Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

co tich hay

Ông tướng gầy
Phạm Xuân Thông
Thuở xưa có một người thợ rừng lực lưỡng khoẻ mạnh. Cái rìu cái búa thông thường anh cầm lỏng tay, phải thuê thợ rèn đánh to bằng hai bàn tay xoè, dùng mới vừa sức. Cây gỗ to bằng thân người, anh chỉ đẵn bốn nhát là xong; còn những cây cổ thụ to bằng bánh xe trâu, bằng cái nong, cái nia, anh chặt một ngày cũng được vài mươi khúc. Tính ra số gỗ anh đẵn được, từ ngày mới biết vác rìu vào rừng đến giờ, cũng đủ dựng nhà cho ba làng, bảy xóm, chín mười ngôi đền, ngôi miếu. Nhưng ngôi nhà vợ chồng anh thì chỉ vừa lọt cái giường, chiếc chiếu. Ngôi nhà thấp đến nỗi anh ra vào thì đầu đụng nóc, vai chạm kèo. Vì nhà anh quá nghèo, vợ lại hay ốm đau, nên đẵn được bao nhiêu gỗ anh đều phải bán rẻ mới kịp mua thuốc cho vợ, mua gạo cho mình. Vì vậy người vợ thường phàn nàn:
- Mình có đốn hết gỗ trong rừng cũng chẳng “đủ” làm một cái nhà ba gian.
Người thợ rừng cũng biết đời mình không sao tránh khỏi điều vợ lo. Nhưng không có cách nào thoát được cảnh bữa sáng lo bữa chiều. Lúc vợ có chửa được bảy tháng, anh thợ rừng đi đốn gỗ về đóng cho vợ một cái giường. Cây gỗ không to, anh mới chặt ba nhát búa mà nó đã chuyển mình sắp ngã. Không may, một luồng gió thổi đến rất mạnh, cây gỗ ngã trái chiều. Anh thợ rừng tránh không kịp, bị gỗ đè gẫy cả hai tay. Thế là mọi việc đều đổ lên đầu người vợ ốm, đang có mang. Chị chạy khắp đầu làng cuối xóm vay mượn về nuôi chồng. Nhưng bạn nghèo thì không có, còn người có của thì chẳng thương người nghèo. Vợ người thờ rừng phải ra sông bắt hến nuôi chồng bữa cháo bữa rau. Nước sông khá sâu, chị phải ngâm mình dướin nước cả ngày mới bắt được một bữa hến.
Một hôm, trời mưa trên nguồn rất lớn, chị đang lăn ngụp giữa sông thị nước nguồn về cuốn chị đi. May sao, chị vớ được một cây chuối lở gốc trôi giữa dòng mới thoát chết, nhưng về đến nhà thì chị đẻ. Nhà anh thợ rừng càng khổ cực hơn, chồng không làm gì được, vợ ốm nặng, đức con trai đẻ thiếu tháng không lúc nào được bú no sữa mẹ. Thằng bé không chết nhưng càng lớn càng gầy còm; mãi đến năm mười bảy tuổi mà người khẳng khiu như cái gậy, xương bọc da, đầu gối to hơn bắp đùi. Khi ngồi đầu gối cao quá vai, tóc trên đầu thưa như lông chân, người lùng nhùng, khi đã ngồi xuống rồi thì không muốn đứng lên. Vợ chồng anh thợ rừng thương con, nên dù nhà nghèo nhưng không bắt con làm gì. Họ đặt tên cho con là Gầy.
Một hôm, Gầy cầm cần câu ra sân ngồi dưới một gốc cây sung câu cá. Gặp hôm cá cắn, mới ngồi chưa nóng chỗ mà em đã câu được mấy con cá to. Đói ăn đã lâu, thấy mấy con cá tươi ngon, em liền lấy củi nhóm lửa tại gốc sung nướng cá ăn. Lúc ấy mặt trời lên được nửa buổi, gió thổi mạnh hắt bóng ngọn lửa xuống dòng sông, một con cá con ở dưới nước vọt lên nhìn, bị con chim bói cá rình trên cây đớp được. Sẵn củi để bên, Gầy ném con chim; con chim bay vù đi thả con cá rơi lại xuống sông.
Sáng hôm sau, em lại cầm cần ra chỗ cũ ngồi câu cá, nhưng vừa đến đã thấy ai bày sẵn dưới gốc cây một con cá nướng to bằng bắp chân và một rá cơm trắng. Mùi cá tươi, cơm nóng thơm nức mũi, tuy chẳng biết là của ai, nhưng từ bé đến giờ chưa bữa nào được ăn ngon như thế, nên Gầy quên câu, ngồi sà xuống ăn một mạch hết con cá nướng và rá cơm. Ăn xong, em vốc nước lên uống thì nghe tiếng người giữa sông nói lên:
- Người đã ăn hết cơm hết cá, vậy là ta đã trả được ơn...
Gầy ngơ ngác nhìn ra thì thấy một việc kì lạ - một vật nửa trên là người, nửa dưới là cá nhô lên khỏi mặt nước giữa sông và nói:
- Ta là Thuỷ thần. Hôm qua con ta đi chơi trông thấy ngọn lửa chiếu xuống, nó nhảy lên xem thì bị loài chim dữ bắt được. Nhờ có ngươi đánh con chim dữ ấy, con ta mới thoát chết. Nay ta đền ơn... người cứ lên khỏi đây sẽ biết.
Em Gầy lóp ngóp chạy lên bờ, đầu chạm phải gốc sung, gốc sung vẹo sang một bên. Một sức mạnh kì lạ đã làm cho em Gầy khoẻ lên vạn lần. Em béo lên, thịt căng ra, mắt sáng, tay chân cứng bóp không lún, tóc dày và cứng như rễ tre. Em gầy chạy một mạch về nhà. Vui mừng qua, em nhảy múa reo hò, rồi vớ lấy cái rìu của cha chém đông, chém tây, chém tả, chém hữu. Chiếc rìu nặng thế mà em cầm nhẹ như chiếc đũa bếp. Cái rìu của cha đối với em bây giờ bé nhỏ quá rồi. Nên em phải rèn một cái lưỡi rìu to bằng bốn bàn tay xoè thì mới vừa tay. Thế rồi, hàng ngày Gầy vác rìu vào rừng đẵn gỗ để nuôi cha mẹ.
Năm ấy nhà vua xây dựng nhiều cung điện. Vua thuê rất nhiều thợ rừng đi đốn gỗ. Gầy xin nhập bọn thợ. Với sức khoẻ và lưỡi rìu to ấy, mỗi ngày em đẵn không biết là bao nhiêu gỗ lim, gỗ trác, gỗ mun, cây nào cũng to như cái nong, cái nia. Nhưng thấy Gầy ít tuổi, bọn thợ rừng bắt nạt, chúng ngồi chơi, hoặc chui vào bóng râm ngủ một ngày, rồi lấy gỗ của Gầy bán được đem chia nhau, chỉ cho Gầy một phần ít. Nên Gầy đẵn gỗ giỏi hơn cha gấp mười lần mà vẫn không đủ nuôi cha mẹ.
Thuê đẵn gỗ xong, vua dựng đền. Ngôi đền toàn gỗ quý, cột cái to bằng cái nong, cột con bằng cái nia, xà ngang xà dọc dài hàng chục sải tay, to đến vài người ôm không xuể. Dựng cột dựng kèo xong, còn cây đòn dông to hơn cái bánh xe trâu, được ghép lại bằng năm cây gỗ lim, dài đến hơn hai mươi sải tay, nên tất cả phường thợ, cả quân lính trong triều ra giúp sức vẫn không sao đặt nổi lên ngàm cái vì kèo. Phường thợ lại cho người đến cầu khẩn Gầy. Gầy đến xin vua cho ăn một bữa cơm. Vua ra lệnh nấu một thùng gạo tẻ, một vạc canh và một con dê luộc. Ăn xong, Gầy vác hẳn một đầu cây đòn dông đặt lên vì kéo. Đặt xong một bên, Gầy đến xốc bên kia lên vai, bước theo các bậc đá đặt nốt lên. Cây đòn dông to, dài hai mươi sải, cả phường lính hì hục cả tháng không đặt lên được, còn Gầy chỉ làm chưa nhai dập miếng trầu đã xong. Vua thưởng cho Gầy ba xe lúa, bảy vò mắm và chín con dê. Gầy đem tất cả những thứ ấy về nuôi cha mẹ.
Vua có một cô công chúa mặt đẹp như tranh, da trắng như ngà. Nhiều hoàng tử, vua chúa các nước đều đến hỏi làm vợ. Trước bao nhiêu người quyền cao chức trọng, giàu có như nhau, vua chưa biết nên gả cho ai, cô công chúa cũng chưa biết chọn ai. Nhưng các vua, các hoàng tử kia thì sợ mất phần, nên cũng đem quân đến đánh, cướp cô công chúa. Đất nước ngập khói ngập lửa, đâu đâu cũng có giặc. Giặc Đông, giặc Tây, giặc hô hét ở phía Nam, giặc tung hoành ở phía Bắc. Nhà vua cuống cuồng, quan văn quan võ đều run sợ, ai cũng mang vợ con đi trốn chứ chẳng ai dám ra chống giặc. Gầy liền vác rìu lên rừng đẵn một cây gỗ lim to bằng cái nia, dài chín sải, vác đi đánh giặc. Chân của Gầy bây giờ khoẻ mạnh như chân voi, đi đến đâu giặc chạy tan tác đến đó. Gầy đi từ Nam ra Bắc, vác gậy lao thẳng vào giữa quân giặc mà quật. Cây gỗ của Gầy quật xuống một nhát, quân giặc chết có đến nghìn người. Xác giặc chết như trâu, đứa chưa chết thì lạy lục xin tha, đứa ở xa thì đều cắm đầu cắm cổ chạy. Gầy đánh tan được giặc ở phía Nam, phía Bắc, thì lũ giặc phía Đông phía Tây đã rùng mình. Sợ sức khỏe kì lạ của Gầy, chúng dẫn nhau chạy hết về nước.
Gầy có công lớn, được vua rước về gả công chúa, phong cho làm tướng. Bọn vua và bọn công tử các nước nghe con anh thợ rừng cưới được công chúa thì tức đến vỡ mặt, nhưng sợ oai ông tướng Gầy, chẳng ai dám bén mảng đến nửa. Từ đó, nhà người thợ rừng mới hết khổ.

Con Tằm
Ngày xưa, có một người con gái tên là Tơ cha mẹ đều mất sớm, phải đem thân đi ở hầu hạ một bà góa giàu có. Tánh tình của bà chủ nhà ác nghiệt quá đỗi khiến một hôm thị Tơ phải bỏ trốn đi, chạy vào một khu rừng, nghĩ bụng thà chết vào miệng thú dữ còn hơn là ở mãi trong cảnh khốn khổ bị hành hạ hàng ngày. Thị Tợ đi được một quãng khá xa, phần bấy lâu nay ăn uống thiếu thốn đuối sức, phần vất vả băng rừng lội suối, nên ngã ngất nằm trên một tảng đá.
Thần núi ở đấy thấu rõ tình cảnh đáng thương của cô gái hiền lành thơ ngây mới theo dõi che chở.
Khi thị Tơ bừng mắt tỉnh dậy tưởng chừng mình như vừa qua một giấc chiêm bao. Cảnh vật chung quanh khác hẳn lúc nàng ngất đi. Nàng thấy mình nằm ở trong một cái động, rêu trải mềm dịu như nhung, dưới chân một giòng suối đang chảy qua kẽ đá êm đềm như tiếng nhạc. Trước mắt nàng, vừa tầm tay với, vô số những trái cây ngon chín thắm lủng lẳng ở dây leo buông xuống như rèm che cửa động. Đang đói khát sẵn, nàng đưa tay lên hái ăn ngấu nghiến ngon lành.
Sau bữa ăn thanh đạm ấy, trong người nàng cảm thấy khỏe nhẹ khác thường. Thần núi hiện hình một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc bước đến gần nàng. Trông thấy cụ già phúc hậu, thị Tơ vái chào kính cẩn. Ông lão làm ra vẻ ngạc nhiên, hỏi nàng ở đâu đến đây, làm sao lạc lõng một mình giữa rừng núi hoang vắng. Thị Tơ chân thành kể lại đầu đuôi mọi nỗi về kiếp sống đầy đọa của mình. Ông lão lắc đầu tội nghiệp cho nàng rồi khuyên nhủ:
- Cháu trốn như vậy là phải. Cháu cứ ở lại đây, có lẽ được yên thân hơn, có lão trông chừng cho.
- Thưa cụ, cụ là ân nhân của cháu, xin cụ cho cháu được biết cụ Ở đâu.
- Cả khu rừng núi này là nhà của lão. Lão sống bằng nghề đốn củi, nên nay đây mai đó luôn. Cháu đừng lo ngại, thỉnh thoảng có lão lại thăm. Nếu có việc gì cần đến lão, cháu cứ tới mỏm đá này gọi "ông tiều ơi" là có lão đến ngay.
Sáng hôm sau, ông lão trở lại cho thị Tơ một bọc quần áo mới để thay bộ đồ cũ rách nát. Từ đó, thị Tơ sống một cuộc đời thanh thản, tự do, không phải lo đến ngày mai, không buồn rầu nghĩ đến ngày quạ Dần dần chim chóc, các thú trong rừng đến làm quen với nàng, ngày ngày mang lại cho những trái cây ngon ngọt, quý lạ để dùng làm thức ăn. Sống như thế, nhan sắc thị Tơ ngày một rạng rỡ như đóa hoa rừng đang độ tốt tươi.
Vào thuở bấy giờ, ở Thượng giới có một vị thần đam mê khoái lạc, sau khi biến cõi thiên đình thành một chốn trác táng rồi chán những lạc thú trên trời, thần tìm xuống trần gian. Nhờ phép tắc siêu phàm, vị thần biến hóa ra đủ mọi hình dạng để cám dỗ đàn bà con gái nhan sắc. Từ giới thượng lưu cho đến bình dân, thần hiện ra khắp nơi, khi là vị quan trẻ đẹp, tài hoa lỗi lạc, khi là một thanh niên tuấn tú, phong nhã, đa tình, để lôi cuốn bao nhiêu người đẹp vào trong vòng sắc dục. Không một người đàn bà, con gái nào bị để ý đến mà tránh khỏi sức thu hút của thần để khỏi rơi vào vòng đam mệ Thần đã chán chê khoái lạc trong giới thượng lưu xa hoa, một hôm đi tìm lạc thú ở nơi thôn dã, qua khu rừng vắng, không một bóng người, tình cờ gặp cô gái rừng xanh đang nô đùa với bầy chim cùng muông thú. Sau phút sững sờ trước sắc đẹp của thị Tơ, lòng dục bùng cháy lên, thần mon men rẽ lá tiến lại định vồ lấy người đẹp. Một tiếng chim kêu thất thanh, cả cô gái cùng muông thú vội vàng bỏ chạy trước người lạ, thần ra sức đuổi theo. Thị Tơ quen sống giữa thiên nhiên đã trở nên nhanh nhẹn khác thường, chạy đi như gió, thần bèn giở phép phóng theo. Trong lúc thần sắp chụp được thì con nai lớn đến quỳ xuống cho thị Tơ leo lên lưng mà thoát khỏi tay dâm thần.
Nai đưa tới động, thị Tơ sợ hãi không dám bước ra ngoài nữa. Nàng trèo lên mỏm đá, gọi "ông tiều ơi" ba lần thì thấy ông lão hiện ra. Ông lão căn dặn nàng cẩn thận và trao cho nàng một chiếc vòng ngọc, đeo vào tay có thể muốn tàng hình lúc nào cũng được. Nhờ thế mà nàng tránh khỏi sự săn đón của vị thần muốn chiếm đoạt nàng.
Thấy công đeo đuổi của mình không có kết quả, thua trí một sơn nữ, thần nổi giận thề quyết bắt nàng cho kỳ được. Nhờ phép siêu phàm, thần giăng một sợi lưới rộng lớn với những sợ chỉ thật nhỏ và thật chắc bao vây cả khu rừng. Cô gái không dè nên bị mắc vào lưới, may nhờ một con bạch tượng dùng ngà đâm thủng, cứu thoát nàng một lần nữa. Nàng gọi đến ông tiều. Ông lão lão hiện ra khuyên nàng lần sau có bị vướng lưới thì kêu đến tên Phật Bà Quan âm.
Vì sợ mắc bẫy nên đã lâu thị Tơ không dám ra khỏi động. Nhưng rồi lòng ham muốn tự do chạy nhảy lại thúc dục nàng đi. Lần này nàng hướng về phía khác để tránh sự theo dõi của vị thần si tình. Song nhờ phép thần thông, vị thần biết được giờ nàng đi và nơi nàng đến, nên giăng lưới trước bắt được. Nhớ lời ông lão dặn, nàng kêu đến tên Phật Bà Quan âm, thì nhiệm màu thay, tất cả các sợi chỉ lưới đều rút gọn lại thu tròn bằng một hạt đậu lạc. Trong lúc nàng mở miệng gọi đến lần thứ hai thì trái chỉ theo hơi nàng thở hút vào trong bụng.
Thấy phép tắc thần thông bị một cô gái thu mất, lòng tự ái của thiên thần bị kẻ phàm trần trêu ngươi quá đỗi, vị thần nổi trận lôi đình nghĩ cách trả thù. Lập tức thần nhắn gọi ngay Thiên Lôi ở dưới quyền mình trước kia đến. Thần Sét rủ các bạn, thần Gió, thần Mưa, thần Sấm, thần Chớp, cùng đến ra mắt. Vị thần mê gái liền nhờ Thiên Lôi giúp mình đánh cho tan tành quần áo cô gái đang nô đùa với bầy thú giữa rừng kia, song đừng làm hại đến người nàng. Thần Sét vâng lời, rồi chỉ trong nháy mắt, giữa lúc cô gái đang vuốt ve mấy con nai con bên giòng suối, thì mây đen kéo đến kín trời, gió nổi lên dữ dội, sấm dậy ầm ầm, chớp nhoáng chằng chịt, mưa tuôn xối xả. Thị Tơ bỏ chạy về động, bỗng một tiếng sét nổ vang trời, rung chuyển cả núi rừng nhắm bổ xuống người nàng. Thị Tơ không hề hấn gì, song lớp quần áo che đậy người nàng đã tan biến đâu mất. Vị thần đứng trên một mỏm đá cao chứng kiến cảnh tượng ấy, phá lên cười đắc thắng, rồi sôi nổi chạy về phía người đẹp trần truồng.
Nhưng thần lại phải thất vọng một lần nữa, vì chiếc vòng ngọc đeo ở tay đã giúp cho thị Tơ thành ra vô hình.
Đêm xuống, thị Tơ khó nhọc lần mò về đến trong động. Nàng thẹn thùng với tất cả chung quanh, tưởng chừng như vật gì cũng có mắt đang tò mò nhìn mình. Trần truồng, nàng không dám gọi đến ông lão hay lũ thú rừng quen biết đến cứu giúp. Nàng lui vào cuối động, rét run lẩy bẩy. Tấm lưới thần đã nuốt vào bụng làm cho nàng khó chịu, nôn ra, thành một đống chỉ mềm dịu, bền chắc. Lạnh quá, nàng lấy quấn vào người làm một thứ mền đắp ấm áp. Thế rồi nàng dần dần tắt thở trong cái ổ chỉ êm dịu ấy. Trước khi linh hồn rời khỏi thể xác, nàng thành khẩn nghĩ đến những kẻ nghèo nàn, khốn khổ, thiếu quần áo che thân, phải chết lạnh lẽo như nàng, tự nguyện sẽ giúp cho họ may mặc, đem những sợi chỉ này dệt thành quần áo. Vì thế mà nàng chết đi hóa thành con tằm.
Để thực hiện lời nguyện ước, hồn nàng mang theo đống chỉ tơ đến giăng ở ngọn cây dâu trong vườn Thượng uyển, nơi hoàng hậu cùng vua thường ngự tới mỗi chiều. Khi hoàng hậu ngang qua, hồn nàng mới nhả ra các sợi tơ vàng óng ánh tung bay cho gió mơn man. Hoàng hậu ngạc nhiên hứng lấy, thấy chỉ tơ đẹp, ánh vàng, mềm dịu, bứt thử mới hay là sợi tơ trông mong manh mà dẻo chắc lạ thường. Dâng lên vua xem, hoàng hậu ước mong được mặc một chiếc áo dệt bằng những sợi tơ vàng đẹp ấy.
Nỗi mong ước của hoàng hậu được nhà vua sai thực hiện. Tất cả những sợi tơ vàng trong vườn ngự uyển đều được thu góp lại, bao nhiêu thợ dệt tài giỏi trong nước được triệu vào cung, rồi chẳng mấy chốc, một tấm lụa vàng cực kỳ mềm dịu, bền chắc, rạng rỡ dâng lên trước mắt vuạ Hoàng hậu vui mừng sai cắt ngay cho mình một chiếc áo dài, để hôm sau ra triều ngự cạnh vuạ Cả triều sửng sốt trước vẻ đẹp của chiếc áo hàng mới làm tăng thêm bội phần nhan sắc của người mặc. Vua mới cho triều thần hay là chính hoàng hậu đã khám phá ra thứ chỉ tơ quý lạ đó, và cho phép các quan cùng nhà giàu có trong nước được bắt chước hoàng hậu may mặc thứ hàng mới kia.
Từ đó nghề trồng dâu, nuôi tằm bắt đầu nẩy nở, đáp lại nguyện vọng thiết tha của cô gái quê mùa thị Tơ.

Lâu đài tình ái
Ngày xửa ngày xưa, khi số phận thống trị thế giới của các vị thần ngay cả Thần Ái tình cũng không thoát khỏi tiếng sét tình ái và chàng đã đem lòng yêu một nàng công chúa con của loài người. Và thế là câu chuyện sau đây đã xảy ra:
Ở một vương quốc kia có một vị vua sinh hạ được ba nàng công chúa xinh đẹp. Hai cô chị đầu đã kết hôn với những hoàng tử của những vương quốc tiếng tăm lẫy lừng nhưng Tâm Linh, cô em út lại có một vẻ đẹp lộng lẫy đến mức không có kẻ cầu hôn nào xứng đáng với nàng. Mọi người tụ tập lại thành đám đông để ngắm nhìn nàng đi dạo trong thành phố và hát những bài hát ca tụng vẻ đẹp của nàng trong khi những người lạ mặt tôn vinh nàng như nữ thần của sắc đẹp. Ðiều này đã khiến cho thần Vệ Nữ, nữ thần của sắc đẹp và tình yêu vô cùng tức giận. Bà quyết tâm loại bỏ kẻ thách thức sắc đẹp trần tục kia.
Bởi vậy, một hôm bà cho gọi con trai của mình là thần Cupid mà người ta thường gọi là thần ái tình đến và truyền lệnh cho con trai mình hãy chuẩn bị vũ khí. Thần Ái tình chính là người bắn cung còn đáng sợ hơn cả thần mặt trời Apônlông bởi lẽ những mũi tên của Apônlông chỉ lấy đi mạng sống của con người còn mũi tên của thần Tình Ái lại mang đến niềm vui hay khổ đau cho người đã suốt cả cuộc đời dài đằng đẵng. " Hãy đến đây, ái tình" Thần Vệ Nữ nói "Có một người con gái trần tục ở một thành phố xa xôi đã cướp mất danh tiếng của ta. Ngươi hãy báo thù cho mẹ mình. Hãy làm tổn thương trái tim của nàng Tâm Linh đó và khiến cho cô ta phải lòng những sinh vật hạ đẳng nhất trong ánh mắt của tất cả lũ người kia".
Cupid ngay lập tức chuẩn bị vũ khí và tàng hình để bay xuống trần gian. Vào lúc đó, Tâm Linh đang thiếp đi trong căn phòng của mình. Thần Ái tình đã chạm đến trái tim của nàng với mũi tên vàng tình ái thì bỗng nhiên nàng mở mắt ra đột ngột đến mức thần A1i Tình giật mình quên mất là mình đang tàng hình và tự làm mình bị tổn thương bằng chính mũi tên của mình. Quá xúc động bởi vẻ đáng yêu của người thiếu nữ, thần Ái Tình quên mất cả vết thương và hấp tấp làm rớt trên tóc nàng. Những mũi tên tình ái đó chàng luôn mang theo bên người và giờ đây chúng đã làm hỏng hết mọi việc. Nàng công chúa kiều diễm ngay sau đó quay trở lại với giấc ngủ của mình mà chẳng hề hay biết gì chuyện gì vừa xảy ra. Nhưng kể từ đó thì Cupid lại vương bận mối tơ lòng. Chàng lẳng lặng trở về thiên đường chẳng hề hé răng một lời về những gì vừa xảy ra. Thần Vệ Nữ chờ đợi rất lâu và khi bà biết được rằng trái tim của Tâm Linh đã may mắn thoát được mũi tên tình ái lưới tình, bà bèn buông một lời nguyền tác động đến nàng. Kể từ đó, nàng Tâm Linh xinh đẹp chẳng có một kẻ nào dám đến cầu hôn và cha mẹ nàng, những người vẫn muốn con gái mình ít ra phải trở thành một hoàng hậu b̀è đến đền thờ thần linh và xin chỉ dạy. Giọng nói trong đền cho biết: "Công chúa Tâm Linh sẽ không bao giờ lấy được một người bình thường. Nàng sẽ được gả cho một người vẫn chờ nàng ở trên ngọn núi xa; người này đánh bại được cả thần linh và con người". Nghe những lời khủng khiếp như vậy, cha mẹ đáng thương của nàng gần như mất trí và mọi người điều tỏ lòng tiếc thương trước định mệnh oái oăm đã đặt ra cho nàng công chúa yêu quí của họ. Chỉ có một mình Tâm Linh là cam chịu số phận đã an bài. "Chúng ta đã vô tình làm thần Vệ Nữ nổi giận" nàng nói "và tất cả mọi việc đều do con đã quá lơ đãng. Bởi vậy, cha và mẹ kính yêu hãy từ bỏ con đi. Nếu con có thể làm cho thần linh nguôi giận thì may ra thành phố của chúng ta mới có thể phồn vinh lại được". Và nàng cầu xin họ cho đến khi họ đồng ý sau bao nhiêu lần kiên quyết khước từ đề nghị của nàng. Một đoàn người khổng lồ đã tiễn nàng lên núi để làm tặng vật cho con quái vật theo như lời sấm đã phán truyền và để lại nàng ở đó. Rất can đảm trong nỗi buồn đau vô hạn, nàng ngắm nhìn những người thân thích và mọi người đang bước dần xuống núi đang quá buồn bã đến mức không muốn nhìn lại cho đến khi bóng họ khuất hẳn. Và thế rồi nàng thiếp đi. Bỗng nhiên có một cơn gió nhẹ thổi tới lau khô những giọt nước mắt và vuốt ve mái tóc của nàng và dường như đang thì thầm bên tai nàng những lời an ủi. Thực ra đó là Zephyr, thần gió-cơn gió Tây thân thiện đến làm bạn với nàng. Khi nàng lấy lại được sự can đảm khi nhận thức được sự hiện diện của một điều tốt lành thì Zephyr bèn bế nàng lên, mang nàng trên đôi cánh bằng phẳng như mặt sông lặng sóng để bay qua ngọn núi định mệnh và đáp xuống một thung lũng bên dưới. Ở đó, chàng đặt nàng xuống một bờ cỏ mềm mại và thế là nàng công chúa lại ngủ thiếp đi. Khi nàng tỉnh dậy thì trời đã sắp hoàng hôn. Nàng nhìn quanh xem có dấu hiệu của con quái vật nào ở gần đó không. Nàng tự hỏi mình xem cái thử thách đau đớn mà nàng đang phải chịu đựng liệu có phải là một giấc mơ không. Gần đó, nàng nhìn thấy có một khu rừng có thể làm chỗ nương náu với những hàng cây xanh đang như đang vẫy gọi giống như thể những người thiếu nữ đang gọi nhau vậy. Mong đợi ở sự che chở của nữ thần rừng, nàng đi về hướng đó. Tiếng nước chảy đưa nàng đi mỗi lúc một xa cho đến khi nàng đến một lâu đài trống trải nơi có một hồ nước rất rộng. Một vòi nước đang reo vui ở giữa lòng hồ và gần đó có một tòa lâu đài màu trắng tuyệt đẹp. Tò mò trước vẻ đẹp lôi cuốn của tòa lâu đài, nàng tiến gần đến đó, không nhìn thấy bóng dáng của một ai, nàng nhẹ nhàng bước vào trong. Tòa lâu đài đó thật vương giả hơn rất nhiều so với tòa lâu đài của cha mẹ nàng và nàng đứng ngây ra trong sự ngạc nhiên và kính sợ. Những làn gió nhẹ nhàng vây quanh nàng. Dần dần, sự im lặng bị phá tan bởi những tiếng rì rầm như của núi rừng và một giọng nói còn ngọt ngào hơn cả giấc ngủ cất lên " Tất cả những gì mà nàng vừa nhìn thấy đ̉ều là của nàng, thưa công chúa hiền dịu" giọng nói nói với nàng. " Hãy đừng sợ, chỉ cần ra lệnh cho chúng tôi bởi chúng tôi ở đây là để phục vụ nàng". Rất đỗi kinh ngạc và sung sướng, Tâm Linh theo giọng nói đi đến hết căn phòng lớn này rồi căn phòng lớn khác và qua những căn phòng nguy nga tráng lệ với bất cứ thứ gì cũng có thể làm cho nàng công chúa trẻ tuổi vui thích. Không còn thiếu một niềm vui nào. Thậm chí có cả một bể bơi được lát bằng những viên gạch sáng lấp lánh và những dòng nước cứ tuôn chảy mãi vào trong lòng bể. Nàng say sưa tắm mình trong làn nước mát xua đi hết những mệt mỏi trong người và sau đó khoác lên mình những bộ y phục mới đã để sẵn cạnh đó cho nàng. Nàng ngồi xuống trong sự khoan khoái chờ đợi và hát lên cho những thần linh quanh đó mà nàng không hề nhìn thấy. Quả đúng như lời tiên tri phán truyền chồng của nàng chẳng phải là loài ma quỉ mà chỉ là người có những quyền năng hiền hòa và vô hình như giấc ngủ vậy.
Khi ánh sáng của ban ngày đã tắt, chàng đến và giọng nói của chàng, giọng nói đẹp đẽ của một vị thần đã làm cho nàng luôn khao khát đón nhận số phận lạ lùng của mình và khắc khoải chờ đợi mỗi khi đến lúc chàng sắp quay lại. Nàng thường xuyên cầu xin chàng ở lại với nàng cả ban ngày để nàng có thể ngắm nhìn khuôn mặt của chàng nhưng chẳng bao giờ chàng ban cho nàng cái ân huệ ấy. "Ðừng bao giờ bận tâm về ta hỡi nàng Tâm Linh yêu dấu " chàng nói " Có lẽ nàng sẽ sợ hãi khi nhìn thấy ta. Tình yêu là tất cả những gì mà ta đòi hỏi. Ta phải giấu mình vì ta cần phải như vậy, hãy tin ở ta". Và thế là qua bao nhiêu ngày Tâm Linh đã mãn nguyện nhưng khi nàng đã quen với những hạnh phúc, nàng lại nghĩ nhiều về cha mẹ nàng đang để tang nàng như thể nàng đã mất tích và những người chị của nàng đang sống một cuộc sống trần tục trong khi nàng sống như một nữ thần. Một đêm, nàng kể cho chồng nghe những nỗi ân hận trong lòng và cầu xin chàng để ít ra là các chị gái có thể đến thăm nàng. Chàng thở dài nhưng không hề từ chối yêu cầu của nàng. "Thần gió Zephyr sẽ mang họ đến đây" chàng nói. Và ngay sáng hôm sau, với đôi cánh như loài chim, gió Tây đã bay qua ngọn núi cao và hạ xuống thung lũng kì diệu mang theo hai người chị gái của Tâm Linh. Họ chào Tâm Linh trong niềm vui sướng đến ngỡ ngàng nhưng khi nàng công chúa xinh đẹp nhất trong ba chị em dẫn họ đi thăm tòa lâu đài và chỉ cho họ xem tất cả những châu báu của nàng thì sự ghen tức của thói đố kị đã làm bay mất tình cảm trước đây của chị em họ. Thậm chí khi ngồi quanh bàn tiệc, họ lại càng trở nên ghen tức hơn bao giờ hết và với hy vọng tìm ra một sơ hở nhỏ trong vận may tốt lành của nàng, họ hỏi nàng cả ngàn câu hỏi. "Chồng của em đâu ?" họ hỏi " Tại sao chàng không ở đây với em ?". " Ôi" Tâm Linh lúng túng trả lời "Suốt cả ngày, chàng mải mê săn bắn ở tận dãy núi đằng xa kia". " Nhưng trông chàng như thế nào ? " họ hỏi và Tâm Linh không thể trả lời. Khi họ biết rằng Tâm Linh chưa bao giờ nhìn thấy mặt chồng mình, họ cười nhạo báng lòng tin của nàng. "Tâm Linh đáng thương" họ nói. "Em đang đi trong mơ hay sao ấy. Hãy tỉnh lại đi trước khi đã quá muộn. Hẳn là em đã quên lời tiên tri phán truyền rồi hay sao, rằng em sẽ kết duyên với một sinh vật khủng khiếp, nỗi sợ hãi của cả thánh thần và loài người ? Em đang chịu sự lừa dối của lòng tốt giả tạo đó ư ? Các chị đến đây để báo cho em biết. Khi các chị bay qua ngọn núi kia, người ta đó nói với các chị rằng chồng của em là một con rồng, nó sẽ ăn tươi nuốt sống em như một lễ vật ngon lành của con người và chẳng mấy nữa đâu, hắn sẽ ăn thịt em. Ðó là tất cả những gì mà em tin ư ? Khá khen cho lời phỉnh nịnh ! Vào một đêm nào đó, hãy mang một chiếc dao bên mình và khi con quỉ đó thiếp đi hãy thắp một cây nến và hãy ngắm nhìn con quỉ ấy. Em có thể làm cho hắn chết một cách dễ dàng và tất cả những của cải của hắn sẽ là của em và của các chị. Tâm Linh lắng nghe kế hoạch xấu xa này trong sự hãi hùng. Mặc dầu vậy, khi các chị đã ra về nàng vẫn ngẫm nghĩ những gì mà họ vừa nói mà không để ý đến dụng ý xấu của họ. Nàng coi đó như những lời khuyên bảo rất khôn ngoan.
Dần dần, sự ngờ vực giống như băng đêm đã xâm chiếm tâm trí của nàng và khi đêm xuống, nàng đem giấu một cây nến trong phòng của mình trong sự tủi thẹn và sợ hãi . Gần đến nửa đêm, khi chồng nàng đã say giấc nàng ngồi dậy, nín thở và nhẹ nhàng đến bên cạnh chồng, lấy cây nến giấu dưới đệm giường để xem cho tỏ những điều khủng khiếp. Nhưng chỉ có vị thần trẻ nhất trong các vị thần đang nằm ngủ mà thôi, vô cùng đẹp đẽ với sự quyến rũ khó có thể cưỡng lại được. Mái tóc của chàng ánh vàng như tia nắng mặt trời và bộ mặt của chàng lộng lẫy như mùa xuân và từ đôi vai chàng mọc ra đôi cánh bảy sắc cầu vồng. Tâm Linh tội nghiệp đã mất tự chủ với sự dằn vặt trước đây của nàng. Khi nghiêng mình ngắm chàng với lòng ngưỡng mộ, đôi tay run rẩy của nàng đã không cầm chắc cây nến và một vài giọt nến đã rỏ xuống vai của thần Tình Yêu và đánh thức chàng dậy. Chàng mở choàng mắt và ngay lập tức nhìn thấy cô dâu cùng với bóng đen ngờ vực đang bao phủ trái tim nàng. "Ôi Tâm Linh, nàng thật tò mò !" Chàng thốt lên một tiếng thở dài và ngay lập tức bay đi mất qua khung cửa sổ. Ðau đớn như điên dại, Tâm Linh cố đuổi theo nhưng cuối cùng nàng ngã sóng xoài bất tỉnh trên mặt đất. Khi nàng nhận thức được mọi vật xung quanh, tóc nàng như thể dựng đứng. Nàng chỉ còn trơ trọi lại một mình và tòa lâu đài xinh đẹp đã không còn nữa. Cả khu vườn cùng với tòa lâu đài đã biến mất cùng với thần ái tình.
Thử thách của Tâm Linh
Băng qua những ngọn núi và thung lũng, Tâm Linh một mình cứ bước đi cho đến khi một ngày nàng đến thành phố mà hai cô chị đầy lòng đố kị của nàng đang sống với những hoàng tử của họ. Nàng ở với họ một thời gian chỉ để kể cho họ nghe về câu chuyện của sự thiếu niềm tin và sự trừng phạt mà nàng đang phải gánh chịu. Thế rồi nàng lại lên đường đi tìm thần ái tình. Một ngày kia, khi nàng đang đi lang thang, mệt mỏi vì đi nhiều nhưng chưa mất hết hi vọng, nàng nhìn thấy một tòa lâu đài sừng sững trên một ngọn đồi gần đó và mỗi lúc nàng đến một gần hơn. Nơi đây có vẻ rất hoang vắng. Trong đại sảnh, nàng chẳng bắt gặp một bóng người nào. Chỉ có những loại ngũ cốc, những hạt ngô, bột mì và lúa mạch tất cả đều nằm trong một đống hỗn độn. Không chút chần chừ, nàng bắt đầu bó những lượm lúa lại với nhau và nhặt những hạt ngô lên với một sự tỉ mỉ và khéo léo mà bất cứ nàng công chúa nào cũng ao ước được như vậy. Trong khi nàng đang mải mê làm việc, một giọng nói cất lên làm nàng giật mình. Nàng ngước nhìn lên để ngắm nhìn Demeter, vị thần bảo trợ của mùa màng, đang mỉm cười nhìn nàng đầy thiện chí. "Tâm Linh yêu quí " Demeter nói, "con thật xứng đáng được hưởng hạnh phúc và rồi con sẽ tìm thấy nó. Nhưng vì con đã làm phật ý thần Vệ Nữ nên hãy đi tìm thần và xin ban ơn. Có lẽ sự kiên nhẫn của con sẽ nhận được sự tha thứ của bà". Những lời nói như thể của một người mẹ này như tiếp sức thêm cho trái tim của Tâm Linh. Nàng cung kính từ biệt nữ thần và lên đường đi tìm đền thờ thần Vệ Nữ. Rất đỗi kính cẩn và khiêm nhường, nàng khẩn cầu sự ban ơn của nữ thần nhưng Vệ Nữ thậm chí chẳng thể nhìn kẻ kình địch về sắc đẹp đến từ trần gian kia mà không tức giận. "Con bé kiêu căng kia" bà nói, "có lẽ ngươi đến đây là để bồi thường cho những vết thương mà ngươi đã gây ra cho chồng mình; ngươi sẽ phải làm như vậy. Những người khéo léo như ngươi luôn có việc để làm !". Thế rồi bà dẫn Tâm Linh đến một căn phòng lớn chất ngất những đống ngũ cốc, đậu và đậu lăng, thức ăn cho những con chim bồ câu của bà được trộn lẫn lộn với nhau và sai nàng nhặt riêng chúng ra và phải hoàn thành xong công việc khi đêm xuống. Ngay cả thần Hecquyn cũng phải bó tay trước những công việc khó khăn như thế này. Tội nghiệp Tâm Linh, nàng bị bỏ mặc trong đền hoang vắng với những đống ngũ cốc mênh mông như sa mạc đến nỗi nàng chẳng có đủ can đảm để bắt đầu. Nhưng khi nàng ngồi đó thì có vô số những con vật màu đen, bò ra từ những kẽ nứt của ngôi đền và càng ngày càng tiến đến gần chỗ nàng. Nàng nhận ra một đội quân kiến khổng lồ xếp thành hàng ngũ đến để giúp đỡ nàng. Những sinh vật đầy lòng nhiệt tình này cùng xúm lại làm việc với một sự tổ chức và kỉ luật tốt nhất và khi đêm đến thần Vệ Nữ quay lại, bà nhận thấy công việc đã được làm xong."Con bé dối trá kia, công việc này không phải là do ngươi làm" bà rít lên làm cho những đóa hồng cài trên mái tóc của bà như chực muốn rơi xuống đất cùng với sự khó chịu " Ðây là do con trai ta đã giúp ngươi chứ không phải do ngươi tự làm. Nhưng rồi nó sẽ nhanh chóng quên được ngươi. Hãy ăn ổ bánh mì đen này nếu ngươi cảm thấy đói bụng và để cho cái đầu u tối của ngươi được nghỉ ngơi. Ngày mai, ngươi còn cần phải thông minh hơn đấy". Tâm Linh không hiểu sự bất hạnh nào cứ giáng xuống đầu nàng mãi thế. Khi sáng dậy, thần Vệ Nữ đưa nàng đến bên bờ của một con sông và chỉ cho nàng thấy cánh rừng bên kia sông và nói: " Hãy đến khu rừng đằng kia nơi đàn cừu có bộ lông vàng thường gặm cỏ và mang về cho ta một mớ lông vàng của mỗi con cừu hoặc là ngươi sẽ đi theo con đường của mình và chẳng bao giờ quay lại nữa". Ðiều này có vẻ không khó khăn, và Tâm Linh ngoan ngoãn vâng lệnh nữ thần, bước xuống nước và sẵn sàng lội qua sông. Nhưng khi thần Vệ Nữ biến mất thì những cây sậy rung lên xào xạc và những vị thần sông trông thật quyến rũ thổi bong bóng lên mặt nước và thầm thì với nàng: " Ðừng chủ quan thế Tâm Linh, phải cẩn thận. Lũ cừu này không hiền lành như những con cừu bình thường đâu. Khi mặt trời lên cao, chúng sẽ trở nên dữ như lửa vậy nhưng khi băng tối bao trùm chúng sẽ nghỉ ngơi và nằm ngủ dưới những bóng cây. Lúc đó nàng có thể bơi qua sông mà không phải lo sợ điều gì và nàng hãy nhặt lấy những mớ lông vàng trên cánh đồng cỏ." Cám ơn những loài thủy sinh xong, Tâm Linh ngồi xuống nghỉ ngơi bên cạnh họ và khi đến lúc, nàng bơi qua sông một cách an toàn và làm theo lời chỉ dẫn. Khi trời mờ sáng, nàng quay trở về đền thờ Vệ Nữ trên tay ôm đầy những mớ lông cừu sáng lấp lánh. "Không có con người nào đủ thông minh để làm được điều này" thần Vệ Nữ nói một cách tức giận " Nhưng nếu ngươi đã chuẩn bị cẩn thận để chứng tỏ mình đã sẵn sàng thì hãy lên đường ngay bây giờ với chiếc hộp nhỏ này và đi xuống sứ sở của Proserpina và yêu cầu bà ta gửi cho ta một chút sắc đẹp của mình hoặc là ta sẽ làm bức rào ngăn cản ngươi với đứa con trai bị thương của ta". Không cần phải nói những lời mắng nhiếc để cho Tâm Linh buồn bã như vừa rồi thì nàng cũng biết rằng chẳng có con người nào đi xuống âm phủ mà lại có thể sống sót để trở về. Cảm thấy như Thần Ái tình đã bỏ nàng, Nàng buồn bã chấp nhận số phận hẩm hiu của mình như nó vốn vậy. Nhưng khi nàng đang vội vã đi xuống âm phủ thì lại có một giọng nói thân thiện vang lên bên tai mình khiến cho nàng phải dừng bước: "Hãy khoan đã, Tâm Linh. Ta biết nỗi buồn của nàng. Nàng chỉ cần lắng nghe những lời chỉ dẫn của ta và nàng sẽ học được cách để vượt qua tất cả những thử thách này". Và giọng nói tiếp tục chỉ cho nàng thấy làm cách nào để tránh được những hiểm nguy của cõi chết để có thể trở về bình an vô sự. "Và hãy quả quyết với ta " giọng nói thêm vào " khi Proserpina đưa lại cho nàng chiếc hộp, tuyệt đối không được phép mở chiếc hộp ra trong suốt cả con đường dài trở về̉". Tâm Linh để tâm đến từng lời chỉ dẫn và bằng cách đó, nàng đã đến âm phủ một cách an toàn. Nàng nói rõ mục đích chuyến đi của nàng cho Proserpina và sớm trở về dương thế rất mệt mỏi nhưng tràn đầy hy vọng. "Không còn nghi ngờ gi nữa, thần Ái tình đã không bỏ rơi ta" nàng nghĩ " Nhưng tầm thường như ta và đã tả tơi sau những công việc vất vả, làm sao ta có thể làm vui lòng chàng đây ? Thần Vệ Nữ sẽ chẳng cần đến tất cả những sắc đẹp chứa trong chiếc hộp này và bởi vậy ta sẽ dùng để làm hài lòng thần ÁI tình của ta. Ta hẳn là đúng đắn khi làm như vậy". Nói là làm, nàng mở chiếc hộp ra, vô cùng bất cẩn như Pandora ! Câu thần chú và chất lỏng ma thuật của âm phủ đâu phải để dành cho những thiếu nữ trần gian như nàng. Và thế là khi nàng nuốt cái chất lạ lùng đó vào trong người, nàng ngã vật xuống như thể đã chết rồi, hoàn toàn bất tỉnh nhân sự. Nhưng có một việc đã xảy, thần Ái tình đã hồi phục vết thương và bay ra khỏi căn phòng của mình để đi tìm cứu Tâm Linh.
Chàng thấy nàng nằm bất tỉnh bên đường và lấy lại thứ bùa mê để cho vào hộp và đánh thức nàng Tâm Linh yêu quí dậy. "Hãy an tâm " chàng nói và mỉm cười " Hãy quay trở về ngôi đền của mẹ chúng ta để nghe phán truyền của người cho đến khi ta quay trở lại". Và thế rồi chàng bay đi; và trong khi Tâm Linh vui mừng trở về nhà, chàng vội bay đến đỉnh núi Olympus, nơi ngự trị của tất cả những vị thần và cầu xin họ đứng ra để nói giùm người mẹ vẫn còn đang giận giữ của chàng. Họ lắng nghe câu chuyện của chàng và trái tim họ rung động. Bản thân thần Zớt cũng lựa những lời nói ngọt ngào đầy thiện ý để nói với Vệ Nữ và cuối cùng thì bà cũng phải mủi lòng thương. Lúc này, sự giận dữ đã làm hại đến sắc đẹp của bà. Thần Vệ Nữ mỉm cười. Ngay lập tức tất cả những vị thần trẻ tuổi ngay lập tức đều chúc mừng Tâm Linh và thần Héc-mét, vị thần khoa học và hùng biện được cử tới để mang nàng tới ngọn núi thánh. Tâm Linh đến và nàng thẹn thùng trước những vị thần lạ lùng và sáng láng. Nàng nâng ly rượu mà thần Hebe đã rót cho nàng, uống cạn thứ rượu thiêng của thần thánh và trở nên bất tử.
Ánh sáng bừng lên trên khuôn mặt nàng giống như thể ánh sáng lúc trăng lên và từ đôi vai của nàng mọc ra đôi cánh sáng rực rỡ khiến cho loài bướm cũng phải hổ thẹn và thế là nàng công chúa Tâm Linh đã trở thành một nữ thần bất tử. Thần Ái Tình nắm tay nàng và họ sẽ chẳng bao giờ rời xa nhau nữa......

Chuyện tình buồn
Ngày xửa ngày xưa ,có 1 đôi trai gái vô cùng yêu nhau.Nhưng anh trai của nàng lại là 1 kẻ độc ác ,hắn ko muốn em gái hắn yêu 1 kẻ nghèo hèn nên hắn đã nghĩ kế hại chàng trai
Hắn giả vờ nhờ chàng mang 1 món đồ cho người họ hàng ở xa.chàng trai vui vẻ nhận lời ko 1 chút đắn đo.Trước khi đi chàng dặn dò người yêu phải giữ sức khoẻ và phải luôn nhớ về chạngNơi chàng đến phải băng qua 1 khu rừng và chàng ko biết rằng anh trai của cô gái đã chờ sẵn. Đợi lúc chàng ko để ý ,hắn giết chàng ,vùi xác chàng dưới 1 gốc cây to
Còn về cô gái ngày đêm cô mong chờ người yêu trở về ,ngày tháng trôi qua cô ko hiểu vì sao mà mãi ko thấy chàng về.Cô hỏi anh trai thì hắn bảo chắc anh ta đã thay lòng ,đã yêu người khác.Hắn hết mực khuyên cô tìm 1 người chồng giàu có ,nhưng cô nhất quyết ko nghe và tin rằng người yêu mình sẽ trở về.
Một dêm cô nằm mơ thâ'y anh trai mình đã giết người mà cô yêu thương nhất và giấu xác anh ở dưới gốc cây to nhất trong rừng.Ngày hôm sau khi tỉnh dậy cô đi vào rừng tìm đến gốc cây to nhất , cô đào lên và thấy đầu của chàng trai giờ đã trở thà nh 1 bộ đầu lâu khô.Cô cứ ngồi đó ôm đầu chàng trai khóc mãi ,khóc mãi cho đến khi tỉnh ra thì xung quanh cô trời đã tối.Nơi cô khóc mọc lên 1 cây hoa nhỏ
Cô mang hoa cùng với đầu chàng trai trở về trồng vào 1 chậu cây nhỏ. Từ hôm đấy cô ko hề nói 1 câu và cũng ko kể cho ai nghe về chuyện của mình.Ngày ngày cô chăm sóc cho hoa ,tưới nước ,sưởi nắng cho hoa . Khi hoa lớn nở ra những nụ hoa trắng muốt rung rinh như những chiếc chuông nhỏ. Cô đặt hoa ở đầu giường nơi cô nằm , hằng đêm những bông
hoa nở thơm ngát và trong mỗi bông hoa lại có 1 thiên thần bay ra xung quanh cô kể cho cô nghe bao nhiêu chuyện hay và ru cô ngủ với bao giấc mơ đẹp.
Anh trai cô rất tức giận vì thấy em mình ko chịu làm gì chỉ suốt ngày lo cho chậu hoa. Một hôm đợi lúc cô đi vắng hắn lẻn vào phòng bê chậu hoa về phòng mình và đập vỡ.Hắn yên tâm và đi ngủ ,đợi lúc hắn đã ngủ say ,những bông hoa được nuôi lớn từ xác thịt chàng trai đã bay ra cùng vô số các thiên thần kể cho hắn nghe về tội ác mà hắn đã gây ra.
Khi cô gái trở về ko thấy chậu hoa đâu cô tìm khắp nơi và thấy nó đã bị vỡ ở phòng anh mình cô thấy anh mình đã chết.Điều đó cũng ko làm cô quan tâm ,cô bê chậu hoa về phòng và trồng lại cô đặt hoa lại chỗ cũ nơi mà hoa vẫn ở đó.Đêm hôm ấy cô mơ một giấc mơ đẹp chưa từng thấy
Vài hôm sau hàng xóm phát hiện ra cả hai anh em đã chết mà ko có một dấu vết gì và họ vô cùng ngạc nhiên khi thấy phòng cô gái vẫn ngát mùi thơm còn chậu hoa thì đã héo khô từ bao giờ

Lợi trước mắt, hại sau lưng
Truyện xưa kể rằng...
Có một vì vua muốn đem quân đi đánh một nước láng giềng. Quần thần trong triều ai cũng cản ngăn vua nhưng nhà vua không nghe, còn phán lại rằng: "Ai còn càn gián sẽ bị tội nặng, đem đi hành quyết ngay !".
Thế là bá quan lặng yên không dám hó hé nữa. (Ai mà không sợ chết phải không các bé già, bé xồn xồn, bé trẻ?) Nhưng chỉ có một vị quan tuổi còn trẻ, còn nhiều nhiệt huyết (hay là điếc không sợ súng cũng nên!), không chịu thua.
Liên tiếp ba ngày sau đó, lúc trời hừng sáng, chàng mang cung tên đến mảnh đất gần cung Vua, bình thản đứng chực chờ dưới một gốc cây cổ thụ xum xê lá cành. Đến ngày thứ ba, vì lấy làm lạ nên tò mò, nhà Vua đến gần hỏi :
- Khanh đứng đó làm gì , để sương ướt áo thế ni? Có điều chi muốn tâu báo thì cứ nói!
Vị quan trẻ tuổi nọ vòng tay cung kính trình tấu:
- Tâu Bệ Hạ, trên ngọn chót vót của cây cổ thụ nầy có một con Ve Sầu suốt ngày nằm ca hát, yên chí tưởng mình đã an ổn. Nhưng nó đâu ngờ rằng , ngay sau lưng nó có một con Bọ Ngựa đang ló hai càng, chực hờ dịp thuận tiện là sẽ mau kẹp lấy nó xơi ngon lành. Nhưng buồn cười thay cho con Bọ Ngựa, mê mẩn với miếng mồi, tràn trề hy vọng, nó không thấy con Chim Sẻ đang đậu ở cành phía trên. Con Chim Sẻ nầy cũng như con Bọ Ngựa, bụng đói khô, đang lựa phút giây thuận tiện vồ lấy con thịt béo bở Bọ Ngựa . Thần đứng dưới nầy đã nhắm con Chim Sẻ nầy lâu lắm rồi. Thần cũng đã sẵn sàng cung tên để bắn nó rơi xuống đem về đánh chén. Nhưng miệt mài nhắm con mồi, thần không hay là sương đang rơi lã chã . Giờ đây nhờ Bệ Hạ nhắc nhở thần mới thấy rằng sương đã làm ướt cả áo, thấm trên đầu, trên tóc, trên vai thần. Thần chợt hiểu rằng:
"Trọn bi kịch chỉ vì ham lợi,
Trước mắt kia, hồ hởi quên xem
Cái hại ẩn núp sau rèm
Ở kề bên cạnh, chằng thèm quan tâm!"
Nhà vua nghe qua, bỗng nhiên tỉnh ngộ, bỏ lòng tham đổ bộ xâm lăng nước láng giềng. Toàn quốc thoát được cảnh can qua, vui hưởng thái bình.

Vòng đá và cuộc sống
Truyện kể rằng, ngày đó trên một con đường làng, người ta bắt gặp một chiếc vòng bằng đá đang lăn đi một cách chậm rãi và mệt nhọc bởi chiếc vòng bị mẻ mất một miếng nhỏ. Nó bị bỏ quên nên quyết định đi tìm mảnh vở của mình để ghép nên hoàn thiện. Thế là nó lăn đi khắp nơi chậm rãi, được gặp cỏ cây , hoa lá, nghe những câu chuyện của các con bọ cánh cứng, và nó được tất cả yêu quí.
Rồi một hôm nó tìm được mảnh vỡ của mình, "thật là vừa vặn", nó thầm nghĩ. Và từ ngày đó nó trở nên hoàn thiện, nó lăn đi rất nhanh, qua những con đường thân quen nhưng nó lăn nhanh đến nỗi nó không kịp nhìn thấy bất cứ thứ gì, không còn được nghe những câu chuyện quen thuộc và nó cảm thấy thật chán và buồn. Nó dừng lại, quyết định bỏ mảnh vỡ vừa tìm thấy, nó lại trở nên không hoàn thiện.
Cuộc sống cũng như vậy bạn ạ! Người hoàn thiện không phải là người hạnh phúc, Ban chưa bao giờ hoàn thiện cả? đúng nhưng có như thế bạn mới có những người bạn, bạn mới thấy cuộc sống thật ý nghĩa biết bao. Đừng lăn đi quá nhanh bạn nhé!!
Cuộc sống là điều kỳ diệu, đừng để nó trôi qua vô ích. Hãy mở rộng trái tim, mở rộng tâm hồn bạn với những người xung quanh; hãy thể hiện chính mình mỗi ngày.
Hãy nhìn thấy vẻ đẹp của mỗi người, bất kể họ từ đâu đến và họ là ai. Mỗi cuộc hành trình đều có một chút khó khăn và bạn thật sự cần có một người bạn ở cạnh bên.
Hãy biết sẻ chia món quà của thời gian và tài năng của mình, hãy lắng nghe trái tim bạn. Hãy làm những việc mà bạn hằng mong ước nhưng đừng quá tốn thời gian cho sự bắt đầu.
Hãy tặng hoa cho người mà bạn quan tâm. Hãy sống nhân từ và khoan dung. Cũng đừng quên rằng cuộc sống này không bao giờ công bằng cả. Và hãy luôn can đảm để sẵn lòng vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Nếu bạn biết ứng dụng những điều đó vào cuộc sống, dù cho bạn có đi đến nơi đâu, bạn cũng có thể tìm thấy ánh mặt trời rực rỡ và cả những cơn mưa mát dịu. Nhưng bạn sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn.
Vù thế banh HÃY:
- Hãy sống ở thế chủ động, tránh xa thể thụ động, nghĩ nhiều đến những gì mà bạn có khả năng làm được hơn là những gì có thể xảy ra cho bạn.
- Hãy sống ở cách khách quan.Hãy quan tâm đến thực tế cuộc sống đúng với nhưng gì đang thật sự diễn ra, hơnn là mong muốn chuyện đời sẽ xảy ra như bạn mơ ước.
- Hãy sống ở thì hiện tại, can đảm trực diện đối đầu với công việc ngày hôm nay.Không luyến tiếc quá khứ, cũng đừng lo lắng vớ vẩn đến tương lai.
- Hãy sống ở ngôi thứ nhất, nghiêm khắc tự kiểm điểm mình hơn là đi bươi móc những sai sót, lỗi lầm của thiên hạ.
- Hãy sống ở số ít, lắng nghe lời phe bình xuất phát từ lương tâm mình hơn là thích thú với những lời tán thưởng của đám đông.
- Và nếu phải chọn một động từ thì hãy chọn lấy động từ yêu thương

truyền thuyết phong linh
Câu chuyện diễn ra cách nay đã rất lâu, từ thời còn các kiếm khách và các ca nữ. Tại một ngôi làng nhỏ ở một vùng quê có một chàng trai tên Thiện Toàn, chàng là con trong một gia đình cũng khá giả. Thiện Toàn rất chăm chỉ và siêng năng, anh học rất giỏi và là một người cũng giống như tên gọi của mình Thiện Toàn.
Trong làng có Sươngmột cô gái xinh đẹp như hoa, thướt tha như lụa, nàng có đôi mắt đen nhánh như hai hòn ngọc trai đen, với đôi gò má xinh xinh như hai trái đào nhỏ, hồng hào, tươi tắn. Một cô gái đẹp nhất trong vùng. Nàng còn được trời phú cho một giọng hát ngọt ngào như mật, quyến rũ như chim sơn ca.
Ánh Sương và Thiện Toàn là một đôi thanh mai trúc mã từ nhỏ. Hai người có một mối tình tuyệt đẹp mà người đời ai cũng ghen tị. Họ yêu thương nhau thật thấm thiết. Có những ngày họ cùng nhau vui chơi trong vườn hoa thượng uyển ngào ngạt hương hoa, những chú bướm đủ màu sắc như trộn lẫn vào nhau tạo nên một mối tình thần tiên chốn nhân gian.
Trong ngày sinh nhật lần thứ mười tám của nàng sắp tới, Thiện Toàn muốn tặng nàng một món quà thật đặc biệt và đầy ý nghĩa nào đó. Suy nghĩ mãi nhưng vẫn không tìm ra được… Trong một lần đi dạo trong rừng trúc, những cành trúc va đập vào nhau cùng với tiếng lá xào xạc tạo cho chàng một cảm giác thật êm ái, độc đáo. Chàng chợt nảy ra một ý định và … từ những cành trúc bé nhỏ, cùng với một chút tài hoa của mình chàng đã làm nên một chiếc phong linh (chuông gió) thật xinh xắn và đầy ý nghĩa. Trên chiếc phong linh có treo tấm giấy nhỏ một mặt ghi tên của nàng, một mặt ghi tên của chàng cùng một lời chúc thật dễ thương.
Rồi ngày sinh nhật của nàng cũng đến, gia đình nàng tổ chức một buổi tiệc thật lớn để mừng cho con gái. Vào đêm hôm đó, chàng đã lén dẫn nàng ra cánh đồng trống ở sau nhà. Dưới ánh trăng sáng, chàng đã trao cho nàng món quá của mình. Chiếc chuông gió trong tay này rung động theo từng cơn gió nhẹ thổi qua, mang mùi hương của cánh đồng hoa đang chín rộ. Chàng tặng chiếc phong linh cho nàng với ước muốn rằng tình yêu của hai người sẽ mãi trong trẻo, sẽ mãi du dương trầm bổng như tiếng chuông gió. Và chàng cũng muốn mỗi khi nàng nghe thấy tiếng chuông sẽ nhớ đến chàng… Nàng ngồi trong vòng tay thương yêu của chàng, trong tiếng chuông, dưới ánh trăng sáng, hai người yêu nhau nhìn về phía xa chân trời trong hạnh phúc mà có biết ngày sau …
Kinh thành năm ấy tổ chức kỳ thi trạng nguyên, chàng phải từ giã cha mẹ và người yêu mình, hẹn ngày đỗ đạt trở về. Trong cuộc chia ly đầy nước mắt nàng tặng chàng một con hạc giấy, mong chàng đừng thay lòng đổi dạ… nàng vẫn mãi chờ đợi chàng . Chàng từ biệt ra đi, trong không gian vang vọng tiếng chuông gió ngày nào …
Trong những ngày Thiện Toàn đi thi, một biến cố đã xảy ra tại ngôi làng nhỏ bé này. Vào ngày đại thọ của cha nàng, có quan tri phủ Dương Thường Trực là bạn củ của cha nàng tham dự. Nàng chúc thọ cha mình bằng một bài hát và một điệu vũ tuyết trần. Ai nấy đều tán thưởng, chàng trai nào cũng phải chết mê chết mệt. Nàng đã lọt vào tầm mắt quan tri phủ và ông ta ngỏ lời cầu hôn nàng cho con ông ta là Dương Thường Xuyên.
Thường Xuyên là một công tử hoà hoa rất đẹp trai nhưng lại có tính xấu hễ thấy cô gái nào đẹp là hắn quyết “cưa” cho bằng được. Và … Ánh Sương cũng không ngoại lệ… trước vẻ hoà hoa của hắn nàng đã ngã gục và quên đi mối tình nồng thắm ngày nào với chàng Thiện Toàn. Nàng lên xe hoa ( xe ngựa !!) để lại sau lưng đầy ấp kỷ niệm …
Về nhà làm dâu qua tháng ngày nàng thấy rõ bọ mắt thú vật của Thường Xuyên, hắn ngày càng dữ dằn hơn, cứ đi chồn lầu xanh đàng điếm say sưa, về nhà lại quát tháo đánh đập nàng. Cuộc đời giờ sống còn hơn chết, không còn những ảo mộng tốt đẹp như nàng đã từng mơ …
Không chịu nổi nữa nàng đã trốn về nhà cha mình. Nhưng Thường Xuyên không buôn ta, hắn sai người đi bắt nàng về. Khi nàng về tới nhà, trở lại căn phòng củ hôm nào … nàng ứa nước mắt nhìn lại những đồ vật củ, lại thương cho số phận của mình. Nàng một mình bước đi trên cánh đồng hoa, dưới cơn gió nhẹ và ánh trăng vằng vặc. nàng chợt nhớ đến Thiện Toàn và nàng lại khóc. Nàng khóc vì thương cho một cuộc tình, nàng khóc cho mình vì đã thay lòng đổi dạ …Nàng cứ đi cứ khóc rồi lạc đến rừng trúc khi nào không biết. Nghe tiếng những cành trúc va đập vào nhau, tiếng lá xào xạc rơi đầy trên nền đất, nàng như lặng đi, nghe âm thanh như tiếng chuông gió ngày nào Thiện Toàn đã tặng, vừa du dương và tha thiết, vừa trầm lắng và cảm thông … nghe như tiếng nói chàng ngày nào vẫn đang vang vọng, quan tâm nàng, những cành trúc như thay chàng hỏi rằng vì sao nàng lại khóc … Nước mắt nàng lúc này nhưng càng nhiều hơn càng tha thiết hơn …
Chợt tiếng vó ngựa phá tan không gian , bọn thuộc hạ chồng nàng đã đuổi theo tới nơi… Nàng lại chay chạy chạy mãi, tiếng vó ngựa cứ dồn dập sát theo sau, ngày càng gần hơn… rồi chúng dồn nàng đến bên bờ một vựa thẩm. Chúng mời nàng về nhưng nàng không nghe, chúng cứ dồn lại ngày càng gần nàng hơn … nàng quay lưng lại nhìn xa về phía chân trời, nhìn lên ánh trăng, … nàng ứa những giọt nước mắt cuối cùng, nàng nguyện kiếp sau mình sẽ trả món nợ đối với Thiện Toàn , nàng ước mong sẽ luôn được ở bên chàng … Nàng buôn mình rơi xuống vực thẳm sâu hút, nàng chết đi dưới một thung lũng hoa, miệng vẫn nở một nụ cười tươi thắm … Hồn này bay ra nhập vào chiếc phong linh ngày nào …
Còn về chàng Thiện Toàn thì đã đạt được ước nguyện của mình, chàng đã đổ đầu kỳ thi và được phong làm trạng nguyên. Chàng rất vui mừng và háo hức trở về quê nhà xưa gặp lại phụ mẫu và người yêu cũ…
Chàng về đến làng được mọi người chào đón nồng nhiệt, được gặp lại người thân chàng rất vui mừng, nhưng sao vẫn không thấy Ánh Sương ra đón chàng. Chàng tìm khắp mà không gặp được nàng. Khi hay hung tin nàng đã qua đời chàng như không tin được, nghe như một tiếng sét bên tai, chàng chết lặng đi…Ánh Sương đã chết, Ánh Sương đã xa chàng mãi mãi, không, chàng không thể tin được điều này … chàng chạy đi bỏ lại người thân nhìn theo trong nước mắt, chàng chạy đến rừng trúc và một mình ở đó. Chàng ở đó nhớ thương nàng, nhặt lá trúc mà nhớ nàng, nghe tiếng gió vi vu như nàng đang trở lại … Chàng ở đó lẳng lặng trong bảy ngày bảy đêm … Rồi chàng chỉ biết đến lại căn phòng của nàng, nhìn vật nhớ người …Chợt tiếng chuông gió ở đâu vang lên , thật quen thuộc … Chàng tìm khắp và thấy chiếc phong linh ngày nào chàng tặng cho nàng đang được treo trên một cây trúc ở sau nhà nàng … Chàng nhìn ngắm, hình như có bóng hình nàng trong đó, tiếng nhạc du dương như tiếng nàng đang trò chuyện với chàng …Chàng ngồi chỗ đấy, dần chìm vào giấc ngủ… trong mơ chàng đã gặp nàng, ấm lại mối tính thửơ ấy …Chàng mất đi … Hy vọng hai người sẽ có một mối tình đẹp hơn trong kiếp sau …

Tinh yeu la gi?
Một chàng trai đưa cô bạn gái thân vào quán uống nước.Sau khi người phục vụ đặt hai cốc nước trắng lên bàn và đợi thì cô gái chợt đặt ra một câu hỏi:
- Đố anh biet " Tình Yêu " là gì ?
Chàng trai mím cười quay sang cô phục vụ và nói:
- cho toi một ấm trà, một cốc cà fê đen, một cốc cà fê sữa, một ly rươu vang và một ly sâm panh.
Sau khi mọi thứ đã được mang ra, chàng trai lấy ấm trà và uống chén đầu tiên.
Anh ta nói:
-Tình yêu như ấm trà này. Khi ta uống nước đầu sẽ rất đậm đà, nước thứ hai sẽ dìu dịu thanh thanh. Còn nươc thứ ba thì sao ?
Tình yêu không như ấm trà này bởi sau nước thứ ba ấm trà sẽ không còn hương vị ban đầu.
Anh ta lại nhấp một ngụm cà fê đen và nói:
-Tình yêu mang hương vị của cốc cà fê này, lúc đầu có thể phải trải qua vị đắng nhưng dần dần vị ngọt và thơm sẽ ngấm dần vào mỗi người.
-Nhưng tình yêu không như cốc cà fê sữa. Uống cà fê sữa ta sẽ cảm thấy ngay vị ngọt, vị ngọt của nó đến rất nhanh và đi rất nhanh. Còn tình yêu không như vậy.
Dứt lời anh ta đổ cốc cà fê ấy đi và nói:
-Tình yêu như ly rươu này, nó thật nồng nàn, ấm áp và êm đềm.
Anh ta lại uống ly sâm panh
-Không ! Tình yêu không thể là thứ nước khai vị chua loét này được.
Chàng trai lo lắng vì không tìm được câu trả lời. Bất chợt anh ta nhìn thấy cốc nước trắng trên bàn. Anh ta reo lên.
Đúng rồi, hãy nhìn cốc nước kia, nó thật tinh khiết và giản dị. Rượu cà fê và trà cũng phải bắt nguồn từ nước. Tình yêu cũng như vậy, cái nồng nàn, ngọt ngào, êm đềm và cay đắng cũng phải xuất phát từ lòng chân thành và những điều giản dị nhất. Bạn ạ !
Tình yêu là cốc nước trắng.
Cô gái ngồi im, đôi mắt mở to. Và rồi cô từ từ nhấc ly nước lên và từ từ đặt vào tay chàng trai.
Chàng trai đã hiểu rằng, anh ta đã có một câu trả lời đúng...

Tinh yeu va doi canh
Ngày xưa có một chàng trai sống cô đơn trong ngôi nhà gỗ cạnh một cánh rừng. Một hôm, trong lúc dạo chơi chàng trai bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Lập tức chàng đem chúng về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Với sự chăm sóc chan chứa tình thương của chàng, hai chú chim ngày càng trở nên khỏe mạnh và xinh đẹp. Mỗi sáng chúng cất tiếng líu lo để chào đón chàng.
Một ngày kia chàng quên cài cửa lồng chim. Thế là một chú chim liền bay ra khỏi lồng, nhưng nó chưa bay đi hẳn mà lại lượn vài vòng quanh chàng như muốn chào chàng lần cuối.
Chàng trai buồn bã nhìn theo. Chàng không muốn phải rời xa nó. Chàng không muốn tình yêu của chàng bay mất nên khi con chim bay thật gần chàng liền với tay tóm lấy nó thật mạnh. Chàng sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng một lúc sau, chàng cảm thấy con vật yêu quý bỗng trở nên mềm nhũn trên tay. Chàng hốt hoảng xòe tay ra và bàng hoàng nhận thấy con chim đã khép mắt qua đời. Nó đã chết bởi chính tình yêu mà chàng dành cho nó. Chàng thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng và bắt đâu mường tượng rằng nó cần được tự do bay vút lên bầu trời xanh thẳm. Chàng liền tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim vào không trung. Nó lượn quanh chàng một vòng, hai vòng, rồi ba vòng. Chàng đón nhận niềm vui của nó bằng ánh nhìn rạng rỡ và trìu mến. Những muộn phiền trước đó không còn nữa. Bỗng nhiên chú chim dịu dàng đáp xuống đậu trên vai chàng và hót vang những giai điệu mượt mà chưa bao giờ trong cuộc đời chàng được thưởng thức.
Qua tiếng hót diệu kỳ kia, chàng trai chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho tình yêu một đôi cánh tự do.
Ngày xưa có một chàng trai sống cô đơn trong ngôi nhà gỗ cạnh một cánh rừng. Một hôm, trong lúc dạo chơi chàng trai bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Lập tức chàng đem chúng về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Với sự chăm sóc chan chứa tình thương của chàng, hai chú chim ngày càng trở nên khỏe mạnh và xinh đẹp. Mỗi sáng chúng cất tiếng líu lo để chào đón chàng.
Một ngày kia chàng quên cài cửa lồng chim. Thế là một chú chim liền bay ra khỏi lồng, nhưng nó chưa bay đi hẳn mà lại lượn vài vòng quanh chàng như muốn chào chàng lần cuối.
Chàng trai buồn bã nhìn theo. Chàng không muốn phải rời xa nó. Chàng không muốn tình yêu của chàng bay mất nên khi con chim bay thật gần chàng liền với tay tóm lấy nó thật mạnh. Chàng sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng một lúc sau, chàng cảm thấy con vật yêu quý bỗng trở nên mềm nhũn trên tay. Chàng hốt hoảng xòe tay ra và bàng hoàng nhận thấy con chim đã khép mắt qua đời. Nó đã chết bởi chính tình yêu mà chàng dành cho nó. Chàng thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng và bắt đâu mường tượng rằng nó cần được tự do bay vút lên bầu trời xanh thẳm. Chàng liền tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim vào không trung. Nó lượn quanh chàng một vòng, hai vòng, rồi ba vòng. Chàng đón nhận niềm vui của nó bằng ánh nhìn rạng rỡ và trìu mến. Những muộn phiền trước đó không còn nữa. Bỗng nhiên chú chim dịu dàng đáp xuống đậu trên vai chàng và hót vang những giai điệu mượt mà chưa bao giờ trong cuộc đời chàng được thưởng thức.
Qua tiếng hót diệu kỳ kia, chàng trai chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho tình yêu một đôi cánh tự do.

doan ket cho mot cau chuyen tinh
Chuyện kể rằng ở một xứ sở nọ có chàng hòang tử và một nàng công chúa yêu nhau, chẳng may, công chúa lâm bệnh nặng mà chết.
Chàng hòang tử rất đau khổ, mỗi ngày chàng đều đến thăm mộ nàng, ngồi bên cạnh mộ nàng mà tưởng nhớ nàng, mà tiếc nuối về kỷ niệm.
Lạ lùng thay, chẳng lâu sau, trên mộ nàng mọc lên một bông hoa, một bông họa rất đẹp. Hòang tử rất yêu bông hoa ấy, hằng ngày chàng vẫn đều đặn đến thăm mộ nàng công chúa và chăm sóc cho cây hoa nhỏ. Cây hoa ấy rất hạnh phúc và ngỡ rằng hòang tử yêu hoa vì hoa đẹp, hoa thơm. Bông hoa ấy đã đem đến cho mọi người bao điều tốt đẹp, vì cứ mỗi lần người nào được ngửi hương thơm từ nó thì đều thấy mọi buồn phiền của họ như tan biến.
Cảm động, trời ban cho hoa một điều ước. Bông hoa rất sung sướng, và đã tự nhủ với lòng rằng, sẽ dùng điều ước đó để được trở thành một cô gái xinh đẹp, xứng đôi cùng hòang tử, vì từ lâu hoa đã yêu hòang tử mất rồi.
Hoa chỉ chờ khi bình minh ló dạng, một ngày mới bắt đầu, hòang tử sẽ đến thăm hoa như mọi ngày chàng vẫn đến, và hoa sẽ biến điều ước của mình thành hiện thực. Kìa, những tia sáng đầu tiên báo hiệu một ngày mới, cái vóc dáng thân quen của hòang tử đang rõ dần, và hoa hồi hộp lắm, tối hôm qua, cây hoa ấy đã dựng lên biết bao hình ảnh lãng mạn trong tương lai giữa hoa và hòang tử, điều ước đang dần trở thành hiện thực.
Ôi, nhưng sao hôm nay trông hòang tử buồn, hòang tử ủ rũ thế, chuyện gì đã xảy đến với chàng? Hòang tử lại đến bên hoa và hôm nay, khác những hôm trước, chàng tâm sự. Hoa lẳng lặng lắng nghe, thì ra hôm nay là tròn một năm ngày công chúa chết, và hòang tử đang nhớ về công chúa, đang kể những kỷ niệm đẹp mà hai người từng có bên nhau. Và hoa đau đớn nhận ra rằng, cái lý do duy nhất mà chàng yêu hoa, chăm sóc cho hoa từng ngày vì chàng nghĩ hoa là hiện thân của công chúa.
Chàng không yêu hoa như mọi người vẫn yêu hoa, chàng không yêu hoa vì hoa đẹp, hoa thơm, chàng yêu hoa vì chàng xem hoa là hiện thân của công chúa. Hòang tử đã không biết rằng hoa đã rất đau khổ khi biết sự thật đó, hoa không muốn làm vật thay thế.
Vì là chuyện cổ tích nên có rất nhiều giai thoại khác nhau, sau đây là 3 kết thúc chuyện.
Có người bảo rằng cái bông hoa bé nhỏ ấy đã quyết định một chuyện rất lớn lao, hoa đã hy sinh cái điều ước của mình để dành lại sự sống cho nàng công chúa, vì hoa muốn chàng hòang tử được hạnh phúc bên người mình yêu. Chàng hòang tử ấy đã rất vui mừng khi nàng công chúa sống lại, và hạnh phúc bên nàng công chúa ấy mãi mãi. Chỉ tội nghiệp cho cái bông hoa đáng thương ấy, hoa bị chàng bỏ rơi, không chăm sóc, không ngó ngàng, và hoa đã dần dần chết đi, hoa chết đi nhưng vẫn mãn nguyện vì dù sao chàng hòang tử mà hoa yêu cũng đã được hạnh phúc.
Lại có người bảo rằng sau khi nghe những lời chàng hòang tử tâm sự, bông hoa đã quyết định ước mình trở thành một cô gái thật giống với nàng công chúa, và sẽ được hòang tử xem hoa như hiện thân của công chúa, và hoa sẽ được bên người mình yêu suốt đời.
Và lại thêm người khác bảo rằng, hoa vẫn thực hiện điều ước của mình, vẫn biến thành một cô gái, nhưng lại không giống công chúa mà hòang tử yêu, chỉ đơn giản là một cô gái mà thôi. Hoa đã dùng cái tình yêu mãnh liệt của mình dành cho chàng, cảm hóa chàng, giúp chàng hiểu được rằng quá khứ chỉ sẽ là quá khứ, là kỷ niệm và là ngày hôm qua, hãy quên đi quá khứ mà nhìn về hiện tại, tương lai. Hoa không cao thượng mà dùng điều ước của mình ước cô gái sống lại. Tình yêu không có sự chia sẻ, hoa muốn phấn đấu để dành được chàng, để dành được tình yêu cho mình.
Theo bạn, bạn sẽ chọn kết thúc nào?

Ơn đền nghĩa trả
Linh Tiên, người huyện Thiên Hưng, tỉnh Triết Giang, lấy chồng từ năm mười sáu tuổi. Chẳng may năm ấy trời khô hạn. Chồng đi lấy nước bị xẩy tay mà té… giếng chết, khiến Tiên rầu rầu bảo dạ:
- Vợ chồng hương lửa đang nồng, mà vội sớm lìa xa, ắt kiếp trước có làm chi không phải!
Chị chồng của Linh Tiên là Ngọc Thư, thấy em còn trẻ người thon đẹp, mà sớm tối bao ngày chỉ đặng một mình ên, mặc cho bão rớt mưa tuôn cũng… ì ra như dzậy, nên nhân lễ mãn tang vừa xong ngay hôm đó, mới gọi Tiên vào mà nói nọ nói kia:
- Hôm nay em đã mãn tang chồng, thì đừng… thủ tiết làm chi nữa. Chớ hoa có thời. Em có lứa - mà chẳng chịu bước thêm - thì lỡ mai sau muốn phang luôn cũng không làm sao tới được!
Linh Tiên lắc đầu, đáp:
- Em đã lấy chồng, thì sống là người họ Phạm. Chết thì làm ma nhà họ Phạm. Chớ không canh cải gì nữa cả!
Ngọc Thư vội đảo mắt một vòng. Khi tin chắc là chẳng có ai, liền ghé miệng vào tai của Linh Tiên mà gấp gáp nói rằng:
- Đã làm thân con gái, thì phải biết nuôi… chồng nuôi con. Nay em chửa có con, mà chồng lại vui chơi nơi miền đất lạnh, thì em phải kiếm chồng khác mà… nuôi nữa. Chớ lẽ nào… rảnh thế được hay sao?
Linh Tiên ngoác miệng ra cười một tiếng thật to, rồi liến thoắng nói rằng:
- Nuôi chồng. Vừa hao mòn tâm trí. Vừa tổn hại xác thân, thì mập béo chi mà vơ vào cho mệt?
Ngọc Thư cơ hồ như tức nghẹn. Máu dồn lên tới cổ, đỏ cả mang tai, lớn tiếng mà nói rằng:
- Chẳng thà em xấu chị còn đở tức. Đằng này em mượt mà. Êm tựa như nhung, mà để phí cả ra, thì còn nói đến chữ khôn ngoan làm chi nữa!
Linh Tiên biết chị mình đang giận, nên chẳng dám nói thêm, mà chỉ quay lưng rồi thì thầm bảo dạ:
- Mặc ai nói ngã nói nghiêng, thì ta cũng vững như kiềng ba chân. Thôi thì chị thương tình chị nói, miễn mình không chịu thì thôi. Chớ đừng nói tới nói lui mà hư tình thân thuộc.
Từ đó, Linh Tiên lấy nghề dệt cửi làm phương cách sinh sống, cho tới hơn năm mươi vẫn còn bên khung cửi. Một hôm, sửa soạn đi nằm. Chợt nghe tiếng gõ cửa ầm ầm thật cấp bách. Linh Tiên nhìn ra, thấy một thiếu nữ tay xách bị cói đang đứng ngoài khung cửa. Tiên lấy làm lạ, bèn vội vã hỏi rằng:
- Nàng tên gì? Ở đâu? Sao lại đến đây trong đêm dài tăm tối?
Người con gái đáp:
- Con họ Thôi, tên là Tiểu Oanh, vì trốn đứa đạo tặc mà trôi dạt đến đây, mong bà nhủ lòng thương mà ra tay cứu giúp.
Linh Tiên vội mời Tiểu Oanh vào nhà. Khêu ngọn đèn lên, thì thấy một trang thiên hương quá chời là đẹp, liền thì thào tự nhủ:
- Hồng nhan đa truân. Chẳng vậy mà người con gái này khổ vì cái sắc của mình, đến nỗi phải chạy trốn trong đêm, thì mới biết có sắc chưa hẳn là sung sướng!
Đoạn, mời Tiểu Oanh ngồi xuống. Lấy chén súp cho ăn, rồi thong thả nói rằng:
- Ta làm nghề dệt cửi. Thiếu của… để mà chỉ có của ăn, thì làm sao cứu giúp nàng cho đặng?
Tiểu Oanh liền đảo mắt một vòng, biết ngay nhà trống vắng, thiếu hẳn bóng đàn ông, nên hớn hở hớn ha trải phơi niềm tâm sự:
- Bà ở một mình. Thôi thì nhận con cho có người cười vui trong sớm tối. Đỡ bớt quạnh hiu, mà lại có kẻ chăm sóc khi Đông về giá lạnh. Còn việc dệt cửi thì con thừa sức làm. Bà chẳng phải lo, đến miếng cơm của người đang sức sống…
Linh Tiên mừng thầm trong bụng, nhưng chưa tiện nói ra. Mãi một lúc sau mới thì thào bảo dạ:
- Ở đời thường xảy ra cảnh hoạn nạn, đau khổ của kẻ khác, nhưng lại là niềm sung sướng hân hoan của chính mình. Thôi thì sự tình đã ào ra như rứa, ta cũng chơi luôn. Chớ không thể để mất cơ may đang bày ra trước mắt!
Nghĩ vậy, liền bảo Tiểu Oanh thu xếp đồ đạc, rồi chỉ vào cái giường để ở góc nhà, mà nói:
- Từ nay, bà cháu mình ngủ với nhau trên cái giường này. Vui cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia. Dẫu chẳng máu mủ bà con, nhưng cũng cứ coi nhau như là ruột thịt…
Tiểu Oanh mừng quá, vội chắp tay van vái Trời Đất, rồi quay lại nhìn vào mắt của Linh Tiên, mà tha thiết nói rằng:
- Có người, suốt đời chỉ quanh quẩn với những lợi ích của chính mình, mà chưa một lần thoát ra để nghĩ tới người khác. Còn bà. Lòng như biển cả. Lượng tựa non cao, khiến con đây mát lòng mát dạ.
Nói rồi, vào trong thay áo quần đi ngủ. Lúc bước ra, Linh Tiên sửng sốt mà nói rằng:
- Ta đã bằng ấy tuổi, mà đứng trước sắc đẹp của con, còn muốn… chết. Huống chi bọn phàm phu tục tử. Háo sắc háo danh, thì có thể bán cả… tổ tiên để mong chút duyên may nhỏ xuống đời khô khát…
Tiểu Oanh phì cười, nói:
- Nếu mà được như dzầy, thì thiệt là quá đã!
Từ đấy, một già một trẻ tâm đầu ý hợp, nên việc làm như mây bay nước cuốn. Chẳng vấp váp gì hết cả. Đã vậy Tiểu Oanh lại khéo tay, nên vải dệt ra đều trơn bóng mịn màng, khiến thiên hạ đặt hàng như tôm về buổi sáng. Linh Tiên thấy vậy, muốn đem chuyện Tiểu Oanh đang ở tạm nhà mình nói cho chòm xóm nghe, nhưng Tiểu Oanh gạt phắt, còn nói với lại rằng:
- Nếu bà không cẩn thận lời nói, con sẽ ra đi. Chớ không thể ở thêm giây phút nào nữa cả!
Linh Tiên rụt rè nói:
- Người ta gặp một chút. Nào có mất mát gì. Sao con lại khó khăn với mình nhiều như thế?
Tiểu Oanh nhẹ nhàng đáp:
- Tai vách mạch rừng. Con chỉ sợ tên đạo tặc biết con trú ngụ nơi đây, thì hai bà cháu sẽ ra người thiên cổ. Vả lại, nếu là bạn gái đến thì tiếp họ cũng chẳng ngại gì. Chỉ sợ kẻ thất phu, ăn nói sàm sỡ, làm nhơ bẩn chốn tâm can, thì dẫu chuyển kiếp cũng khó mà ra được.
Một hôm, có Phí Sinh là danh sĩ trong ấp, nhân tiện đi ngang qua nên ghé vào thăm. Chợt thấy Tiểu Oanh đang ngồi bên khung cửi, bèn lẹ miệng hỏi rằng:
- Nàng có họ hàng gì với bà này? Sao lại lạc đến đây cho đời thêm… tươi sáng?
Tiểu Oanh liền nhìn Linh Tiên cười cho một phát. Tiên dịu giọng nói rằng:
- Nó là cháu bên họ nhà chồng. Chớ chẳng xa lạ gì hết cả.
Phí Sinh hớn hở nói:
- Tôi nghĩ là nàng chưa có chồng. Có đúng vậy chăng?
Tiên cười cười đáp:
- Cháu tôi tuổi Dần, hơi cao số, nên đến hôm nay vẫn chưa hiểu được gia đình nó ấm áp mần răng!
Phí Sinh như trống dồn trong bụng. Chẳng biết nói sao, nên từ tạ ra về. Hôm sau, đợi lúc Linh Tiên đem hàng đi bỏ mối, Phí Sinh mới chận lại, rồi dúi vào tay hai chục lượng vàng ba số chín, mà khẩn thiết nói rằng:
- Tôi chưa vợ. Cháu bà chưa chồng. Vậy hai chục lượng này, có là nhịp cầu nối kết được không đây?
Linh Tiên lắc đầu, đáp:
- Chuyện duyên nợ không thể lấy tiền bạc ra mà đo được.
Phí Sinh vội thò tay vào bọc. Dúi thêm mười lượng nữa, rồi ấp úng nói:
- Chưa đến mức ăn thua, mà mất toi ba chục lượng vàng ròng. Bà còn chưa vừa ý, thì xem nhau như… đồng hương làm sao được?
Linh Tiên liền mở ruột tượng ra, nhét vàng vào, rồi vui vẻ nói:
- Tôi chỉ mở lời. Còn được hay không, thì số vàng kia cũng chẳng bao giờ trở lại…
Phí Sinh xua tay, đáp:
- May thì được vợ. Không may thì được… thú đau thương. Có chi mà hối tiếc!
Tối ấy, lúc nằm ngủ chung. Linh Tiên mới đem chuyện của Phí Sinh ra mà kể, không quên dặm mắm thêm muối cho tăng phần ướt át. Kể xong, mới hỏi Oanh rằng:
- Phép lạ của tình cờ chỉ đến một lần. Không đến lần thứ hai. Vậy con nghĩ sao về tình duyên đang đến?
Tiểu Oanh lặng người đi một chút, rồi chậm rãi đáp:
- Muốn tiến đến một cuộc tình trước mặt, thì phải quên đi những chuyện tình sau lưng. Con chưa có chuyện tình sau lưng, nhưng không thể lấy thằng này làm chồng cho được!
Linh Tiên thất sắc, hỏi:
- Sao con lại nói tùm lum như thế?
Tiểu Oanh mạnh dạn:
- Mới gặp người ta, mà đã muốn chuyện đá vàng, là người thiếu hiểu biết. Mới nhìn thấy sắc, đã chết lịm tâm can, thì cái yêu kia sẽ tàn tạ chậm nhanh theo cái sắc đang còn hay đi… xuống, thì đúng là người thiếu chung thủy. Mới trao đổi một vài câu. Chưa tỏ tường tính nết. Cái ở cái ăn, mà vội xáp vô như mèo thấy mỡ, thì đúng là người bồng bột ham vui. Chỉ biết thỏa mãn cái ham chớ chẳng biết nghĩ suy gì hết cả…
Đoạn, thở hắt ra một cái, rồi chắc nịch nói rằng:
- Người mà hội đủ ba cái tầm bậy đó. Lấy đặng hay sao?
Linh Tiên suy nghĩ một hồi lâu, rồi chậm rãi giải phân điều hơn thiệt:
- Phí Sinh là danh sĩ trong ấp. So với ngoài xã hội, cũng có tiếng tăm. So với kẻ giàu sang, cũng thuộc thứ ngang hàng vai vế. Nay con chịu nhận Phí Sinh làm chồng, thì trước là có sự nể vì ngoài xã hội. Sau có tiền để làm đẹp với người ta, thì khỏi phải tiếc lo tuổi xuân mình qua chóng…
Rồi ngừng lại một chút để thở, đoạn nắm lấy tay của Tiểu Oanh, mà thận trọng nói rằng:
- Không có đàn bà xấu. Chỉ có đàn bà không có tiền để làm đẹp. Nay con có cơ hội để kiếm tiền. Há lại chịu bó mình trong cái cực hay sao?
Tiểu Oanh cười cười đáp:
- Bà có nhận đồ hối lộ của người ta hay không mà nói cho người ta nhiều dữ dzậy?
Linh Tiên vội đưa tay vào trong ruột tượng. Lôi ra một lượng vàng ba con chín, rồi ngập ngừng nói rằng:
- Sáng nay, Phí Sinh có nhờ ta làm nhịp cầu nối kết, để tính chuyện phu thê. Ta chưa kịp nhận, thì Phí Sinh đã dúi vào tay lượng vàng này, nói là để bà mua trầu ăn tới tới. Ta vui mừng trộm nghĩ: Chưa đám cưới đã rộng rãi thế này. Chừng đón họ rước dâu, ắt tài lộc sẽ đến chơi nhiều hơn nữa.
Tiểu Oanh nghe vậy, mới hổng biết nói sao, bèn thì thầm tự nhủ:
- Ân công của ta dẫu suốt đời bên khung cửi, cũng khó lòng kiếm được một chỉ một phân. Chớ nói chi đến lượng vàng ba con chín. Nay ta được ân công đùm bọc. Vui nhọc xẻ chia, thì không thể vì chuyện đâu đâu mà đánh mất thâm tình đang có được.
Nghĩ vậy, bèn nở một nụ cười thật tươi, mà hớn hở nói rằng:
- Bà đã lỡ nhận tiền của người ta mà con không cho gặp là bất nhân. Được bà cứu vớt mà vội vã quên ơn là cái phường bất nghĩa. Con tuy không phải là người tài cao hiểu rộng, nhưng quyết không trở thành thứ bất… tum lum như thế!
Đoạn, nhìn vào mắt của Linh Tiên, mà thủng thẳng nói rằng:
- Con có thể vì bà mà tiếp kiến ông ấy một lần - nhưng chữ nợ duyên - Chắc ăn là hổng có

Tiên đánh cờ
Ngày xưa, có một người con trai tên là Hiếu, cha làm nghề đốn củi bị cọp tha mất, còn một mẹ già với mấy em dại, Hiếu phải ngày ngày đi vào rừng, làm lụng khó nhọc để nuôi mẹ và các em. :oh:
Một buổi chiều đông giá rét, Hiếu đang gánh hai bó củi nặng ở rừng về, đến một lối quanh, trông thấy một người nằm như chết bên đường. Hiếu đỡ lên thì thấy một ông lão cóng người vì đói rét, sờ ngực hãy còn thoi thóp, bèn cõng về nhà. Mẹ con tận tình săn sóc cho ông lão tỉnh dậy và nuôi nấng khách cho đến khi mạnh hẳn, mặc dù trong nhà hết sức túng thiếu. Đêm hôm trước ngày từ giã, ông lão gọi Hiếu mà bảo rằng: "Đáp lại lòng tốt của nhà này đối với lão trong lúc hoạn nạn, lão tiết lộ thiên cơ cho biết rằng Sổ Tử của Thiên Tào đã có ghi tên anh năm nay phải chết. Anh muốn thoát khỏi thì hãy nhớ theo lời lão dặn đây: "Ngày mồng một tháng tới, anh nhớ dậy thật sớm, mang theo một bầu rượu với hai cái chén, qua khỏi khu rừng này, nhắm mặt trời mọc mà đi đến một nơi có hồ xanh ngắt rồi trèo lên núi, vòng trái ngọn thác, lên tới đỉnh, thì thấy hai ông tiên ngồi đánh cờ. Anh phải lặng lẽ tới gần, chờ khi nào họ gọi rượu uống thì anh rót rượu đưa ra, rồi đợi hai ông tiên đánh cờ xong hẵng thưa chuyện xin xóa tên anh trong Sổ Tử".
Sáng hôm sau, Hiếu nhận thấy ông lão đã biến đâu mất.
Đến ngày mồng một, trời chưa sáng, Hiếu đã đeo bầu rượu, cầm hai chén tống ra đi. Qua khỏi khu rừng, Hiếu đi theo một con đường mới, nhắm theo hướng mặt trời đi đến một cái hồ nước xanh leo lẻo. Trong khu rừng đưa đến chân núi, lần đầu tiên Hiếu được nghe những tiếng chim hót thánh thót như nhạc, rồi đi được một quãng, vẳng nghe tiếng thác đổ xa xa. Hiếu lần đi về phía này, vòng trái thác nước, rồi đến ven rừng, trước một cảnh núi non kỳ tú và chan hòa ánh sáng. Dưới tàn bóng cây thông, hai ông lão tiên phong đạo cốt vận áo xanh, áo đỏ đang ngồi xếp bàn tròn đánh cờ trên một bàn đá phẳng lì. Hai ông lão lặng lẽ đánh cờ, tính toán kỹ từng nước, từng lúc sẽ nghiêng mình để đi một nước cờ, chòm râu dài bạc trắng phất phới lướt qua đám quân cờ son. Hiếu đứng lặng đợi chờ, để ý nhìn thấy một cuốn sách lớn gấp lại bên cạnh ông áo xanh.
Một lúc lâu, ông lão áo xanh mắt vẫn không rời khỏi bàn cờ, cất tiếng gọi: "Rượu đâu"! Hiếu vội vàng rót đầy hai chén rượu bưng đưa ngang tầm tay hai ông lão. Cả hai nhấc chén uống cạn, mải mê theo nước cờ đi. Hiếu dâng rượu ba lần như vậy. Đến khi xong ván cờ, ông lão áo đổ thắng cuộc ngước mắt lên, Hiếu vội vàng sụp xuống lạy mà thưa rằng: "Muôn lạy tiên ông, xin tiên ông cứu độ cho con khỏi chết, vì con còn mẹ già yếu khôn ai nuôi dưỡng. Cúi xin tiên ông cứu cho con được sống thêm vài năm nữa, cho các em con khôn lớn lên có thể thay thế con mà nuôi dưỡng mẹ già thì con có chết cũng vui lòng."
Ông lão áo đỏ nghiêng mình nói nhỏ với ông lão áo xanh. Ông này mở cuốn sách ra cầm bút chữa lại một chữ, rồi bảo Hiếu rằng: "Anh đã khéo léo mời chúng ta uống rượu của anh, anh lại là một đứa con có hiếu, anh còn giúp người lúc hoạn nạn, nên ta vui lòng sửa lại số mạng của anh được sống lâu cho đến trăm tuổi".
Hiếu vẫn quỳ mọp, chưa kịp ngỏ lời cảm tạ, bỗng nghe thấy gió thổi trên đầu, ngước mắt lên, không còn thấy hai ông tiên đâu nữa.
Trên đường về, Hiếu vừa đi vừa chạy, trong lòng mừng rỡ vô hạn, song không dám kể chuyện lại cho ai hay, ngay đối với mẹ cũng vậy.
Về sau có lần Hiếu trở lại hòn núi, tìm thấy lại hồ nhưng nước không còn xanh nữa, trong rừng không còn nghe tiếng chim hót như rót nhạc. Qua ngọn thác, vẫn thấy tàn cây thông in bóng trên bàn thạch, nhưng Hiếu không còn tìm đâu ra bàn cờ son của hai ông tiên.

Thất huyền cầm
Năm Mậu Thân, Tôn Sĩ Nghị chia quân làm bốn đạo tiến vào nước Nam. Trước đó, Nghị sai Thống ngầm cho tâm phúc luồn về nước.
Một tối, có kẻ lẻn vào đền Quán Thánh, lén lút dán bùa yểm sau lưng thần Trấn Vũ.
Bên sông Hồng, quãng bờ tả Bồ Đề bỗng tự đâu dạt về đoạn trúc bám vào đất rồi nảy ra độc một đọt măng. Măng vun vút lớn, thoắt thành cây trúc sắc vàng tươi, thẳng tắp chọc thẳng lên trời, nom xa như tia chớp.
Khúc sông ấy có hai cha con người đánh cá góa bụa, cha tên Nguyên, con tên Thanh. Một đêm người cha nằm mộng, thấy có người tới lay mình dậy. Nói, ngày ấy, tháng ấy, năm ấy, cho con trai bỏ nghề sông nước lên bờ hành khất. Tỉnh giấc, thấy trăng tròn ngang đầu, trong sương mù bàng bạc như có ai vừa rẽ sóng đi trên mặt nước.
Một ngày mùa đông năm Đinh Mùi. Cha con cả ngày không đánh được con cá nào. Đến chiều tàn, đang loay hoay quăng chài bên bờ tả, chợt nghe bên bờ hữu có tiếng ai gọi đò rất gấp. Cha con Thanh chèo sang. Trên bờ không một bóng người. Gió bấc hun hút, mưa phùn buốt thấu xương, lại đói và mệt, cha con cắm thuyền lên bờ kiếm củi nấu cháo. Thấy cây trúc đẹp, Thanh cầm dao muốn chặt. Vừa vin vào, trúc tự gãy ra đoạn đẹp nhất, dài nửa thước, có bảy lỗ kiến đục, đều nhau như người khoét. Lên thuyền lấy dao tiện sơ đã thành cái tiêu. Lúc chờ cháo chín, buồn đặt tiêu lên môi. Trước đó, Thanh chưa khi nào thổi tiêu. Bấy giờ môi người gặp trúc, trúc tự ngân lên chứ không phải người thổi. Âm thanh phát ra rất huyền cảm, hân hoan khôn xiết. Đúng lúc, có bầy cá lớn từ đâu tới mừng rỡ, đua nhau tự nhảy vào lòng thuyền.
Người cha thấy vậy, nhớ giấc mơ xưa bấm đốt tay thấy đúng ngày ấy, tháng ấy, năm ấy. Lấy cá đổi đủ gạo, gà, hương nhang, làm mâm cúng linh thần, tổ tiên. Xong, chờ con ngủ say liền cõng lên bờ rồi phóng hỏa đốt thuyền, nhảy vào vòng lửa mà hóa.
Tự đấy, Thanh buộc phải lên bờ làm hành khất, thổi tiêu kiếm sống. Chỉ thổi độc một điệu, sau này có kẻ nhớ, chép lại, đặt tên là khúc "Gọi đôi". Tiếng tiêu trầm, buồn, khắc khoải, day dứt không yên; nhưng quyến rũ, lay động, làm nhiều người rơi lệ. Thanh cũng nhờ thế mà cơm áo qua ngày.
Lại nói ở đàng trong, có gia đình đào nương, vợ tên Hương, trước sinh hạ một đứa gái, tên Huyền Cầm. Đứa bé khi chào đời trong nhà đầy hương xạ. Cầm vừa sinh, tóc mềm đen tuyền đã dài đến gót chân. Tới mười lăm tuổi, đứa trẻ vẫn không nói, muốn gì chỉ ra hiệu. Lại chẳng khi nào cười, nhưng mỗi bận mẹ hát, cha đàn, mặt tươi như hoa cỏ tiết xuân. Thấy thế, cha Cầm bày cho con các ngón sở trường. Cầm thông minh khác người. Ba ngày vững nhịp, bảy ngày nắm hết âm luật, chín ngày tự nghĩ ra những khúc điệu nghê thường. Ai được nghe, hết thảy kinh ngạc, cho là kì nhân.
Một ngày nọ bên Hương Giang, những người chèo đò trên sông thấy từ đâu bay về con chim lớn, nhả xuống một hạt cây rồi hướng tới nhà Cầm, liệng ba vòng, kêu chín tiếng. Tại nơi chim nhả hạt, mọc lên một cây ngô đồng xanh tốt sum sê, thân gỗ mềm mại. Khi chiều ngang cây được nửa thước, Huyền Cầm ra hiệu đòi cha mẹ đẵn cây ngô đồng, tự mình vẽ kiểu, nhờ thợ khéo đóng một cây đàn. Lại tự cắt tóc, kết thành bảy sợi dây, mắc lên đàn. Huyền Cầm vừa so cung, hộp đàn rung vang. Tiếng nhạc thật huyền diệu, khi êm ái, rì rào như nước chảy, khi cuồng nộ như sấm chuyển đất rung. Người cha đếm sợi dây đàn, lấy tên con ghép vào, đặt tên đàn là thất huyền cầm.
Cuối năm Mậu Thân, Quang Trung tự xưng hoàng đế, kể tội bọn Tôn Sĩ Nghị, chiêu thêm binh mã, chia thành năm đạo, làm lễ tại Phú Xuân, tiến ra bắc. Cô gái 16 tuổi giả trai, buộc vuông lụa đỏ lên mái tóc ngắn, ôm đàn từ biệt cha mẹ theo Quang Trung.
Viên tiểu tướng coi việc lấy binh, thấy Cầm câm, mặt mũi non nớt bèn đuổi về. Cầm không về, tha thiết tỏ ý quyết theo làm y phải chuyển ý, sai lo việc củi lửa, cơm nước.
Quang Trung tiến ra Thanh Hóa. Việc binh như lửa cháy, quân sĩ gặp tiết đông giá rét đi mới vài ngày đã mỏi mệt. Thấy vậy Huyền Cầm mang đàn chơi. Nghe đàn, ai nấy bừng bừng phấn khích như vừa uống liền ba chung rượu ngon, đòi đi ngay. Quang Trung thừa thế nước lên, núi chuyển, đốc quân lấn chiều mượn sớm mà đi. Đi một ngày sau bằng ba ngày trước. Chỉ dăm hôm đã tới Tam Điệp, hội binh với bọn Ngô Văn Sở cho quân ăn tết trước. Lại hẹn bảy hôm sau ăn tết lại ở Thăng Long.
Trong quân có Hiệp, xưa là giám mã cho Quang Trung. Trong trận đại thắng Xiêm có công, được cất nhắc. Hiệp vốn ái. Nay thấy Cầm mày ngài, mắt phượng, ngỡ trai tuấn tú, mê lắm. Đêm mò vào. Mang sở đoản, bàn chuyện văn chương nhã nhạc. Cầm im nghe, sắc mặt không giận, không vui. Sau, Hiệp lộ chân tướng. Đầu nắm tay, cuối quỳ xuống van vỉ rồi hôn hít sờ soạng, đưa tay Cầm vào chỗ kín. Cầm không thuận. Hai bên giằng co va chạm một hồi. Lúc Cầm bị đè ngửa ra đất, thất huyền cầm tự nhiên rung lên giận dữ. Tay võ biền bạo dâm hoảng sợ, bỏ chạy. Cầm ôm đàn, hai hàng lệ rớt, tự nhiên cất lời, than: "Thậm nguy!".
Hiệp nhờ đêm ấy phát hiện Cầm giả trai. Muốn lấy công, sớm sau phát giác với Quang Trung.
Huyền Cầm bị đè cổ, mớ tóc ngắn xổ chớm vai chờ chém vì tội dối trá. Cầm không xin tha chết, chỉ ngửa cổ, rớt một giọt nước mắt, than: "Thậm nguy". Ba quân thấy Cầm nói được thì thảy đều kinh ngạc. Nữ tướng Bùi Thị Xuân bấy giờ trong quân, đứng ra bênh vực Cầm. Quang Trung cảm khái việc lạ, hạ lệnh tha, lại kể tội trái luân thường đạo lý của Hiệp, thét võ sĩ mang chém. Cầm thưa, đạo lớn bao trùm thiên hạ, sinh trước cả muôn loài. Hoàng đế nên tuân theo nó thì bền. Nay cơ thể Hiệp do cha mẹ sinh ra đã vậy, chỉ nên xét tội ức hiếp, không nên lấy ái mà khép tội. Quang Trung nghe. Khen, biết nhẽ tự nhiên. Hiệp làm hoạn quan từ ấy.
Có người bảo, Quang Trung đã tha lại nghe theo Cầm vì thấy Cầm quá đẹp. Vời Cầm tới nghe đàn, yêu lắm, định sung vào đám hầu nữ. Nửa đêm Quang Trung đang ngồi tính kế đánh Tôn Sĩ Nghị, bỗng nghe tiếng Thất Huyền Cầm xa vẳng lại. Khúc nhạc ban ngày nghe êm ái lạ thường là thế, trong đêm vắng lại như trăm ngàn mũi mác thích vào óc. Sớm sau Quang Trung cho người chu cấp Cầm ba chục lạng vàng rồi đuổi. Cầm không van tiếc, lấy vàng, cảm tạ Quang Trung, cứ nhằm hướng bắc mà đi.
Cầm đi tới đâu lại gảy đàn cho đám nông phu ở đó nghe, rồi lại dùng vàng giúp người đói khổ, nói thác là của Quang Trung. Sau, quân Quang Trung đi đến đâu cũng được dân chúng hưởng ứng, kẻ dâng tiền bạc, người giúp công sức. Tính ra, trai đinh theo thêm mười vạn. Khí thế rất lớn.
Cầm vào tới Thăng Long bèn lên Tây Hồ đánh đàn. Tiết đông, chiều tà, sương bạc đang giăng kín cả mặt hồ bỗng tan dần.
Lại nói, người thanh niên thổi tiêu tên Thanh, mấy đêm bồn chồn không yên, chẳng ngủ, thường lấy rượu thậm say cho quên. Chiều ấy, Thanh nghe tiếng đàn, sực tỉnh, quăng góc rượu dở, xốc áo, cầm tiêu thổi điệu "Gọi đôi", lần theo tiếng thất huyền cầm trong gió mà tới. Giờ hợi thì Cầm và Thanh gặp nhau. Có một đoạn phú của Ngô Thì Nhậm sau viết, chẳng hay kể lại việc đó chăng: "Một tiếng ngô đồng/ thơm bừng quán vắng/ Ngửa trông lên trời/ Trúc vàng như nắng/ Ánh khói chập chờn/ Người tiên lại chăng?/ Sóng cầm cuồn cuộn/ Tiếng địch thổi chăng/ Chim chóc hót lượn/ Người bừng giấc chăng/ Cá rồng ẩn hiện/ Hồn nước lại thăng..."(1)
Trai gái gặp nhau, lấy tiếng nhạc thay lời thiết tha tao nhã. Tiếng tiêu đầy, trầm, kiên quyết. Tiếng thất huyền cầm khi sắc như nước, khi mềm nhẹ như mây. Cả hai riêng mà thành chung, quấn quýt, run rẩy hòa thanh, tạo thành thứ âm nhạc phi thường. Tự đâu có đàn chim lớn, đông không đếm được, kéo về bay lượn, hót vang cả khúc sông. Ngay khi ấy, vị từ đền Trấn Vũ trong chập choạng hương nến, thấy bức tượng như chợt rùng mình, vươn vai sau giấc ngủ dài, rồi lại thấy chớp xanh tự đâu phóng ra, vút tận trời, vỡ thành ngàn vạn ngôi sao nhỏ rơi xuống quanh Thăng Long.
Trên mặt Tây Hồ, dân đánh cá còn thấy nước cuộn lên như sôi. Có kẻ trông thấy con trâu rực rỡ sắc vàng, nổi lên chỗ nước cuộn, bơi một vòng, kêu một tiếng tha thiết như gọi ai, rồi lặn đi đâu không rõ. Mặt hồ văng vẳng tiếng chuông, tiếng khánh hòa theo tiếng tiêu, tiếng cầm, tiếng trâu vàng, âm âm vang tới tận hồ Gươm. Quân sĩ Tôn Sĩ Nghị đi tuần thấy nổi lên một con rùa đen dài tám thước, ngang năm thước, đầu to như cái thúng, hai mắt như hai bó đuốc giận dữ trừng mắt nhìn bọn ngoại bang. Chúng hoảng sợ bỏ chạy, cấp báo chuyện lạ tới Nghị. Nghị đang đánh cờ nghe tin rùng mình, toát mồ hôi hột, buông rơi cả quân cờ trong tay. Suốt đêm không ngủ, sớm hôm sau Nghị sai người đến Quán Thánh, không thấy lá bùa sau lưng bức tượng thần. Từ đền sớm ấy quét dọn, vun rác rưởi lẫn vào đám lá rụng. Đốt. Khói hắc ám bay xám cả một góc đền.
Nghị sai thám tử dò xét khắp nơi, biết việc lạ khởi từ cặp trai gái kia, đoán là linh khí trời Nam tụ hội bèn sai lính đi bắt. Cầm và Thanh được tin, chạy ra hướng sông. Quân Nghị đuổi gấp. Tới sông, cả hai dắt tay nhau toan nhảy xuống, chợt thấy từ đâu có chiếc thuyền nhỏ lao đến như tên bắn. Người chèo đò tóc râu cước bạc, gõ chèo hát: "Mong người tri kỷ chừ, hai phương trời/ Lòng ta lòng ta chừ, giờ gặp tri âm/Lòng trời lòng ta chừ, đối mênh mông/Nhìn nước nhìn mây chừ, không thẹn thùng/Hòa xong một khúc chừ, hết một chung/Hết một chung thơm chừ, rồng gặp mây/Giờ ai việc nấy chừ, mệnh người yên ổn/Mệnh nước yên ổn chừ, đến hẹn lại nên"(2). Đoạn, giục Cầm và Thanh mau xuống thuyền. Đám lính của Nghị bắn tên xuống như mưa bấc. Tên bay tới thuyền đều lả tả rơi xuống nước. Ra giữa dòng thì người chèo thuyền neo lại, bảo Thanh: "Ngươi xong việc rồi!". Rồi nói với Huyền Cầm: "Còn ngươi thì chưa, giờ hồn phách nhanh theo ta xuống Ngọc Hồi cho kịp".
Việc kế đó thuật lại sau này, mỗi người một khác.
Kẻ nói, dứt lời lão già, một mũi tên lạc bay thẳng xuống thuyền cắm đúng yết hầu Huyền Cầm. Tự đó một dòng huyết đỏ phụt ra chẻ đôi cây tiêu. Nước sông Hồng mùa đông trong vắt, sau ngày ấy vẫn giữ sắc phớt hồng. Khi cây tiêu bị chẻ đôi, Thanh ngã ra bất tỉnh. Sau dậy, không nhớ việc xưa, cũng chẳng thấy ông già và Huyền Cầm đâu, nhảy xuống nước bơi đi đâu chả rõ.
Thuyền nhỏ trôi tới Ngọc Hồi mắc lại. Đấy là trúng ngày mùng năm Tết Kỷ Dậu, Quang Trung đánh Ngọc Hồi. Ban đầu cả trăm thớt voi xông lên, bị thần công của Hứa Thế Hanh bầy trận bắn cản dữ dội, tung vòi giậm chân thình thịch tại chỗ. Bỗng gió đưa về văng vẳng tiếng nhạc từ phía bờ sông. Trăm thớt voi đồng thanh rống vang, chẳng chờ quản tượng thúc búa cũng nhất loạt ào lên. Người người thấy thế như chẳng biết chết, hợp thành một khối "đông như kiến cỏ, thế lực ồ ạt như triều dâng"(3). Ngọc Hồi tan, Nguyễn Huệ coi như cầm chắc thắng trong lòng tay.
Người khác nói, Cầm trúng tên. Trước khi viên tịch hét lên một tiếng chẻ cây tiêu làm hai mảnh. Khi Thanh tỉnh lại, không thấy ai, tựa nước trôi về Gián Khẩu theo quân Quang Trung lập công rồi được cất làm tướng. Đoạn sau nói về trận Ngọc Hồi như trên.
Còn có lời đồn khác là, Thanh không nhớ việc xưa, nhảy xuống nước theo dòng trôi mãi, sau dạt vào làng Linh Hoa. Nhà họ Phạm, thấy Thanh giỏi đánh cá, khéo việc ruộng, yêu mà gả con gái. Thanh xin ở riêng, đánh cá, làm ruộng, sinh con đẻ cái đông đúc, lập thôn Linh Hoa ven sông Thái Bình. Thôn này tới nay vẫn còn lệ dịp tết Nguyên đán, lấy thân chuối làm hình nhân trôi sông, vớt lên đem về miếu thành hoàng làng làm lễ nhập hồn. Dân thôn Linh Hoa khi nông nhàn vẫn khoét tiêu, sáo rất tài mà không ai biết thổi cho ra hồn. Có đứa trẻ nghịch cắt ngắn, mắc vào diều bay lên, tự cất tiếng vi vu, não nùng luyến tiếc... Nhiều làng khác bắt chước diều sáo nhưng tiếng kêu không nơi nào vang xa như diều sáo Linh Hoa.
Tại khúc Chương Dương, hơn chục năm sau có người khách thơ tên Du họ Nguyễn, một đêm có việc đi qua, nghe trong tiếng nước trôi văng vẳng khúc tiêu, điệu cầm đan hòa, vọng từ mặt sông vẳng lên. Du tự đó hứng khởi lạ kỳ, bèn đặt bút viết Truyện Kiều. Sau, không làm được khúc nào hay hơn. Có lẽ, Kiều của Du thấm huyền khúc cầm tiêu đêm ấy, gói được hết cái tình ý bách khoa người Nam, nhờ thế sống mãi

Hoa trái tim tan vỡ
Thời xa xưa có một chàng Gù bất hạnh, sống đơn độc, không biết cha mẹ mình là ai, anh em thân thuộc cũng không có, chẳng ai coi chàng là bạn. Ðối với tình yêu, chàng chỉ biết qua sách vở. Chàng mang máng hiểu rằng tình yêu cũng giống như một hơi thở nhẹ luôn ve vuốt trái tim, hoặc như ngọn lửa thiêu cháy nó, rằng tình yêu có thể nâng con người lên chín tầng mây, và cũng có thể quăng họ xuống địa ngục.Chàng Gù còn tin ràng dù là hơi thở nhẹ hay sức nóng của lửa cũng không thể làm lay chuyển được con tim đau đớn đang đập loạn lên của chàng.
Ai có thể đem lòng yêu một con người như vậy, một khi trên đời này còn có biết bao chàng trai tuấn tú và khôn ngoan khác? Vả lại, làm sao chàng có thể yêu được một người khác giới khi chàng mang trái tim như vậy trong lồng ngực? Không, trái tim chàng chỉ biết căm ghét, đố kỵ; đôi môi chàng chỉ quen mấp máy một số từ thô thiển; cặp mắt ti hí của chàng không nhìn rõ được, dù là một tia nắng dịu dàng hay một ánh trăng mỏng mảnh; đôi mắt ấy lúc nào cũng chỉ nhìn xuống và chỉ thấy toàn những thứ thối tha, nhơ nhuốc; cái mũi nhọn hoắt của chàng không thể phân biệt được những điều kỳ diệu trong hương thơm của các loài hoa, mà chỉ biết đánh hơi được mùi hôi thối của xác súc vật và lá cây rữa nát. Chàng bị người đời xem thường và xa lánh.
Thế rồi một hôm, thật tình cờ, chàng nhìn thấy công chúa Rôda đang dạo chơi trên công viên.
Mọi người dừng lại, ngả mũ chào nàng, chỉ có chàng là cứ lóng nga lóng ngóng, cặp mắt hấp háy, không sao hiểu được trên đời này lại có thể có một người đẹp nhường kia. Cặp má hồng, đôi mắt nâu, đôi môi đỏ thắm cùng với tấm thân tròn lẳn tràn đầy sức sống của nàng, khiến những ai được gặp nàng cũng đều cảm thấy lòng thanh thản, nhẹ nhõm. Nhiều cụ già đã vượt qua những chặng đường xa lắc, lắm chông gai để mong được gặp nàng, dù chỉ là một lần, và lúc ra về thấy đời như trẻ lại.
Rôda đáp lại sự ngưỡng mộ của mọi người bằng một nụ cười thật cởi mở và chân tình. Chỉ có một người không cất tiếng chào nàng, không ngả mũ, đó là chàng Gù gầy gò, xấu xí đứng bên vệ đường nheo mắt nhìn công chúa đang nhẹ nhàng bước. Ðối với Rôda, đấy là cả một sự lạ và rất khác thường. Nàng bèn dừng lại và nhìn sâu và cặp mắt không mấy thiện chí của chàng Gù. Con người khốn khó này sao cô đơn và đáng thương làm vậy! Rôda cảm thấy thương chàng vô hạn, và đã ban tặng cho chàng nụ cười ấm áp nhất của mình.
Chỉ sau khoảnh khắc ấy thôi, cuộc đời chàng Gù bỗng thay đổi hẳn! Bây giờ, cặp mắt chàng luôn ngước nhìn lên, chàng đã thấy những bông hoa Tử Ðinh Hương tím nhạt và trắng xoá khoe sắc màu sặc sỡ, những bông hoa Sơn Trà đỏ tươi đang nở hết cỡ, và những đám cây tuyệt diệu có những tán lá lung linh giọt mặt trời. Những hơi gió nhẹ đem theo những làn hương kỳ diệu cứ phả mãi vào mặt chàng! Và đây, ngay bên mép đường, những bông hoa tim tím đã mọc lên. Vì sao những bông hoa nhỏ xíu này lại có đủ sức cảm hoá làm vui lòng người qua đường như vậy?
Chàng Gù bối rối, không thể hiểu được vì sao cặp mắt nhìn cũng như đôi tai nghe của chàng lại thay đổi như vậy, và sao bỗng nhiên giờ đây chàng lại biết yêu vẻ đẹp của thế giới quanh chàng Biết hỏi ai bây giờ - Chàng tự hỏi.
- Hãy hỏi ta đây này! - trái tim đáp.
- Ôi, trái tim của ta, mi chỉ là kẻ bất hạnh, lúc nào cũng u tối như màn đêm vậy, mi có thể giải đáp được gì cho ta, chàng Gù cằn nhằn.
- Ta đang cảm thấy đời thật là vui, bởi lẽ lúc này, ta mới hiểu cái gì, đã khiến hoa phải nở, giục giã chim phải hót; ta hiểu rằng cái gì đã mở cặp mắt và tai nghe của chàng! - Trái tim điềm tĩnh nói.
- Vậy là cái gì? Hãy nói ta nghe chàng Gù dò hỏi.
- Cái đó là tình yêu. Tình yêu vừa dịu dàng vừa khắc nghiệt, vừa êm đềm vừa sóng gió, vừa ấm áp vừa dữ dội! Chính vì chàng đang yêu! Chàng đã yêu công chúa Rôda!
- Yêu công chúa Rôda ư? - Chàng Gù sợ hãi - Ta mà dám cả gan phải lòng công chúa Rôda!
- Ai có thể ngăn cấm chàng yêu công chúa Rôda được? - Trái tim tranh cãi với chàng - Sáng sáng, chàng hãy đến đây, như mọi người, chàng hãy chào nàng đi.
Chàng Gù nghe lời khuyên của chàng trái tim. Ngày lại ngày, chàng đến gặp Rôda, khi nàng đến gần, chàng cúi đầu xuống chào vẻ lịch thiệp. Nàng đi rồi, gương mặt chàng như được ve vuốt bởi một hơi thở nhẹ.
Và thời kỳ tuyệt diệu nhất trong đời chàng đã tới. Vì sao chàng lại có đủ sức mạnh để tàn đêm, tận ngày ngồi đập từng tảng đá? Vì sao chàng lại có thể cao giọng hát đua cùng Sơn Ca và Hoạ Mi? Chàng Gù không hiểu Sơn Ca và Hoạ Mi hót gì, còn chàng, chàng chỉ hát về Rôda, về sắc đẹp của nàng và về tình yêu của mình thôi.
Chàng Gù bất hạnh đâu hiểu được rằng, con bão bất thần có thể đổ sập xuống đầu chàng bất kỳ lúc nào! Quả nhiên, cơn bão đã bất thần ập đến thật. ấy là vào một buổi sáng, khi chàng tới công viên để được ngắm công chúa, để được hưởng không khí trong lành; chàng đã thấy thành phố được trang hoàng lộng lẫy, phố xá đông nghẹt những người. Người nào cũng mang nhạc cụ, chỉ có một cô gái nhỏ nhắn là cầm trên tay một cái chuông con: Cô gái ấy tên là Maia bất hạnh, chuyên nghề chăn súc vật. Nàng không tìm đâu được đàn bà và sáo, nàng đành lấy cái chuông trên cổ một con dê là nhạc cụ. Nàng muốn bộc lộ, niềm vui của mình trong ngày hội trang trọng này.
Lúc đó chàng Gù hỏi một người gặp trên đường xem thành phố được trang hoàng đẹp như vậy để đón mừng ai, và vì sao phố xá lại đông người đến thế.
Người qua đường đáp:
- Chàng từ đâu đến mà không biết hôm nay là ngày công chúa của chúng tôi sẽ đi lấy chồng?
- Công chúa ư? Công chúa nào? - Chàng Gù lúng túng lắp bắp.
- Chẳng nhẽ chàng không biết thành phố chúng tôi chỉ có một công chúa, đó là nàng Rôda sao?
Chàng Gù khuỵu ngay xuống đống đá lạnh lẽo, nhưng rồi chàng vụt đứng dậy, bởi vì chàng có cảm giác như vừa bị ngã vào một bếp lửa đang cháy hừng hực. Như kẻ bị bỏng lửa, chàng chạy như bay về phía công viên, nơi mà ngày nào chàng cũng được gặp Rôda.
- Rôda của ta! Rôda của ta!
Chàng vừa hét to vừa cảm thấy trái tim mình đang bốc lên một ngọn lửa hừng hực và những giọt nước mắt chảy thành suối trên hai gò má chàng cũng không thể dập tắt nổi.
Dân chúng hoan hỉ đón chào Công Chúa và Hoàng Tử xứ lạ; cặp trai tài gái sắc ấy đang ban phát cho đám thần dân của họ những nụ cười ấm áp. Say sưa với hạnh phúc, họ đâu có ngạc nhiên khi thấy một chàng Gù lách qua đám đông tới quỳ mọp dưới chân công chúa Rôda, miệng lảm nhảm cầu xin:
- Rôda ơi, em là của ta cơ mà! Hãy tống cỏ kẻ lạ mặt này đi và hãy theo ta!
- Thằng điên! Dân chúng hét to - Mi không biết thế nào là liêm sỉ khi xuất hiện trước mặt nàng công chúa Rôda trong bộ quần áo rách rưới thế kia ư?
- Ta đã tìm được người ta yêu.
- Tốt nhất là nên cầu hôn cái chổi ấy!
Ðám đông giận dữ đứng che lấp hẳn chàng Gù. Dù có răn đe, dù có nhạo báng cũng không làm chàng tỉnh lại được.
Ngọn lửa tình yêu đã khiến chàng dần trở nên mù quáng, mất hết lý trí. Chàng rút con dao găm từ trong vạt áo ra và đâm thẳng vào trái tim công chúa.
Mọi người cúi gằm mặt xuống, vẻ đau buồn. Khi ngước mắt lên, ai nấy đều ngạc nhiên trước một tiếng kêu sửng sốt. Từ mảnh đất thấm đầy máu, mọc lên một bông hoa thanh cao có những cái cánh nhỏ màu đỏ lửa toả hương thơm. Nhưng nếu ai cố tình chạm vào nó thì sẽ bị những cái gai sắc như mũi dao đâm vào tay đau nhói.
- Ðây là Rôda của chúng ta, - Dân chúng bàn tán - ngay cả sau khi đã chết rồi, nàng vẫn gửi lại cho chúng ta niềm vui sáng láng.
Theo luật pháp xứ này, hung thủ giết người tình của mình chỉ về ghen tuông sẽ bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, do vậy chàng Gù phải lưu đàylên một vùng núi hẻo lánh, kéo theo sau là những cơn mưa đá và những lời nguyền rủa.
Từ đó không ai thấy chàng Gù nữa. Mãi đến mùa Xuân năm sau, Maia, cô gái chăn cừu nhỏ nhắn trong lúc đi tìm chú dê con bị lạc bầy, đã phát hiện dưới chân núi một trái tim bị nứt nẻ.
Cô gái bỗng nhớ tới chàng Gù bất hạnh đã chết vì tình yêu điên dại, nàng bèn cúi xuống trước trái tim ta vỡ và khóc nức nở, vì nàng cũng là kẻ đơn độc, không được yêu.
Thật là kỳ lạ, những giọt nước mắt của Maia cứ thấm sâu vào tảng đá, và ngay trên chỗ đó mọc lên hai bông hoa, một bông có những cái cánh nho nhỏ màu hồng quấn quanh thân cành giống như những trái tim nhỏ xíu bị nứt nẻ; còn bông kia thì nở ra những cái chuông nhỏ màu trắng treo lửng lẳng trên cành hệt như những giọt nước mắt trong suốt.
Sau này, con người đã đem những bông hoa đó vào trồng trong vườn và gọi bông hoa màu hồng là hoa Trái Tim Tan Vỡ, còn bông hoa mùa trắng là Hoa Linh Lan

Nàng Hạc - (Cổ tích nhật bản)
Thuở xưa, tại một thôn làng nhỏ bé dưới chân núi Phú-Sĩ-Sơn (#1), có một cặp vợ chồng rất nghèo. Chồng làm nghề săn bắn, còn vợ làm nghề dệt lụa. Tài năng của hai người rất giới hạn, tuổi cũng đã cao cho nên đời sống vật chất của họ rất chật vật, nhiều lúc chỉ cố gắng mà sống theo từng bữa một.
Hôm ấy, người thợ săn không được may mắn, chẳng săn được con mồi nào cả. Trên đường về nhà, ông ta tình cờ bẫy được một con chim hạc. Người thợ săn mừng rỡ, định đem về nhà làm thịt cho bữa cơm chiều thì con chim hạc bỗng ứa nước mắt van xin, nói rằng:
-Lạy ông, xin tha mạng cho con. Đức hiếu sinh của ông sẽ được cả Phật-Tổ lẫn Thái-Dương Thần-Nữ (#2) chứng giám và đền bù lại xứng đáng.
Người thợ săn nghe nói động lòng, liền thả cho con chim hạc bay đi, đoạn trở về nhà tay không. Cho dù không có thịt, hai vợ chồng vẫn vui vẻ ăn rau và đậu hũ, sống đạm bạc cho qua bữa như mọi ngày.
Tối hôm ấy trời bão tuyết, gió thổi lạnh buốt. Nghe có tiếng người gọi bên ngoài, bà vợ ra mở cửa. Trước mặt bà, một người con gái trông rất hiền hậu, mặt mày tươi tỉnh xinh xắn, hình dung đẹp tuyệt vời, da dẻ trắng nõn nà, cho biết nàng ta lỡ đường xin được vào tá túc qua đêm để tạm tránh cơn bão tuyết. Hai vợ chồng vốn bản chất hiền hòa lương thiện, hay thương người nên gật đầu ưng thuận ngay.
Sáng hôm sau, như thường lệ hai vợ chồng thức dậy sớm thì trông thấy người con gái đang pha trà và nấu cháo. Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ ngăn nắp. Các căn phòng được trang hoàng lại, trông khang trang và sáng sủa hơn trước rất nhiều. Ngoài ra, còn có sẵn cả nước nóng cho hai người rửa mặt. Đâu ra đó hẳn hòi, thật là hết sức chu đáo.
Nhìn người con gái, hai ông bà nở một nụ cười hiền dịu, tỏ ra hết sức cảm kích. Hỏi thăm chuyện, người con gái thật tình cho hai người biết rằng nàng tên là Tuyết (#3) xa cha mẹ từ nhỏ, từ lâu ở chung với gia đình chú thím. Khi nghe được tin cha mẹ trên tỉnh thành, nàng một mình lên đường đi tìm nhưng không gặp đành quay trở về nơi cũ. Dọc đường vì gặp bão tuyết, trời lại tối cho nên bất đắc dĩ phải xin hai người cho tá túc đỡ, đợi cho cơn bão tuyết nhẹ đi bớt mới có thể tiếp tục lên đường được.
Bà vợ hỏi:
-Con nghe được tin cha mẹ từ ai nói?
Người con gái lễ phép thưa:
-Thưa, từ chú thím con.
Ông chồng lắc đầu, thương hại nói:
-Thôi rồi! Con trúng kế của chú thím con rồi! Họ muốn lập mưu đuổi con đi ra khỏi nhà đó thôi! Ta tin chắc họ không mở rộng vòng tay mà đón con trở về nữa đâu.
Người con gái nghe nói liền lộ vẻ buồn bã cúi gầm mặt xuống đất. Sau một vài giây phút im lặng, bà vợ liền đề nghị:
-Chúng ta đã lớn tuổi mà lại hiếm hoi. Nếu có được một đứa con gái như con thật không còn gì vui hơn được. Nếu con không chê vợ chồng chúng ta nghèo khó thì cứ ở lại đây với hai ông bà già này, no cùng hưởng, đói cùng chịu. Tôi nói vậy phải không ông già?
Ông chồng mừng rỡ nói:
-Phải! Phải! Chúng ta sẽ nhận con làm con ngay từ giờ phút này, miễn là con đừng chê chúng ta thôi.
Người con gái nghe nói rất cảm động liền quỳ xuống lạy hai ông bà, nhận làm cha mẹ và xin hai người đặt lại tên cho nàng. Ông chồng nặn óc suy nghĩ một hồi. Chợt nhớ lại hôm qua đi săn có tha mạng cho một con chim hạc, ông ta liền nói:
-Tốt lắm, từ nay cha đặt tên lại cho con là Hạc.
Từ đó, nàng Hạc ở lại với cặp vợ chồng già, làm con gái ông bà. Nàng rất thương cha mẹ, rất đảm đang, lo hết tất cả việc nhà, bếp núc đâu ra đó cẩn thận, lại hầu hạ cha mẹ từng miếng ăn cho đến giấc ngủ. Dù sống trong cảnh thiếu thốn nhưng cả ba người rất vui vẻ thuận hòa, chẳng ai ngần ngại hay phàn nàn một tiếng.
Tuy nhiên, thực tế vẫn là thực tế. Lợi tức gia đình không tăng, mà lại thêm một ‘miệng ăn’ cho nên gia đình càng lúc càng thêm chật vật. Nhưng trong cái khó khăn cũng tạo cho họ một tình thương gắn bó rất là sâu đậm và hiếm có. Nhiều bữa ăn rất đơn sơ chẳng có được bao nhiêu món, thế mà đồ ăn vẫn không lúc nào hết bởi vì cả ba người đều muốn nhường cho nhau cả, thành thử chẳng một ai dám ăn.
Biết được hoàn cảnh khó khăn của gia đình, một hôm, nàng Hạc bàn với cha mẹ nàng rằng:
-Con biết dệt lụa khá giỏi, xin cha mẹ cho con làm thử để kiếm thêm ít tiền phụ cho gia đình.
Vào lúc bình thường có lẽ ông bà đã từ chối, nhưng vì thấy gia đình càng ngày càng sa sút nên không còn đường nào lựa chọn, hai người đành phải nghe lời, để cho nàng thử.
Nàng Hạc lại nói:
-Chỉ có một điều trở ngại là trong khi con dệt lụa, con muốn thật yên tĩnh, không bị chi phối bởi bất cứ một chuyện gì lớn nhỏ. Vì vậy, xin cha mẹ đừng nhìn con lúc con đang làm việc, cứ để yên cho con làm xong. Và cũng xin cha mẹ giữ gìn hộ con, đừng để cho bất cứ một ai lai vãng, vì nếu như vậy con không thể nào làm được, mọi việc sẽ hỏng hết.
Cha mẹ nàng nghe nói liền dành riêng một phòng đàng sau nhà cho nàng Hạc làm việc mà không hề thắc mắc. Ông bà tin rằng nàng có nghề thật, nhưng có lẽ vì không muốn để cho ai học lóm nghề của mình cho nên muốn giữ kín bí mật tối đa.
Sáng hôm sau khi thức dậy, cha mẹ nàng Hạc nhìn thấy những tấm lụa tuyệt đẹp mà có lẽ trong đời ông bà chưa từng bao giờ thấy qua. Mẹ nàng reo lên:
-Đẹp quá! Đẹp quá! Những tấm lụa này nếu bán ra chắc chắn được cao giá, mà thiên hạ lại giành giựt nhau mà mua.
Điểm tâm xong, mẹ của nàng Hạc dắt nàng đến các vùng tỉnh thành lân cận để tìm mối bán lụa kiếm ít tiền. Đúng như lời mẹ của nàng Hạc đã nói, hai người chỉ vừa vào đến cổng thành đã có không biết bao nhiêu người chủ hàng tơ lụa và nhiều nhà giàu xúm lại bao quanh, đấu giá mua cho được những tấm lụa thật đẹp mà chính họ cũng chưa bao giờ được thấy qua. Số tiền bán được ngày hôm đó đủ để cho gia đình chi dụng được trong vài tháng.
Thấy cha mẹ vui vẻ, nàng Hạc vô cùng sung sướng. Cứ cách vài ngày là nàng lại tiếp tục dệt lụa vào ban đêm khi cha mẹ nàng đi nghỉ. Và cha mẹ nàng vẫn giữ lời hứa, không làm phiền nàng hay lai vãng trước phòng dệt của nàng lúc nàng làm việc. Dệt xong, nàng lại theo mẹ đem lên tỉnh thành bán kiếm tiền. Ban đầu, hai mẹ con còn đi chung, nhưng dần dần, quen thuộc đường lối, nàng Hạc đề nghị mẹ nàng nên ở nhà nghỉ cho khỏe, để một mình nàng đi là đủ. Mẹ nàng nghe nói cũng nghe theo, để cho một mình nàng đi kể từ đó...
Vài năm trôi qua. Gia đình nàng Hạc giờ đây đã trở nên giàu có, dư giả. Nhờ tài dệt lụa ‘có một không hai’ của nàng, số người đặt mua càng ngày càng nhiều. Mặc cho nàng ra công ra sức, thức thâu đêm suốt sáng làm việc bao nhiêu, số lụa là sản xuất gần như vẫn không thể nào đáp ứng được với mức tiêu thụ của thiên hạ. Hễ thấy lụa của nàng Hạc dệt ra là ai nấy quyết phải mua cho bằng được, bất luận là bao nhiêu tiền.
Nhiều người vì chậm tay không mua kịp, đã thầm lén lút theo dấu chân nàng Hạc về tận nhà cho biết chỗ, dự tính trong tương lai sẽ đến tận nhà hỏi mua thì may ra mới có được hàng. Số người tìm đến nhà mua ban đầu chỉ có một vài người, nhưng dần dà gia tăng với số lượng khủng khiếp. Và rồi nàng Hạc cũng chẳng cần phải đi đâu nữa, tự động thiên hạ rủ nhau tìm đến mà mua hàng. Khi đó, chỉ thỉnh thoảng nàng Hạc mới phải lên tỉnh để bỏ mối cho những hàng tơ lụa mua với số lượng nhiều. Mỗi lần đi như vậy, nàng đều mướn vài chiếc xe ngựa mà chở chứ không thể nào một mình mà đem hết lụa đi được.
Nhiều nhà giàu tìm gặp nàng Hạc, hứa sẽ tặng cho nàng những món tiền khổng lồ nếu
nàng chịu dạy cho con gái của họ nghề dệt lụa độc đáo của nàng. Trước những lời đề nghị đó, nàng Hạc chỉ lắc đầu từ chối, quyết không chịu nhận tiền của ai, mà cũng nhất định không chịu truyền nghề.
Bị cự tuyệt, nhiều người đâm ra giận dữ, thù ghét nàng Hạc. Những khi đến mua hàng, nhằm lúc nàng Hạc bận bịu dệt lụa không chịu tiếp ai, họ thường nói với cha mẹ nàng rằng:
-Tôi đồng ý rằng lụa của con gái ông bà dệt đẹp thật. Nhưng bán được với những giá cao để cho gia đình ông bà có được một sản nghiệp to lớn như thế này thì thật là điều khó tin. Xin ông bà đừng quên con gái của ông bà có nhan sắc, mỗt lần lên tỉnh bán lụa có tiếp xúc với rất nhiều đàn ông con trai nhà giàu trên đó. Tôi vì thương ông bà nên mới nhắc khéo để cho ông bà ráng mà gìn giữ con gái để tránh tai tiếng về sau đó thôi.
Trước những lời gièm pha của thiên hạ, cha mẹ nàng Hạc đều gạt cả đi chứ chẳng thèm bận tâm đến làm gì. Họ luôn luôn tin tưởng vào đức hạnh của con gái mình, không bao giờ nghĩ rằng một người con gái như nàng có thể làm việc gì tai tiếng cho gia đình được.
Nhưng rồi số người gièm pha mỗi lúc mỗi nhiều. Một đồn năm... Năm đồn mười... Mười đồn trăm...
Có người bảo rằng:
-Hãy nhìn cái thân xác mỗi ngày một tiều tụy của nàng Hạc ắt có thể suy ra được những việc nàng có thể dính líu đến.
Lại có người nói:
-Con gái ông bà bảo khi nàng dệt vải không ai được nhìn phải không? Và ông bà bằng lòng, chiều cô ta tuyệt đối chứ gì? Vậy cô ta làm những gì trong phòng đó với ai liệu ông bà có biết được không? Đừng quên rằng lúc ông bà ngủ thì cô ta vẫn thức mà ‘làm việc’ đấy nhé!
Hoặc:
-Những lần lên tỉnh, có thật sự là con gái ông bà chỉ có mục đích bán lụa không thôi?
Rốt cuộc, cho dù thương yêu tin tưởng con gái mình đến cách mấy, những lời thị phi kia đã làm cho cha mẹ nàng Hạc không thể nào còn tự chủ được nữa. Hai người bắt đầu nghi ngờ đến hành vi của người con gái thân yêu của họ, và cho rằng những lời nói của đám đông thật là có lý, và họ cần phải điều tra con gái mình mới biết rõ được hư thực ra sao.
Đêm hôm đó, cặp vợ chồng già giả vờ đi ngủ sớm. Đợi đến lúc gần nửa đêm, lúc nàng Hạc đóng chặt cửa phòng lại để dệt lụa như thường khi, hai ông bà mới bàn với nhau thử lén ra ngoài, đi vòng ra phía sau nhìn vào cửa sổ trong phòng xem có phải là con gái mình có làm việc thật không hay lại làm chuyện gì mờ ám, dùng cớ dệt lụa để che mắt họ.
Hai ông bà cùng nhau đi thật nhẹ nhàng ra bên ngoài, đến phía sau phòng làm việc của nàng Hạc. Khi đến gần cửa sổ, hai người nghe rõ mồn một những tiếng ‘cộp cộp’ vang lên thật đều đặn.
Lấy làm lạ, hai người khẽ nhón mình dậy nhìn vào theo ánh đèn lờ mờ qua phên cửa sổ. Cả hai ông bà bỗng như kinh hãi, cùng giật mình đánh thót một cái. Trên khung cửa sổ màu trắng đục qua ánh đèn, hai người nhìn thấy rõ ràng... cái bóng của một con chim hạc đang dùng mỏ mổ liên tiếp vào con thoi...
Hai người đang trợn tròn há hốc thì bỗng nghe con hạc kêu lên một tiếng hết sức bi ai. Hai người chưa biết phải làm gì thì từ bên trong, nàng Hạc, con gái của họ mở cửa phòng chạy ra, với gương mặt hết sức xanh xao tiều tụy, gần như đã kiệt sức hoàn toàn.
Nàng Hạc nhìn cha mẹ, buồn rầu nói:
-Con đây chính là con chim hạc đã được cha tha mạng lúc trước. Chính vì vậy nên con mới quyết định đến nhà này chịu làm con của cha mẹ để đền đáp ơn sâu đó. Con đã dặn với cha mẹ rằng đừng bao giờ nhìn con trong lúc con đang làm việc cả, vì như thế, phép thuật của con sẽ mất hết linh nghiệm, còn có hại đến cả tánh mạng của con, và rồi con sẽ phải hiện nguyên hình mà trở lại kiếp chim hạc. Cha mẹ đã không tin con thì thôi, sao lại còn làm hỏng hết việc tu luyện thành người của con? Từ nay con không còn ở đây để phụng dưỡng cha mẹ được nữa đâu, mà phải trở lại kiếp ‘hạc kêu sương’ để tu luyện lại từ đầu thôi. Xin cha mẹ bảo trọng. Vĩnh biệt!
Nói dứt lời, nàng Hạc ngã lăn xuống đất nằm im bất động, ngừng thở. Hai vợ chồng già lúc đó mới hiểu rõ được căn nguyên mọi việc. Ông bà ăn năn chẳng cùng, nhưng tất cả đã muộn màng. Cả hai người chỉ còn biết ôm lấy xác nàng Hạc mà hôn, than khóc chẳng cùng. Đôi mắt của nàng Hạc chợt ứa ra hai hàng lệ rồi từ từ nhắm nghiền lại.
Chỉ một lúc sau, xác của nàng Hạc bỗng nhiên từ từ biến thành một con chim hạc, đứng bật dậy vỗ cánh mấy cái. Nhìn hai người, con hạc kêu lên mấy tiếng thật bi thương rồi tung đôi cánh bay lên không.
Đôi vợ chồng già đứng nhìn theo bóng hạc mỗi lúc một khuất dần trong màn đêm cho đến khi mất hút...

Công chúa Nhật Quang
Công chúa Nhật Quang là con thứ hai của vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ.
Công chúa rất đẹp, một vẻ đẹp thùy mị hơn hẳn các thiếu nữ đương thời ở nước Xá Vệ; Công chúa lại rất thông minh học đâu nhớ đấy. Không những công chúa sắc sảo về môn nữ công mà còn tinh thông các triết lý học thuật; đức hạnh công chúa cũng quán chúng, tuy sanh trong giai cấp vua chúa cao sang, nhưng vẫn giữ thái độ khiêm tốn nhã nhặn, nhất là đối với hạng nghèo khổ tật nguyền, công chúa thành thật yêu mến và luôn luôn tìm cách giúp đỡ. Vì thế nên công chúa được rất nhiều người kính trọng. Người nào đã hân hạnh gặp công chúa một lần, họ sẽ nhớ mãi nụ cười hiền hòa và lời nói thanh tao của công chúa. Ðối với cha mẹ, công chúa thật là người con hiếu hạnh, nàng hầu hạ vua và hoàng hậu hết sức chu đáo, và không bao giờ nói một lời hay làm một việc trái ý vua và hoàng hậu.
Ba Tư Nặc vương được một người con xứng đáng như vậy, vua rất cưng quý, có thể nói công chúa Nhật Quang là viên ngọc vô giá của vua nước Xá Vệ. Những cuộc quan sơn ngoạn thủy của vua, công chúa đều được tham dự, mỗi khi quốc sự rảnh rang, nhà vua thường đòi công chúa đến hầu chuyện, hỏi những vấn đề thắc mắc công chúa đều trả lời trôi chảy, nhà vua rất đẹp dạ.
Một buổi chiều nhà vua đang dùng trà tại vườn ngự uyển, có công chúa đứng bên cạnh, nhà vua nhìn con rồi vui miệng phán rằng: “Khắp nước Xá Vệ này không ai được hạnh phúc bằng con, đời con được như thế thật là hoàn toàn nhờ sức của cha mẹ tác thành vậy”.
Công chúa Nhật Quang thành thật trả lời: “Tâu phụ vương, công ơn sanh dưỡng của Phụ hoàng và Mẫu hậu như trời bể con không hề dám quên. Nhưng đời con được hạnh phúc như thế này, con thiết tưởng cũng có ảnh hưởng của cha mẹ một phần nào, nhưng phần lớn nhờ kiếp trước con đã tu nhân tích đức nhiều vậy”.
Câu nói của công chúa không ngờ đã chạm lòng tự ái của vua Ba Tư Nặc quá mạnh, vua liền đứng dậy, lặng lẽ trở vào cung.
Ðêm hôm ấy, nhà vua không hề chợp mắt, suy nghĩ mãi lời nói của công chúa, và vua rất bực tức, đứa con yêu và ngoan ngoãn của mình chưa bao giờ trái ý mình dù là một cử chỉ nhỏ nhặt, hôm nay lại xúc phạm đến lòng tự ái của mình, có thể nói là không thừa nhận một lý thuyết (nghĩa là hạnh phúc của con hoàn toàn do cha mẹ tác thành) mà ông cho là muôn đời bất biến và ai cũng phải công nhận.
Muốn bảo thủ thành kiến của mình, nên mới sáng tinh sương, Ba Tư Nặc vương liền đòi viên cận thần thân tín bảo rằng: ta cần một thanh niên trạc tuổi công chúa Nhật Quang mà hiện sống trong một cảnh nghèo hèn, cơm không có ăn, áo không đủ mặc, ngươi phải tìm cho ra một người có đủ điều kiện ấy, dẫn về đây cho ta.
Ba ngày sau, viên cận thần dẫn về một thanh niên hành khất, mặt mũi khôi ngô, nhưng trong người chỉ mặc vỏn vẹn một chiếc khố rách đến yết kiến vua Ba Tư Nặc. Vua rất mừng ban thưởng viên cận thần xong, quay lại hỏi thân thế thanh niên hành khất rồi bảo rằng: Ta thấy ngươi nghèo khổ, chưa có gia thất, nay ta đem công chúa Nhật Quang gả cho ngươi, ngươi được quyền dẫn công chúa đi đâu tùy ngươi.
Thanh niên nghèo khổ kia không biết trả lời ra sao chỉ cúi đầu vâng lệnh.
Vua lại kêu công chúa Nhật Quang đến phán rằng: hôm kia con đã nói: “Hạnh phúc của con hiện tại phần lớn là do con đã tu nhân tích đức ngày trước. Nay ta muốn thí nghiệm lời ấy, nên ta đã gả con cho một thanh niên hành khất, nếu con có phước báo thì con cũng trở nên giàu có sung sướng. Con hãy sửa soạn ngày mai lên đường với chồng con, khi nào có chiếu chỉ mới được trở về cung”.
Với nét mặt đầy nghiêm nghị của Vua Ba Tư Nặc vương, công chúa không dám nói gì, chỉ yên lặng trở về hậu cung.
Sáng ngày công chúa vào lạy cha mẹ, từ biệt mọi người, rồi bình tĩnh ra đi với thanh niên hành khất.
Hoàng hậu và thần dân đều thương xót và khóc lóc, lo ngại cho số phận công chúa, nhưng ý vua đã quyết nào ai dám mở lời khuyên can!
Ra khỏi hoàng cung, công chúa hỏi thanh niên hành khất rằng: Cha mẹ chàng đâu? Nhà cửa chàng đâu? Vì sao chàng lại nghèo khổ đến thế?
Thanh niên buồn rầu đáp: “Gia đình tôi trước cũng giàu có, vì được cha mẹ cưng quý, tôi tiêu xài hoang phí, ham chơi bời với chúng bạn, có học tập nhưng không đâu đạt gì, đến khi cha mẹ qua đời, tôi bán hết ruộng đất nhà cửa, hiện nay chỉ còn một sở vườn cách đây ba trăm dặm cỏ lác mọc đầy, cho người ta mướn họ không mướn, bán họ không thèm mua, hết của cải, không nghề nghiệp không biết nghề gì nuôi thân, nên phải hành khất độ nhật. Hôm nay tôi đang lang thang giữa đường, thì gặp một vị quan của vua, ông ta hỏi cặn kẽ về gia thế tôi, rồi ông dẫn tôi yết kiến nhà vua, không biết gì sao nhà vua lại đem công chúa gã cho một kẻ nghèo hèn như tôi?”.
Vẫn nét mặt ôn hòa công chúa nói với thanh niên hành khất rằng: “Dù sao từ nay chúng ta cũng đã là vợ chồng, chúng ta phải tìm phương kế làm ăn và trước hết phải tìm nơi tạm trú”.
Không biết tìm chỗ nào khác, nên công chúa và thanh niên hành khất liền dẫn nhau đến sở vườn của cha mẹ thanh niên để lại - thật là một mảnh vườn hoang phế, cỏ lác um tùm sỏi đá lởm chởm. Hai người bàn định cắt cỏ đốn cây che một chiếc chòi nhỏ vừa tạm ở, những người quanh đấy có người biết công chúa Nhật Quang nên cùng nhau đến giúp đỡ công việc cho công chúa. Ðến khi đào đất để dựng cột nhà, vừa đào được vài lát đất thì gặp ngay ba cái chum lớn niêm khằn cẩn thận. Công chúa liền mở chum ra thì thấy trong ba cái chum ấy, vô số là vàng bạc châu báu, công chúa vui mừng sung sướng đem bán bớt một số châu báu rồ9 mướn ngườ9 dọn dẹp cỏ rác, trồng tỉa hoa quả, tạo lập lâu đài… Vốn sẵn tánh hiền lành lại sẵn lòng yêu thương giúp đỡ mọi người, nên thợ thuyền tôi tớ rất trung thành tận tụy, không bao lâu đám vườn hoang phế kia đã biến thành một vườn hoa trăm sắc muôn màu; lâu đài trang hoàng lộng lẫy, người vô kẻ ra tấp nập không khác dinh thự của bậc đế vương.
Từ khi công chúa rời khỏi cung điện, vua Ba Tư Nặc sanh lòng hối hận đêm ngày trông nhớ, nhà vua đinh ninh rằng: Công chúa lâu nay chắc gặp nhiều khổ sở và định đón công chúa trở về cung để an hưởng cảnh đoàn viên phú quý. Nhà vua liền phái một số cận thần tìm nơi công chúa ở và dò xem đời sống của công chúa ra sao?
Sau một thời gian dò xét, các cận thần về tâu với nhà vua: “Công chúa ở cách xa cung điện nhà vua chừng ba trăm dặm và hiện đang ở trong cảnh phong lưu sung sướng giàu có ức triệu”. Vua Ba Tư Nặc không tin, liền đến nơi dò xét quả đúng như lời các cận thần. Nhà vua nói với kẻ tả hữu rằng: “Trẫm thấy đời sống của vợ chồng công chúa Nhật Quang hiện tại, tuy trẫm là vua một nước, thật cũng không sung sướng bằng”.
Nhưng vua cũng băn khoăn thắc mắc không biết tiền kiếp công chúa đã tu những nhân lành gì mà nay được nhiều phước báo như vậy.
Vốn nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc đại giác, nên vua thân hành đến Tịnh xá nơi Phật thuyết pháp, cung kính bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Nghe danh Ngài là bậc đại giác chứng nhất thế trí, hiểu thấu việc trong ba đời, nay đệ tử có điều nghi xin Ngài chỉ dạy: “Nhật Quang công chúa thứ hai của đệ tử, không biết đời trước tạo nhân lành gì, mà ngày nay tướng mạo đẹp đẽ, thông minh xuất chúng, giàu có sang trọng… Ðệ tử đã gả công chúa cho một kẻ hành khất nghèo hèn thế mà công chúa cũng đào được vàng bạc rồi trở nên sang trọng hơn người.
Ðệ tử cứ thắc mắc mãi mong Ngài từ bi khai thị cho đệ tử rõ?”
Ðức Phật Thích Ca nở nụ cười hiền hòa muôn thuở thong thả dạy rằng: “Nghi vấn Ðại vương sẽ được tiêu tan sau khi nghe câu chuyện này:
- Nầy Ðại vương! Xưa kia khi Ðức Phật Ca Diếp ra đời, có hai vợ chồng người lái buôn giàu có, người vợ rất tôn kính Tam bảo, thường khuyến khích mọi người bỏ việc ác làm lành, quy y Tam bảo, lại hay làm việc bố thí cúng dường, nhất là đối với kẻ tàn tật, nàng hết sức thương mến và tận tâm chăm sóc. Người chồng lại có tánh bỏn sẻn, mỗi khi thấy vợ làm việc cúng dường bố thí, thì tỏ ra thái độ bất bằng, tìm cách ngăn cản.
Một hôm gặp ngày nguyên đán, người vợ thành tâm sắm sửa lễ vật để cúng dường Tam bảo và bố thí kẻ nghèo trong ba ngày, người chồng thấy vậy bực tức nói rằng: “Hãy để dành tiền của lại sắm sửa thêm nhà cửa ruộng đất, chứ làm những việc ấy thêm hao tốn, phỏng có ích gì!”. Người vợ dịu dàng trả lời: “Của cải là vật vô thường ta không bỏ nó, rồi nó sẽ bỏ ta; hơn nữa những kẻ nghèo khổ hiện tại, theo trong kinh Phật dạy, đều do đời
trước tham lam ích kỷ, không biết dùng tiền của làm các việc phước thiện; ngày nay đời sống của vợ chồng chúng ta tạm gọi là khá giả, chúng ta nên dùng một số tiền làm các việc phước thiện để bảo tồn hạnh phục tương lai cho chúng ta, và cũng gọi là góp một phần trong công việc nghĩa chung vậy”.
Nghe mấy lời giải thích của vợ, người lái buôn mới tỉnh ngộ và cảm động, từ đó anh không ngăn cản vợ mà lại rất hăng hái trong công việc làm phước đức…
Này Ðại vương! Vợ người lái buôn xưa kia chính là công chúa Nhật Quang ngày nay, đời trước nàng thường khuyến khích mọi người bỏ ác làm lành, quy y Tam bảo, nên được quả báo thông minh xuất chúng; đời trước sốt sắng cúng dường bố thí, nên nay được quả báo sung sướng giàu sang, nhiều người mến phục; đời trước tận tâm săn sóc giúp đỡ kẻ tàn tật, ngày nay được quả báo nhan sắc đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang.
Người lái buôn xưa kia chính là chồng công chúa hiện tại, ngày trước lúc chưa tỉnh ngộ, anh ta bỏn sẻn hay ngăn cản việc làm phước thiện của vợ, nên ngày nay phải chịu đói rách một thời.
Vua Ba Tư Nặc nghe Phật kể rõ tiền kiếp của công chúa Nhật Quang, nhà vua mới tỉnh ngộ, và rất thâm cảm đạo lý nhân quả tội phước của Phật. Rồi vua cúi đầu đảnh lễ Ðức Phật ra về.
Về đến cung, công việc đầu tiên của vua là cho người đón rước vợ chồng công chúa Nhật Quang về. Gặp công chúa, vua Ba Tư Nặc khôn xiết vui mừng, vua không quên nói nhiều lời hối hận, với công chúa Nhật Quang cũng rất sung sướng được gần gũi phụng sự cha mẹ, và giúp vua cha trong việc trau dồi đạo đức, bảo quốc an dân. Thanh niên hành khất chồng công chúa, cũng được vua phong cho một chức quan cao cấp trong triền đình.

Cha Mẹ Nuôi Con Bể Hồ Lai Láng, Con Nuôi Cha Mẹ Kể Tháng Kể Ngày
Xưa, có hai vợ chồng một nhà nọ làm ăn chí thú. Họ sinh được ba người con, đều là con trai. Hai vợ chồng nuôi con rất chăm chút. Từ lâu, tay họ làm ra rất nhiều tiền của, ruộng vườn, nhưng có miếng gì cũng ăn nhịn để dành, những mong gây dựng cho mỗi con một cơ nghiệp riêng. Cho đến ngày cưới vợ cho đứa thứ ba xong, chồng bảo vợ:
- Chúng ta nhờ trời "con có của nên". Nay chúng ta đã đến kỳ răng long tóc bạc mà con thì đã khôn lớn cả. Vậy cũng nên chia tài sản cho chúng nó làm ăn, đứa nào lo phận nấy, để khỏi có sự tranh giành sau này. Có vậy mới yên hưởng tuổi già được!
Thấy vợ ưng thuận, ông già bèn cho mời họ hàng làng nước lại lập chúc thư. Ông chỉ để lại cho mình và vợ mình một phần nhỏ tài sản để dưỡng lão, còn bao nhiêu của chìm của nổi đều chia hết cho các con.
Tuy đã ngoài 60 tuổi, nhưng ông già vẫn còn khỏe mạnh và chưa chịu để tắt chí kinh doanh. Vì thế, sau khi phân chia tài sản cho các con xong, hai vợ chồng lại lao vào công việc làm ăn. Với phần của dưỡng lão, họ lại đưa ra buôn bán. Không ngờ thần tài còn vượng, lãi mẹ đẻ lãi con, tiền bạc lại tuôn về như nước chảy. Không đầy bảy tám năm sau, họ lại trở nên giàu có như trước. Trong khi đó thì ba đứa con của ông phần thì thiếu kinh nghiệm, phần thì siêng ăn nhác làm, nên cơ nghiệp mới nhen lên chưa được bao lâu đã trở nên sa sút.
Một hôm, cả ba đứa con đều tìm đến gặp bố mẹ rồi nói:
- Bây giờ bố mẹ ngày một yếu hèn. Theo ý chúng con, bố mẹ chỉ nên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho khỏe, để phần tài sản lại cho chúng con quản lý, chúng con sẽ xin phụng dưỡng bố mẹ đến mãn đời.
Ông già trả lời:
- Bố mẹ cũng muốn như vậy lắm. Nhưng ngặt vì xưa nay cha mẹ nuôi con thì được, còn con nuôi cha mẹ có phải dễ đâu!
- Bố mẹ đừng lo gì cả, - bọn con nói tiếp. - Người ta không có của cha mẹ để lại cũng nuôi được cha mẹ thay, huống hồ phần tài sản của bố mẹ như thế thì lo gì mà chẳng nuôi được!
Ông già nghĩ ngợi hồi lâu rồi hẹn ba tháng nữa sẽ trả lời.
Chung quanh nhà ông già là một vườn cây ăn quả. Ở đây có rất nhiều tổ chim. Một hôm ông bảo trẻ con lối xóm trèo lên cây muỗm tìm cho mình một tổ chim. Đứa trẻ trèo một chốc bắt xuống cho ông một tổ trong có bốn con: một cặp vợ chồng chào mào và hai con chim con. Ông già thả bố mẹ nó ra rồi làm một cái lồng đẹp, bỏ hai con chim non vào đó. Đoạn cho treo lồng lên cây. Và ông thấy hằng ngày chim cha và chim mẹ ríu rít mang mồi về bám vào lồng, thò cổ vào mà đút cho con. Ông già ngẫm nghĩ: - "Loài chim rất yêu con, dù con có bị bắt cũng không chịu bỏ".
Khi hai con chim đã khôn, ông già lại sai bọn trẻ tìm cách bắt cho được hai con chim cha và mẹ lại. Bắt được rồi, ông bỏ chúng vào lồng mà thả hai con chim kia ra. Nhưng vừa được phóng thích hai con chim con bay một mạch mất hút, không hề trở lại. Việc đó làm cho ông suy nghĩ nhiều: - "Đồ bội bạc! Chẳng có con nào nhớ tới bố mẹ của nó cả, nói gì tới chuyện đút mồi nữa". Và sau đó ông già kết luận: - "Con người ta cũng vậy thôi. Chỉ có trả nợ xuống mà không trả nợ lên!".
Ba tháng trôi qua, ba đứa con của ông già lại đến giục bố mẹ trả lời. Ông già kể cho họ nghe chuyện chim chào mào vừa qua, nói lên những nhận xét của mình rồi đáp:
- Bố mẹ chẳng phải muốn giữ của lại làm gì đâu! Khi hai tay buông xuôi rồi, có mang được tý gì xuống âm phủ đâu mà giữ. Nhưng bố mẹ nghĩ rằng những đứa con thường chăm chút cho con mình hơn là cho bố mẹ. Vả chăng khi đang có ăn thì còn có tình có nghĩa, khi đã túng thiếu rồi thì nào biết bố mẹ là gì nữa. Vì vậy, bố mẹ muốn ở riêng ra như thế này cho đến khi nhắm mắt tắt hơi, làm được gì ăn nấy, không phải làm phiền đến các con!
Nghe nói thế ba đứa con hết lời thề thốt. Đứa thứ nhất thề rằng dù các em có bỏ bố mẹ chăng nữa thì nó cũng sẽ chăm lo cho bố mẹ đầy đủ. Đứa thứ hai thề rằng nó sẽ không để cho bố mẹ phiền hà lấy một câu. Đứa thứ ba thề rằng dù nó có nghèo khổ đến đâu, thì cũng đi ăn xin về nuôi bố mẹ. Bà vợ ông cũng bảo:
- Con nó đã thề thốt như thế, ông nên nghĩ lại. Chim khác, người khác, ông ạ!
Cuối cùng thấy vợ con nói đi nói lại mãi, ông già dần dần xiêu lòng, bèn lại mời họ mời làng một lần nữa chia phắt tất cả tài sản còn lại cho ba đứa con mà không dành lại cho mình một tý gì.
Trong những năm đầu, ba anh em phụng dưỡng bố mẹ rất tử tế. Miếng ngon vật lạ hễ nghe đâu có bán là cố tìm mua cho bố mẹ ăn. Nhưng từ năm thứ ba trở đi việc hầu hạ đã có phần chểnh mảng. Thêm vào đó, công việc làm ăn của họ lại không khấm khá gì. Cả ba đứa con ông cụ đều là những tay "phá gia chi tử" không kém cạnh gì nhau, nên số tài sản của bố mẹ chia cho không mấy chốc lại đội nón ra đi mất cả. Sự khó khăn ngày một in sâu trên nét mặt họ. Và việc chăm sóc bố mẹ lại càng chểnh mảng. Hơn nữa, ba anh em họ, nhất là ba chị em dâu thường ganh tỵ nhau từng đồng tiền bát gạo. Trước kia cả ba hằng năm góp tiền lại cho một người để nuôi bố mẹ. Dần dần sự đóng góp không được đầy đủ như trước. Thấy kẻ này thiếu một vài quan, người nọ cũng nhất định giữ lại chừng ấy không chịu đưa. Về sau, họ bàn nhau mỗi người luân phiên nuôi bố mẹ một năm. Nhưng người anh cả sợ rằng lỡ ra bố mẹ chết sớm thì người chưa nuôi có lợi, mà người đã nuôi sẽ bị thiệt thòi, nên rút xuống nửa năm, rồi lại rút xuống ba tháng. Cuối cùng họ đồng tình mỗi người nuôi một tháng, nhưng không theo thứ tự nào cả mà bằng cách rút thăm. Càng già gân cốt càng suy, đi lại không được, do đó càng đòi hỏi phải chăm chút nhiều hơn. Thế mà trái lại, mỗi ngày sự nuôi nấng cha mẹ mỗi tệ, thậm chí con chỉ mong mau đến kỳ hạn để tống bố mẹ đi.
Cứ như vậy chưa đầy ba năm bố mẹ vì không chịu được đói và rét, lần lượt qua đời. Do truyện này mà có câu:
Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.
hay là:
Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày.

Cúu vật vật trả ân,cúu nhân nhân trả oán.
Ngày xưa,có một anh chàng không có tài nghề gì cả.Anh chỉ được cái hiền lành, hay thương người.Từ lùc vợ chết,anh trở nên túng bấn tợn.Có dạo anh phải ngửa tay ăn xin.Thấy nghề này hèn hạ lại không nuôi nổi tấm thân ,anh chàng mới xoay sang đi làm thuê.Nhưng chỉ làm được một ngày,anh đã thấy mệt nhọc và bị chủ la mắng nhục nhã ,nên anh lại dự định làm nghề đi câu là nghề anh cho là thong thả tự do hơn.Chiều hôm đó , người ta trả công cho ba mươi đồng kẽm ,anh chàng bèn lấy số tiền đó làm vốn mua lưỡi,mua dây quyết chí làm ăn bằng nghề nghiệp mới.
Sáng hôm sau,anh ra ngồi ở bờ sông câu cá.Nhưng mãi đến trưa chả kiếm được một tí gì.Mồi cứ mất toi.Mãi đến chiều mới thấy phao chìm xuống,anh giật lên thì chỉ được một con rắn nước.Lấy làm bực mình ,anh chàng gỡ con rắn ra rồi quẳng xuống sông.Lần thứ hai giật lên lại chính là con rắn nước lúc nãy mắc lưỡi.Anh van lên:
-Rắn ôi!Tao nghèo lắm,chỉ được ba mươi đồng kẽm thôi.Mày đừng hại tao hết cả mồi,rồi đây biết lấy gì mà kiếm ăn.
Anh chàng lại quẳng rắn xuống nước.Lần thứ ba cũng lại con rắn ấy mắc lưỡi câu.Lần này anh giận lắm,không thả rắn xuống nước mà nắm cổ lôi đi định giết.Qua đền bà thần Khai Khẩu tự dưng con rắn nườc kêu lên :
-Đừng giết tôi.Tôi là con vua Thủy phủ.Vì muốn đánh bạn với anh nên tôi mới nhiều lần tự cắn lưỡi câu như thế.Hãy cho tôi theo đi,tôi sẽ giúp anh vượt qua cảnh nghèo.
Anh nghe lời rắn cho rắn đi theo mình.Từ đoánh câu được nhiều cá:thứ bán,thứ ăn,cuộc sống rất dễ chịu.Anh chàng với rắn ngày một tương đắc.
Một hôm rắn cho anh biết ba ngày nữa sẽ có 1 trận lũ lụt lớn xưa nay chưa từng có.Anh nghe lời rắn đòng một chiếc bè để phòng tai nạn.Anh lại còn loan báo cho mọi người xung quanh biết.Nhưng chả một ai thèm nghe.Ba ngày sau ,quả nhiên giông bão nổi lên đùng đùng,mưa to nhu nước trút,nước dâng lên như biển cả.Người,vật,đồ đạc... đều trôi đi đâu mất tích.Mãi đến ngày cơn bão tạnh ,anh chàng mới dám chống bè tìm về chỗ cũ.
Thấy một cái tổ kiến lênh đênh trên dòng nước rắn bảo anh:
-Anh hãy cứu chúng nó một chút.
Anh trả lời:
-Vớt làm gì bầy kiến nhỏ mọn ấy để nó bò khắp bè.
Nhưng con rắn khẩn khoản:
-Không,anh hãy nghe tôi đi.Rồi chúng nó sẽ trả ơn anh.
Anh nghe lời rắn,vớt cái ổ kiến lên bè của mình.
Đi một đoạn,lai gặp một con chuột đang lội bì bõm sắp chết đuối.Rắn lại giục anh vớt lên.
-"Ồ"-anh đáp-Con chuột thì cho nó chết chứ cứu nó mà làm gì?
-Không,anh hãy nghe tôi đi!Rồi nó sẽ trả ơn anh.
Nghe lời rắn,anh vớt chuột lên bè của mình.
Đến một chỗ khác họ lại gặp một con trăn nằm cuộn tròn giữa dòng chờ chết.Rắn cũng giục anh giúp nó thoát nạn.
-"Ồ"-anh đáp-Con trăn ấy kinh lắm,cứu nó mà làm gì?
-Không.Anh hãy nghe tôi đi.Rồi nó sẽ trả ơn anh.
Nghe lời rắn anh chàng lại cứu cho trăn lên bè.
Sau cùng họ gặp một người đàn ông đang bám vào một cây gỗ nổi giữa dòng nước.Anh không đợi rắn bảo,định vớt lên bè,nhưng con rắn cản lại:
-Anh đừng vớt nó lên mà làm gì.Nó sẽ làm hại anh.
Anh đáp:
-Người ta thường nói cứu một người dương gian bằng một ngàn âm ti.Sao chỉ cứu vật mà không cứu người kia chứ?
Nói đoạn,mặc kệ lời rắn can ngăn,anh nhất định thực hiện ý nghĩ của mình,vớt người sắp chết đuối đó lên bè,cho sưởi lửa ấm va cho ăn uống tử tế.
Sau mấy ngày nước rút đi hết,anh thả tất cả các con vật lên bờ.Còn người nọ vì gia đình phiêu bạt,nhà cửa trôi mất cả nên anh cho ở lại với mình,cùng câu cá nuôi nhau và coi như anh em ruột.
Đến lúc con rắn nước trở về Thủy phủ thì nó mời anh cùng đi xuống thăm giang sơn của cha mình.Dọc đường,rắn bảo bạn:
-Nếu cha tôi có cho gì thì anh nhớ xin lấy cây đàn thất huyền.Đàn ấy nều có giặc thì chỉ cần gảy một bài có thể làm cho giặc phải tan.
Vua Thủy thấy có bạn của con tới chơi lấy làm mừng rỡ và đãi anh chàng rất hậu.Thấy vua Thủy mang vàng bạc,châu báu biếu mình,nhớ lời rắn anh cố thước từ,chỉ xin mỗi chiếc đàn thầt huyền.Vua Thủy nể chàng thuận cho ngay.Anh trở về mặt đất,quý chiếc đàn vô hạn.
Một hôm anh có việc phải đi xa.Trươc khi đi,anh giấu đàn thần dưới cột thóc,dặn người bạn chớ có đến chỗ cột thóc đó.Nhưng khi người kia nghe dặn,đồ rằng dưới ấy có vật quý bèn cố tâm tìm kiếm,quả bắt được cây đàn.Hắn đã biết được sự mầu nhiệm của cây đàn nên hắn lấy trộm trốn đến kinh đô để lập công danh.
Hồi ấy,quân đội nhà vua phải đối địch với một nước láng giềng luôn luôn kéo quân sang quấy nhiễu bờ cõi.Hắn xin vua đi tiễu trừ giặc dữ.Nhờ có chiếc đàn thần hắn đã làm cho quân đội của đối phương thua liểng xiểng.Lúc thắng trận trở về,hắn được nhà vua rất khen ngợi,phong làm đại tướng,ban lộc rất hậu.Được giàu sang,hắn không càn nghĩ gì đến ân nhân của mình nữa.Nhà vua toan gả công chúa cho đại tướng,nhưng vừa hứa hôn thì bổng dưng công chúa bị câm.Vì thế hôn lễ bị hoãn lại chơ công chúa lanh bệnh mới cử hành.

Lại nói chuyện anh chàng câu cá khi trở về thấy mất bạn lại mất cả cây đàn thất huyền vội bỏ nhà đi tìm.Vào đến kinh đô,một hôm anh gặp người kia bây giờ đã ngồi trên kiệu sơn son thếp vàng lại có quân theo hầu đông nghìn nghịt.Anh đón kiệu lại ,cất tiếng hỏi thăm bạn cũ.Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình đã vội thét lính bắt trói lại. Thế rồi để khỏi lộ chuyện,hắn vu cho anh là giặc,sai nhốt vào một chỗ kín đáo,không cho ăn ddeerchowf ngày đưa ra pháp trường.
Trong ngục tối,giữa lúc anh chàng đang khóc than cho thân phận thì bầy kiến ngày xưa đã tìm cách lọt vào hỏi thăm:
-Tại sao ông bị giam ở đây?
Anh chàng ngơ ngác,không hiểu tiếng ai hỏi mình ,bèn hỏi lại:
-Ai đó?Tại sao tôi chỉ nghe tiếng mà không thấy người?
-Chúng tôi là bầy kiến mà ông cứu cho thoát khỏi nạn lũ lụt năm xưa hiện đang ở chân ông đây!
Anh chàng cúi xuống tìm kiến rồi kể chuyện cho kiền nghe nông nỗi của mình. Kiến nói:
-Chúng tôi không thể làm được gì nhưng để chúng tôi đi kiếm con chuột ngày xưa,may ra có kế gì chăng.
Lũ kiến bèn chia nhau mỗi con một phương đi kiếm chuột và báo tin không may của ân nhân cho chuột biết.Chuột bảo:
-Bây giờ chắc ông ấy đói lắm, để tôi mang vào ngục một ít thức ăn đã.Rồi tôi sẽ đi kiếm con trăn ngày xưa thử nó có mưu mẹo gì chăng.
Chuột liền đưa khoai và bánh lấy trộm được của một nhà hàng vào ngục cho anh chàng ăn.Anh tỏ lời cám ơn.Rồi cả gia đình nhà chuột lại kéo nhau đi kiếm trăn.Lúc sắp đến nhà trăn,cả bầy chuột sợ trăn ăn thịt,bèn trèo lên cây cao gọi xuống:
-Bác trăn ơi!Bác trăn ơi!
Khi trăn ra,một con chuột già đánh bạo nhảy xuống kể chuyện cho trăn biết.Trăn nhả một viên ngọc bảo chuột mang về cho ân nhân mà rằng:
-Viên ngọc này mài ra thành bột có thể chữa bệnh câm. ân nhân của chúng ta có thể đem chữa bệnh cho công chúa rồi nhờ đó mà thoát nạn.
Khi được ngọc,anh chàng gọi người cai ngục rằng mình có phép cứu công chúa khỏi câm.Người ta dẫn anh đến trước vua.Quả nhiên công chúa sau khi uống nước ngọc mà trở nên nói được và câu nói đầu tiên của nàng là đòi lấy người đã cứư mình làm chồng.Vua rất khen ngợi,hỏi anh ta vì sao ma lại có thứ thuốc thần diệu như thế.Anh chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện từ lúc câu được rắn,cứu được các con vật va người,cho đến lúc người tì phản bội còn các con vật thì trả ơn,trong có trăn đã cho mình viên ngọc cho vua nghe.Vua tắc lưỡi:
-Thật là bụng dạ hắn nguy hiểm hơn cả nhưng con vật nguy hiểm!
Lập tức vua sai lính bắt giữ tên đại tướng bất nghĩa kia để chờ ngày xét xử. Còn anh chàng câu cá được vua cho làm quan và gả công chúa cho.Anh ta sống một cuộc đời sung sướng hơn trước.
Ngày nay có câu:”Cứu vật vật trả ân,cứu nhân nhân trả oán”dùng để mỉa mai những kẻ lấy oán báo ân,thua cả những con vật.

: Đôi ngỗng
Ngày xưa, có một người hết sức giàu có, muốn sống một cuộc đời ăn uống thỏa thích, nên ngày hai bữa mâm cơm bao giờ cũng đầy thừa những thức ăn ngon lạ. Một hôm nhà giàu có khách, một người bạn cũng rất sành ăn uống. Luôn mấy hôm, trong nhà toàn nghe những tiếng dao thớt, nấu nướng.
Đãi khách ăn không còn thiếu một thức ngon nào, một hôm chủ nhà đi qua sân sau, trỏ cho bạn thấy một đôi ngỗng đẹp, bảo sẽ giết thịt để làm tiệc tiễn hành hôm nào khách về.
Thuở ấy loài ngỗng đang còn rất hiếm và thịt ngỗng là một thức ăn sang trọng, chỉ có nhà quyền quý mới nếm được mùi. Hai con ngỗng nghe hiểu tiếng người, lấy làm đau xót vô hạn, vì lời hẹn của chủ nhà là bản án tử hình đối với chúng. Đêm đến, đôi ngỗng kêu than, khóc lóc với nhau để vĩnh biệt trước, rồi khi gà bắt đầu gáy, con ngỗng trống hôn hít vợ xong tới đứng sẵn bên cửa chuồng, đợi người bếp đến bắt đem thịt. Con ngỗng mái đoán biết ý chồng, muốn ngăn cho chồng khỏi chịu chết trước thay mình, mới tranh lấy chỗ, rồi hai vợ chồng ngỗng, con nào cũng muốn hi sinh, giành lấy cái chết về mình để cứu bạn trăm năm. Cứ thế mà đôi lứa tranh giành nhau cho tới khi ngày sáng. Luôn mấy đêm liền cảnh đòi chết liên tiếp diễn ra ở trong chuồng ngỗng. Rốt cuộc để tránh khỏi sự tranh giành nhau nữa, cả hai cùng thỏa thuận ngủ ngang hàng, song song cạnh nhau. Hai con lại cùng thề nguyền rằng sau khi một trong đôi lứa chết đi thì con còn sống sẽ ăn chay suốt đời để nhớ kẻ đã mất.
Những tiếng thở than, tranh giành của đôi ngỗng vẳng đến tai của người khách. Mấy lần khách lại gần chuồng để nghe câu chuyện của hai vợ chồng ngỗng vì khách hiểu được tiếng nói của các loài chim. Những lời thề nguyền, trối trăn tha thiết của đôi ngỗng làm động lòng khách sành ăn.
Qua hôm sau, khách ngỏ lời từ giã chủ nhân và bảo rằng mình không thích ăn thịt ngỗng, bởi đã mấy lần nếm qua rồi mà thấy thịt loài này không ngon. Lời bịa đặt ấy đã cứu mạng cho đôi vợ chồng ngỗng. Song từ đó, chúng vẫn giữ lời thề trước, chỉ ăn toàn rau cỏ, ngũ cốc thôi, chứ khôn động tới thịt các sinh vật khác. Cũng từ ngày ấy loài ngỗng theo thói quen ngủ sát cạnh nhau.

Người chết đẻ con
Ngày xưa, có người đàn bà nhà quê sắp đến ngày sinh đẻ thì nhuốm phải bệnh nặng. Biết mình không thể sống nổi để cho con ra đời, lúc hấp hối, thiếu phụ ứa nước mắt nhìn chồng, tay sờ soạng lên bụng chửa, nghẹn ngào sẽ nói: "Còn con... con của chúng ta..." rồi tắt thở. Người chồng đau đớn vật vã, khóc lóc thảm thiết, thương tiếc vợ chết tức tưởi với đứa con còn trong bụng mẹ.
Sau khi chôn cất thiếu phụ được mấy hôm, bà lão bán quán thong manh ở gốc cây đa cánh đồng làng thấy có một người đàn bà dáng quen quen đến mua mấy đồng tiền mật. Người đàn bà mua mật đi rồi, đứa cháu gái bà lão bán hàng mới run sợ nói cho bà hay là nó trông người khách vừa rồi giống hệt thiếu phụ mới chết hôm nào.
Qua ngày hôm sau, cũng vào lúc xế chiều, thiếu phụ trở lại, cũng lại hỏi mua mật. Bà hàng tò mò hỏi, thiếu phụ trả lời mua cho con dại vì mình không có sữa. Thiếu phụ đi rồi, đứa cháu gái theo lời bà nom theo thì thấy đi về phía ngôi mả mới chôn trên gò cánh đồng.
Bà lão bán hàng bèn tin cho người chồng hay. Hôm sau, người chồng đến chờ sẵn ở quán. Vào lúc chiều tối, thấy vợ từ ngoài đồng đến, anh ta đâm xổ ra chận hỏi, nhưng thiếu phụ không nói năng gì, cúi gầm mặt lại chạy trốn. Người chồng đuổi theo thì không thấy bóng vợ đâu nữa.
Anh ta khóc lóc, đau đớn điên cuồng chạy ra ôm lấy mả vợ mà kêu gào rên rỉ, rồi ngừng lặng như muốn ngất đi. Bỗng nhiên anh nghe mang máng như có tiếng trẻ con từ dưới mả vẳng lên. Anh áp tai vào mả nghe tiếng oe oe càng rõ.
Người chồng liền chạy về nhà lấy thuổng, cuốc ra đào mả vợ. Cạy nắp hòm ra thì thấy một đứa con trai đang yếu ớt cựa quậy nằm trên bụng mẹ, bên mép hài nhi còn dính vết mật. Thi thể người vợ cứng lạnh, bụng chửa đã xẹp xuống, xác vẫn nguyên vẹn. Người chồng trông nét mặt vợ thanh thản như mỉm cười, khác hẳn vẻ nhăn nhó đau thương hôm chết. Anh bế đứa con trai về nhà, được lối xóm đóng lại quan tài và đắp lại mả vợ.
Thằng bé lớn lên như các đứa trẻ khác, còn mẹ nó thì không ai thấy lại đâu nữa. Người chồng nhiều phen trở lại mả cùng đi quanh ngôi quán bà lão ở cánh đồng để rình gặp cũng không thấy vợ hiện ra nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #hay#tích