nhìn
vào bên trong. Nhiều người đã nói: Nhìn vào bên
trong. Socrates đã nói: Nhìn vào bên trong, biết bản
thân ông, nhưng không ai đã cho phương pháp đích
xác. Phật cho bạn phương pháp đích xác: lên và
xuống của hơi thở. Chính là qua hơi thở mà bạn được
bắc cầu. Hơi thở là cây cầu giữa linh hồn bạn và thân
thể bạn. Nếu bạn có thể quan sát hơi thở của mình lên
và xuống, dần dần, dần dần bạn sẽ có khả năng nhìn
thân thể như tách rời khỏi bản thân mình và cũng vậy
hơi thở như tách rời khỏi bản thân bạn, bởi vì người
quan sát không thể là cái được quan sát, người quan
sát không thể là cái được quan sát. Bỗng nhiên một
hôm bạn sẽ nhận ra rằng bạn là nhân chứng của tất cả
nó. Và nhân chứng chắc chắn siêu việt lên trên tất cả
mọi cái nó chứng kiến. Trong chính khoảnh khắc đó
tự do đã xảy ra cho bạn. Thế thì:
Hạnh phúc làm sao!
Tự do ngọt ngào làm sao!
Đó là bắt đầu của cuộc sống...
Sinh không phải là bắt đầu của cuộc sống. Đây là
bắt đầu của cuộc sống, khi bạn kinh nghiệm linh hồn
chứng kiến của mình. Đó là bắt đầu....
của việc làm chủ và kiên nhẫn,
của bạn tốt cùng trên đường,
của cuộc sống thuần khiết và tích cực.
Thiền về những lời này đi. Phật tử đã không hiểu
những lời này chút nào. Làm sao người này, Phật
Gautama, lại là kẻ trốn chạy? Ông ấy nói: Đó là bắt
đầu của cuộc sống mới, của việc làm chủ và kiên
nhẫn, của bạn tốt cùng trên đường....
Ông ấy đang cho bạn thế giới mới, cách thức mới
để yêu, cách thức mới để thân thiện; ông ấy đang cho
bạn những người bạn mới. Thực tế, chỉ thiền nhân
mới có thể thân thiện với nhau bởi vì họ không phải là
kẻ cạnh tranh. Không ai khác có thể thân thiện được,
họ chỉ có thể giả vờ. Làm sao kẻ cạnh tranh có thể
thân thiện được? Sâu bên dưới họ là kẻ thù bởi vì mọi
người đều thèm muốn cùng thứ. Bạn tham tiền, bạn
của bạn cũng tham tiền. Làm sao bạn có thể thân thiện
được? Không thể được. Mọi tình bạn đều hư huyễn,
rởm.
Bạn muốn là thủ tướng và bạn của bạn cũng muốn
là thủ tướng. Ai không muốn là thủ tướng? Làm sao
bạn có thể thân thiện được? Do đó họ nói trong chính
trị không có tình bạn chút nào. Vài người là kẻ thù
công khai, vài người là kẻ thù theo cách mai danh ẩn
tích. Đó là lí do tại sao trong chính trị mọi ngày thay
đổi đều xảy ra: ai đó đã là bạn hôm qua, hôm nay là
kẻ thù; ai đó đã là kẻ thù hôm qua, hôm nay là bạn.
Đó là một thế giới kì lạ, thế giới chính trị.
Machiavelli, trong cuốn Hoàng tử, gợi ý cho các
chính khách, "Đừng bao giờ nói cái gì cho bạn của
bạn về điều bạn không muốn kẻ thù của mình được
biết, bởi vì bất kì người bạn nào cũng có thể trở thành
kẻ thù của bạn vào bất kì ngày nào." Ông ấy cũng nói,
"Đừng bao giờ nói cái gì chống lại kẻ thù của bạn mà
bạn không muốn nói chống lại bạn của mình bởi vì
bất kì kẻ thù nào cũng có thể trở thành người bạn vào
bất kì ngày nào " - thế thì sẽ khó khăn. Thế thì bạn sẽ
phải nuốt cái gì đó và điều đó sẽ bẽ mặt.
Chính khách cứ làm điều đó: họ cứ chia chẻ và
nuốt nó lặp đi lặp lại. Họ nói điều này hôm nay, điều
khác ngày mai; họ phải vậy. Trong chính trị không
thể có bạn bè được.
Bạn bè là có thể chỉ trên đường, trên đường hướng
tới Thượng đế, bởi vì đó không phải là cạnh tranh.
Bạn có thể có Thượng đế, tôi có thể có Thượng đế;
không có vấn đề là bằng việc bạn có Thượng đế tôi sẽ
không có khả năng có Thượng đế nữa. Hàng triệu
người có thể có Thượng đế và không có vấn đề gì vì
Thượng đế là vô hạn, chân lí là vô hạn. Việc có chân
lí của tôi không có nghĩa là bây giờ bạn không thể có
nó. Thực tế, ngược lại, việc có chân lí của tôi nghĩa là
bạn cũng có thể có nó! Nếu tôi có thể có nó, sao bạn
không có được? Do đó, trên đường, có một loại tình
bạn hoàn toàn mới.
... của cuộc sống thuần khiết và tích cực. Làm sao
Phật có thể bị gọi là kẻ đào tẩu được? Ông ấy nói:
...của cuộc sống thuần khiết và tích cực. Ông ấy ngụ ý
tính sáng tạo, tính sáng tạo tới từ hồn nhiên mang tính
thiền, của thuần khiết tính thiền. Và người sáng tạo
thực là có thể chỉ qua thiền. Cái gọi là hoạ sĩ của bạn,
chín mươi chín phần trăm số họ, không phải là hoạ sĩ
thực. Cái gọi là nhà thơ của bạn không phải là nhà
thơ, cái gọi là nhạc sĩ của bạn không phải là nhạc sĩ -
có thể là các nhà kĩ thuật. Họ biết cách chơi, họ biết
cách soạn, họ biết cách vẽ, nhưng chỉ biết cách vẽ
không làm cho bạn thành người sáng tạo.
Người sáng tạo là hiện tượng hoàn toàn khác.
Người sáng tạo đem cái gì đó của Thượng đế vào
trong thế giới, cái gì đó của người sáng tạo vào trong
thế giới. Nhưng làm sao bạn có thể đem cái gì đó của
Thượng đế vào trong thế giới nếu bạn không biết bản
thân Thượng đế?
Một Phật là người sáng tạo, một Jesus là người
sáng tạo. Lời của họ, hành động của họ là bằng chứng
duy nhất rằng Thượng đế tồn tại. Chính sự hiện diện
của họ là bằng chứng rằng Thượng đế tồn tại. Sự hiện
diện của họ có tính sáng tạo: trong chính sự hiện diện
của họ hàng nghìn người được biến đổi. Phật không
phải là kẻ đào tẩu; ông ấy không thể thế được. Không
người thức tỉnh nào có thể là kẻ đào tẩu. Kẻ hèn nhát
đào tẩu, người dũng cảm sáng tạo.
Cho nên sống trong tình yêu - đây là lời của Phật,
nhắc bạn:
Cho nên sống trong tình yêu.
Làm việc của ông.
Làm chỗ kết thúc của nỗi buồn của ông.
Ông ấy không chống lại tình yêu, ông ấy không
chống lại tính sáng tạo, ông ấy không chống lại công
việc. Làm việc của ông - bởi vì chừng nào bạn còn
chưa làm việc ở gần trái tim bạn, bạn sẽ vẫn còn chưa
được hoàn thành. Và thiền nhân lập tức thấy công
việc của mình là gì. Thiền nhân thấy về bản chất rằng
đây là công việc của mình; người đó không phải nghĩ
về nó. Nó rõ ràng và kêu to tới mức người đó biết
rằng mình phải là nhạc sĩ hay người đó phải là nhà
thơ hay người đó phải thế này hay thế nọ. Điều đó tới
rõ ràng tới mức không có vấn đề hoài nghi. Và thế thì
người đó bắt đầu làm việc; công việc đó là thiền của
người đó.
Có nhiều người ở đây sợ công việc. Họ không biết
điều đang xảy ra ở đây là hoàn toàn khác với việc bạn
đã bắt gặp trong cuộc sống của mình. Đó là cái gì đó
hoàn toàn khác. Khi tôi trao cho bạn việc nào đó, nó
là để giúp bạn trưởng thành. Chừng nào bạn còn chưa
có khả năng tìm ra công việc của riêng mình tôi sẽ cứ
trao nó cho bạn - chỉ cho tới khoảnh khắc bạn có khả
năng tự mình tìm thấy nó. Và bất kì công việc nào
được trao ở đây cũng không là gì ngoài việc thiền cho
bạn. Nếu nó không phải là thiền cho bạn thì bạn đã
không hiểu thông điệp của tôi chút nào.
Để thấy cách hoa nhài
nở ra và làm rơi xuống
những bông hoá héo của nó.
Để rơi rụng đi chủ tâm và hận thù.
Phật nói: Như hoa nhài rụng khi chúng đã tàn hay
lá rụng khỏi cây khi chúng chết, lá khô. Cũng hệt như
thế, để rơi rụng đi chủ tâm và hận thù. Điều đầu tiên
ông ấy nói mà phải bị vứt bỏ - dễ dàng, không nỗ lực,
cũng hệt như hoa nhài héo rụng theo cách riêng của
nó - là chủ tâm, ý chí của bạn, bản ngã của bạn.
Cho nên đôi khi tôi phải đưa bạn vào công việc
nào đó nơi bạn phải vứt bỏ bản ngã của mình và bạn
nghĩ đó là một loại trừng phạt. Nó không phải là một
loại trừng phạt đâu; nó là thách thức, nó là tình huống
nơi bạn phải vứt bỏ bản ngã chẳng chóng thì chầy bởi
vì nó tạo ra khổ lặp đi lặp lại cho bạn. Nó sẽ làm cho
bạn nhận biết rõ ràng rằng bản ngã của bạn gây ra khổ
của bạn.
Mới hôm nọ, Anshumali đã viết nói rằng, "Thưa
thầy kính yêu, làm việc ở Vrindavan dưới Deeksha
dường như là sự trừng phạt." Nó không phải vậy,
Anshumali. Nó là phần thưởng, không phải là trừng
phạt! Nó là trừng phạt nếu bạn muốn níu bám lấy bản
ngã của mình; nếu bạn để bản ngã rụng đi, nó là phần
thưởng. Và thế thì bạn sẽ có khả năng thấy cái đẹp
của công việc này, và bạn sẽ có khả năng thấy cái đẹp
của Deeksha nữa. Cô ấy là bà mẹ Italy đẹp! Cô ấy yêu
công nhân của mình, cô ấy yêu người của mình; cô ấy
hết lòng tận tuỵ. Tất nhiên, cô ấy yêu nhiều tới mức
cô ấy cũng quát lên, cô ấy cũng la lên nữa. Tình yêu
của cô ấy tới mức cô ấy tin cậy rằng bạn sẽ hiểu việc
la của cô ấy nữa. Nhưng cô ấy là phương cách tốt; cô
ấy đã từng là sự giúp đỡ mênh mông cho nhiều người.
Có một trăm nhóm trị liệu ở đây, nhưng nhóm của
Deeksha là tốt nhất! Mặc dầu nó không được biết như
nhóm trị liệu - nó là nhóm trị liệu bí mật.
Nếu bạn vứt bỏ chủ tâm của mình, bản ngã của
mình, thế thì hận thù cũng bị vứt bỏ bởi vì hận thù
không là gì ngoài cái bóng của bản ngã của bạn. Nếu
không có bản ngã thì không có hận thù; nếu có bản
ngã, bao giờ cũng có hận thù theo sau nó. Bất kì ai tới
trên con đường... và mọi người sẽ tới trên con đường
bởi vì các bản ngã không thể điều chỉnh lẫn nhau
được. Các bản ngã bao giờ cũng trong xung đột, các
bản ngã bao giờ cũng cãi nhau, chúng hay sinh sự, do
đó có hận thù.
Vứt bỏ bản ngã và nhìn cái đẹp của vô ngã. Thế
thì không có hận thù, không có giận dữ. Bạn trở nên
im lặng thế, năng lượng của bạn trở nên bình thản và
yên tĩnh tới mức bỗng nhiên bạn bắt đầu nhìn thế giới
trong ánh sáng khác, trong cảnh quan khác. Thế thì
thế giới bình thường này không còn là bình thường
nữa - nó trở thành thiêng liêng.
Ông có yên tĩnh không?
Làm yên tĩnh thân thể ông.
Làm yên tĩnh tâm trí ông.
Phật nói: Trước hết hãy bắt đầu với thân thể và
thế rồi đi sang tâm trí. Làm yên tĩnh thân thể ông
bằng việc quan sát hơi thở, làm yên tĩnh tâm trí ông
bằng việc quan sát ý nghĩ của ông.
Ông không muốn gì.
Lời ông tĩnh lặng.
Ông tĩnh lặng.
Thế thì bạn sẽ đi tới thấy rằng không có ham
muốn. Làm sao ham muốn có thể tồn tại trong tâm trí
im lặng được? Ham muốn là trạng thái rối loạn, ham
muốn là trạng thái của vô ý thức, ham muốn là điên
khùng. Khi bạn im lặng, điên khùng biến mất.
Ba lần Jessie đem Sandy tới toà linh mục, hi vọng
được làm lễ kết hôn với anh ta và làm vợ, nhưng mỗi
lần mục sư lại từ chối vì tình trạng say xỉn của chú rể
tương lai.
"Sao cô cứ khăng khăng đem anh ta lại tôi trong
trạng thái thế?" mục sư hỏi.
"Dạ thưa cha tôn kính," Jessie giải thích, "anh ấy
sẽ không tới khi anh ấy tỉnh táo!"
Khoảnh khắc bạn tỉnh táo, im lặng, bạn sẽ không
làm nhiều thứ bạn đang làm và bạn sẽ bắt đầu làm
những thứ bạn chưa bao giờ nghĩ tới trước đây. Cuộc
sống của bạn sẽ không còn bị phí hoài; nó sẽ trở nên
có tính sáng tạo, cực kì sáng tạo. Cuộc sống của bạn
sẽ không phát triển gai, nó sẽ phát triển hoa. Nó là
cùng năng lượng!
Nhưng tâm trí giữ cho bạn bận rộn trong những
thứ ngu xuẩn thế, trong những chi tiết ngu xuẩn thế về
những điều ngu xuẩn. Nhìn điều tâm trí vẫn đang làm
mà xem... và bạn sẽ không cần bất kì ai nói cho bạn
rằng bạn điên.
Một người nhỏ bé bước vào "Cửa hàng văn phòng
phẩm hoàn hảo" - một cửa hàng duy nhất ở New York
chuyên bán các sản phẩm giấy tờ. Một người bán
hàng thanh lịch tiếp cận anh ta trong bộ com lê
Brooks Brothers. "Thưa ông tôi có thể giúp gì được
cho ông?" người bán hàng ngân nga với giọng có văn
hoá.
"Vâng, tôi muốn có giấy viết."
"Ông thích giấy có đường kẻ hay không đường
kẻ, thưa ông?"
"Ồ, bất kì cái gì cũng được. Không thành vấn đề."
"Rồi ông sẽ viết bằng bút máy hay bút bi?"
"Tôi thực sự không biết. Bất kì cái gì tới tay...."
"Ông muốn dùng giấy dầy hay giấy mỏng mặt
láng, thưa ông?"
"Này, bất kì cái gì cũng được. Cứ đưa tôi bất kì
gói cũ nào!"
"Có lẽ ông ưa một trong các loại có mùi thơm?"
"Nếu ông thích. Nhưng tôi phải đón xe bus - cứ
đưa tôi giấy nào đó thôi!"
"Mất một chút thời gian thưa ông. Ông muốn
dùng giấy thủ công trong hộp quà tặng đặc biệt hay
thương hiệu đơn giản?"
Giọng của người nhỏ bé nâng lên một quãng tám.
"Trông này, lần thứ mười... giấy nào cũng được! làm
điều đó nhanh lên, được không?"
"Vậy có lẽ ông có sở thích mầu - đỏ, lam,
vàng...?"
Vừa lúc đó một người khác xô vào cửa hàng. Mắt
anh ta có quầng thẫm bên dưới và má anh ta ướt nước
mắt.
"Trông đây," anh ta nức nở, "đá lát này là mầu
nhà tắm của tôi và đây là kích cỡ nhà vệ sinh của tôi.
Tôi đã chỉ cho ông xem lỗ đít tôi hôm qua. Bây giờ,
tôi có thể có chút giấy vệ sinh được không?"
Nhìn vào tâm trí bạn... những điều ngu xuẩn và
những chi tiết ngu xuẩn tới vô hạn! Bạn đi mãi - khi
nào bạn sẽ dừng lại?... xin mời! Đó là điều Phật đang
nói.
Feinberg, giám đốc tang lễ, đang ăn trưa với bạn
mình, Weinstein.
"Tao kiếm được một mặc cả hời cho mày về quan
tài," anh ta nói.
"Tao không thích nghĩ về những điều như thế.
Bao nhiêu?"
"Nó được làm bằng gỗ gụ với tay cầm bạc và một
khoá. Nói cho mày, chỉ hai nghìn đô la thôi."
"Tao sẽ nghĩ về điều đó."
Trên đường về nhà từ chỗ làm, Weinstein dừng lại
ở nhà xác Minkis để so sánh giá.
"Tôi không thể cho anh cái gì đẹp," ông giám đốc
nói. "Tôi có một cỗ quan tài gỗ gụ với tay cầm bạc và
tôi thậm chí còn để vào đó một chiếc khoá. Giá một
nghìn đô la."
Weinstein chạy xô tới nhà Feinberg và bắt đầu la
lên. "Mày là thằng bạn gì thế! Tao vừa thấy cùng
chiếc quan tài mày muốn bán và nó rẻ hơn một nghìn
đô la."
"Nó có bằng gỗ gụ với tay cầm bạc và có khoá
không"
"Có chứ!" Weinstein đáp.
"Nó có lớp vải lót bằng bạc không?"
"Tao không nhìn. Tao nghĩ là không."
"Mày thấy đấy!" Feinberg nói. "Trong sáu tháng
mày sẽ cần lớp vải lót mới."
Không chỉ về cuộc sống mà thậm chí về sau cuộc
sống, tâm trí cứ chuẩn bị ngay cả điều đó. Mọi người
quyết định về di chúc của họ, họ quyết định về văn
bia của họ, họ quyết định cách nấm mồ của họ phải
được làm, bằng loại đá cẩm thạch nào. Con người
dường như hoàn toàn không thông minh và người đó
cứ phí hoài cuộc sống của mình về những điều như
thế mà chẳng tạo ra ý nghĩa gì hết cả. Nhưng bạn phải
nhìn vào tâm trí riêng của mình.
Ông không muốn gì. Lời ông tĩnh lặng. Ông tĩnh
lặng. Phật nói đây là cách chúng ta phải vậy - không
ham muốn, bởi vì mọi ham muốn đều vô tích sự.
Chúng là về tương lai; cuộc sống là trong hiện tại.
Mọi ham muốn đều làm bạn sao lãng khỏi hiện tại,
mọi ham muốn đều làm bạn sao lãng khỏi cuộc sống,
mọi ham muốn đều phá huỷ cuộc sống, mọi ham
muốn đều là trì hoãn cuộc sống. Cuộc sống là bây giờ
và ham muốn đem bạn đi xa, ngày càng xa hơn khỏi
bây giờ. Và khi chúng ta thấy rằng cuộc sống của
mình là khổ chúng ta cứ đổ trách nhiệm lên người
khác, và không ai chịu trách nhiệm ngoại trừ chúng
ta.
"Người tốt ơi," một vị khách tới thăm tù nhân nói,
"làm sao ngẫu nhiên mà anh tới chỗ buồn tẻ này?"
"Dạ, thưa ngài," người tù nói, "ông nhìn tôi đây,
nạn nhân bất hạnh của số mười ba không may."
"Thế à!" vị khách thăm nói. "Điều đó là thế nào?"
"Mười hai bồi thẩm và một quan toà, thưa ngài."
Không ai muốn nhận trách cứ về bản thân mình.
Bất kì cái gì cũng có tác dụng - con số không may,
tướng tay, số mệnh, chiêm tinh... sao, sao xấu đang
tạo ra khổ cho Anshumali! Cho dù họ đi tìm
Anshumali, sẽ khó cho họ tìm thấy anh ta; họ thậm
chí không thể thấy trái đất - trái đất nhỏ bé thế. Mặt
trời của chúng ta lớn hơn trái đất mười hai nghìn lần
và mặt trời của chúng ta là ngôi sao rất tầm thường.
Có ngôi sao lớn hơn mặt trời hàng triệu lần; so với
các ngôi sao đó trái đất này chỉ là hạt bụi, không đáng
để ý, có thể bỏ qua được. Nó có thể bị bỏ qua, có thể
bị quên mất, có thể bị lờ đi. Và có hàng triệu ngôi sao
mà khoa học đã đếm và hàng triệu ngôi sao nữa phải
ở bên ngoài bởi vì tầm với của chúng ta là giới hạn,
công cụ của chúng ta bị giới hạn. Và những sao này
đang quyết định số mệnh của thư kí trong văn phòng
thu thuế, của một người làm công ở ga tầu hoả!
Con người ngu thế, ngu không thể tin được.
Người đó cứ đổ trách nhiệm lên ai đó khác. Chừng
nào bạn còn chưa dừng điều này bạn sẽ không bao giờ
trở thành tôn giáo. Người tôn giáo là người nhận trách
nhiệm về bản thân mình.
Điều đầu tiên làm bạn khổ là ham muốn của bạn,
ham muốn thường xuyên về cái này và cái nọ. Dừng
điều đó lại. Và khi không có ham muốn, cũng không
có ý nghĩ. Chức năng của ý nghĩ là giúp bạn ham
muốn; chúng là công cụ. Nếu bạn không có ham
muốn, ý nghĩ nhất định biến mất theo cách riêng của
nó. Và khi không có ham muốn, không có ý nghĩ...
Ông tĩnh lặng. Bạn bình thản, tự chủ, định tâm, bắt rễ.
Đó là đám cháy vào sáng sớm, và một phóng viên
Italy trẻ khá may đã tới chứng kiến cảnh tượng để viết
bài tường trình về đám cháy từ một trong những cư
dân của nhà căn họ đã thoát ra ngoài.
"Thật là khủng khiếp," người này kể lại. "Ông
tưởng tượng các bức tường vỡ vụn về phía ông, ngọn
lửa thực tế liếm vào má ông theo bất kì hướng nào
ông quay tới và chính sắt của lan can bốc khói dưới
tay ông. Nhưng trong khói mù của tất cả những cái
đó, tôi muốn ông biết, tôi giữ hoàn toàn bình thản và
cân bằng."
"Thật là xấu hổ, vì ông đã bình thản và tự chủ,"
phóng viên đáp lại, "tới mức ông đã không nghĩ tới
việc mặc quần vào."
Những người nghĩ họ yên tĩnh và bình thản lại
không yên tĩnh và bình thản, Họ chỉ tin điều đó; họ
chỉ hi vọng rằng họ yên tĩnh và bình thản. Chỉ rất hãn
hữu nói có một người yên tĩnh và bình thản. Điều đó
chỉ xảy ra ở đỉnh tối thượng của thiền, không trước
điều đó. Cho nên đừng tự lừa mình.
Bằng nỗ lực riêng của ông
đánh thức bản thân mình, quan sát bản thân mình.
và sống vui vẻ.
Nhận trách nhiệm và điều đó cho bạn sáng suốt
lớn lao. Nếu bạn chịu trách nhiệm cho tất cả khổ của
mình, nếu bạn chịu trách nhiệm về tất cả ác mộng của
mình, thế thì điều khác cũng là có thể: bạn có thể thức
dậy. Nếu bạn chịu trách nhiệm về giấc ngủ của mình,
bạn có thể thức dậy; nếu bạn không chịu trách nhiệm,
ngôi sao nào đó chịu trách nhiệm, thế thì bạn có thể
làm gì? Bạn chỉ là nạn nhân và bạn phải chịu đựng.
Chừng nào sao còn chưa đổi ý của chúng, nếu chúng
có tâm trí....
Bằng nỗ lực riêng của ông đánh thức bản thân
mình, quan sát bản thân mình. Và sống vui vẻ. Và mọi
người nói Phật là người bi quan sao? - và ông ấy nói:
sống vui vẻ.
Phật nói: Đừng tin vào cứu tinh bởi vì đó là tâm
trí cũ, cùng tâm trí muốn đổ trách nhiệm lên ai đó
khác. Bây giờ người Ki tô giáo nghĩ Jesus cứu. Người
Hindu nghĩ rằng bất kì khi nào nhu cầu nảy sinh,
Krishna sẽ quay lại; ông ấy sẽ lấy hoá thân khác để
cứu nhân loại. Khi nào bạn sẽ cảm thấy trách nhiệm
của mình? Và mọi người không nghĩ rằng đây là điều
xấu xa, sỉ nhục, bẽ mặt; nó hạ thấp nhân phẩm con
người.
Một người Ki tô giáo và một người Do Thái đang
bước đi. Họ bắt gặp một nhà thờ và phía trước nó có
một tấm biển lớn với dòng chữ, "Jesus cứu rỗi!"
Người Do Thái nói, "Điều đó không là gì cả -
Moses đầu tư!"
Không ai có thể cứu bạn được; đừng đợi bất kì
cứu tinh nào. Bạn có thể tự cứu mình, điều đó là
đúng.
Đây cũng là một trong những cái nhìn thấu lớn lao
của Phật vào khổ của con người, vào thực tại con
người, rằng ông ấy nói: Đừng tin rằng ai đó sẽ cứu
ông. Bạn là nguyên nhân của khổ của mình, bạn có
thể là nguyên nhân của phúc lạc của mình.
Ông là người chủ,
Ông là chỗ trốn tránh.
Như lái buôn luyện ngựa tốt,
Làm chủ bản thân ông.
Sung sướng làm sao ông đi theo
Lời của người đã thức tỉnh.
Và nếu bạn thiền, nếu bạn trở nên im lặng chút ít,
tỉnh táo chút ít, bạn sẽ yêu những lời này bởi vì chúng
có hương vị của chân lí - nhưng chỉ cho những người
đang thiền.
Sung sướng làm sao ông đi theo lời của người đã
thức tỉnh. Thế thì tất cả những người đã thức tỉnh
bỗng nhiên trở thành người đương đại của bạn. Chỉ
thế thì bạn mới có thể hiểu được Jesus, Phật, Krishna,
Mahavira, Lão Tử. Chỉ thế thì, khi bạn thiền, bỗng
nhiên các điều huyền bí mở ra, những cánh cửa đã
đóng nay mở ra và mọi sự chưa bao giờ rõ ràng cho
bạn thì bỗng nhiên trở nên rõ ràng. Nhưng nó xảy ra
qua thiền và không có cách khác. Không phải bằng
nghiên cứu, không phải bằng việc thu thập ngày một
nhiều tri thức, không phải bằng biện luận, không bằng
triết lí hoá, mà chỉ bằng việc trở thành ngày một im
lặng hơn. Trong im lặng hoàn toàn, Thượng đế nói
với bạn qua tất cả những người đã thức tỉnh.
Yên tĩnh làm sao, chắc chắn làm sao
Ông tiến tới nước hạnh phúc,
Trái tim của tĩnh lặng.
Và thế rồi các bước đi của bạn có tự tin bởi vì mọi
chư phật đều là nhân chứng cho bạn. Khi bạn bắt đầu
nếm trải niềm vui của thiền, khi bạn bắt đầu trở nên
tỉnh táo với cái đẹp của thiền, khi hoa bắt đầu nở bên
trong bạn, mọi chư phật trở thành nhân chứng cho
bạn. Bạn biết bạn trên đường đúng; tự tin lớn nảy sinh
trong bạn.
Yên tĩnh làm sao, chắc chắn làm sao
Ông tiến tới nước hạnh phúc,
Trái tim của tĩnh lặng.
Dù trẻ thế nào,
người tìm kiếm khởi hành trên đạo
chiếu sáng lên cả thế giới.
Và đó không phải là vấn đề tuổi tác. Phật là người
đầu tiên điểm đạo cho thanh niên mang tính chất
sannyas. Ngoài ra, ở Ấn Độ truyền thống là chỉ người
rất, rất già, già hơn bẩy mươi nhăm tuổi, mới được
phép nhận tính chất sannyas. Tính chất sannyas dành
cho người già. Phật đã tạo ra cuộc cách mạng: ông ấy
điểm đạo cho thanh niên.
Và kinh nghiệm riêng của tôi là: bạn càng trẻ hơn,
càng tốt hơn, bởi vì khi bạn trở nên già hơn bạn thu
thập ngày càng nhiều gỉ hơn, ngày càng nhiều bụi
hơn. Khi bạn trở nên già hơn bạn trở nên ngày càng bị
nặng gánh bởi kinh nghiệm, tri thức và đủ mọi loại
thứ ngu xuẩn. Khi bạn trở nên già hơn bạn bắt đầu
mất đi hăng hái, nhiệt tình, dũng cảm để thực nghiệm
với cái không biết, để thám hiểu cái không biết. Khi
bạn trở nên già hơn bạn trở nên sợ chết tới mức do sợ
bạn đi tới Thượng đế, và những người đi từ sợ hãi tới
Thượng đế thì không bao giờ đạt tới Thượng đế. Sợ
không phải là cây cầu, nó là bức tường. Những người
đi tới Thượng đế truy tìm chân lí từ tình yêu chân lí,
chỉ họ mới được bắc cầu. Nó cần tuổi trẻ nào đó, dũng
cảm nào đó, năng lực nào đó để nhận mạo hiểm. Nó
cần nhiệt tình, tươi trẻ; bởi vì tôn giáo về căn bản là
nổi dậy.
Phật nói: Dù trẻ thế nào.... Đừng lo về điều đó.
Chín chắn không có liên quan gì tới tuổi tác cả; già đi
không nhất thiết đã là trưởng thành lên. Người ta có
thể trẻ và trưởng thành và người ta có thể rất già và
rất trẻ con. Tuổi tác và chín chắn không có móc nối
cần thiết nào. Chín chắn tới qua thiền. Già đi là quá
trình thông thường; mọi người đều già đi. Con vật già
đi, cây cối già đi, mọi người già đi; điều đó chẳng liên
quan gì tới biến đổi.
Dù trẻ thế nào,
người tìm kiếm khởi hành trên đạo
chiếu sáng lên cả thế giới.
như mặt trăng,
ló ra từ sau đám mây!
chiếu sáng.
Phật nói với các Bồ tát của mình, hãy đi và nói
cho người tìm kiếm: Như mặt trăng, ló ra từ sau đám
mây! chiếu sáng.
Cùng điều đó tôi nói với bạn: Như mặt trăng, ló
ra từ sau đám mây! chiếu sáng.
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#6Vươn lên trong tình yêu
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi đã rơi vào tình yêu với người đàn bà mà tôi
đã li dị hai năm trước. Điều đó là có thể được
không?
Shraddhan, đàn ông gần như cái máy. Đàn ông
chưa là người; anh ta vận hành một cách vô ý thức,
anh ta sống trong giấc ngủ. Do đó mọi thứ đều có thể.
Thực tế, bạn bao giờ cũng rơi vào tình yêu với cùng
người đàn bà, cho dù dường như bạn rơi vào tình yêu
với ai đó khác. Kiểu người vẫn như cũ bởi vì cái thích
của bạn là như cũ, tâm trí bạn như cũ, chọn lựa của
bạn như cũ.
Quan sát mọi người, quan sát chuyện tình của họ,
và bạn sẽ ngạc nhiên. Đó bao giờ cũng là cùng người
đàn ông hay cùng người đàn bà - vâng, với khuôn mặt
khác nhau hay với mặt nạ khác nhau, quần áo khác
nhau, hình dáng và kích thước khác nhau. Nhưng
những khác biệt này không phải là khác biệt thực.
Chừng nào bạn còn chưa là người mới, làm sao
bạn có thể rơi vào tình yêu với ai đó mới được? Ai sẽ
chọn lựa? Làm sao người ta sẽ chọn? Cùng tâm trí đó
sẽ thích cùng kiểu khuôn mặt, cùng mắt, cùng mầu
da, cùng hình thể, cùng dáng người, cùng cách người
đàn bà bước đi, cùng cách cô ấy nói. Lại trong vòng
vài ngày bạn sẽ mệt mỏi, cũng như bạn đã mệt mỏi
trước đây. Bạn lại sẽ thấy mình bị sập bẫy, bị cầm tù,
và người đàn bà cũng sẽ thấy cùng điều đó. Nhưng
con người sống trong trạng thái vô ý thức tới mức bạn
không thể mong đợi nhiều hơn thế.
Nếu con người có ý thức, thế thì nhiều điều trở
thành không thể được. Ngay chỗ đầu tiên, rơi vào tình
yêu bản thân điều đó trở thành không thể được. Bạn
bắt đầu vươn lên trong tình yêu, không rơi vào tình
yêu; chính phẩm chất của tình yêu của bạn trở thành
khác toàn bộ. Nó không còn là quan hệ, nó là trạng
thái của bản thể bạn nhiều hơn. Bạn đầy tình yêu, bạn
chia sẻ tình yêu của bạn, nhưng không có đòi hỏi về
phần bạn. Nó không còn là chuyện kinh doanh, nó
không còn có điều kiện, nó không đòi hỏi gì. Nó đơn
giản cám ơn rằng ai đó đã chấp nhận, rằng ai đó đã
không bác bỏ tình yêu của bạn. Bạn cảm thấy biết ơn.
Nó không là tù túng cho người khác, nó không làm
người khác thành nô lệ. Nó không có tính sở hữu; nó
tuyệt đối phi sở hữu, vô điều kiện, không đòi hỏi. Nó
cho tự do. Và khi tình yêu cho tự do, người yêu bắt
đầu soải cánh bay cao, họ bắt đầu đi tới Thượng đế.
Tình yêu trở thành cánh cửa tới điều thiêng liêng.
Ngay bây giờ tình yêu đơn giản lôi bạn xuống.
'Rơi vào tình yêu' là cụm từ có nghĩa - bạn chắc chắn
rơi vào, bạn bị hút xuống dưới. Lúc ban đầu bạn cảm
thấy vĩ đại, nhưng chỉ lúc ban đầu thôi. Đó chỉ là mê
đắm, bởi vì bạn đang hi vọng cái gì đó mới sẽ xảy ra.
Lúc ban đầu bạn bị kích động, đó dường như là cuộc
phiêu lưu lớn, nhưng chẳng mấy chốc bạn thấy nó là
cái cũ, mục ruỗng - chẳng cái gì đặc biệt, chẳng cái gì
mới. Chỉ bạn tình đã thay đổi, nhưng trò chơi vẫn như
cũ - và được chơi với cùng bạo hành, với cùng điều
xấu xí.
Shraddhan, không chỉ bạn rơi vào trong tình yêu
với cùng người đàn bà đâu; mọi người đều làm điều
đó. Trong trạng thái thông thường, vô ý thức của nhân
loại, nhiều hơn điều đó không thể được hi vọng đâu.
Bạn may mắn là bạn đã li dị, nhưng khó sống một
mình trừ phi bạn biết cái đẹp của việc ở một mình.
Khoảnh khắc bạn một mình bạn bắt đầu chịu đựng
sự cô đơn, bạn bắt đầu khao khát bầu bạn với người
khác. Và thế rồi bất kì ai cũng có tác dụng, ngay cả
với cùng người đàn bà mà bạn đã li dị; điều đó còn tốt
hơn là cô đơn. Cho dù điều đó là khổ, mọi người ưa
thích khổ để được bầu bạn hơn là cô đơn.
Chừng nào bạn còn chưa biết tới niềm vui của
thiền, bạn không thể tránh được việc rơi vào trong
tình yêu. Một khi bạn bắt đầu tận hưởng bản thể riêng
của mình, niềm vui, không gian, tự do tuyệt đối, tâm
thức không bị cản trở, không ai bận tâm tới chú ý của
bạn, không ai cố gắng bắt lấy chú ý của bạn, không ai
đụng chạm tới tự do của bạn, không ai can thiệp vào
tự do của bạn.... Khi bạn bắt đầu tận hưởng sự một
mình của mình, bạn đã trở thành thiền nhân. Vâng,
tình yêu cũng sẽ là có thể sau điều đó, nhưng là một
loại tình yêu hoàn toàn khác.
Bạn phải đã khổ do cô đơn và, lại tìm thấy cùng
người đàn bà đó, bạn có thể đã nghĩ sống cùng cô ấy
tốt hơn là cô đơn. Và bạn phải đã quên tất cả khổ - kí
ức của mọi người rất ngắn.
Và điều này phải được hiểu: tâm trí có xu hướng
quên đi phần đau khổ, nó có xu hướng nhớ phần hoan
lạc. Đó là một trong các chiến lược của tâm trí để vẫn
còn trong kiểm soát, để vẫn còn là người chủ của bạn.
Nó bao giờ cũng có xu hướng quên đi đau khổ; nó cứ
khuếch đại, tôn cao, tô điểm cho phần hoan lạc. Thực
tại là hoàn toàn khác, nhưng tâm trí sống trong tưởng
tượng.
Và kí ức của bạn không đáng tin cậy chút nào bởi
vì kí ức của bạn là hư cấu. Bạn chỉ nghĩ nó đẹp thế
nào, bạn đã quên đi mọi khổ; bạn đã chọn chỉ vài
khoảnh khắc có thể đã đẹp. Phải có vài khoảnh khắc
đã đẹp, nhưng chỉ vài khoảnh khắc thôi, vài và xa ở
giữa. Và chúng không thể đẹp được như bạn đã nghĩ;
bằng không cần gì phải li dị người đàn bà đó? Khổ
phải đã nhiều hơn, đau phải đã quá nhiều, không thể
chịu được. Bạn phải đã chịu khổ quá nhiều, người đàn
bà này đã chịu khổ quá nhiều. Vấn đề không phải là
người đàn bà có lỗi hay bạn có lỗi; điều đơn giản là
hai người vô ý thức ở cùng nhau nhất định tạo ra khổ
cho nhau.
Nếu bạn không thể hạnh phúc một mình được,
làm sao bạn có thể tạo ra hạnh phúc cho bất kì ai
khác? Bản thân bạn không hạnh phúc, làm sao bạn có
thể cho người khác hạnh phúc được? Bạn có thể cho
chỉ cái bạn có. Bạn đau khổ - bạn có thể giả vờ rằng
bạn không đau khổ, nhưng được bao lâu? Tuần trăng
mật không thể kéo dài mãi được. Trong vòng một
tuần lễ hay nhiều nhất là hai tuần nó chấm dứt, và thế
rồi bạn biết rằng cả hai đều là người đau khổ. Và khi
hai người đau khổ sống cùng nhau, khổ không chỉ gấp
đôi lên, nhớ lấy, nó nhân lên nhiều lần.
Nhưng bạn quên tất cả những điều đó. Về sau bạn
xoá sạch những phần đau khổ đó, bạn giữ lại những
khoảnh khắc đẹp. Và bạn không chỉ gìn giữ chúng,
bạn cứ trang hoàng cho chúng, tô vẽ cho chúng, lặp đi
lặp lại. Dần dần, dần dần chúng không có quan hệ với
thực tại. Quá khứ của bạn là hư cấu, tương lai của bạn
là hư cấu; chỉ hiện tại của bạn là thực. Nhưng bạn
không sống trong hiện tại chút nào; hoặc bạn sống
trong quá khứ hoặc bạn sống trong tương lai.
Và tại sao câu hỏi này đã nảy sinh, Shraddhan?
Khổ phải đã lại bắt đầu rồi! Đó là lí do tại sao bạn
hỏi, "Điều đó là có thể được không?" bạn đã làm nó
rồi, và bạn hỏi tôi, "Điều đó là có thể được không?"
Bản thân bạn không thể tin được điều bạn đã làm.
Khi mọi người ở cùng nhau họ muốn một mình;
khi họ ở một mình họ muốn ở cùng nhau. Mọi người
là không thể được!
Rizzoli độ tuổi trung tuần ngồi ở bậc cửa trước
khóc một cách cay đắng.
"Có chuyện gì-a cho bác thế?" hàng xóm ông ấy
hỏi, Pasquale.
"Vợ của Bonnaocchi mới-a chết," Rizzoli nói, vừa
chùi nước mắt.
"Thế thì sao?" hàng xóm anh ta nói, "Cô ấy
không-a có quan hệ máu mủ-a với anh sao."
"Tôi biết điều đó," Rizzoli nói. "Đó chỉ là-a việc
mọi người dường như-a có-a vận may trừ-a tôi!"
Khi bạn ở với ai đó, lập tức cả nghìn lẻ một vấn
đề nảy sinh mà không có trước đó. Khi bạn một mình
những vấn đề đó biến mất, nhưng vấn đề mới nảy
sinh: cô đơn dường như trống rỗng thế. Bạn cảm thấy
lúng túng, bạn không biết phải làm gì. Ngay khi bạn
bắt đầu quên đi tất cả thì khổ bước ra khỏi mối quan
hệ của bạn; bạn bắt đầu khao khát mối quan hệ khác.
Bạn nghĩ, "Có thể lần này mọi việc sẽ khác." Có thể
cô ấy đã thay đổi, có thể bạn đã thay đổi. Có thể cả
hai bạn đã học được từ kinh nghiệm.
Harry và con gái anh ta, Francesca, đang trên
giường xem phim cũ của Roy Rogers trên ti vi. Khi
Roy cưỡi ngựa qua một đèo, Harry nói, "Bố cá với
con một khoản tiền là ngựa của anh ta bước vào cái
hố đào và rơi xuống."
"Được," Francesca nói, "bố hứa nhé!"
Chắc chắn, con ngựa sẩy chân ngã.
Sau khi tiền cá được trả đủ Harry nói, "Bố phải-a
nói với con bố đã xem phim này trước rồi. Đó là cách
bố đã biết."
"Con cũng đã xem rồi," cô bé Italy nói, "nhưng
con không nghĩ-a con ngựa-a lại ngu xuẩn-a để mà
ngã-a vào cùng cái hố hai lần-a!"
Nhưng con người ngu xuẩn nhiều hơn.
Bây giờ làm điều tốt nhất từ điều đó đi. Khi bạn
đã rơi vào trong hố, cố gắng làm nhà ở đó đi! Bạn là
người Mĩ, và tôn giáo duy nhất người Mĩ tin là: Thử
và thử và thử nữa.
#6Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi không thể nào hiểu được thầy; tôi đã thử vất
vả lắm nhưng đều thất bại. Tôi phải làm gì bây
giờ?
Govindo, có cần hiểu tôi không? Việc hiểu là gì?
Nó là nỗ lực trí tuệ. Điều tôi đang cố trao đổi với bạn
chẳng liên quan gì tới trí tuệ. Bạn có thể cảm nó,
nhưng bạn không thể hiểu được nó. Bạn có thể sống
nó, và chỉ bằng việc sống nó bạn sẽ có khả năng hiểu
nó.
Nhưng mọi người cố gắng chính cái đối lập -
trước hết họ muốn hiểu. Ý tưởng là: Chừng nào chúng
ta còn chưa hiểu một điều, làm sao chúng ta có thể
thử nó được, làm sao chúng ta có thể sống nó và chỉ
thế thì người ta mới nên thử sống.
Nhưng cuộc sống không logic; cuộc sống còn sâu
sắc hơn logic nhiều, và nhiều lần cuộc sống tuyệt đối
phi logic. Nếu bạn cố níu bám vào logic bạn sẽ bỏ lỡ
nhiều điều, và nhiều điều đó là quí giá nhất. Bạn sẽ bỏ
lỡ tình yêu, bạn sẽ bỏ lỡ thiền, bạn sẽ bỏ lỡ niềm vui,
bạn sẽ bỏ lỡ Thượng đế, bạn sẽ bỏ lỡ tự do. Bạn sẽ bỏ
lỡ tất cả những điều làm cho cuộc sống có ý nghĩa,
điều làm cho cuộc sống đẹp, huy hoàng. Bạn sẽ bỏ lỡ
sự hiện diện của tính thượng đế bao quanh bạn. Logic
là rào chắn, không là cây cầu.
Và Govindo, bạn nói, "Tôi không thể hiểu được
thầy." Bạn phải đang cố gắng từ cái đầu rồi. Đó là
giao cảm tim sang tim đấy. Nếu bạn muốn hiểu lầm
tôi thế thì cái đầu là công cụ đúng; thế thì bạn có thể
cứ hiểu lầm tôi mãi mãi và mãi mãi. Nhưng nếu bạn
muốn hiểu tôi, thế thì bạn phải quên đi tất cả những
hình mẫu cũ của bạn về việc hiểu mọi sự. Tôi đang
dạy ở đây không phải là toán học, tôi đang dạy ở đây
không phải là triết học.
Tôi đang dạy cái gì đó tuyệt đối có tính tồn tại.
Bạn phải sống nó, bạn phải lấy bước nhảy lượng tử.
Bạn phải đã từng được nghe kể đi kể lại rằng trước
khi bạn lấy cú nhảy, nghĩ hai lần đã. Còn điều tôi
đang nói với bạn là: Lấy bước nhảy trước và thế rồi
nghĩ nhiều bao nhiêu tuỳ ý, bởi vì thế thì suy nghĩ
không thể làm gì được, nó không thể làm hại bất kì ai.
Nhưng để cú nhảy xảy ra đã.
Thiền phải được kinh nghiệm. Nếu bạn thử hình
dung nó ra, nó là gì, bạn sẽ bỏ lỡ vấn đề bởi vì đó
không phải là vấn đề của tâm trí chút nào. Thiền
nghĩa là trạng thái của vô trí. Tôi thường xuyên kéo
bạn hướng tới trạng thái vô trí, theo mọi cách có thể.
Điều tôi đang làm ở đây là ngớ ngẩn, nó không
logic. Bạn sẽ phải gạt logic sang bên; bằng không tôi
sẽ nói điều này và bạn sẽ hiểu cái gì đó khác.
Quan toà hỏi triết gia đang bị xử trong toà án,
"Bây giờ thưa ngài, xin ngài nói cho tôi tại sao ngài
đậu xe ở chỗ ngài đã đậu?"
Giáo sư nói, "Có biển viết là "fine for parking6."
[6 "Fine for parking" có nghĩa "Phạt nếu đậu xe" nhưng giáo sư
này hiểu theo nghĩa "Đậu xe cũng được"]
Gạt trí năng của bạn sang bên. Và nhớ, tôi không
bảo bạn gạt thông minh của bạn sang bên. Ngược lại,
nếu bạn có thể gạt trí năng sang bên bạn sẽ thông
minh hơn nhiều bởi vì thông minh và trí năng là
không đồng nghĩa, chúng là đối kháng. Thông minh là
sáng tỏ; trí thức không là gì ngoài trạng thái che mờ.
Trí thức nghĩa là bạn quá thông thái; tri thức của bạn
cứ xen vào. Tâm trí của bạn liên tục diễn giải, tâm trí
của bạn phán xét.
Nghe tôi mà không có phán xét nào. Tôi không
nói đồng ý với tôi - không có vấn đề đồng ý hay bất
đồng - chỉ lắng nghe.
Khi bạn lên núi và bạn lắng nghe âm thanh của
thác nước, bạn đồng ý với nó hay bất đồng với nó?
Bạn đơn giản lắng nghe! Khi bạn lắng nghe âm nhạc
hay, bạn đồng ý hay bạn bất đồng? Không có vấn đề
đồng ý hay bất đồng; lắng nghe là không phán xét.
Do đó các nhà phê bình cứ bỏ lỡ nhiều điều. Nếu
nhà phê bình nghe nhạc, việc nghe của ông ấy không
toàn bộ; ông ấy thường xuyên so sánh, phán xét, diễn
giải. Bạn phải rất không phê phán. Bạn chỉ phải cởi
mở, mong manh, cảm nhận, im lặng; để cho bất kì cái
gì đang xảy ra cũng có thể thấm vào cốt lõi sâu nhất
của bản thể bạn.
Nếu bạn đầy tâm trí riêng của mình, Govindo, bạn
sẽ hiểu lầm tôi; điều đó nhất định xảy ra.
Cô Zockwoski, với bộ tóc hoe đỏ hấp dẫn, lên
một chiếc xe bus đông đúc và đứng gần một chàng
thanh niên.
Anh chàng này, nghĩ tới việc nhường chỗ mình
cho cô ấy, nhìn lên và nói, "Đi xa không?"
"Cậu thần kinh à!" cô gái Ba lan gắt gỏng. "Tôi
phải hỏi cậu đi xa không chứ?"
Nếu bạn mang cái gì đó trong tâm trí mình, nếu
bạn bận tâm, thế thì bất kì cái gì bạn nghe cũng không
phải là điều được nói, nó là cái bạn có khả năng nghe.
Người hỏi: "Thưa quí bà, để được năm mươi đô
la, xin bà nói cho tôi ai là người đàn ông đầu tiên trên
trái đất?"
Quí bà: "Adam."
Người hỏi: "Đúng rồi. Bây giờ để được hai trăm
đô là xin bà nói cho tôi lời đầu tiên của Eve khi cô ấy
gặp Adam."
Quí bà (bị mắc kẹt vì câu trả lời, quay sang người
hỏi và nói): "Nào, đó là lời khó phải không?"
Người hỏi: "Cho quí bà này hai trăm đô la!"
Govindo, đừng vẫn còn bị bận bịu với ý nghĩ
riêng của bạn. Bạn phải tới với tri thức lớn lao, bạn
phải đã tới với các quan niệm của riêng bạn và bạn
nghe qua rừng rậm những ý tưởng riêng của bạn.
Điều tôi đang nói là rất đơn giản, hoàn toàn đơn
giản. Phát biểu của tôi là tuyệt đối bình thường. Tôi
không là người linh thiêng, tôi không là thánh nhân.
Tôi còn bình thường hơn bạn nhiều! Tôi không có gì
đặc biệt về mình cả. Tôi không tồn tại chút nào, làm
sao tôi có thể đặc biệt được? Cho nên phát biểu của
tôi là rất đơn giản - đứa trẻ cũng có thể hiểu được
chúng. Nhưng bạn có thể cứ bỏ lỡ.
Trên xe bus ở Đại lộ Thứ ba trong Manhattan,
một bà cô rất đứng đắn bị choáng khi nghe lỏm
Scarpetti, một người di cư, nói với bạn của mình,
"Emma hành động-a trước, tôi hành động-a sau, hai
đít hành động-a cùng nhau, tôi hàng động-a nữa, hai
đít lại hành động-a cùng nhau nữa, tôi hành động-a
một lần nữa-a, đái-đái hai lần, thế rồi tôi hành động-a
lần cuối-a cùng."
Khi Scarpetti nói xong, bà cô già thẹn đỏ chín mặt
quay sang viên cảnh sát ngồi gần đó. "Anh có định
bắt lão già khủng khiếp đó không?" bà cô thì thào.
"Tại sao," viên cảnh sát hỏi. "Vì đánh vần
'Mississippi' sao?"
Để tôi lặp lại: "Emma hành động-a trước, tôi hành
động-a sau, hai đít hành động-a cùng nhau, tôi hàng
động-a nữa, hai đít lại hành động-a cùng nhau nữa, tôi
hành động-a một lần nữa-a, đái-đái hai lần, thế rồi tôi
hành động-a lần cuối-a cùng."
Bạn hỏi tôi, "Tôi phải làm gì? Tôi đã thử vất vả
lắm nhưng đều thất bại." Bây giờ xin đừng thử vất vả
làm gì. Thực tế, thôi cố gắng đi, vứt cố gắng đi. Chỉ
lắng nghe niềm vui vô cùng của việc lắng nghe. Gió
thổi qua rặng thông... lắng nghe. Âm thanh của nước
chảy... lắng nghe. Chim chóc hót buổi sáng... lắng
nghe. Đừng cố hiểu. Và chỉ bằng việc lắng nghe cái gì
đó sẽ bắt đầu đạt tới trái tim bạn. Bài ca, điệu vũ sẽ
bắt đầu xảy ra. Trái tim bạn sẽ bắt đầu mở ra như
bông hoa và hương thơm lớn lao sẽ được toả ra - và
đó sẽ là hiểu biết thực.
Govindo, bạn đã cố gắng vất vả không cần thiết.
Thảnh thơi với tôi, đừng cố gắng vất vả. Nếu bạn cố
gắng vất vả bạn sẽ căng thẳng - và không có khả năng
nào hiểu tôi qua căng thẳng đâu. Thảnh thơi, nghỉ
ngơi đi. Tôi ở đây để dạy bạn thảnh thơi và nghỉ ngơi
toàn bộ.
Hiểu biết sẽ xảy ra nhưng không qua cái đầu, nó
sẽ xảy ra qua trái tim - không qua logic mà qua tình
yêu.
#6Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao tính sáng tạo lại đau đớn thế?
Prem Sarva, tính sáng tạo là đỉnh cao nhất của
tâm thức con người; do đó nó là đau đớn, nó là gian
truân. Bạn đi lên dốc. Không có tính sáng tạo là rất
thoải mái; nó là cuộc hành trình đi xuống. Bạn không
cần làm gì, chẳng cái gì được cần về phần bạn; chỉ lực
hút trọng trường là đủ. Khi bạn đi xuống từ trên đồi
xuống đồng bằng bạn có thể tắt động cơ xe hơi đi,
không cần xăng; chiếc xe sẽ cứ lăn xuống. Nhưng nếu
bạn đi lên đồi thì cần có nỗ lực, cần nỗ lực lớn.
Tính sáng tạo cần nỗ lực lớn bởi vì nhiều điều
phải bị vứt bỏ khi bạn đi lên trên; những trọng lượng
không cần thiết phải bị vứt bỏ. Và bạn đang mang
nhiều hành lí thế; nó tất cả đều không cần thiết, nó là
vô dụng. Nhưng mọi người cứ thu thập, mọi người
đều là những người thu thập lớn lao. Họ sẽ thu thập
đủ mọi loại rác rưởi, hi vọng rằng có thể một ngày
nào đó nó sẽ chứng tỏ hữu dụng nào đó. Họ tham và
họ cảm thấy trống rỗng cho nên họ cứ tọng vào bản
thân mình đủ mọi thứ. Bạn đầy bản ngã thế và bản
ngã là trọng lượng lớn. Bạn không thể đi lên được.
Bạn sẽ phải gạt bản ngã sang bên - và đó là cái đau
lớn nhất.
Là người sáng tạo nghĩa là bạn vứt bỏ chính ý
tưởng rằng "Ta tách rời khỏi sự tồn tại." Sáng tạo chỉ
xảy ra khi bạn là một với sự tồn tại. Sáng tạo chỉ xảy
ra khi bạn trong hoà điệu với người sáng tạo tới mức
không có rối loạn nào về phía bạn. Và rối loạn lớn
nhất tới từ bản ngã. Nó nuôi dưỡng bản thân nó trên
rối loạn, nó sống trong rối loạn. Bản ngã nghĩa là ý
tưởng rằng "Mình tách rời." Và nếu bạn nghĩ bạn tách
rời, bạn đang sống trong dối trá - và tính sáng tạo tuôn
chảy từ kinh nghiệm về chân lí.
Bạn phải biết chân lí này, rằng bạn không tách
rời. Không người nào là hòn đảo cả, chúng ta tất cả
đều là một phần của một lục địa bao la. Toàn thể sự
tồn tại là một, nó là một đơn vị hữu cơ; do đó mọi
điều vĩ đại đều đã tới chỉ trong những khoảnh khắc đó
khi người sáng tạo đã bị tan biến vào trong cái toàn
thể. Những bức tranh vĩ đại, những bài thơ vĩ đại, âm
nhạc vĩ đại, điệu vũ vĩ đại, tất cả chỉ xảy ra khi bạn bị
tan biến, khi bạn không còn nữa. Nếu bạn còn, bỗng
nhiên bạn trở thành khối chắn, bạn dừng tuôn chảy.
Thế thì Thượng đế không thể dùng bạn như chiếc sáo
được, ngài không thể hát lên qua bạn được. Chiếc sáo
phải chỉ là thanh trúc hổng, chỉ là khoảng không mở,
chỉ là phương tiện. Những nhà thơ lớn, những nhạc sĩ
lớn, những vũ công lớn, tất cả đều là phương tiện. Họ
không nhảy múa, họ bị nhảy múa. Họ không hát, năng
lượng không biết nào đó hát qua họ.
Đó là lí do tại sao tính sáng tạo lại đau đớn, bởi vì
không ai muốn tan chảy và hội nhập và tan biến.
Chúng ta níu bám lấy căn cước của mình. Thực tế,
chúng ta muốn có tính sáng tạo để cho chúng ta có thể
treo thêm vài phần thưởng quanh bản ngã của mình -
để cho bản ngã có thể trở nên nổi tiếng hơn, để cho
bạn có thể nói, "Tôi là ai đó đặc biệt. Tôi là nhà thơ
lớn hay nhà soạn nhạc lớn hay tác giả lớn" - hay cái gì
đó. Và đó là vấn đề lớn nhất mà bất kì người sáng tạo
nào cũng phải đối diện: rằng người đó phải vứt bỏ bản
ngã của mình.
Và lúc ban đầu chính vì bản ngã mà bạn muốn có
tính sáng tạo. Đó là quá trình rất ngược đời: bạn phải
vứt bỏ chính bản ngã cái đã là lực đẩy lúc ban đầu, cái
muốn được nổi tiếng, cái muốn để lại âm hưởng của
nó vang vọng qua hành lang thời gian, cái muốn làm
ra lịch sử. Chính cùng bản ngã đó trở thành nguyên
nhân của việc chấm dứt luồng năng lượng không biết
trong bạn. Bằng không Thượng đế bao giờ cũng rót
vào; bạn chỉ phải cởi mở, sẵn có. Bạn không tách rời.
Lúc ban đầu điều đó gây đau; còn đau hơn nếu
bạn chống lại. Nếu bạn không chống lại nhiều nó gây
đau ít; nếu bạn không chống lại chút nào nó không
gây đau chút nào. Thế thì việc vứt bỏ bản ngã có thể
là một trong những hành động vui vẻ nhất.
Đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì. Toàn thể
thông điệp đều dựa trên một hiện tượng này: vứt bỏ
bản ngã một cách vui vẻ. Vấn đề không phải là buông
bỏ bản ngã của bạn cho tôi. Bản ngã không phải là cái
gì đó bạn có thể buông bỏ; nó chỉ là hư cấu, nó không
phải là thực tại. Cho nên khi thầy nói, "Buông bỏ bản
ngã của ông cho ta," thầy đơn giản cho bạn một
phương cách, bởi vì bạn sống cùng ý tưởng rằng bản
ngã là rất bản chất. Thầy biết nó không là gì, cho nên
thầy nói, "Buôn bỏ nó cho ta, đưa nó cho ta, và ông
được tự do với nó." Không phải là bạn đưa cái gì đâu
- chẳng có gì mà đưa cả; không phải là thầy nhận cái
gì đâu - chẳng có gì mà nhận cả. Nhưng để giúp bạn
gạt bỏ khái niệm giả, phương cách được tạo ra. Một
khi bạn đã vứt bỏ ý tưởng này, bỗng nhiên bạn thấy
toàn thể vấn đề: chẳng cái gì đã được cho, chẳng cái
gì đã được nhận. Bạn vẫn là người đó, chỉ khái niệm
cũ sai đã biến mất. Mọi người rất ngần ngại buông
xuôi.
Mới hôm nọ một sannyasin đã viết cho tôi nói,
"Tôi có thể làm mọi điều thầy nói, nhưng tôi không
thể buông xuôi được." Thế thì làm sao bạn có thể làm
mọi việc tôi nói? Đó là điều đầu tiên tôi nói mà! Và
anh ta nói, "Tôi có thể làm mọi điều thầy nói, nhưng
tôi không thể buông xuôi được." Và anh ta nghĩ anh ta
đang đưa ra phát biểu rất rõ ràng. Đó là điều duy nhất
tôi đang nói: Buông xuôi bản ngã. Và đó không phải
là vấn đề buông xuôi nó cho tôi - buông xuôi nó cho
cái cây đi, nhưng buông xuôi. Buông xuôi nó cho
dòng sông, đi và dìm nó vào trong sông. Đốt nó, chôn
nó, hoả táng nó! Làm bất kì cái gì bạn muốn làm,
nhưng bị kết thúc với nó đi.
Tôi không quan tâm tới việc thu thập các bản ngã
của bạn. Tôi sẽ làm gì với nhiều bản ngã thế? Nếu bạn
khổ nhiều thế với một bản ngã, tôi sẽ trong địa ngục
tầng thứ bẩy với nhiều bản ngã thế! Tôi không phải là
người thu thập bản ngã. Đấy chỉ là một phương cách,
một phương cách đơn giản. Bạn nói, "Tôi có thể để
bản ngã của tôi ở đâu?" Tôi nói, "Được, đưa nó cho
tôi," bởi vì tôi biết rằng chẳng có gì để đưa, nhưng
bạn sẽ sung sướng trong việc đưa nó. Ít nhất bạn sẽ
cảm thấy lớn lao rằng bạn đã buông xuôi; ít nhất bạn
đã đưa bản ngã của bạn vào những bàn tay đúng.
Nhưng sannyasin này nói, "Tôi không thể buông
xuôi được." Và mọi người tới từ phương Tây đặc biệt
thấy điều đó rất khó.
Đây là cái gì đó phải được hiểu: giáo dục phương
Tây, tâm lí học phương Tây, tất cả đều nhấn mạnh
vào bản ngã; họ tất cả đều nhấn mạnh, "Nâng cao bản
ngã, làm mạnh thêm bản ngã." Dưới những cái tên
khác nhau bản ngã được làm mạnh. Sức mạnh ý chí -
đó không là gì ngoài cái tên khác cho bản ngã. Toàn
thể ý tưởng là ở chỗ người đó phải có bản ngã bằng
thép, không thể uốn được, mạnh mẽ, cứng như đá,
rắn, bởi vì cuộc sống là cuộc tranh đấu thường xuyên
để sống còn. Bạn phải chiến đấu, bạn phải chinh
phục.
Ngay cả người như Bertrand Russell cũng viết
một cuốn sách và gọi nó là Chinh phục tự nhiên. Toàn
thể ý tưởng này, ý tưởng phương Tây, là làm sao
chinh phục; ngay cả tự nhiên cũng phải bị chinh phục.
Và bạn là ai? - một phần của tự nhiên. Một phần cố
chinh phục toàn thể. Điều đó giống như tay trái của
bạn cố chinh phục toàn thân bạn. Có thể được không?
Điều đó là nực cười. Khoa học đã không chinh phục
được tự nhiên, nhưng trong chính nỗ lực chinh phục
tự nhiên, nó đã phá huỷ nhiều.
Ở phương Đông chúng ta có ý tưởng hoàn toàn
khác: tự nhiên phải được hiểu. Luật - điều Phật gọi là
dhamma - pháp, luật nền tảng của cuộc sống - phải
được hiểu để cho bạn có thể trong hoà hợp với nó.
Vấn đề không phải là chinh phục mà là bước cùng với
nó, trong hài hoà với nó. Hài hoà với tự nhiên là phúc
lạc.
Nếu phương Tây đã đánh mất mọi phúc lạc, mọi
an bình, chẳng cái gì chịu trách nhiệm ngoại trừ ý
tưởng ngu xuẩn này về chinh phục tự nhiên. Tự nhiên
phải không bị chinh phục. Nhưng cùng ý tưởng này
cứ còn dai dẳng theo nhiều cách - trong khoa học, và
ngay cả cái gọi là người tôn giáo cứ nói hoài về sức
mạnh ý chí. Hàng trăm cuốn sách đã được viết ra về
sức mạnh ý chí. Đó là lãng phí cực kì, và không chỉ
lãng phí mà nó còn đầu độc tâm trí mọi người. Những
người như Dale Carnegie và Napoleon Hill cứ đầu
độc: Làm sao thu phục bạn bè và ảnh hưởng tới mọi
người. Sâu bên dưới ý tưởng là một thôi: làm sao
thắng, làm sao ảnh hưởng. Napoleon Hill đã viết cuốn
sách: Nghĩ và trở nên giầu có. Và cái gì là bí mật của
việc trở nên giầu? Khi bạn nhìn, bạn sẽ thấy đó là sức
mạnh ý chí; toàn thể bí mật, bí mật ảo thuật là sức
mạnh ý chí. Nhưng sức mạnh ý chí chỉ là cái tên khác
cho sức mạnh bản ngã - và bản ngã bất lực, không có
sức mạnh trong nó. Cho nên mọi người cứ tranh đấu
một cách không cần thiết, chiến đấu với nhau, cạnh
tranh với nhau, và kết quả cuối cùng là mọi người đều
khổ. Do đó với tâm trí phương Tây dường như rất khó
buông xuôi.
Tình huống cũng không tốt hơn ở phương Đông.
Ở phương Đông trong hàng nghìn năm người ta đã
dạy rằng buông xuôi là chìa khoá, cho nên mọi người
rất dễ dàng sẵn sàng buông xuôi, dễ dàng sẵn sàng
buông xuôi tới mức nó đã trở thành nghi lễ đơn giản;
nó không có ý nghĩa nào. Con người phương Đông có
thể chạm chân thầy mà không có ý định buông xuôi.
Người đó chạm chân của từng và mọi người; điều đó
chỉ là nghi lễ. Nó cũng giống như bắt tay, nó chẳng
ngụ ý điều gì; nó giống như nói lời chào. Nó chẳng có
nghĩa gì trong nó, nó là hình thức. Nó là một loại chào
mừng người lớn tuổi, với bất kì ai được người khác
kính trọng, chào mừng bất kì ai nổi tiếng có tính tôn
giáo, linh thiêng, thánh thiện. Mọi người chạm chân
bố họ, mẹ họ, họ hàng già cả của họ; đấy chỉ là ước
định.
Cho nên người phương Đông ở trong khó khăn
khác. Khó khăn của người đó là ở chỗ người đó
không biết buông xuôi là gì; người đó không có đủ
bản ngã để buông xuôi. Và người phương Tây có quá
nhiều bản ngã; do đó người đó cảm thấy ngần ngại.
Nhưng về toàn thể người phương Tây ở vị thế tốt hơn,
bởi vì nếu người đó hiểu ra vấn đề và người đó buông
xuôi có ý thức bản ngã, việc buông xuôi của người đó
đi sâu hơn nhiều so với buông xuôi của người phương
Đông.
Đó là kinh nghiệm của tôi về hàng nghìn
sannyasins từ phương Đông và từ phương Tây. Buông
xuôi của sannyasin phương Tây có tính toàn bộ hơn
nhiều. Tất nhiên điều đó là khó cho người đó, người
đó mất thời gian lâu hơn, nhưng bất kì khi nào nó xảy
ra, nó thực sự xảy ra. Buông xuôi của người phương
Đông không mất thời gian; người đó bao giờ cũng sẵn
lòng, người đó sẵn sàng, ngay cả trước khi bạn hỏi,
nhưng nó không làm thay đổi người đó. Người đó đã
từng chạm chân của nhiều người thế; thực tế, người
đó đã bắt đầu cảm thấy một loại bản ngã mới, tinhvi,
"Mình khiêm tốn tới mức mình sẵn sàng buông xuôi.
Mình buông xuôi thế." Nhưng cái 'tôi' đó vẫn còn dai
dẳng bây giờ theo cách tinh vi hơn nhiều.
Bạn hỏi tôi, Sarva, "Sao tính sáng tạo lại đau đớn
thế?"
Đó là vì bản ngã. Và thế thì có vấn đề khác nữa.
Nếu bạn quá thông thái sẽ khó cho bạn có tính sáng
tạo.
Trong Thiền họ có một truyền thống cổ. Họ nói
nếu bạn muốn thành hoạ sĩ, trong mười hai năm hãy
học hoàn hảo nhất có thể được kĩ thuật về cách vẽ, và
thế rồi trong mười hai năm quên tất cả về kĩ thuật và
về vẽ đi; làm cái gì đó khác. Quay lưng lại với vẽ
hoàn toàn; quên tất cả về nó đi, cứ dường như bạn
chẳng có liên quan gì tới nó cả. Và thế rồi một ngày
nào đó bắt đầu lại vẽ.
Đây là cái gì đó có ý nghĩa. Trong mười hai năm
bạn phải học kĩ thuật, bởi vì không có kĩ thuật việc vẽ
của bạn sẽ chỉ là trẻ con; nhưng nếu nó chỉ là kĩ thuật,
thế thì về mặt kĩ thuật nó sẽ là hoàn hảo nhưng nó sẽ
không có cuộc sống nào, nó sẽ không có tính sáng
tạo. Cho nên bạn phải học kĩ thuật, để nó ngấm đẫm
và thế rồi quên tất cả về nó để cho nó trở thành một
phần máu bạn, xương bạn, tuỷ bạn. Và thế rồi sau
mười hai năm, một ngày nào đó bỗng nhiên lại bắt
đầu vẽ. Bây giờ bạn không biết kĩ thuật. Theo một
cách nào đó bạn biết, về mặt tồn tại nó đã trở thành
một phần của bạn; nó không còn là tri thức nữa. Cho
nên việc vẽ của bạn sẽ không chỉ có tính kĩ thuật và
nó sẽ không có tính trẻ con nữa.
Đầu tiên học kĩ thuật và thế rồi dỡ bỏ kĩ thuật. Chỉ
thế thì một ngày nào đó tính sáng tạo mới bùng nổ.
Trước hết học kĩ thuật về cách nhảy múa, thế rồi quên
toàn bộ về kĩ thuật và trở thành tự phát. Chỉ thế thì....
Và có hai kiểu người - kiểu này sẽ nghĩ rằng
không cần học kĩ thuật: "Tôi muốn là người sáng tạo,
không là nhà kĩ thuật." Thế thì tranh của họ, âm nhạc
của họ, điệu vũ của họ vẫn còn chỉ là nỗ lực trẻ con,
nghiệp dư; không thể có mấy giá trị. Và thế rồi có
người đối lập, người sẽ học kĩ thuật nhiều như họ có
thể học được và thế rồi họ bị mắc trong kĩ thuật. Họ
vẽ hoàn hảo nhưng cái gì đó bị thiếu: linh hồn bị
thiếu, tâm linh bị thiếu; nó là cái xác chết. Cho nên
bạn phải vứt bỏ mọi tính thông thái. Bạn phải dỡ bỏ
để cho bạn lại có thể tươi tắn, hồn nhiên.
Và điều thứ ba: nếu bạn cố gắng có tính sáng tạo
với động cơ ngầm nào đó, bạn sẽ không bao giờ tìm
ra chiều hướng đúng cho năng lượng của mình, bởi vì
nếu các hoạ sĩ đều nổi tiếng thế thì sẽ có nhiều hoạ sĩ.
Chẳng hạn, ở Pháp có nhiều hoạ sĩ. Ở Ấn Độ bạn sẽ
không tìm thấy nhiều hoạ sĩ thế, nhưng lại nhiều
thánh nhân - bất kì cái gì là thời thượng. Ở Pháp hội
hoạ là thời thượng; những người được coi là thông
minh phải là hoạ sĩ. Ở Ấn Độ họ nên là thánh nhân -
cùng những người ngu đó! Nếu họ được sinh ra ở
Pháp họ sẽ vẽ; ở Ấn Độ cùng người ngu đó đã trở
thành thánh nhân.
Trong từng nước thời thượng mỗi khác, và ở vào
những thời kì khác nhau. Chẳng hạn, ở Ấn Độ không
thánh nhân nào đã bao giờ nghĩ tới vẽ, nhưng ở Nhật
Bản mọi thánh nhân đều thử vẽ. Họ học thư pháp và
hội hoạ - chỉ là thời thượng.
Khi bạn sống theo thời thượng phổ biến nào đó,
điều đó đơn giản nghĩa là bạn muốn nổi tiếng, bạn
muốn được chấp nhận bởi truyền thống và bởi mọi
người. Bạn không hỏi về tiềm năng thực của mình;
bạn quan tâm nhiều hơn tới ý kiến của người khác.
Bạn phải vứt bỏ cái đó nữa. Đừng lo nghĩ về ý kiến
của người khác; đơn giản tìm ra cái gì cảm thấy thoải
mái cho bạn. Không ai đã bao giờ đánh giá cao điều
đó - để làm gì? Bạn có thể không trở nên nổi tiếng -
để làm gì? Đừng lo nghĩ về điều đó. Phần thưởng
không phải là trong việc nổi tiếng; phần thưởng là
trong việc được tham gia, được tham gia toàn bộ vào
trong tính sáng tạo. Phần thưởng là trong bản thân
hành động; nó không ở ngoài hành động, nó không
theo sau hành động. Không phải là khi bạn đã vẽ xong
bức tranh và mọi người đã ca ngợi nó và nó được
trưng bày trên khắp thế giới. Không, phần thưởng là
khi bạn đang vẽ nó, khi bạn hoàn toàn bị cuốn hút vào
trong nó. Im lặng đó, niềm vui đó, năng lượng đó,
khoảnh khắc đó khi bạn không có và Thượng đế có:
đó là phần thưởng.
#6Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Điều gì xảy ra? Tôi là người Italy và vẫn chưa
chứng ngộ.
Anand Shravan, là người Italy là đủ rồi; chứng
ngộ không còn được cần tới nữa. Chứng ngộ dành cho
người khác, người không phải là người Italy. Bạn có
giải thưởng đầu tiên - chứng ngộ là giải thưởng thứ
hai! Bạn không nên tham về điều đó. Là người Italy là
hiện tượng vĩ đại thế; đó là lí do tại sao không người
Italy nào đã bao giờ trở nên chứng ngộ. Và tôi không
nghĩ điều đó sẽ xảy ra, bởi lẽ đơn giản là người Italy
sinh ra đã chứng ngộ rồi. Vứt cái tham lam này đi.
Bạn sẽ làm gì với chứng ngộ? Mì ống là đủ! Tận
hưởng nó tới mãn nguyện trong lòng bạn đi. Bỏ lại
chứng ngộ cho người Ấn Độ nghèo đi; họ không có
cái gì khác. Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ nhiều người
chứng ngộ thế đã xảy ra: khi bạn không có gì khác thì
ít nhất bạn có thể có chứng ngộ.
Và chứng ngộ cần vài điều về căn bản thiếu ở
người Italy. Nó cần thông minh. Bạn sẽ kiếm thông
minh ở đâu? Nó không phải là hàng hoá; bạn không
thể tìm thấy nó ở bãi chợ, bạn không thể mua được
nó. Nó không sẵn có ở thế giới bên ngoài. Và người
Italy hoàn toàn hướng ngoại, còn chứng ngộ xảy ra
đâu đó ở bên trong. Nó cần hiểu biết lớn lao - và
người Italy rất thạo về hiểu lầm.
Một mùa hè ở New York một con khỉ đột thoát
khỏi gánh xiếc lưu diễn. Khi Bronzini đang bước đi
dọc phố Broadway con khỉ đột nhiên xuất hiện và rụt
rè đi bên cạnh người Italy này.
Một sĩ quan cảnh sát điều khiển giao thông kinh
ngạc chạy xô tới cảnh tượng bất thường của Bronzini
và con khỉ đột.
"Này," viên cảnh sát nói, "anh làm gì với con khỉ
đột thế?"
"Tôi không biết," Bronzini nói, "Nó vừa-a tới và-a
đi dạo-a cùng tôi!"
"Tốt hơn cả anh nên đem con khỉ đột này về vườn
bách thú!"
"Được, thưa sếp," người Italy nói.
Ngày hôm sau cùng viên cảnh sát đó phát hiện ra
Bronzini và con khỉ đột đang đi tay nắm tay dọc theo
đại lộ Công viên. Viên cảnh sát cáu tiết. "Đợi một
phút đã," anh ta quát lên với Bronzini, "Tôi đã bảo
anh hôm qua đưa con khỉ về vườn bách thú cơ mà!"
"Tôi đã làm rồi," người Italy nói, "và nó thích-a
điều đó thế, hôm nay tôi-a đem-a nó đi xem chiếu
phim!"
Người Italy trần tục thế, họ là Zorbas thuần khiết!
Ngoại trừ tôi, không ai sẽ chấp nhận họ là sannyasins.
Nhưng tôi thích làm những điều ngớ ngẩn. Tôi muốn
làm phép màu này: làm vài người Italy được chứng
ngộ. Không có mấy hi vọng - tôi hi vọng ngược lại hi
vọng - nhưng chẳng có gì mất cả. Họ cần việc thử tốt.
Họ là người rất xác thịt, hoàn toàn hướng xác thịt.
Người La Mã bao giờ cũng là những người có tính
thân thể nhất trên thế gian. Điều đó có cái đẹp riêng
của nó, bởi vì người nghĩ họ là tâm linh theo nhiều
cách trở nên lập dị, gàn dở, không lành mạnh, rất bản
ngã - tất nhiên, theo cách rất ngoan đạo. Họ bao giờ
cũng nghĩ họ là "linh thiêng hơn ngươi." Và họ mờ
nhạt. Họ nói về những điều lớn lao, nhưng cuộc sống
của họ trở nên xấu.
Điều đó đã xảy ra cho phương Đông: họ nói về
Thượng đế - và bánh mì và bơ bị thiếu. Và không có
bánh mì và bơ thì không có Thượng đế, không có khả
năng cho Thượng đế.
Cho nên chẳng cái gì sai trong việc hướng xác
thịt; người ta nên được bắt rễ trong thân thể. Người ta
nên là một zorba, nhưng người ta không nên bị mắc
kẹt ở đó. Người ta nên đi cao hơn chút ít. Zorba cũng
nên trở thành vị Phật. Thế thì có hoàn thành; cả hai
được hoàn thành, thân thể và linh hồn.
Người Italy cũng hướng thân thể và họ bị mắc kẹt
ở đó.
Vợ của Granaldi vừa mới chết và anh ta đang diễn
cảnh đau khổ bên nấm mồ. Lặp đi lặp lại anh ta làm
cho nước mắt ướt tóc và gào lên, "Tôi sẽ-a làm gì-a
đây? Tôi sẽ-a làm gì-a đây? Tôi sẽ-a làm gì-a đây?"
Viên linh mục xứ đạo nhẹ nhàng cầm tay Granaldi
và cố gắng an ủi anh ta. "Con ta, ta biết con đã chịu
đựng mất mát khủng khiếp, nhưng con sẽ vượt qua nó
theo thời gian," ông ấy nói, vừa dìu Granaldi đi khỏi
nghĩa địa.
"Ôi, tôi sẽ-a làm gì-a đây?" Granaldi rền rĩ. "Tôi
sẽ-a làm gì-a đây?"
"Cố kiểm soát mình đi con," linh mục nói. "Nhiều
tháng sẽ qua, con sẽ vượt qua nỗi tiếc thương này, và
thế rồi trong một hay hai năm con sẽ gặp người đàn
bà trẻ xinh nào đó và cưới cô ấy và mọi sự sẽ tốt
lành."
"Vâng, thưa cha, con biết mọi điều đó!" người
Italy nói. "Nhưng con sẽ-a làm gì-a đêm nay?"
Người Itali phải được tự do khỏi xu hướng thân
xác quá đáng của họ. Chứng ngộ là việc nở hoa tối
thượng của tâm thức. Nó có thể xảy ra chỉ khi bạn
được bắt rễ trong thân thể, nhưng nó không thể xảy ra
chỉ với thân thể. Bạn phải đi vào bên trong, bạn phải
siêu việt lên trên thân thể nữa. Rễ của bạn phải ở
trong thân thể và cánh của bạn phải trong linh hồn.
Shravan, đừng lo nghĩ. Điều đó chưa xảy ra đâu,
nhưng nó có thể xảy ra. Có nhiều người Italy ở đây
thế; việc buông xuôi của họ còn sâu sắc hơn buông
xuôi của bất kì ai khác. Cam kết của họ cũng sâu hơn
cam kết của bất kì ai khác. Lần đầu tiên nhiều người
Italy thế đang cố đi sâu hơn vào thiền; cái gì đó nhất
định xảy ra từ điều đó. Nhưng họ tìm thấy cái gì đó
trong tôi mà họ không thể tìm thấy được ở bất kì đâu
khác. Họ có thể tìm thấy kết nối với tôi bởi vì tôi
không chống lại thân thể. Tôi không chống lại cái gì.
Tôi không nghĩ có vấn đề gì nếu bạn thích mì ống -
bạn vẫn có thể có tính tâm linh chứ! Không có đối
kháng.
Với tôi ngay cả dục và samadhi cũng có liên hệ,
cùng nhau. Với tôi tán gẫu và cẩm nang là không
khác - đâu đó sâu bên dưới chúng là các mặt của cùng
một đồng tiền. Do đó người Italy thấy đồng cảm sâu
với tôi. Họ không thể quan tâm được tới người tâm
linh nào khác, nhưng tôi không là người tâm linh theo
nghĩa thường. Tôi là con người toàn thể, tôi không
linh thiêng.
Locatelli, Swenson và O'Hara đang ngồi trong bộ
xa lông góc nhà. "Không có hoài nghi gì về điều đó,"
Swenson nói, "đàn bà Italy là vĩ đại nhất!"
"Đúng," O'Hara đồng ý, "tớ muốn dành cả tuần
đẹp với Gina Lollobrigida."
"Tớ á," Swenson nói, "tớ sẽ đem Sophia Loren
đi."
"Điều đó-a là rất hay," Locatelli nói, "nhưng tớ
muốn Virginia đường-a ống-a!"
"Chưa bao giờ nói về cô ấy!" Swenson nói.
"Cô ấy là ai?" O'Hara hỏi.
"Sao, cô ấy là-a cô gái Italy vĩ đại nhất trong tất
cả họ. Cô ấy thậm chí làm-a tiêu đề trong-a báo chí,"
Locatelli nói. "Xem đấy, đây nó ở trên-a trang-a
nhất." Và có đầu đề: "Năm người chết nằm trên
Virginia Đường ống."
Đừng lo, Shravan, tôi ở đây để giúp bạn. Lần này
có thể bạn không thể thoát được. Biết bao nhiêu người
Italy đã bị mắc lưới, vài người trong họ nhất định trở
thành chư phật. Đừng lo nghĩ, chứng ngộ sắp xảy ra
cho nhiều người - kể cả người Italy!
#6Và câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Thế về những người Polack thì sao?
Purnananda, trời đất, bạn là người Polack sao?
Tôi đã nhận biết rằng một trong các sannyasin của tôi,
Anando, là người Polack, nhưng tôi không nói về
những người Polack bởi vì một người Polack không
thể làm gì mấy được. Nhưng hai người Polack là quá
nhiều; thế thì có nguy hiểm! Người Polack là người vĩ
đại, thậm chí còn vĩ đại hơn người Italy. Người Italy
không là gì khi so với người Polack! Bạn thấy đấy, họ
tìm giáo hoàng, họ không thể tìm được một người ở
Italy - họ phải chọn một người Polack. Nếu bạn tìm
người ngu bạn phải đi tới Ba Lan.
Swami Anando đã đóng góp bức thư đích thực
này từ người mẹ Ba lan của anh ta:
Con trai thân yêu,
Chỉ vài dòng để con biết rằng mẹ vẫn sống. Mẹ
viết thư này chậm vì mẹ biết con không có khả năng
đọc nhanh.
Con sẽ không biết nhà khi con về nhà đâu. Chúng
ta đã chuyển nhà rồi.
Có máy giặt ở trong nhà khi chúng ta chuyển tới,
nhưng nó không làm việc tốt đâu. Tuần trước mẹ cho
mười bốn cái áo sơ mi vào trong nó, kéo dây chuyền,
và từ đó mẹ không thấy cái áo nào cả.
Chị con mới sinh cháu nhỏ sáng nay. Mẹ không
biết nó là con trai hay con gái, cho nên mẹ không biết
liệu con là cô hay cậu.
Cậu con Leopold chết đuối tuần trước trong thùng
whisky. Một số đàn ông lặn vào để cứu ông ấy, nhưng
ông ấy đánh bật họ ra dữ lắm. Chúng ta đã hoả táng
thân thể ông ấy, nhưng phải mất ba ngày mới dập tắt
được lửa.
Bố con không có mấy mà uống vào dịp Nô en. Mẹ
để một chai dầu Castor trong nửa lít bia của ông ấy.
Cái đó giữ ông ấy uống mãi cho tới ngày đầu năm
mới.
Trời chỉ mưa hai lần tuần trước. Lần thứ nhất
trong ba ngày và thế rồi trong bốn ngày.
Cố học viết cho mẹ sớm vào.
Mẹ yêu của con,
XXX T.B. Mẹ định gửi cho con mười đô la,
nhưng mẹ đã dán phong bì rồi.
Người Polack là người vĩ đại - nhiều người Polack
hơn được cần tới ở đây! Nhưng khó cho người
Polacks nghèo tới vì nước của họ do người cộng sản
chi phối.
Mới mấy hôm trước tôi đã nhận được một bức thư
nói họ muốn bắt đầu một trung tâm đâu đó ở Ba Lan.
Họ muốn trung tâm này vẫn còn ẩn kín; tôi không
nghĩ họ sẽ có khả năng xoay xở được điều đó! Họ
thậm chí muốn trở thành sannyasin nhưng họ sẽ bị
bắt.
Ở Nga có vài sannyasin. Họ không thể mặc được
áo da cam, họ không thể đeo tràng hạt, nhưng họ đã
xoay xở giỏi. Họ có tràng hạt của họ, họ đã thu xếp để
tràng hạt tới họ. Bây giờ, bức thư này là từ Ba Lan: họ
muốn có tràng hạt và họ muốn có sách - nhưng họ lại
không cho địa chỉ của họ!
Johnson tới vườn bách thú để xem Samson và
Lionel, được quảng cáo là hai con sư tử nguy hiểm
nhất thế giới. Không có hoài nghi gì về Samson, con
nhỏ hơn, vì ngay cả một chiếc lông bay vào bên trong
tầm với của nó là nó sẽ vồ ngay và xé toạc chiếc lông
thành mảnh nhỏ. Nhưng Lionel, con kia, con sư tử lớn
hơn, không làm gì ngoài nằm trên tảng đá liếm chỗ
giữa hai chân sau.
Johnson hỏi người coi vườn thú làm sao con
Lionel được quảng cáo thế mà lại hoang dã thế.
"Cho dù nó chỉ nằm và liếm vùng nhạy cảm của
nó," người coi vườn thú giải thích, "Lionel còn dữ tợn
hơn con kia. Thực tế, mới hai mươi phút trước nó đã
ăn một người Polack bị ngã vào trong lồng."
"Thế sao nó liếm bản thân nó như thế?"
"Ồ," người coi vườn thú nói, "nó đang cố làm cho
hết mùi mồm nó!"
Purnananda, gặp Anando đi. Thử tìm ra - có thể
có vài người Polack khác cũng đang cố che giấu bản
thân họ, bởi vì họ biết một khi họ đã được biết tới thì
tôi sẽ theo đuổi họ. Bây giờ bạn có thể tuyên bố bất kì
ai là người Polack vì đằng nào tôi cũng sẽ theo sau
họ! Cho nên bạn có thể tuyên bố bất kì ai là người
Polack. Bạn có thể tạo ra xã hội nhỏ những người
Polack.
Trong công xã mới sẽ là tốt để có nhiều cộng
đồng nhỏ, các cộng đồng tách rời, của người Italy,
người Polacks, người Đức.... Sẽ có vài khó khăn.
Gayan đã viết cho tôi sáng nay nói, "Thưa Thầy
kính yêu, thầy có thể không nhận biết, nhưng bây giờ
tôi phải nói với thầy rằng tôi một nửa là người Italy -
lỗi là của bố tôi, ông ấy là người Italy - và một nửa
người Đức; lỗi đó là của mẹ tôi, bà ấy là người Đức."
Sẽ có khó khăn nào đó cho người như Gayan,
nhưng chúng ta có thể thu xếp: họ có thể sống ở
đường biên, nửa trong công xã Italy và nửa trong
công xã Đức. Và tôi không nghĩ sẽ có người là người
Đức và người Italy và người Polack, cả ba; điều đó sẽ
khó, rất khó.
Cô Zabriski bước vào văn phòng của bác sĩ điều
trị và nói, "Tôi muốn tiêm chút dắc xim."
"Thưa cô," bác sĩ nói, "tôi nghĩ cô đang nói tới
vắc xim."
"Vâng," cô gái Ba Lan nói, "và tôi không muốn
ông tiêm nó vào cánh tay tôi vì tôi mặc áo ngủ không
ngủ."
"Cô định nói áo ngủ không có tay à?"
"Và tôi không muốn tiêm nó vào đùi vì tôi mặc bộ
quần áo tắm zucchini."
"Cô định nói bộ bikini?"
"Và tôi không muốn ông vắc xim tôi vào Virginia
của tôi."
"Cô định nói âm đạo ?"
"Được rồi," cô gái kêu to. "Virginia, âm đạo, cứ
chừng nào tôi không có thằng điều khiển nhỏ là
được!"
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#7Bên kia cõi bên kia
Không muốn gì
bằng cả trái tim ông
dừng dòng suối.
Khi thế gian tan biến
mọi thứ trở thành rõ ràng.
Đi ra ngoài
đường này này hay đường kia,
tới bờ xa hơn
nơi thế gian tan biến
và mọi thứ trở thành rõ ràng.
Bên ngoài bờ này
và bờ xa hơn,
Bên kia cõi bên kia,
nơi không có bắt đầu,
không kết thúc.
Không sợ, cứ đi.
Thiền.
Sống thuần khiết.
Yên tĩnh.
Làm việc của ông, với quyền làm chủ.
Ban ngày mặt trời chiếu sáng,
và chiến binh trong giáp trụ rạng ngời.
Ban đêm trăng chiếu sáng,
và người chủ sáng lên trong thiền.
Nhưng ngày và đêm
Người đã thức tỉnh
chiếu sáng trong rạng ngời của tâm linh.
"Trông kìa, thuyền trưởng Columbus, đất liền!
Chúng ta đã khám phá ra đất liền!"
"Tuyệt vời! Đánh điện cho Hoàng hậu Isabella
ngay lập tức!"
"Nhưng, thưa thuyền trưởng, điện tín còn chưa
được phát minh ra!"
"Mẹ kiếp! Tôi có-a phải tự mình-a làm mọi thứ
không!"
Khoa học là truyền thống, nó không phụ thuộc
vào khám phá của con người. Nó là sự liên tục; nhiều
người đã đóng góp, dầu vậy nhiều người sẽ còn đóng
góp. Thế nữa nó cũng không bao giờ đầy đủ; cái gì đó
bao giờ cũng còn lại để được khám phá. Nó là hiện
tượng xã hội. Không có Newton sẽ không có khả
năng về Albert Einstein; không có Albert Einstein sẽ
không có khả năng cho bất kì ai khác tìm ra cái gì đó
bên ngoài các khái niệm về tương đối. Khoa học là
liên thuộc; nó không phải là công việc của một người.
Nhiều điều phải được chấp nhận từ người khác, nhiều
điều phải được vay mượn; nó là việc kế thừa. Do đó
khoa học phụ thuộc vào quá khứ, nó được bắt rễ trong
quá khứ.
Tôn giáo là hoàn toàn khác: mọi cá nhân phải
khám phá ra theo cách riêng của mình. Tôn giáo
không phải là truyền thống và không bao giờ có thể là
truyền thống. Bạn không thể vay mượn sáng suốt từ ai
đó khác được; sáng suốt phải đích thực của bạn. Chỉ
thế thì nó mới có ý nghĩa. Bạn có thể thấy chỉ qua con
mắt riêng của mình, bạn có thể hiểu chỉ qua thiền
riêng của mình, bạn có thể kinh nghiệm chỉ qua việc
nở hoa của trái tim riêng của bạn.
Và không có vấn đề về phụ thuộc. Nếu như không
có Phật bạn có thể vẫn được thức tỉnh, nếu như không
có Christ bạn có thể vẫn chứng ngộ. Chứng ngộ của
bạn tuyệt đối là của riêng bạn, nó mang tính cá nhân.
Đó là cái đẹp của tôn giáo; đó là lí do tại sao tôn giáo
không thể được dạy. Khoa học có thể được dạy; tôn
giáo phải được khám phá lặp đi lặp lại bởi từng và
mọi cá nhân, bởi từng và mọi người tìm kiếm. Con
đường của khoa học giống như bước đi trên đất; bạn
để lại dấu chân mình. Phật đã nói: Con đường của tôn
giáo giống như chim bay trên trời - chúng không để
lại dấu chân nào... cho nên không ai có thể theo vị
phật được.
Bạn có thể yêu một Phật, nhưng bạn không thể
theo ông ấy được. Bạn có thể yêu một Christ, nhưng
bạn không thể theo ông ấy được. Vâng, tình yêu của
bạn sẽ giúp bạn, sẽ giúp bạn hiểu, sẽ cho bạn dũng
cảm để truy tìm, sẽ làm mạnh tâm linh của bạn để đi
vào trong cái không biết. Nó sẽ là sự giúp đỡ mênh
mông bởi vì cuộc hành trình này không có bản đồ nào
và bạn đang đi vào trong đại dương. Bờ bên kia, bờ
xa hơn là không thấy được; không có gì đảm bảo rằng
bạn sẽ đạt tới nó. Bằng việc yêu một Phật, một Christ,
một Zarathustra, một Krishna, một Lão Tử, tin cậy
sâu sắc nảy sinh trong bạn về bờ xa xăm - rằng nó tồn
tại: "Nếu mình tìm với toàn bộ bản thể mình, sẽ có
khả năng mình có thể phát hiện ra nó." Nhưng rủi ro
là lớn và mọi thứ phải được bạn thực hiện. Bạn phải
đi một mình. Bạn phải toàn bộ một mình; không ai có
thể đi cùng bạn trên con đường này.
Thầy có thể chỉ cho bạn con đường, nhưng thầy
không thể đi cùng bạn được. Thầy có thể đẩy bạn,
thầy có thể động viên bạn, thầy có thể giúp theo nhiều
cách, nhưng dầu vậy bạn vẫn phải đi một mình. Bạn
phải khám phá ra mọi thứ, từng chi tiết của chân lí,
lần nữa.
Trong khoa học lại hoàn toàn khác: một khi chân
lí được khám phá ra, nó được khám phá cho toàn thể
nhân loại. Một khi điện được khám phá ra, không có
nhu cầu cho mọi người khám phá nó lặp lại lần nữa.
Điều đó sẽ là ngu xuẩn, cực kì ngu xuẩn. Một khi
được khám phá ra nó trở thành một phần của di sản kế
thừa của toàn nhân loại.
Nhưng điều đó không đúng về chân lí chủ quan,
bên trong. Hàng nghìn lần nó đã được khám phá ra,
nhưng khi thành vấn đề, là cuộc truy tìm để bạn khám
phá nó, bạn phải đi lại từ ABC, cứ dường như bạn là
người đầu tiên, cứ dường như không ai đã đi trước
bạn. Bạn phải phá vỡ tảng băng, bạn phải đi vào vùng
đất chưa khai phá.
Đây là thách thức lớn. Kẻ hèn nhát co lại từ điều
đó, nhưng người dũng cảm cảm thấy cực kì hấp dẫn.
Người dũng cảm thấy nó gần như từ lực hút họ. Do đó
Phật bao giờ cũng nói về bạo dạn. Ông ấy nói: Không
sợ, cứ đi.
Các tôn giáo khác, đặc biệt là các tôn giáo có tổ
chức, đều bắt rễ trong sợ hãi. Nếu Phật mà viết
chuyện ngụ ngôn cổ về Adam và Eve và việc đuổi họ
khỏi cõi trời, ông ấy chắc đã viết nó theo cách khác
toàn bộ. Ông ấy đã ca ngợi Adam và Eve. Ông ấy sẽ
không gọi đó là tội lỗi nguyên thuỷ, ông ấy sẽ gọi đó
là đức hạnh nguyên thuỷ - rằng họ đã nổi dậy, rằng họ
đã không sợ Thượng đế và trừng phạt, rằng họ đã là
những người bạo dạn.
Ông ấy sẽ không kết án họ, chừng đó là chắc
chắn; ông ấy sẽ ca ngợi họ vô cùng. Đó là thách thức
cho tâm linh của họ, cho chính linh hồn họ, để đã
được dặn, "Không được ăn từ cây này, cây tri thức,
bởi vì nếu các ngươi ăn từ cây này các ngươi sẽ bị
trừng phạt, trừng phạt cực nặng - không chỉ các ngươi
mà con cháu các ngươi cũng sẽ bị trừng phạt đời đời
kiếp kiếp."
Và trừng phạt sẽ là lớn. Thượng đế đã nói với
Adam và Eve, "Nếu các ngươi ăn từ cây tri thức, nếu
các người ăn quả của cây tri thức, các ngươi sẽ thành
hữu tử. Ngay bây giờ các ngươi bất tử." Cái chết sẽ là
trừng phạt. Còn trừng phạt nào hơn có thể có đấy?
Chết là điều tối thượng trong trừng phạt.
Phật chắc đã đánh giá cao họ. Nếu Adam và Eve
không nổi dậy, không ăn từ cây tri thức, chắc đã
không có nhân loại - và chắc sẽ không có Christ,
không có Phật, không có Zarathustra, không có Lão
Tử. Adam và Eve chắc vẫn lang thang trần trụi như
con vật trong vường Địa đàng. Chắc đã chẳng có cái
gì như nhân loại. Tâm thức này, nhận biết này, truy
tìm này - chẳng cái gì đã có đó. Toàn thể công trạng
thuộc về Adam và Eve.
Và con rắn không chắc đã là quỉ đâu. Trong câu
chuyện của Phật, rắn phải đã là vị phật cổ khêu gợi
Adam và Eve, "Cứ đi không sợ và ăn quả đấy đi và
đừng sợ, đừng là kẻ hèn nhát!" Ở phương Đông rắn
bao giờ cũng đại diện cho trí huệ. Jesus cũng nói: Hãy
khôn ngoan như rắn. Rắn ở phương Đông đại diện
cho quyền năng cố hữu, quyền năng hạt mầm của việc
nở hoa tối thượng của bạn; nó là tiềm năng của bạn.
Do đó kundalini được gọi là xà năng.
Kundalini nghĩa là con rắn nằm đó đang ngủ say;
nó phải được đánh thức dậy. Một khi nó thức dậy nó
bắt đầu ngóc lên. Khi nó đạt tới trung tâm tối thượng
của bản thể bạn - sahasrar - trung tâm cuối cùng, bậc
thang cuối cùng của chiếc thang, bạn đã về tới nhà.
Rắn không phải là đại diện, dạng trá hình của quỉ.
Phật chắc đã viết ra toàn bộ câu chuyện này theo cách
hoàn toàn khác.
Nhưng Ki tô giáo, Do Thái giáo, cả hai đều hướng
sợ hãi; Hồi giáo cũng vậy, Hindu giáo cũng vậy. Chỉ
hai tôn giáo trên thế giới, Phật giáo và Jaina giáo, là
không; ngoài ra tất cả các tôn giáo khác đều hướng sợ
hãi. Chỉ hai tôn giáo này mới bắt rễ trong bạo dạn, và
tôi không thể thấy làm sao tôn giáo có thể hướng sợ
hãi được. Trong mọi ngôn ngữ của thế giới chúng ta
đều có các từ như 'sợ Thượng đế' dành cho người tôn
giáo; điều đó là hoàn toàn vô nghĩa. Người tôn giáo
không sợ Thượng đế, người đó yêu Thượng đế - và
yêu và sợ không tồn tại cùng nhau. Nếu bạn yêu ai đó
bạn không sợ; nếu bạn sợ bạn không thể yêu được.
Yêu không tồn tại trên thế giới bởi lí do đơn giản
là chúng ta đã cố tạo ra yêu qua sợ. Bố, mẹ, tu sĩ,
chính khách, họ tất cả đều cố tạo ra sợ trong bạn.
Người mẹ nói, "Nghe mẹ, bằng không con sẽ khổ!"
Người bố nói, "Bố có quyền." Theo cả nghìn lẻ một
cách người đó chứng minh quyền lực của mình trên
đứa trẻ bất lực và thế rồi nói với đứa trẻ, "Yêu bố đi -
bố là bố của con!" Tất nhiên đứa trẻ phải giả vờ, bởi
vì nó phụ thuộc, nó bất lực. Nó yêu người mẹ do sợ;
tình yêu của nó là giả. Nó yêu người bố vì sợ; đó chỉ
là giả vờ, đó là đạo đức giả. Nó yêu Thượng đế vì sợ -
sợ địa ngục, sợ bị trừng phạt, sợ bị hành hạ.
Và bạn có biết không? Ki tô giáo tin rằng nếu bạn
phạm tội bạn sẽ bị đoạ địa ngục vĩnh viễn. Điều đó
dường như là một quan niệm ngớ ngẩn. Một người có
thể phạm bao nhiêu tội trong một kiếp sống nhỏ bé?
Và Ki tô giáo tin chỉ vào một kiếp sống. Nếu người
Hindus nghĩ rằng bạn sẽ khổ một thời gian dài trong
địa ngục người ta còn có thể hiểu số học này bởi vì họ
đã tin vào hàng triệu kiếp, cho nên bạn có thể phạm
nhiều tội tuỳ thích. Tất nhiên, khổ sẽ có theo cùng tỉ
lệ, trừng phạt sẽ theo cùng tỉ lệ. Nhưng Ki tô giáo đề
nghị địa ngục vĩnh viễn. Và bạn có thể phạm tội gì?
Bạn có thể hút thuốc lá và thế rồi trong địa ngục bạn
sẽ bị ném vào lửa và bạn sẽ thành khói vĩnh viễn và
vĩnh viễn! Hay bạn có thể uống rượu cồn, nhưng bạn
có thể uống được bao nhiêu trong một kiếp sống nhỏ
bé? Trong bẩy mươi năm một phần ba đã dành cho
ngủ; bạn không thể phạm tội nào trong giấc ngủ của
mình trừ phi mơ của bạn cũng được tính là tội. Một
phần ba khác đi vào văn phòng, vào xưởng máy, vào
cánh đồng, vào cửa hiệu.... Bạn có bao nhiêu thời gian
để phạm tội? Cứ tính cả ngày - bạn sẽ không tìm ra
mấy thời gian. Và tội của bạn sẽ chỉ tầm thường.
Vâng, bạn có thể rơi vào tình yêu với vợ hàng xóm,
nhưng vì điều đó bạn sẽ bị khổ mãi mãi sao? Điều đó
hoàn toàn không công bằng, không thoả đáng! Có thể
ba hay bốn năm ở tù trong địa ngục sẽ đủ, nhưng vĩnh
viễn sao? Bạn có thể quan niệm được vĩnh hằng
không? Nó sẽ không bao giờ chấm dứt, khổ sẽ không
tận cùng!
Điều này chỉ để tạo ra sợ. Và mọi người yêu
Thượng đế từ sợ hãi này, họ cầu nguyện từ sợ hãi này.
Phật chống lại sợ hãi; sợ là tội lỗi nguyên thuỷ
theo ông ấy. Ông ấy tin vào không sợ - ông ấy tin, và
ông ấy tin đúng; đó là kinh nghiệm của ông ấy. Đó
cũng là kinh nghiệm của tôi nữa, rằng tình yêu thực
xảy ra chỉ khi sợ biến mất toàn bộ.
Tôn giáo thực đã không xảy ra trên thế giới này
bởi vì chúng ta đã từng cố tạo ra tôn giáo rẻ tiền dựa
trên sợ. Tình yêu thực đã không xảy ra trên thế giới.
Vợ sợ chồng, do đó cô ấy giả vờ yêu; chồng sợ vợ, do
đó anh ấy cứ nói, "Cưng ơi, anh yêu em!" thật là
nhiều lần có thể được.
Đó là điều Dale Carnegie gợi ý cho mọi đức ông
chồng: "Dù anh yêu cô ấy hay không, đó không phải
là vấn đề. Cứ lặp lại điều đó thật nhiều lần trong ngày,
như nhiều cơ hội có đó. Một hay hai lần từ văn phòng
điện về cho vợ chỉ nói 'Anh yêu em.'" Và đây tất cả
đều từ sợ.
Vì sợ mà thế giới bỏ lỡ hoa hồng của tình yêu.
Tình yêu có thể xảy ra - mọi người đều được sinh ra
với năng lực yêu vô hạn - nhưng sợ làm què quặt mọi
người, làm tê liệt mọi người.
Phật nói với các Bồ tát của ông ấy: Đi và dạy mọi
người vài điều nền tảng này. Điều thứ nhất ông ấy
nói:
Không muốn gì
bằng cả trái tim ông
dừng dòng suối.
Những lời này là lời mã hoá; bạn sẽ phải hiểu lời
mã hoá của ông ấy. Vào những ngày xưa đó mọi sự
toàn phải được nhớ, cho nên chỉ những lời kinh rất
nhỏ, những lời kinh rất cô đọng mới được cho. Từng
lời kinh đều được diễn đạt trong ngôn ngữ mã; bạn
phải giải mã nó. Bạn phải dịch nó vào ngôn ngữ
đương đại; bằng không bạn sẽ bỏ lỡ ý nghĩa của nó.
Không muốn gì.... Làm sao điều đó là có thể được
- không muốn gì sao? Đó là chân lí nền tảng nhất
trong giáo huấn của Phật. Ông ấy không nói đừng
muốn gì, nhớ lấy; điều đó sẽ là hiểu lầm. Ông ấy nói:
Không muốn gì, bằng cả trái tim ông dừng dòng suối.
Với "dòng suối" ông ấy ngụ ý tâm trí. Ông ấy bao
giờ cũng gọi tâm trí là dòng suối bởi vì nó cứ chảy;
dù bạn thức hay ngủ nó vẫn cứ chảy. Nó là dòng suối
các ý nghĩ.
Trong thế giới hiện đại, William James, một trong
những nhà tâm lí lớn, lần đầu tiên dùng cách diễn đạt
Phật giáo về tâm trí; ông ấy gọi nó là "dòng suối tâm
thức." Phật nói nó giống như dòng sông thường xuyên
chảy. Làm sao bạn có thể dừng nó lại được? Các
phương pháp cũ là kìm nén, kiểm soát, nhưng chúng
đã thất bại, hoàn toàn thất bại; chúng đã thất bại ngay
cả vào thời của Phật.
Theo một nghĩa nào đó Phật là nhà tâm lí đầu tiên
của thế giới, không phải Sigmund Freud. Và cái nhìn
sâu của Phật vào tâm trí còn đi sâu hơn nhiều so với
mọi nhà tâm lí gắn lại với nhau. Không có cách nào
gạt bỏ cơn lụt quá mạnh của năng lượng tâm trí, của
chất liệu tâm trí, chỉ bằng việc kiểm soát nó hay bằng
việc kìm nén nó. Kìm nén tuyệt đối mang tính phá
huỷ. Nếu bạn kìm nén cái gì đó nó sẽ tới đi tới lại mãi
và bạn sẽ phải kìm nén nó lặp đi lặp lại. Cả đời bạn sẽ
trở thành cuộc nội chiến; bạn sẽ thường xuyên đánh
nhau với bản thân mình. Và cuộc chiến sẽ không kết
thúc bởi vì bạn không thể phá huỷ được tâm trí theo
cách này; đây không phải là cách để gạt bỏ tâm trí.
Thực tế, bạn đang cho tâm trí năng lượng lớn bằng
việc đánh nhau với nó.
Tâm trí có thể được cho năng lượng theo hai cách:
hoặc bằng việc đánh nhau với nó hoặc bằng việc mê
say trong nó. Cách này dẫn tới kìm nén, cách kia dẫn
tới đồng nhất, và cả hai cứ nuôi dưỡng tâm trí. Dòng
suối trở nên ngày một lớn hơn.
Bạn có thể kìm nén - kìm nén là dễ dàng - và toàn
thể nhân loại đã học kìm nén bởi vì bạn bao giờ cũng
sa ngã vì dễ dàng. Kìm nén không phải là điều khó.
Giận nảy sinh: bạn có thể ngồi trên nó, bạn có thể cứ
mỉm cười nụ cười giả tạo, và chẳng chóng thì chầy
bạn sẽ quên về nó. Nhưng nó có đó đang sôi lên bên
trong bạn và bạn đang tích luỹ mọi ngày nhiều giận
hơn. Giận có cái đẹp của riêng nó nếu nó tự phát,
nhưng bạn đang tích luỹ giận, cái trở nên không liên
quan, cái sẽ không tự phát.
Cái gì đó có thể đã xảy ra từ mười năm trước; bây
giờ nó không có tham chiếu tới thực tại, không hoàn
cảnh - và bỗng nhiên bạn bùng nổ. Bạn trông điên
khùng. Đó là cách mọi người phát điên khùng. Nếu
họ đã giận từ mười năm trước khi hoàn cảnh đúng có
đó, không ai đã gọi họ là điên khùng, nhưng trong
mười năm họ vẫn ngồi trên nó; thế thì điều đó trở
thành quá nhiều. Và thế thì trong mười năm liên tục
họ đã tích luỹ ngày một nhiều giận hơn. Mọi ngày họ
đã kìm nén, họ đã ngồi trên núi lửa; chẳng chóng thì
chầy nó sẽ bùng ra. Hoặc là thế, hoặc bạn phải trở nên
chết và đờ đẫn, không sống tới mức chẳng cái gì có
thể bùng ra được. Bạn phải rút lui bản thân mình toàn
bộ khỏi cuộc sống, vào tu viện, bạn phải trở nên
không nhạy cảm với cuộc sống tới mức mọi người có
thể cứ xúc phạm bạn và bạn thu thập làn da dầy tới
mức không cái gì xuyên vào bạn được....
Giovanni bị xử tù vì đã làm tình với xác vợ mình
vài giờ sau cái chết của cô ấy. "Anh có gì nói để bào
chữa cho mình không?" chánh án hỏi.
"Nói thực nhé, thưa quí ông," người Italy đáp,
"Tôi đã không biết cô ấy-a chết đâu. Cô ấy đã-a
giống-a thế trong hai mươi năm qua-a rồi!"
Có hàng triệu người không thực sự sống - sợ việc
sống bởi vì nếu họ sống thì giận dữ của họ, thèm khát
của họ, tham lam của họ, tất cả trở thành sống động.
Để giữ cho chúng bị kìm nén họ phải sống ở mức tối
thiểu; họ chưa bao giờ sống ở mức tối đa. Và không
sống ở mức tối đa là bỏ lỡ Thượng đế, là bỏ lỡ tất cả -
tất cả cái đẹp và phúc lành của cuộc sống.
Bạn nên sống ở mức tối đa; chỉ thế thì bạn mới đi
tới biết cái đẹp vô cùng của sự tồn tại. Chỉ từ chiều
cao đó bạn mới trở nên nhận biết về huy hoàng mênh
mông, về lễ hội thường xuyên vẫn diễn ra mãi. Nhưng
bạn không thể sống tới mức tối đa được; bạn sợ bởi vì
nếu bạn sống một cách toàn bộ thế thì mọi thứ bạn đã
kìm nén sẽ trồi lên.
Hàng triệu người đã quyết định vì cuộc sống chết;
trước khi họ thực sự chết họ đã chết rồi. Họ chỉ sống
ở mức tối thiểu, để kiếm sống; không sống mà chỉ lờ
phờ tẻ nhạt. Họ sợ thế - các tu sĩ đã làm cho họ sợ thế.
Phật chống lại kìm nén. Và nếu bạn kìm nén cái gì
đó nó sẽ bắt đầu tìm cách khác nào đó để trồi ra, cách
thức hư hỏng nào đó. Đó là lí do tại sao tôi nói mọi
đồi bại dục đều có nguồn gốc tôn giáo, bởi lẽ đơn
giản là mọi tôn giáo đều đã từng chống lại dâm dục.
Dục phải được biến đổi, không bị kìm nén. Nó là
năng lượng thuần khiết, nó là lửa! Nhưng bạn không
cần đốt nhà mình bằng lửa đó. Bạn có thể sưởi nóng
ngôi nhà của mình khi nó quá lạnh, bạn có thể làm
cho nhà của mình đầy ánh sáng khi nó tối. Đó là cùng
ngọn lửa trở thành ánh sáng, trở thành nhiệt, nhưng
nó cũng có thể thiêu cháy ngôi nhà bạn. Bạn phải rất
tỉnh táo, cẩn thận, thận trọng.
Sinh lực của bạn là trung lập: chúng có thể làm
hại bạn, chúng có thể giúp bạn; tất cả đều phụ thuộc
vào bạn. Đừng kết án chúng. Bạn chịu trách nhiện -
và chỉ bạn thôi!
Nhưng mọi người cứ kết án dục dường như dục
có cái gì đó liên quan tới bạn. Dục không có gì liên
quan tới bạn cả; dục là năng lượng thuần khiết.
Nhưng nếu bạn kìm nén nó, nó sẽ trở thành hư hỏng;
thế thì nó sẽ tìm ra các con đường. Nếu bạn đóng con
đường tự nhiên, thế thì nó tới qua con đường phi tự
nhiên. Và bạn vẫn là cùng người ngu xuẩn đó, bạn đã
không thay đổi chút nào; hiểu biết của bạn đã không
trưởng thành.
Mulla Nasruddin từ làng mình ra thành phố lớn,
và một người bạn giầu có mời anh ta tới xem nhạc
kịch trong một khoang xem.
Người bạn nói, "Chúng ta sẽ ngồi gần người khác,
cho nên để chắc anh về thay tất đi trước khi tới!"
Một thời gian ngắn sau khi vào chỗ ngồi của mình
trong rạp hát, người bên cạnh bắt đầu nhăn mũi vì
mùi thối.
"Tôi đã bảo anh phải đổi tất đi mà," người bạn nói
với Mulla.
"Chắc chắn là tôi đã đổi rồi," Nasruddin nói. "Và
hơn nữa tôi biết anh sẽ không tin tôi, cho nên tôi đem
đôi tất cũ để ngay trong túi tôi để chứng minh điều
đó!"
Nếu bạn là cùng anh chàng ngu xuẩn cũ đó thì
chẳng thành vấn đề bạn làm gì với dục của bạn, với
tham của bạn, với ghen tị của bạn. Chúng sẽ quay lại
dưới dạng khác, theo con đường khác nào đó; chúng
thậm chí trở thành tinh vi hơn.
Phật nói điều được cần tới là nhận biết nhiều hơn,
hiểu biết nhiều hơn - không kìm nén không kiểm soát.
Nếu bạn có thể trở nên nhận biết về ham muốn của
mình, nếu bạn có thể quan sát ham muốn của mình,
thế thì phép màu xảy ra, phép màu lớn nhất trong tất
cả các phép màu. Khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết
về ham muốn của mình, bạn có thể dễ dàng thấy rằng
không ham muốn nào có thể được hoàn thành; chính
bản chất của nó là không thể được hoàn thành. Mọi
ham muốn đều chỉ là khao khát về cái gì đó không thể
có được, mọi ham muốn đều nghĩa là thêm nữa, nữa
và nữa. Bây giờ, làm sao bạn có thể hoàn thành khao
khát thường xuyên này về thêm nữa? Bạn có thể có
mọi của cải của thế giới, dầu vậy ham muốn sẽ vẫn có
đó.
Tôi đã nghe nói rằng khi Diogenes nói với
Alexander Đại đế, "Ông đã bao giờ nghĩ về một điều
này chưa? - mặc dầu nó là một khả năng rất xa vời,
ông đã bao giờ nghĩ về nó chưa? Ông có thể thực sự
chinh phục cả thế giới - thế rồi cái gì nữa? Không có
thế giới khác để chinh phục, chỉ có duy nhất một thế
giới này. Nếu ông thực sự thành công - ông đã bao
giờ cân nhắc về vấn đề đó chưa? - thế thì ông sẽ làm
gì?"
Và tương truyền rằng Alexander trở nên rất buồn.
Diogenes cười và ông ấy nói, "Trông đấy! Ông vẫn
chưa chinh phục được nó, nhưng chính ý tưởng rằng
nếu ông chinh phục toàn thế giới... ông sẽ làm gì tiếp
đó? - bởi vì không có thế giới khác. Ông sẽ hoàn toàn
lúng túng, bởi vì tâm trí sẽ đòi hỏi thêm nữa. Nó sẽ
không được thoả mãn chỉ với thế giới này - nó sẽ
không được thoả mãn đâu."
Tâm trí nghĩa là không hài lòng; đó là chính bản
tính của nó. Ham muốn là cách biểu lộ duy nhất của
không hài lòng này. Khi bạn quan sát ham muốn của
mình bạn dần dần, dần dần trở nên nhận biết về cái vô
tích sự của việc ham muốn, bạn trở nên nhận biết về
bản tính ngớ ngẩn của việc ham muốn. Bạn trở nên
nhận biết rằng bởi chính bản chất của chúng ham
muốn là không thể nào được hoàn thành. Thấy ra điều
này, biến đổi xảy ra, phép màu xảy ra, thay đổi triệt
để tạo ra; nhưng bằng việc thấy điều này - không
bằng kìm nén, không bằng kiểm soát mà bằng hiểu
biết.
Một nghệ sĩ violon bị thuyết phục anh ta có thể
dùng nghệ thuật của mình để thuần dưỡng con vật
hoang. Cho nên, violon trong tay, anh ta đi vào trung
tâm rừng rậm châu Phi để chứng minh điều đó.
Anh ta bắt đầu chơi nhạc và chẳng mấy chốc chỗ
quang đãng trong khu rừng đã đầy các con vật đủ các
loại tụ tập lại để nghe anh ta chơi đàn. Chim, sư tử, hà
mã, voi - tất cả đều đứng vòng tròn mê mải với âm
nhạc tuyệt trần của anh ta.
Vừa lúc đó một con cá sấu bò lên từ con sông
cạnh đó và đi vào chỗ quang đãng và - đớp luôn! - ăn
ngấu nghiến nghệ sĩ violon.
Các con vật khác cực kì tức giận. "Mày làm cái
quái gì thế?" chúng hỏi. "Chúng tao đang thưởng thức
điều đó."
"Ê thì sao nào?" con cá sấu nói, đưa tay bịt tai nó.
Tâm trí tuyệt đối điếc; nó cứ làm cùng những điều
ngu xuẩn mãi, chưa bao giờ nhìn, chưa bao giờ nghe
thông điệp. Mọi ham muốn đều đem bạn tới điểm
thay đổi triệt để xảy ra, nhưng tâm trí không thể thấy
mà cũng không thể nghe được. Nó mù, nó điếc. Khi
ham muốn này rụng đi nó đơn giản nhảy sang ham
muốn khác. Nếu ham muốn này thất bại, tâm trí nghĩ,
"Nếu ham muốn này đã thất bại điều đó không có
nghĩa là tất cả các ham muốn khác sẽ thất bại." Nó cứ
hi vọng rằng sẽ phải có ham muốn nào đó có thể được
hoàn thành, có thể không lúc này nhưng lúc sau; nếu
không hôm nay thì ngày mai; nếu không trong kiếp
này thì trong kiếp sau, trong cõi trời. Nhưng tâm trí
cứ nghĩ mãi theo cùng con đường mòn cũ.
Trong cảnh cuộc vây bắt ở ngân hàng viên trung
sĩ cảnh sát chạy tới viên thanh tra và nói, "Nó chạy
mất rồi, thưa ngài!"
Viên thanh tra nổi cáu. "Nhưng tôi đã bảo ông để
người ở mọi lối ra rồi cơ mà!" ông ta gầm lên. "Làm
sao nó có thể chạy mất được?"
"Nó ra bằng cửa vào thưa ngài!"
Tâm trí bao giờ cũng tìm cách thuyết phục bạn về
cùng trò chơi ngu xuẩn. Phật nói quan sát nó. Chính là
qua quan sát mà không việc muốn nào xảy ra.
Và tính quan sát của bạn phải ở cùng với toàn bộ
trái tim bạn; nó phải không bộ phận, bằng không nó
sẽ không có tác dụng - bởi vì nếu bạn chỉ quan sát
một phần thế thì phần đã không được tham gia sẽ cứ
giờ các thủ đoạn cũ, chiến lược cũ. Toàn thể trái tim
của bạn phải có tính quan sát để cho không chỗ tối
nào còn lại trong bạn, để cho toàn thể bản thể bạn trở
nên nhận biết về cái ngớ ngẩn của việc ham muốn.
Jimmy Carter tới thăm một trong những viện lớn
nhất về mất cân bằng tinh thần. Ông ấy hoàn thành
việc giám định toà nhà chính và muốn xem Phần
Nông trại. Lái xe của ông ấy không ở quanh đó nên
tổng thống lên chiếc xe bus thường.
Trong vài phút người quản lí đưa lên một số bệnh
nhân. Khi họ đã ngồi vào chỗ ông ấy bắt đầu đếm, "1,
2, 3, 4, 5...." Ông ấy tới tổng thống và nói, "Ông là
ai?"
Ông Carter nói, "Sao, tôi là tổng thống nước Mĩ
đây!"
Người quản lí nói, "6, 7, 8...."
Chả thành vấn đề bạn là ai, bạn ở đâu. Nếu bạn
vẫn ham muốn, bạn vẫn điên: "6, 7, 8...." Bạn khùng
hâm. Thực tế, chừng nào bạn còn chưa đủ điên khùng,
làm sao bạn có thể cố gắng vất vả thế để là tổng thống
của một nước? Trong nhiều năm mọi người cố gắng
trở thành tổng thống của một nước; gần hết cả đời họ
được dành cho một mục đích đơn giản, là tổng thống
của một nước. Và cái gì được đạt tới? Với cùng năng
lượng đó họ có thể đã trở thành chư phật, với cùng
năng lượng đó họ có thể đã trở nên thức tỉnh. Nhưng
chúng ta đưa năng lượng của mình vào những mục
đích sai thế - tiền, quyền, danh - và chúng tất cả dều
dẫn tới điên khùng.
Việc ham muốn là điên khùng. Tận hưởng cuộc
sống đi! - nhưng đừng quá bận tâm về tương lai.
Đừng hi sinh hôm nay của bạn cho ngày mai; bằng
không bạn bao giờ cũng sẽ bỏ lỡ mọi cơ hội mở ra
cho trưởng thành bên trong của bạn.
Không muốn gì, bằng cả trái tim ông dừng dòng
suối.
Quan sát. Cố hiểu chính bản chất của việc ham
muốn, và trong chính hiểu biết đó một điểm dừng sẽ
tới theo cách riêng của nó. Dòng suối đơn giản biến
mất, bay hơi, cứ dường như nó chưa bao giờ có đó.
Và khoảnh khắc bạn tự do với tâm trí, bạn tự do với
mọi khổ, với mọi không hài lòng.
Khi thế gian tan biến
mọi thứ trở thành rõ ràng.
Với tan biến của tâm trí, toàn thế giới mà tâm trí
đã tạo ra quanh bản thân nó cũng tan biến đi, hiển
nhiên - thế giới tuỳ thuộc vào tâm trí, nó là phóng
chiếu của tâm trí. Không phải là cây sẽ biến mất và
hoa hồng sẽ biến mất đâu... hoa hồng sẽ là hoa hồng
nhiều hơn và cây sẽ xanh nhiều hơn. Mọi người sẽ
đẹp hơn nhiều; ngay cả đá cuội trên bờ biển cũng sẽ
như kim cương. Mọi thứ sẽ trở thành quí giá.
Thế giới này, thế giới thực này, sẽ không biến mất
với tâm trí bạn, nhưng bạn đang sống trong một thế
giới riêng tư hoàn toàn khác: thế giới của ham muốn
của bạn. Bạn không thấy thế giới thực, bạn chỉ thấy
thế giới riêng tư của riêng mình được phóng chiếu lên
thế giới thực. Thế giới thực đơn giản được dùng như
màn ảnh trên đó bạn cứ phóng chiếu các ham muốn
của mình. Bạn chưa bao giờ thấy cái đang đó; bạn chỉ
cứ thấy cái bạn ham muốn.
Người ta nói là thợ làm giầy chưa bao giờ nhìn
vào mặt mọi người, ông ta bao giờ cũng nhìn vào giầy
của họ. Tất nhiên ông ta không quan tâm tới khuôn
mặt của họ, ông ta chẳng liên quan gì tới mặt họ; ông
ta quan tâm tới giầy của họ. Và bằng việc nhìn giầy
ông ta biết về người này; giầy chứa mọi thông điệp
cho ông ấy: liệu người này giầu hay nghèo, thành
công hay không thành công. Giầy sẽ nói mọi điều:
hình dáng của giầy, tính mới, tính cũ, sự mệt mỏi của
giầy; mọi thứ sẽ nói người này thuộc loại nào. Giầy,
được người làm giầy phân tích, sẽ cho bạn phân tích
hoàn hảo về con người này. Không có nhu cầu đi tới
nhà phân tâm, bạn có thể đi tới người đóng giầy, để
giầy chỗ ông ấy. Và ông ấy có thể làm ra sơ đồ về
bạn: bạn là loại người nào, cái gì đang xảy ra trong
cuộc sống của bạn.
Thợ may chưa bao giờ nhìn bạn, họ chỉ nhìn quần
áo của bạn. Họ quyết định từ quần áo của bạn. Mọi
người chỉ nhìn cái họ ham muốn và họ phóng chiếu
ham muốn của họ. Nếu ai đó đầy thèm khát thì ngay
cả người đàn bà xấu cũng có thể trông đẹp.
Mulla Nasruddin thỉnh thoảng đi tới ga trên đồi;
anh ta có nhà gỗ ở đó. Thỉnh thoảng anh ta nói, "Tôi
sẽ đi ba tuần," và quay về chỉ sau mười ngày. Điều đó
xảy ra nhiều lần nên tôi hỏi anh ta, "Anh chưa bao giờ
theo quyết định của mình. Anh nói, 'Tôi sẽ đi ba tuần,'
thế rồi anh quay về trong vòng một tuần. Đôi khi anh
nói, 'Tôi sẽ đi năm tuần,' và anh quay về trong mười
ngày. Có chuyện gì vậy?"
Anh ta cười; anh ta nói, "Tôi có tiêu chí và tôi
không thể quyết định được từ đây. Ông biết rằng tôi
có căn nhà gỗ ở ga trên đồi - ở đấy, tôi đã để một
người đàn bà ở đó để trông nom căn nhà. Cô ấy là
người đàn bà xấu nhất ông có thể quan niệm được và
bao lâu tôi sẽ ở đó được người đàn bà đó xác định."
Tôi nói, "Tôi không hiểu."
Anh ta nói, "Để tôi giải thích. Cô ấy kinh tởm thế,
gớm ghiếc thế, nhưng khi tôi tới đó, sau hai hay ba
ngày cô ấy không kinh tởm, không gớm ghiếc thế.
Sau bốn hay năm ngày tôi thậm chí bắt đầu thấy cái gì
đó đẹp trong cô ấy. Đến ngày thứ bẩy hay thứ tám cô
ấy bắt đầu trông thực đẹp. Khoảnh khắc tôi thấy rằng
ham muốn về cô ấy nảy sinh trong tôi, tôi trốn đi - đó
là cách tôi quyết định. Điều đó nghĩa là bây giờ đến
lúc cho tôi ra đi. Tôi biết cô ấy xấu, nhưng mắt tôi
đang lừa dối tôi bây giờ, bây giờ chúng đang phóng
chiếu. Bây giờ thèm khát dục không được hoàn thành
của tôi bắt đầu phóng chiếu lên cô ấy; cô ấy không
phải là điều cô ấy hiện ra cho tôi. Thế thì tôi bắt đầu
trốn đi - tôi sắp điên khùng. Thế thì tôi lập tức xô về
nhà; đó là lúc về nhà, bằng không sẽ có nguy hiểm.
Và tôi không muốn làm tình với người đàn bà gớm
ghiếc đó. Tôi biết hoàn toàn rõ cô ấy kinh tởm, nhưng
một lúc tới, đâu đó ở giữa bẩy và mười ngày, khi cô
ấy bắt đầu trông đẹp thế, cứ dường như cô ấy là
Sophia Loren."
Bạn kinh nghiệm điều này lặp đi lặp lại mãi,
nhưng bạn không hiểu. Khi lần đầu tiên bạn rơi vào
tình yêu với người đàn bà hay đàn ông, người kia có
vẻ giống như nam thần hay nữ thần; đó là phóng
chiếu của bạn. Chẳng mấy chốc bạn sẽ bị vỡ mộng.
Lỗi nằm ở bạn, không ở người kia. Không phải là
người kia đã lừa bạn đâu; người kia đã không làm gì
cả. Bạn đói, bạn khao khát, bạn sống với ham muốn
bị kìm nén và ham muốn đó tạo ra ảo tưởng cho bạn.
Bạn rơi vào trong tình yêu, bạn thấy cái gì đó không
có đó. Những người yêu cứ thấy những điều không có
đó, không ai khác thấy chúng; đó là lí do tại sao
những người yêu bị mọi người khác coi là điên. Bản
thân họ sẽ nghĩ họ điên sau hai hay ba tuần, nhưng
khi họ đang trong tình yêu lần đầu tiên họ nghĩ họ đã
khám phá ra người đàn bà được làm ra cho họ - rằng
họ được làm ra cho nhau.
Ở đây, tôi vẫn thường nhận được thư. Một nữ
sannyasin tìm thấy ai đó gần như mọi tháng và cô ấy
viết cho tôi và cô ấy quên mất tất cả về sự kiện là cô
ấy đã từng viết nó trong ít nhất ba năm: "Thưa Thầy
kính yêu, dường như là chúng tôi đã được làm ra cho
nhau." Cô ấy không có ý tưởng nào rằng cô ấy đã viết
điều này ít nhất năm mươi lần! Nhưng khi cô ấy bị mê
tít với ai đó cô ấy quên hết mọi thứ khác.
Tôi nhắc cô ấy. Cô ấy nói, "Lần khác tôi có thể
sai, nhưng lần này, tin tôi đi, chúng tôi được làm ra
cho nhau!" Và trong hai hay ba tuần những người
này, người đã được làm ra cho nhau bị kết thúc.
Thực tế, không ai được làm cho bất kì ai khác;
mọi người đều được làm ra cho chính bản thân mình.
Không ai được làm cho bất kì ai - Thượng đế chưa
bao giờ làm ra bạn theo đôi cả! Vứt toàn bộ cái vô
nghĩa đó đi. Ngài đơn giản làm ra các cá nhân.
Ở phương Đông chúng ta có các câu chuyện -
chúng phải là chuyện thôi, chúng không thể là lịch sử
được. Trong kinh sách Jaina người ta nói rằng lúc ban
đầu khi thế giới hình thành, Thượng đế hay làm ra
đàn ông và đàn bà cùng nhau. Từng người mẹ thường
cho sinh đôi, một gái, một trai; chúng sẽ là chồng và
vợ. Chúng không phải là chị em hay anh em - chúng
được làm ra cho nhau! Điều đó phải là sự hoàn thành
ước mong. Đàn ông bao giờ cũng nghĩ, "Phải có ai đó
mà mình sẽ khớp tuyệt đối. Ở đâu đó ai đó phải tồn
tại người đó chỉ dành cho mình và mình dành cho cô
ấy." Không có ai chỉ dành cho bạn hay bạn chỉ dành
cho ai. Thượng đế tạo ra chỉ các cá nhân, Thượng đế
tin vào tính cá nhân - ngài là người theo chủ nghĩa cá
nhân.
Thực tế, hôn nhân là bịa đặt của con người,
Thượng đế không tin vào hôn nhân. Bản thân ngài là
một mình không có vợ; bạn có thể thấy - vấn đề rõ
ràng thế. Bằng không ngài ít nhất đã lấy Thánh thần
linh thiêng! Thánh thần linh thiêng có thể biến thành
đàn bà hay đàn ông - ma là ma thôi! Ngài không có
thân thể nào; ngài có thể đã cho nó một thân thể. Nếu
ngài có thể tạo ra cả thế giới, ngài không thể tạo ra
đàn bà cho bản thân mình sao? Ngài hào phóng thế
với đàn ông - ngài đã cho đàn ông người đàn bà đầu
tiên, Lilith. Và Lilith thực sự là người đàn bà đẹp,
nhưng đêm đầu tiên đã có đấu tranh về cái gối - người
đàn bà được giải phóng đầu tiên! Phong trào giải
phóng phụ nữ đã bắt đầu với Lilith. Và đấu tranh là vì
Thượng đế đã cho họ chỉ một giường và cả hai đều
muốn ngủ trên nó và giường lại không đủ lớn cho hai
người. Lilith đơn giản bác bỏ ý tưởng rằng cô ấy phải
ngủ trên sàn. Cô ấy nói, "Nếu anh muốn ngủ trên sàn
anh có thể ngủ!"
Adam cảm thấy bị xúc phạn lắm - một đàn ông,
mà lại ngủ trên sàn, còn đàn bà ngủ trên giường sao?
Đến nửa đêm họ gõ cửa nhà Thượng đế và nói, "Ngài
phải phân xử điều đó đi."
Thượng đế dường như rất kì lạ - một chuyện đơn
giản thế. Ông ấy đáng đã gọi Asheesh: "Làm giường
đôi đi!" Đó là điều tôi đã làm. Sao lại làm om sòm
nhiều thế về điều đó? Hay nếu Asheesh làm tốn thời
gian dài - vì anh ta thường làm thế - ngài có thể đã vứt
cái giường đi: "Cả hai đứa có thể ngủ trên sàn, bình
đẳng!" Ngài có thể đã phái Deeksha đem bỏ nó đi; cô
ấy sẽ bỏ mọi thứ đi, kể cả sàn! Nhưng cách thức của
Thượng đế là kì lạ.
Ngài đã làm Lilith biến mất tiêu. Ngài nói, "Con
biến đi. Con sẽ không có khả năng làm ra điều đó
nữa." Thế là ngài làm ra Eve, lấy một chiếc xương
sườn của Adam để cho cô ấy là một phần của Adam.
Điều đó là hành động xấu, điều đó rất chống phụ nữ.
Và từ đó Thượng đế đã là mật thám gia trưởng đàn
ông!
Không ai được làm ra cho bất kì ai khác, do đó
không có hai người nào có thể khớp tuyệt đối. Mọi ý
tưởng của bạn về khớp với người khác đều là ảo
tưởng, và chúng sẽ bị tan tành chẳng chóng thì chầy.
Hoặc bạn phải thoả hiệp hoặc bạn phải tách rời.
Nhưng không ai được làm cho người kia.
Những người hiểu, họ bắt đầu chấp nhận tính duy
nhất của người kia, họ bắt đầu kính trọng tính duy
nhất của người kia. Họ biết họ khác nhau, vậy mà họ
đã quyết định ở cùng nhau. Và điều đẹp là ở chỗ họ
khác nhau bởi vì sự đa dạng đó đem lại sự phong phú
cho cuộc sống.
Nhưng bạn cứ tạo ra thế giới quanh bản thân
mình, thế giới ảo tưởng. Phật đang nói về thế giới đó
khi ông ấy nói: Khi thế gian tan biến - ông ấy ngụ ý
khi tâm trí tan biến với mọi phóng chiếu của nó - mọi
thứ trở thành rõ ràng.
Khi tất cả mọi phóng chiếu của bạn đều mất rồi
bạn có sáng tỏ, sáng tỏ vô cùng, không mây mù trong
tâm thức bạn. Bạn có thể thấy xuyên thấu suốt. Việc
thấy đó là tự do, việc thấy đó là cứu rỗi, việc thấy đó
là niết bàn, việc thấy đó là về nhà.
Đi ra ngoài….
Đi tới việc thấy đó đi. Đi ra ngoài tâm trí, đi ra
ngoài cái đã biết, bởi vì tâm trí bao gồm cái đã biết.
Và đi ra ngoài cái có thể biết bởi vì bất kì cái gì có thể
biết chẳng chóng thì chầy sẽ trở nên được biết và sẽ
lại tạo ra tâm trí. Cho nên đi ra ngoài cái biết - cái biết
nghĩa là cái đã trở thành tâm trí của bạn - và cái có thể
biết - cái về tiềm năng sẽ trở thành tâm trí của bạn
chẳng chóng thì chầy. Đi ra ngoài cái biết và cái có
thể biết để cho bạn có thể đi vào trong cái không thể
biết, vào trong điều huyền bí. Cõi bên kia đại diện cho
điều huyền bí.
đường này này hay đường kia….
Phật không phải là người cuồng tín; ông ấy nói
bạn theo con đường nào không thành vấn đề. Nhớ lấy:
bạn phải đi ra ngoài tâm trí. Đi theo bất kì đường nào!
Đây là cái đẹp của ông ấy - nó rất hiếm hoi. Bạn sẽ
không tìm thấy phẩm chất này trong những người
cuồng tín tôn giáo đâu; ông ấy không phải là người
cuồng tín chút nào. Ông ấy nói bạn đi theo đường nào
là không quan trọng, dù bạn bơi sang bờ bên kia hay
bạn đi thuyền hay bạn đi tàu hơi nước hay mọi cách
bạn xoay xở... điều đó là tuỳ ở bạn thôi. Đi sang bờ
bên kia; đó mới là vấn đề. Mọi con đường đều hợp
thức nếu nó dẫn tới bờ bên kia, mọi con đường đều
hợp thức nếu nó dẫn bạn đi ra ngoài tâm trí.
Và chỉ có hai con đường. Một là nhận biết, thiền -
con đường của Phật. Và con đường kia là tình yêu,
sùng kính, con đường của người Sufis. Về căn bản chỉ
có hai con đường, nhưng Phật rất rõ ràng. Ông ấy nói:
đường này này hay đường kia....
Với "đường này" ông ấy ngụ ý con đường của ông
ấy; với "đường kia" ông ấy ngụ ý con đường của tình
yêu, của sùng kính. Đó không phải là con đường của
ông ấy, nhưng ông ấy không cấm bạn. Ông ấy không
nói rằng bạn không thể đạt tới được bởi con đường
kia. Ông ấy không nói, "Con đường của ta là con
đường duy nhất." Ông ấy không nói, ông ấy không
tuyên bố, "Chỉ những người tới với ta sẽ đạt tới còn
mọi người khác sẽ rơi xuống địa ngục." Không! Ông
ấy nói, "Ông có thể theo con đường khác nữa. Chỉ
nhớ một điều trong tâm thức ông - rằng ông phải vượt
ra ngoài."
tới bờ xa hơn
nơi thế gian tan biến
và mọi thứ trở thành rõ ràng.
Bên ngoài bờ này
và bờ xa hơn,
Bên kia cõi bên kia,
nơi không có bắt đầu,
không kết thúc.
"Bên kia cõi bên kia" là cách diễn đạt của Phật về
Thượng đế; ông ấy không bao giờ dùng từ 'Thượng
đế'. Nhưng "bên kia cõi bên kia" đích xác là điều từ
'Thượng đế' đại diện. Sao ông ấy nói "bên kia cõi bên
kia"? Gọi nó là "cõi bên kia" không đủ sao? Không đủ
đâu, bởi vì khi bạn nói "cõi bên kia" dường như bạn
đã hiểu nó rồi; điều đó nghĩa là tâm trí bạn đã hiểu.
Khi bạn nói "bờ bên kia" điều đó nghĩa là nó là bờ
kia, nhưng nó là cái gì đó giống như bờ này; ít nhất nó
cũng là bờ cho nên nó phải là cái gì đó giống bờ này -
có thể có chút ít khác biệt, đẹp hơn, với nhiều cây
hơn, nhiều xanh hơn, nhiều hoa đẹp và hương thơm
hơn - nhưng bờ vẫn là bờ.
"Bờ này" và "bờ kia" tâm trí bạn có thể lĩnh hội
được. Do đó ông ấy nói: Bất kì cái gì hiểu được với
tâm trí đều phải bị bỏ lại sau. Cõi bên kia là hiểu
được.
Bên ngoài bờ này và bờ xa hơn - bạn phải đi ra
ngoài cả hai bờ - Bên kia cõi bên kia, nơi không có
bắt đầu, không kết thúc.
Khi một người tới Phật - người đó đã thực hành
thiền trong nhiều năm - người đó nói, "Thầy đã bảo
tôi, 'Đạt tới cái không,' và tôi đã đạt tới nó rồi. Bây gì
tôi phải làm gì khác nữa?"
Phật nói, "Bây giờ quẳng nó đi! Đi ra và quẳng nó
đi!"
Người đó phân vân. Người đó nói, "Tôi đã mất
vài năm để đạt tới nó!"
Phật nói, "Mục đích duy nhất trong việc đạt tới nó
là để quẳng nó đi - chỉ thế thì ông mới thực sự trong
trạng thái của cái không; bằng không, cái không này
đã trở thành cái gì đó - ông đã đạt tới nó. Nó không
phải là cái không thực. Làm sao ông có thể đạt tới cái
không thực? Cái không thực là không thể đạt tới
được, nó là không thể hiểu thấu được. Nó ở bên ngoài
việc hiểu thấu, nó ở bên ngoài sự lĩnh hội. Cho nên đi
ra và quẳng nó đi!"
Một vua tới Phật mang theo nhiều kim cương
trong tay này, rất quí giá, rất hiếm hoi, và với bông
sen trong tay kia, sen trái vụ. Ông ấy muốn cúng
dường kim cương. Phật nói, "Vứt nó đi!" Thế là ông
ấy vứt kim cương - do dự lắm, vì đó là cả kho báu lớn
thế - cứ nghĩ, "Người này không hiểu điều ông ấy
đang nói." Nhưng mười nghìn sư đang có đó và
không vứt chúng sẽ có vẻ keo kiệt và mọi người sẽ
cười và họ sẽ nói, "Nếu ông đã tới cúng dường ông ấy
cái gì đó và ông ấy ra lệnh, 'Vứt nó đi!' thế thì vứt nó
đi chứ! Ông đã cúng dường chúng cho ông ấy rồi, bây
giờ làm gì chúng là việc của ông ấy." Cho nên ông ta
vứt chúng đi, nhưng rất ngần ngại.
Thế rồi ông ấy cúng dường bông sen. Phật nói,
"Vứt nó đi!" Ông ấ vứt bông sen đó nữa. Bây giờ ông
ấy đứng với bàn tay trống rỗng và Phật nói, "Vứt nó
đi!" Bây giờ nhà vua đâm ra lúng túng. Ông ta nói,
"Thưa ngài, tôi chẳng có gì để vứt; tay tôi hoàn toàn
trống rỗng." Phật nói, "Thế thì vứt nó đi!" Bây giờ
nhà vua nghĩ, "Người này dở hơi! Ta đang nói tay ta
trống rỗng, thế rồi mà ông ta vẫn nói 'Vứt nó đi!'"
Một trong các Bồ tát của Phật, Manjushree7
[7 Tên tiếng Việt của bồ tát này là Văn thù sư lị]
, cười
to và ông ấy nói, "Thưa ngài, ngài không hiểu thầy
tôi. Thầy tôi đang nói, 'Đừng mang ý tưởng này về
trống rỗng, vứt cả cái đó nữa - bởi vì ý tưởng về trống
rỗng là đủ để rót đầy bản thân ông; ý tưởng về trống
rỗng là đủ để tạo ra tâm trí.' Phật đang nói, 'Vứt mọi
thứ một cách vô điều kiện. Và khi ông đã vứt tất cả
rồi, đừng mang ý tưởng này rằng bây giờ không cái gì
còn lại. Vứt cả cái đó nữa để cho ông không có gì mà
nói cả.'"
Đó là nghĩa của việc đi ra bên kia cõi bên kia. Đó
là trạng thái tối thượng của niết bàn - khi bản ngã, tâm
trí, cá tính, tất cả đều dừng tồn tại và bạn biến mất
trong điều huyền bí, trong phép màu, trong vũ trụ.
Không sợ, cứ đi.
Thiền.
Đây là điều thiền tất cả là gì: quan sát ham muốn
của bạn, hiểu bản chất của chúng... và để chúng rơi
rụng như lá khô khỏi cây trong mùa thu.
Sống thuần khiết.
Và khi thiền đã xảy ra và ham muốn đã biến mất,
thế thì sống từ hồn nhiên đó. Ngay bây giờ bạn đang
sống từ ham muốn. Bạn ham muốn cái này, bạn ham
muốn cái nọ, và đôi khi bạn ham muốn ngay cả
Thượng đế, đôi khi bạn ham muốn niết bàn, đôi khi
bạn ham muốn ngay cả thiền, nhưng bạn sống từ ham
muốn.
Có một loại cuộc sống khác - cuộc sống thực -
điều được sống qua hồn nhiên, không ham muốn. Cho
nên bất kì cái gì tới trên đường bạn đều tận hưởng,
hạn hân hoan, nhưng bạn không ham muốn.
Sống thuần khiết - đó là điều Phật gọi là cuộc
sống thuần khiết: cuộc sống không được sống từ ham
muốn.
Yên tĩnh.
Một cách tự nhiên bạn sẽ yên tĩnh - khi không có
ham muốn còn lại, không rối loạn nào còn lại.
Làm việc của ông, với quyền làm chủ.
Thế thì bất kì cái gì bạn đang làm, bất kì cái gì
bạn tận hưởng làm, làm nó với quyền làm chủ và
khéo léo. Ông ấy thích khéo léo lắm, ông ấy thích cái
tuyệt hảo, ông ấy thích hoàn hảo. Ông ấy không phải
là người cầu toàn, nhớ lấy, bởi vì ông ấy không phải
là người thần kinh, nhưng ông ấy yêu hoàn hảo. Làm
mọi thứ với tính toàn bộ của bạn. Bất kì cái gì bạn
đang làm, làm nó với tình yêu như thế, với cam kết
như thế và sự tham dự tới mức khoảnh khắc đó là
toàn thể cuộc sống của bạn.
Có lần ai đó hỏi Vincent van Gogh, "Tranh đẹp
nhất của ông là tranh nào?"
Ông ấy đang vẽ một bức tranh. Ông ấy nói, "Bức
này - đây là bức đẹp nhất."
Vài tháng sau người này lại hỏi - ông ấy lại đang
vẽ cái gì đó - người này hỏi, "Tranh đẹp nhất của ông
là tranh nào?"
Ông ấy nói, "Tranh này."
Người này nói, "Nhưng điều này không đúng.
Mới vài tháng trước ông nói về bức tranh khác nào đó
đã là tranh đẹp nhất của ông."
Vincent van Gogh nói, "Bất kì cái gì tôi đang làm
vào khoảnh khắc này đều là đẹp nhất. Nó bao giờ
cũng thế này, nó chưa bao giờ thế nọ. Nó bao giờ
cũng bây giờ, nó chưa bao giờ lúc khác."
Đây là cách thức của hoàn hảo, cách thức của
tuyệt hảo, cách thức của khéo léo, làm chủ. Bất kì cái
gì bạn đang làm, làm nó cứ dường như nó là vấn đề
sinh và tử. Đưa toàn thể năng lượng của bạn vào trong
nó, và cho sẽ cho bạn phúc lạc vô cùng. Đừng nửa
vời. Chỉ thế thì tính sáng tạo mới nở hoa, chỉ thế thì
bạn mới trở thành người tham gia vào trong Thượng
đế đấng sáng tạo.
Ban ngày mặt trời chiếu sáng,
và chiến binh trong giáp trụ rạng ngời.
Ban đêm trăng chiếu sáng,
và người chủ sáng lên trong thiền.
Đây là những lời mã hoá. Mặt trời đại diện cho
chiến binh. Mặt trời là năng lượng nóng; mặt trời là
năng lượng bạo hành. Mặt trăng đại diện cho thiền
nhân, nhà huyền môn; nó là năng lượng mát mẻ. Nó
là cùng năng lượng, nhớ lấy - nó là cùng năng lượng,
nó không phải là năng lượng khác. Nhưng chuyển qua
mặt trăng tia sáng mặt trời trở nên mát mẻ; đó là phép
màu của trăng, thay đổi giả kim thuật xảy ra qua
trăng. Trăng đơn giản phản xạ tia sáng mặt trời; nó là
tấm gương. Nhưng chỉ bằng việc qua mặt trăng thay
đổi triệt để xảy ra: tia sáng vốn nóng, bạo hành, trở
thành im lặng, mát mẻ, an bình.
Mặt trời đại diện cho chiến binh, chiến sĩ, người
lính. Mặt trăng đại diện cho sannyasin, thiền nhân,
nhà huyền môn.
Phật nói: Ban ngày mặt trời chiếu sáng, và chiến
binh trong giáp trụ rạng ngời.
Ngày thuộc về chiến binh, mặt trời thuộc về chiến
binh. Chiến binh nghĩa là người cố chinh phục người
khác, người cố trở thành người khác. Đó là nỗ lực ngu
xuẩn, nhưng nó rẻ hơn. Dễ bắt ai đó khác làm nô lệ,
bao giờ cũng dễ tìm ra ai đó yếu hơn bạn, dễ áp đặt
bản thân bạn lên ai đó.
Nhưng nhà huyền môn, thiền nhân đi vào chiều
hướng hoàn toàn khác - người đó đi vào trong lãnh
thổ của mình. Người đó cố là người chủ của bản thân
mình, không phải là người chủ của người khác mà là
chủ của bản thân mình - và điều đó là làm chủ đúng.
Nỗ lực đầu tiên là ngu xuẩn.
Và thế giới đã bị chi phối bởi người lính trong
hàng thế kỉ, đó là lí do tại sao thế giới vẫn còn trong
đống lộn xộn thế. Thế giới cần ngày một nhiều
sannyasin hơn bởi vì từng sannyasin đều trở thành
mặt trăng: người đó biến đổi năng lượng bạo hành của
thế giới thành vũng năng lượng mát mẻ. Thế giới cần
đầy các sannyasin, chỉ thế thì chúng ta mới có thể có
một thế giới quên đi cách thức chiến tranh và học
ngôn ngữ của an bình và tình yêu. Thế giới cần nhiều
sannyasin như những người biến đổi năng lượng.
Đó đích xác là điều được ngụ ý bởi phật trường:
nơi nhiều sannyasins ở cùng nhau và tạo ra lực biến
đổi lớn tới mức tất cả mọi loại năng lượng đi qua phật
trường đều trở nên mát mẻ, trở thành nữ tính, trở
thành giống như hoa và ít như đá. Chúng mất đi tính
cứng rắn, chúng trở nên tinh tế - tinh tế như cánh hoa
hồng.
Ban đêm trăng chiếu sáng.... Đêm là thời gian của
nhà huyền môn, ngày là thời gian của chiến binh.
Đêm đại diện cho thay đổi trong toàn thể bầu không
khí. Dễ thiền trong đêm hơn là trong ngày. Thiền gần
với giấc ngủ hơn nhiều so với bất kì hoạt động nào
khác, chỉ với một khác biệt: trong giấc ngủ bạn rơi
vào vô ý thức, trong thiền bạn vẫn còn ý thức, nhưng
với cùng thảnh thơi. Ban ngày khó ngủ; nếu bạn
muốn ngủ ban ngày bạn phải đóng cửa ra vào và cửa
sổ và kéo mọi rèm để cho nó thành tối. Nếu tia sáng
mặt trời tới chúng sẽ không cho phép bạn ngủ; tia
sáng mặt trời kích hoạt năng lượng của bạn. Ban đêm
giúp cho bạn thảnh thơi và nghỉ ngơi. Đó là thời gian
của nhà huyền môn.
Sannyasin nên dùng thời gian ban đêm ngày một
nhiều hơn cho thiền. Bạn có thể đi sâu hơn, và dễ
dàng, bởi vì gió đang thổi theo cách đó; bạn có thể đi
cùng gió với ít nỗ lực hơn. Ban ngày bạn đi ngược
chiều gió. Ban ngày thiền tích cực là tốt; thiền động là
tốt vào ban ngày, thiền nhảy múa là tốt vào ban ngày.
Nhưng ban đêm Vipassana, thiền im lặng, chỉ ngồi và
không làm gì, chỉ thảnh thơi bởi vì toàn bộ bầu không
khí là thảnh thơi.... Mặt trời đã xuống, cây đã rơi vào
giấc ngủ; năng lượng đang bao quanh bạn trong đêm
mang phẩm chất hoàn toàn khác. Dễ dàng thiền.
Phật nói: người chủ sáng lên trong thiền trong
đêm.
Với "người chủ" ông ấy ngụ ý người đang cố là
người chủ của bản thân mình; với "chiến binh" ông ấy
ngụ ý người đang cố là chủ người khác. Nhưng một
khi bạn đã đạt tới, một khi bạn đã trở nên chứng ngộ,
thế thì không có vấn đề về ngày và đêm, không có
vấn để mặt trời và mặt trăng.
Nhưng ngày và đêm
Người đã thức tỉnh
chiếu sáng trong rạng ngời của tâm linh.
Vị phật, người thức tỉnh, người chứng ngộ chiếu
sáng cả trong đêm và trong ngày; không có khác biệt
cho người đó. Một khi bạn đã trở nên thức tỉnh, thế
thì chẳng cái gì tạo ra khác biệt nào. Nhưng cho tới
khi điều đó xảy ra, vẫn cứ dùng bầu không khí đêm
ngày một nhiều hơn cho thiền.
Và khi trăng có đó trong đêm còn dễ thiền hơn
nhiều. Đêm trăng tròn là tốt nhất cho thiền. Nhiều
người đã trở thành phật đều đã đạt tới chứng ngộ của
họ vào đêm trăng tròn, kể cả bản thân Phật. Điều đó
có thể là sự trùng hợp, nhưng điều có ý nghĩa cần
nhớ: ông ấy đã được sinh ra vào đêm trăng tròn, ông
ấy đã trở nên chứng ngộ vào đêm trăng tròn và ông ấy
chết vào đêm trăng tròn. Cái gì đó trong trăng tròn
dường như là đồng bộ với năng lượng của ông ấy.
Dùng nó đi. Tỉnh táo và dùng mọi khả năng để
giúp bạn đi vào trong. Một khi bạn được thức tỉnh, thế
thì không có vấn đề gì. Thế thì bạn có thể thoải mái,
nghỉ ngơi, an bình, ở bất kì đâu.
Ai đó hỏi Phật Buddha, "Khi thầy chết thầy có lên
cõi trời không?"
Phật nói, "Đừng hỏi câu hỏi vô nghĩa. Bất kì chỗ
nào vị phật ở cũng đều có cõi trời rồi. Chư phật không
lên cõi trời; bất kì chỗ nào vị phật tới, cõi trời đi tới
đó."
Điều này gần với chân lí nhiều, đẹp hơn nhiều;
chính phát biểu này là có ý nghĩa. Không có vấn đề về
người chứng ngộ đi lên thiên đường - người chứng
ngộ sống trong thiên đường ở bất kì chỗ nào họ ở.
Bạn có thể phái họ xuống địa ngục - nếu có địa ngục -
và địa ngục sẽ được biến đổi. Bằng chính hiện diện
của họ địa ngục sẽ trở thành phật trường. Bằng chính
hiện diện của họ năng lượng của địa ngục sẽ trải qua
biến đổi.
Có lần chuyện xảy ra:
Một linh mục Ki tô giáo đang giảng đạo vào chủ
nhật và ông ấy nói, "Những người không tin vào
Thượng đế và sống cuộc sống vô đạo đức sẽ xuống
địa ngục; những người tin vào Thượng đế và sống đạo
đức sẽ lên cõi trời."
Một người đứng lên và hỏi, "Một câu hỏi nảy sinh
trong tôi. Câu hỏi là: Những người không tin vào
Thượng đế và sống cuộc sống đạo đức, họ sẽ đi đâu?
Những người tin vào Thượng đế và sống cuộc sống
vô đạo đức, họ sẽ đi đâu?"
Linh mục đâm lúng túng; ông ấy đã không nghĩ
về điều đó. Câu hỏi này thật quỉ quyệt. Ông ấy nói,
"Cho tôi thời gian để cân nhắc về điều đó. Sau bẩy
ngày tôi sẽ trả lời, chủ nhật sau."
Bẩy ngày đó thực sự là địa ngục cho ông ấy. Ông
ấy cố gắng hình dung ra nó, nhưng không thể hình
dung ra nó được. Nếu ông ấy nói, "Những người
không tin vào Thượng đế nhưng đạo đức vẫn lên cõi
trời," thế thì người này sẽ nói, "Sao phải tin vào
Thượng đế? Sao phải bận tâm về Thượng đế chút
nào? Cứ sống đạo đức là đủ rồi." Ông ấy nghĩ, "Và
nếu mình nói những người không tin vào Thượng đế
và sống đạo đức phải xuống địa ngục, thì đạo đức mất
mọi liên quan. Thế thì sao phải đạo đức? Cứ tin vào
Thượng đế là đủ. Tin vào Thượng đế và sống vô đạo
đức là có thể được. Sao bỏ lỡ cơ hội đó?" Ông lấy làm
cho mình phát rồ, ông ấy không thể ngủ được. Liên
tục ông ấy nghĩ mãi và tra cứu sách vở, nhưng không
câu trả lời nào tới.
Chủ nhật tới; ông ấy dậy sớm chút ít để tới nhà
thờ cầu nguyện Jesus. "Xin hãy giúp tôi!" ông ấy cầu
nguyện với Jesus. Cả đêm ông ấy đã không ngủ cho
nên trong khi ông ấy cầu nguyện ông ấy rơi vào giấc
ngủ, và ông ấy mơ một giấc mơ đẹp, một giấc mơ rất
có ý nghĩa. Ông ấy thấy rằng mình đang trong chuyến
tàu hoả. Ông ấy hỏi tàu đi đâu và các hành khách
khác nói, "Tàu này đi lên cõi trời."
Ông ấy nói, "Điều này rất tốt! Đó là điều tôi muốn
thấy - thấy bằng chính mắt mình. Socrates chưa bao
giờ tin vào Thượng đế, nhưng ông ấy đã sống cuộc
sống đạo đức. Phật chưa bao giờ tin vào Thượng đế,
nhưng ông ấy đã sống một trong những cuộc sống
thuần khiết nhất. Mahavira chưa bao giờ tin vào
Thượng đế, nhưng ai có thể vượt qua được Mahavira
trong cuộc sống đạo đức của ông ấy? Nếu mình có thể
tìm được ba người này, thế thì vấn đề được giải quyết;
nếu mình không tìm được họ ở đó, thế nữa vấn đề
cũng được giải quyết."
Chuyến tàu lên tới cõi trời; ông ấy rất đỗi ngạc
nhiên. Nhìn cõi trời, ông ấy không thể nào tin được
vào nó - nó trông giống địa ngục hơn! Tất nhiên tấm
biển nói nó là cõi trời, nhưng nó đã không được sơn
vẽ lại, dường như nhiều thế kỉ rồi. Bao nhiêu bụi đã tụ
lại, mọi thứ đều bẩn thỉu. Nó trông như sa mạc: không
mầu xanh, không cây cối, không hoa hồng, không hoa
sen. Ông ấy bắt gặp vài thánh nhân trông gần chết,
bằng cách nào đó kéo lê bản thân họ. Bụi cũng đã tụ
lên họ cứ dường như họ đã quên cách tắm, cứ dường
như chẳng ai tắm trên cõi trời.
Ông ấy hỏi, "Socrates có đây không? Phật có đây
không? Mahavira có đây không?"
Những thánh nhân đó nói, "Chưa bao giờ nghe nói
tới những người đó."
Ông ấy chạy xô tới văn phòng hướng dẫn. Ông ấy
hỏi, "Có tàu nào đi xuống địa ngục không?"
Họ nói, "Có, tầu sắp đi ngay đây. Ông có thể đáp
nó ngay bây giờ."
Và ông ta xô lên tàu đi xuống địa ngục, và khi địa
ngục tới gần hơn ông ấy lại trong ngạc nhiên lớn:
nhiều hương thơm thế, nhiều xanh tươi thế, nhiều hoa
thế, nhiều chim đẹp thế, và hót và nhảy nhót. Ông ấy
nói, "Có chuyện gì thế nhỉ?" Và mọi người trông vui
vẻ thế, rạng ngời thế. Ông ấy hỏi mọi người về ga
này, "Đây có thực là địa ngục không? Đây mà là địa
ngục à?"
Họ nói, "Vâng, đây là địa ngục, và không ai có thể
tin được đây là địa ngục. Kể từ khi ba người -
Socrates, Phật và Mahavira - tới, mọi thứ đã thay đổi.
Họ đã biến đổi toàn thể cảnh quan. Chỉ cái tên là địa
ngục bây giờ - nó thực sự là cõi trời. Và chỗ kia chỉ là
cõi trời theo tên thôi; nó đã trở thành địa ngục."
Tôi tuyệt đối đồng ý với giấc mơ này. Tôi có thể
quán tưởng rằng cái gọi là thánh nhân của bạn, dù họ
ở đâu, đều sẽ tạo ra địa ngục. Nhưng nếu một người
như Phật hay Socrates hay Mahavira hay Jesus hay
Lão Tử hay Zarathustra mà trong địa ngục, thì địa
ngục phải thay đổi. Vấn đề không phải là chỗ; vấn đề
là ai ở đó.
Nhưng ngày và đêm
Người đã thức tỉnh
chiếu sáng trong rạng ngời của tâm linh.
Bạn có thể nói địa ngục hay cõi trời... Người đã
thức tỉnh chiếu sáng trong rạng ngời của tâm linh. Dù
người đó ở bất kì đâu, người đó đều tạo ra thế giới
mới, người đó tạo ra năng lượng hoàn toàn mới.
Người đó là người biến đổi giả kim thuật.
Đầu tiên, đừng là người lính, hãy là sannyasin,
bởi vì đó là cách một ngày nào đó bạn có thể trở
thành chư phật. Đi tới việc tự làm chủ. Dùng mọi
phương cách, phương pháp, để trở thành người chủ
cái ta của riêng bạn. Và thế rồi một ngày nào đó, khi
tâm trí đã biến mất với mọi ảo tưởng của nó và bạn đã
đạt tới sáng tỏ, khi bạn có thể thấy cái đang đó như nó
vậy, bạn là vị phật. Thế thì bất kì chỗ nào bạn ở cũng
đều có thiên đường.
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#8Tiếng cười: tình yêu, vui vẻ, biết ơn
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Có phải tất cả đều là chuyện đùa không? Nhưng
tôi không hiểu nó.
Vimalkirti, nó chắc chắn là chuyện đùa rồi, nhưng
bạn không thể hiểu được nó. Bạn là người Đức, và
không chỉ người Đức bình thường - bạn là chắt của
hoàng đế Đức! Cứ nghĩ tới ông già trong nấm mồ của
mình: ông ấy phải xoay người, lật người, khi thấy bạn
trong áo da cam, lau sàn ở Pune! Bạn nghĩ gì? - chẳng
phải là chuyện đùa sao? Chắt của bạn có thể đã bao
giờ tưởng tượng hay mơ rằng điều này đã xảy ra cho
con riêng của mình một ngày nào đó sao? Người đó
sẽ không thể nào mơ được về điều đó - nhưng nó đã
xảy ra.
Trong hàng thế kỉ bạn đã được bảo rằng cuộc
sống là chuyện nghiêm chỉnh; nó đã trở thành ước
định sâu. Bằng không cuộc sống thực sự là chuyện
đùa. Nó là vui đùa, nó là leela. Nó tất cả phụ thuộc
vào cách bạn nhìn nhận nó. Nếu bạn nhận nó một
cách nghiêm chỉnh nó trở thành nghiêm chỉnh, nhưng
thế thì bạn khổ - bạn khổ từ ý tưởng riêng của mình.
Cuộc sống trở thành nặng nề, nó trở thành trọng
lượng, thành núi đè lên ngực bạn; bạn bị nghiền nát
dưới nó. Cuộc sống mất mọi niềm vui, mọi tiếng cười.
Bạn đơn giản kéo lê, bạn không sống. Làm sao người
ta có thể sống mà không có tiếng cười?
Chính con người là con vật duy nhất trên trái đất
biết cách cười. Tiếng cười là điều duy nhất đặc biệt
cho con người, không lập luận mà tiếng cười. Con vật
cũng có thể lập luận - chúng lập luận theo cách riêng
của chúng - nhưng chúng không thể đùa được, chúng
không thể cười được, chúng không thể thấy được phía
khôi hài; điều đó là không thể được cho chúng. Mọi
con vật đều là người nghiêm chỉnh và mọi người
nghiêm chỉnh đều là con vật! Khoảnh khắc bạn gạt bỏ
cái nghiêm chỉnh của mình bạn gạt bỏ tính con vật
của mình.
Do đó tôi không có kính trọng với thánh nhân của
bạn. Họ rất nghiêm chỉnh, còn nghiêm chỉnh hơn lừa
nhiều, nghiêm chỉnh hơn trâu nhiều. Họ đã sa ngã, họ
đã không vươn lên. Thánh nhân của bạn nghiêm
chỉnh, chính khách của bạn nghiêm chỉnh, các nhà
cách mạng của bạn nghiêm chỉnh, các nhà khoa học
của bạn nghiêm chỉnh. Họ tất cả đều coi cuộc sống
dường như bằng cách nào đó người ta phải trải qua nó
- không nhảy múa. Chính khái niệm về nhảy múa là
xa xôi với họ. Họ thậm chí không thể bước đi, họ lê
lết. Họ không sống, họ chỉ chết dần. Họ tất cả đều
không sống, họ chỉ chết dần. Họ tất cả đều chờ đợi cái
chết làm giảm nhẹ nỗi đau cho họ và nỗi khổ của cuộc
sống.
Rất hiếm khi tìm ra một người không nghĩ về tự
tử một hay hai lần. Trung bình, bốn lần trong đời mọi
con người đều nghĩ tới tự tử. Người đó không làm
điều đó, đó là vấn đề khác. Có thể người đó không đủ
bạo gan để làm điều đó, có thể người đó sợ điều sẽ
xảy ra sau cái chết. Ai biết được? Nó có thể còn tồi tệ
hơn bản thân cuộc sống. Ít nhất cuộc sống cũng được
biết tới, quen thuộc; thật là mạo hiểm mà đi vào trong
cái không biết.
Người Ấn Độ không tự tử nhiều bởi vì họ tin rằng
họ sẽ được phái trở lại, cho nên phỏng có ích gì? -
hàng triệu lần bạn phải được sinh ra. Mọi tôn giáo Ấn
Độ đều tìm và kiếm không về Thượng đế, nhớ lấy, mà
về tự do khỏi cuộc sống, tự do khỏi vòng sinh tử. Làm
sao những người này có thể hân hoan và làm sao
những người này có thể cám ơn Thượng đế được? Họ
đang phàn nàn và việc phàn nàn của họ rất to. Họ
đang nói, "Chúng tôi không muốn được sinh ra.
Chúng tôi chưa bao giờ muốn được sinh ra. Sao ngài
không hỏi chúng tôi trước hết? Điều đó là không công
bằng! Nó không phải là món quà, điều không công
bằng là phái chúng tôi vào trong cuộc sống mà chúng
chúng tôi chưa bao giờ yêu cầu. Và điều không công
bằng là cứ phái chúng tôi vào trong cuộc sống mà
chẳng có gì ngoài khổ."
Nhưng cuộc sống không phải là khổ. Chính cách
tiếp cận của chúng ta, chính cách chúng ta nhìn vào
nó đã làm cho nó thành xấu. Tầm nhìn của chúng ta bị
bóp méo, không phải bản thân cuộc sống. Tấm gương
của chúng ta bị bóp méo, không phải bản thân cuộc
sống. Bởi vì tấm gương của chúng ta bị bóp méo,
cuộc sống dường như bị bóp méo.
Vimalkirti, với tôi nó tất cả đều là chuyện đùa. Và
tôi không đùa - tôi thực sự nghiêm chỉnh về điều đó!
Bạn nói, "Nhưng tôi không hiểu nó."
Tôi đã nghe nói rằng ở Đức mọi người không
được phép kể chuyện đùa vào tối thứ bẩy. Tại sao? -
bởi vì họ có thể buột ra cười vào sáng chủ nhật. Phải
mất thời gian để họ hiểu! Và bạn là chắt của hoàng đế
Đức, có thể mất thời gian lâu hơn chút ít cho bạn!
Nhưng nếu bạn ở đây bạn nhất định hiểu được nó.
Đừng lo. Cuộc sống đầy những khoảnh khắc buồn
cười tới mức gần như không thể nào bỏ lỡ được
chúng. Chính phép màu là làm sao mọi người cứ bỏ
lỡ chúng; bằng không bạn sẽ bắt gặp chuyện đùa ở
mọi nơi.
Khi Winston Churchill được bổ nhiệm làm thủ
tướng lần đầu tiên - ông ấy đã mệt mỏi từ chiến dịch
bầu cử và mọi hoạt động chính trị diễn ra trước đó và
mọi tranh đấu để lên tới đỉnh - vợ ông ấy nghĩ điều tốt
là mời một người bạn biết nhiều chuyện cười hay tới
để người đó có thể kể vài chuyện cười cho Winston
Churchill. "Điều đó sẽ làm cho ông ấy thảnh thơi,
giúp ông ấy cười một chút. Ông ấy đã nghiêm chỉnh
thế trong nhiều ngày và ông ấy trông mệt mỏi thế."
Người bạn được mời tới; người đó tới với những
chuyện cười mới nhất. Người đó hỏi Winston
Churchill, "Ông có muốn biết chuyện đùa mới nhất
không?"
Churchill nhìn ông ta và nói, "Xin đủ, không thêm
nữa - tôi đã bổ nhiệm tất cả họ vào nội các của tôi
rồi!"
Nếu bạn nhìn quanh, nếu bạn quan sát đủ, thế thì
bạn nhất định lại loạng choạng vớ phải cái gì đó hay
thế và buồn cười thế. Chính ý tưởng về việc tạo ra thế
giới và tạo ra bạn tất cả là trò đùa vũ trụ thế! Thượng
đế phải có khả năng khôi hài.
Một giáo sĩ già sắp chết và ai đó hỏi ông ấy... bởi
vì họ sợ giáo sĩ già này. Ông ấy không thật tôn giáo
mấy, không thật đức hạnh mấy; thực tế, ông ấy là cái
đối lập. Họ lo nghĩ. Họ hỏi ông ấy, "Thầy có sẵn sàng
gặp Thượng đế không?"
Ông ấy mở mắt ra và nói, "Có chứ, đó là điều ta
đang làm đây - ta đang cố nhớ vài chuyện đùa hay để
kể cho ngài. Ngài phải đã phát mệt về tất cả những
khuôn mặt dài kia, các thánh nhân buồn. Ngài sẽ thực
sự thích thú vài chuyện đùa, vài chuyện tán gẫu về
trái đất."
Và tôi tuyệt đối đồng ý với giáo sĩ già này. Nếu
bạn gặp Thượng đế, đừng khuỵ đầu gối xuống và bắt
đầu cầu nguyện - ngài mệt mỏi về tất cả những điều
đó rồi! Kể cho ngài chuyện cười hay. Điều đó sẽ là
giao cảm sâu sắc hơn với ngài. Để ngài có tiếng cười
sảng khoái. Trong tiếng cười đó sẽ có khải lộ.
Vimalkirti, vài chuyện cười cho bạn:
Karpuik bị chở gấp tới phòng cấp cứu của bệnh
viện thành phố. Bác sĩ trực ngạc nhiên khi phát hiện
ra Karpuik had bị bỏng bìu. "Chuyện đó xảy ra thế
nào?" bác sĩ hỏi.
"Tôi pha trà," người Polack đáp, "và lời hướng
dẫn nói, 'nhúng túi vào nước nóng.'"
Pilzudski đưa vợ mình tới bác sĩ và phàn nàn rằng
anh ta không thể nào giao hợp được với cô ấy vì cô ấy
quá chặt.
"Được rồi," bác sĩ nói, "chúng ta thử điều đó!"
Nhà phẫu thuật đưa người vợ lên bàn, bôi dầu
trơn nào đó vào công cụ của mình và đưa vào vợ của
Pilzudski một cách dễ dàng.
"Này," người Polack nói, khi anh ta quan sát bác
sĩ bơm vào, "nếu đấy không phải là thuốc tôi nghĩ ông
đang giao cấu vợ tôi!"
Có lần có một tu sĩ trẻ ngoan đạo,
sống gần như chỉ toàn bằng men bia;
"Vì," anh ta nói, "điều đơn giản
là chúng ta tất cả đều lại dâng lên,
và tôi muốn ít nhất được bắt đầu!"
Cách tiếp cận của tôi tới cuộc sống là cách tiếp
cận của tiếng cười. Và tiếng cười chứa tình yêu, tiếng
cười chứa niềm vui và tiếng cười chứa lòng biết ơn.
Tiếng cười chứa lòng biết ơn vô cùng với Thượng đế.
Khi bạn thực sự trong tiếng cười bụng sâu sắc,
bản ngã bạn biến mất. Nó xảy ra rất hãn hữu trong bất
kì hoạt động nào khác, nhưng trong tiếng cười nó nhất
định xảy ra. Nếu tiếng cười là toàn bộ, bản ngã không
thể tồn tại được; không cái gì giết chết bản ngã như
tiếng cười. Đó là lí do tại sao mọi bản ngã đều nghiêm
chỉnh. Bản ngã có thể tồn tại chỉ trong sự nghiêm
chỉnh; bản ngã sống, được nuôi dưỡng trên tính
nghiêm chỉnh. Và người nghiêm chỉnh là người nguy
hiểm.
Chúng ta phải phá huỷ mọi loại nghiêm chỉnh
trong thế giới. Đền chùa nên đầy tiếng cười và bài ca
và điệu vũ và lễ hội. Đó là cách cây có đó, sao có đó,
sông có đó, đại dương có đó. Toàn thể sự tồn tại,
ngoại trừ con người, đều trong trạng thái không
nghiêm chỉnh; chỉ con người dường như rất nghiêm
chỉnh. Không đứa trẻ nào được sinh ra nghiêm chỉnh,
nhớ lấy, nhưng chúng ta phá huỷ cái hồn nhiên của
đứa trẻ. Chúng ta phá huỷ phẩm chất của ngạc nhiên
và kính nể, chúng ta phá huỷ tiếng cười của nó, chúng
ta phá huỷ mọi thứ đẹp và có giá trị, và thay vì thế
chúng ta cho nó tải trọng mang trên đầu nó - về tri
thức, về thượng đế học, về triết học. Nó càng được
chúng ta giáo dục, nó càng mất mọi khả năng khôi
hài. Nó không thể thấy khôi hài nào trong sự tồn tại
bởi vì nó bắt đầu sống qua tri thức của mình; nó biết
mọi điều. Bởi vì tính thông thái của nó mọi ngạc
nhiên bị phá huỷ. Bởi vì tính tri thức của nó, phẩm
chất tôn giáo lớn nhất - kính nể - bị giết chết.
Một thanh niên ở đại học, có tên Breeze,
bị trĩu nặng bởi các học vị BA và MD,
suy sụp do căng thẳng;
nói với bác sĩ, "Đơn giản
mình đang tự giết mình bằng bằng cấp!"
Tới lúc bạn quay về từ đại học bạn gần chết rồi.
Trạng thái của bạn là bệnh hoạn. Bạn ốm - ốm với tri
thức, bị ngộp bởi tri thức. Và bạn không thể cười
được; cười chỉ dành cho trẻ con và người điên.
Và toàn thể nỗ lực của tôi ở đây, Vimalkirti này,
là để làm cho bạn đồng thời cả hai: làm bạn như trẻ
con và làm bạn hoàn toàn điên. Nếu hai điều này xảy
ra, chỉ thế thì bạn mới là sannyasin. Lời khuyên duy
nhất của tôi là tiếng cười!... và mọi thứ khác sẽ theo
sau. Nếu bạn có thể yêu và nếu bạn có thể cười, một
cách toàn bộ, một cách toàn tâm, cuộc sống của bạn
sẽ trở thành phúc lạc và phúc lành thế, không chỉ cho
bản thân bạn mà cho mọi người khác. Bạn sẽ là phúc
lành cho thế giới.
Bạn phải vứt bỏ mọi nghiêm chỉnh đi. Bạn phải
vứt bỏ tính nghiêm chỉnh này bởi vì nó đã bị ép buộc
lên bạn; đây không phải là bản tính của bạn. Bạn đã
không tới thế gian này trong nghiêm chỉnh, bạn tới
khi cười to. Từng đứa trẻ đều sôi sùng sục với niềm
vui và đến lúc nó bốn tuổi nó bắt đầu chết. Tuổi bốn
cho con trai và tuổi ba cho con gái là lúc cái chết bắt
đầu xuất hiện. Con gái bao giờ cũng đi trước con trai
theo mọi cách; ngay cả trong vấn đề này chúng cũng
trước một năm.
Và một khi cái chết lắng đọng trong bạn, nó giết
bạn dần dần. Không phải là bạn chết bất thần khi bạn
bẩy mươi hay tám mươi; đó chỉ là hoàn thành của quá
trình đã bắt đầu ở tuổi ba hay bốn. Bạn có bao giờ để
ý sự kiện là nếu bạn cố gắng nhớ lùi lại bạn không thể
vượt qua được rào chắn của tuổi ba không? Nhiều
nhất bạn có thể nhớ khi bạn được ba tuổi; bên ngoài
điều đó tất cả là khoảng trống. Tại sao? Bạn đã ở đây,
chắc chắn, và ba năm đó đã không trống chút nào;
thực tế chúng đầy kinh nghiệm hơn bất kì năm nào
khác của cuộc đời bạn đã từng trải qua. Từng khoảnh
khắc đều đầy kinh nghiệm. Bạn thường xuyên thám
hiểm cuộc sống, con người, mọi thứ; bạn thường
xuyên trong truy tìm.
Trong một đại học họ làm một thực nghiệm. Thực
nghiệm này là... ở chỗ trẻ con dường như tích cực thế
- chúng lấy nhiều năng lượng thế từ đâu? Thân thể
chúng nhỏ thế và thân thể chúng tinh tế thế - chúng
hệt như hoa, mảnh mai - nhưng chúng dường như
nhiều năng lượng thế, sống động thế, tuôn trào với
năng lượng. Chúng lấy nhiều năng lượng thế từ đâu?
Cho nên họ thử một thực nghiệm. Họ thu xếp rằng
một người rất lực lưỡng sẽ theo đứa bé, và người đó
làm đích xác bất kì cái gì đứa trẻ làm. Và họ sẽ trả
tiền cho anh ta; bất kì cái gì anh ta muốn họ đều sẽ trả
cho anh ta. Anh ta thực sự là người to lớn, lực sĩ, lực
sĩ nổi tiếng, cho nên anh ta không lo nghĩ gì về việc
theo đứa trẻ. Đứa trẻ có thể làm được gì? Nhưng
trong vòng bốn giờ anh ta nằm dài trên đất, bởi vì một
khi đứa trẻ biết rằng anh ta bắt chước nó, đứa trẻ nhảy
và đứa trẻ chạy và đứa trẻ lăn lộn trên sàn và đứa trẻ
cười om sòm.... Và đứa trẻ làm nhiều điều tới mức
anh lực sĩ, trong vòng bốn giờ, bị kết thúc!
Anh ta nói, "Chưa bao giờ trong đời mình tôi bị
mệt thế. Tôi đã đánh nhau cả đời, tôi đã đánh trong
những cuộc đánh nhau lớn, tôi bao giờ cũng là người
thắng. Đây là thất bại đầu tiên của tôi!"
Và đứa trẻ nhỏ đó không mệt chút nào; nó vẫn sẵn
sàng, nó vẫn thách thức người này. Nó nói, "Chú lại
đây! Chúng ta có thêm chút trò vui! Chú kết thúc rồi
à? Sao chú nằm dài ra đất thế?"
Mọi đứa trẻ được sinh ra với năng lượng lớn thế,
nhưng chúng ta phá huỷ nó. Chúng ta làm tê liệt mọi
đứa trẻ, chúng ta làm què mọi đứa trẻ. Và nhà thờ và
đền chùa của chúng ta đã làm điều sai nhất cho nhân
loại. Họ là tội nhân lớn nhất trên thế giới, họ là tội
nhân thực sự. Họ đã phạm tội chống nhân loại - họ đã
làm tê liệt mọi con người. Bạn không biết bạn sẽ là gì
nếu bạn được phép tự do toàn bộ từ chính lúc ban đầu
- nếu tiếng cười của bạn được tự do, tình yêu của bạn
được tự do, niềm vui của bạn được tự do, và bạn
không bị cản trở, bị can thiệp, bị bóp méo, bị thao
túng, bị ép buộc, bị đổi kênh theo hướng nào đó....
Không đứa trẻ nào quan tâm tới tiền, bởi vì không
đứa trẻ nào ngu xuẩn cả. Không đứa trẻ nào quan tâm
tới là tổng thống một nước hay thủ tướng, bởi vì
không đứa trẻ nào ngu thế. Mối quan tâm của nó tự
nhiên hơn nhiều. Nó quan tâm tới hoa, nó quan tâm
tới bướm, nó quan tâm tới đá cuội trên bãi biển. Nó
quan tâm tới nhảy múa dưới sao, nhảy múa dưới mặt
trời, nhảy múa trong gió. Nó quan tâm tới trèo cây
hay leo núi. Nó quan tâm tới bơi sông hay đi vào
trong đại dương.
Quan tâm của nó là hoàn toàn khác, nhưng chúng
ta làm chệch mọi năng lượng của nó. Chúng ta nói,
"Không cần trèo cây, không cần leo núi. Leo thang
thành công ấy!" - điều là quá trình tuyệt đối tầm
thường, điều là quá trình tuyệt đối không thông minh.
"Leo thang thành công. Giầu có hơn người khác.
Cạnh tranh. Ghen tị. Sở hữu. Tranh đấu!" - tranh đấu
vì những điều vô nghĩa. Thế thì bạn đánh mất niềm
vui của mình, thế thì bạn đánh mất tiếng cười của
mình. Thế thì cuộc sống dường như giống ác mộng
hơn là giống chuyện đùa hay.
Vimalkirti, nó là chuyện đùa vũ trụ đấy.
Và tầm nhìn của tôi là ở chỗ tính tôn giáo tương
lai nhất định được bắt rễ nhiều trong cuộc sống hơn là
trong cái chết, nhiều trong tiếng cười hơn là trong
buồn bã, nhiều nhảy múa hơn trong kéo lê cuộc sống
của bạn.
#8Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Tại sao, mặc cho các dáng vẻ, trống rỗng là hiển
nhiên hơn là hình dạng, tâm thức hiển nhiên hơn
ý nghĩ, im lặng hiển nhiên hơn lời?
Deva Bruce, trống rỗng là cội nguồn của mọi hình
dạng. Trống rỗng là vĩnh hằng, hình dạng là nhất thời.
Hình dạng giống như gợn sóng trong hồ, trống rỗng là
bản thân hồ. Hình dạng tới và đi, trống rỗng còn lại.
Hình dạng chỉ là dáng vẻ, trống rỗng là thực tại.
Do đó Phật gọi thực tại là shunya. Shunya nghĩa
là trống rỗng tối thượng. Vâng, nó còn hiển nhiên hơn
nhiều so với cái gọi là vật thực của bạn, bởi vì những
vật thực này tới từ trống rỗng và sẽ quay trở lại với
trống rỗng. Trống rỗng là cội nguồn và mục đích. Mọi
thứ đều bắt nguồn từ cái không và biến mất trở lại
trong cái không.
Do đó, nhớ lấy, cái không không có nghĩa là nó là
không có gì; cái không đơn giản nghĩa là nó là tất cả.
Cái không nghĩa là "không-vật gì." Mọi vật đều có
hình dạng; cái không là năng lượng vô hình dạng. Nó
có thể biểu lộ trong hàng triệu hình dạng, và nó chỉ có
thể biểu lộ trong hàng triệu hình dạng bởi vì nó không
có hình dạng nào của riêng nó. Nó là linh động, nó
sẵn có cho bất kì hình dạng nào, nó không chống đối
lại bất kì hình dạng nào. Nó có thể diễn đạt bản thân
nó theo hàng triệu cách bởi vì nó không có ám ảnh, nó
không có cố định. Nó có thể nở như hoa hồng, nó có
thể nở như hoa sen. Nó có thể là bài ca, nó có thể là
điệu vũ, nó có thể là im lặng. Tất cả đều có thể bởi vì
cái không đơn giản nghĩa là không hình dạng nào đã
được lấy. Một khi hình dạng được lấy, mọi sự trở nên
bị giới hạn, các phương án trở nên bị giới hạn. Một
khi hình dạng được lấy bạn không còn tự do toàn bộ;
hình dạng của bạn trở thành tù túng của bạn. Do đó,
thiền là lối vào trong cái không.
Tôn giáo phương Tây đã bỏ lỡ trọn vẹn vấn đề
này. Ngay cả Thượng đế của họ cũng có hình dạng;
Thượng đế không thể có hình dạng được. Cho
Thượng đế một hình dạng là lấy con người làm trung
tâm, nó là phóng chiếu hình dạng riêng của chúng lên
Thượng đế.
Nếu ngựa mà là triết gia - và ai biết được, vài con
ngựa có thể là triết gia chứ - thế thì Thượng đế sẽ là
ngựa, ngựa đẹp, với tất cả các phẩm chất lớn của
ngựa. Ngựa không thể nghĩ về Thượng đế như con
người được, không thể được. Con người đã không tốt
với ngựa chút nào. Chúng có thể nghĩ về quỉ là con
người, nhưng không nghĩ Thượng đế là con người
được. Con người nghĩ Thượng đế là con người.
Kinh Thánh nói Thượng đế tạo ra con người theo
hình ảnh riêng của ngài. Chân lí là chính điều ngược
lại: con người tạo ra Thượng đế theo hình ảnh riêng
của mình. Do đó người da đen sẽ có hình dạng người
da đen, Thượng đế của người Hindu sẽ có hình dạng
người Hindu, Thượng đế của người Trung Quốc sẽ có
hình dạng người Trung Quốc. Thượng đế Trung Quốc
không thể có hình dạng Hindu được; không thể được.
Người Trung Quốc không thể nghĩ được rằng Thượng
đế có thể có hình dạng khác hơn người Trung Quốc -
tất nhiên, hình dạng Trung Quốc đẹp nhất, nhưng nó
sẽ là người Trung Quốc. Đây là ý tưởng của chúng ta
được phóng chiếu lên Thượng đế.
Thượng đế không phải là hình dạng, Thượng đế là
vô hình dạng. Thượng đế là cái không tuyệt đối,
Thượng đế là trống rỗng toàn bộ. Từ cái trống rỗng đó
mọi thứ nảy sinh - cây cối, người, núi non, đất, sao,
sáng tạo. Chúng tới, với thời gian hiện hữu chúng có
đó, và thế rồi chúng lại biến mất vào trong trống rỗng
tối thượng. Đó là cái bắt đầu và cái kết thúc; cái trống
rỗng là trước cái bắt đầu và sau cái kết thúc. Phật gọi
nó là cõi bên kia, cõi bên kia tối thượng, bên kia cõi
bên kia.
Bạn hỏi tôi, Bruce, "Tại sao, mặc cho các dáng vẻ,
trống rỗng là hiển nhiên hơn là hình dạng, tâm thức
hiển nhiên hơn ý nghĩ, im lặng hiển nhiên hơn lời?"
Tâm thức là Thượng đế bởi vì tâm thức là cái
không. Ý nghĩ là thế giới; do đó Phật gọi tâm trí là
"thế giới." Khoảng khắc ý nghĩ xuất hiện, con sóng đã
nảy sinh trong hồ tâm thức, hình dạng đã nảy sinh, và
hình dạng này là tạm thời, khoảnh khắc. Chẳng mấy
chốc nó sẽ biến mất; nó sẽ không kéo dài, nó không
vĩnh hằng. Đừng níu bám lấy nó. Quan sát nó vào và
quan sát nó ra. Quan sát nó nảy sinh và quan sát nó
biến mất, nhưng không níu bám lấy nó. Nhớ tâm thức,
trong đó nó nảy sinh và trong đó nó lại tan biến đi. Đó
là thực tại của bạn, đó là chân lí của bạn. Ý nghĩ có
thể tốt, ý nghĩ có thể xấu, nhưng tốt hay xấu không
tạo ra khác biệt. Ý nghĩ là ý nghĩ; nó không vĩnh hằng
- và đó là tiêu chí duy nhất của thực tại.
Đó là cách các nhà huyền môn bao giờ cũng phán
xét thực tại: bất kì cái gì vĩnh hằng đều là thực và bất
kì cái gì tạm thời đều chỉ là hiện tượng mơ. Không có
khác biệt giữa mơ bạn thấy trong đêm và mơ bạn thấy
trong ngày, mơ bạn thấy bằng mắt nhắm và mơ bạn
thấy bằng mắt mở. Vâng, có chút ít khác biệt: một
đằng mơ là tuyệt đối riêng tư. Trong đêm với mắt
nhắm bạn thấy mơ riêng tư; ban ngày với mắt mở bạn
thấy mơ tập thể, mơ khách quan. Có nhiều người
tham dự trong nó, do đó nó cho bạn cảm giác dường
như nó là thực. Nó không phải vậy. Điều gì xảy ra khi
bạn rơi vào giấc ngủ? Bạn quên tất cả về ngày.
Người ta nói về Trang Tử rằng một sáng ông ấy
thức dậy và bắt đầu cười to. Đệ tử của ông ấy tụ tập
lại và họ hỏi, "Có chuyện gì vậy?"
Trang Tử nói, "Ta bắt gặp một vấn đề ta không
thể giải quyết được. Giúp ta giải nó đi."
Đó là lần đầu tiên ông ấy yêu cầu các đệ tử của
mình giúp giải quyết vấn đề. Ngoài ra ông ấy bao giờ
cũng giải quyết các vấn đề của họ.
Các đệ tử nói, "Nó phải là vấn đề thực sự lớn lao,
phức tạp - thầy kể cho chúng tôi đi."
Ông ấy nói, "Vấn đề đơn giản thôi, nhưng theo
một cách nào đó nó rất phức tạp - và ta không nghĩ nó
có thể được giải quyết, nó dường như là không thể
giải được. Đó là lí do tại sao ta cười. Ta đã nhìn vào
nó từ mọi phía; nó dường như tuyệt đối không thể giải
được. Vấn đề là, trong đêm ta mơ rằng ta đã trở thành
bướm."
Các đệ tử nói, "Thế chẳng là gì cả. Chúng tôi tất
cả đều mơ đủ mọi thứ - mơ là mơ thôi. Bây giờ thầy
thức mơ được kết thúc rồi. Sao lại làm om sòm lên về
mơ?"
Ông ấy nói, "Ta không làm om sòm mấy về mơ
đâu. Vấn đề là: nếu Trang Tử có thể mơ rằng ông ấy
là bướm - bây giờ vấn đề nảy sinh - bướm có thể đã
rơi vào giấc ngủ và mơ rằng nó là Trang Tử! Bây giờ
cái gì là cái gì? Ta Trang Tử đã mơ về bướm hay ta
bướm đang mơ là Trang Tử?"
Thực tế không có khác biệt gì. Bướm cũng là một
hình dạng và Trang Tử cũng là một hình dạng. Hình
dạng này nảy sinh khi bạn ngủ, hình dạng khác nảy
sinh khi bạn thức, nhưng cả hai đều là hình dạng.
Trang Tử không là cả hai - ông ấy không là bướm
không là Trang Tử. Ông ấy là tâm thức, ông ấy là
nhận biết; nhận biết về giấc mơ, nhận biết về bướm và
Trang Tử. Ông ấy là nhận biết đó. Và nhận biết đó
còn thực hơn nhiều, thực tế là thực tại duy nhất. Vô ý
nghĩ là thực.
Và cùng điều đó là đúng với im lặng. Lời nảy sinh
trong cái hồ của im lặng, lời hay, nhưng chúng chỉ là
hình dạng. Do đó mới có nhấn mạnh của mọi nhà
huyền môn: chuyển từ lời sang vô lời, chuyển từ âm
thanh sang im lặng, chuyển từ hình dạng sang vô hình
dạng, chuyển từ ý nghĩ sang tâm thức. Đừng bị vướng
mắc với hình dạng, ý nghĩ, lời. Đó là điều thiền tất cả
là gì.
Đừng bị đồng nhất với tất cả những cái nảy sinh
trong bạn và biến mất. Vẫn còn được định tâm trong
cái không bao giờ xuất hiện và không bao giờ biến
mất, cái bao giờ cũng có đó. Vẫn còn được định tâm
trong thực tại kéo dài của bản thể bạn, và bạn sẽ biết
phúc lạc lớn nhất có thể có và bạn sẽ biết chân lí giải
thoát. Bạn sẽ biết tự do khỏi mọi hình dạng - bởi vì
mọi hình dạng đều tạo ra tù túng. Bạn sẽ biết bạn
không là đàn ông không là đàn bà, không da trắng
không da đen, không thế này không thế nọ - neti, neti.
Bạn sẽ biết rằng bạn là nhận biết thuần khiết, cái
không có tên, không có hình dạng.
Đó là điều Phật nói: Ông không có hình dạng nào
và ông không có tên nào. Đừng khao khát cái mà bạn
không là, bởi vì khao khát cái bạn không là tức là
đang tạo ra khổ cho bản thân bạn, là đang tạo ra đau
không cần thiết cho bản thân bạn. Cứ là cái bạn đang
là và bao giờ cũng là và bao giờ cũng sẽ là vậy. Đừng
cố trở thành - hiện hữu đi! Và bạn đã là cái đó. Vấn
đề không phải là trở thành, vấn đề không phải là ham
muốn, vấn đề không phải là đạt tới đâu đó. Bạn đã ở
đó rồi, bạn bao giờ cũng đã ở đó rồi. Chỉ thức dậy
thôi! Thức dậy từ giấc mơ, mọi giấc mơ - mơ đêm,
mơ ngày. Thức dậy từ mọi hình dạng và cư ngụ trong
cái vô hình dạng.
Và tất cả những người đã thức tỉnh đều nói cùng
một điều: Biết cái vô hình dạng đó, biết cái vĩnh hằng
đó, cuộc sống của bạn được hoàn thành. Bạn sẽ đạt
tới mãn nguyện vô cùng và phúc lạc và phúc lành.
#8Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi là người Hi Lạp và tôi thích tỏi. Bạn gái của
tôi không thể chịu được điều đó, cô ấy là người
Anh, cô ấy gọi tôi là nguyên thuỷ. Cái gì sai với
tôi?
Devo, chẳng cái gì sai với bạn cả, chẳng cái gì sai
với tỏi nữa, nhưng tỏi sẽ tạo ra vài vấn đề cho bạn. Và
vấn đề mà bạn đã bắt gặp không thực là vấn đề lớn
đâu; chẳng mấy chốc bạn sẽ phải đối diện với những
vấn đề lớn hơn. Quí bà Anh nhiều nhất có thể bỏ bạn;
điều đó không phải là vấn đề - điều đó sẽ là thoát ra
khỏi vấn đề đấy!
Tìm người đàn bà nào đó - tự do với quí bà đi!
Đàn bà là đẹp, quí bà là vấn đề. Và rất khó tìm được
đàn bà Anh - tôi chưa bắt gặp người nào. Họ tất cả
đều là quí bà. Đàn ông có thể không phải tất cả đều là
chúa tể, nhưng đàn bà tất cả đều là quí bà.
Một người Anh và vợ của anh ta đi dạo quanh
mảnh đất Tây Ấn của họ thì họ bắt gặp một cô và cậu
da đen đang làm tình trong bụi rậm.
"Chao ôi!" quí bà người Anh kêu lên với chồng
mình. "Họ làm điều đó hệt như con người!"
Nếu cô ấy nghĩ bạn là người nguyên thuỷ, điều đó
không là gì cả - ít nhất cô ấy cũng nghĩ bạn là người
rồi! Hay có thể cô ấy không nghĩ rằng bạn là người,
nhưng cô ấy không thể nói ra điều đó được. Thật quá
vô lễ để nói với bạn rằng bạn không là con người cho
nên cô ấy nói với bạn rằng bạn là người nguyên thuỷ.
Điều đó không phải là nguy hiểm lớn - nhiều nhất quí
bà này sẽ rời bỏ bạn. Bạn tiếp tục ăn tỏi. Nếu có chọn
lựa giữa quí bà Anh và tỏi, ưa thích tỏi hơn đi; nó còn
lành mạnh hơn nhiều. Nhưng vấn đề thực sẽ tới về
sau - một khi quí bà Anh đã rời bỏ bạn, thế thì bạn sẽ
bị rắc rối.
Bạn có nghe nói về cô gái Gypsy đã bỏ đeo tỏi
quanh cổ cô ấy không?
Nó giữ cho ma cà rồng tránh xa, nhưng nó hấp
dẫn quá nhiều người Italy.
Cho nên nếu bạn muốn vứt bỏ tỏi, vứt nó đi khi
quí bà Anh đã rời bỏ bạn; trong khi còn quí bà, cô ấy
sẽ bảo vệ bạn khỏi người Italy. Mọi đàn ông đền cần
đàn bà như thứ bảo vệ; bằng không anh ta bất lực thế.
Một khi người đàn bà khác thấy rằng một người đàn
bà đang bảo vệ bạn họ không bận tâm tới bạn.
Khoảnh khắc họ thấy bạn không được bảo vệ họ tất cả
nhảy lên bạn đấy!
Cho nên đầu tiên dùng tỏi để gạt bỏ quí bà Anh,
thế rồi lập tức thôi dùng tỏi; bằng không người Italy
sẽ bắt đầu tới. Và dễ dàng gạt bỏ quí bà Anh; tiếp đó
thì không thể nào gạt bỏ được đàn bà Italy bởi vì họ
không phải là quí bà. Họ là đàn bà thực và họ sẽ tạo
ra nhiều rắc rối cho bạn. Họ giúp chỉ trong một điều:
họ làm cho bạn nhận biết nhiều thế về rắc rối mà tình
yêu đem lại, hay cái tới trong việc thức dậy của tình
yêu, rằng bạn bắt đầu nghĩ tới tôn giáo, Thượng đế,
thiền. Tất cả những điều lớn lao này sẽ không có thể
được nếu không có đàn bà. Những người bắt đầu nghĩ
về tất cả những điều lớn lao này đều là những người
đã bị đàn bà hành hạ. Đây là chỗ trốn của họ, những
con đường trốn chạy, để cho họ có thể dung thứ được
bất kì cái gì đang xảy ra xung quanh. Họ có thể hi
vọng về thiên đường ở đâu đó sau cái chết. Họ mất tất
cả hi vọng trong cuộc sống bởi vì họ biết bất kì chỗ
nào họ tới đàn bà nào đó cũng sẽ tạo ra rắc rối cho họ.
Dường như Thượng đế làm ra đàn ông một mình
trước nhất. Ngài đã làm ra Adam, nhưng nếu đàn ông
mà một mình ở đây anh ta sẽ không bao giờ nghĩ tới
Thượng đế. Ngài đã làm ra đàn bà - đàn bà là người
nhắc nhở thường xuyên. Cô ấy không bao giờ để bạn
yên, cô ấy buộc bạn tin vào địa ngục. Và một khi bạn
tin vào địa ngục bạn phải tin vào cõi trời nữa.
Devo, chẳng cái gì sai với bạn, nhưng nếu bạn
muốn sống với tỏi, bạn phải từ bỏ cuộc sống. Quí bà
Anh có thể đúng theo nghĩa: bạn phải là người
nguyên thuỷ, bạn phải đi vào hang động, xa khỏi nhân
loại nhất có thể được. Tỏi đơn giản là nguy hiểm cho
bất kì giao cảm nào, cho bất kì trao đổi nào. Nó rất
mang tính thuốc; nó sẽ giữ bạn mạnh khoẻ và nó sẽ
giữ bạn sống lâu hơn bạn sống nếu không có nó. Hay
có thể bởi vì bạn sẽ phải sống một mình nên cuộc
sống của bạn sẽ có vẻ dài hơn!
Nếu bạn muốn thêm lời khuyên về tỏi bạn có thể
hỏi Maitreya - anh ấy là chuyên gia về tỏi và mọi
phẩm chất lớn lao của nó. Tôi chưa bao giờ nếm nó
cả, cho nên bất kì điều gì tôi nói cũng không thật tin
cậy mấy. Và tôi chưa bao giờ cho phép bất kì người
nguyên thuỷ nào ở gần tôi. Bạn biết người hít ma tuý
của tôi đấy! Không người nào ăn tỏi đã bao giờ có
khả năng tới gần tôi! Tỏi là tốt nhưng có chút ít vô
nhân: nó là tốt cho bạn, nhưng xấu cho mọi người
khác.
#8Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Hồn nhiên trong người lớn có thể xảy ra mà
không có nhận biết không?
Anand Manuel, không thể nào có chuyện hồn
nhiên xảy ra cho người lớn mà không có nhận biết.
Nhận biết chỉ là phương pháp có thể giúp bạn phá huỷ
tất cả các ước định mà xã hội đã áp đặt lên bạn. Xã
hội đã thôi miên bạn, nhưng thôi miên được thực hiện
theo cách tinh vi, trong thời gian lâu thế, và nó bắt
đầu khi bạn còn nhỏ tới mức bạn chưa bao giờ trở nên
nhận biết về nó. Bạn bị thôi miên bằng sữa của mẹ
bạn, bạn được cho đủ mọi loại ước định, và những
ước định đó phá huỷ hồn nhiên của bạn.
Chừng nào bạn còn chưa trở nên nhận biết, bạn sẽ
không có khả năng thấy rằng bạn là con người bị ước
định, rằng bạn đang sống với các ý tưởng vay mượn -
ý tưởng đã từng bị người khác áp đặt lên bạn chống
lại ý chí của bạn - rằng bạn gần như là tù nhân. Không
phải là bạn sống trong tù, mà bạn sống trong ý thức
hệ, cái chính là nhà tù tinh vi. Bạn là người Hindu -
làm sao bạn có thể hồn nhiên được? Bạn là người Ki
tô giáo - làm sao bạn có thể hồn nhiên được? Ý thức
hệ giữ bạn xa khỏi hồn nhiên; nó làm cho bạn thông
thái, và tính thông thái là điều duy nhất phá huỷ hồn
nhiên. Nó tước mọi ngạc nhiên khỏi bạn.
Có hàng triệu người không cảm thấy ngạc nhiên
gì trong cuộc sống. Họ sẽ thấy hoa hồng và vậy mà họ
sẽ không thấy gì cả - không cái đẹp, không kính nể.
Họ thậm chí sẽ không dừng lại một khoảnh khắc. Hoa
hồng dường như không có thông điệp nào cho họ, cứ
dường như họ đã không nhìn thấy nó chút nào.
Mọi ngày bạn đi qua cây đẹp, chim hót trong ánh
mặt trời buổi sáng sớm, hoa toả ra hương thơm,
nhưng bạn như robot. Bạn cứ huyên thuyên bên trong
tâm trí mình, chuyện này chuyện nọ... bạn cứ nói mãi
nói hoài. Và điều bạn huyên thuyên bên trong đã bị
đặt vào trong bạn. Tâm trí bạn đã bị dùng như chiếc
máy tính: hệt như họ nạp vào máy tính, họ đã nạp vào
bạn.
Ở nước Nga cộng sản họ sẽ nạp vào bạn chủ
nghĩa cộng sản. Họ cũng sẽ dạy bạn ba ngôi thiêng
liêng, ba ngôi thiêng liêng của riêng họ. Họ sẽ dạy
bạn Kinh Thánh riêng của họ, họ sẽ dạy bạn tôn giáo
riêng của họ. Chủ nghĩa cộng sản là tôn giáo, cái thay
thế cho các tôn giáo khác. Marx, Engels, Lenin, đó là
ba ngôi của họ; Das Kapital là Kinh Thánh của họ. Và
họ tin vào tất cả những điều này cuồng tín như bất kì
người Cơ đốc giáo nào, bất kì người Hindu nào, bất kì
người Mô ha mét giáo nào. Người Mô ha mét giáo tin
vào Kaaba và người cộng sản tin vào Kremlin. Đối
tượng khác nhau, nhưng niềm tin có đó. Cả hai đều
thông thái, cả hai đều đã đánh mất sự thuần khiết của
họ, sự hồn nhiên của họ, phẩm chất như trẻ con của
họ.
Một khi bạn đầy tri thức bạn nghĩ bạn biết tất cả
mọi câu trả lời. Bạn không biết gì bởi vì chừng nào
bạn còn chưa biết tới bản thân mình, chẳng cái gì
được biết tới cả. Và cái đẹp của việc tự biết mình là ở
chỗ nó làm sâu sắc hơn điều bí ẩn của cuộc sống, nó
không giải bí ẩn đi; nó làm cho bí còn bí ẩn hơn, nó
làm cho bí ẩn còn huyền bí hơn. Con người của trí
huệ, người đã đào sâu vào trong tâm thức của riêng
mình, trở nên ngày một đầy những ngạc nhiên và kính
nể. Nhưng người thông thái bình thường sống trong
vô nhận biết tuyệt đối; không cái gì làm cho người đó
ngạc nhiên. Người đó biết mọi câu trả lời.
Một gã bước vào một nhà hàng và gọi miếng bít
tết.
"Ông muốn nấu nó như thế nào?" người phục vụ
hỏi.
"Tôi muốn nó nấu chín, có anh đào nghiền rắc lên
trên. Rồi cho một chút nước cà chua ướp lên nó và rắc
vào nó hạt tiêu."
Người phục vụ đem thức ăn lên.
"Ông có thích bữa tối này không?" người phục vụ
hỏi khi nó vừa ăn xong.
"Ngon lắm," gã đáp. "Nhân tiện, anh có nghĩ đây
là món rất kì quặc không?"
"Không," người phục vụ đáp, "tôi thích món bít
tết theo cùng cách mà."
Người phục vụ biết quá nhiều về bít tết - anh ta
không nhìn vào gã này chút nào.
Đã hai giờ sáng mà Gedalia kẻ trộm vẫn đang cố
phá vào nhà. Anh ta thử mọi cửa và cửa sổ nhưng anh
ta không thể cạy được cửa nào mở ra. Một cách thận
trọng anh ta trèo lên ban công tầng hai. Nhòm qua cửa
sổ đã khó, anh ta thấy một đứa bé mới sinh đang nằm
trong cũi. Đến lúc này anh ta hoàn toàn thất vọng nên
anh ta quyết định tranh thủ sự giúp đỡ của đứa nhỏ.
"Hu-hu, bé con," anh ta gọi một cách dịu dàng.
"Bé tí này ê ê, đi ra mở cửa sổ cho bác yêu đi?"
"Mở cửa sổ à?" đứa bé la lên. "Sao bác ngu thế,
cháu thậm chí chưa thể bước đi được!"
Đứa trẻ con không thể bước đi được, nhưng nó đã
trở nên thông thái, nó có thể nói.
Bạn có tất cả để trở nên thông thái. Bạn không
biết gì và vậy mà bạn đầy tri thức. Tri thức của bạn
đơn giản bao phủ dốt nát của bạn, nó không làm cho
bạn trí huệ. Nó đơn giản làm cho ngu xuẩn của bạn
được trang điểm thêm chút ít, được đánh bóng thêm
chút ít.
Một thanh niên có vấn đề đi tới khám bác sĩ. Bác
sĩ bảo anh ta cởi quần áo ra để khám, rồi nói, "À, anh
có sáp nến da cam trong rốn phải không? - tôi biết về
vấn đề này rồi. Mới hôm nọ một cô gái tới gặp tôi; cô
ấy cũng có sáp trong rốn - bởi vì bạn trai của cô ấy
thích ăn với ánh sáng nến. Bạn gái của anh cũng thích
ăn với ánh sáng nến phải không?"
"Không," người này nói, "cô ấy cần nến để tìm
nó."
Cứ nhìn và mọi sự, đừng đem tri thức của bạn
vào, và bạn có thể bao giờ cũng trong ngạc nhiên.
Bạn hỏi tôi, "Hồn nhiên không thể xảy ra trong
người lớn mà không có nhận biết sao?"
Điều đó là không thể được. Bắt đầu của hồn nhiên
trong người lớn là nhận biết rằng bạn bị ước định.
Hàng triệu người không nhận biết rằng họ bị ước
định. Nếu bạn không biết rằng bạn đang trong tù, sao
bạn phải cố thoát ra khỏi nó ngay chỗ đầu tiên?
Mới hôm nọ tôi bắt gặp một tờ báo. Biên tập viên
tờ báo đó phải đã ở đây, anh ấy phải đã nghe một
trong các bài nói của tôi. Anh ấy bình luận rằng bất kì
điều gì tôi nói cũng đều chống lại văn hoá Ấn Độ - cứ
dường như điều đó là đủ để phê phán tôi, rằng điều đó
là chống lại văn hoá Ấn Độ! Anh ấy coi như hiển
nhiên rằng bất kì cái gì chống lại văn hoá Ấn Độ đều
nhất định sai. Nhưng ai đã nói rằng tôi không chống
lại văn hoá Ấn Độ? Tôi chống lại tất cả các thứ mục
ruỗng - Ấn Độ, không Ấn Độ, chả tạo khác biệt gì!
Tôi chống lại chính ý tưởng về văn hoá Ấn Độ và văn
hoá Trung Quốc và văn hoá Nhật Bản. Tôi chống lại
chính ý tưởng về phân chia nhân loại và tôi chống lại
quá khứ. Tôi không ở đây để hỗ trợ cho văn hoá Ấn
Độ. Cho nên đó không phải là phê bình tôi - thực tế
đó là ca tụng!
Tôi chống lại tất cả những cái mà chết. Người ta
không nên mang xác chết mãi mãi, chúng nên được
đem chôn hay thiêu. Tôi không tin vào bất kì văn hoá
nào và tôi không tin vào bất kì nước nào và tôi không
tin vào bất kì nòi giống nào và tôi không tin vào bất kì
tôn giáo nào.
Tôi tin vào tính tôn giáo, tôi tin vào tính có văn
hoá, tôi tin vào nhân loại. Nhưng nhân loại không
phải là người Ấn Độ, tính tôn giáo không phải là Ki tô
giáo hay Hindu hay Mô ha mét giáo, tính có văn hoá
chẳng liên quan gì tới bất kì nước nào. Nó là ân huệ
tới qua thiền, qua nhận biết. Nó là cái đẹp xảy ra cho
bạn khi bạn trở nên được bắt rễ trong tâm thức của
mình, khi bạn được lắng đọng trong tâm thức của
mình, khi không cái gì có thể làm sao lãng bạn khỏi
tâm thức của mình.
Vâng, mọi người đều phải lại trở thành đứa trẻ lần
nữa, nhưng làm sao người đó sẽ trở thành đứa trẻ lần
nữa? Ngoại trừ qua việc trở nên nhận biết không có
cách nào khác. Đầu tiên, trở nên nhận biết về các ước
định của bạn - và có cả nghìn lẻ một tầng ước định -
và khi bạn nhận biết, thế thì dần dần, dần dần tự mình
thoát khỏi mọi ước định. Vứt bỏ các ước định đó, trở
nên được giải thôi miên, cho nên không tầng bụi nào
còn lại trên tấm gương của bản thể bạn. Khi không có
tầng bụi nào trên tấm gương của bản thể bạn, bạn sẽ
có khả năng phản xạ cái đang đó - và đó là Thượng đế
và đó là chân lí và đó là niết bàn.
Nhưng bạn đang hỏi câu hỏi này để cho bạn có
thể né tránh nhận biết. Bạn muốn tìm lối tắt nào đó tới
hồn nhiên. Không có lối tắt; nhận biết không thể bị né
tránh. Nhận biết là phương pháp duy nhất - để tôi
nhắc lại, phương pháp duy nhất - điều có thể cắt đi từ
chính gốc rễ mọi ước định và có thể làm cho bạn tự
do khỏi nhà tù bạn đang sống trong đó. Và chính vấn
đề duy nhất là ngày càng trở nên nhận biết hơn;
không cái gì khác có thể giúp bạn được. Tôi không
thể làm được điều đó cho bạn, không ai khác có thể
làm điều đó được cho bạn. Nếu ai đó khác làm điều
đó cho bạn, bạn sẽ bị tái ước định lần nữa. Nhớ lấy
điều đó, bạn phải được giải ước định, không bị tái ước
định. Đó là điều đang xảy ra: người Ki tô giáo trở
thành người Hindu; tất nhiên người đó trở nên được
giải ước định như người Ki tô giáo, nhưng người đó
trở nên bị tái ước định như người Hindu.
Nỗ lực của tôi ở đây là để giải ước định cho bạn,
để giúp bạn được giải ước định, và không tái ước định
bạn lần nữa. Nỗ lực của tôi là để cho bạn trong tự do
toàn bộ; thế thì bạn phải quyết định làm gì cho cuộc
sống của bạn. Bạn là người chủ cuộc sống của mình;
tôi có thể đơn giản cho bạn vài chỉ dẫn về cách gạt bỏ
tất cả những cái vô nghĩa đã từng bị áp đặt lên bạn.
Một khi bạn tự do với mọi cái vô nghĩa đó, tôi sẽ
không cho bạn bất kì chỉ dẫn khẳng định nào về cái gì
phải làm hay cái gì không làm, bởi vì điều đó sẽ là tái
ước định lần nữa.
Cho nên nhận biết sẽ giúp bạn theo hai cách: thứ
nhất nó sẽ giúp bạn trở nên được giải ước định và thế
rồi nó sẽ giúp cho bạn tìm ra cách thức và phương
tiện để sống cuộc sống của bạn. Nó sẽ là cách duy
nhất để giải ước định và cách duy nhất để tìm ra
phong cách sống mới, tầm nhìn mới về cuộc sống.
#8Câu hỏi thứ năm:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi chẳng mấy chốc sẽ rời đi trên cuộc hành trình
với Radha. Trước khi nghe nói về kinh nghiệm du
hành của thầy với cô ấy tôi cảm thấy tự tin và an
toàn về hành lí của chúng tôi, nhưng bây giờ thầy
có cho rằng tôi cần Sarjano cũng cùng đi với
chúng tôi không?
Anand Amito, không, dứt khoát không! Sarjano
có thể giúp cứu hộp và túi của bạn, nhưng về Radha
thì sao? Radha sẽ bị nguy hiểm. Tốt hơn cả là cứ mạo
hiểm va li đi - bạn sẽ không có khả năng cứu Radha
khỏi Sarjano. Tránh Sarjano ta, cho dù anh ấy muốn
tới. Chắc chắn anh ấy sẽ giúp bạn cứu va li, nhưng
Radha sẽ đi đời.
Cho nên điều đó là tuỳ ở bạn. Nếu bạn quá gắn bó
với va li của mình, thế thì bạn có thể đem Sarjano đi
cùng bạn; ngoài ra, sự vụ đó sẽ không xảy ra mọi lần
đâu. Và nó là cuộc hành trình hư cấu mà tôi đã nói tới
- bạn đi cuộc hành trình thực. Trên cuộc hành trình
thực mọi sự như thế không xảy ra....
Câu hỏi thứ sáu:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy có thực biết người Italy không? Thế thì xin
nói cho tôi từ Italy nào dành cho tủ lạnh và cũng
từ Italy nào dành cho gái xinh.
Satyam, tôi không biết mấy về người Italy đâu,
nhưng tôi sẽ cố hết sức. Từ Italy cho tủ lạnh là 'hộp
đá-a', và từ Italy cho gái xinh là 'hộp xinh-a'!
Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Có hi vọng nào cho ai đó từ Mĩ không? Về người
tới từ California thì sao, nhưng là người Anh và
người Đức; có bố dượng người Scotland và mẹ
người Do Thái; trông như người Thuỵ Điển và
cảm giác như người Italy?
T.B.: Và sống với người Polack Do Thái Nga New
York!
Anupama, bạn hoàn toàn là đống lộn xộn! Chứng
ngộ là tuyệt đối chắc chắn!
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#9Tai hại làm sao!
Người chủ từ bỏ điều hại.
Người đó thanh thản.
Người đó bỏ lại mọi thứ đằng sau mình.
Người đó không xúc phạm
và người đó không cho điều đó.
Người đó không bao giờ lấy ác báo ác.
Chao ôi với người
giơ tay ra chống lại người khác,
và thậm chí nhiều hơn cho người đó
người nhận lại cú đánh.
Chống lại hoan lạc của cuộc sống
và ham muốn gây tổn thương -
cho tới khi nỗi buồn tan biến.
Đừng bao giờ xúc phạm
bởi điều ông nghĩ hay nói hay làm.
Kính trọng người thức tỉnh
và chỉ cho ông con đường.
Kính trọng ngọn lửa của hi sinh của người đó.
Tóc hoa râm hay gia đình hay đẳng cấp
không tạo ra người chủ
nhưng chân lí và lòng tốt
với điều đó người đó được ân huệ.
Tóc ông rối
và ông ngồi trên da hươu.
Ngu làm sao!
Khi bên trong ông phát rồ với thèm khát.
Quần áo của người chủ rách rưới.
Mạch của người đó lồi ra,
người đó ốm yếu gầy mòn.
Một mình trong rừng
Người đó ngồi và thiền.
Hank cưỡi ngựa đi qua vùng bãi thả súc vật, vừa
hát vừa kêu ư ử. Bỗng nhiên ngựa anh lồng lên và
dừng lại. Ở trước họ là một con rắn khổng lồ. Hank
rút súng ra và định bắn thì con rắn kêu lên, "Đừng
bắn! Nếu ông tha mạng tôi, tôi có quyền năng ban cho
ông ba điều ước tuỳ ý ông!"
"Được," Hank nói, hình dung ra mình chẳng có gì
mà mất. "Điều ước thứ nhất của ta là đẹp trai như
Paul Newman. Điều thứ hai ta muốn có thân thể cơ
bắp như Muhammad Ali. Và điều ước cuối cùng của
ta là được trang bị như con ngựa của ta đây!"
"Điều ước được ban!" con rắn nói. "Khi ông thức
dậy ngày mai ông sẽ có tất cả những điều này."
Sáng hôm say Hank thức dậy và chạy xô lại
gương. Chắc chắn, anh ta có khuôn mặt như Paul
Newman và thật sung sướng anh ta thấy đôi vai rộng
và cánh tay như Muhammad Ali. Thế rồi thoáng nhìn
xuống dưới trong kích động lớn anh ta buông ra tiếng
hú kinh hoàng, "Chết cha rồi, mình quên sạch!" anh ta
bập bẹ. "Hôm qua mình cưỡi con ngựa cái Nellie!"
Con người sống gần như trong một loại giấc ngủ
sâu. Người đó không nhận biết mình là ai, mình đang
làm gì, mình đang nghĩ gì, mình đang đi đâu, sao
mình đi. Cả đời người đó là đời của kẻ mộng du,
người vừa ngủ vừa đi. Người đó hoàn toàn vô ý thức.
từ vô ý thức này nảy sinh cả nghìn lẻ một điều tai hại;
không phải là người đó chủ ý muốn làm những điều
đó, người đó không thể tránh được chúng. Vấn đề
không phải là quyết định của người đó để dừng việc
gây hại; đó là vấn đề về nhận biết của người đó. Nếu
người đó nhận biết, điều tai hại biến mất như bóng tối
biến mất khi bạn đem ánh sáng vào. Nếu người đó
không nhận biết người đó có thể nghĩ mình đang làm
điều gì đó tốt, người đó có thể tin bằng cả trái tim
mình rằng mình đang làm điều gì đó tốt, nhưng người
đó sẽ làm cái gì đó tai hại. Ích lợi toàn bộ của cuộc
sống của người đó sẽ là hỗn độn nhiều hơn trên thế
giới.
Bạn có thể quan sát những người làm điều tốt: họ
tất cả đều cố gắng giúp đỡ, họ tất cả đều cố gắng phục
vụ; họ làm thành vấn đề là cả cuộc sống của họ phải
là cuộc sống phục vụ. Nhiều công bộc thế trên thế
giới, nhiều nhà truyền giáo thế, nhiều nhà cải cách xã
hội thế, nhiều nhà cách mạng vĩ đại thế - và nhìn vào
hình dạng thế giới đang trong đó. Nó có thể còn trong
đống lộn xộn hơn được không? Đây là kết quả của tất
cả những nỗ lực lớn lao của bạn, của tất cả các thánh
nhân vĩ đại của bạn. Cây được biết tới bởi quả, và mọi
tôn giáo của bạn và mọi thánh nhân của bạn và những
người linh thiêng chỉ có thể được biết tới bởi thế giới
mà họ đã giúp tạo ra. Nó là thế giới xấu nhất có thể
được.
Không phải là Thượng đế chịu trách nhiệm đâu -
Thượng đế đã làm ra một thế giới đẹp. Công trình của
ngài đẹp vô cùng: cây, hoa, sông, núi, sao. Nhưng thế
giới mà con người đã làm ra, cấu trúc xã hội mà con
người đã tạo ra tất cả đều xấu, bạo hành, tai hại hoàn
toàn. Nhưng mọi cái xấu có thể được làm nhân danh
cái tốt.
Adolf Hitler đã không cố gắng có ý thức để làm
điều ác, nhớ điều đó. Ông ấy không chủ ý phá huỷ;
ông ấy nghĩ ông ấy đang cố gắng giúp nhân loại. Ông
ấy nghĩ ông ấy đang cố gắng đem con người tốt hơn
vào trong thế giới - siêu nhân. Ông ấy tin tưởng sâu
sắc vào triết học của Friedrich Nietzsche về siêu nhân
và ông ấy cũng tin rằng người Đức thực sự là siêu
nhân, rằng họ được quyền cai trị thế giới.
Và không phải là ông ấy đã lừa ai; ông ấy hoàn
toàn tin chắc vào sự kiện này. Đó không phải là hư
cấu cho ông ấy, đó đã là sự kiện rằng giống nòi Đức
là dòng giống Aryan thực sự, rằng người Bắc Ấu là
người thuần khiết nhất trên thế giới. Ông ấy có thể
ảnh hưởng tới hàng triệu người rất thông minh bởi lẽ
đơn giản là ông ấy tin chắc vào điều ông ấy nói và
làm. Việc tin chắc của ông ấy đã thôi miên. Ông ấy
không phải là người của thông minh lớn, ông ấy hoàn
toàn tầm thường, nhưng một điều có đó: ông ấy đã tin
chắc rằng chỉ qua ông ấy thì thế giới mới có thể được
làm thành chỗ tốt hơn để sống. Bằng việc giết hàng
triệu người Do Thái, ông ấy không nghĩ rằng ông ấy
làm bạo hành gì - ông ấy đang phục vụ nhân loại, ông
ấy đang loại bỏ kẻ thù của nhân loại. Và vấn đề không
phải là việc ông ấy lừa phỉnh bất kì ai - ông ấy vô ý
thức tới mức bản thân ông ấy bị lừa bởi sự tin chắc
riêng của ông ấy.
Adolf Hitler đã gây ra mối hại lớn - tất cả các
chính khách đều làm vậy. Và họ bao giờ cũng làm
điều đó đằng sau những khẩu hiệu: chủ nghĩa xã hội,
dân chủ, bình đẳng và mọi thứ linh tinh. Họ tất cả đều
cố gắng cải tiến thế giới, nhưng kết quả toàn bộ là
ngày càng lẫn lộn và hỗn độn hơn. Thế giới đáng là
chỗ tốt hơn nhiều nếu chúng ta có thể đủ tỉnh táo
không nghe theo những kẻ mất trí này. Nhưng chúng
ta cũng ngủ. Điều họ nói hấp dẫn chúng ta; nó có từ
tính lớn trong nó.
Thực tế, vị Phật nhất định bị hiểu lầm, không phải
Adolf Hitler; một Jesus nhất định bị hiểu lầm, nhưng
không phải Joseph Stalin. Joseph Stalin, Adolf Hitler,
Benito Mussolini, họ nói ngôn ngữ bạn có thể hiểu
được. Họ là những người cũng như bạn; họ sống
trong cùng loại giấc ngủ. Do đó có trao đổi giữa bạn
và họ, điều bị thiếu giữa bạn và một Phật, giữa bạn là
một Lão Tử.
Phật đứng trên đỉnh Everest còn bạn sống trong
thung lũng tối tăm xa bên dưới. Bạn không nhìn lên,
bạn đã quên mất cách nhìn lên. Bạn bò trong bùn.
Những người đang bò bên cạnh bạn có thể được bạn
hiểu dễ dàng hơn. Họ nói cùng ngôn ngữ của bạn, họ
nói cùng thành ngữ của bạn; họ hoà hợp hoàn hảo với
bạn. Họ không phải là người khác. Nhưng một Phật,
một Krishna, một Mohammed, những người này là
những người khác. Họ nói ngôn ngữ khác, từ chiều
cao khác, từ tầm nhìn khác - mặc dầu họ dùng cùng
lời. Nhưng họ cho nghĩa khác với lời của bạn, và bạn
lại bỏ lỡ những nghĩa đó.
Thiền về điều này:
"Sao em không, cưng?"
"Em quá mệt."
"À, lại thế rồi...."
"Để em yên!"
"Anh sẽ không thể ngủ được!"
"Vâng, em không thể ngủ được bây giờ."
"Xin em."
"Sao thế - giữa đêm khuya khoắt thế này?"
"Vì anh dê."
"Anh dê lên vào nhiều lúc quá lắm!"
"Em không yêu anh!"
"Có, em yêu...."
"Nếu em yêu anh em sẽ làm nó chứ."
"Này, chết tiệt - thôi được."
"Có chuyện gì?"
"Anh không thể tìm được nó."
"Thế cảm thấy tốt hơn."
"Nó phải vậy chứ - nó tất cả đều là cách lên."
"Thế là đủ rồi; cám ơn em."
"Lần sau, tự mở cửa sổ đáng ghét đó ra!"
Và mọi lúc, bạn đã nghĩ gì?
Phật nói:
Người chủ từ bỏ điều tai hại.
... Bởi vì người chủ từ bỏ tâm trí. Tâm trí là mối
hại; không có mối hại khác. Tâm trí là cội nguồn của
mọi điều tai hại. Người chủ là người chủ bởi vì người
đó đã dừng bị tâm trí chi phối. Người chủ là người
chủ của bản thân mình; người đó không còn vô ý
thức. Bất kì cái gì người đó làm, người đó đều làm nó
một cách có chủ ý. Bất kì cái gì người đó là, người đó
hoàn toàn nhận biết về nó. Cuộc sống của người đó
không ngẫu nhiên. Mọi hành động của người đó đều
được bắt rễ trong tâm thức, nó là có chủ định.
Chúng ta sống trong tâm trí. Tâm trí thậm chí có
thể trở thành thánh nhân, có thể giả vờ là linh thiêng,
nhưng nó sẽ không là vậy. Điều đó là không thể được;
là linh thiêng không phải là chính bản chất của tâm
trí. Cứ nhìn vào lịch sử các tôn giáo mà xem - chúng
đầy chém giết. Thực tế tội ác đã bị phạm phải nhân
danh tôn giáo còn nhiều hơn nhân danh bất kì cái gì
khác. Thậm chí nhiều người đã bị giết, bị tàn sát nhân
danh tôn giáo, Thượng đế, chân lí, Ki tô giáo, Hồi
giáo, hơn nhân danh ý thức hệ chính trị. Tôn giáo
đứng đầu danh sách. Tôn giáo đã từng gây tai hại hơn
nhiều; nó thậm chí đã đánh bại các chính khách. Nó
có thể đánh bại họ bởi lẽ đơn giản là chính khách
không thể che giấu bản thân mình được rất lâu; chẳng
chóng thì chầy ông ta bị phơi bầy ra. Nhưng người
tôn giáo có thể che giấu bản thân mình trong nhiều
thế kỉ và bạn sẽ không bao giờ biết.
Những người đã đóng đinh Jesus thậm chí vẫn
chưa hiểu rằng họ phạm tội. Tôi không bắt gặp một
người Do Thái nào chấp nhận điều đó một cách có ý
thức, rằng đóng đinh Jesus là tội ác. Và không phải là
không có người Do Thái tốt, không phải là không có
người Do Thái thánh thiện, không phải là không có
các giáo sĩ có học... có những người rất ngoan đạo.
Ngay cả người như Martin Buber cũng không thể thu
được dũng cảm để nói, "Chúng tôi đã phạm phải tội
ác trong quá khứ." Không, điều đó dường như không
thể được. Tội là thuộc phần Jesus bởi vì ông ấy đã cố
tuyên bố bản thân mình là Con của Thượng đế. Đó là
tội: rằng ông ấy đã cố phóng chiếu hình ảnh của mình
như vị cứu tinh, như sứ giả của Thượng đế. Đó là tội
và ông ấy đã bị trừng phạt đúng - người Do Thái tuyệt
đối tin chắc vào điều đó.
Hai nghìn năm đã qua rồi; tôi đã không bắt gặp
một cuốn sách nào do một người Do Thái viết mà có
thể chấp nhận rằng "Chúng ta đã phạm sai lầm."
Dường như điều đó là không thể được. Họ không thể
thấy được điều đó bởi vì tội này đã bị phạm phải nhân
danh tôn giáo.
Hàng nghìn người Ki tô giáo đã bị người Mô ha
mét giáo giết chết, và ngược lại. Và những cuộc chiến
tranh này đã được gọi là thánh chiến jihads - chiến
tranh linh thiêng. Bây giờ, không cuộc chiến tranh
nào đã từng linh thiêng cả, không cuộc chiến tranh
nào là jihad; mọi cuộc chiến tranh đều không linh
thiêng. Cớ nào bạn tìm ra, đó là vấn đề khác; đó chỉ là
cớ để đánh nhau. Bạn muốn đánh nhau, bạn muốn
giết người và phá huỷ. Bạn tìm ra những cớ hay, cớ
đẹp - chiến tranh linh thiêng... và cả triệu người bị
tiêu diệt.
Trong những cuộc chiến tranh linh thiêng này
hàng triệu đàn bà bị cưỡng hiếp; bây giờ, cưỡng hiếp
đó là linh thiêng. Nếu giết người là linh thiêng, sao
cưỡng hiếp không? Điều đó nữa cũng linh thiêng - nó
được thực hiện nhân danh tôn giáo. Mọi thứ được làm
nhân danh tôn giáo đều tốt.
Thánh nhân của bạn, người trông linh thiêng và
ngoan đạo thế, là nguyên nhân của tất cả những điều
vô nghĩa này, của tất cả những phiền toái này trong
thế giới. Khi nào bạn sẽ gạt bỏ tất cả những cái ngu
xuẩn này? Con người còn chưa đủ chín chắn sao?
Thời gian còn chưa tới để chúng ta gạt bỏ tất cả
những ngu xuẩn này vẫn còn mạnh mẽ tràn nhập
nhiều thế kỉ sao? Không phải là thời gian đã chín
muồi để ngắt bản thân chúng ta với quá khứ sao?
Nhưng cách duy nhất để ngắt bản thân bạn với
quá khứ là ngắt bản thân bạn với tâm trí bạn bởi vì
tâm trí bạn là quá khứ. Tâm trí nghĩa là cái biết, quá
khứ. Tâm trí là lịch sử, tâm trí là thời gian. Tâm trí là
người Ki tô giáo, Hindu, Mô ha mét giáo, tâm trí là
người Ấn Độ, người Đức, người Trung Quốc. Và
chừng nào bạn còn chưa thoát ra khỏi sự nắm giữ của
tâm trí, bất kì cái gì bạn làm cũng sẽ là điều tai hại.
Nó có thể hay không thể xuất hiện tác hại cho bạn -
đó là vấn đề khác - nhưng nó sẽ là điều hại. Từ tâm trí
không cái gì tốt có thể xảy ra.
Tốt là sản phẩm phụ của thiền, và xấu, sản phẩm
phụ của tâm trí.
Một người nói với Mulla Nasruddin, "Người bạn
lớn của anh, luật sư, là thế nào?"
Mulla nói, "Tôi sợ anh ấy đang nói dối tại cửa tử."
"Những luật sư này! Tại cửa tử và vẫn nói dối
sao?"
Đó là trạng thái của tâm trí: nó cứ dối trá ngay tại
cửa tử. Thực tế, khi cái chết tới gần bạn hơn, bạn bắt
đầu dối trá ngày một nhiều hơn, bạn bắt đầu lừa dối
bản thân mình bằng nhiều hư cấu hơn, bạn bắt đầu tạo
ra huyền thoại xung quanh bạn về Thượng đế, về cõi
trời, về địa ngục. Bạn bắt đầu tạo ra mơ mộng và bạn
bắt đầu sống trong mơ bởi vì cả đời bạn bị tan tành.
Bạn đã làm phí hoài cơ hội. Bạn đã không sáng tạo,
bạn đã có tính phá huỷ.
Và nhớ lấy, không ai có thể trung lập được. Hoặc
bạn tạo ra cái gì đó hoặc bạn phá huỷ; hoặc bạn sống
trong tâm trí hoặc bạn sống bên ngoài tâm trí. Nếu
bạn sống bên ngoài tâm trí bạn trở nên sáng tạo. Ở
trong thiền là có tính sáng tạo. Thế thì bất kì cái gì
bạn làm cũng đều đẹp; nó đem tới huy hoàng hơn,
phúc lành hơn cho thế giới. Bằng không bất kì điều gì
bạn làm cũng đều sẽ làm cho thế giới xấu hơn.
Bàn và ghế đang trong tình yêu sâu sắc. Chúng
quyết định lấy nhau và trong quá trình đó chúng có kẻ
mới tới.
"Chúng ta sẽ đặt tên thánh cho nó là gì?" ghế hỏi.
"Bế," đó là lời đáp logic của bàn.
Tất nhiên con của bàn và ghế nên được gọi là bế.
Và đó là điều mọi người đang làm: họ cứ tạo ra bế.
Điều đó dường như là năng suất duy nhất của họ: tất
cả mọi điều họ có thể làm là sinh sản ra nhiều con
hơn.
Một người đàn bà bảo tôi, "Tôi ghét chồng tôi! Từ
chính tận tâm can tôi," cô ấy nói, "Tôi ghét chồng tôi!
Tôi sợ một ngày nào đó tôi có thể giết anh ấy, có thể
đầu độc anh ấy!"
Tôi nói, "Nếu chị ghét anh ấy nhiều thế, thì làm
sao chị có đến mười tám đứa con?"
Cô ấy nói, "Tôi cố tạo ra đám đông như thế để
cho anh ta mất hút vào trong đó."
Mọi người ghét và dầu vậy họ vẫn cứ sinh sản bởi
vì ngoài việc sinh sản, họ không biết cách khác.
Rena đi vào văn phòng thư kí để trình báo việc
sinh con thứ sáu của cô ta.
"Nhưng, thưa cô, đây là lần sinh thứ sáu của cô
với cùng người bố," thư kí nói. "Sao cô không cưới
anh ấy?"
"Anh có trêu tôi không đấy'?" Rena đáp. "Tôi
thậm chí không thích cái đồ chó đẻ đó!"
Nhưng mọi người phải làm cái gì đó; họ không
thể chỉ ngồi đó. Họ phải tìm ra cái gì đó để vẫn còn
bận bịu với. Đó là cách tất cả điều tai hại nảy sinh
trong thế giới này.
Phật nói: Người chủ từ bỏ tai hại.
Người đó thanh thản.
Thanh thản là hương vị của thiền, thanh thản là
hương thơm của thiền. Người đó thanh thản thế, im
lặng tới mức người đó có thể tuyệt đối trống rỗng,
không ham muốn làm gì cả. Khi tất cả ham muốn bận
bịu biến mất, chỉ thế thì cái gì đó tốt mới xảy ra qua
bạn, thế thì Thượng đế có thể xảy ra qua bạn - và cái
tốt chỉ xảy ra qua bạn khi Thượng đế xảy ra qua bạn.
Cái tốt không là gì ngoài Thượng đế tuôn chảy qua
bạn.
Người đó thanh thản.
Người đó bỏ lại mọi thứ đằng sau mình.
Người đó bỏ lại quá khứ, người đó bỏ lại tâm trí
mình, người đó bỏ lại kí ức của mình, người đó bỏ lại
truyền thống của mình. Người đó không phải là người
tuân thủ, người đó không thể là người tuân thủ được.
Không người chủ nào đã bao giờ là người tuân thủ;
điều đó sẽ là mâu thuẫn trong thuật ngữ. Người đó
bao giờ cũng là người nổi dậy. Người đó là việc nổi
dậy thuần khiết. Người đó chết đi mọi khoảnh khắc
vào quá khứ; người đó không bao giờ thu thập quá
khứ. Do đó người đó vẫn còn tươi tắn, tươi tắn như
giọt sương trong ánh mặt trời buổi sớm, tươi tắn như
lá sen, tươi tắn như cánh hồng. Người đó bao giờ
cũng tươi tắn, người đó bao giờ cũng trẻ trung; người
đó chưa bao giờ trở nên già. Người đó trưởng thành,
nhưng người đó chưa bao giờ trở nên già. Thân thể tất
nhiên trở nên già, nhưng tâm thức của người đó vẫn
còn tuyệt đối tươi tắn; nó chưa bao giờ thu thập bất kì
bụi hay gỉ nào. Và người đó thanh thản tới mức người
đó có thể ngồi một mình trong vĩnh hằng mà không
có cái gì làm - dầu vậy người đó vẫn tuyệt đối phúc
lạc. Người đó sẽ tận hưởng thanh thản của mình.
Thanh thản này không thể được trau dồi từ bên
ngoài; thanh thản này tới chỉ khi bạn đã trở thành
người quan sát tâm trí, khi bạn đã trở thành nhân
chứng của tâm trí và qua việc quan sát bạn đã siêu
việt lên trên tâm trí. Thế thì bỗng nhiên, chẳng từ đâu
cả, thanh thản bùng nổ từ mọi hướng. Nó mưa rào lên
bạn như hoa và nó cứ mưa rào hoài. Cuộc sống của
bạn vậy là cuộc sống của đức hạnh. Vấn đề không
phải là trau dồi nó, vấn đề không phải là tạo ra nó - nó
là hệ quả của thiền.
Điểm này nên được nhớ lặp đi lặp lại; đừng bao
giờ quên nó, bởi vì nó đã bị quên hàng triệu lần. Lặp
đi lặp lại vị phật tới nhắc nhở bạn nhưng bạn cứ quên
nó, bởi lẽ đơn giản là thanh thản được trau dồi là rẻ
mạt. Bạn có thể trông thanh thản đấy, bạn có thể làm
ra khuôn mặt thanh thản; bạn có thể đóng vai nó, bạn
có thể là diễn viên giỏi, bạn có thể rất hiệu quả, nhưng
điều đó sẽ chẳng là gì ngoài đạo đức giả. Sâu bên
dưới bạn sẽ sôi lên; sâu bên trong bạn sẽ có địa ngục.
Và từ bên ngoài bạn đã bôi nước hoa lên bản thân
mình còn bên trong bạn bốc mùi khắm. Bên trong bạn
níu bám lấy mọi khổ của mình, với quá khứ của mình,
với mọi thứ chết, với mọi thứ mục ruỗng, với mọi thứ
đáng phải đem đi thiêu; bạn níu bám lấy nó. Và
những người níu bám lấy các xác chết dần dần, dần
dần bản thân họ trở thành chết; những người sống với
xác chết bản thân họ trở thành xác chết. Trên bề mặt
bạn có thể mỉm cười, bạn có thể cười; sâu bên dưới
chỉ có nước mắt - nước mắt đau đớn.
Nhưng sự kiện kì lạ này về con người phải được
hiểu: rằng người đó níu bám lấy quá khứ. Cho dù quá
khứ là xấu người đó vẫn níu bám lấy quá khứ, cho dù
người đó chỉ có khổ. Sao người đó níu bám lấy quá
khứ? - bởi vì quá khứ cho người đó định nghĩa, quá
khứ cho người đó căn cước, quá khứ cho người đó ý
tưởng về người đó là ai.
Sau sáu tuần đi xa vì công việc, vị quan chức điều
hành mới cưới vợ vào nhà chứa West Side ở Chicago.
Ông ấy bước tới một bà, đưa cho bà ấy tờ một trăm đô
la và nói, "Tôi muốn người bạn tình tồi nhất trong nhà
này!"
"Nhưng thưa ngài," bà này trả lời, "một trăm đô la
ông sẽ mua được người tốt nhất của chúng tôi."
"Không," nhà kinh doanh yêu cầu, "tôi muốn cái
tồi nhất sẵn có."
"Tôi không thể để ông làm điều này được," người
đàn bà bào chữa. "Ông được quyền có người hàng đầu
cả dãy."
"Nghe đây, thưa bà," người này nói, "Tôi không
có hứng tình đâu, chỉ là nhớ nhà!"
Quan sát tâm trí bạn, cách bạn níu bám lấy quá
khứ. Chả có gì để níu bám cả - chỉ xương khô, bộ
xương, nhưng bạn ôm giữ chúng cứ dường như chúng
là chính cuộc sống của bạn. Và bởi vì bạn giữ chúng,
tay bạn không trống rỗng để giữ được cái gì khác; bởi
vì bạn đang nhìn về quá khứ bạn không thể thấy được
hiện tại và bạn không thể tận hưởng được cái đẹp của
nó, niềm vui của nó. Bạn không thể đi vào trong hiện
tại được - và hiện tại là cánh cửa tới Thượng đế. Quá
khứ không còn nữa.
Và Thượng đế chưa bao giờ là quá khứ, Thượng
đế bao giờ cũng hiện tại. Thượng đế chưa bao giờ là
tương lai, Thượng đế bao giờ cũng hiện tại. Bạn
không thể nói "Thượng đế đã có," bạn không thể nói
"Thượng đế sẽ có," bạn chỉ có thể nói "Thượng đế
có." Thực tế nói "Thượng đế có" là lặp lại bởi vì
Thượng đế nghĩa là đang có đấy rồi; tính có đấy và
Thượng đế là đồng nghĩa.
Phật nói: Người đó bỏ lại mọi thứ đằng sau mình.
Người chủ không thể là người Hindu, không thể
là Phật tử, không thể là người Ki tô giáo. Người chủ
đơn giản là người chủ; những cái tên này chỉ là của nô
lệ. Ai đó là nô lệ nhân danh Ki tô giáo và ai đó là nô
lệ nhân danh Hindu giáo. Đây toàn là nô lệ; họ không
biết tự do là gì. Họ níu bám lấy cái hoàn toàn vô
nghĩa thế, nhưng họ đang níu bám chặt tới mức họ
không thể thấy được cái gì khác. Mắt họ đầy những
bụi của quá khứ. Họ mù bởi vì quá khứ; họ mù không
vì lí do nào khác.
Bạn không bỏ lỡ Thượng đế bởi vì bạn là tội
nhân; bạn bỏ lỡ Thượng đế bởi vì bạn hướng quá khứ.
Và Thượng đế sẵn có chỉ bây giờ... ở đây. Thượng đế
chỉ biết một thời gian, bây giờ, và chỉ một chỗ, ở đây.
Và bạn chưa bao giờ ở bây giờ và bạn chưa bao giờ ở
đây; bạn bao giờ cũng ở đâu đó khác. 'Khi khác' và 'ở
kia' là những từ có ý nghĩa cho bạn; 'bây giờ' và 'ở
đây' gần như vô nghĩa cho bạn.
Người chủ sống bây giờ và sống ở đây. Người đó
bỏ lại mọi thứ đằng sau mình. Người đó cứ phá huỷ
những cây cầu người đó đã đi qua.
Người đó không xúc phạm
và người đó không cho điều đó.
Người đó không bao giờ lấy ác báo ác.
Hiển nhiên, nếu ai đó xúc phạm người đó, người
đó không nhận điều xúc phạm đó. Bạn không thể xúc
phạm được người chủ, điều đó là không thể được.
Làm sao bạn có thể xúc phạm người không nhận sự
xúc phạm đó? Để xúc phạm một người cần có hai
điều: ai đó xúc phạm người đó và sự sẵn sàng của
người đó để nhận việc xúc phạm.
Có lần Phật bị xúc phạm lắm bởi vài người. Họ
lăng mạ ông ấy thậm tệ. Ông ấy im lặng nghe và rồi
ông ấy nói, "Các ông còn gì nữa để nói không? - bởi
vì ta phải sang làng khác đúng giờ. Mọi người phải
đang chờ đợi ở đó. Nếu các ông vẫn có cái gì đó khác
để nói, khi ta quay lại ta sẽ tới vẫn cùng con đường
này và ta sẽ thông báo cho các ông và ta sẽ dành thời
gian đặc biệt cho các ông, cho nên các ông có thể tới
và nói bất kì điều gì các ông thích."
Những người đó phân vân lắm. Họ nói, "Chúng
tôi đâu có nói điều gì đó, chúng tôi xúc phạm ông
đấy!"
Phật cười. Ông ấy nói, "Để làm điều đó thì các
ông đã tới chậm chút ít rồi. Các ông đáng phải tới ít
nhất là từ mười năm trước. Bây giờ ta không ngu như
thế nữa. Các ông có thể xúc phạm, đó là tự do của các
ông, nhưng liệu nhận nó hay không thì đó là tự do của
ta. Ta không nhận nó."
Và ông ấy nói với họ, "Ở làng kia mà ta vừa qua
trước khi tới làng các ông, mọi người tới với bánh kẹo
để cúng dường ta. Ta cám ơn họ. Ta nói, 'Tôi không
cần bánh kẹo và tôi không ăn bánh kẹo.' Các ông nghĩ
xem họ phải đã làm gì với đống bánh kẹo này?"
Ai đó từ đám đông nói, "Họ phải đem chúng về
nhà thôi."
Phật nói, "Bây giờ các ông sẽ làm gì? Các ông sẽ
phải đem xúc phạm về nhà thôi. Ta không nhận xúc
phạm của các ông - không có cách khác, các ông phải
đem chúng về vậy."
Khi bạn cảm thấy bị xúc phạm bạn đã tham gia
với người này rồi. Nhưng bạn không có ý thức, cho
nên bất kì ai cũng có thể nhấn nút của bạn. Bạn vận
hành như cái máy: nhấn nút và bạn bật lên; nhấn nút
và bạn tắt đi. Bất kì ai cũng có thể làm bạn phát rồ,
bất kì ai cũng có thể làm bạn mỉm cười và cười to, bất
kì ai cũng có thể làm bạn khóc và gào. Bất kì ai, bất kì
kẻ ngu nào cũng có thể làm được điều đó! Người ta
chỉ cần biết nút ở đâu - và gần như bao giờ chúng
cũng ở cùng một chỗ. Rất hiếm khi tìm thấy một
người có nút ở chỗ khác.
Một người Polack đang lái chiếc xe Volkswagen,
thì đột nhiên nó dừng lại bởi lí do nào đó. Anh ta
xuống xem - có thể có trục trặc ở động cơ - nhưng
anh ta không thể tìm được động cơ. Cho nên anh ta
nghĩ, "Lạy chúa, động cơ của mình bị đánh cắp rồi!"
Vừa lúc đó một người Polack khác dừng lại bên
cạnh anh ta. Anh ta nói, "Có trục trặc à?"
Người thứ nhất nói, "Vâng, dường như động cơ
của tôi đã bị đánh cắp."
Người này nói, "Đừng lo. Sáng nay tôi đã nhìn
đằng sau xe tôi - có động cơ dự phòng đấy. Anh có
thể lấy nó!"
Bây giờ trong chiếc Volkswagen động cơ không ở
chỗ thông thường; nó ở đằng sau, không ở đằng trước.
Nhưng Thượng đế vẫn chưa học được gì từ xe
Volkswagen - ngài vẫn làm cùng động cơ với cùng
nút, có thể hơi khác chút ít đây đó, có thể chỉ thay đổi
chút ít. Bất kì ai cũng có thể thấy... chỉ chút ít dò dẫm
và bạn có thể thấy nút của bất kì ai khác. Nếu bạn biết
nút của mình, bạn biết nút của mọi người khác.
Bạn sẽ bị khó khăn chỉ với vị phật, bởi vì bạn có
thể cứ nhấn nút của ông ấy và chẳng cái gì sẽ xảy ra
bởi vì ông ấy không còn bị đồng nhất với cơ chế của
mình. Ông ấy sẽ quan sát việc bạn nhấn phím của ông
ấy và ông ấy sẽ thích thú bài tập mà bạn đang cho ông
ấy, nhưng có vậy thôi.
Người đó không xúc phạm và người đó không cho
điều đó. Người đó không bao giờ lấy ác báo ác.
Người đó hiểu nhân loại sâu sắc thế. Bằng việc hiểu
bản thân mình người đó đã hiểu trạng thái khổ của
mọi người. Người đó cảm thấy tiếc cho mọi người;
người đó từ bi. Người đó không lấy ác báo ác bởi lẽ
đơn giản là người đó không cảm thấy bị xúc phạm
ngay chỗ đầu tiên. Thứ hai, người đó cảm thấy tiếc
cho bạn; người đó không cảm thấy đối kháng với bạn.
Một lần chuyện xảy ra ở Baroda:
Tôi đang nói cho một đám đông lớn. Ai đó ngồi
ngay hàng trước trở nên bị rối loạn bởi điều tôi nói,
anh ta trở nên rối loạn bởi điều đó đến mức mất kiểm
soát, anh ta mất ý thức. Anh ta ném một chiếc giầy
vào tôi. Vào khoảnh khắc đó tôi nhớ là tôi thường
chơi bóng chuyền khi tôi còn là sinh viên, cho nên tôi
bắt lấy chiếc giầy của anh ta ngay giữa chừng và hỏi
anh ta về chiếc kia. Anh ta đâm ra lúng túng.
Tôi nói, "Bạn ném nốt chiếc kia nữa đi! Tôi sẽ
làm gì với một chiếc đây? Nếu bạn muốn tặng cái gì
đó...." Anh ta chờ đợi. Tôi nói, "Sao bạn chờ? Ném
nốt chiếc kia đi, bởi vì theo cách này thì tôi không thể
dùng được giầy mà bạn cũng không thể dùng được
nó. Và tôi không định ném trả lại nó, bởi vì điều ác
không nên được báo lại cho điều ác! Cho nên xin bạn
cho chiếc kia nữa."
Anh ta choáng vì anh ta không thể tin được vào
điều đó... đầu tiên, điều anh ta đã làm, anh ta không
thể tin được - anh ta là người rất tốt, một học giả, một
học giả tiếng Phạn nổi tiếng, một bác học. Người ta
không trông đợi anh ta hành xử như thế, nhưng điều
đó đã xảy ra - mọi người vô ý thức thế. Nếu tôi mà
hành động theo cách anh ta mong đợi một cách vô ý
thức, thế thì mọi sự đã ổn thoả. Nhưng tôi đã hỏi về
chiếc giầy kia, và điều đó gây choáng cho anh ta lắm.
Anh ta bàng hoàng.
Tôi bảo ai đó ngồi cạnh anh ta, "Bạn kéo chiếc
giầy kia của anh ấy ra. Tôi không để anh ấy thôi, tôi
muốn cả hai chiếc giầy. Thực tế, tôi đã nghĩ tới việc
mua đôi giầy nào đó, và người này dường như hào
phóng thế!" Và chiếc giầy quả thực mới.
Đêm đó người này tới, quì dưới chân tôi, và xin
tôi tha thứ. Tôi nói, "Bạn quên mọi chuyện đó đi,
không có vấn đề gì cả... Tôi không giận, cho nên tại
sao tôi phải tha thứ cho bạn? Để tha thứ, người ta
trước hết phải giận đã. Tôi đã không giận, tôi thích
thú cảnh này. Thực tế, nó là cái gì đó hay tới mức
nhiều người đã rơi vào giấc ngủ đột nhiên thức dậy!
Tôi đã nghĩ theo cách đó rằng đấy là một ý tưởng hay,
rằng tôi nên cắm và tín đồ của tôi, để thỉnh thoảng họ
có thể ném giầy thế là tất cả những người ngủ thức
dậy. Ít nhất trong vài khoảnh khắc họ sẽ vẫn còn tỉnh
táo vì cái gì đó đang xảy ra! Tôi cám ơn bạn."
Trong nhiều năm anh ta cứ viết thư cho tôi, "Làm
ơn tha thứ cho tôi! Chừng nào thầy còn chưa tha thứ
cho tôi, tôi sẽ cứ còn viết."
Nhưng tôi bảo anh ta, "Trước hết tôi phải giận đã.
Tha thứ cho bạn đơn giản nghĩa là tôi chấp nhận tôi
đã giận. Làm sao tôi có thể tha thứ cho bạn được?
Bạn tha thứ cho tôi, bởi vì tôi không thể nào giận bạn
được, không thể nào tha thứ cho bạn được - bạn tha
thứ cho tôi!"
Tôi không biết liệu anh ta có tha thứ cho tôi hay
không, nhưng anh ta đã quên tôi. Bây giờ anh ta
không viết nữa.
Chao ôi với người, Phật nói
giơ tay ra chống lại người khác,
và thậm chí nhiều hơn cho người đó
người nhận lại cú đánh.
Tại sao Chao ôi với người giơ tay ra chống lại
người khác...? Bởi vì người đó đang giơ tay mình ra
chống lại bản thân mình, bởi vì không có ai là người
khác cả. Tất cả sự tồn tại là một. Khi bạn đánh ai đó
bạn đang đánh chính bản thân mình. Bạn đơn giản ấu
trĩ. Nó là cùng thực tại: tôi là một trong các con sóng
của sự tồn tại, bạn là con sóng khác của nó. Con sóng
này đánh con sóng khác trong đại dương - chúng cả
hai đánh bản thân mình.
Chao ôi với người giơ tay ra chống lại người
khác, và thậm chí nhiều hơn cho người đó người nhận
lại cú đánh. Sao lại nhiều hơn cho người đó? - bởi vì
thế thì người đó tạo ra cái vòng luẩn quẩn. Và đó là
cách chúng ta đang sống, trong nhiều, nhiều vòng
luẩn quẩn. Mọi người cứ đánh nhau; một khi điều gì
đó bắt đầu thế thì dường như không có chấm dứt cho
nó. Bạn làm cái gì đó trả thù và người kia phải đợi tới
cơ hội của mình để làm cái gì đó chống lại bạn, thế
rồi bạn làm cái gì đó chống lại người đó, và cứ thế
mãi. Điều đó cứ diễn ra từ kiếp này sang kiếp khác,
nó liên tục.
Người trí huệ, người chủ là người chấm dứt tất cả
những cái vòng luẩn quẩn này.
Có lần một người tới và nhổ vào mặt Phật, ông ta
giận thế. Phật hỏi ông ta, "Đấy có phải là tất cả mọi
điều hay ông còn muốn nói cái gì nữa? Xin hãy làm
nó đi và kết thúc nó đi."
Người này hỏi, "Ông ngụ ý gì - 'Xin hãy làm nó đi
và kết thúc nó đi '?"
Phật nói, "Trong một kiếp quá khứ ta đã xúc
phạm ông và bây giờ thời gian tới khi cái vòng luẩn
quẩn có thể được đóng lại. Bây giờ ông xúc phạm ta
và ta sẽ không đáp lại cái gì; ta sẽ đơn giản chấp nhận
nó và đóng vòng tròn lại - đó chỉ là đóng tài khoản lại
với ông. Ta đang đợi ông; thực tế, ngày ta tới thị trấn
này ta đã hi vọng rằng ông tới và ông sẽ làm cái gì đó
và tài khoản có thể được đóng lại. Đây là cái vòng
luẩn quẩn cuối cùng của ta; ta đã đóng tất cả các vòng
khác. Bây giờ ta ở ngoài mọi vòng luẩn quẩn. Ta cám
ơn ông; bằng không cái gì đó đang treo trong không
trung - chỉ một sợi chỉ, nhưng cái gì đó đang treo
trong không trung, cái gì đó không đầy đủ. "Bây giờ
vòng này là đầy đủ và ta không muốn tiếp tục nó thêm
nữa. Bây giờ điều đó là tuỳ ta để tiếp tục hay không
tiếp tục. Bây giờ ta là người chủ; cho tới giờ ông đã là
người chủ. Bằng việc nhổ vào mặt ta việc làm chủ của
ông mất rồi; bây giờ ta là người chủ và ta không
muốn tiếp tục cái vòng luẩn quẩn này thêm nữa. Đây
là kiếp sống cuối cùng của ta và ta muốn đóng tất cả
mọi tài khoản với mọi người - tài khoản tốt, tài khoản
xấu, mọi loại tài khoản đều phải được đóng lại - để
cho ta có thể biến mất vào trong điều tối thượng mà
không còn sợi dây nào gắn với thế giới. Ta hạnh phúc
vô cùng," Phật nói với ông ấy.
Chống lại hoan lạc của cuộc sống
và ham muốn gây tổn thương -
cho tới khi nỗi buồn tan biến.
Hoan lạc phụ thuộc vào người khác, và bất kì cái
gì phụ thuộc người khác cũng sẽ làm cho bạn thành
nô lệ, sẽ tạo ra tù túng. Và mục đích tối thượng của
Phật là tự do, niết bàn - tự do khỏi mọi tù túng.
Do đó tất cả những người đã thức tỉnh đều nói:
Tìm phúc lạc. Đừng phí thời gian của bạn vào những
hoan lạc bình thường. Ngay chỗ đầu tiên chúng là tạm
thời; chỗ thứ hai mọi hoan lạc đều đem tới đau đớn.
Đau đớn là mặt bên kia của cùng đồng tiền. Nó đem
tới đau đớn theo cùng tỉ lệ; hoan lạc càng lớn, đau
càng lớn. Cho nên khi bạn tận hưởng cái gì đó, cẩn
thận đấy: chẳng mấy chốc đau sẽ theo sau; nó là
không tránh khỏi. Cũng như ngày tiếp theo đêm và
đêm tiếp theo ngày, đau đớn và hoan lạc theo sau lẫn
nhau. Chúng không tách rời, chúng là không thể tách
rời.
Thứ nhất, hoan lạc là tạm thời, chúng hệt như
bong bóng xà phòng. Phí hoài cuộc sống quí giá của
bạn cho chúng đơn giản là ngu xuẩn, không thông
minh. Thứ hai, mọi hoan lạc đều đem tới đau đớn.
Nhưng mọi người ngu tới mức họ chưa bao giờ nhìn
vào liên kết này. Họ nghĩ đau đớn đã tới từ nguồn
khác nào đó, họ nghĩ hoan lạc có thể là mãi mãi. Lặp
đi lặp lại họ bị hoan lạc của mình làm cho ngã vào
trong đau đớn; lặp đi lặp lại họ cứ nghĩ rằng có lí do
nào đó tại sao hoan lạc này đã bị phá huỷ.
Dù lí do có đó hay không đều không liên quan;
mọi hoan lạc đều tạm thời, nó sẽ biến mất, và trong
việc đánh thức của nó có nỗi đau.... Bạn có thể hợp lí
hoá nó; hợp lí hoá đó sẽ chỉ giúp bạn tiếp tục theo
cùng con đường mòn cũ. Nhưng thấy ra sự kiện này
đi. Thấy chân lí là giải thoát lớn; thấy rằng mọi hoan
lạc đều không tránh khỏi là kẻ đem tới đau đớn, bạn
sẽ được tự do khỏi cả hai.
Và điều thứ ba: đó là cùng năng lượng được tham
gia vào hoan lạc, cái đó phải đi tới phúc lạc. Hoan lạc
là phụ thuộc vào người khác; phúc lạc là độc lập toàn
bộ, nó là của riêng bạn. Nó nảy sinh bên trong bản thể
bạn, nó là tự tính của bạn; do đó bạn không phụ thuộc
vào bất kì ai. Và bởi vì nó là tự tính của bạn, nó là
mãi mãi. Không có mâu thuẫn, không có đối lập cho
phúc lạc.
Hạnh phúc ở giữa hoan lạc và phúc lạc. Trong
hạnh phúc cái gì đó là độc lập và cái gì đó là phụ
thuộc; nó là trộn lẫn của cả hai. Do đó người sống
trong hoan lạc cực kì là ở hoàn cảnh tốt hơn theo cách
nào đó; người đó là mạnh khoẻ, mạnh khoẻ như con
vật. Con vật sống trong hoan lạc cực kì: khi đau tới
chúng chịu đựng, khi hoan lạc tới chúng tận hưởng.
Chúng cứ quay giữa hoan lạc và đau đớn. Người sống
chỉ trong hoan lạc - một Don Juan - người đó ở trong
mạnh khoẻ theo một cách nào đó, bình thường, bởi vì
người đó là một phần của thế giới con vật; người đó
chưa là người. Theo một cách nào đó cuộc sống của
người đó là rõ ràng, nó không có phức tạp.
Nhưng người sống trong hạnh phúc hay cố tìm
hạnh phúc, sống vì hạnh phúc, còn bị lẫn lộn hơn
nhiều bởi vì người đó không ở đâu cả. Người đó
không là con vật cũng chưa là điều thiêng liêng;
người đó trong quên lãng. Người đó cưỡi trên hai con
ngựa; người đó sẽ gặp khó khăn rất lớn. Và đó là chỗ
gần như hầu hết mọi người đều là vậy. Rất hiếm khi
tìm ra một người sống thuần khiết trong hoan lạc -
hiếm khi tìm ra một Zorba người Hi Lạp, người sống
thuần khiết trong hoan lạc. Người đó là rõ ràng,
không có lẫn lộn trong người đó. Người đó đơn giản
bước đi trên đất; người đó không có ý tưởng gì về bay
trên trời. Người đó đã chấp nhận luật trọng trường và
người đó không biết luật khác.
Người sống vì hạnh phúc, người biết cái đẹp của
âm nhạc, người biết cái đẹp của tranh vẽ, nghệ thuật,
người biết cái gì đó cao hơn con vật có thể biết, còn bị
lẫn lộn hơn nhiều; người đó còn trong đống lộn xộn
hơn nhiều... bởi vì trong khi bạn nghe âm nhạc vĩ đại
cái gì đó được âm nhạc đóng góp, cái ở bên ngoài và
cái gì đó được âm nhạc đóng góp, cái ở bên trong nó
là sự gặp gỡ của hai cực. Bạn đang treo ở giữa và cả
hai đang kéo bạn theo các hướng tách rời. Bạn sẽ thấy
nhiều lo âu hơn trong cuộc sống của mình.
Đó là lí do tại sao người nghèo ít phiền não hơn
người giầu. Nước giầu sống trong phiền não bởi vì họ
có đủ hoan lạc; họ chán ngán nó. Bây giờ họ muốn cái
gì đó cao hơn, và với cái cao hơn, các vấn đề nảy
sinh.
Phần con vật đã được lắng đọng tốt bởi vì nó là di
sản kế thừa của bạn trong hàng triệu năm. Nó ở trong
hoá chất của bạn, trong sinh học của bạn, trong sinh lí
của bạn. Mọi thứ đều được lắng đọng, bản năng. Bạn
không cần nhận biết, bạn không cần làm gì cả. Nhưng
nếu bạn tìm và kiếm hạnh phúc thế thì bạn đang đi
vào trong thế giới mờ ảo hơn, cái ít bản chất hơn - cao
hơn nhưng mờ ảo hơn.
Và mục đích thứ ba là phúc lạc, cái lại là rất rõ
ràng, rõ ràng như mục đích đầu tiên, thực tế còn rõ
ràng hơn mục đích đầ tiên nhiều bởi vì mục đích thứ
nhất có sự sáng tỏ, nhưng sáng tỏ là của loại thấp hơn
nhiều. Mục đích thứ ba có sáng tỏ của phẩm chất cao
nhất. Duy nhất người thức tỉnh biết sự sáng tỏ của
mục đích thứ ba.
Phật nói: Chống lại hoan lạc của cuộc sống.... Trở
nên chín chắn thêm chút nữa đi. Đừng trẻ con, đừng
vẫn còn là con vật. Đem toàn bộ năng lượng của bạn
hướng tới mục đích cao nhất trong cuộc sống - để
phúc lạc là mục đích của bạn.
Và những người sống trong hoan lạc cũng có một
điều nữa trong cuộc sống của họ, và đó là ham muốn
làm tổn thương người khác, bởi vì hoan lạc tạo ra
cạnh tranh. Nếu bạn muốn nhiều tiền hơn, tất nhiên
bạn phải giằng nó từ ai đó khác. Nếu bạn muốn quyền
lực, thế thì ai đó khác sẽ mất quyền lực. Nếu bạn
muốn là tổng thống, thế thì ai đó khác sẽ không là
tổng thống. Do đó đấy là cuộc tranh đấu thường
xuyên. Bạn phải làm tổn thương nhiều người để thành
công. Bạn phải rất phá huỷ, phá huỷ vô nhân tính.
Đó là mục đích duy nhất của phúc lạc, cái có thể
là bất bạo hành; ngoài ra hoan lạc sẽ là bạo hành.
Phật nói: Chống lại hoan lạc của cuộc sống và
ham muốn gây tổn thương - cho tới khi nỗi buồn tan
biến. Tỉnh táo vào. Ông ấy không nói kìm nén, ông ấy
không nói điều đó. Nhận biết - để cho hoan lạc không
kéo bạn xuống dưới, để cho dần dần, dần dần bạn
được tự do với di sản kế thừa con vật của mình, để
cho dần dần, dần dần bạn có thể siêu việt lên trên sinh
học của mình.
Và tránh ham muốn làm tổn thương người khác.
Có niềm vui nào đó trong việc làm tổn thương người
khác. Chúng ta cứ làm tổn thương mọi người, nó cho
bạn cảm giác quyền lực. Nó giúp bạn cảm thấy rằng
bạn có quyền khi bạn có thể làm tổn thương ai đó. Đó
là ham muốn rất xấu, vị kỉ, nhưng mọi người đều làm
điều đó. Quan sát bản thân mình mà xem, bạn làm tổn
thương mọi người theo bao nhiêu cách thức. Bạn có
thể không làm gì đặc biệt để tổn thương họ, nhưng cử
chỉ của bạn có thể là đủ. Mọi người bước đi theo cách
mà, nói theo cách mà người khác bị tổn thương. Và
không ai có thể trách họ vì điều họ làm tinh vi thế. Họ
dùng những lời có thể gây tổn thương, và họ dùng
chúng khéo tới mức bạn không thể trách được họ. Họ
bao giờ cũng có thể tìm ra cách hợp lí hoá.
Một quí ông da đen bị bắt vì bắn một người. Sáng
hôm sau ông ta bị đem ra toà.
"Tại sao ông đã bắn người đó?" chánh án hỏi.
"Vì nó đã gọi tôi là đồ chó đẻ da đen!"
"Ông không có quyền bắn người vì điều đó!"
"Này, thưa tôn ông, ông sẽ làm gì nếu nó gọi ông
như thế?"
"Ồ, anh ta sẽ không gọi tôi như thế đâu!"
"Tôi biết, thưa ông chánh án, nhưng giả sử nó đã
gọi ông là đồ chó đẻ, thì sao? Tất nhiên nó không thể
gọi ông là 'đồ chó đẻ da đen' - ông không da đen -
nhưng ông là đồ chó đẻ, nếu nó đã gọi ông như thế,
thì sao nào?"
Mọi người có thể cứ tìm cách thức khéo léo....
Bạn phải vẫn còn nhận biết chừng nào mọi nỗi buồn
còn chưa tan biến.
Đừng bao giờ xúc phạm
bởi điều ông nghĩ hay nói hay làm.
Điều đó không có nghĩa, nhớ lấy, rằng mọi người
sẽ không bị xúc phạm. Họ có thể vẫn bị xúc phạm,
nhưng điều đó không nên là ý định về phần bạn. Phật
không nói rằng không ai sẽ bị xúc phạm bởi thầy, bởi
vì hàng nghìn người đã bị chính Phật xúc phạm. Chắc
chắn nhiều người bị Jesus xúc phạm; bằng không sao
ông ấy đã bị đóng đinh?
Phật đang nói: Đừng bao giờ xúc phạm bởi điều
ông nghĩ hay nói hay làm. Điều đó không nên là ý
định của bạn. Dầu vậy, điều đó vẫn sẽ xảy ra: bất kì
khi nào thầy nói điều gần như không tránh khỏi là
nhiều người sẽ bị xúc phạm bởi vì họ sẽ hiểu theo
cách riêng của họ về điều ông ấy nói. Họ sẽ không
nghe điều ông ấy nói; họ sẽ chỉ nghe điều họ có thể
nghe. Họ sẽ hiểu lầm ông ấy. Điều đó tuyệt đối không
thể tránh được, nó không thể được né tránh.
Lúc đó là quá trưa trong một thị trấn nhỏ. Joe,
người chủ của cửa hiệu bia địa phương, đang uể oải
đánh bóng đồ thuỷ tinh thì bạn anh ta, Mickey, chạy
tới.
"Joe," anh ta kêu lên, "về nhà anh thực nhanh lên.
Tôi vừa tới dừng ở đó để xem anh có nhà không và
nghe thấy tiếng nói của người lạ trong phòng ngủ nhà
anh. Thế là tôi nhìn qua cửa sổ và, thật kì quái, tôi
không muốn kể cho anh điều này, nhưng vợ anh đang
trên giường với người đàn ông khác!"
"Thế à?" Joe nói, đơn giản. "Anh chàng này trông
thế nào?"
"Ồ, nó cao và hói cả đầu."
"Và nó có râu cằm đỏ chứ gì?" Joe hỏi.
"Đúng! Đúng!" Mickey kêu lên.
"Anh có để ý nó có răng vàng không?"
"Chết tiệt, cậu, cậu đúng rồi!"
"Phải là thằng ngốc đó, Dick Roberts," Joe nói.
"Nó đéo bất kì cái gì!"
Bây giờ, khi bạn đang nói cho người chồng về vợ
anh ta, đó là vấn đề hoàn toàn khác. Anh ta không để
ý, anh ta không còn quan tâm, anh ta chán, anh ta
được kết thúc rồi. Bạn có thể kích động rằng cái gì đó
đã được làm, nhưng người chồng sẽ nghe qua kinh
nghiệm của anh ta về việc là chồng của người đàn bà
đó; anh ta không thể gạt được kinh nghiệm đó sang
bên.
Tôi đang nói điều gì đó với bạn; bạn sẽ nghe nó
qua kinh nghiệm của mình. Không ai biết bạn sẽ thu
thập cái gì về nó; điều đó sẽ nhiều tính của bạn hơn là
của tôi. Tôi có thể đã lẩy cò cho quá trình này, có vậy
thôi, nhưng bạn sẽ là người sáng tạo của toàn thể hiện
tượng này.
Do đó, nhớ lấy, thầy không bao giờ xúc phạm,
dầu vậy mọi người vẫn bị xúc phạm.
Phật nói:
Kính trọng người thức tỉnh.
Điều đó đã là một trong những điều đẹp nhất ở
phương Đông - bông hoa đó đã nở ở phương Đông -
phương Đông có thể tự hào về điều đó: chúng ta bao
giờ cũng kính trọng người thức tỉnh. Ở các nơi khác
trên thế giới, đặc biệt ở phương Tây, chuyên gia được
kính trọng, nhà kĩ thuật được kính trọng, nhà khoa
học được kính trọng, người có thể làm được nhiều
điều được kính trọng. Nhưng người có ý thức không
được xét tới chỉ vì ý thức của người đó.
Gurdjieff đã không được kính trọng chút nào. Ở
phương Đông ông ấy chắc đã là vị phật; ở phương
Tây ông ấy không được kính trọng chút nào - bị xúc
phạm theo mọi cách có thể, bởi lẽ đơn giản là phương
Tây không có ý tưởng nào làm sao kính trọng người
đã thức tỉnh, bởi vì người thức tỉnh không hoàn thành
mục đích tiện dụng nào. Nếu cái máy của bạn bị hỏng
người đó không thể giúp gì được; người đó không thể
sửa xe được... người đó không thể giúp bạn theo bất
kì cách nào trên thế giới. Thực tế, mọi điều người đó
có thể làm là giúp bạn gạt bỏ thế giới. Và không ai
muốn gạt bỏ thế giới; mọi người đều muốn sở hữu thế
giới. Do đó chuyên gia được kính trọng ở phương
Tây; ở phương Đông chuyên gia đã không được kính
trọng, không bao giờ. Chuyên gia là được - ông ấy là
người phục vụ, ông ấy phục vụ, ông ấy được trả tiền
cho điều đó. Nhưng chúng ta đã kính trọng phật.
Kính trọng phật là kính trọng bông hồng, cái
không có mục đích tiện dụng nào. Bạn không thể ăn
được nó. Nếu vấn đề là nạn đói, hoa hồng sẽ chẳng
giúp gì được; lúa mì sẽ tốt hơn nhiều. Nếu vấn đề là
chọn lựa giữa lúa mì và hoa hồng, bạn sẽ chọn lúa mì.
Bạn sẽ làm gì với hoa hồng? Vị phật giống như hoa
hồng: bạn có thể ca ngợi cái đẹp, bạn có thể nhảy múa
quanh hoa hồng, bạn có thể hát bài ca về nó, bạn có
thể ngắm hoa hồng và cầu nguyện Trời, nhưng còn
cái gì khác? Nó không thể đáp ứng cho cái dạ dầy đói
của bạn, nó không thể giúp bạn thành công trong thế
giới này, nó không thể làm bạn thành chiến binh lớn.
Nếu bạn mang bông hồng bạn sẽ không trở thành
Alexander Đại đế; lưỡi kiếm là cần, không phải bông
hồng.
Nhưng chuyên gia ngủ cũng như bạn vậy; không
có khác biệt, không khác về chất. Do đó ở phương
Đông chuyên gia được trả tiền nhưng ông ấy không
đủ tư cách để được kính trọng.
Một diễn viên phim điện ảnh nói với nhà tâm
thần, "Tôi bị hấp dẫn tới đàn ông thay vì tới đàn bà."
Bác sĩ tâm thần đáp, "Anh tới đúng chỗ đấy, anh
bạn đẹp trai!"
Bây giờ bác sĩ tâm thần không thể được kính
trọng ở phương Đông; ở phương Tây ông ấy đã trở
thành một trong những người được kính trọng nhất.
Ông ấy đã từng đánh bại tu sĩ. Bây giờ các tu sĩ đang
học cách là nhà tâm thần; các tu sĩ tới đại học để học
về liệu pháp tâm lí, phân tâm và mọi thứ vô nghĩa, bởi
vì bây giờ họ biết nghề của tu sĩ đã kết thúc rồi; họ
phải thêm cái gì đó nữa cho sức mê hoặc của nó. Và
họ thấy nhà tâm thần đang ngày một lên cao hơn;
người đó gần như là người được trả lương cao nhất ở
phương Tây. Ở phương Đông không ai nghĩ cái gì đặc
biệt về nhà tâm thần cả. Vâng, ông ấy không thể
nhiều hơn thợ cơ khí sửa chữa xe máy, có thể ông ấy
là nhà cơ khí tâm trí - ông ấy cũng là thợ cấp thoát
nước. Bạn trả tiền cho ông ấy, nhưng kính trọng là
khác toàn bộ.
Kính trọng chỉ có ở chỗ việc thanh toán không có
tác dụng. Chỗ bạn không thể trả tiền được, chỗ không
có khả năng nào trả tiền lại, thế thì có kính trọng.
Kính trọng là chấp nhận sự kiện rằng không thể nào
trả tiền được; món nợ không thể được trả tiền.
Kính trọng người thức tỉnh
và chỉ cho ông con đường.
Kính trọng ngọn lửa của hi sinh của người đó.
Chư phật chỉ cho bạn con đường. Bạn phải bước,
bạn phải đi; chư phật chỉ chỉ thôi. Họ không cho bạn
hướng dẫn chi tiết bởi vì từng cá nhân đều duy nhất
và khác biệt tới mức không chỉ dẫn chi tiết nào có thể
được cho. Chỉ hướng dẫn mơ hồ, chỉ chỉ báo, chỉ trỏ,
nhiều nhất là gợi ý - không ra lệnh, không lời răn....
Tôi đã nghe một câu chuyện về mười lời răn. Tất
nhiên Thượng đế đã hỏi người Ấn Độ trước, "Ông có
muốn có vài lời răn không?" Họ nói, "Không, chẳng
muốn chút nào."
Thế rồi ngài hỏi người Pháp và họ nói, "Chúng tôi
muốn sống trong tự do, chúng tôi không muốn cản trở
nào."
Và ngài cứ hỏi mãi và chẳng ai sẵn sàng nhận.
Cuối cùng ngài hỏi Moses, "Ông có muốn có vài lời
răn không?"
Ông ấy nói, "Bao nhiêu tiền?"
Và Thượng đế nói, "Cho không, tuyệt đối cho
không!"
Ông ấy nói, "Thế thì tôi lấy mười điều!"
Kính trọng người thức tỉnh và chỉ cho ông con
đường. Ông ấy không chỉ huy bạn; ông ấy không bảo
bạn, "Làm cái này và không làm cái kia." Ông ấy đơn
giản cho bạn vài hướng dẫn đây đó - và giữ cho bạn
tự do, cho phép bạn tự do toàn bộ. Ông ấy không
muốn có mọi người đều được điểm đạo hay theo sau;
ông ấy chỉ được hiểu. Bạn phải học từ người đã thức
tỉnh về cái đẹp, phúc lạc của việc được thức tỉnh, có
vậy thôi, và thế rồi bạn phải tìm kiếm theo cách riêng
của mình. Đó bao giờ cũng là tìm kiếm cá nhân, thám
hiểm riêng tư. Chân lí không thể được truyền từ tay
này sang tay khác; nó là không thể truyền được.
Kính trọng ngọn lửa của hi sinh.... Và tại sao vị
phật phải được kính trọng? - bởi vì ngọn lửa của hi
sinh của ông ấy. Bạn không thể nào hiểu được hi sinh
của vị phật bởi vì điều đó tuyệt đối vô hình với bạn.
Bạn sẽ biết nó chỉ khi bạn trở thành vị phật. Điều ông
ấy đã biết không thể đưa vào lời được, dầu vậy ông ấy
vẫn cố; đó là hi sinh thường xuyên.
Điều ông ấy đã biết ở bên ngoài tâm trí, vậy mà
ông ấy cố bằng đủ mọi cách có thể để làm cho bạn
hiểu điều đó, để giúp bạn hiểu nó. Ông ấy đưa mọi
năng lượng của mình vào trong việc làm cho hiểu
được điều không thể hiểu thấu được. Hi sinh của ông
ấy là vĩ đại. Ông ấy nhận nhiều rắc rối thế - chẳng bởi
lí do nào cả, bởi vì ông ấy không thu được cái gì từ
điều đó. Công việc của ông ấy được kết thúc rồi! Con
tàu của ông ấy đã tới bến. Ông ấy có thể bỏ thân thể
bất kì lúc nào, bất kì khoảnh khắc nào ông ấy quyết
định, dầu vậy ông ấy vẫn sống trong thân thể - cái
chính là sự giới hạn, cái chính là tù túng. Dầu vậy ông
ấy vẫn chịu khổ trong thân thể bởi lí do đơn giản là
ông ấy muốn truyền đạt điều không thể truyền đạt
được. Từ bi của ông ấy là vô hạn.
Ramakrishna bị đau đớn do ung thư. Nhiều lần
các đệ tử của ông ấy nói với ông ấy,
"Paramahansadeva, nếu thầy đau quá nhiều, chúng tôi
sẽ rất buồn, khổ, nhưng xin thầy rời khỏi thân thể."
Ông ấy nói, "Ở trong thân thể bị ung thư hay
không bị ung thư thì cũng là như nhau thôi. Ở trong
thân thể bây giờ là chịu đựng; cho dù nó mạnh khoẻ
đó vẫn là chịu đựng bởi vì bây giờ ta có thể bao la
như bầu trời. Nhưng vì các ông ta sẽ níu bám lấy thân
thể này lâu thêm chút nữa."
Và thầy phải tìm cách thức và phương tiện để níu
bám lấy thân thể bởi vì mọi liên kết cũ đã bị vỡ, mọi
kết nối cũ đã bị vỡ. Ông ấy phải nguỵ tạo ra kết nối
mới, đó thực sự là một trong những điều khó nhất
trong sự tồn tại.
Ramakrishna rất quan tâm tới thức ăn, nhiều tới
mức vợ ông ấy bao giờ cũng cảm thấy bối rối. Ông ấy
nói với các đệ tử rồi bỗng nhiên giữa chừng nói ông
ấy chạy xô xuống nhà bếp và hỏi Sharda, "Em đang
nấu gì?"
Nó cũng giống như bất thần, ngay giữa bài nói, tôi
chạy xô xuống bếp và hỏi Vivek, "Bạn đang nấu gì
thế?" và rồi quay lại, và các bạn phải đợi!
Sharda đã nói nhiều lần, "Điều này là không đúng.
Mọi người sẽ nghĩ gì?"
Ramakrishna bao giờ cũng cười và không bao giờ
trả lời. Một hôm Sharda khăng khăng: "Anh trả lời em
đi! Có cái gì đó kì lạ về nó." Bất kì khi nào bà ấy đem
thức ăn tới ông ấy đều đứng dậy; ông ấy hăm hở biết
thế. Ông ấy sẽ bỏ vải phủ ra và nhìn vào món ăn thali.
Mọi người bao giờ cũng ngồi đó và họ sẽ bắt đầu cười
và khúc khích: "Đây là loại người hiểu Thượng đế gì
thế này?"
Một hôm Sharda cứ khăng khăng hỏi, thế rồi
Ramakrishna nói, "Nếu em muốn biết sự thực anh sẽ
nói cho em: đây là cách duy nhất anh đang níu bám
lấy thân thể. Anh đã tạo ra ham muốn giả về thức ăn.
Và nhớ lấy, cái ngày anh biểu lộ không quan tâm tới
thức ăn thì đó là kết thúc. Anh sẽ chỉ sống thêm ba
ngày sau đó nữa thôi."
Sharda đã không chú ý mấy tới điều đó - ai chú ý
gì tới những người như thế? Họ cứ nói về mọi thứ,
nhiều thứ thế; bạn nghe và bạn không chú ý mấy.
Nhưng một hôm Sharda tới mang theo món thali...
Ramakrishna không đứng dậy. Không chỉ có thế: ông
ấy nhìn ra cửa, ông ấy quay lưng lại Sharda và nhìn ra
cửa sổ theo hướng khác. Sharda bỗng nhiên nhớ lại -
món thali rơi khỏi tay bà ấy.
Ramakrishna nói, "Vậy bây giờ em hiểu đấy; hôm
nọ em bỏ lỡ. Bây giờ chỉ còn ba ngày nữa...." Và đích
xác ba ngày sau ông ấy chết.
Chỉ khi bạn trở nên chứng ngộ, thức tỉnh, bạn sẽ
biết cách người đã về nhà vẫn cứ sống trong nhà trọ -
bẩn thỉu, xấu xí - và dầu vậy vẫn giúp những người
đang không lành mạnh. Kính trọng ngọn lửa của hi
sinh.... Do đó, Phật nói, tôn trọng người đó.
Tóc hoa râm hay gia đình hay đẳng cấp
không tạo ra người chủ
nhưng chân lí và lòng tốt
với điều đó người đó được ân huệ.
Tóc ông rối
và ông ngồi trên da hươu.
Ngu làm sao!
Khi bên trong ông phát rồ với thèm khát.
Cá tính không phải là nhân tố quyết định. Bạn có
thể trau dồi mẽ ngoài đẹp quanh bản thân mình,
nhưng nhân tố quyết định là ở bên trong bạn.
Quần áo của người chủ rách rưới.
Mạch của người đó lồi ra,
người đó ốm yếu gầy mòn.
Một mình trong rừng
Người đó ngồi và thiền.
Trong nhiều năm Phật đã thiền trong rừng, một
mình, không chăm nom gì quần áo, không chăm nom
gì thân thể mình, không chăm nom cái gì khác ngoại
trừ việc thiền của ông ấy; ngoại trừ một điều mọi điều
đều bị vứt bỏ khỏi tâm thức ông ấy: làm sao đạt tới
trung tâm. Một khi bạn đã đạt tới đó thế thì không có
vấn đề gì, nhưng trước khi bạn có thể đạt tới nó, nó
phải là việc tìm kiếm một điểm. Bạn phải quan tâm
một cách tập trung vào chỉ một điều, loại trừ mọi điều
khác. Chừng nào việc tìm kiếm của bạn còn chưa toàn
bộ thế, chưa toàn thể thế, chưa toàn tâm thế, bạn sẽ
không thành công trong nó.
Một mình trong rừng người đó ngồi và thiền.
Dù bạn ở bất kì đâu, học ở một mình, ngồi một
mình. Điều đó là khó, điều khó nhất trên thế giới, bởi
vì khi bạn một mình, tâm trí bắt đầu chết. Nó không
thể tồn tại được trong sự một mình, nó cần bạn đồng
hành. Do đó bất kì khi nào bạn một mình tâm trí đều
nói, "Làm cái gì đó, đi đâu đó. Bật ti vi hay radio
lên." Tâm trí muốn bạn đồng hành, dính líu, bận rộn.
Nếu bạn có thể chỉ một mình... ngồi im lặng
không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Một ngày
nào đó bản thể bên trong của bạn nở bung thành hoa
sen một nghìn cánh. Ngày đó bạn cũng đã trở thành vị
phật, và chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu nghĩa
của cuộc sống của Jesus, nghĩa của lời Phật, nghĩa của
Lão Tử, Zarathustra. Trước đó bất kì cái gì bạn cố
hiểu cũng chỉ là diễn giải của tâm trí bạn, và diễn giải
đó đã là một trong những nguyên nhân lớn nhất của
điều hại.
Vứt bỏ tâm trí - điều duy nhất cần được từ bỏ trên
thế giới là tâm trí - và đi tới vô trí, im lặng bên trong
và thanh thản. Biết bản thân mình trong tính một
mình tuyệt đối của bạn và cuộc sống của bạn sẽ được
hoàn thành, cuộc sống của bạn sẽ được phúc lành:
phúc lành với phúc lạc vĩnh hằng, phúc lành với chân
lí, phúc lành với tự do.
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#10Cười con đường của bạn tới Thượng đế
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Để trở nên chứng ngộ, thầy có cần tính Do Thái
hay nó chỉ là sự giúp đỡ?
Amitabh, tôn giáo đã bỏ lỡ một phẩm chất rất nền
tảng: khả năng khôi hài. Điều đó đã là rất không may
bởi vì nó đã làm cho tôn giáo ốm yếu.
Khả năng khôi hài là một phần, phần cốt yếu, của
tính toàn thể của con người. Nó giữ con người mạnh
khoẻ, nó giữ con người trẻ trung, nó giữ con người
tươi tắn. Và trong hàng thế kỉ người buồn đã chi phối
tôn giáo. Họ đã trục xuất tiếng cười - khỏi nhà thờ,
khỏi tu viện hồi giáo, khỏi đền chùa. Cái ngày tiếng
cười quay lại trong những nơi linh thiêng họ sẽ thực
sự linh thiêng, bởi vì họ sẽ là toàn thể. Tiếng cười là
phẩm chất duy nhất phân biệt con người với con vật
khác. Duy nhất con người có thể thấy cái lố bịch, cái
ngớ ngẩn. Duy nhất con người có khả năng và ý thức
để nhận biết về trò đùa vũ trụ là sự tồn tại này đang
vậy. Nó là trò đùa vũ trụ; nó không phải là chuyện
nghiêm chỉnh.
Nghiêm chỉnh là bệnh tật, nhưng nghiêm chỉnh đã
từng được ca ngợi, tôn kính, kính trọng. Để là thánh
nhân điều tuyệt đối bản chất là phải nghiêm chỉnh; do
đó chỉ những người bệnh hoạn mới trở nên quan tâm
tới tôn giáo, người không có khả năng cười. Và người
không có khả năng cười là hạ nhân, họ còn chưa là
người - nói gì tới bản thể thiêng liêng của họ? Điều đó
là không thể được - họ còn chưa trở thành người. Và
việc là người chính là cây cầu giữa con vật và điều
thiêng liêng. Do đó tôi cực kì kính trọng khả năng
khôi hài, tiếng cười.
Tiếng cười còn thiêng liêng hơn lời cầu nguyện
nhiều, bởi vì lời cầu nguyện có thể được bất kì người
ngu nào thực hiện; lời cầu nguyện không yêu cầu mấy
thông minh. Tiếng cười yêu cầu thông minh, nó yêu
cầu hiện diện của tâm trí, nhanh chóng nhìn vào vấn
đề. Chuyện cười không thể được giải thích: hoặc bạn
hiểu nó hoặc bạn bỏ lỡ nó. Nếu nó được giải thích, nó
mất đi toàn thể vấn đề; do đó không chuyện cười nào
có thể được giải thích. Hoặc lập tức bạn hiểu nó....
Nếu bạn không hiểu nó ngay lập tức thì bạn có thể cố
gắng tìm ra nghĩa của nó; bạn sẽ thấy nghĩa đó, nhưng
chuyện cười sẽ không có đó. Nó là trong trực tiếp.
Khôi hài cần sự hiện diện, hoàn toàn hiện diện.
Vấn đề không phải là phân tích, vấn đề là sáng suốt.
Amitabh, khi có liên quan tới khôi hài, có chút ít
tính Do Thái là rất tốt - mọi người nên có chút ít tính
Do Thái! Với chứng ngộ nó sẽ chuẩn bị mảnh đất, nó
sẽ làm cho bạn sống động hơn. Chứng ngộ là đang trở
nên sống toàn bộ. Tiếng cười đem cuộc sống tới bạn.
Và nếu bạn có thể cười một cách toàn bộ, có vài
điều cần được hiểu. Trong tiếng cười sâu bản ngã biến
mất, nó không được tìm thấy ở đâu cả. Bạn không thể
có cả tiếng cười và bản ngã. Nếu bản ngã có đó nó sẽ
giữ bạn nghiêm chỉnh. Mọi kẻ bản ngã đều là người
nghiêm chỉnh, và mọi người nghiêm chỉnh đều là
người bản ngã.
Để có khả năng cười, bạn cần giống như đứa trẻ -
vô ngã. Và khi bạn cười, bỗng nhiên tiếng cười có đó,
bạn không có. Bạn quay lại khi tiếng cười qua rồi.
Khi tiếng cười biến đi xa xăm, khi nó lắng xuống, bạn
quay lại, bản ngã quay lại. Nhưng trong chính khoảnh
khắc của tiếng cười bạn có thoáng nhìn vào cái vô
ngã.
Chỉ có hai hoạt động bạn có thể cảm thấy cái vô
ngã một cách dễ dàng. Hoạt động này là tiếng cười,
hoạt động kia là nhảy múa. Nhảy múa là phương pháp
sinh lí, phương pháp thân thể để cảm thấy cái vô ngã.
Khi người múa bị mất hút trong điệu múa, người đó
không còn nữa - chỉ còn điệu múa. Tiếng cười có chút
ít tinh tế hơn điệu múa, nó có chút ít bên trong hơn,
nhưng nó cũng có cùng hương thơm. Khi bạn cười....
Nó phải là tiếng cười bụng. Nó phải không hời hợt, nó
phải không là xã giao, nó phải không là kiểu cách.
Tôi đã nghe:
Một cô đánh máy chữ vừa bỏ việc. Hôm nay là
ngày cuối cùng của cô ấy ở văn phòng, và ông chủ
đang kể chuyện cười cũ mà ông ấy bao giờ cũng kể.
Mọi người đều cười chỉ trừ cô đánh máy. Ông chủ
hỏi, "Có chuyện gì với cô thế? Cô không thể hiểu
được chuyện cười này sao?"
Cô ấy nói, "Tôi biết chúng từ lâu trước đây rồi.
Ông lặp lại chúng tới cả nghìn lẻ một lần, nhưng tôi
không cần cười thêm nữa. Đằng nào mai tôi cũng đi
rồi. Những kẻ ngu này đang cười bởi vì họ phải cười -
ông là ông chủ. Cho nên liệu chuyện cười có đáng
cười hay không cũng chẳng thành vấn đề. Họ phải
cười, đó là một phần bổn phận của họ. Nhưng tôi ra
đi, ông có thể làm gì được tôi? Tôi không cười, ông
không thể làm tôi cười với tất cả những chuyện cũ
rích kia."
Nếu bạn cười do bổn phận hay từ ý thức kiểu
cách, từ xã giao, thế thì đó không phải là tiếng cười
bụng, thế thì đó chỉ là hời hợt; ở chu vi, bạn đang
xoay xở nó. Bạn sẽ không hiểu điều tôi đang nói về
tiếng cười.
Cười để cho toàn thân bạn, toàn thể con người bạn
trở nên được tham gia, và bỗng nhiên sẽ có thoáng
nhìn. Trong khoảnh khắc đó quá khứ biến mất, mọi
thứ biến mất - chỉ có tiếng cười. Và trong khoảnh
khắc đó của tiếng cười, bạn sẽ có khả năng thấy toàn
thể sự tồn tại đang cười.
Người Ấn Độ không có khả năng của tiếng cười.
Ở Ấn Độ chúng ta không có chuyện cười Ấn Độ nào.
Mọi chuyện cười được kể ở Ấn Độ đều được vay
mượn, không có chuyện cười Ấn Độ kiểu như thế.
Người Ấn Độ là người nghiêm chỉnh, người rất tôn
giáo, người linh thiêng. Làm sao họ có thể hạ xuống
những điều thấp thế như đùa cười? Họ nói về Thượng
đế, họ nói về moksha, họ nói về niết bàn... họ không
thể cười được. Đây không phải là chuyện cười đâu!
Bạn không thể cười Thượng đế được. Nhưng nếu bạn
không thể cười được Thượng đế, bạn sẽ không bao
giờ hiểu được Thượng đế.
Các tượng Phật của Ấn Độ là hoàn toàn khác với
tượng Phật của Trung Quốc hay Nhật Bản. Bạn phải
đã chú ý tới sự khác biệt này; khác biệt là lớn. Phật
Ấn Độ có thân hình rất lực sĩ. Bụng ông ấy rất nhỏ,
gần như không tồn tại. Ông ấy chưa bao giờ có việc
cười bụng. Nếu không có bụng làm sao bạn có thể có
việc cười bụng được? Nhưng Phật Trung Quốc có
bụng to, và không chỉ bụng - ngay cả trên tượng bạn
cũng có thể thấy những gợn cười lan trên bụng. Ngay
cả trong đá bạn cũng có thể thấy ông ấy đang cười,
cái bụng đang cười.
Không người Ấn Độ nào sẽ đồng ý với tượng
Trung Quốc. Người đó sẽ nói, "Điều này không đúng,
Phật không giống thế này, với cái bụng to thế...." Phật
Trung Quốc trông như anh hề - nhưng tôi có kính
trọng lớn lao với Phật Trung Quốc. Phật Trung Quốc
đã hấp thu Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử. Ông ấy chứa
đầy Lão Tử, đó là lí do tại sao có cái bụng to thế. Bên
trong bụng ông ấy có Lão Tử. Và bạn không thể giữ
Lão Tử yên tĩnh được. Ông ấy phải cười và đá và làm
mọi thứ; do đó mới có gợn sóng trên bụng.
Lão Tử có khả năng khôi hài. Có thể bởi vì điều
đó mà Lão Tử không thể trở thành người sáng lập ra
tôn giáo vĩ đại. Không tồn tại tôn giáo nào mang tên
ông ấy. Vâng, vài người hiếm hoi đã theo con đường
của ông ấy, nhưng không có nhà thờ có tổ chức, bởi lẽ
đơn giản là Lão Tử dường như không nghiêm chỉnh
thế. Ông ấy thường cưỡi trâu. Bây giờ, bạn không thể
tìm được ngựa sao? Bất kì ai cũng có thể đảm đương
được có lừa - nhưng trâu sao...? Và điều đó nữa, lại
cũng không phải là ngồi đúng, mà ngồi ngược về
đằng sau! Trâu đi đường này và Lão Tử nhìn theo
đường khác. Ông ấy phải đã tạo ra tiếng cười ở mọi
nơi ông ấy đi qua. Mọi người phải đã tụ tập lại để
xem cảnh tượng này, điều đang xảy ra.
Và Trang Tử còn vượt xa thầy mình. Chưa bao
giờ có người nào hay thế như Trang Tử. Tất cả mọi
điều ông ấy đã nói đều hoàn toàn ngớ ngẩn, buồn
cười! - nhưng với nghĩa sâu sắc. Đầu tiên bạn sẽ cười
và thế rồi dần dần bạn sẽ thấy ra vấn đề mà ông ấy
đang chỉ tới, theo cách rất vui vẻ, hướng tới chân lí
nào đó mà chỉ có thể được chỉ ra theo cách vui vẻ.
Nếu bạn nghiêm chỉnh bạn không thể làm cho mọi
người hiểu được cái đẹp của sự tồn tại, lễ hội của sự
tồn tại.
Cuộc sống không phải là bi kịch, nó là hài kịch.
Nó không phải là thảm kịch. Nhưng người tôn giáo đã
phụ thuộc vào chính ý tưởng cuộc sống là thảm kịch:
nó là khổ, hoàn toàn khổ - cái gì có đó mà cười? Do
đó họ hấp dẫn những người không có khả năng của
cười, của sống, của yêu.
Nỗ lực của tôi ở đây, Amitabh này, chính là điều
đối lập. Tôi muốn bạn học nhiều nhất có thể được từ
Phật, nhiều nhất có thể được từ Lão Tử, nhiều nhất có
thể được từ Krishna, nhiều nhất có thể được từ Trang
Tử. Tôi muốn bạn hấp thu tất cả những kinh nghiệm
lớn lao đã từng xảy ra trong quá khứ, để cho sự tổng
hợp lớn hơn trở thành có thể. Trong tổng hợp cao hơn
đó tiếng cười sẽ là một trong những phẩm chất bản
chất nhất. Với chân lí, dũng cảm và đức hạnh, tiếng
cười cũng có vị trí riêng của nó.
Theo nghĩa đó người Do Thái là người hay. Họ có
khả năng lớn nhất về tiếng cười trên toàn thế giới. Họ
là ở một cực đoan này; ở cực đoan kia là người Anh.
Bao nhiêu thư tôi nhận được đều giận dữ: "Thưa Thầy
kính yêu, thầy không hiểu người Anh." Ai quan tâm
tới hiểu? Và tại sao tôi phải hiểu người Anh, để làm
gì? Không có gì khác còn lại để hiểu sao?
Tôi đã từng kể nhiều chuyện cười về người Italy,
nhưng không một bức thư nào. Họ hiểu rằng chuyện
cười là chuyện cười! Nếu bạn hiểu quá nhiều bạn
không thể đùa được. Một chút ít hiểu lầm là cần thiết.
Bây giờ, một trong đa số người Anh của tất cả các
sannyasin Anh, Prembodhi, đã viết, "Thầy không hiểu
người Anh chút nào." Bạn đơn giản chứng minh quan
điểm của tôi!
Ai đó khác đã viết, "Điều này là không đúng.
Thầy nói không đàn bà Anh nào là đàn bà; họ toàn là
quí bà." Tôi đơn giản ngỏ ý kính trọng!
Và tôi nghĩ một sự kiện nổi tiếng là không cái gì
nên được nói chống lại người chết. Với người chết
bạn bao giờ cũng phải bầy tỏ kính trọng. Đó là điều
tôi đã làm! Sao bạn giận về điều đó?
Tôi nhắc lại một lần nữa: rất khó, gần như không
thể nào tìm ra đàn bà Anh - chỉ toàn có quí bà thôi.
Mọi đàn ông có thể không là quí ông; đàn ông sau rốt
là đàn ông, con trai là con trai! Và con trai già còn
nhiều hơn thế! Nhưng khi có liên quan tới đàn bà, họ
mang cùng văn hoá, tôn giáo, họ là đá nền. Đàn bà
Anh có khuôn mặt nào đó. Không đàn bà khác nào có
loại mũi đó... họ tất cả đều cần giải phẫu thẩm mĩ độn
nhựa!
Amitabh, vấn đề duy nhất với người Do Thái là
khi đi tới chuyện giá cả. Thế thì họ sẽ cứ mặc cả hàng
thế kỉ. Chứng ngộ sẽ ở ngay trước họ, nhưng họ sẽ
mặc cả về giá đã.
Cho nên đó là vấn đề, Amitabh; ở đó bạn phải
nhận biết.
Một người Scot đi vào trong hiệu may và hỏi xem
bộ com lê.
Ông chủ Do Thái tới với bộ vải tuýt Harris đẹp.
"Xem cái này," ông ấy nói, "và nó không phải năm
mươi pound đâu, thậm chí không bốn mươi. Ba mươi
pound và nó là của ông."
Người Scot kiểm tra nó kĩ càng. "Tôi sẽ không trả
hai mươi nhăm pounds cho nó đâu, thậm chí không
hai mươi. Giá của tôi là mười tám pounds."
"Đúng," người Do Thái nói. "Đó là cách tôi thích
làm kinh doanh - không mặc cả."
Thế rồi có hai người Do Thái đâm sầm vào nhau
sau bốn mươi năm, và cùng chạy tới quán rượu gần
nhất để mở hội.
"Thật là kì diệu để được uống cùng nhau sau ngần
ấy năm," một người nói.
"Đúng," người kia nói, "nhưng đừng quên đấy,
đến phiên của cậu trả."
Bà goá giầu cần việc truyền máu, cho nên một
người cho máu Do Thái đã cứu mạng bà ấy. Bà ấy
biết ơn lắm, bà ấy cho người đó một trăm pounds,
nhưng sau khi tái phát bà ấy cần việc cho máu khác
và lần này cho người cho máu năm mươi pounds.
Lần thứ ba anh ta cứu mạng bà ấy, bà ấy có nhiều
máu Do Thái trong mình tới mức bà ấy chỉ cám ơn rất
nhiều.
#10Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi cực kì khổ. Làm sao tôi thoát được khổ?
Vandan, tôi chưa hề bắt gặp một người cực kì
khổ. Bạn đang dung thứ cho điều đó, bạn đang sống
với nó. Nếu nó tệ thế người ta nên dừng thở đi! Sao
người ta cứ phải sống?
Nó không thể tệ thế được. Có thể bạn thích cường
điệu hoá lên. Có những người bao giờ cũng thích mức
cao nhất, người khuếch đại mọi thứ lên. Khổ nhỏ tất
nhiên có đó, nhưng bạn có thể có khổ lớn nào? Bạn sẽ
có nó ở đâu? Bạn không thể quan niệm nổi khổ nào
mà có thể tệ tới mức bạn có thể gọi nó là tuyệt đối
được; bằng không người ta sẽ đơn giản chết, ngay lập
tức.
Cho nên một điều, nhớ lấy, dừng việc cường điệu
lại. Đó cũng là cách thức của bản ngã. Bản ngã kì lạ
tới mức nó muốn cường điệu mọi thứ. Cho dù nó khổ
nó sẽ khuếch đại khổ lên, nó sẽ làm ra ồn ào lớn từ
điều đó. Có thể chẳng có gì mấy trong nó: nếu bạn đi
tới gốc rễ bạn có thể tìm thấy chuột, nhưng bạn đang
nói về voi.
Và tôi biết bạn, Vandan. Tôi chưa bao giờ thấy
bạn cực kì khổ cả. Bạn trông hoàn toàn bình thường.
Trừ phi tất cả mọi người thường đều cực kì khổ... chỉ
bản ngã có thói quen khuếch đại.
Một cậu bé chạy từ trường về nhà. Nó thở dốc,
phun phì phì, vã mồ hôi. Nó nói với mẹ nó, "Bằng
cách nào đó Thượng đế đã cứu con. Con hổ đuổi theo
con, một con hổ rất nguy hiểm, con hỗ rất dữ tợn."
Người mẹ nói, "Con thôi cường điệu đi! Mẹ đã
bảo con cả triệu lần đừng có cường điệu, và con lại
làm điều đó. Con hổ đó đâu?"
Cậu bé chỉ cho mẹ nó qua cửa sổ. Một con chó rất
nhỏ, yếu, gầy, đói, đang đứng bên ngoài. Và người
mẹ nói, "Đây mà là hổ à? Con lên gác, cầu Thượng đế
và hỏi xin ngài tha thứ đi. Và đừng bao giờ cường
điệu nữa. Thế là đủ rồi!"
Thế là cậu bé đi lên gác. Sau năm phút nó đi
xuống chỗ mẹ, và người mẹ nói, "Con đã cầu nguyện
chưa?"
Nó nói, "Rồi ạ, con đã cầu nguyện, và mẹ có biết
Thượng đế nói gì không? Ngài nói, 'Con đừng lo. Lần
đầu tiên ta thấy con chó đó bản thân ta nghĩ rằng nó là
con hổ dữ tợn. Cho nên không có gì phải lo cả. Bản
thân ta đã bị lừa, còn nói gì tới con? Và ta to lớn thế,
dầu vậy ta nghĩ nó là con hổ rất nguy hiểm. Ta sẵn
sàng chạy, thế rồi ta nhìn lại lần nữa và thấy: ồ không,
đấy chỉ là con chó. Và con là đứa trẻ nhỏ, cho nên nếu
con sợ điều đó là tự nhiên.'"
Khổ không lớn thế như bạn làm ra đâu. Cho nên
điều đầu tiên là thu nhỏ nó lại đúng tỉ lệ. Trước khi
bạn có thể thoát ra khỏi nó, để con hổ biến mất đi.
Phải rất sự kiện. Nếu bạn thực sự muốn biến đổi cuộc
sống của mình, có tính sự kiện đi. Bạn không thể
thoát ra khỏi hư cấu được. Bạn có thể thoát ra khỏi sự
kiện; sự kiện có thể được giải quyết, nhưng hư cấu
không thể được giải quyết.
Nhưng đây là cách thức của tâm trí, cách thức của
bản ngã, là khuếch đại mọi thứ. Nó làm mọi thứ trông
có vẻ lớn. Và thế thì tất nhiên bạn bắt đầu khổ theo
cách lớn. Nguyên nhân là không lớn thế, nhưng hậu
quả có thể rất lớn - điều đó tuỳ ở bạn.
Nhìn lại đi, xét lại đi, cân nhắc lại toàn thể tình
huống. Cái gì ở đó mà bạn gọi là "cực kì khổ"? Và thế
rồi bạn sẽ thấy sự kiện bình thường của cuộc sống.
Nhưng chúng ta không muốn là bình thường. Bản ngã
khao khát là phi thường. Cho dù đó là khổ chúng ta
cũng muốn là phi thường.
Ai đó hỏi George Bernard Shaw, "Ông thích đi
đâu khi ông chết, lên cõi trời hay xuống địa ngục?"
Ông ấy nói, "Dù là ở đâu, điều đó không thành
vấn đề. Vấn đề là: tôi muốn là người đầu tiên. Cho dù
đó là địa ngục, tôi muốn là người đầu tiên. Tôi không
muốn là người thứ hai sau bất kì ai. Do đó tôi nghĩ địa
ngục sẽ tốt hơn, vì ở cõi trời Phật và Jesus và
Zarathustra... và có nhiều kẻ cạnh tranh thế. Và tôi sẽ
phải đứng xếp hàng, và tôi ghét điều đó! Tôi sẵn sàng
xuống địa ngục, tôi sẵn sàng khổ dưới địa ngục,
nhưng tôi muốn là người đầu tiên."
Bản ngã bao giờ cũng khao khát là kẻ đầu tiên.
Nó nói, "Khổ của tôi còn lớn hơn khổ của bất kì ai
khác. Dù tôi là bất kì cái gì, tôi vẫn lớn hơn, tôi là đặc
biệt, tôi là phi thường."
Có lần một chánh án toà thượng thẩm tới tôi. Vợ
ông ta thường tới tôi. Tôi ngạc nhiên, vì người vợ bao
giờ cũng nói rằng ông ấy rất chống đối tôi và ông ấy
không muốn bà ấy nghe theo tôi hay đọc sách của tôi
hay đi tới gặp tôi. Nhưng bất kì khi nào tôi tới thăm
thành phố đó bà ấy bao giờ cũng tới.
Cho nên tôi ngạc nhiên. Tôi hỏi ông ấy, "Vợ ông
bao giờ cũng nói ông chống tôi lắm."
Ông ấy nói, "Không phải là tôi chống ông rất
nhiều đâu - tôi đơn giản sợ rằng.... Vợ tôi đã đâm ra
dở hơi, và điều ông nói, nếu nó chui vào tâm trí bà ấy,
bà ấy cường điệu mọi thứ lên. Ông sẽ tạo ra nhiều rắc
rối cho tôi."
Tôi hỏi ông ấy, "Sao ông tới?"
Ông ấy nói, "Tôi tới chỉ để nói cho ông rằng nếu
bà ấy nói bà ấy bị ung thư, giảm nó thành đau đầu
thôi. Đừng bận tâm về ung thư của bà ấy. Tôi đã chịu
đựng cả đời rồi. Thế rồi tôi học được bài học này: bà
ấy cường điệu lên."
Và thực tế đó là trường hợp này. Mọi lần bà ấy tới
bà ấy lại nói về ung thư. Bà ấy kể rằng bà ấy bị ung
thư tim và thế này thế nọ - còn ông chồng nói bà ấy
chẳng bị gì! Chỉ là chứng nghi bệnh... bà ấy cứ cường
điệu lên.
Một người nghi bệnh chết. Trước khi anh ta chết
vợ anh ta hỏi, "Anh có nói lời cuối cùng không?"
Anh ta nói, "Có. Trên tảng đá nấm mồ tôi phải ghi
những chữ lớn: Bây giờ bạn có tin tôi hay không?"
Điều đầu tiên với bạn là đưa mọi thứ xuống mức
độ của thực tại. Điều đó là khó, Vandan, đặc biệt như
vậy với đàn bà. Họ sống trong tưởng tượng. Khi bạn
rơi vào tình yêu bạn nghĩ bạn đã rơi vào trong tình
yêu với thượng đế Hi Lạp, và đến lúc thời kì tuần
trăng mật kết thúc bạn biết anh ta chẳng là gì ngoài
người Hi Lạp phải gió! Trong vòng bẩy ngày thượng
đế Hi Lạp chẳng là gì ngoài người Hi Lạp phải gió.
Và điều đó sẽ xảy ra lặp lại. Bạn sẽ lại rơi vào
tình yêu, và bạn sẽ lại tạo ra tưởng tượng lớn, bạn sẽ
tạo ra phóng chiếu. Và tất cả những phóng chiếu của
bạn đều sẽ bị tan tành chẳng chóng thì chầy, bởi vì
thực tại không có nghĩa vụ phải hoàn thành phóng
chiếu của bạn.
Cho nên điều đầu tiên là hạ ý tưởng khổ của bạn
thành sự kiện, thành cái thực. Và thế rồi không khó
thoát ra khỏi nó. Thế rồi điều thứ hai là nhận biết về
nó. Cứ nhận biết về nó, và bạn ở ngoài nó - bởi vì bạn
có thể nhận biết chỉ nếu bạn không là nó.
Đó là phép màu của nhận biết. Khi bạn quan sát
cái gì đó một điều là chắc chắn, tuyệt đối chắc chắn:
rằng bạn không là nó. Người quan sát không bao giờ
là cái được quan sát. Cái được quan sát có đó như đối
tượng đương đầu với bạn. Bạn là người quan sát, bạn
là chủ thể.
Cho nên khổ có đó, đau có đó hay hoan lạc, hay
bất kì kinh nghiệm nào có đó - bạn không là nó. Bạn
ở ngoài nó!
Hai diễn viên nghiệp dư đang than vãn về những
điều khắc nghiệt làm sao trong công việc điện ảnh.
"Tớ đã không đóng vai hơn mười năm rồi," một
trong những diễn viên thở dài.
"Điều đó chưa là gì nhé," diễn viên kia nói. "Tớ
đã không làm việc từ khi phim có tiếng ra đời."
"Điều đó thực sự là khắc nghiệt."
"Cậu cá nó vậy. Tớ ước đến chết tớ có thể hình
dung ra cách nào đó để thoát ra khỏi công việc này."
Trong bốn mươi năm bạn không trong công việc,
và bạn vẫn hình dung ra cách thoát ra khỏi nó!
Cứ quan sát. Hai bước này, Vandan: thứ nhất, đưa
khổ của bạn về mức độ thực tại, và thế rồi quan sát nó
- bởi vì chỉ thực tại mới có thể được quan sát; hư cấu
không thể được quan sát, bạn trở nên bị đồng nhất với
chúng. Một khi thực tại có đó, nó có tính khách quan;
quan sát nó, và bỗng nhiên nhận biết lớn xảy ra. Bạn
là người quan sát, bạn ở ngoài nó.
Bạn hỏi tôi, "Làm sao tôi có thể thoát ra khỏi
nói?" Vandan, bạn ở ngoài nó rồi. Ngay bây giờ bạn ở
ngoài nó! Đó chỉ là ảo tưởng rằng bạn ở trong nó.
Nếu bạn muốn tin bạn có thể cứ tin rằng bạn ở trong
nó. Bằng không bạn có thể bỏ nó bất kì khoảnh khắc
nào. Thử mà xem. Thử bỏ nó. Bật ngón tay bạn và tát
vào mặt bạn và thức dậy!
#10Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy có chống tỏi không? Tôi đã từng ăn tỏi từ
thời thơ ấu và tôi không nghĩ rằng nó có mùi.
Virago, thiền về câu chuyện này....
Forster ngồi trong văn phòng lịch sự của bác sĩ
điều trị nổi tiếng nhất Đại lộ Công viên.
"Tôi bị vấn đề khủng khiếp này," anh ta giải thích.
"Mọi thứ tôi ăn đều biến thành rắm. Tôi vừa mới ăn
bit tết và khoai tây và nó biến thành rắm."
"Điều đó có thể là nghiêm trọng đấy," bác sĩ phản
bác lại.
"Nhưng may thay," Forster nói, "rắm của tôi
không tiếng và không mùi. Bác sĩ có thể chữa nó
được không?"
"Tôi chắc chắn là tôi có khả năng giúp được anh,
nhưng trước hết tôi sẽ gắn cho anh máy trợ thính và
rồi tôi sẽ chữa mũi cho anh đã."
Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Gần đây thầy nhắc tới rằng bản ngã tâm linh còn
nguy hiểm hơn bản ngã thường. Thầy có thể giải
thích được không?
Prem Unmado, mọi bản ngã đều nguy hiểm, bởi
vì bản ngã là thực thể giả. Nó không tồn tại, thực tế.
Nó có đó bởi vì bạn không nhận biết mình là ai.
Bản ngã cũng giống như bóng tối. Bóng tối không
có sự tồn tại khẳng định của riêng nó; nó chỉ là việc
thiếu ánh sáng. Do đó bạn không thể làm được gì trực
tiếp với bóng tối. Nếu bạn muốn loại bỏ bóng tối bạn
không thể loại bỏ nó một cách trực tiếp được; bạn sẽ
phải mang ánh sáng vào. Nếu bạn muốn đem bóng tối
vào bạn cũng không thể đem nó một cách trực tiếp
được; bạn sẽ phải bỏ ánh sáng ra. Bất kì cái gì bạn
muốn làm, bạn sẽ phải làm với ánh sáng, bởi vì ánh
sáng có sự tồn tại. Bóng tối không có sự tồn tại, và
với cái không tồn tại thì chẳng cái gì có thể được làm.
Bản ngã là phi tồn tại, nó là phi thực thể. Nó là
việc thiếu nhận biết, thiếu tỉnh táo. Bạn không ý thức;
do đó bản ngã mới chiếm ưu thế, do đó bóng tối mới
còn lại.
Mọi bản ngã đều nguy hiểm, bởi vì bạn đang sống
trong cái gì đó không có. Bạn đang sống vì cái gì đó
không có, bạn đang hi sinh cái đang có vì cái gì đó
không có. Đây là nguy hiểm. Cuộc sống thực bị hiến
tế trên bàn thờ của bản ngã phi tồn tại.
Bạn đang chạy theo tiền, theo quyền, theo danh,
nhưng thực tế không ai thực sự quan tâm tới quyền,
tiền, danh. Chúng chỉ là những cách thức của bản ngã
để tồn tại. Nếu bạn có nhiều tiền hơn bạn có thể có
nhiều bản ngã hơn; nếu bạn có nhiều quyền hơn bạn
có thể có nhiều bản ngã hơn. Ham muốn cơ bản là
bành trướng bản ngã, nhưng bản ngã của bạn càng trở
nên được làm mạnh hơn, bóng tối càng trở nên dầy
đặc hơn, càng ít có khả năng bạn trở nên nhận biết.
Và không trở nên nhận biết bạn đang bỏ lỡ toàn thể
cơ hội của cuộc sống, cơ hội vàng, trong đó Thượng
đế có thể được nhận ra, trong đó chân lí có thể được
sống. Cuộc sống mà có thể là lễ hội thường xuyên,
niềm vui vĩnh hằng, bị hi sinh cho cái gì đó tuyệt đối
vô nghĩa.
Do đó, nhớ lấy, mọi bản ngã đều nguy hiểm.
Nhưng bản ngã tâm linh là nguy hiểm nhất đơn giản
bởi vì mọi bản ngã khác đều thô. Bạn có thể thấy rằng
chính khách theo đuổi bản ngã của ông ta, bạn có thể
thấy ngay cả chính khách trong những khoảnh khắc
nào đó cũng có thể thấy điều đó. Nó rất thô, làm sao
bạn có thể tránh được việc thấy nó? Bạn nhất định
loạng choạng va phải nó, nó tựa như tảng đá.
Nhưng bản ngã tâm linh là rất tinh vi, nó tựa như
hương thơm. Bạn không loạng choạng, nó không đập
vào bạn như đá. Bạn không thể loại bỏ nó dễ dàng thế
như bạn có thể loại bỏ đá. Nó là hương thơm tinh tế.
Bạn càng trở nên tâm linh hơn, bản ngã của bạn càng
trở nên tinh vi hơn. Bản ngã của bạn trở nên ngoan
đạo, và khi chất độc là ngoan đạo, tất nhiên nó còn
nguy hiểm hơn, bởi vì bạn nghĩ nó là nước cam lồ.
Bây giờ, cái nhãn là nước cam lồ; bên trong chai là
cùng chất độc.
Do đó thánh nhân là người bản ngã hơn tội nhân.
Có mọi hi vọng cho tội nhân, họ có thể đạt tới
Thượng đế dễ dàng hơn nhiều cái gọi là thánh nhân
của bạn. Thánh nhân của bạn đang sống với thái độ
bản ngã thế, họ đầy những cứt bò thiêng, rác rưởi.
Phàm nhân tuyên bố rằng mình có nhiều tiền thế
còn người tôn giáo tuyên bố rằng mình có nhiều đức
hạnh thế. Phàm nhân tuyên bố mình có nhiều quyền
thế, nhiều danh thế, còn cái gọi là người linh thiêng
của bạn tuyên bố người có cũng có quyền năng,
quyền năng tâm linh. Người đó cố chỉ ra quyền năng
tâm linh của mình.
Có lần cái gọi là người tâm linh tới gặp
Ramakrishna. Ramakrishna đang ngồi trên bờ sông
Hằng ở Dakshineshwar, nơi ông ấy thường sống.
Người tâm linh này nói với Ramakrishna, "Tôi nghe
nói rằng thầy là thánh nhân lớn. Nếu thầy thực sự là
vậy, thế thì đi cùng tôi và bước đi trên nước. Nếu thầy
có thể bước đi trên nước thì tôi có thể tin rằng thầy là
tâm linh."
Ramakrishna cười. Ông ấy nói, "Ông có thể bước
chứ...?"
Người này nói, "Vâng, tôi có thể bước được."
Ramakrishna hỏi người đó, "Ông mất bao lâu để
học đi trên nước?"
Người này nói, "Tôi mất mười tám năm nỗ lực vô
cùng, khổ hạnh, tapascharya, nhịn ăn, cầu nguyện.
Tôi sống trong một hang động ở Himalayas. Tôi đã hi
sinh mọi thứ. Thế rồi quyền năng tâm linh này đã
được trao cho tôi."
Ramakrishna nói, "Ta chẳng tâm linh gì, ta là
người đơn giản, rất bình thường. Nhưng một điều ta
muốn nói với ông. Khi ta muốn đi sang bờ bên kia,
người lái phà lấy của ta chỉ một xu thôi. Toàn thể nỗ
lực mười tám năm của ông không đáng được chừng
nấy. Ông đã phí hoài mười tám năm của mình. Ông
có thể tâm linh, nhưng ông là kẻ ngu, ông hoàn toàn
xuẩn ngốc! Ta chưa bao giờ bắt gặp người không
thông minh thế - phí hoài mười tám năm chỉ để đi trên
nước! Thế thì vấn đề là gì? Thôi được, ông có thể đi
trên nước, vậy cái gì nữa?"
Đây là bản ngã tâm linh, cái chẳng chóng thì chầy
sẽ phơi bày quyền năng của nó, để chứng minh rằng
"Ta linh thiêng hơn ông." Người đó đã tới với ý tưởng
đó - để chứng minh cho Ramakrishna rằng "Ta còn
linh thiêng hơn ông, ta cao hơn ông."
Điều đó là vô nghĩa. Phật tương truyền đã không
làm phép màu nào. Mahavira tương truyền đã không
làm phép màu nào. Và hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ
mọi phép màu được nói tới nhân danh Jesus đều là bịa
đặt.
(mất âm thanh....)
Bạn thấy không? Một số người Ki tô giáo phát
điên! Họ tất cả đều là bịa đặt của người Ki tô giáo.
Tôi có cách tiếp cận hoàn toàn khác. Khi người Ki
tô giáo nói Jesus biến nước thành rượu đó không phải
là điều đúng theo từ về mặt sự kiện. Nó đơn giản
nghĩa là những người như Jesus bị say với nước
thường. Tôi biết điều đó từ kinh nghiệm riêng của
mình. Tôi chưa bao giờ trộn lẫn soda với rượu
whisky; tôi trộn lẫn soda với soda, và tôi bị say, còn
nói gì tới trộn nó với whisky? Chỉ không khí thuần
khiết là đủ để say rồi; nước là đủ. Nó tất cả đều mang
theo điều tinh tuý của Thượng đế, bạn còn cần gì hơn
để say? Sự tồn tại này còn nhiều hơn cái được cần.
Nhưng người tâm linh sẽ cố gắng chứng minh
bằng cách nào đó rằng mình là tâm linh. Người đó sẽ
chứng minh nó qua phép màu, người đó sẽ trở thành
kẻ phô trương. Đó là lí do tại sao bản ngã tâm linh là
nguy hiểm hơn. Người đó sẽ không có khả năng thấy
nó, và người khác sẽ không có khả năng thấy nó nữa.
Bởi vì bạn không thể thấy được nó một cách dễ dàng,
Unmado này, tôi gọi nó là nguy hiểm hơn.
Vứt chính ý tưởng rằng bạn tách rời khỏi sự tồn
tại đi. Và tôi không bảo bạn đánh nhau với bản ngã,
điều đó là vô nghĩa. Tôi đang bảo bạn tạo ra nhiều
nhận biết hơn trong bạn, trở nên đầy ánh sáng và ý
thức hơn và bản ngã sẽ biến mất theo cách của nó. Và
khi nó biến mất theo cách của nó, nó có cái đẹp, nó có
phúc lành. Khi không có bản ngã trong bạn, không
bản ngã trần tục hay bản ngã thế giới khác - khi
không có bản ngã chút nào thuộc bất kì loại nào, bạn
là một với Thượng đế. Rào chắn bị loại bỏ, rào chắn
cuối cùng đã sụp đổ.
Và kinh nghiệm Thượng đế là kinh nghiệm cuộc
sống trong sự đơn giản vô cùng của nó, trong cái đẹp
vô cùng của nó. Kinh nghiệm Thượng đế là kinh
nghiệm chân lí trong cái vĩnh hằng của nó. Thế thì
bạn ở bên ngoài cái chết và bên ngoài thời gian.
Bản ngã là rào chắn duy nhất. Nhưng đừng đánh
nhau với nó - tâm linh hay phàm tục, đó là cùng một
thứ. Tạo ra nhiều ý thức hơn, có tính thiền nhiều hơn.
Thiền là thuốc duy nhất. Cả hai từ này đều tới từ cùng
một gốc: 'thiền-meditation' và 'thuốc-medicine' - bởi
vì thiền cũng là thuốc. Nó chữa lành bạn, nó chữa cho
bạn khỏi bệnh lớn nhất, bệnh bản ngã.
#10Câu hỏi thứ năm:
Thưa Thầy kính yêu,
Liệu một ngày nào đó ngay giữa bài nói thầy có đi
xuống bếp để hỏi cái gì đang được chuẩn bị cho
thầy không?
Pantha, rất tiếc, tôi không thể làm được điều đó -
vì nhiều nguyên nhân. Một là, tôi không phải là
Ramakrishna; tôi chỉ là bản thân mình, tôi là không là
ai khác.
Thứ hai, mọi người trong bếp của tôi đều ở đây:
Vivek ở đây, Astha ở đây, Nirgun ở đây, Pragya ở đây
- chẳng có ai để hỏi cả.
Thứ ba, tôi ăn cùng một thức ăn, sáng, tối, hết
năm nọ tới năm kia. Thực tế, mọi người làm bếp của
tôi đều chán với việc chuẩn bị bữa này. Ngoại trừ tôi
mọi người đều chán! Đây là phương cách làm cho họ
chán.
Nghĩ mà xem: cùng một thứ họ phải chuẩn bị,
sáng, tối, mọi ngày. Chừng nào họ chưa trở nên
chứng ngộ họ sẽ phát rồ.
Cho nên chẳng có gì để hỏi cả, tôi đã biết rồi.
Không bao giờ có thay đổi trong thức ăn của tôi.
Thứ ba, tôi không biết nhà bếp ở đâu! Cho nên,
Pantha, cho dù tôi muốn tôi cũng không thể tìm được
nó. Tôi chỉ biết mỗi phòng của tôi, và con đường từ
phòng tôi tới Phòng Phật và quay về. Tôi sẽ bị lạc
trong Nhà Lão Tử. Và sau nhiều, nhiều kiếp bằng
cách nào đó tôi đã tìm ra được đường. Xin đừng làm
tôi bị lạc nữa.
#10Câu hỏi thứ sáu:
Thưa Thầy kính yêu,
Cái gì là chữ tục tĩu bẩn thỉu nhất trong tiếng Ấn
Độ?
Darshan, 'làm việc'!
Câu hỏi thứ bẩy:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy đã không kể hết câu chuyện về tu sĩ và buổi
lễ ngày chủ nhật của ông ấy. Nó là vậy sao?
Chetan Hari, điều đó đúng đấy. Tôi đã chủ ý
không kể hết nó, nhưng bây giờ bạn đã hỏi và tôi phải
kể hết nó vậy.
Khi tu sĩ thấy địa ngục đẹp thế, với những người
cực lạc thế, ông ta chắc chắn trở nên bị mê tít. Ông ấy
biết mọi cách lên cõi trời, ông ấy không có ý tưởng về
cách đi tới địa ngục. Còn bây giờ, khi thấy địa ngục
rồi, ông ấy muốn đi tới địa ngục, không muốn lên cõi
trời.
Thế là ông ấy hỏi vài người. Họ nói, "Tốt hơn cả
ông hãy hỏi Phật, ông ấy ngồi kia dưới gốc cây."
Ông ấy đi tới Phật và ông ấy hỏi, "Thưa ngài, ngài
có thể chỉ cho tôi đường tới địa ngục không, bởi vì
bây giờ tôi không muốn thấy cõi trời nữa. Một lần là
đủ rồi. Tôi không muốn đi tới đó chút nào. Tôi đã
sống cả đời chuẩn bị cho cõi trời. Tôi biết tất cả mọi
con đường và mọi phương pháp và mọi phương tiện
làm sao đạt tới đó. Tôi không biết cách xuống địa
ngục."
Phật nói, "Ông quay lại ga và mua vé tới Pune và
lấy tính chất sannyas. Đó là đường tốt nhất và ngắn
nhất để đi tới địa ngục."
Tu sĩ ấy đang ở đây. Xin đừng hỏi tôi tên ông ấy,
bởi vì các tu sĩ đều có chút ít xấu hổ, và ông ấy sẽ
cảm thấy bối rối - và đặc biệt là linh mục Cơ đốc
giáo. Nhưng ông ấy ở đây. Nếu bạn thử kĩ càng hơn
chút bạn sẽ thấy ông ấy.
Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Được rồi, nói thẳng điều đó cho tôi. Thượng đế có
thực tồn tại ở Mĩ không? Ngày mai đi rồi, tôi có
chút ít nóng ruột khi nhận ra thế giới này có xu
hướng nghiêm chỉnh làm sao, và vậy mà, thầy biết
đấy, cả Thượng đế cũng thế. Vậy thầy có cho tôi
một trong những chuyện cười hủ lậu để chia sẻ
với Ngài trong trường hợp chúng tôi gặp gỡ
không?
Toshen, bạn quên từ này 'ông ấy' đi. Thượng đế
không phải là ông, Thượng đế là bà. Nếu bạn đi với ý
tưởng này rằng ngài là ông, bạn sẽ không bao giờ thấy
ngài đâu. Đó là cách mọi người cứ bỏ lỡ ngài. Họ cứ
tìm ngài dường như ngài là đàn ông, và ngài đã tự
thay đổi bản thân mình từ lâu rồi.
Đại tá Stanford, người phân biệt chủng tộc trung
thành, chết và bằng cách nào đó tìm được đường lên
cõi trời. Một tuần sau bạn ông ta, đại tá Beauregard,
khởi hành và cũng được phép đi qua Ngọc Môn. Hai
người trong họ gặp nhau.
"Chưa bao giờ có hoài nghi gì chúng ta sẽ làm
điều đó," đại tá Beauregard nói, "nhưng bởi vì chúng
ta đã làm nó, hãy nói cho tôi, mọi sự ở đây là thế
nào?"
"Không tồi đâu," đại tá Stanford trả lời, "nhưng
tôi muốn khuyên anh nhìn bước đi của mình. Tôi đã
thấy Thượng đế hôm nọ và bà ấy là người da đen."
Và không chỉ có điều ông ấy là bà, bà ấy còn là
người da đen - đàn bà da đen. Cho nên nếu bạn thực
sự tìm Thượng đế ở Mĩ, nhớ điều này.
Và thế rồi bạn sẽ phải học vài điều. Nếu bạn gặp
người đàn bà da đen bạn sẽ phải học nghệ thuật nào
đó, bạn sẽ phải học là người đàn ông chút ít, bằng
không sẽ không có trao đổi, không có giao cảm.
Thượng đế đã thay đổi. Ngài đã mệt mỏi là giống
đực và da trắng. Mọi người đều mệt mỏi của việc là
cùng người cũ. Và mọi người vẫn nghĩ rằng ngài già.
Bạn đang tôn thờ ảnh chụp cũ, bạn đang mang quyển
ảnh cũ. Không có gì ngạc nhiên là rất ít người tìm ra
ngài.
Bây giờ nghĩ về Thượng đế như đàn bà. Và
Thượng đế chỉ có thể là đàn bà; chính ý tưởng về
Thượng đế là đàn ông là ý tưởng đàn ông gia trưởng,
nó là ý tưởng của đàn ông. Ba ngôi Ki tô giáo không
có một người đàn bà nào trong nó. Nhìn điều vô nghĩa
này: họ đã làm ra ngay cả một chỗ cho Thánh thần
linh thiêng. Bây giờ, ai là Thánh thần linh thiêng này?
Ba ngôi này đã không bỏ lỡ mấy nếu không có Thánh
thần linh thiêng, nhưng ba ngôi này có vẻ hơi xấu khi
không có đàn bà. Bố ở đó, con trai ở đó, còn mẹ đâu?
Bạn có nghĩ Thượng đế là đồng dục nam không?
Đây là phóng chiếu bản ngã của đàn ông. Nhớ
lấy: bà ấy chứa ông, nhưng ông ấy không chứa bà.
Đàn ông được sinh ra từ đàn bà, nhưng không đàn
ông nào có thể cho sinh ra đàn bà được. Điều tự nhiên
là nghĩ Thượng đế như đàn bà - như người mẹ, không
như người cha. Nghĩ người cha là ý tưởng phát xít.
Không phải ngẫu nhiên mà người Đức gọi nước
mình là "đất cha." Không ai gọi nước mình là "đất
cha." Mọi người gọi nước mình là "đất mẹ" - điều đó
dường như đúng - ngoại trừ người Đức... họ gọi nó là
"đất cha."
Thượng đế là mẹ, hiện tượng mẹ. Toàn thể sự tồn
tại có tính mẹ. Và Thượng đế còn mềm mỏng hơn
nhiều so với đàn ông có thể mềm mỏng, mong manh
hơn nhiều, cởi mở hơn nhiều. Thượng đế là bụng mẹ
của sự tồn tại. Toàn thể sự tồn tại bắt nguồn từ bụng
mẹ này.
Cho nên, Toshen này, vứt bỏ ý tưởng này về "ông
ấy" và "ông" đi; nghĩ về "bà ấy" và "bà." Và nhớ lấy:
ngài mệt là da trắng rồi, ngài không còn là da trắng
nữa. Ngài bây giờ da đen, và ngài đang tận hưởng là
da đen, bởi vì rất ít người có khả năng tìm thấy ngài
bây giờ. Cho dù bạn có bắt gặp ngài, bạn vẫn nghĩ,
"Đấy chỉ là người da đen." Cho dù ngài gõ cửa nhà
bạn, bạn sẽ không mở cửa.
Và nếu bạn gặp ngài, bạn hỏi tôi rằng bạn muốn
kể cho ngài chuyện cười nào đó. Kể cho ngài chuyện
cười này:
"Điều gì làm cho người da đen các anh là người
yêu tốt thế?" ông chủ da trắng hỏi Kinney, lái xe.
"Rắc rối với tụi da trắng các ông là ở chỗ các ông
cho nó vào đó và dúi vào, dúi vào, dúi vào và trước
khi ông biết điều đó, nó tất cả qua rồi," Kinney nói.
"Bây giờ cách tụi da đen chúng tôi làm là cho nó vào
đó, làm nó thoải mái, làm một cú dài, nói điều dịu
ngọt một chốc, dừng lại một chốc, để thời gian đấy,
thế rồi lại một cú dài chậm nữa, kiểu như vừa tế nhị
và vừa êm đềm."
Đêm đó người da trắng leo lên giường với vợ
mình và bắt đầu làm tình với cô ấy đích xác như
Kinney đã gợi ý.
Sau hai mươi phút cực kì vui thích cô ấy hổn hển
nói, "Lạy Chúa, anh đã học được ở đâu cách giao cấu
như người da đen thế?"
Đủ cho hôm nay.
END
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro