
Hồi 4: Nước Thương Lang trong giặt khăn đầu
1. Cung loạn
Nửa đêm hôm ấy, ta choàng tỉnh, hoảng sợ ngồi dậy, chỉ cảm thấy trống ngực đập dồn, xao động bất an như lúc ban ngày. Còn đang suy ngẫm xem có khi nào là bởi mơ thấy ác mộng gì không thì một trận âm thanh hỗn loạn bất thường đã như thủy triều trào vào qua cửa sổ.
Trận âm thanh nghe lao xao loạt xoạt, như dùng siêu đồng đun nước, sôi chẳng ra sôi. Cẩn thận phân biệt thì có thể chia động tĩnh này ra làm mấy lớp, có tiếng nhiều người ồn ào phương xa, cũng có tiếng bước chân sầm sập ngoài tường, thỉnh thoảng còn xen lẫn tiếng vó ngựa phi nước đại...
Tiếng vó ngựa? Ta nhất thời cảnh giác. Đây là hậu cung, ngày thường đến xe kiệu còn chẳng được vào, giục ngựa băng qua lại càng bị cấm ngặt.
Ta nhanh chóng khoác áo rời giường, vừa đội khăn chít đầu đeo đai lưng da, vừa mở cửa ra khỏi phòng, chạy thẳng tới cửa gác, mở hé, ngó ra ngoài.
Phía đông Phúc Ninh Điện có ánh lửa lay động, còn có tiếng người gào la, động tĩnh tạp nham bòng bong rối loạn, khoảng cách quá xa, nghe không được rõ lắm, mà trước mặt ta thì thi thoảng lại có hoạn giả bận những màu áo khác nhau đi ngang qua, đều xách đao cầm gậy, trong đó có cả hoạn quan đương quyền cưỡi ngựa, vội vã phóng về phía Phúc Ninh Điện. Ngẫu nhiên nghe được dăm câu đối thoại của hai, ba người, hình như là nói "Hoàng hậu triệu gấp đô tri lưỡng tỉnh" gì đó.
Đằng sau ta cũng lục tục có người từ trong gác chạy ra sân, đến Miêu thục nghi cũng dắt công chúa đang ngái ngủ đi ra, trắng bệch mặt hỏi ta đã xảy ra chuyện gì. Ta xòe tay đáp không biết, đề cử quan (*) Nghi Phượng Các Vương Vụ Tư lập tức bước gấp tới cạnh cửa, tự mình thò đầu ra nhìn.
(*) Thời Bắc Tống, đây là tên chức quan chủ quản một sự vụ chuyên biệt, ở đây thì là quản lý sự vụ và nhân sự trong Nghi Phượng Các.
Đúng lúc này, một cận thị (*) Phúc Ninh Điện chạy vụt tới, dọc đường kêu to: "Hoàng hậu truyền khẩu dụ: Chư nương tử đóng gác chớ ra, hoạn giả trong gác lấy khí giới bảo vệ xung quanh, không được tự tiện mở cửa gác!"
(*) Tức nội thị thân cận hầu vua.
Vương Vụ Tư nghe vậy cấp tốc lệnh nội thị trong gác tìm khí giới có thể dùng canh phòng trong sân, lại sai ta dẫn hai tiểu hoàng môn đi sang Phúc Ninh Điện: "Thứ nhất thám thính tin tức, thứ hai... Nếu có biến cố thì phải tham gia bảo vệ quanh tẩm điện của quan gia, ra sức hộ đế hậu chu toàn."
Ta đáp ứng, dẫn tiểu hoàng môn chạy tới Phúc Ninh Điện, cánh cửa Nghi Phượng Các đóng lại, tức thì khép kín.
Vừa chạy đến trước Phúc Ninh Điện thì gặp được Trương Mậu Tắc tiên sinh đã chạy tới nơi. Thầy nghiêng người xuống ngựa, mau chóng vào điện. Ta lập tức rảo bước bắt kịp, hỏi thầy: "Trương tiên sinh, xảy ra chuyện gì thế ạ?"
Vẻ mặt thầy nghiêm trọng, chân không dừng bước, vừa đi vừa trả lời đơn giản: "Một vài thân tòng quan Sùng Chính Điện vượt Diên Hòa Điện vào cung, hiện đang ở sau Phúc Ninh Điện."
Thân tòng quan làm việc ở các khu vực hoàng đế xử lý chính sự, thuộc về cấm vệ, không phải nội thị, thế nên không thể vào trong cung cấm, huống hồ là ban đêm. Nghe ý có vẻ như là thân tòng quan làm phản, muốn mưu đồ bất chính. Diên Hòa Điện nằm ở phía bắc Phúc Ninh Điện, tức đằng sau tẩm điện của kim thượng, nói như vậy, bọn giặc này hiện giờ chỉ cách đế hậu một bức tường.
"Có bao nhiêu người?" Ta hỏi Trương tiên sinh.
Thầy đáp: "Vẫn chưa biết."
Ta theo thầy vào điện, thấy đế hậu đang ngồi trên ngự tọa, đều đã ăn mặc chỉnh tề, riêng hoàng hậu thì chưa đội miện, chỉ vấn sơ một búi tóc, kiểu dáng tuy đơn giản song vẫn không rối một sợi. Nhóm đô tri và áp ban chạy đến đầu tiên có vài người đang đứng trong điện, một số khác thì ở ngoài điện quan sát, đại khái là bởi không biết số lượng bọn giặc nên tạm thời không dám manh động, chỉ thủ chặt hai bên cửa hậu thông vào Diên Hòa Điện, theo dõi gắt gao.
Hoàng hậu thấy Trương tiên sinh đi vào, chân mày vốn đang nhíu chặt thoáng giãn ra một chớp mắt, lập tức ra lệnh khóa chặt cửa viện đại điện, sau đó nhìn Trương tiên sinh, môi mấp máy, đang định nói gì với thầy thì chợt nghe sau điện vang lên tiếng con gái kêu thảm thiết, giọng tột độ thê lương.
Kim thượng nghe thấy, sắc mặt thay đổi. Âm thanh đó không ngừng truyền vào, kêu đau khóc thảm, tiếng sau dữ dội hơn tiếng trước, kim thượng lập tức quay sang hỏi cận thị Hà Thừa Dụng đứng bên cạnh: "Giặc bắt đầu đả thương người rồi?"
Hà Thừa Dụng ra ngoài điện xem xét rồi quay về bẩm: "Quan gia đừng lo lắng, đó chỉ là cung nhân trong gác gần đây đánh con gái nuôi của mình mà thôi."
Hoàng hậu tức thì đập bàn, phẫn nộ khiển trách: "Giặc đã đang giết người trong cung rồi mà ngươi còn dám mở miệng vọng ngôn ở đây, dối vua khi quân!"
Hà Thừa Dụng sợ hãi, lập tức quỳ xuống tạ tội. Hoàng hậu không để ý tới hắn nữa mà phân phó Trương tiên sinh: "Bình Phủ, ngươi dẫn người tìm vài thùng chứa, đổ đầy nước mang lại đây, càng nhiều càng tốt."
Trương tiên sinh cũng không hỏi nguyên nhân, lập tức nghe lệnh, ra hiệu bảo ta theo thầy ra ngoài, lại lệnh người hầu đằng sau đi theo, còn hiệu triệu mọi người ngoài điện tìm thùng đổ đầy nước mang tới, đặt từng thùng bên tường dưới hiên.
Ta thấy sau điện không ngừng bập bùng ánh lửa đỏ, chợt hiểu ra, hoàng hậu sợ giặc phóng hỏa.
Quả nhiên, một lát sau, giặc không tìm được cửa điện để vào liền bắt đầu đốt phá, châm lửa rèm trướng dưới mái cong giữa Diên Hòa Điện và Phúc Ninh Điện, ngọn lửa lan ra, cháy tới mép ngoài điện Phúc Ninh, may mà chư hoạn giả đã sớm có chuẩn bị, đồng thời hắt nước từ trong tường ra ngoài, nhanh chóng dập tắt đốm lửa xung quanh.
Dập lửa xong, trong ngoài đại điện mù mịt hơi khói, mọi người nối nhau bôn tẩu giải quyết hậu quả, ngoài cửa chính đại điện lại như có đám người khác tới, gõ mạnh cửa, góp thêm một hồi ầm ĩ.
Người trong điện nhìn nhau biến sắc, chỉ nghi là giặc đi vòng tới ngoài cửa chính, đúng lúc này, ngoài cửa vọng vào tiếng hô gọi yêu kiều: "Quan gia, là thần thiếp, xin hãy mở cửa!"
Ai nấy đều nghe ra được là giọng của Trương mỹ nhân. Thần sắc kim thượng dịu xuống, lập tức sai người mở cửa cho ả vào.
Trương mỹ nhân dẫn theo một đám hoạn giả vào, vào điện rồi ào lên, nhào vào dưới đầu gối quan gia, khóc nói: "Thần thiếp hộ giá tới chậm, xin quan gia thứ tội."
Kim thượng đỡ ả lên bằng cả hai tay, dịu dàng hỏi ả: "Nàng tới làm gì? Ở đây nguy hiểm, không phải hoàng hậu đã bảo các nàng đóng gác chớ ra sao?"
Trương mỹ nhân mắt hàm lệ nóng, đáp giọng tha thiết: "Quan gia thân trong hiểm cảnh, thần thiếp sao dám đóng gác sống trộm? Quan gia gặp nạn, thần thiếp quyết không làm ngơ bỏ mặc, chỉ cầu sống chết có nhau, xin quan gia cho thiếp được ở bên hầu hạ."
Nghe được lời này, kim thượng rất lấy làm cảm khái, nâng tay áo lau nước mắt cho Trương mỹ nhân, lại để ả ngồi xuống bên cạnh, một trái một phải cùng hoàng hậu, chẳng khác nào ngang hàng.
Trương mỹ nhân đánh mắt liếc hoàng hậu, ra chiều tự đắc, lại lệnh hoạn giả mình dẫn tới bảo vệ ngoài điện. Hoàng hậu cũng chẳng so đo, chỉ hỏi Nhậm Thủ Trung đứng gần đó: "Giặc không tới tiến đánh cửa chính, chứng tỏ nhân số cũng không nhiều. Điều vài nội thị vòng ra sau điện đối phó với giặc liệu có được chăng?"
Vẻ mặt Nhậm Thủ Trung khó xử, đáp: "Nhưng bây giờ nội thị trong Phúc Ninh Điện cùng lắm chỉ chừng mười người, giặc là thân tòng quan, trong tay có binh khí, nếu nhân số chúng đông thì chỉ sợ..."
"Nương nương," Trương tiên sinh bước lên ngay lúc này, nói, "Thần nguyện ra trước."
Hoàng hậu chẳng đáp được hay chớ, sắc mặt thê lương, khẽ nhếch khóe miệng với thầy, nhưng nét tối tăm này chỉ vụt lướt trong sát na, bà ngồi thẳng trở lại, sai thị nữ bên người mang một cái kéo đến, tự tay cầm lấy rồi giương lên, quay sang nội thị trong điện, nghiêm túc nói: "Ai sẵn lòng ra trước bắt giặc thì qua đây để ta cắt một đoạn tóc nhận biết. Ngày mai bình xét thưởng công sẽ dùng đoạn tóc này của các ngươi làm chứng."
Đám nội thị nhìn nhau, hãy còn hơi do dự. Ta yên lặng đi tới, quỳ xuống trước mặt hoàng hậu, cúi đầu gỡ khăn chít đầu xuống.
Sau một trận bặt thinh ngắn ngủi, hoàng hậu cởi dây buộc tóc của ta ra, cắt lấy một lọn tóc.
Hai tiểu hoàng môn đi theo ta cũng lần lượt bước lại quỳ xuống, xin hoàng hậu cắt tóc, hoạn giả noi theo càng lúc càng nhiều, cuối cùng, gần như mọi nội thị trai tráng trong điện đều tỏ chí.
Hoàng hậu lại nhìn sang Trương tiên sinh, nói với những nội thị đã cắt tóc: "Các ngươi hãy theo Trương Mậu Tắc, tất cả đều nghe y sai khiến."
Mọi người đồng thanh ưng thuận, Trương tiên sinh bái biệt hoàng hậu, lĩnh người ra, đi tới cạnh cửa lại xoay người hỏi hoàng hậu: "Đám giặc ấy có cần bắt sống không ạ?"
Hoàng hậu nói: "Nếu chúng khoanh tay chịu trói thì giữ mạng, nếu chống cự, giết bất luận tội!"
Kim thượng nghe đến bốn chữ "giết bất luận tội", không khỏi có phần cả kinh, nghiêng đầu nhìn bà. Hoàng hậu mím nhẹ môi, ánh mắt lạnh lẽo, thái độ kiên quyết. Thần sắc ấy ta nhìn cũng thầm rùng mình trong bụng. Thường ngày trông thấy hoàng hậu, chỉ cảm thấy bà hiền từ hòa ái, thanh cao tao nhã, chân chính là trang đệ nhất sắc tài quốc gia (*). Mà giờ xem hành vi thái độ thế này, lại nghĩ đến xuất thân tướng môn của bà, chỉ huy ra lệnh mang vẻ thong dong trấn tĩnh của tướng soái, cũng có phần lạnh lùng quyết tuyệt của người trên chiến trường.
(*) Câu này lấy từ bài thiên Quốc phong trong Kinh thi, bản dịch của Tạ Quang Phát.
Trương tiên sinh phân một nhóm người vòng qua Di Anh Điện đằng sau Sùng Chính Điện và Diên Hòa Điện trước, bảo vệ cửa ra, rồi dẫn chúng ta tới một bên cửa hông Diên Hòa Điện, nghe ngóng một lát không thấy trong cửa có động tĩnh gì, bèn sai người lên tường xem xét, báo cáo trở về nói cũng không trông thấy bọn giặc, lúc này mới cẩn thận mở cửa ra.
Ngoài cửa trong sân quả nhiên không có bóng giặc, chỉ có một cung nhân bị chém đứt nửa cánh tay ngất trên mặt đất. Trương tiên sinh bảo người khiêng cung nhân đi, lại đánh mắt ra dấu về phía Diên Hòa Điện, nói: "Giặc có khả năng đang trốn trong đó."
Cửa sổ và cửa chính Diên Hòa Điện đóng chặt, thoạt nhìn bên trong tối đen như mực, cũng không nghe thấy có tiếng động gì, song, bầu không khí đồng thời cũng rất kỳ dị, như bóng gió ám chỉ trong đó đầy rẫy mối nguy, phảng phất một mùi vị rùng rợn khó tả. Mọi người dừng chân, không tiến thêm nữa.
Trương tiên sinh cụp mắt trầm ngâm, ngẫm nghĩ rồi hỏi một nội thị thuộc Phúc Ninh Điện: "Pháo hoa tạo khói dùng để kết núi đèn màu trước Phúc Ninh Điện tháng trước bây giờ có còn không?"
Nội thị trả lời: "Hẳn là vẫn còn, để tôi đi tìm."
Anh ta mau chóng tìm về một lượng lớn pháo hoa. Trương tiên sinh chia cho mấy thuộc hạ, lệnh họ bí mật đi tới dưới cửa sổ Diên Hòa Điện, đốt pháo hoa, đâm thủng vải che cửa sổ, ném pháo hoa bốc khói mù mịt vào trong nhà. Rất nhanh sau đó, bên trong truyền ra tiếng chửi mắng và ho sặc thưa thớt.
Trương tiên sinh nghe tiếng thở phảo: "Cũng không có bao nhiêu người." rồi xách đao sải bước qua, tung chân đạp mở cửa.
Chuyện tiếp đó thực chất cũng chẳng thể gọi là một trận ác chiến. Kể cũng thật nực cười, giặc bên trong ấy vậy mà lại chỉ có bốn người, toàn thân nồng nặc mùi rượu như uống say. Bởi Trương tiên sinh một mình đi vào trước nên bị chúng đột ngột vây công, vai trái trúng một kích của giặc. Cũng may chúng ta nối gót theo ngay sau, nhân số lại nhiều hơn hẳn chúng nên cục diện giằng co hỗn loạn chẳng duy trì được bao lâu. Cuối cùng, chỉ có một tên giặc nhân loạn trốn thoát, ba người còn lại đều bị mấy vị hoạn giả cầm đao giết ngay tại chỗ.
Giữa chừng Trương tiên sinh không phải là không cao giọng nhắc nhở phải giữ lại một người sống, nhưng khi đó tâm trạng mọi người đều rất căng thẳng, như thể trong khoảnh khắc chợt có cơ hội phát tiết, bắt được giặc là đâm đầu vào ra sức đánh giết nên cũng bỏ ngoài tai lời Trương tiên sinh nói, cuối cùng, thi thể ba người kia máu me be bét, thương tích đầy mình.
Sau đó, chúng hoạn giả phân biệt hồi tưởng kĩ càng, nhận ra ba người bị đánh chết này là thân tòng quan Nhan Tú, Quách Quỳ, Tôn Lợi của Sùng Chính Điện, còn kẻ bỏ trốn kia thì tên là Vương Thắng. Trương tiên sinh sai người tìm hết vật mang trên người ba kẻ này ra, đem về chuyển dâng đế hậu.
Trong những vật phẩm này có một chiếc yếm của phụ nữ, đường nét may thêu rất tinh xảo, không giống hàng trên phố, trong đó còn giấu một bức thư. Hoàng hậu mở ra đọc, kìm nén không nổi cơn giận dữ, tức khắc quát gọi tên một thị nữ: "Song Ngọc!"
Cô gái tên Song Ngọc kia vốn là nội nhân thân cận hầu hạ hoàng hậu, lúc này sắc mặt đã sớm tái mét, nhũn người quỳ rạp xuống, phủ phục dưới chân hoàng hậu khóc: "Nương nương tha mạng, nô tì không biết gì hết..."
"Thư này là do ngươi viết, còn hẹn giặc ngày nào giờ nào gặp mặt ở đâu." Hoàng hậu ném bức thư kia xuống trước mặt cô ả, lạnh nhạt nói: "Ngươi ngầm qua lại với hắn lâu rồi phải không? Không biết gì hết thật à?"
Song Ngọc liều mạng lắc đầu, đáp: "Nô tì thật sự không biết gì hết... Nô tì đáng chết, năm trước ngẫu nhiên đi ngang qua Sùng Chính Điện, chạm mặt Nhan Tú, nhất thời hồ đồ, bị hắn dụ dỗ... Nhưng nô tì quả thật không nghĩ được hôm nay hắn vì sao lại gây nên chuyện như thế... Nô tì thực sự không biết..."
"Ngươi đúng là đáng chết thật," Giọng điệu hoàng hậu lúc này dần có xu hướng hòa hoãn, nhưng lời nói ra thì tuyệt không mềm mỏng, "Dù cho ngươi không biết chuyện Nhan Tú mưu đồ phản nghịch thì tư thông với cấm vệ cũng đã là trọng tội, đáng chém theo cung quy."
Song Ngọc hoảng sợ, dập đầu với hoàng hậu chảy cả máu đầu, thỉnh cầu hoàng hậu khoan thứ. Hoàng hậu chỉ nghiêm nghị ngồi ngay ngắn, mắt nhìn thẳng ra phía trước, hoàn toàn không cụp xuống nhìn ả.
Trương mỹ nhân ngồi xem một bên cười khẽ: "Song Ngọc, hoàng hậu không dễ mềm lòng như quan gia đâu, dập đầu cũng vô dụng."
Câu này đã nhắc nhở Song Ngọc, ả vội vàng quay sang kim thượng, luôn miệng cầu xin ngài tha mạng. Kim thượng thấy ả khóc như mưa dập hoa lê, có phần không đành lòng, bèn bảo hoàng hậu: "Nể tình nó hầu hạ nàng đã nhiều năm, tạm thời tha cho nó lần này đi thôi."
Hoàng hậu không đáp, đứng dậy vào phòng trong, lát sau quay lại, đã đổi sang áo gấm hoa lệ, đội miện Cửu Long Tứ Phượng, trang điểm theo lối triều hội trang nghiêm, hạ bái kim thượng: "Nội nhân Song Ngọc tư thông với thị vệ, dâm loạn cung cấm, theo luật phải chém. Xin bệ hạ cho phép thần thiếp hành quyết Viên thị đúng cung quy."
Kim thượng nói: "Dẫu là vậy, song luật lệ chung quy là do con người định ra, cũng có thể di dịch biến báo. Song Ngọc vốn là người thận trọng, vào cung nhiều năm chưa từng nghe có tai tiếng gì, nay chỉ nhất thời hồ đồ mới phạm phải tội này. Không bằng đổi sang phạt trượng trên triều, thế đã đủ để khiển trách rồi."
Hoàng hậu xua tay nói không thể: "Như vậy sao thanh trừng được cung đình."
Kim thượng gượng nở nụ cười, đứng dậy đi đỡ bà, nỗ lực ôn tồn khuyên giải: "Hoàng hậu mời ngồi, việc này còn phải bàn bạc kỹ hơn..."
Hoàng hậu không để ngài chạm vào, hơi lui ra sau tránh đi, cúi người thưa: "Tội của Viên thị đã được minh xác, chẳng có gì oan khuất, mà nay biết bao cặp mắt còn đang trừng trừng, đều đã chứng kiến tường tận, nếu bệ hạ tha thứ cho nó, mở ra tiền lệ, về sau sẽ rất khó quản chế người trong lục cung. Mong bệ hạ lấy đại cục làm trọng, quả quyết dứt khoát, hạ lệnh ban chết."
Song Ngọc nghe đến "ban chết", càng thêm đau thương, lê gối vài bước kéo vạt áo kim thượng, run lẩy bẩy vừa khóc vừa khẩn cầu: "Bệ hạ làm ơn cứu nô tì..."
Kim thượng thở dài, lại mời hoàng hậu ngồi xuống, muốn từ từ bàn lại với bà. Hoàng hậu kiên trì đứng nghiêm trước mặt kim thượng, không ngồi xuống cũng chẳng cất lời.
Kim thượng không khỏi nổi nóng, chỉ vào Song Ngọc, lạnh lùng lườm hoàng hậu, nói: "Nó hầu hạ nàng ngần ấy năm, nàng nuôi con chó con mèo bấy lâu cũng phải có chút tình cảm chứ? Vì sao không chịu khoan dung với nó mà quyết tuyệt bậc này?"
Hoàng hậu thoáng khom lưng, nhấn rõ từng chữ: "Bệ hạ, chính bởi nó ở bên thần thiếp đã lâu mà còn gây ra chuyện như thế nên thần thiếp mới càng không thể tha thứ cho nó."
Kim thượng im lặng, hoàng hậu cũng không nói gì nữa, một ngồi một đứng, đôi bên cứ thế giằng co trong trầm mặc. Người ngoài đương nhiên không dám chen miệng vào, sau cùng, đến Song Ngọc cũng không dám khóc nữa, chỉ quỳ gối thừ người trước mặt kim thượng. Người trong điện bặt tiếng nín thinh như những con rối trên núi đèn màu sau tết Nguyên Tiêu, không hé răng cũng chẳng nhúc nhích.
Chẳng biết giằng co suốt một hay hai canh giờ, mãi đến khi bình minh ló rạng, nắng sớm từng bước rải ánh sáng vào trong đại điện, Hà Thừa Dụng mới khẽ khàng ghé lại bên cạnh kim thượng, khom người nhắc nhở: "Bệ hạ, đã đến giờ lâm triều."
Kim thượng chầm chậm đứng lên, cuối cùng thỏa hiệp với hoàng hậu: "Được thôi, Song Ngọc mặc nàng xử trí." Dứt lời phất tay áo đi ra, đến triều phục cũng chẳng buồn đổi, cứ thế đi sang điện xử lý chính sự.
Hoàng hậu xoay người cung tiễn, đợi đến lúc không còn trông thấy bóng dáng kim thượng nữa thì quay sang Nhậm Thủ Trung ra lệnh: "Kéo Song Ngọc xuống, xử chém ở Đông Viên."
2. Mạch ngầm
Ý chỉ cuối cùng hoàng hậu hạ trong ngày hôm ấy là lệnh Hoàng thành ty phụ trách bảo vệ quanh cung thành tiếp tục truy tìm Vương Thắng trốn chạy, lần này bà nhấn mạnh: "Nhất định phải bắt sống, cần giữ lại tội phạm lấy lời khai."
Trở lại Nghi Phượng Các phục mệnh, không tránh được bị mọi người trong gác vây lấy vặn hỏi, muốn ta kể lại chi tiết chuyện ban đêm. Đợi đến lúc rốt cuộc cũng không còn ai hỏi nữa thì đã là gần trưa, nhớ đến thương thế của Trương tiên sinh, ta không chờ đến giờ dâng bữa đã đi trước thăm thầy.
Vai thầy đã được băng bó cẩn thận, không nằm nghỉ mà đứng trước cửa sổ dõi mắt ra ngoài, chân mày như nhuốm nỗi ưu sầu. Thấy ta đi vào, thầy mới ngồi xuống trò chuyện cùng ta. Ta hỏi thăm thương thế thầy, thầy chỉ thản nhiên tóm lược bằng một câu "Không có gì đáng ngại", cũng không nhắc đến vụ việc ban đêm, nhàn tản hỏi ta tình hình gần đây, giữa chừng chốc chốc lại nhìn ra ngoài như chờ đợi điều gì.
Tán gẫu được một khắc, một nội thị hoàng môn vội vã tiến tới, ta ngờ ngợ nhận ra hắn là hoạn giả trực hầu trên triều đình. Hắn liếc ta, lại nhìn Trương tiên sinh tỏ ý dò hỏi, dáng vẻ hết sức trù trừ. Ta biết hắn có chuyện quan trọng cần nói với Trương tiên sinh, bèn tránh sang một góc xa xa, bấy giờ hắn mới khẽ giọng thì thầm với Trương tiên sinh.
Trương tiên sinh im lặng lắng nghe, không tỏ mừng giận, đợi nội thị dứt lời mới mở miệng hỏi: "Học sĩ bạo trực ở Hàn uyển mấy ngày nay là ai?"
Hàn uyển chính là Hàn lâm học sĩ viện. Quốc triều có chế độ hàn lâm học sĩ túc trực, cho phép học sĩ trực đêm ở Hàn uyển, phòng khi đột ngột nhận nhiệm vụ thảo chiếu, trực liền mấy hôm thì gọi là "bạo trực".
Nội thị báo tên người bạo trực mấy ngày nay: "Trương Phương Bình."
Trương tiên sinh gật đầu: "Đã biết."
Nội thị bái biệt lui đi. Trương tiên sinh trầm tư một chốc rồi ngước mắt nhìn ta, nói cho ta hay: "Quan gia kể với phụ thần (*) chuyện đêm qua, rơi lệ lã chã."
(*) Hạ thần phụ tá, chỉ tể tướng và các trọng thần.
Ta cả kinh, thoáng dậy lên dự cảm không lành: "Chuyện hoàng hậu làm trái thánh ý ạ?"
"Quan gia chưa nói gì đến việc này," Trương tiên sinh nói, "Ngài cảm thán chuyện đã căn dặn các nương tử đóng gác chớ ra mà Trương mỹ nhân lại xông thẳng lên hộ giá, khen ngợi Trương mỹ nhân hết lời."
"Phụ thần phản ứng thế nào?" Ta lập tức hỏi.
"Phần lớn phụ thần đều rơi lệ theo, chỉ có đồng bình chương sự Trần Chấp Trung là tuyệt không đổi sắc. Xu mật sứ Hạ Tủng thuận thế đề xướng tôn vinh Trương mỹ nhân, thăng phân vị, mà xu mật phó sứ Lương Thích thì lại nói việc cấp bách hiện giờ là mau chóng tra việc cấm vệ trực đêm mưu đồ làm phản, chuyện khen thưởng để sau hẵng bàn." Trương tiên sinh bình tĩnh thuật lại nội dung vừa mới nghe được cho ta, "Còn chuyện trong cung đêm qua, Hạ Tủng thỉnh cầu quan gia lệnh cho ngự sử và hoạn quan tra thẩm trong cung, tham tri chính sự Đinh Độ thì nói cấm vệ trực đêm có biến là chuyện liên quan đến xã tắc, khăng khăng xin giao cho Ngự sử đài thẩm lý, tra rõ toàn bộ vây cách chủ mưu tòng phạm trong ngoài hoàng cung. Hai người tranh luận từ sáng đến trưa, cuối cùng quan gia tiếp nhận ý kiến của Hạ Tủng."
Ngự sử và hoạn quan tra thẩm trong cung đa phần được thực hiện khi có cung nhân phạm tội, còn Ngự sử đài thẩm lý thì thường là những án kiện nan giải trọng đại mà Đại lý tự khó có thể phán quyết và thừa lệnh thi hành những buổi hành hình quan trọng. Trương tiên sinh nói xong, không tỏ thái độ về sự tình ngay, ta nghĩ thầy đang chờ ta nói ra quan điểm của mình, bèn dò xét lên tiếng: "Có vẻ như ý Hạ Tủng chỉ chủ mưu là người trong cung, Đinh Độ lại cho rằng chuyện liên quan đến ngoại thần, bởi vậy nên..."
Trương tiên sinh không nói gì, lẳng lặng nhìn ta một lúc lâu rồi nói: "Hoài Cát, cậu có thể làm chút chuyện cho ta được không?"
"Đương nhiên ạ." Ta đáp, không chút nghĩ ngợi.
"Trong gác các cậu sắp tới có tiểu hoàng môn nào thi hắc nghĩa không?" Thầy hỏi ta.
Hắc nghĩa vốn là một hạng mục của kỳ khoa cử, đòi hỏi sĩ tử thi viết luận về kinh thư. Quốc triều quy định, tiểu hoàng môn tròn mười hai tuổi nếu muốn thăng lên chức vị từ nội thị hoàng môn trở lên thì trước tiên phải thi hắc nghĩa.
Ta đáp có, Trương tiên sinh bèn đứng dậy, đi tới trước kệ sách, lấy một quyển "Hán thư" ra, lật tới một trang đưa cho ta: "Cậu tìm một tiểu hoàng môn hiểu chuyện, bảo nó mang mấy quyển kinh thư cùng cuốn "Hán thư" đi Hàn uyển tìm học sĩ Trương Phương Bình, thỉnh giáo y vài vấn đề trong kinh thư trước rồi lật tới trang này, tìm đại một từ hỏi tiếp."
Ta nhận lấy xem, thấy trang đó là một chương trong "Hán thư – Ngoại thích truyện", kể chuyện Phùng tiệp dư lấy thân cản gấu cho Hán Nguyên Đế: Nguyên Đế dẫn chúng tần giá đáo rào hổ xem đấu thú, giữa chừng có con gấu nhảy khỏi rào, leo qua chuồng muốn trèo lên điện, nhào về phía ngự tọa. Nhóm quý nhân Phó chiêu nghi đều kinh hãi la hét bỏ chạy, chỉ duy Phùng tiệp dư xông về phía trước, chặn đứng gấu. Sau khi võ sĩ tới giết gấu, Nguyên Đế hỏi tiệp dư: "Mãnh thú lại đây, người người đều hoảng sợ trốn tránh, vì sao nàng lại đi lên lấy thân cản gấu?" Phùng tiệp dư đáp: "Mãnh thú vồ người thì phải dùng người để ngăn cản. Thiếp sợ gấu xông tới ngự tọa, xâm phạm bệ hạ nên tình nguyện lấy thân cản gấu." Nguyên Đế cảm thán, từ đó về sau vô cùng kính trọng tiệp dư.
Thoạt đầu, ta không rõ vì sao Trương tiên sinh lại muốn lật trang này cho Trương học sĩ xem, chăm chú nhìn chương truyện suy ngẫm một hồi, để ý đến câu cuối cùng: "Mùa hạ sang năm, phong con trai Phùng tiệp dư làm Thành Tín vương, tôn tiệp dư làm chiêu nghi." Mới chợt vỡ lẽ, tuy Phùng tiệp dư liều mình hộ vua nhưng sau đó, hoàng đế lại chẳng khen thưởng gì bà, về sau bà được tôn làm chiêu nghi là bởi con trai được phong vương.
Vì vậy, ta cả gan hỏi Trương tiên sinh: "Tiên sinh lo lắng quan gia thăng vị đột ngột cho Trương mỹ nhân?"
Trương tiên sinh cười nhạt: "Nếu chỉ vậy thôi thì chẳng phải quá tệ, chỉ sợ có người mượn chuyện ướm lời... Nhưng tình hình còn lại còn chưa có tiến triển rõ ràng, hiện giờ chúng ta tạm thời làm việc này trước đã, kế đó quan sát rồi lại tính sau."
Ta gật đầu đồng ý. Trong lòng hơi hoảng hốt, rồi lại lờ mờ cảm thấy vui vẻ, vì Trương tiên sinh giao phó chuyện này cho ta chứng tỏ là tương đối tín nhiệm ta. Cuối cùng, ta không kìm được hỏi thầy: "Sao tiên sinh lại bằng lòng nói với tôi việc này?"
Thầy đáp: "Ngày đó, thấy cậu vội vội vàng vàng chạy tới nói cho ta biết chuyện Phạm cô nương, ta liền biết cậu rất quan tâm tới hoàng hậu."
Ta cúi đầu, hơi thẹn thùng, cất sách đi rồi cáo từ thầy. Trước khi đi vô tình phát hiện ra chiếc áo bào nhuốm máu đã được giặt sạch sẽ, lúc này đang phơi trong sân, nhận ra đó chính là tấm áo cũ thầy mặc rất nhiều lần, đêm qua bị giặc đâm rách, dính máu mà thầy vẫn không vứt, bèn tò mò hỏi thầy: "Tiên sinh, lúc mới vào cung tôi từng trông thấy thầy mặc áo này, thầy giữ đến tận giờ đã được bao năm rồi?"
"Mười ba năm năm tháng lẻ hai ngày." Thầy trả lời chuẩn xác lạ thường.
Ta kinh ngạc nhớ lấy con số chính xác này. Về rồi, giở niên phổ trong cung ra tra, tính ra thời điểm thầy nhận được tấm áo là ngày mười bảy tháng Chín năm Cảnh Hữu thứ nhất, đó là ngày kim thượng hạ chiếu lập hoàng hậu Tào thị, nói vậy, chiếc áo này là hoàng hậu đưa cho thầy lúc ban thưởng cung nhân nội thị theo lệ.
Hai ngày sau, binh vệ Hoàng thành ty bắt được Vương Thắng ở chòi gác tây bắc trong thành, mà quan chủ quản Hoàng thành ty, nhập nội phó đô tri Dương Hoài Mẫn lại bất chấp ý chỉ bắt giặc chớ giết của hoàng hậu, lệnh cho chúng binh vệ phanh thây Vương Thắng tại chỗ.
Bởi bốn tên giặc đều đã bỏ mình, không có chứng cứ, mấy tay ngự sử và hoạn quan nhận lệnh tra xét án này không tra ra được chủ mưu, bèn kết luận là tội của các hoạn quan chủ quản Hoàng thành ty phụ trách cấm vệ trực đêm trong cung. Chủ quản Hoàng thành ty vốn có hai vị, một là Dương Hoài Mẫn, hai là Dương Cảnh Tông. Đêm giặc xông vào, Dương Hoài Mẫn là người túc trực, tội vốn tăng một bậc, nhưng quái lạ ở chỗ, đám Dương Cảnh Tông và hoàng thành sứ, nhập nội phó đô tri Đặng Bảo Cát đều bị cách chức đuổi khỏi kinh còn Dương Hoài Mẫn thì tuy bị giáng chức nhưng vẫn được giữ lại trong cung, tiếp tục đảm nhiệm chức nội sứ (*).
(*) Cung đình thời cổ còn được gọi là "đại nội", "nội phủ", "nội đình" nên hoạn quan, thái giám hầu hạ trong cung cũng được gọi là "nội sự" hay "nội giám".
Các nương tử lén bàn tán việc này, quy kết nguyên nhân là do họ thờ chủ khác nhau, Dương Hoài Mẫn ngày thường hay theo đuôi phục tùng, cống hiến sức lực cho Trương mỹ nhân, còn Dương Cảnh Tông và Đặng Bảo Cát thì lại thân với trung cung. Có lần ta còn nghe thấy Vương Vụ Tư bẩm báo tin dò la được cho Miêu nương tử, nói Dương Hoài Mẫn vốn qua lại thân thiết với Hạ Tủng, Hạ Tủng đã sớm sắp xếp thỏa đáng cho y, dạy y ứng đối ra sao, lúc Cố ngự sử thẩm vấn hoàn toàn không bắt được một bằng chứng khác thường nào. Hạ Tủng lại nói đêm đó là Dương Hoài Mẫn phát hiện ra biến cố trước tiên, cần xử lý khoan hồng. Thành thử, tội của Dương Hoài Mẫn nhẹ hơn những người khác.
Đương nhiên, kết quả này cũng không thể thuyết phục được tất thảy đại thần. Ngự sử trung thừa Ngư Chu Tuần, thị ngự sử tri tạp sự (*) Trương Biện và ngự sử Hà Đàm đồng thời dâng tấu tố cáo Dương Hoài Mẫn, yêu cầu kim thượng xử phạt biếm chức, thẳng thắn khiển trách Dương Hoài Mẫn dung túng thuộc hạ giết giặc, mưu đồ diệt khẩu, tội nhẹ ấy là không làm tròn chức trách. Lại hặc Dương Hoài Mẫn khi chuyện xảy ra lại đang ngủ đằng trong, tội nặng ấy là bỏ bê cương vị, mà nay bọn Đặng Bảo Cát đã theo lệ ra ngoài nhậm chức, Dương Hoài Mẫn lại một mình được giữ trong kinh, "Hình phạt nặng nhẹ bị đảo ngược, trong ngoài nghe thấy đều lấy làm bất bình".
(*) Chức quan tổng quản công việc vụn vặt ở Ngự sử đài, do ngự sử có thâm niên đảm nhiệm.
Hà Đàm còn bóng gió với kim thượng chuyện Hạ Tủng bao che cho Dương Hoài Mẫn: "Lại e người từng kết giao ngầm nghĩ cách cứu viện, nói xằng Hoài Mẫn có công, không thể bãi miễn như nhau. Kính mong trừ bỏ ngoại lệ không chính đáng, đồng loạt biếm ra ngoài nhậm chức, thực thi công lý."
Cuối cùng, kim thượng tiếp nhận lời can gián, hàng Dương Hoài Mẫn xuống văn tư sứ (*), Hạ Châu thứ sử, cách chức điều khỏi kinh.
(*) Một chức võ quan thời Tống, đa phần không nhận trách nhiệm gì cụ thể, thường là chức suông trong lúc đợi điều chuyển của võ quan.
Hoàng hậu làm đúng như những gì đã hứa hẹn ban đầu, luận công ban thưởng cho các hoạn giả tham gia bắt giặc, hoặc thưởng tài vật hoặc thăng chức, đến ta cũng được thăng thành nội thị cao phẩm, điều này đối với một nội thị mười bảy tuổi mà nói là một ân ngộ khó đắc. Song, Trương tiên sinh vào nhà bắt giặc đầu tiên thì lại chậm chạp mãi chưa truyền ra kết luận ban thưởng. Ta lưu tâm hỏi thăm, đáp án nhận được chẳng ngờ lại là hoàng hậu không dám tự mình làm chủ mà hỏi ý kim thượng, kim thượng hờ hững nói: "Thăng hoạn giả lên chức vị trên cung phụng quan, cần phải bàn bạc với tể chấp."
Chắc hẳn kim thượng chẳng hứng thú gì với việc thảo luận chuyện này với tể chấp nên vẫn trì hoãn suốt từ đó đến giờ. Có điều, mối quan tâm của Trương tiên sinh hiện nay lại không phải chuyện này.
Kể từ khi thầy bị thương, mỗi ngày ta đều đi thăm thầy, thấy nơi thầy ở thường xuyên có nội thị ngự tiền ra vào, hẳn đều là để thông báo tin tức liên quan tới hoàng hậu cho thầy.
Chuyện "Hán thư" thầy giao phó ta đã sớm hoàn thành thỏa đáng. Tiểu hoàng môn ta sai đi làm nói, Trương Phương Bình quả nhiên nhìn chằm chằm trang kể về Phùng tiệp dư hồi lâu. Ta báo kết quả này cho Trương tiên sinh, thầy chỉ gật đầu, mấy ngày nay cũng không bảo ta làm thêm gì nữa.
Một buổi chiều nọ, ta lại đi thăm Trương tiên sinh, thấy thầy đi từ chỗ trú ra, không biết định đi đâu, dáng vẻ vội vã, thần sắc âu lo, rất khác trước đây.
Ta kinh ngạc gọi thầy, thầy gật đầu, song không có ý dừng lại. Chính lúc này có hoạn giả từ trong cung chạy tới, gọi thầy lại truyền khẩu dụ, quan gia triệu thầy vào thuật lại chi tiết chuyện bắt giặc cho ngự sử tra xét vụ án để luận công ban thưởng.
Trương tiên sinh ngừng chân, nói với hoạn giả truyền dụ: "Ý chỉ của quan gia Mậu Tắc không dám trái. Nhưng hiện giờ mặc thường phục thế này mà đi gặp ngự sử thì là cử chỉ thất lễ, mời tiên sinh về trước, cho phép ta vào trong thay y phục, chốc nữa sẽ tự tới."
Hoạn giả ngậm cười nhìn thầy, như đã có chuẩn bị từ trước: "Ngự sử đợi đã lâu, nếu không thấy tôi dẫn Trương tiên sinh về, chỉ e sẽ oán tôi thất trách. Tiên sinh cứ đi thay y phục đi, tôi sẽ chờ ở đây. Mong tiên sinh thông cảm, chớ để ngự sử chờ lâu."
Trương tiên sinh bất đắc dĩ bằng lòng, chuyển sang nháy mắt với ta, ra hiệu ta theo thầy, ta bèn theo lại. Vào đến phòng, thầy lập tức hạ giọng nói với ta: "Đại sự không ổn. Đồng tri gián viện (*) Vương Chí dâng sợ nói giặc có quan hệ với cung nhân gác hoàng hậu, cội nguồn cung loạn có lẽ là từ đó mà ra. Y xin kim thượng truy cứu việc này, e rằng muốn giật dây kim thượng hạ chiếu lệnh nhà ngục trui rèn, làm lung lay trung cung."
(*) Chức quan thứ phẩm trong Gián viện.
Ta cả kinh, không biết nói gì cho phải, cuối cùng chỉ bật ra được một câu hỏi: "Vương Chí là ai ạ?"
"Tay sai của Hạ Tủng, cũng có qua lại với Giả bà bà." Trương tiên sinh trả lời, hỏi ngược lại ta: "Cậu có nhận ra được thủ tướng (*) Trần Chấp Trung và ngự sử Hà Đàm không?"
(*) Ở đây dùng để chỉ tể tướng, ý là người chấp chưởng đầu não trung ương.
Ta gật đầu: "Từng trông thấy từ xa ở các buổi lễ trong cung ạ."
Trương tiên sinh nhanh chóng tìm một cuộn giấy đưa cho ta, dặn dò: "Kim thượng bí mật cho triệu Hạ Tủng, Vương Chí, hiện đang nghị sự ở Di Anh Các, nếu có gì bất trắc, hạ lệnh tỏa viện thảo chiếu cũng có khả năng. Đây là chiếu thư phế hậu ta sao lại sau khi kim thượng phế Quách hậu, cậu cầm lấy, đi tới Trung thư môn hạ đợi, hôm nay Hà ngự sử và Trần tướng công bàn bạc chuyện cấm vệ trực đêm hoàng thành ở đó, tầm gần xế chiều họ tất sẽ ra, đến lúc đó cậu chạy tới, giả bộ vấp ngã, làm rơi chiếu thư để mở trên mặt đất cho họ thấy. Họ có hỏi thì cậu trả lời là Hạ xu tướng (*) bảo cậu tìm đưa cho y."
(*) Vào thời Đường – Tống, đây là cách gọi người giữ chức xu mật sứ kiêm tể tướng.
Lần đầu tiên đối mặt với việc chế tạo lời nói dối liên quan đến chính trị, ta trợn mắt há hốc. Trương tiên sinh thấy thế lại như sinh lòng áy náy, vỗ vai ta nói, "Xin lỗi, nhờ làm chuyện như vậy... Nhưng nếu cậu nói thẳng chuyện hoàng hậu với họ thì đối với cậu hay hoàng hậu đều không tốt như nhau."
"Vậy, vậy vì sao phải nói, Hạ xu tướng..." Ta lắp bắp hỏi.
"Trần tướng công và Hà ngự sử đều không ưa thái độ làm người của Hạ Tủng." Trước khi thay y phục ra cửa, Trương tiên sinh chỉ đáp đúng câu này.
Ta theo lời hành sự, canh trước Trung thư môn hạ đợi được Trần Chấp Trung và Hà Đàm, lại không ngờ đi ra cùng họ còn có xu mật phó sứ Lương Thích, thành thử có hơi do dự, nhưng ngay sau đó lại nhớ ra Trương tiên sinh từng kể Lương Thích kiến nghị tạm hoãn chuyện tôn vinh Trương mỹ nhân, vả lại theo truyền thống của quốc triều, xu mật sứ và xu mật phó sứ thông thường đều bất hòa, bèn theo đúng kế hoạch chạy tới, cố tình làm bộ vấp ngã, chiếu thư trong tay tuột mất mở ra, quả nhiên gây được sự chú ý của họ.
Họ chậm rãi bước đến vây bên chiếu thư, cụp mắt xuống nhìn, đều tỏ ra kinh ngạc. Trần Chấp Trung lập tức hỏi ta: "Ngươi mang tờ công văn cũ này đi làm gì? Định đi đâu?"
Ta cúi đầu đáp: "Là Hạ xu tướng muốn kiểm tra, lệnh tôi tìm từ Sử quán (*) ra, chốc nữa đưa cho ông ấy."
(*) Cơ quan soạn sử thời xưa.
Ba người nhìn nhau, tạm thời cùng im lặng, mà khoảnh khắc khi họ trao đổi ánh mắt đã khiến ta cảm nhận được rằng ta không làm nhục sứ mệnh.
"Hiện giờ Hạ xu tướng đang ở đâu?" Sau nữa, Trần Chấp Trung hỏi.
Ta báo với ông: "Diện thánh ở Di Anh Các ạ."
Ta nghĩ câu này đã đầy đủ thông tin, bèn nhanh chóng đứng lên, nhặt lại công văn, vội vã chạy ra khỏi tầm mắt họ.
Sau đó, ta núp gần Di Anh Các, thấy Hạ Tủng, Vương Chí đi ra, lại như mong muốn thấy Trần Chấp Trung, Hà Đàm và Lương Thích đến cầu kiến kim thượng, lần lượt tiến vào.
Ta trở lại Nghi Phượng Các, song đến cùng vẫn ăn ngủ không yên, bèn một lần nữa tìm cớ ra ngoài. Lúc đi ngang qua Nhu Nghi Điện, chợt nghe Thu Hòa gọi ta từ phía sau: "Hoài Cát, muộn thế này rồi mà huynh định đi đâu?"
Ta dừng lại, ngoảnh đầu nhìn cô, cô vốn đang cười yêu kiều lại bị dọa cho hết hồn: "Làm sao thế? Sao sắc mặt huynh xấu vậy?"
Ta lưỡng lự, cuối cùng vẫn sơ lược kể lại cho cô nghe chuyện hôm nay, nhắc nhở cô nếu xảy ra chuyện gì lớn thì phải theo sát hầu hạ hoàng hậu.
Thu Hòa ngơ ngác, hồi lâu sau mới phản ứng lại, lệ rơi như châu rớt: "Sao lại có thể như thế..."
Ta muốn an ủi cô, lại cảm thấy không thốt lên nổi, một lúc sau mới nói: "Đừng khóc, để hoàng hậu nhìn thấy lại không hay. Cô trở về đi, tôi đi hỏi thăm tiếp xem. Có tướng công tiến gián, chuyện hẳn không đến mức hết đường vãn hồi."
Lại tới gần Di Anh Các, thấy bên trong vẫn đèn đuốc sáng trưng, chứng tỏ quân thần còn đang thảo luận chuyện hoàng hậu. Bèn đi đến chỗ Trương tiên sinh, đợi một hồi lâu mới thấy thầy trở về.
Nhác thấy ta, thầy hỏi ngay: "Cho họ nhìn thấy chưa?"
Ta gật đầu, thuật lại một lượt chuyện diễn ra. Nghe đến ba người vào Di Anh Các, thầy mới tựa như thở phào, dẫn ta vào ngồi chờ tin tức.
Thoạt tiên, chúng ta ngồi trơ ở đấy, im lặng không nói chuyện, lát sau, ta thử hỏi dò Trương tiên sinh: "Vì sao Hạ Tủng lại muốn làm lung lay trung cung?"
"Trước đây cậu từng nghe chuyện Hạ Tủng bao giờ chưa?" Thầy hỏi.
Ta đáp đúng sự thật: "Chỉ từng nghe nói đầu ông ta trị giá hai xu."
Nghe vậy, Trương tiên sinh không khỏi bật cười, ta cũng cười theo, bầu không khí nhờ thế mới thoải mái hơn phần nào.
Thì ra Hạ Tủng từng thống lĩnh quân đội chinh phạt phương tây, lúc mới tới biên thùy tràn ngập chí khí lắm, muốn nhanh chóng giết Nguyên Hạo diệt Hạ quốc, bèn dán cáo thị treo thưởng trên cửa ải: "Ai lấy được đầu Nguyên Hạo, thưởng năm trăm vạn xâu, phong tước Tây Bình vương." Nguyên Hạo nghe nói việc này, bèn sai người vào biên thành bán mành cói, giả bộ làm rơi, trên một mặt mành cói lại đính cáo thị của Nguyên Hạo. Người Tống trong thành mở ra xem, chỉ thấy trong đó viết: "Ai lấy được đầu Hạ Tủng, thưởng hai xu." Hạ Tủng biết được, vội vàng giấu cáo thị của Nguyên Hạo đi, tiếc rằng chuyện này đã sớm truyền khắp, biến thành trò cười cho người trong nước, trong cung cũng thường có người kể lại.
"Hạ Tủng viết bài từ Không đàm Lương Châu khúc, cũng chẳng tài hoa trác việt gì, lại còn hay đố kị người tài." Trương tiên sinh kể lại chi tiết nguyên do chuyện này, "Mấy năm trước, Phạm Trọng Yêm Phạm tướng công dẫn một nhóm hiền thần danh sĩ tiến hành cải cách tân chính, Hạ Tủng khi đó vốn đã được kim thượng bổ nhiệm làm xu mật sứ, nhưng gặp phải đài gián vạch tội, tố y nham hiểm gian giảo, trong chiến sự với Hạ thì hèn nhát cẩu thả, kim thượng bèn đổi ông ta đi trông coi Bác Châu. Những gián quan này đa số thuộc phái tân chính, Hạ Tủng ghi hận trong lòng, xui khiến nội thần Lam Nguyên Chấn dâng sớ gièm pha lên kim thượng, chỉ Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu, Dư Tĩnh, Doãn Thù kết bè kết đảng, dìu dắt lẫn nhau. Song kim thượng chẳng mấy để ý tới, ông ta bèn bày keo mới, hãm hại đại thần tân chính. Khi đó Quốc Tử Giám trực giảng (**) Thạch Giới viết thiên 'Khánh Lịch thánh đức tụng', gọi việc kim thượng đề bạt các đại thần tân chính kim thượng là 'vời chúng hiền', lại cho việc Hạ Tủng không có duyên với chức xu mật sứ là 'đuổi đại gian'. Do đó Hạ Tủng tất nhiên căm thù Thạch Giới, ông ta hãm hại đại thần tân chính chính là xuống tay từ Thạch Giới đầu tiên."
(**) Chức quan phụ trợ bác sĩ truyền thụ kinh học (bác sĩ ở đây chỉ người đạt học vị cấp bậc cao nhất, giống như tiến sĩ thời nay vậy).
"Thạch Giới?" Ta từng nghe đến cái tên này, có hiểu biết sơ sơ, "Nghe nói ông ấy qua lại thư từ với Phú Bật, viết nháp chiếu phế lập?"
Trương tiên sinh thở dài: "Tất nhiên là giả rồi. Khánh Lịch năm thứ tư, Hạ Tủng xúi một tỳ nữ tinh thông viết lách trong nhà bắt chước nét chữ của Thạch Giới, bóp méo thư Thạch Giới gửi Phú Bật, đổi 'noi gương Y, Chu' thành "noi gương Y, Hoắc". Y chỉ Y Doãn, Chu chỉ Chu Công, vốn đều là hiền thần phò tá thiên tử, nhưng bị ông ta thay đổi, Chu Công biến thành Hoắc Quang, đây chính là quyền thần từng phế lập quốc vương. Sau đó, ông ta còn làm giả một bản nháp chiếu thư phế đế, nói là Thạch Giới viết cho Phú Bật, cố ý truyền ra ngoài, cũng sai người tấu với kim thượng."
Điều này hiển nhiên là chuyện người làm vua kiêng kỵ nhất. Ta bắt đầu hiểu vì sao về sau kim thượng không còn ủng hộ đại thần tân chính như lúc mới đầu nữa.
"Thực ra kim thượng cũng không tin Phú Bật làm việc này, nhưng khó tránh khỏi để lại chút lấn cấn trong lòng." Trương tiên sinh nói tiếp, "Kể từ đó, không chỉ Phú Bật mà đến Phạm Trọng Yêm thấy thế cũng chẳng dám yên lòng trên triều, đều tự xin rời kinh ra ngoài nhậm chức. Thạch Giới bị giáng chức thành Bộc Châu thông phán (*), chưa đi nhậm chức đã qua đời. Không bao lâu sau, bọn Vương Củng Thần lại mượn việc Tiến tấu viện của Tô Thuấn Khâm để bỏ tù trui rèn, biếm một loạt hiền tuấn quán các (**) ủng hộ tân chính, cũng mượn việc này ảnh hưởng đến nhạc phụ Tô Thuấn Khâm, tể tướng Đỗ Diễn, khiến ông ấy bị bãi tướng. Hàn Kỳ dâng sớ lên tiếng cho Phú Bật cũng bị bãi chức xu mật phó sứ. Sau nữa, đến các gián quan Âu Dương Tu, Thái Tương, Tôn Phủ cũng bị người ta vin cớ, lần lượt điều ra ngoài, tân chính đến đó không thực hiện tiếp được nữa. Năm ngoái, Hạ Tủng rốt cuộc cũng được toại nguyện, trở về làm xu mật sứ."
(*) Một chức quan ở châu phủ, chưởng quản các việc vận chuyển lương thực, đất đai, thủy lợi và tố tụng, có trách nhiệm giám sát quan lại châu phủ.
(**) Cách gọi chung các cơ quan Chiêu văn quán, Sử quán, Tập hiền viện và Bí các, Long đồ các.
Nghe Trương tiên sinh kể lại chuyện xưa, ta mới hiểu được tường tận về Khánh Lịch tân chính. Trước chỉ cảm thấy các đại thần tân chính tài hoa xuất chúng, giỏi giang hơn người, dẫu con đường làm quan có chìm nổi khiến người ta phải thở dài tiếc nuối, song cũng chỉ là chút sầu não đơn thuần khi đọc văn thơ của họ, lại chẳng ngờ đằng sau bài từ tuyệt diệu ngâm gió vịnh trăng của những tài tử này cất giấu câu chuyện bè phái giao tranh tàn sát khốc liệt đến thế.
Nhưng ta vẫn chưa nhận ra được mấu chốt trong đó ngay: "Nhưng mà, Hạ Tủng chĩa mũi giáo vào trung cung thì liên quan gì đến chuyện này?"
"Cậu không nhìn ra à?" Trương tiên sinh chỉ điểm, "Trung cung rất tán đồng với các đại thần tân chính."
Ta lập tức nghĩ đến chuyện Âu Dương Tu, trong lòng tỉnh ngộ, có điều hãy còn nghi vấn: "Nhưng hoàng hậu thường ngày cũng đâu vọng ngôn nghị luận chính sự, Hạ Tủng ở bên ngoài sao biết được?"
"Cứ phải nghị luận mới có thể nhìn ra thái độ của người?" Trương tiên sinh nói, "Nhất cử nhất động của người đều bị kẻ khác chú ý, bình thường xem nhiều thiếp xuân của ai bao nhiêu lần đều sẽ nhanh chóng bị truyền ra ngoài cung."
Suy nghĩ một thoáng, Trương tiên sinh lại nói cho ta biết: "Người đọc thơ Tô Thuấn Khâm, bình từ Âu Dương Tu, thưởng chữ Thái Tương, nghe nói Phạm Trọng Yêm viết 'Nhạc Dương lâu ký' lập tức sai người tìm về cho mình xem... Huống hồ, tiểu thư nhà Đỗ tướng công Đỗ Diễn về sau trở thành phu nhân Tô Thuấn Khâm còn là bạn thân chốn khuê phòng của người khi chưa xuất giá."
3. Tâm nguyện
Liên hệ toàn bộ tiền căn hậu quả sự việc này, ta không khỏi cảm thán: "Vốn tưởng rằng hành động của Hạ Tủng chỉ là ngấm ngầm phụ trợ Trương mỹ nhân, giành lấy công ủng hộ, lại chẳng ngờ nguyên nhân trong đó phức tạp đến vậy."
"Phế lập trung cung là chuyện liên quan đến xã tắc, trước nay chưa từng chỉ là chuyện nhà đế vương..." Trương tiên sinh chầm chậm giở chiếu thư phế hậu ta trả lại thầy, hỏi ta: "Cậu có biết Quách hậu vì sao mà bị phế không?"
Ta đáp theo kết luận của người trong cung: "Bởi bà ấy tranh sủng với tần ngự."
Trương tiên sinh xua tay: "Xúc phạm long nhan do tranh sủng chỉ là giọt nước tràn ly. Theo lệ của quốc triều, nếu chuyện liên quan đến trung cung thì quyết sách của hoàng đế phải trải qua bàn bạc với tể chấp trước. Tể chấp mà không đồng ý thì hoàng đế rất khó tự ý chủ trương."
Đây là lần đầu tiên ta ý thức được rằng sự kiện phế hậu đã nghe quá nhiều lần này còn có bối cảnh sâu hơn: "Nói vậy, là Lữ tướng công..."
"Đúng thế, bà ấy đắc tội với tể tướng đương thời Lữ Di Giản." Trương tiên sinh kể lại chuyện cũ khi xưa, "Minh Đạo năm thứ hai, Chương Hiến thái hậu hoăng, sau mười một năm ròng rã bà buông rèm chấp chính, kim thượng mới được đích thân xử lý chính sự. Sau đó kim thượng thương nghị với Lữ Di Giản, muốn trục xuất toàn bộ bộ hạ của thái hậu, Lữ Di Giản cũng bày mưu cho ngài, đồng thời liệt kê danh sách những đại thần cần bãi miễn. Kim thượng về lại trong cung, nói việc này với Quách hoàng hậu, Quách hậu phản vấn ngài: 'Lẽ nào Di Giản thì không phò tá thái hậu? Chỉ có điều ông ta linh hoạt, giỏi ứng biến, biết phải cư xử thế trước cả thái hậu lẫn quan gia, thế nên mới chu toàn được vậy thôi.' Kim thượng bèn quyết định bãi miễn cả Lữ Di Giản. Hôm sau, Lữ Di Giảng nghe nội thần tuyên bố quan viên bị cách chức trên triều, đột nhiên nghe thấy tên mình cũng bị xướng lên, vô cùng kinh hãi, lại không biết nguyên nhân làm sao. Ông ta sẵn có qua lại với nhập nội đô tri Diêm Văn Ứng, nghe Diêm Văn Ứng giải đáp lý do, kể từ đó bất mãn với Quách hậu. Qua gần nửa năm, kim thượng khôi phục tướng vị cho ông ta. Sau nữa, kim thượng vì việc của Thượng mỹ nhân mà phàn nàn với ông ta hoàng hậu nặng tâm đố kị, ông ta và Diêm Văn Ứng thuận thế nói vài câu lửa cháy đổ thêm dầu, Quách hậu liền bị phế... Bây giờ tình huống của Hạ Tủng cũng tương tự Lữ Di Giản, có một trung cung tán đồng với các đại thần tân chính bên cạnh quân vương, ông ta khó mà không lo lắng cho được, huống hồ ông ta còn câu kết với Dương Hoài Mẫn, có khi Dương Hoài Mẫn từng bịa đặt gì đó về trung cung trước mặt ông ta cũng chưa biết chừng... Mặt khác, nghe đứa bé phục vụ trong Xu mật viện nói, sau hôm dẹp giặc, quan viên Xu mật viện nhắc tới việc hoàng hậu đêm trước gặp nguy không loạn, chỉ huy bình tĩnh, mọi người đều có ý khen ngợi, chỉ duy Hạ Tủng cười ruồi, nói: 'Trung cung có phong độ buông rèm của Chương Hiến quá nhỉ.'"
Ta nghe ra ngụ ý câu này: "Ông ta chẳng những sợ hoàng hậu góp lời tham gia vào chính sự bây giờ mà còn sợ trong tương lai, bà sẽ học Chương Hiến buông rèm chấp chính, trọng dụng đại thần tân chính?"
Trương tiên sinh liếc ta, nói: "Cẩn thận cái mồm đấy... Quan gia bây giờ thánh thể an khang."
Ta cả kinh, vội cúi đầu nín bặt.
Trương tiên sinh lại bảo: "Lời cậu vừa nói, rằng Hạ Tủng có ý âm thầm trợ giúp Trương mỹ nhân, đúng là cũng có nguyên nhân này. Trương mỹ nhân lôi kéo Hạ Tủng và Vương Chí thông qua Giả bà bà, biếu tặng họ rất nhiều thứ, mà bản tính hai người Hạ, Vương thì tham lam, còn kiêng dè trung cung, bởi vậy nên hai phe ăn rơ bắt mối với nhau."
Ta hồi tưởng lại sự kiện đã qua, càng nghĩ càng thấy kinh hãi: "Sau khi dẹp giặc, Hạ Tủng kiên quyết phản đối để Ngự sử đài thẩm lý án này bên ngoài, mà Dương Hoài Mẫn thì lại giết tên giặc cuối cùng diệt khẩu... Cũng có thể, ba tên bị giết trước vào đêm hôm đó cũng là do ông ta bày mưu... Lẽ nào sự kiện này căn bản là một tay Hạ Tủng một tay trù tính?"
"Ông ta đúng là có động cơ này." Trương tiên sinh nói, "Thậm chí con bé thị nữ trong gác hoàng hậu cũng có thể là ông ta kêu giặc đi dụ dỗ để có lý do xử án làm lung lay trung cung... Theo ta thấy, khi đó hoàng hậu đã ý thức được là bị người hãm hại nên mới khăng khăng muốn giết Song Ngọc, bằng không, nữ tử có thể dễ dàng bị dụ dỗ ý chí vốn bạc nhược, dưới thủ đoạn trui rèn thì lời khai gì mà chẳng nói ra được?"
"Thì ra là thế..." Nghi vấn đã có giải thích hợp lý, nhờ đó ta mới rút ra được chút đầu mối từ vụ án rối loạn này.
Trương tiên sinh rầu rầu thở dài, lại nói: "Nhưng đây cũng chỉ là phán đoán của ta mà thôi, khổ ở chỗ chẳng có chứng cớ mà trình lên quan gia."
"Kim thượng thánh minh, chuyện sửa án cho Âu Dương Tu ai ai cũng nhìn rõ được cả, chắc chắn sẽ không xử oan hoàng hậu, vả lại, còn có nhóm Trần tướng công lên tiếng cho trung cung nữa..." Ta muốn xua bớt phiền muộn cho Trương tiên sinh, nhưng nhắc tới Trần Chấp Trung, lại bỗng nảy ra một thắc mắc, "Cơ mà, tại sao tiên sinh lại cho rằng Trần tướng công chắc chắn sẽ lên tiếng cho hoàng hậu? Theo tôi được biết, ông ấy cũng không thuộc phái tân chính."
"Đương nhiên, ông ấy phản đối tân chính." Trương tiên sinh đáp, "Tuy nhiên, ông ấy còn ghét Hạ Tủng hơn."
Thầy tiếp tục giải thích thắc mắc cho ta: "Lúc Hạ Tủng coi giữ Tây cương, kim thượng bổ nhiệm Trần Chấp Trung làm kinh lược an phủ chiêu thảo sứ (*), mà tư tưởng của Trần Chấp Trung và Hạ Tủng lại không hợp nhau, sau cùng như nước với lửa, hai bên đều tự dâng tấu lên triều đình xin từ chức. Trước đây kim thượng triệu Hạ Tủng về vốn là định phong làm tể tướng, ngang hàng với Trần Chấp Trung, nhưng chúng gián quan và ngự sử đều nói hai người họ vốn có hiềm khích xưa nay, không thể cho làm cộng sự, bấy giờ mới chuyển ông ta sang làm xu mật sứ. Thế nên, Hạ Tủng mà muốn thay trung cung, Trần Chấp Trung ắt sẽ không ngồi yên bỏ mặc."
(*) Chức kinh lược an phủ sứ (tổng quản lý quân dân) kiêm chiêu thảo sứ (trấn áp bạo loạn và chiêu hàng, đánh dẹp quân phản loạn).
Ta cũng nghĩ đến ngay, Trần Chấp Trung tuy phản đối tân chính nhưng trước nay vẫn luôn thanh liêm tự trọng, ông không vừa mắt Hạ Tủng cũng là điều dễ hiểu. Trước đây còn từng nghe kim thượng khen với công chúa là Trần Chấp Trung trung thành, không mượn việc công làm việc tư, kể rằng con rể ông xin ông kiếm cho chức quan, ông trả lời: "Chức quan là của quốc gia, không phải đồ trong lồng trong tráp nơi buồng ngủ, sao có thể tùy ý cho con rể mình!" Kim thượng rất tán thưởng chuyện ấy, bởi vậy nên tuy gián quan nhiều lần góp lời nói Trần Chấp Trung văn dốt võ nát, không có tài làm tể tướng, nhưng kim thượng vẫn kiên trì cho ông tướng vị, ngược lại, nói với chúng thần rằng: "Chấp Trung sẽ không lừa dối trẫm." Nếu ông tiến gián, kim thượng tất sẽ suy xét cẩn trọng.
Liên tưởng tới Hà Đàm, ta thuận thế truy vấn Trương tiên sinh: "Vậy Hà ngự sử thì sao ạ? Y thì có va chạm gì với Hạ Tủng?"
"Y thì không phải là có ân oán cá nhân gì với Hạ Tủng, mà là tính vốn chính trực dám nói, lại từng biện giải thay Thạch Giới." Trương tiên sinh lại kể sang chuyện Hà Đàm: "Năm ngoái, Hạ Tủng muốn tiến một bước mưa hại Phú Bật, bèn tấu lời gièm pha, Thạch Giới khi ấy còn chưa chết thật mà nghe lời Phú Bật chỉ điểm giả chết, âm thầm đi Khiết Đan âm mưu khởi binh, Phú Bật chính là nội ứng, sau đó còn kiến nghị mở quan tài Thạch Giới nghiệm chứng. Lúc đó đài gián cũng không dám nói gì thêm, còn Hà Đàm thì cực lực biện giải thay Thạch Giới trước kim thượng, cũng chỉ trích Hạ Tủng dụng tâm hiểm ác... Với cả, lần này xem y đánh giá việc Dương Hoài Mẫn, ta nghĩ lòng y như gương sáng, nhất định biết phải quấy trong này, cho nên mới dám gửi gắm hi vọng vào y."
"Còn Trương học sĩ nữa..." Ta hỏi lại.
Trương tiên sinh mỉm cười: "Năm đó cậu làm học trò ta cũng không thấy siêng năng học hỏi như bây giờ." Thấy ta xấu hổ, thầy không đùa thêm nữa, tiếp tục giải thích: "Năm ấy, ban đầu Trương Phương Bình cũng tán thành tiến hành tân chính, chỉ là tham dự không sâu nên mới toàn thân trở ra. Y cũng là người ủng hộ trung cung tiềm ẩn, nếu kim thượng quyết định tỏa viện thảo chiếu, bất kể là phế lập trung cung hay tôn vinh Trương mỹ nhân, y tất đều sẽ tiến gián."
Lại một lần nữa được thụ giáo Trương tiên sinh sau rất nhiều năm, ta nghe mà gật đầu lia lịa, nhịn không được hỏi tiếp: "Lương Thích thì sao ạ? Sao y cũng không đồng tình với nghị quyết của Hạ Tủng?"
Trương tiên sinh không trực tiếp đáp ngay mà hỏi ngược lại ta: "Ta hỏi cậu, trước đó ta không hề dặn cậu cho cả Lương Thích xem chiếu thư, vì sao lúc y ở đấy cậu cũng mở chiếu thư ra?"
Ta thuật lại suy nghĩ khi ấy cho thầy nghe: "Tôi nghe người ta nói, trước nay trong quốc triều, xu mật sứ và xu mật phó sứ thường không hòa hợp, chẳng hạn như Khấu Chuẩn và Vương Tư Tông hay Vương Khâm Nhược và Mã Tri Tiết triều Chân Tông vậy, bây giờ hẳn cũng..."
Trương tiên sinh gật đầu, nói: "Cậu đã biết rồi thì cần gì phải hỏi ta?"
Ta đầu tiên là sửng sốt, ngay sau đó cùng thầy nhìn nhau cười. Hoàng đế quốc triều luôn chú trọng cân bằng quyền lợi, đề phòng tể chấp lưỡng phủ chuyên quyền, thông thường, chức vị thứ yếu trong lưỡng phủ sẽ không để bè cách tể chấp đảm nhiệm, bởi vậy nên tể tướng đồng bình chương sự và phó tướng tham tri chính sự, xu mật sứ và xu mật phó sứ thường thuộc hai phái khác nhau trong triều.
Kết quả cuối cùng của đêm nay hoàn toàn không ảnh hưởng tới tâm trạng tốt đẹp của hai ta trong khoảnh khắc này. Lát sau, có nội thị từ Di Anh Các tới, thông báo với Trương tiên sinh: "Trần tướng công, Lương xu mật và Hà ngự sử vừa mới rời khỏi Di Anh Các, trời đã khuya, cửa cung đã đóng, không tiện xuất cung nên đêm nay ở tại Hàn uyển. Mời Trương tiên sinh ghi lại vào sổ sách Nội Đông Môn ty."
Trương tiên sinh đồng ý, rồi hỏi một câu làm như bâng quơ: "Họ đi Hàn uyển là cần tỏa viện à?"
Nội thị đáp: "Không phải, chỉ là qua đêm ở Hàn uyển mà thôi, cũng không thảo chiếu."
Sáng sớm hôm sau, Thu Hòa tới tìm ta, ngẩn ngơ ưu sầu, hai mắt hãy còn vương dấu lệ, nhưng khóe miệng lại chúm chím rộ cười.
"Hoài Cát, vừa rồi tôi đến Phúc Ninh Điện cầu kiến quan gia..." Cô nói, "Ngài nói với tôi, thực ra ngài cũng chưa từng nghĩ đến chuyện thay trung cung."
Nhận được đáp án minh xác này, ta tất nhiên là mừng rỡ, song chú ý tới vẻ mặt lạ lùng của Thu Hòa, cảm thấy hoài nghi sâu sắc cách cô thăm dò được lời thật của quan gia, bèn hỏi cô: "Cô hỏi ngài như thế nào? Sao ngài lại thẳng thắn nói như vậy?"
Thu Hòa gắng duy trì nụ cười, chậm rãi nói cho ta biết: "Tôi nhắc tới lời chấp thuận năm đó với ngài, xin ngài thực hiện nguyện vọng của tôi. Ngài hỏi là cái gì, tôi nói, nguyện vọng của tôi chính là nhìn hoàng hậu làm bạn bên quan gia dài lâu."
"Ôi..." Ta khó mà hình dung được tâm trạng lúc này. Tuy hoàn toàn có thể lý giải thiện ý của cô, cũng cho rằng cô đã có một lựa chọn thỏa đáng, song vẫn không khỏi tiếc hận thay cô, "Nguyện vọng của cô thì sao? Cô cứ thế từ bỏ nguyện vọng chân chính của mình như vậy?"
Cô lắc đầu, rầu rĩ: "Nói sau đi... Để tôi nghĩ đã, đừng hỏi nữa..."
Cô xoay người đi ra ngoài, bước chân nhẹ bẫng, dáng vẻ mất hồn mất vía. Đi tới cạnh cửa, như nhớ tới điều gì, lại quay đầu lại, nói giọng lưỡng lự: "Sau đó, quan gia bảo tôi chuyển cáo Trương tiên sinh một câu, tôi không biết có nên chuyển không nữa."
"Ồ, là gì thế?"
"Ngài nói: Gửi lời tới Trương tiên sinh, bôn ba mấy ngày nay, vất vả rồi." Thu Hòa thuật lại, bổ sung thêm: "Lúc ngài nói câu này, vẻ mặt rất bình thản, không giống như đang tức giận, nhưng cũng không có ý cười."
Hiện giờ, rốt cuộc ta cũng hiểu rõ vì sao kim thượng không thích Trương tiên sinh. Do dự mãi, cuối cùng vẫn thay mặt Thu Hòa chuyển cáo câu này cho thầy. Mà Trương tiên sinh thì lại rất bình tĩnh, không hề có vẻ sợ hãi của người bình thường khi nghe quân vương cảnh cáo, chỉ thong dong đáp lại ba chữ: "Tạ quan gia."
Thấy ta ngạc nhiên, thầy khẽ nhếch miệng: "Có phải cảm thấy mặt ta rất dày, nghe thế mà không đi quỳ lạy tạ tội không?"
Ta khó mà trả lời được, chỉ xua tay. Trong bụng rất ư bội phục thầy còn có thể trấn tĩnh được vậy, nếu đổi lại là người khác, nghe kim thượng bảo thế, há còn dám yên tâm ở lại cung?
Thầy yên lặng nhìn ta hồi lâu, thình lình hỏi ta một câu như chẳng liên quan: "Quách hậu chết như thế nào, cậu có biết không?"
"Bệnh chết." Ta đáp, ngẫm nghĩ rồi lại bổ sung một tin đồn từng nghe trước đây: "Cũng nghe nói là bị Diêm Văn Ứng hạ độc chết."
Trương tiên sinh lắc đầu: "Bà ấy bị chôn sống."
Đây hẳn là chuyện làm ta khiếp sợ nhất trong số những gì nghe được mấy ngày qua, nhất thời không mảy may phản ứng được gì, chỉ quên sạch lễ nghi sững sờ nhìn Trương tiên sinh trân trân.
"Đối với kim thượng, phế hậu vốn xuất phát từ cơn giận dữ nhất thời, sau đó ngài cũng từng hối hận." Trương tiên sinh nói với ta, "Có một lần, ngài dạo chơi Hậu uyển, trông thấy cỗ kiệu Quách hậu từng dùng, nhất thời có ý nhớ nhung người cũ, cảm thấy sầu não, bèn điền một bài từ, sai tiểu hoàng môn đến cung Dao Hoa Quách hậu ở, ban từ cho bà. Quách hậu theo vần đáp lại, lời lẽ vô cùng đau thương. Kim thượng xem mà buồn bã, lại phái người đi, hứa hẹn sẽ triệu bà hồi cung. Lữ Di Giản và Diêm Văn Ứng nghe vậy đều rất sợ hãi, lo rằng Quách hậu sẽ trả thù. Mà lúc ấy, Quách Hậu ngẫu nhiên bị cảm lạnh, Diêm Văn Ứng bèn dẫn thái y tới khám, không biết làm sao mà bệnh càng chữa càng nặng. Không được mấy ngày, Diêm Văn Ứng tuyên bố thuốc và châm cứu không hữu hiệu, Tịnh phi bệnh chết."
Những điều này ta đã được nghe người ta kể từ trước, bèn hỏi Trương tiên sinh: "Không phải là Diêm Văn Ứng hạ độc vào thuốc hại chết như người trong cung đồn ạ?"
Trương tiên sinh đáp: "Có hạ độc, nhưng là độc mạn tính, chỉ làm bệnh tình Quách hậu nặng thêm, trong một khoảng thời gian ngắn sẽ không chết ngay. Có lẽ hắn cảm thấy nếu hạ thuốc mạnh độc chết, bệnh trạng sẽ quá rõ ràng. Khi đó kim thượng làm lễ trai giới ở ngoại thành phía nam, sắp trở về. Diêm Văn Ứng sợ ngài về rồi sẽ tới thăm Quách hậu, bèn cưỡng ép khâm liệm bỏ bà vào quan tài trong tình huống Quách hậu còn chưa tắt thở."
Ta tưởng tượng cảm nhận của Quách hậu khi đó, không rét mà run, chuyển sang hỏi thầy: "Sao tiên sinh biết việc này?"
Trương tiên sinh trả lời: "Khi đó ta làm việc ở Ngự dược viện, có một hôm phụng mệnh đi đưa thuốc cho Quách hậu, đến nơi, thấy trong sân bày quan tài, đám cung nhân nội thị thì đang khóc lóc trước linh cữu. Diêm Văn Ứng lau nước mắt đi qua nói với ta, đêm qua Quách hậu đã qua đời. Thấy ta phân vân, hắn liền sai người mở quan tài cho ta nghiệm xét. Đương nhiên, lúc này Quách Hậu đã được liệm xong, tư thế như đang ngủ yên bình thường, nhưng lại nhíu mày nhăn trán như thể chịu không xiết đau đớn. Ánh mắt ta vô tình lướt qua nắp quan tài họ nhấc lên, trông thấy bên trên có mấy vết móng tay... Ta nhất thời sinh nghi, bèn mượn cớ thuốc thang quý giá đã đưa đến, không tiện mang trở về, không bằng bỏ vào quan tài chôn cùng, sau đó nhân cơ hội đặt thuốc thoáng vén ống tay áo Quách hậu lên, phát hiện ra ngón tay bà ứ máu tím bầm, da móng tay hư hại, nghĩ hẳn là cào trầy trong lúc ra sức giãy giụa bên trong..."
"Đừng nói nữa." Trong lòng khó có thể chấp nhận được thảm trạng khi ấy, ta không nhịn được ngắt thẳng lời Trương tiên sinh.
Trương tiên sinh lập tức lặng thinh. Một chốc sau, ta hỏi lại: "Tiên sinh đã xem ngón tay của Quách hậu sau khi chết mà về sau lại không bị Diêm Văn Ứng hãm hại ạ?"
"Ta đoán hắn đúng là có ý định ấy. Có điều, rất nhanh sau đó hắn tự thân khó bảo toàn, không rảnh xử trí ta." Trương tiên sinh đáp, "Tuy hắn nói Quách hậu chết bệnh nhưng trong cung trong triều ai cũng nghi ngờ, rồi rộ lên tin đồn hắn hạ độc. Có gián quan xin kim thượng nghiệm xét trạng huống sinh hoạt hằng ngày của Quách hậu, điều tra việc này, nhưng kim thượng tuy bi thương song lại không đồng ý lời tấu xin của gián quan, chỉ phân phó mai táng Quách hậu theo lễ nghi hoàng hậu. Diêm Văn Ứng từng lớn tiếng quát mắng y quan trong lúc kim thượng cử hành tế bái ở thái miếu trước khi trai giới, gián quan thấy kim thượng không muốn truy tra nguyên nhân cái chết của Quách hậu, bèn mượn chuyện đó vạch tội hắn. Vì vậy, kim thượng điều Diêm Văn Ứng ra khỏi kinh. Sau đó không lâu, Diêm Văn Ứng chết ở Lĩnh Nam."
"Thế thầy có nói lại việc này với quan gia không?" Ta hỏi.
"Không. Ngài đã không muốn truy cứu thì hà tất ta phải nhiều chuyện. Ngài tự có nguyên nhân của mình, chúng ta cũng không cần phải đi phỏng đoán thánh ý nữa." Trương tiên sinh đáp, lại dời mắt về phía trung cung, ánh mắt nghiêm cẩn, "Nhưng kể từ đó, hễ chạm tới bức chiếu thư phế hậu này, ta đều sẽ nhắc nhở bản thân, tuyệt đối không thể để chuyện này xảy ra với hoàng hậu ngày nay."
"Cho nên," Một lần nữa nhìn sang ta, thầy bình thản nói, "Chịu chút lạnh nhạt có tính là gì. Miễn là ta còn ở trong cung, còn một hơi thở, ta sẽ làm chuyện ta cần làm."
Ta rất muốn hỏi thầy, nếu thật sự vì vậy mà làm kim thượng tức giận thì chẳng phải sẽ có nguy cơ bị trục xuất khỏi cung sao? Nhưng cuối cùng vẫn không hỏi. Lại nghĩ, nhiều năm như vậy, kim thượng mặc dù không thích thầy nhưng đồng thời vẫn luôn khoan dung nhẫn nhịn, chứng tỏ giữa họ hẳn là có một sự ăn ý nào đó.
4. Lấy bỏ
Kim thượng không phế hậu, tất cả là nhờ có Trần Chấp Trung, Hà Đàm, Lương Thích can gián, ấy là kiến giải được lưu truyền sau đó.
Nghe nói, đêm ấy quân thần bàn luận tỉ mỉ về chuyện trong gác hoàng hậu, Hà Đàm khuyên can: "Trung cung nhân ái thông tuệ, trong ngoài đều kính phục. Lời rằng cung loạn bắt nguồn từ gác hoàng hậu, cần trui rèn xét xử trung cung, là mưu kế của kẻ gian, có ý đồ hãm hại trung cung, toan tính không an phận. Bệ hạ không thể không suy xét kỹ càng."
Kim thượng hỏi ý kiến Trần Chấp Trung, Trần tướng công cũng nói không thể thẩm vấn tra xét trung cung, lập luận còn rất đanh thép. Kim thượng hỏi đi hỏi lại làm Lương Thích đứng một bên không kìm được nói thẳng: "Bệ hạ phế hậu một lần là đủ rồi, há lại có thể thêm lần nữa?"
Giọng điệu y sắc bén, tiếng truyền rõ khắp trong ngoài Di Anh Các, người nghe đều biến sắc.
Kim thượng im lặng, sau đó gác chuyện xét xử lại không đề cập tới nữa. Mọi người thấy ngài tiếp nhận lời can gián, bấy giờ mới xin cáo lui. Kim thượng chỉ giữ lại Lương Thích, cam kết riêng với y: "Trẫm chỉ muốn tăng thêm lễ phi cho Trương mỹ nhân, vốn không có ý khác, khanh có thể an tâm."
Đêm đó ba người đi Hàn uyển, gặp được học sĩ bạo trực Trương Phương Bình, thuật lại chuyện này rồi đề cập tới câu "tăng thêm lễ phi" của kim thượng, Trương Phương Bình lập tức nói không được, nỗ lực khuyên Trần Chấp Trung: "Phùng tiệp dư triều Hán lấy thân cản mãnh thú cũng đâu có thấy Nguyên Đế bởi vậy mà tôn vinh bà. Huống hồ hoàng hậu có công mà lại tôn vinh tần ngự, xưa nay nào có nhẽ ấy. Nếu tướng công đồng ý thăng Trương mỹ nhân lên làm phi, tương lai người trong thiên hạ bàn đến chuyện này ắt sẽ quy hết tội lỗi cho tướng công."
Trong lòng Trần Chấp Trung cũng cho là như thế. Sau đó kim thượng nhắc lại về việc tôn vinh Trương mỹ nhân, ông chỉ im lặng không đáp.
Bởi thế nên trong tháng này, trong cung không hề nghe thấy tin tức Trương mỹ nhân tấn vị, song ý chỉ về Trương tiên sinh thì rốt cuộc cũng hạ xuống: "Nội tây đầu cung phụng quan, chủ quản Nội Đông Môn Trương Mậu Tắc lên chức lĩnh ngự dược viện."
Lĩnh ngự dược viện, đối với hoạn quan mà nói, là một chức vị rất quan trọng và cao quý.
Ngự dược viện là phòng thuốc ngự dụng trong cung, là ty cục quan viên trọng yếu nhất cung đình, phụ trách tra cứu y dược sách thuốc, phối chế thuốc men và quản lý dược vật tiến vua. Thuốc thang hoàng đế sử dụng đều do Ngự dược viện điều chế dâng lên, trách nhiệm to lớn, bởi vậy nên hoạn quan đảm nhiệm chức lĩnh ngự dược viên đều không phải nhân vật tầm thường, triều đình quy định, nội thần vào cung từ ba mươi năm trở lên, trong vòng mười năm không lên chức đồng thời có nhiều công trạng mới có thể đắc cử.
Hơn nữa, cái quan chủ quản giữ chức lĩnh ngự dược viện quản lý không hề chỉ là chuyện y dược mà còn kiêm nhiệm vụ tùy tùng phụ giúp hoàng đế khi ra ngoài cử hành lễ nghi, khảo thí cử nhân, truyền tuyên chiếu lệnh và phụng mệnh đi sứ làm nhiệm vụ giám sát. Mặt khác, còn có thể hầu hạ bên cạnh hoặc trong góc điện lúc hoàng đế lên triều, tùy thời cung hoàng đế triệu hoán.
Nội thần đảm nhiệm chức này được coi là thân tín thân cận của hoàng đế, công việc này cũng cung cấp đầy đủ cho họ cơ hội thăng tiến lên cao hơn. Rất nhiều áp ban, đô tri, thậm chí là lưỡng tỉnh đô đô tri đều từng đảm nhiệm chức vụ này.
Bởi vậy nên ta rất bất ngờ với lần thăng chức này của Trương tiên sinh, dẫu cho thầy phù hợp với cả ba điều kiện đắc cử chức quan chủ quản ngự dược viện. Tự mình suy đoán, e rằng đây cũng chẳng phải chủ ý của kim thượng, hẳn là quyết định của Trần Chấp Trung hoặc mấy người Lương Thích. Song, cũng chỉ là suy đoán mà thôi.
Tuy nhiên, tin lên chức nằm ngoài dự đoán của mọi người nhất lại đến từ Thu Hòa. Sau khi kim thượng và trung cung bàn bạc đã lệnh cho ty sức Cố Thải Nhi tạm thời chấp chưởng Ngự phục cục, tiếp quản công việc của Sở thượng phục hiện đang bệnh tật quấn thân, còn Thu Hòa thì được thăng lên làm ty sức, trở thành sơ đầu phu nhân tân nhậm kế nhiệm Cố Thải Nhi.
"Chuyện này là quyết định của quan gia và cô ngày đó, đúng không?" Ta hỏi Thu Hòa.
Đương nhiên cô biết "ngày đó" là ngày nào, ảm đạm gật đầu.
Như vậy, ngày xuất cung của cô càng trở nên xa xôi không ngày hẹn ước. Ta thầm thở dài, thật sự tiếc nuối cho cô và Thôi Bạch, "Cô có vui lòng không?"
Cô ngước lên nhìn ta, hai mắt trống rỗng: "Tôi cũng không nói rõ được... Ngày đó, tôi lấy nguyện vọng ra giá, cầu ngài để hoàng hậu làm bạn lâu dài bên mình, cuối cùng ngài nói như vậy, xem như là đáp ứng rồi đi... Sau đó, ngài thở dài, bất đắc dĩ cười, nói: 'Sao đến ngươi cũng bôn tẩu vì nàng thế? Quanh ta đã sẵn chỉ toàn người của nàng.' Tôi cúi đầu không dám tiếp lời, ngài còn nói: 'Trước đây mỗi lần ta xuất hành, bên trái là Dương Cảnh Tông, bên phải là Đặng Bảo Cát, đi chưa được mấy bước, trước mặt lại thấp thoáng bóng dáng Trương Mậu Tắc... Hễ ta làm việc gì, bất kể lớn nhỏ, nàng đều biết... Ta bị nàng vây hãm trong đây rồi.'"
Ta bị nàng vây hãm trong đây rồi? Ta hơi trợn mắt – Câu này nghe rất quen tai.
"'Ngươi cũng là người của nàng à?' Quan gia hỏi tôi." Thu Hòa kể tiếp, "Ngài nói chuyện với tôi hòa nhã đến thế, giọng điệu dịu dàng như gió tháng Tư, chẳng biết tại sao mà nghe vào lòng tôi lại rất khó chịu... Thấy tôi không đáp, ngài còn nói: 'Ngươi có thể đến bên ta không? Cho ta khỏi nên nỗi quá đỗi cô đơn.'"
"Gì cơ?" Ta nhíu mày hỏi, "Ngài nói cô đơn?"
"Nếu tôi không nghe lầm thì ngài nói như vậy." Thu Hòa dường như hơi hoang mang, nhưng giọng lại chắc nịch, "Khi đó tôi cũng ngờ rằng mình nghe lầm, ngẩng đầu nhìn ngài, thấy ngài dõi mắt ra ngoài cửa sổ, nhưng trong mắt trống rỗng, giống như không nhìn thấy bất kỳ cái gì, nơi chân mày còn phảng phất ưu thương... Tôi nghĩ không thông, bật thốt hỏi ngài: 'Cô đơn? Thật ư? Nhiều nương tử bên cạnh như vậy mà quan gia còn có thể cô đơn?'"
Nếu là ta, ta cũng sẽ hỏi như thế. Ta không che giấu sự hiếu kỳ của mình: "Ngài trả lời thế nào?"
"Ngài như hồi thần lại trong nháy mắt, cười với tôi, nhẹ nhàng đáp: 'Giả đó.' Tôi lại cúi đầu im lặng, đúng lúc ấy ngài nghiêng người qua, nói bên tai tôi..." Sắc mặt Thu Hòa như thoáng phớt sắc son, giọng càng nói càng nhỏ đi, "Ngài nói: 'Đây chẳng qua chỉ là cái cớ ta vất vả mãi mới nghĩ ra được để ngươi khỏi phải bôi phấn son thuốc hương lên da nữa mà thôi.'"
Ta tức khắc nhớ tới lần đầu tiên diện kiến kim thượng ở Nghi Phượng Các, tới sự quan tâm để ý của ngài đối với Thu Hòa, mơ hồ hiểu được nỗi hoang mang của cô. Kể cả khi không thích nam tử như thế thì sự quan tâm chu đáo nhường vậy vẫn là điều nữ nhi thế gian khó mà chống cự nổi, cự tuyệt lời ngỏ ý của người đó khi ấy chắc chắn là chuyện rất khó khăn.
"Tôi rất muốn từ chối, nhưng..." Thu Hòa lưỡng lự, không sao miêu tả được chính xác tâm trạng lúc đó.
"Tôi hiểu, không cần nói nhiều đâu." Ta ôn hòa, tiếp tục hỏi cô, "Thế, hoàng hậu có biết quyết định của cô không?"
Thu Hòa gật đầu: "Quan gia đề cập chuyện điều tôi qua với bà. Sau đó bà có hỏi riêng tôi có bằng lòng hay không, nói nếu tôi không muốn, bà sẽ thả tôi xuất cung đúng tiết Càn Nguyên như đã ước định. Cơ mà, sao có thể chứ? Làm như thế, quan gia tất sẽ truy vấn nguyên nhân... Tôi sợ ngài và các đại thần biết trong gác hoàng hậu ngoài Song Ngọc còn có cung nhân khác từng...qua lại với người ngoài."
Đúng là cũng phải suy xét điều này. Họ mà biết việc ấy, tình thế phát triển sẽ càng hỏng bét hơn.
Ta có thể đoán được câu trả lời cô đáp lại hoàng hậu: "Cô nói với hoàng hậu mình đổi ý rồi?"
"Phải," Thu Hòa cười sầu thảm, "Tôi nói với bà, là tự tôi muốn làm sơ đầu phu nhân, không muốn xuất cung sống cuộc sống cực khổ."
Trọng thần tiến gián ra sức bảo vệ hoàng hậu bắt đầu triển khai phản kích Hạ Tủng, kết quả cuối cùng của sự kiện cung loạn là Hạ Tủng bị bãi chức xu mật sứ, biếm đi Nam Phủ.
Tháng Tư năm ấy, ngự sử Hà Đàm dâng sớ tố cáo Hạ Tủng, chỉ thẳng ông ta "bản tính gian tà, tham vọng xa xỉ, học vấn không uyên bác, hành xử giả mà gàn, a dua nịnh hót như tiểu nhân, khuyết thiếu cương trực làm đại thần, phò vua mà coi thường khí tiết quân vương, gặp dưới mà không biết noi gương cầu học..." Lại đề cập tới việc thường ngày ông ta câu kết với nội thần Dương Hoài Mẫn, bao che cho y vụ cung loạn, nói hiện giờ Dương Hoài Mẫn đã bị trục xuất mà Hạ Tủng lại vẫn được giữ lại kinh sư, còn ngồi ở vị trí cao, "lòng người trong ngoài đều kích động". Khẩn cầu kim thượng ruồng bỏ Hạ Tủng, "Trên vì sách lược xã tắc, dưới để yên lòng thần dân."
Y dự đoán được Hạ Tủng có khả năng sẽ lại lấy chuyện "bè đảng" mà kim thượng kiêng kỵ ra làm văn ngụy biện, bèn đi trước một bước giải thích rành mạch trong sớ: "Thần đoán Hạ Tủng biết thần dâng tấu, hẳn sẽ nói thần vu khống, kết bè kết đảng. Nhưng Tủng rõ ràng từng có tội, sao có thể nói là bịa đặt vu hãm; thần xưa nay không nương nhờ ai, dựa vào đâu mà gọi là kết đảng? Nếu Tủng vẫn che giấu khuyết điểm, thần thỉnh cầu gặp mặt đối chất với người vô tội, kính mong thánh minh soi xét lòng thành."
Kế tiếp y, lại có nhiều vị ngôn quan (*) khác dâng sớ đánh giá Hạ Tủng gian tà. Khéo thay, đúng lúc đó kinh sư lại xảy ra hiện tượng động đất, thế là kim thượng cho gọi hàn lâm học sĩ Trương Phương Bình đến ngự tiện điện giữa đêm, nói với y: "Hạ Tủng gian tà nên mới có thiên biến như vậy. Thỉnh học sĩ thảo chiếu thay trẫm, điều ông ta rời kinh."
(*) Ngôn quan, hay ngôn giả, là chỉ quan viên phụ trách giám sát và dâng sớ can gián.
Trương Phương Bình cả mừng, xin được soạn lời phản luận, muốn thẳng thắn trách tội Hạ Tủng trong chiếu thư. Kim thượng ngẫm nghĩ, cuối cùng thở dài: "Vẫn nên giữ chút mặt mũi cho ông ta đi thôi, lấy lý do 'cân đối nhàn cực' mà thảo chiếu, đừng nhắc đến lỗi lầm của ông ta."
Tuy đã giữ mặt mũi cho Hạ Tủng nhưng Hạ Tủng vẫn ôm hi vọng, mang tội không đi, dâng sớ xin được ở lại kinh sư. Hà Đàm lập tức nổi giận, một lần nữa dâng tấu: "Triều đình vời lui đại thần, ân lễ vốn cực kỳ dày hậu, đáp lễ Tủng như thế đã là vinh sủng hết mực, cớ sao lại càng thêm không biết liêm sỉ, mạo muội trần thuật thỉnh cầu? Huống hồ Tủng gian tà xảo trá, có tiếng đã lâu trong thiên hạ, bệ hạ nổi danh là vị vua quyết đoán, bãi miễn quan viên xu mật trọng yếu, thần tử trong ngoài triều đình không ai là không vui mừng, bởi vậy càng không thể cho ông ta tùy tiện lưu lại triều đình. Khổng Tử gọi đó là phường gian nịnh, giữ lại phò vua tất sẽ gây hại đến chính sự. Ông ta có quỳ sấp cầu xin cũng chẳng thay đổi được mệnh lệnh, nên sai người thúc giục mau chóng đi nhậm chức thì hơn."
"Sau nữa, kim thượng triệu kiến Hà Đàm ở tiện điện Nội Đông Môn, Hà Đàm cực lực biện luận, thái độ dữ dội, tỏ vẻ việc này không có chỗ thương lượng." Trương tiên sinh thu hồi bản sao lưu trữ tấu sớ trong tay ta, nói với ta, "Kim thượng bèn cười nhạo y: 'Thời cổ có kẻ tiến gián vỡ đầu, khanh có làm được thế không?' Hà Đám đáp: 'Quân vương thời cổ không tiếp nhận thần tử tiến gián, thế nên mới có đại thần vì tiến gián mà vỡ đầu; nay bệ hạ bằng lòng nghe tiến gián, thần sao dám giành tiếng thơm về mình mà quy lỗi cho quân phụ!'"
Nghe đến đó, ta không khỏi bật cười: "Y nói câu này hay lắm, vừa tránh được uy hiếp vỡ đầu, lại đệ bậc thang cho kim thượng tiếp nhận gián ngôn."
Trương tiên sinh cũng cười: "Đúng vậy, kim thượng nghe xong vui vẻ nạp gián, không thay đổi mệnh lệnh khi trước, kiên quyết điều Hạ Tủng đi Hà Nam."
Có một chuyện, mấy ngày nay ta vẫn hay suy tư, bèn nhân tiện đem ra thỉnh giáo Trương tiên sinh: "Tiên sinh, có phải kim thượng cũng nhìn thấu Hạ Tủng dụng tâm hiểm ác hãm hại trung cung không, lần này điều đi, nhìn bên ngoài thì là kim thượng bị ngôn giả bức bách, nhưng thực chất là ngài thuận thế mượn cớ đó trừng phạt Hạ Tủng? Bằng không ngài cũng có thể kiên trì giữ ông ta lại sử dụng như với Trần tướng công mà."
Trương tiên sinh không trả lời minh xác, chỉ nói: "Cậu không nghe ngài nói 'Hạ Tủng gian tà' à? Ai đúng ai sai, ai gạt được ai, bất quá là xem ngài lấy bỏ thế nào mà thôi."
5. Tiểu Tống
Trước tiết đoan ngọ, ta kiếm cơ hội ra ngoài cung đi tìm Thôi Bạch, nói cho gã biết chuyện Thu Hòa. Đối với ta, đây là một nhiệm vụ còn khó gấp mấy lần kỳ thi hắc nghĩa năm xưa. Ban đầu là ta cho gã hi vọng, bây giờ lại tự mình nói với gã hi vọng đã tiêu tan, điều này làm ta xấu hổ vô cùng. Ấp a ấp úng tóm tắt những gì đã xảy ra cho gã, ấy là còn chưa đề cập tới chuyện kim thượng có vài phần xem trọng Thu Hòa, thế mà đã khiến ta không dám ngẩng đầu lên nhìn gã suốt một hồi lâu.
"Không sao," Trái lại, là Thôi Bạch an ủi ta, "Cậu vẫn luôn tận tâm tận lực giúp tôi, chuyện có không thành thì cũng chẳng phải lỗi của cậu. Là tôi phúc cạn, mỹ quyến tựa hoa như Đổng cô nương vốn đã chẳng dễ cầu."
Ta chỉ mong thời gian có thể cho mối nhân duyên này một khả năng nối tiếp: "Hay là, chờ thêm ít nữa, đợi quan gia quên chuyện tháng nhuận rồi, hoàng hậu lại có thể xin ngài thả Đổng cô nương xuất cung."
Thôi Bạch cười khẽ, nói: "Hoài Cát, nói thật, từ khi cầu hôn tới nay, tôi vẫn thường lo sợ bất an, chỉ cảm thấy niềm vui như của trời giáng, lại tiến triển quá mức thuận lợi, chẳng giống số mệnh nghèo túng cùng đường xưa nay vẫn vậy của tôi chút nào. Huống hồ, em ở thâm cung đã quen với cuộc sống yên ổn cơm ngon áo đẹp, không buồn không lo, khác nào tiên nữ cung trời, sau này lấy tôi, chỉ có thể quanh năm suốt tháng ở bên một kẻ ngớ ngẩn biết mỗi đan thanh, sầu lo chuyện củi gạo dầu muối, dẫu em không hờn oán thì tôi cũng khó yên lòng. Bây giờ em đã được tấn chức, ắt sẽ có tiền đồ tốt hơn, tội gì tôi lại liên lụy em."
Ta muốn nói vài câu khuyên giải, song trước nay đó vốn không phải sở trường của ta, cân nhắc chốc lát, chỉ mở miệng một câu: "Đổng cô nương hoàn toàn không nghĩ như vậy."
"Tôi biết." Thôi Bạch nói, ánh mắt đậu lên một bức non xa khói nước treo trên vách, lát sau, chậm rãi ngâm: "Chàng Lưu đã hận Bồng Sơn cách, đây cách Bồng sơn mấy vạn trùng."
Đây là hai câu thơ hàn lâm học sĩ đương triều Tống Kỳ mượn từ Lý Thương Ẩn, đổi đi một chữ điền vào bài "Giá cô thiên" (*).
Tống Kỳ, tự Tử Kinh, đăng khoa cùng năm với người anh trai Tống Tường. Năm đó nếu chiếu theo tấu chương của Lễ bộ thì đáng ra là Tống Kỳ đứng nhất, Tống Tường đứng ba, nhưng Chương Hiến thái hậu lại không muốn để tên em lên trước tên anh, bèn cất nhắc Tống Tường làm trạng nguyên, còn Tống Kỳ thì đặt xuống hạng mười. Hiện nay, cả hai anh em đều làm quan trong triều, người đời gọi Tống Tường là "Đại Tống" còn Tống Kỳ là "Tiểu Tống".
Tống Tường thông hiểu điển tích, thanh liêm nghiêm nghị, Tống Kỳ chữ nghĩa hơn anh nhưng ham yến ẩm, mê phong nguyệt, xưa nay hào sảng phóng túng, bài "Giá cô thiên" này chính là ghi lại một lần diễm ngộ của y.
Hôm ấy Tống Kỳ thúc ngựa trên phố Phồn Đài trong kinh, vừa vặn gặp trúng hoàng hậu dẫn cung nhân đến chùa Tướng Quốc dâng hương trở về. Tiểu Tống dắt ngựa tránh sang một bên phố, xe liễn lọng sa uốn lượn đi qua, giữa chừng, lúc một xe đi ngang qua trước mặt y, có nội nhân từ trong xe vén rèm, đôi làn thu thủy trong trẻo liếc tới mặt y, cười nói với đồng bạn: "Tiểu Tống kìa!"
Dứt lời bức rèm lại rủ xuống, xe liễn lộc cộc chạy không ngừng nghỉ về phía cung thành. Tuy chỉ nhìn thoáng qua, song Tống Kỳ đã nhớ được dung nhan ngọc ngà, giọng nói véo von của nội nhân ấy, trở về nhà lập tức nhấc bút viết nên "Giá cô thiên": "Xe chạm yên hoa gặp giữa đường, trong rèm tiếng ai đứt can trường. Thân chẳng chắp cánh khôn bay bổng, ăn ý được chăng một điểm thông. Vàng cất ốc, ngọc xây lồng, xe như nước chảy ngựa như rồng. Chàng Lưu đã hận Bồng Sơn cách, đây cách Bồng Sơn mấy vạn trùng."
Bài từ được truyền xướng rất rộng, thậm chí còn vào cả trong cung. Kim thượng nghe đến, bèn hỏi chiếc xe nội nhân ấy ngồi hôm đó là xe thứ mấy, là ai gọi Tiểu Tống. Cuối cùng, một nội nhân sợ sệt đứng ra quỳ xuống, nói trước đây khi hầu hạ trên tiệc từng thấy quan gia tuyên hàn lâm học sĩ vào, nội thần xung quanh nhìn nhau thì thào: "Tiểu Tống kìa." Về sau ngẫu nhiên gặp được trong xe, nhất thời nổi hứng nên gọi một tiếng.
Sau đó kim thượng gọi Tống Kỳ đến, kể lại chuyện này giọng ung dung. Tống Kỳ hoảng hốt cáo tội, kim thượng lại cười nói: "Trong từ ngươi hận Bồng Sơn xa, trẫm thì thấy Bồng Sơn này cũng chẳng xa ngươi lắm đâu." Ngay sau đó ban nội nhân kia cho y.
(*) Hai câu gốc trong bài thơ "Vô đề" của Lý Thương Ẩn là "Chàng Lưu đã hận Bồng Sơn cách, đây cách Bồng sơn một vạn trùng.", "Giá cô thiên" đổi "một" thành "mấy".
Việc này cũng giống như chuyện "đề thơ lá đỏ (*)" hiếm ai biết đến, trở thành giai thoại trong cung ngoài thành thi nhau truyền tụng. Giữa nội nhân xuân thì trong cung và văn thần danh sĩ ngoài cung vốn thường nảy sinh mối quan hệ vi diệu ngưỡng mộ lẫn nhau, được câu chuyện này lửa cháy thêm dầu cổ động, cũng cho họ gợi ý dăm mối lương duyên có thể kết thành, vậy nhưng...
(*) Tương truyền vào thời Đường, vô số cung nữ phòng không gối chiếc trọn đời đã viết thơ lên lá đỏ, ném vào suối nước trong cung, gửi gắm nỗi lòng, tình cảm u uẩn.
"Bồng Sơn cũng chẳng phải cách ai cũng không xa." Cái kết viên mãn của giai thoại chẳng ảnh hưởng gì tới nhận xét của Thôi Bạch, gã rất tỉnh táo nói một câu như thế.
Ta nghĩ có lẽ gã đã lờ mờ nhận ra tình ý kim thượng dành cho Thu Hòa qua đôi câu vài lời mà ta đã cố xóa nhòa đi.
Hạ Tủng tuy đã rời kinh nhưng gián quan Vương Chí thì vẫn còn trong triều. Tháng Chín năm ấy, y lại nhắc tới việc Trương mỹ nhân "có công hộ giá" với kim thượng, nói nên thăng vị cho Trương mỹ nhân để chứng tỏ kim thượng thưởng phạt phân minh.
Bản thân kim thượng cũng có ý đó, tiếc là quần thần phản đối, lại cần có sự đồng ý của hoàng hậu, nhất thời khó mà hạ chỉ được, không ngờ cuối cùng chính hoàng hậu lại buông miệng, nói với kim thượng trước mặt tất cả mọi người trong bữa tiệc mừng tết trùng cửu: "Trương mỹ nhân phụng dưỡng quan gia đã nhiều năm, từng sinh hạ ba công chúa mà cấp bậc phân vị lại thấp nhỏ, đã lâu chưa được thăng. Nay đã có công, thăng vị làm phi cũng chẳng quá đáng, coi như bệ hạ tỏ ý an ủi khen thưởng."
Kim thượng im lặng nhìn hoàng hậu chằm chằm, mà thái độ của hoàng hậu thì vẫn bình thản, trong mắt không một gợn sóng. Mọi người nín thở theo dõi, một lúc sau mới nghe kim thượng lên tiếng: "Ngày ấy bọn giặc gây loạn, tất cả đều nhờ hoàng hậu chỉ huy điều hành hộ vệ, nếu muốn khen thưởng thì theo lý hẳn phải khen hoàng hậu trước tiên."
Ngồi bên cây hoa cúc đàn tâm mộc hương cánh trắng, hoàng hậu khẽ nhếch miệng, nụ cười trong nhẹ như hoa thu: "Tạ bệ hạ quan tâm, thần thiếp thân là quốc mẫu, danh vị tột đỉnh, không thể tăng thêm được nữa. Huống hồ bệ hạ cưới thần thiếp làm vợ, thần thiếp vốn không cần báo đáp, làm việc vì bệ hạ là trách nhiệm bổn phận, sao dám tranh công xin thưởng."
Vì vậy, tháng Mười năm ấy, kim thượng thăng mỹ nhân Trương thị lên thành quý phi, cũng quyết định ngày làm lễ sắc phong cho ả.
Hàn lâm học sĩ nhận lệnh viết cáo sắc phong phi cho Trương mỹ nhân chính là "Tiểu Tống" Tống Kỳ chữ nghĩa hoa lệ.
Trước đây, quốc triều chưa từng thịnh hành việc làm lễ sắc phong cho tần ngự tấn vị làm phi, bổ nhiệm phi thì phát sắc, phi từ chối thì thôi lễ sắc. Bởi quy mô lễ sắc phong long trọng, hao tổn quá nhiều nhân lực tài lực, tần ngự quốc triều đều biết đạo khiêm nhường, cũng không thích lấy đó huênh hoang rước cung nhân và chư thần phê bình chỉ trích, bởi vậy đều từ chối không làm. Có lẽ Tống Kỳ cho rằng vị quý phi mới phong này nghiễm nhiên cũng sẽ nghĩ như thế nên không theo thể thức lễ sắc phong mà nghe các môn sứ (*) tuyên đọc chiếu thư phong phi trước rồi nhận lệnh viết cáo sắc, gửi sang trung thư, ba tỉnh tiếp nhận, chuyển cho Quan cáo viện (**) đóng ấn rồi mới trình lên quý phi, thay vì không đợi nghe chiếu thư phong phi trước khi cử hành lễ sắc phong mà viết cáo sắc luôn, không gửi sang trung thư mà tự mình trực tiếp đi lấy ấn của Quan cáo viện dùng, đóng ấn rồi lập tức đưa cho quý phi.
(*) Chức quan quản lý việc lễ nghi.
(**) Cơ quan quản lý việc bổ nhiệm, phong tặng quan lại.
Hiển nhiên, y đã phạm sai lầm. Không phải phi tử nào cũng không muốn làm lễ sắc phong.
Trương mỹ nhân muốn làm lễ thấy cáo sắc quan trọng này chẳng khác nào địa chủ nhà quê nạp tiểu thiếp mới, đơn giản tùy tiện đưa vào từ cửa sau, không khỏi giận tím mặt, ném cáo sắc xuống đất nhất quyết không chịu, lại khóc lóc tìm kim thượng kể tội Tiểu Tống lười biếng láo lếu với mình, nhằng nhẵng dây dưa cho đến khi kim thượng bằng lòng giáng chức Tống Kỳ điều đi Hứa Châu.
Chi tiết chuyện Tiểu Tống bị giáng chức truyền ra, trong ngoài ai nấy đều cảm thán, còn Trương thị thì bắt đầu cuộc sống quý phi ngạo nghễ của ả trong tiếng ca thán dậy đất này.
Đối với chuyện Trương thị đột ngột tấn vị, chúng nương tử trong cung tất nhiên đều tấm tắc bảo lạ. Mọi người đều đoán rằng ả sớm muộn gì cũng sẽ lên bậc phi, nhưng không ngờ lại từ mỹ nhân tứ phẩm lên thẳng quý phi nhất phẩm. Quý phi đứng đầu bốn phi, địa vị kế ngay sau hoàng hậu, suốt nhiều năm nay kim thượng vẫn luôn để trống vị trí bốn phi, chư nương tử tối đa chỉ thăng được đến nhị phẩm, hiện giờ lại tấn vị như thế cho Trương thị khiến danh vị của rất nhiều tần ngự đứng trên Trương thị lâu năm như Miêu thục nghi, mẹ đẻ của Phúc Khang công chúa và Du sung nghi, mẹ đẻ của hoàng trưởng tử chết non, chớp mắt đã tụt xuống dưới ả.
Dưới cơn bất mãn, các nương tử càng quan tâm hơn tới nội tình thăng vị của Trương quý phi, không bao lâu sau đã có người thám thính được, kể từ khi Hạ Tủng rời kinh, quan hệ giữa Trương thị và Vương Chí càng thêm khăng khít, tiền bạc ngầm ban cho Vương Chí lên đến con số hàng vạn. Chuyện thăng vị thành công, Trương thị dương dương đắc ý, thậm chí lúc nhắc đến Vương Chí với người khác còn công nhiên nói: "Gián quan nhà ta đó."
Vụ bê bối hối lộ quan viên trong triều này truyền khắp lục cung, cuối cùng chẳng ai là không biết, chắc hẳn cũng đã từng truyền ngược vào tai Trương quý phi, nhưng ả cũng không cho là nhục, trái lại còn thỉnh cầu kim thượng cho Vương Chí bưng chiếu sắc phong cho ả trong lễ sắc phong như cố ý khiêu khích ra oai với chư nương tử.
Lễ sắc phong của hậu phi phải có quan viên bưng chiếu, kim thượng bèn giao việc này cho Trung thư tỉnh thảo luận, quan viên Trung thư vốn chẳng ưa mến gì Vương Chí, bèn tấu rằng theo nghi thức, chức vị vị quan bưng chiếu nhất định phải trên đãi chế (*), Vương Chí không có tư cách này. Kim thượng chuyển cáo lời Trung thư cho Trương quý phi, Trương quý phi lại nhân cơ hội xin kim thượng thăng quan cho Vương Chí, kim thượng cũng đồng ý, thăng Vương Chí lên làm đãi chế Thiên chương các (**), lệnh y bưng chiếu cho quý phi trong lễ sắc phong.
(*) Chức quan cố vấn chính sự thuộc Trung thư, Môn hạ tỉnh.
(**) Tên tàng thư các trong cung Tống.
Song đồng thời, ngài cũng thăng Hà Đàm lên làm lễ bộ viên ngoại lang, kiêm thị ngự sử tri tạp sự, lại nói rõ nguyên nhân với Hà Đàm ngay trên triều: "Khanh không a dua quyền thế nên vượt cấp bổ nhiệm khanh."
Có lẽ là để bồi thường cho hoàng hậu, kim thượng lục tục thăng quan tấn tước cho rất nhiều ngoại thích hậu tộc, ban thưởng cho họ bổng lộc dày hậu, Hà Đàm nhân việc này tiến gián, nói tước thưởng triều đình vốn là để ban cho hạ thần cần cù vất vả, không có công tích thì thưởng theo lệ năm. Nay vô cớ thăng tước hậu tộc là thăng quan vượt cấp, e rằng ngoại thích sẽ đua nhau bấu víu, ôm lòng dị vọng.
Kim thượng đáp: "Ngoại thích không có công lao nhưng hoàng hậu có đức hạnh, đây là dời ân sang thân tộc."
Quan hệ của đế hậu cũng là tiêu điểm chú ý của người trong lục cung. Sau sự kiện cung loạn, kim thượng và trung cung chưa từng qua đêm cùng nhau, song, vào ngày cử hành lễ sắc phong cho Trương quý phi lại có một số dấu hiệu nhỏ khiến chư nương tử nảy sinh rất nhiều phỏng đoán về tình hình gần đây của họ.
Sáng sớm hôm ấy, đế hậu ai rời giường nấy ở Phúc Ninh Điện và Nhu Nghi Điện, lúc xuất hiện trước mọi người, quầng mắt đều thâm xanh, mí mắt hơi sưng, dẫu hoàng hậu đã dùng son phấn che đi nhưng vẫn có thể soi ra chút bất thường. Lúc đế hậu dẫn Trương quý phi qua Tử Thần Điện tiếp nhận quần thần chúc tụng, chuyện xảy ra ở Nhu Nghi Điện đêm qua đã được coi như một tin đồn thú vị, bắt đầu lặng lẽ truyền lưu tại hậu cung.
Theo những gì cung nhân Nhu Nghi Điện tiết lộ, sau canh ba đêm qua, kim thượng sai cận thị sang Nhu Nghi Điện truyền lệnh tuyên triệu hoàng hậu. Khi ấy, hoàng hậu đã đi ngủ, nghe nói việc này, bèn khoác áo đứng dậy đi tới bên cửa tẩm điện, nhưng không mở cửa, chỉ hỏi nội thị Phúc Ninh Điện qua khe cửa: "Quan gia tuyên triệu là có việc gì?"
Nội thị trả lời: "Quan gia nửa đêm tỉnh lại, ngồi một mình uống rượu, bất giác uống cạn, bèn sai thần tới hỏi điện hoàng hậu có rượu chăng, có thể mang một ít sang không."
Hoàng hậu không phụng mệnh, chỉ nói: "Trong này có rượu ta cũng không dám mang sang cho quan gia. Đêm đã khuya, bẩm với quan gia mời ngài đi nghỉ lại cho."
Dứt lời đuổi nội thị về, đến mở cửa gặp mặt cũng không chịu.
Công chúa im im nghe chuyện này, buổi tối cung quyến dự tiệc ở Thái Bình Lâu, công chúa mới đem ra hỏi thẳng phụ thân: "Đêm qua cha muốn uống rượu đáng ra nên hỏi người Ngự thiện, Ty nhưỡng mà lấy, muộn vậy rồi sao cứ phải truyền lệnh tuyên triệu nương nương mang qua?"
Bọn cung nhân cười trộm, hoàng hậu ngồi nghiêm chỉnh như không nghe thấy, mà vẻ mặt kim thượng thì có phần lúng túng, ho khan hai tiếng thâm thấp, nghĩ nghĩ rồi mới đáp: "Đêm đã khuya, không tiện làm phiền nhiều người..."
Công chúa truy vấn: "Cứ coi như không muốn làm phiền hạ nhân thì trong cung nhiều nương tử như vậy, trong gác đều trữ không ít rượu, sao cha lại chỉ hỏi nương nương vốn ngày thường cũng không hay uống rượu?"
Kim thượng nhất thời cứng họng, Trương quý phi thấy thế, tiếp lấy chủ đề: "Nhà mẹ đẻ thần thiếp vừa đưa tới vài hũ rượu Dương Cao thượng hạng, lần sau nếu quan gia muốn uống cứ sai người tới lấy là được."
Kim thượng chưa đáp, công chúa đã mở miệng trước, nói với Trương quý phi: "Ai mà chẳng biết trong gác Trương nương tử nhiều rượu? Cha không hỏi bà tất nhiên là có cái lý không cần của cha rồi."
Trương quý phi giậm chân vẻ giận dữ, như có ý muốn giễu cợt vặc lại, song liếc mắt thấy kim thượng đang quan sát phản ứng của mình, bèn dằn cơn tức xuống, miễn cưỡng cười nói: "Công chúa nói phải."
Trong mắt các nương tử, chuyện nửa đêm tuyên triệu trung cung là tin tức kim thượng muốn biểu thị hữu hảo với hoàng hậu, lấy cớ mượn rượu không đến nỗi mất mặt, tiếc rằng hoàng hậu lại chẳng thuận thế tiếp thu.
"Nhìn mắt thế kia, cả hai người họ hẳn là chưa ngủ suốt một đêm." Ngày kế, Du sung nghi sang Nghi Phượng Các tán gẫu với Miêu thục nghi, "Tình hình này có khác gì vợ chồng son giận dỗi nhau không, thật là, tội gì phải thế!"
Miêu thục nghi mỉm cười: "Ngoài mặt họ vẫn tương kính như tân, nhưng chút kỳ cục đó mười mấy năm qua vẫn luôn ở đấy. Có lúc đến ta cũng nhìn không thấu."
Công chúa nghe thấy họ bàn tán, thò sát lại muốn nghe kỹ hơn, bị Miêu thục nghi dí trán: "Con bé này, dạ tiệc hôm qua ngây ngây ngốc ngốc hỏi bậy hỏi bạ cha con làm gì, làm ông ấy hơn nửa ngày chẳng xuống được đài!"
Công chúa dẩu môi: "Con mới không ngốc! Con thấy Trương nương tử kiêu ngạo nên mới cố ý nói vậy cho bà ta nghe đó!"
6. Thương Lang
Kể từ đó, thái độ của hoàng hậu với kim thượng luôn duy trì trong kính cẩn khách khí, tôn trọng xa cách. Thường ngày, bà siêng năng xử lý sự vụ hậu cung, ân uy song song thực thi, bởi vậy được cung cấm kính nể, không xảy ra thêm loạn gì nữa, duy Trương quý phi là thường xuyên cố ý khiêu khích, yêu cầu mang rất nhiều thứ xa hoa vào Ninh Hoa Điện. Chỗ ở của phi thiếp xưng "điện" đã là tiếm quyền, mà ả còn liên tục lướt qua hoàng hậu, tự mình ra lệnh cho lưỡng tỉnh lục cục, thế nên mọi chi phí ăn tiêu của Ninh Hoa Điện đều vượt quá trung cung. Song bên hoàng hậu vẫn ung dung, không chỗ nào không khoan thứ, mặc cho Trương quý phi vô lễ cỡ nào cũng không tức giận.
Mãi đến tháng Mười hai năm ấy, ta mới lại lần nữa trông thấy thần sắc bi thương hiện lên nơi chân mày hoàng hậu, nhưng cũng chẳng phải vì việc của Trương thị.
Xế chiều hôm đó, như thường lệ, công chúa đến Nhu Nghi Điện vấn an buổi tối, ta theo hầu đồng hành, vào trong điện, thấy hoàng hậu đang ngồi một mình xem một cuộn giấy trên bàn, lúc quay sang nhìn chúng ta, trong mắt long lanh, loang loáng ánh lệ.
Công chúa kinh hãi, quên cả hành lễ, rảo bước qua lo lắng hỏi: "Nương nương, sao vậy ạ?"
Hoàng hậu lau nước mắt rồi cười nhợt nhạt, kéo công chúa ngồi xuống bên mình, im lặng ôm lấy nàng, một hồi lâu sau mới nói: "Phu quân một người bạn thân của nương nương qua đời tháng trước... Phu quân em ấy bị oan mà chết, em ấy vẫn còn trẻ, mấy đứa con đều chưa lớn..."
"Bị oan mà chết?" Công chúa ngạc nhiên, "Thế nương nương nói oan tình ấy với cha đi, xin cha giải tội cho y."
Hoàng hậu rầu rầu cười, chỉ ôm chặt công chúa, không tiếp lời.
Có lẽ ý thức được trong đây tự có chỗ khó, công chúa cụp mi xuống, cũng hơi ủ ê. Tựa vào lòng hoàng hậu, dời mắt sang cuộn giấy trên bàn, nàng lại hỏi: "Đây là thư bà ấy gửi cho nương nương ạ? Chữ đẹp quá."
Đó thực ra không giống một bức thư, kích thước trang giấy và thể chữ đều lớn hơn thư từ bình thường. Ta cách xa nên không nhìn rõ được cụ thể là viết gì, chỉ cảm thấy chữ trong đó ngang dọc xiên cong, móc vòng uốn lượn, là viết theo lối thảo, khá có khí thế.
Hoàng hậu không đáp đúng chăng, chỉ hỏi công chúa: "Con nhận ra được đây là chữ ai không?"
Công chúa tỉ mỉ xem rồi nói: "Chữ này viết giống nhành hoa mới mọc, rất xinh đẹp, nhưng lại khác những thiếp chữ cha cho con xem... Chẳng dễ đoán chút nào."
"Người này không khoe khoang bút nghiên, nhưng người đời lại tranh nhau lưu truyền từng mẩu thiếp vụn của y, bí phủ thì lại không trữ bao nhiêu, khó trách con không nhận ra." Hoàng hậu hiền hòa nói với công chúa, lại đưa mắt sang ta, bảo: "Hoài Cát, ngươi từng làm việc ở Thư nghệ cục, cũng tới xem thử đi."
Ta tuân mệnh lại gần, cúi đầu nhìn, thấy trên đó viết một bài "Thủy điệu ca đầu":
"Lưa thưa mưa Thái Hồ, phủ mờ Động Đình San. Đâu bóng ngư long, mây mù buông kín mờ không gian. Ngẫm sự Trương Hàn Phạm Lãi, bỗng thuyền nhẹ khua gấp nhịp, vệt sóng đã vội tan. Chiều tà giông bão nổi, quanh co đường gian nan. Chí trượng phu, đương buổi thịnh, thẹn cảnh nhàn. Tuổi xanh cớ gì khốn đốn, tóc hoa ngả sắc tàn. Toan buông câu đầm vắng, lại lo chim âu ngờ, chẳng màng tựa . Khua chèo qua lau sậy, lặng ngắm con sóng lan." (*)
Ta từng gặp thể chữ này, ý ẩn trong bài từ này cũng phù hợp với tình cảnh của người ta đoán. Nhìn chung quanh trái phải, thấy chỉ có hai, ba cung nhân thân cận của hoàng hậu, lúc này mới dám mở miệng: "Chữ này như hoa nở trong rừng, trăng trên sông Hoài, hẳn là đến từ ngòi bút Tô Tử Mỹ khi say."
(*) Đây là bài từ "Thương Lang Đình" của Tô Thuấn Khâm, "Thủy điệu ca đầu" là tên điệu; .
Hoàng hậu đáp phải, nói với ta: "Tháng trước y viết nên bài từ này, không bao lâu sau thì bệnh chết ở Tô Châu."
"Tô Tử Mỹ? Là y chết?" Công chúa cực kỳ bất ngờ.
Hoàng hậu gật đầu, buồn bã nói, "Ngẫm lại thật khiến người ta tiếc than, trên đời này chẳng còn cái người ngựa béo áo da (*), Hán thư nhắm rượu ấy nữa rồi..."
(*) Ngựa béo áo da (怒马轻裘) tức mặc áo da ấm cưỡi ngựa béo tốt, hình dung hào phóng xa hoa.
Trong câu này có một điển cố. Tô Thuấn Khâm nổi danh có tài làm thơ, nhạc phụ y Đỗ Diễn thì có tiếng làm chính trị, danh khanh đương thời đều thích giao du với họ, tựa như người Tấn tán tụng Nhạc Quảng Vệ Giới vậy, miêu tả cặp cha vợ con rể này là "băng thanh ngọc nhuận", "ông tế giai mỹ (*)". Nghe nói khi còn trẻ, Thuấn Khâm sống ở nhà Đồ Diễn, mỗi đêm đều một mình uống một đấu rượu, lại không cần đồ nhắm. Đỗ Diễn nghe vậy không tin, sai người đi xem, người nọ trở về nói, Thuấn Khâm vừa xem "Hán thư" vừa uống rượu, xem tới chỗ đặc sắc thì vỗ bàn tán thán, độc thoại bình luận đôi lời rồi nhân đó uống một chén. Đỗ Diễn nghe xong cười bảo: "Có món nhắm rượu như thế thì một đấu cũng chẳng đủ." Về sau, Hán thư nhắm rượu trở thành một giai thoại lưu truyền rộng rãi khắp thiên hạ của Tô Thuấn Khâm.
(*) Dịch nghĩa là cha vợ con rể đều tuyệt vời.
Tô Thuấn Khâm mất sớm khiến công chúa rất lấy làm khó hiểu, nói với hoàng hậu: "Con nghe cha nói quan lại được điều ra ngoài đều sống tiêu dao lắm cơ mà, du sơn ngoạn thủy khắp chốn rồi đề thơ soạn văn này nọ, nào là 'Nhạc Dương Lâu ký', nào là 'Túy Ông Đình ký', nào là 'Thương Lang Đình ký', được người trong thiên hạ thi nhau ca tụng, làm giấy cũng lên giá ào ào... Tô Tử Mỹ không phải là đi Tô Châu xây Thương Lang Đình à? Sao lại chết sớm như vậy? Ngày ngày vui vầy với cá chim chẳng lẽ còn không vui?"
Hoàng hậu hỏi nàng: "Huy Nhu, con có biết lâm viên y xây tại sao lại lấy tên là 'Thương Lang' không?"
Công chúa ngẫm nghĩ, cuối cùng vẫn lắc đầu: "Có quan hệ với câu từ nào trong điển tịch ạ?"
Đúng lúc này, chợt nghe thấy có người đi từ ngoài điện vào, vừa đi vừa ngâm nga đáp lại: "Nước Thương Lang trong a, thì ta giặt khăn đầu; Nước Thương Lang đục a, thì ta rửa chân vào (*)."
(*) Đây là một bài đồng dao cổ, tên là "Thương Lang ca", bản dịch của Đào Duy Anh.
Chúng ta quay đầu nhìn, phát hiện ra chính là kim thượng, bèn cùng nhau đứng nghiêm hành lễ.
Ngài ngâm câu thơ "Thương Lang ca", hẳn là đã nghe thấy cuộc đối thoại của chúng ta trước đó. Không ai truyền báo nên bọn ta đều không biết ngài tới gần, cũng không biết ngài nghe được bao nhiêu, ta có phần lo lắng, khẽ đưa mắt liếc thoáng hoàng hậu, thấy bà hơi lộ vẻ chần chừ, song vẫn không bỏ bài từ trên bàn xuống.
Kim thượng đi thẳng tới bên bàn ngồi xuống, cầm lấy di từ của Tô Thuấn Khâm xem thật tỉ mỉ, xem xong cũng không có vẻ gì là tức giận, chỉ thở dài nói: "Thuấn Khâm quy ẩn vùng sông nước, hi vọng có thể khoáng đạt như ông chài khua chèo (*), lấy đá suối mà biểu đạt tâm tưởng, uống chén rượu mà cất cao tiếng hát, sống yên vui với đời đạm bạc. Nhưng bài từ này lại vẫn nhắc đến 'Chí trượng phu, tại nghiệp lớn, thẹn rỗi nhàn', có thể thấy cuối cùng vẫn không buông xuôi được."
(*) Điển cố "Ngư phủ" của Khuất Nguyên.
Hoàng hậu đứng bên cạnh kim thượng, duy trì chút khoảng cách nhất định, ánh mắt lặng lẽ đáp xuống mặt đất trước chân, đáp: "Y lấy Thương Lang Đình để biểu thị với người trong thiên hạ mình tự biết tiến thoái mà sống yên vui với đời đạm bạc, được khai sáng mà lĩnh ngộ, mỉm cười trước muôn kiếp sầu đau, nhưng cuối cùng vẫn thà lấy cái chết để bộc lộ tiếng lòng: Sao lại đem cái tiết sáng ngời mà vùi vào bụi bặm của đời (*)."
(*) Câu này cũng trích trong tích "Ngư phủ" của Khuất Nguyên, ; trong tích, sau khi khuyên giải Khuất Nguyên, ông chài đã xướng bài "Thương Lang ca" bên trên.
Kim thượng trầm mặc một hồi lâu thật lâu, sau đó cất lời như giải thích với hoàng hậu: "Năm đó tuy tước tịch y làm thứ dân, nói không bao giờ phục chức lại nữa, nhưng về sau... Trong văn giao xá (*) miễn xá cho tội nhân năm nay, ta có bỏ thêm một mục: Người bị hặc tội biển thủ nếu tự thấy tội mình nhẹ hơn tuyên phán, cho phép đến Hình bộ cáo oan. Tiếc rằng ngôn giả lại phản đối, nói sắc chỉ giao xá trước nay không có mục này, đây là cố tình bênh vực Tô Thuấn Khâm, hoàng đế không thể phá luật chỉ bằng vài câu... Hai tháng trước, ta hạ chỉ một lần nữa đề bạt Tô Thuấn Khâm làm Hồ Châu trưởng sứ, muốn cho y nhậm chức bên ngoài trước rồi từ từ triệu về trong kinh, tránh cho đài gián nhiều lời, không ngờ y lại kiêu ngạo như vậy, có chết cũng không nhậm chức."
(*) Đại lễ tế tự đế vương cử hành khi miễn xá cho tội phạm.
Công chúa nghe đến đó, nhịn không được nhỏ giọng lẩm bẩm: "Giữ chức nơi non xanh nước biếc thì có gì mà không tốt, lẽ nào cứ nhất định phải trở về kinh cãi nhau với mấy lão già quan lại mới là vừa lòng à?"
Ta kéo tay áo nàng, ngầm ra hiệu nói chuyện lúc này là không thỏa đáng, nàng bĩu môi với ta tỏ ý bất mãn, nhưng cũng không nói thêm gì nữa.
Hoàng hậu khom người với kim thượng, điềm đạm đáp: "Thuấn Khâm chưa chắc đã cố tình không đi nhậm chức, có lẽ số trời vốn vậy, chẳng thể làm trái. Bệ hạ thánh minh, Thuấn Khâm dưới suối vàng biết được, cũng sẽ hiểu bệ hạ khoan dung nhân từ mà cảm động rơi lệ."
Kim thượng không nói gì, cẩn thận đọc bài "Thủy điệu ca đầu", lại hỏi hoàng hậu: "Đây là Đỗ phu nhân chuyển cho nàng? Có thư từ gì kèm theo không?"
Hoàng hậu đáp: "Em ấy sai người giao bài từ này cho em trai thiếp, sau đó vợ em trai thiếp mang vào cung đưa cho thiếp, trừ cái này ra, cũng không có thư từ gì khác. Người nhận ủy thác từng hỏi em ấy có thư gì muốn chuyển lên trên không, em ấy nói: 'Chỉ bài từ bày tỏ cõi lòng này là đủ. Chồng tôi khi còn sống chịu oan khuất, chết rồi có thể vẫn hàm oan.'"
Kim thượng lắng nghe, ánh mắt dao động trên bút tích Tô Thuấn Khâm, suy xét một hồi, ra một quyết định: "Sau này con trai trưởng Thuấn Khâm đến tuổi, ta sẽ bổ ấm (*) một chức quan cho nó. Ngoài trợ cấp tiền bạc theo lệ thì ban thưởng thêm cho Đỗ phu nhân ít tiền."
(*) Chế độ bổ quan cho con cháu nhà cha ông có công.
Hoàng hậu xua tay: "Em trai thiếp từng sai người biếu tiền cho em ấy, em ấy từ chối không lấy, nói trình biếu từ không phải là để mong được rủ lòng thương mà cầu tiền tài, chỉ hi vọng quan gia bằng lòng ghé mắt, thương tiếc nhiều hơn cho những văn thần bị điều ra ngoài như Phạm tướng công, Phú Ngạn Quốc, Hàn Trĩ Khuê và Âu Dương Viễn Thúc, về sau an táng cho Tử Mỹ, nếu còn có thể khắc những lời họ dành tặng cho y lên mộ thì cả đời này em ấy cũng không còn mong muốn gì khác nữa."
Kim thượng không đáp được hay chăng, chỉ yên lặng cuộn di từ lại, cầm lấy đứng dậy rời đi.
Đó là lần đầu tiên ta thấy hoàng hậu bàn về thần tử trước mặt kim thượng, không khỏi lo lắng cho bà. Công khai thể hiện mình tán đồng các đại thần tân chính như vậy, một vị hoàng đế luôn phản cảm hậu cung dính dáng đến chính trị trông thấy chẳng biết sẽ có cảm tưởng thế nào, huống hồ những đại thần ấy đều là ngài tự mình hạ chỉ cách chức đuổi khỏi kinh.
Nhưng kết quả lại hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của ta.
Năm kế đổi niên hiệu thành "Hoàng Hựu", kim thượng đầu tiên là gia phong tri Thanh Châu (*) Phú Bật có công cứu tế Thanh Châu làm lễ bộ thị lang, tiếp đó gia phong tri Định Châu Hàn Kỳ làm tư chính điện đại học sĩ cùng Phú Bật, sau nữa lại lấy lý do "ban ân cho cựu thần chấp chính", thăng quan tấn tước cho các quan tể chấp đã thay đổi chức vị bao gồm cả đại thần Khách Lịch tân chính, thăng tri Hàng Châu Phạm Trọng Yêm làm lễ bộ thị lang, Đỗ Diễn đã về hưu làm thái tử thái bảo (**). Nhất thời gây xôn xao dư luận, đài gián nhao nhao nêu ý kiến, nhưng kim thượng ngó lơ, chỉ nói đây là triều đình sủng ái niệm nhớ cựu thần nên đặc biệt cải quan, chớ coi là thông lệ.
(*) Tri Thanh Châu tức chức quan tri châu đứng đầu Thanh Châu, tương tự với tri Định Châu, tri Hàng Châu, vv.
(**) Chức quan thấp nhất trong hàng tam công, gồm: thái sư, thái phó, thái bảo, có trách nhiệm dạy học cho con vua.
Tiếng gián quan phản đối ào ào thông qua nội thị triều đình truyền vào trong cung, cuối cùng, ngay cả những nương tử thường ngày không hay thảo luận chính sự cũng xì xào bàn tán: "Quan gia muốn vời đại thần tân phái trở về đấy à?"
Tin tức này chắc chắn lại làm Trương quý phi và Giả bà bà đứng ngồi không yên, người trong Ninh Hoa Điện một lần nữa bận rộn lu bù. Mà quan hệ giữa kim thượng và trung cung thì lại càng ngày càng như sắc trời sáng trong ngoài cửa sổ, dần tan băng ấm áp trở lại, ngoài những bận gặp mặt theo lễ tiết, số lần hai người thăm viếng lẫn nhau cũng bắt đầu từng bước tăng lên.
Có một ngày, ta đi ngang qua tiểu điện Nội Đông Môn, nhớ tới lời Trương tiên sinh kể rằng Hà Đàm đã trả lời câu kim thượng cật vấn "tiến gián vỡ đầu" ở đây, bỗng nghĩ, hoàng hậu không giấu di từ của Tô Thuấn Khâm khỏi mắt kim thượng có lẽ cũng là ôm lòng tiến gián vỡ đầu. May mà bà cũng thu được kết quả mỹ mãn như Hà Đàm, trình lời tiến gián uyển chuyển mà hữu hiệu, khiến kim thượng chẳng những "tán thưởng tiếp nhận" mà thái độ đối với bà cũng tốt hơn trước đây.
Nghĩ ngợi miên man, trong lòng lại nảy sinh một ý niệm kỳ quái: Thái độ của kim thượng đối với đại thần tân chính sao có vẻ giông giống với trung cung vậy nhỉ.
Quốc cữu Lý Dụng Hòa có bệnh trong người, cuối năm Khánh Lịch thứ tám, bệnh tình trở nặng, kim thượng từng đích thân tới dinh thự của ông thăm, còn thăng quan tấn tước cho ông, nhưng bệnh của quốc cữu vẫn không khỏi hẳn, lúc tốt lúc xấu. Mùa xuân năm Hoàng Hựu thứ nhất, Miêu thục nghi nghe nói quốc cữu lại không khỏe, bèn tự mình chuẩn bị vài món thuốc bổ, sai ta đưa đi.
Khí sắc quốc cữu ngày ấy rất kém, ho hen liên tục đến hơi cũng chẳng kịp lấy mà thở. Ta thấy tình trạng không tốt, vội về cung mời thái y đến xem bệnh cho quốc cữu. Trong khoảng thời gian bắt mạch trị liệu, ta một mực đứng hầu bên cạnh, sợ có gì không ổn, không dám tự tiện rời đi. Đợi đến khi bệnh tình quốc cữu đã dần ổn định, sắc mặt chuyển biến tốt đẹp, ta mới phát hiện ra không còn sớm nữa, đã qua giờ đóng cửa cung.
Không thể làm gì khác, ta đành chấp nhận lời kiến nghị của phu nhân quốc cữu Dương thị, nghỉ lại phủ họ Lý, bao giờ trời sáng thì về sau.
Bà nhiệt tình chuẩn bị phòng khách cho ta, nhưng ta không có lòng dạ nào mà ngủ yên. Đây là lần đầu tiên ta qua đêm bên ngoài kể từ khi vào cung, ngập lòng thấp thỏm, chỉ mong chong chóng trở về. Cửa cung đến canh tư thì mở, vừa qua canh ba ta đã dậy, rửa mặt rồi lập tức vội vàng chạy về phía cung thành.
Tuyên Đức Lâu, cửa chính đại nội có năm cửa tò vò, cửa nào cửa nấy đều sơn đỏ đinh vàng, gạch đá trên vách xếp thành vằn hoa, chạm khắc hình rồng phượng vờn mây. Canh tư hằng ngày, các cửa mở rộng cho bách quan vào cung dự buổi triều sớm, quan viên kinh thành đa số cưỡi ngựa đến, cố đô có bài ca dao "Đến canh tư, ngựa tung vó, quan lên triều".
Bách quan vào cung thành cần xếp theo thứ tự chức quan bậc quan. Bởi canh tư trời còn chưa sáng nên quan viên dưới bậc tể chấp đều dùng giấy trắng dán thành đèn xếp, lấy gậy dài giương trước ngựa, đồng thời viết tên vị quan bên ngoài đèn. Trước khi vào thành, quan viên sẽ theo thứ tự tập hợp quanh cửa cung, trăm ngàn ngọn đèn trước đầu ngựa lập lòe như Ngân Hà, cảnh tượng này được gọi là "hỏa thành".
Ngoài hoàng thành còn xây một "viện chầu" cho thân vương phò mã và trọng thần triều đình đến sớm nghỉ ngơi. Hôm nay là mồng một, trong cung có đại triều hội, quan viên trong kinh đều phải vào cung, nhưng hiện giờ, hiển nhiên là ta tới quá sớm, cửa cung còn chưa mở, cũng chưa thấy rầm rộ hỏa thành, viện chầu cũng vắng ngắt, chỉ thấy trước cửa cung có một ngọn đèn duy nhất, một vị quan ngồi trên ngựa trắng đang lặng im chờ đợi dưới xà trang trí nóc điêu khắc Tuyên Đức Lâu.
Ta lại gần y đôi bước, thấy y bận áo lạnh xanh sẫm cản gió bụi, y phục bên trong đều màu đỏ, thêm phương tâm khúc lĩnh bằng la trắng, đeo kiếm bạc vòng bạc, chân đi tất lụa trắng, giày da đen, là triều phục của quan viên tứ phẩm.
Y vốn quay mặt về phía cửa cung, dường như cảm giác được ta đến gần, y chầm chậm quay đầu, dưới chiếc mão tam lương cài trâm sừng tê giác hiển lộ một khuôn mặt tuấn tú.
Y cũng chẳng phải quá trẻ trung, ước chừng khoảng tuổi băm, nhưng ngoại hình thanh tú nổi trội, ghìm cương ngựa đứng trước lầu kề bên cạnh lầu chính, trong cảnh nền lan can thắm đỏ, mặc gió đêm se lạnh thổi tung ống tay áo dài rộng của y, nơi chân mày ẩn hiện vẻ lịch lãm, thanh cao thoát tục như tiên giáng trần.
Ta ở trong cung chỉ hay gặp đại thần tể chấp, quan viên từ tam phẩm trở xuống biết không bao nhiêu nên không rõ y là ai, có điều, nếu đã chạm mắt nhau thì cũng chẳng dám bỏ quên lễ nghĩa, lập tức xá dài làm lễ với y.
Sau đó hai bên đều im lặng. Còn đang phỏng đoán thân phận của y thì thấy ngọn đèn xếp treo trước đầu ngựa y thong thả đung đưa, bắt đầu quay về phía ta, ta định thần nhìn kỹ, trợn mắt há hốc.
Trên đó viết quan hàm và tên y – Lễ bộ thị lang, tri Doanh Châu: Vương Củng Thần.
Cái tên này, nếu nhắc đến vào năm năm trước, người nghe chắc chắn sẽ hỏi: "Là chàng trạng nguyên mười chín tuổi đã thi đỗ ấy hả?"
Nhưng năm năm sau, vào ngày hôm nay, lời thuyết minh về nó đã thay đổi, phản ứng đầu tiên của mọi người – tỷ như ta – là: "Là cái tên tiểu nhân hãm hại Tô Tử Mỹ ấy hả?"
Trước sự kiện Tiến tấu viện, Vương Củng Thần là điển hình sĩ tử hàn môn khổ học thi thư, gây dựng nên một thân thanh cao đáng quý, thường được người ta đề cập tới với giọng thưởng thức và ngưỡng mộ. Y mất cha từ khi còn nhỏ, được người mẹ góa bụa vất vả nuôi dạy thành người, bên dưới còn vài người em, gia cảnh vô cùng bần hàn. Cũng may y lanh lợi hiếu học, Thiên Thánh năm thứ tám đỗ tiến sĩ, còn đứng thứ nhất, khi đó y mới chỉ mười chín, là trạng nguyên trẻ tuổi nhất trong lịch sử quốc triều. Kim thượng bổ nhiệm y làm trạng nguyên, y lại từ chối không nhận ngay trên điện, nói y đã từng làm đề bài thi đình cách đó không lâu, không phải phát huy ngay tại trường thi, nên không dám ỷ vào đó mà đoạt danh hiệu trạng nguyên. Kim thượng nghe xong, khen ngợi y trung thực hết mực, khăng khăng giữ y làm trạng nguyên, nhiều năm sau đó rất ưu ái y.
Hoạn lộ của y vốn cũng thuận buồm xuôi gió, cơ hồ là kiểu mà tất thảy kẻ sĩ đều tha thiết ước ao: Mười chín tuổi thi đỗ, hai mươi tám tuổi làm tri chế cáo, ba mươi tuổi làm hàn lâm học sĩ, những chức quan "lưỡng chế" mà kẻ sĩ cho rằng có khả năng thể hiện rõ rệt nhất thân phận và vinh quang của văn sĩ, vừa tới ngưỡng nhi lập y đã bắt được hết vào tay. Ba mươi mốt tuổi nhậm chức trưởng đài ngự sử đài – ngự sử trung thừa, nếu không có vụ án Tô Thuấn Khâm thì y hẳn sẽ còn tiếp tục một bước lên mây. Đáng tiếc, về sau tuy y loại bỏ được Tô Thuấn Khâm cùng một nhóm đông đảo những tài tuấn quán các đương thời khác, đồng thời khiến Đỗ Diễn bãi tướng, nhưng cũng vì vậy mà bị mọi người phê bình xem thường, đại khái kim thượng cũng có cái nhìn khác với y nên mượn cớ điều y ra ngoài làm tri Trịnh Châu, tiếp đó dời sang hai châu Thiền, Doanh. Mấy năm nay y mãi vẫn chưa được hồi kinh, hôm nay mặc dù tới tham gia triều hội, nhưng quan hàm chưa đổi, hẳn chỉ là về kinh báo cáo công tác.
Nghe nói sau khi y cách chức biếm được Tô Thuấn Khâm và danh sĩ quán các thành công, từng mừng rỡ ra mặt nói: "Ta nhấc tay một cái mà bắt trọn cả lưới." Trước đây chỉ nghe đến tên mà chưa lần nào trông thấy y, bởi y làm những chuyện chẳng mấy vẻ vang gì này nên trong tưởng tượng của ta, ngoại hình của y hẳn không khác gì Hạ Tủng, trong mắt ngập ngụa tửu sắc và lệ khí, thậm chí là như Vương Chí, đầu hoẵng mắt chuột, thần sắc hèn mọn. Mà nay, thực sự khó mà có thể liên hệ sĩ phu thanh cao tao nhã trước mắt này với câu "nhấc tay một cái bắt trọn cả lưới" đắc ý vênh váo kia.
Nhưng cái tên này vẫn làm phai nhạt chút ngưỡng mộ nảy sinh một cách tự nhiên khi mới trông thấy phong thái dung nhan của y, ta lặng lẽ lùi ra sau, tránh thật xa, chia ra với y mỗi người đứng một bên cửa cung, tiếp tục chờ đợi.
Sau đó không ngừng có quan lại lên triều giục ngựa đến, trước khi xếp hàng theo thứ tự, họ thường túm năm tụm ba cùng nhau hàn huyên dăm lời, chỉ không đàm đạo với một mình Vương Củng Thần, đến người đi qua tỏ ý thăm hỏi với y cũng chẳng có mấy. Ta yên lặng quan sát hồi lâu, mãi mới thấy có người lại gần cười nói mấy câu với y, để tâm nhận mặt, phát hiện ra chính là Vương Chí.
Đèn xếp tụ tập trước cửa cung càng lúc càng nhiều, như đom đóm bay lượn, như dòng sáng sông Ngân. Bốn tiếng trống canh vang lên, bách quan đều đã xếp hàng xong xuôi rồi, mấy vị tể tướng chấp chính bấy giờ mới khoan thai dắt ngựa tới. Đợi tể chấp dẫn ngựa đến trước cửa chính, hỏa thành tắt nến, cửa cấm mở ra, bách quan lại theo thứ tự chức quan cao thấp mà lần lượt vào cung thành.
Ta đứng đợi bên cạnh, bách quan vào thành hết rồi mới có thể đi qua. Trong lúc rảnh rỗi, ánh mắt vẫn thường xuyên dừng lại trên người Vương Củng Thần.
Rốt cuộc cũng đến lượt y cất bước, y dắt ngựa đi lên, đằng sau lại có một tay quan tứ phẩm cưỡi con ngựa màu mận chín rảo bước tới cướp đường y. Hai con ngựa xô vào nhau, con ngựa của Vương Củng Thần loạng choạng, cơ hồ xóc y ngã xuống đất. Y kéo cương, vất vả lắm mới ổn định được ngựa, nhưng hốt triều (*) cắm bên hông lại tuột ra, rơi xuống dưới con ngựa.
(*) Thẻ vào chầu của quan lại bằng ngọc, ngà voi hoặc tre.
Ta nghĩ tay quan tứ phẩm kia hẳn là cố ý, bởi gã chỉ hơi quay đầu, cười với Vương Củng Thần: "Xin lỗi." rồi thản nhiên bỏ đi.
Vương Củng Thần ghìm ngựa dừng bước, trầm mặc đứng tại chỗ. Người chung quanh đều đang nhìn y, một số người vừa nghiêng đầu xem vừa lướt qua bên cạnh y, một số khác dứt khoát dừng lại, thong dong chờ xem y xuống ngựa nhặt hốt như thế nào. Không ai có động tác hay câu lời gì giúp y hóa giải cục diện lúng túng này.
Mà y thì chỉ im lặng cụp mắt, như bị đông cứng tức thời, bất động hồi lâu.
Ta biết đối với y, lúc này có xuống ngựa nhặt hốt hay không cũng đều là việc khó khăn. Có hơi đồng cảm cho tình cảnh của y bây giờ, bèn đi tới, nhặt hốt dưới ngựa y lên, đưa cho y bằng cả hai tay.
Y kinh ngạc nhìn ta, thoáng lộ vẻ xúc động, cũng dùng cả hai tay nhận lấy, mỉm cười: "Đa tạ trung quý nhân."
Ta cười đáp lại: "Một cái nhấc tay mà thôi, thị lang không cần để tâm."
Y lại khẽ cúi người xuống: "Xin hỏi tôn tính đại danh trung quý nhân?"
Ta nói: "Tiện danh của tiểu nhân không dám làm bẩn tai thị lang."
Sau đó ta lùi ra sau tránh, mời y đi lên trước. Y cũng không hỏi thêm nữa, chắp tay với ta tỏ ý từ biệt rồi nhanh chóng khôi phục lại thần thái khi trước, thong dong giục ngựa vào thành trước sự chú mục của mọi người. Mặc cho đám người phía sau xì xào bàn tán ra sao, y cũng chẳng hề ngoảnh lại xem lấy một lần.
7. Đồng hao
Mùa xuân năm ấy, trong Nghi Phượng Các có nội thị hoàng môn bị bệnh chuyển ra, Miêu thục nghi muốn bảo Hậu tỉnh bù cho một người, ta nghĩ tới lời nhờ vả của Trương Thừa Chiếu, bèn đề cử với bà, rất nhanh sau đó, Trương Thừa Chiếu được điều từ Tiền tỉnh vào.
Có lần, ta đề cập đến Vương Củng Thần với Trương Thừa Chiếu, hỏi hắn Vương thị lang về kinh báo cáo công tác à, Trương Thừa Chiếu trả lời: "Y thủ biên cương ở Doanh Châu có chút ít công lao nên quan gia gọi y về, tăng thêm quan hàm hàn lâm thị độc học sĩ và Long Đồ Các học sĩ (*). Đến giờ vẫn chưa bảo y về Doanh Châu, xem ý có vẻ như muốn giữ y làm quan kinh thành, nhưng trong triều có không ít người phản đối."
(*) Hàn lâm thị độc học sĩ là chức quan hầu đọc sách sử, giảng giải kinh nghĩa, ứng đối cố vấn cho hoàng đế; Long Đồ Các là nơi lưu trữ ngự thư, sách cổ, tranh vẽ, vật biểu tượng điềm lành của Tống Thái Tông và gia phả, danh sách tôn thất của hoàng tộc, Long Đồ Các học sĩ là một chức quan suông, phong như một danh hiệu vinh dự.
Ta nhớ tới tình cảnh y chịu bách quan lạnh nhạt trong hỏa thành hôm đó, bèn hỏi Trương Thừa Chiếu: "Các đại thần tân phái bị y hặc hồi trước không phải còn chưa về kinh sao? Theo lý, hiện giờ trong triều, người phản đối tân chính hẳn chiếm đa số mới phải, sao chính họ cũng xa lánh Vương Củng Thần vậy?"
Trương Thừa Chiếu đáp: "Ai bảo y gió chiều nào theo chiều ấy? Khi còn trẻ y được Lữ Di Giản dìu dắt rất nhiều, vốn là đi theo Lữ tướng công, Lữ tướng công bãi tướng rồi, y lại thường xuyên qua lại với những đại thần thúc đẩy tân chính. Lần đầu tiên quan gia muốn bổ nhiệm Hạ Tủng làm xu mật sứ, y đã suất lĩnh ngự sử đài và gián quan cùng nhau liều mình tiến gián. Quan gia nghe đến phát phiền, xoay người định đi, kết quả bị Vương Củng Thần quỳ dưới đất níu lấy vạt áo sau, sống chết không cho ngài đi. Quan gia bất đắc dĩ, đành phải tiếp nhận lời can gián của họ. Thế nên, tuy cuối cùng Vương Củng Thần trở mặt triệt để với đại thần tân chính, ra tay tàn nhẫn với nhóm Tô Thuấn Khâm, nhưng dư đảng của Hạ Tủng cũng không muốn thấy y, đắc tội với cả hai phái trong triều như vậy thì lại chẳng là đắc tội với tất cả mọi người. Y bị điều ra ngoài rồi quay lại kinh báo cáo công tác, tân đảng cựu đảng đều không vừa mắt y, một vài người hùa đỏ húc trắng (*) cũng giỡn cợt theo, bị xa lánh là đúng thôi."
(*) Nguyên văn: 跟红顶白, là một thành ngữ của vùng Quảng Đông, "hùa đỏ" là lấy lòng người đắc thế, "húc trắng" là công kích người thất thế.
Ta có một thắc mắc nghĩ mãi không thông ở đây: "Tại sao Vương Củng Thần lại trở mặt triệt để với đại thần tân chính? Tôi nghe nói, y và Âu Dương Tu là anh em đồng hao kia mà, sao đến chút quan hệ thân thích ấy cũng mặc kệ, đối chọi quyết liệt đến vậy?"
"Ha ha, chính cái tay Âu Dương Tu này đã bức điên y đấy!" Trương Thừa Chiếu vẫn hay dò la được chút chuyện tư ít ai biết đến của đại thần, nghe ta nói đến anh em đồng hao, càng thêm hào hứng, "Vương Củng Thần và Âu Dương Tu quen biết nhau trước cả khi mỗi người cưới một cô con gái nhà họ Tiết, quan hệ của hai người trước đó còn cực kỳ tốt nữa kia, cùng đi thi, có cơm cùng ăn, có áo cùng mặc. Tài văn chương của Âu Dương Tu xuất chúng hơn, lần khoa cử ấy, mấy kỳ thi trước kỳ thi đình như quốc tử bổ giám sinh, thi hương, thi hội đều đứng thứ nhất, bởi vậy nên rất tự tin, quyết tâm phải giành danh hiệu trạng nguyên cho bằng được. Thi đình về xong, Âu Dương Tu đi may cho mình bộ áo mới, định mặc sau khi được xướng danh, kết quả lại bị Vương Củng Thần ở cùng lấy ra mặc trước. Phỏng chừng y cũng chẳng cố ý, còn cười nói với Âu Dương Tu: 'Mặc cái áo này của huynh đỗ trạng nguyên chắc, cho tôi mặc ké chút đi.' Nào ngờ hôm sau xướng danh, người đỗ trạng nguyên lại thật sự là Vương Củng Thần mặc áo mới chứ không phải Âu Dương Tu. Kể từ đó hai người tuy không nhắc nhỏm gì tới câu bông đùa về bộ áo mới nhưng chỉ sợ ít nhiều đều không mấy dễ chịu."
Qua văn chương thi từ của hai người mấy năm nay, có thể thấy quả tình là Âu Dương Tu hơn xa Vương Củng Thần, bởi vậy nên vụ thi đình và lỡ mất dịp may làm trạng nguyên, lại có câu bông đùa về bộ áo mới trước đó, Âu Dương Tu hẳn khó tránh khỏi có phần lấn cấn. Ta thầm thở dài, lại nghe Trương Thừa Chiếu kể: "Vương Củng Thần thừa nhận với quan gia trước đây từng làm đề bài thi đình, tuy quan gia không tước danh hiệu trạng nguyên của y nhưng Âu Dương Tu nhất định là không phục. Hơn nữa, Vương Củng Thần lấy trước được đề thi thế nào, nhiều năm nay cũng có rất nhiều kiến giải, một trong số đó là quan viên muốn lôi kéo Vương Củng Thần, kiểu như Lữ Di Giản, tiết lộ cho y. Sau nữa, Vương Củng Thật đúng là nương nhờ Lữ Di Giản thật, Âu Dương Tu ắt càng thêm xem thường y. Về sau, Phạm Trọng Yêm chấp chính, Âu Dương Tu lập tức bén gót theo đuôi, càng xa lánh Vương Củng Thần hơn."
Nghĩ đến mối quan hệ thông gia kia, ta hỏi tiếp Trương Thừa Chiếu: "Họ đều cưới con gái của Tiết Khuê, ngày thường qua lại gần gũi, dẫu có hiềm khích thì cũng phải hòa hoãn được chút ít chứ?"
"Không có đâu, chẳng những không hòa hoãn mà còn càng căng thẳng hơn kia!" Trương Thừa Chiếu lắc đầu quầy quậy, cười bảo: "Âu Dương Tu cưới tứ tiểu thư nhà Tiết Khuê. Vương Củng Thần trước cưới tam tiểu thư, không được mấy năm thì vị phu nhân này qua đời, nhà họ Tiết quý trọng Vương Củng Thần là nhân tài, không nỡ để y sang làm rể nhà khác, bèn gả ngũ tiểu thư cho y tái giá. Âu Dương Tu lập tức làm ngay bài thơ 'chúc': 'Con rể cũ thành con rể mới, chồng dì nhớn làm chồng dì bé.' Bài thơ này nhanh chóng truyền ra, khiến thiên hạ đều biết Vương Củng Thần cưới em vợ. Về sau lại có một lần, Âu Dương Tu sang nhà bạn thân Lưu Thưởng làm khách, cũng mời Vương Củng Thần cùng đi. Lưu Thưởng kể một chuyện tiếu lâm ngay trước mặt khách khứa quanh phòng: Trước đây có một lão học giả dạy trẻ em học bài, học đến câu 'Thoái thực tự công, uy di uy di' trong Kinh Thi, nhấn mạnh nhắc học sinh là 'Nhớ lấy, chữ 蛇 này phải đọc là di.' Hôm sau, cậu học trò xem ăn mày nghịch rắn trên đường đi học, bất giác quên mất thời gian, muộn lắm rồi mới đến học quán. Lão học giả truy hỏi nguyên do, cậu học trò đáp, 'Ban nãy trên đường con thấy có người nghịch rắn nên dừng chân quan sát, thấy hắn nghịch con rắn lớn rồi lại nghịch con rắn bé, nên nhỡ giờ lên lớp.'... (*)"
Chữ "rắn" trong câu cuối cùng Trương Thừa Chiếu đều phát âm là "di", kể đến đây, tự hắn không nhịn được cười trước, cười sằng sặc đến gập cả bụng.
(*) "Thoái thực tự công, uy di uy di (退食自公, 委蛇委蛇)" nằm trong bài , chữ "蛇" có hai âm đọc, một là "xà" tức con rắn, hai là "di" trong "uy di" có nghĩa ung dung tự đắc, đồng thời, chữ "di" ấy cũng đồng âm với chữ "di" (dì) tức chị em gái của vợ.
Ta có thể tưởng tượng được tâm trạng của Vương Củng Thần lúc nghe chuyện tiếu lâm này. Dầu chỉ mới có duyên gặp mặt một lần, song ta đã cảm nhận được tính y trời sinh hướng nội nhạy cảm, nỗi nhục khom lưng nhặt hốt y còn chẳng thể chấp nhận thì sao chịu được bị người đời lấy chuyện khuê môn của mình ra làm trò cười.
"Ớ? Chuyện buồn cười thế kia mà, sao cậu không cười?" Trương Thừa Chiếu ngạc nhiên hỏi ta.
Ta cười cười với hắn cho phải phép, không đáp mà hỏi tiếp: "Lúc đó Âu Dương Tu có cười không? »
"Cười chứ," Trương Thừa Chiếu nói, "Khách khứa cả phòng đều cười, sao y lại không cười! Cũng vì cái cười này mà Vương Củng Thần sinh lòng oán hận y, nói không chừng còn cảm thấy là Âu Dương Tu cố ý dẫn mình đi cho mọi người cười nhạo. Sau đó tiến hành tân chính, Âu Dương Tu làm gián quan, nhiều lần dâng sớ lên quan gia tố giác tiểu nhân trong triều, thậm chí còn công kích quan viên Ngự sử đài, nói đài quan 'đa phần không phải kỳ tài, chẳng ai có thể gọi là giả (*)'. Nếu nói không một ai xứng chức thì tất nhiên cũng bao gồm Vương Củng Thần khi đó đang làm ngự sử trung thừa. Mấy năm ấy, có không ít người trong đám bạn bè giỏi chữ nghĩa của Âu Dương Tu và y đem chuyện văn vẻ của Vương Củng Thần ra nói, ngoài sáng trong tối chế nhạo y là trạng nguyên có tiếng mà không có miếng, Âu Dương Tu lại công khai ngay trong tấu sớ như vậy, chọc Vương Củng Thần nổi giận, hạ quyết tâm đối đầu với các đại thần tân phái. Sau chuyện hặc biếm, y cười nói câu 'nhấc tay một cái bắt trọn cả lưới' có lẽ là cảm thấy oán hận nhiều năm bỗng chốc xả ra được hết, y không vui mừng sao cho được? Cái một lưới bắt trọn này không chỉ là tài tuấn quán các ủng hộ tân chính mà còn là đám bạn vẫn thường lấy văn vẻ ra kích thích y của Âu Dương Tu... Năm sau, trước khi xảy ra vụ Âu Dương Tu trộm cháu, y đã chỉ thị thuộc hạ khi xưa Lưu Nguyên Du buộc tội Âu Dương Tu, tố y phụ xướng với kẻ sĩ quán các, ngầm kết bè phái. Giờ nghĩ lại, e là vụ cháu gái ngoại cũng có tay y âm thầm nhúng vào."
(*) Chữ "giả" này ý là người làm việc chuyên về một lĩnh vực nào đó, hoặc theo một chủ nghĩa nào đó, kiểu như "giả" trong "học giả" vậy.
"Thế Tô Tử Mỹ thì sao?" Ta lại hỏi, "Tuy có thể là trong khoảng thời gian y chủ trì sự vụ Tiến tấu viện từng có ý kiến xâm phạm đến Ngự sử đài nhưng hình như chưa công kích cá nhân Vương Củng Thần bao giờ mà. Hiện giờ mọi người đều nói Vương Củng Thần hặc Tô Thuấn Khâm chủ yếu là để khiến Đỗ Diễn bãi tướng, nhưng nếu không có thù tư thì sao Vương Củng Thần lại bất mãn với quyết định tước tịch Tô Thuấn Khâm, hạ xuống làm thứ dân của kim thượng, khăng khăng thỉnh cầu kim thượng giết y đi?"
Trương Thừa Chiếu gật đầu: "Đúng vậy, tôi cũng thấy kỳ lạ đây! Thực ra quan hệ của họ trước đây cũng không tệ, kết bạn đã nhiều năm. Năm đó Tô Thuấn Khâm vào quán các làm tập hiền hiệu lý, còn là Vương Củng Thần bàn với Phạm Trọng Yêm, cùng nhau tiến cử kia mà... Tô Thuấn Khâm hình như cũng chưa từng nói câu gì mỉa mai Vương Củng Thần, nhưng Vương Củng Thần lại nhất định khai đao với y..." Hắn nghĩ ngợi, bỗng nghiêng người sáp lại gần ta, cười bảo: "Có lần tôi đến Hàn uyển có việc, thấy các học sĩ túm tụm với nhau ngồi tán gẫu, đang nói đến chuyện Vương Củng Thần hại Tô Thuấn Khâm, có học sĩ nói: 'Hắn ác với Tô Tử Mỹ như vậy không phải là vì Tử Mỹ có thù giết cha cướp vợ với hắn đấy chứ?' Mọi người nghe xong đều cười ha hả."
Ta không tiếp lời hắn. Nhớ đến phong thái của Vương Củng Thần, chỉ cảm thấy tiếc hận xiết bao: Người tướng mạo thanh nhã thoát tục nhường vậy mà lại sa vào khuyết điểm hành động theo cảm tính, không nghĩ thoáng ra được, cuối cùng nên nỗi bị mọi người phê bình xem thường. Đối mặt với tình cảnh hôm nay, chẳng biết y có từng hối hận vì ý nghĩ sai một ly đi một dặm ban đầu ấy không.
Ngày mười lăm tháng Hai là tiết hoa triêu. Theo đề nghị của Trương mỹ nhân, kim thượng mệnh hoàng hậu dẫn chúng cung quyến tới Nghi Xuân Uyển ngắm hoa, cũng mời cả mệnh phụ bên ngoài cùng đi, buổi trưa ban tiệc ở trong vườn.
Trong bữa tiệc hôm đó, Trương quý phi tỏ ra rất quan tâm tới một vị phu nhân nhà quan viên thần sắc cô quạnh, thui thủi lặng lẽ, đặc biệt sai nội thị bên người qua thăm hỏi phu nhân, sau tiệc đi ngắm hoa, lại mời phu nhân kia đồng hành, còn tự tay hái một nhành hoa thụy hương xuống, cài lên miện phu nhân, vui vẻ hòa nhã trò chuyện với thị, vẻ mặt điềm đạm thân thiện quả thật làm vị phu nhân kia vừa mừng vừa lo.
Mấy vị cáo mệnh phu nhân nhà mẹ đẻ Trương quý phi vào cung khá thường xuyên nên ta nhận ra được, nhưng vị phu nhân hôm nay thì rất lạ mặt. Quý phi đãi khách nhiệt tình hiếm có như thế làm ta cảm thấy quá mức kỳ dị, bèn bảo Trương Thừa Chiếu đi hỏi thăm thân phận của vị phu nhân kia. Hắn nhanh chóng có được đáp án: "Đó là Tiết phu nhân nhà Vương Củng Thần."
Ta đã hiểu dụng ý của Trương quý phi.
Không lâu sau, trong cung đã xảy ra một việc xác nhận phỏng đoán của ta từ một góc độ khác.
Hôm đó công chúa nói muốn ăn mơ mà Nghi Phượng Các lại hết mất, Trương Thừa Chiếu bèn tự mình xin lệnh đến Ngự thiện cục lấy. Mãi lâu sau mới về, dâng mơ lên xong tức thì lấy tay áo lau khóe mắt.
Công chúa kinh ngạc: "Sao ngươi lại khóc?"
Trương Thừa Chiếu nghe vậy, quỳ xuống đánh "phịch" một tiếng trước mặt công chúa, khóc lóc: "Thần vô dụng, ra ngoài bị người ta ức hiếp, làm mất thể diện của công chúa."
Công chúa liền hỏi hắn: "Ai ức hiếp ngươi?"
Trương Thừa Chiếu đáp: "Ban nãy thần lấy mơ từ Ngự thiện cục về, đi qua Nội Đông Môn, thấy đằng trước có mấy tên tiểu hoàng môn đẩy một cái xe chặn trước cửa, đi chậm rì rì. Thần lo công chúa đợi lâu, bèn hòa nhã nói với họ: 'Các vị có thể đi nhanh hơn chút được không, hoặc là cho tôi đi trước với.' Ai ngờ họ như ăn phải thuốc nổ, quay phắt lại mắng thần vài câu. Thần còn muốn nói lý với họ nên bảo: 'Tôi đi làm việc theo lệnh Phúc Khang công chúa, công chúa còn đang chờ tôi về phục mệnh, xin các vị châm chước nhường cho.' Vậy mà họ lại la lối: 'Bọn ta làm việc cho Trương quý phi đây. Công chúa thì làm sao? Công chúa to hơn được quý phi chắc? Lại nói, quý phi còn là mẹ công chúa đấy!'"
Công chúa nghe thế, nhất thời nổi sùng: "Láo xược! Chúng dám nói thế thật?"
Trương Thừa Chiếu gật đầu như gà mổ thóc: "Dạ, dạ, đúng là nói thế. Thần nghe xong cũng phát tức, đi tranh luận phải quấy với họ, nói, đến Miêu thục nghi công chúa cũng chỉ gọi tỷ tỷ, Trương quý phi lấy đâu ra cái phúc mà dám xưng là mẹ công chúa. Họ nói không lại thần, còn muốn đánh thần, thần nóng nảy gạt tay một cái, không cẩn thận đụng một cái rương trên xe đổ xuống. Đúng lúc đó Giả bà bà từ trong cung đi ra, vừa vặn bắt gặp, tức khắc ba máu sáu cơn nổi hết lên, đùng đùng bạt tai thần mười mấy cái, mắng: 'Đựng trong đây là bảo bối đến trong cung cũng chẳng có, làm vỡ mười cái mạng ti tiện nhà bay cũng chẳng đền nổi đâu!'"
"Cái gì? Mụ ta còn dám đánh ngươi?" Công chúa nhíu mày, cả giận, "Con mụ mập ú này càng ngày càng đáng ghét rồi."
"Lại chẳng ạ!" Trương Thừa Chiếu khóc lóc kể lể, "Thần chịu chút uất ức cũng không sao, nhưng thấy chúng miệt thị công chúa như vậy, thật sự không nuốt nổi cục giận này. Hôm nay chúng dám đánh thần, ngày mai chẳng biết sẽ còn thế nào với công chúa..."
Công chúa bị câu này của hắn kích thích, tức thì đập bàn, đang định nói gì thì ta cản nàng lại, nói: "Công chúa, tạm thời nhịn xuống đã, ngẫm lại lời quan gia dạy người đi."
Nàng sửng sốt: "Cái gì?"
Ta nhắc nhở nàng: "Hít sâu."
Công chúa không khỏi phì cười, cơn giận nguôi đi phần nào.
Ta quay lại nói với Trương Thừa Chiếu: "Bọn chúng tuy ngang ngược, nhưng chắc gì cậu đã không sai? Hẳn cậu thấy chúng chỉ là tiểu hoàng môn, quát mắng ra lệnh chúng nhường đường nên mới chọc bọn chúng bất mãn."
Trương Thừa Chiếu ngượng ngùng trong chớp mắt, còn muốn ngụy biện thêm, ta giơ tay ra hiệu hắn ngậm miệng, nói: "Tôi xin Miêu nương tử điều cậu qua đây không phải là muốn cậu gây chuyện thị phi cho công chúa. Hậu cung khác với những nơi khác, một chút chuyện nhỏ thôi cũng có thể gây náo loạn không cách nào thu dọn được. Cậu mà không biết bơn bớt lại, mưu toan mượn thanh thế công chúa huênh hoang tứ tung thì chẳng bằng đến từ đâu trở lại nơi đó đi."
Đây là lần đầu tiên ta dùng giọng nghiêm nghị như vậy nói chuyện với hắn. Hắn sững sờ hồi lâu rồi mới quay sang công chúa, cầu khẩn: "Công chúa..."
Lúc này công chúa tựa hồ cũng hiểu ra, làm bộ hít sâu rồi cười với Trương Thừa Chiếu: "Cha bảo ta lúc tức giận thì hít sâu, nghĩ lại thêm vài lượt. Hiện giờ ta nghĩ thông suốt rồi, không tức nữa."
Trương Thừa Chiếu rất thất vọng, cũng chẳng khóc nữa, nhìn công chúa, lại đưa mắt sang ta, chợt mở miệng: "Thực ra là tôi nhớ tới chuyện Trương nương tử và Giả bà bà hãm hại cậu năm đó nên mới nuốt không trôi cục giận này. Chúng ta đều khổ cực làm việc cho công chúa, dựa vào đâu cũng bị họ đánh tới mắng lui dồn vào chỗ chết như thế chứ!"
Công chúa nghe câu này, mắt lại mở to: "Ngươi nói cái gì? Trương nương tử và Giả bà bà từng hãm hại Hoài Cát?"
Trương Thừa Chiếu lập tức đáp dạ vang dội, ta muốn chặn hắn lại, nhưng công chúa lại bắt ta im miệng, lệnh Trương Thừa Chiếu nói hết, thế là hắn chẳng màng ta ngăn cản, một năm một mười kể lại toàn bộ chuyện đèn lưu ly năm đó cho công chúa nghe.
Công chúa nghe rất yên lặng, không tức giận gì rõ ràng, cụp mắt suy tư trong khoảnh khắc, bỗng truy vấn Trương Thừa Chiếu chuyện hôm nay: "Giả bà bà nói trong cái rương ngươi đụng đổ là bảo bối trong cung cũng không có, ngươi có biết là cái gì không?"
Trương Thừa Chiếu trả lời: "Sau đó mụ ta có mở ra kiểm tra, là một bình hoa lớn sắc men màu đỏ nâu."
"Men màu đỏ nâu?" Công chúa ngẫm nghĩ, nói: "Lẽ nào là đồ sứ đỏ Định Châu? Nghe nói đồ sứ lò Định rất ít món có màu đỏ, nung không dễ, màu sắc nhạt đậm cũng rất khó khống chế, bởi vậy nên rất đắt giá. Cha không muốn trong cung dùng đồ quá xa xỉ nên đã hạ lệnh không cho phép Định Châu tiến cống đồ sứ đỏ. Bình hoa này của Trương nương tử là từ đâu ra?"
Trương Thừa Chiếu nói: "Xem chừng là từ ngoài cung chuyển vào... Có lẽ là ông bác Trương Nghiêu Tá tìm về lấy lòng bà ấy."
Công chúa không nói gì, tròng mắt thong thả chuyển động quan sát xung quanh, một lát sau, cười phân phó Trương Thừa Chiếu: "Ngươi ra Hậu uyển hái cho ta một bó hoa lê, sau đó tìm một bình sứ thô màu trắng cắm hoa vào."
Trương Thừa Chiếu ngây người: "Dùng bình sứ thô màu trắng ấy ạ?"
"Ừ." Công chúa nói: "Bình hoa càng xấu càng tốt... Tốt nhất là có chỗ nứt vỡ, không có thì người đập ra một chỗ."
Trương Thừa Chiếu nhanh chóng đi hái hoa lê, nhưng tìm bình hoa phù hợp với điều kiện của công chúa thì khá phí công. Cuối cùng chạy ra ngoài, tìm được trong phòng một đầu bếp nữ, đập ra vết nứt công chúa cần rồi hí ha hí hửng cắm hoa lê vào dâng cho công chúa.
Công chúa đặt bình hoa này ở chỗ dễ thấy nhất trong gác, thế nên kim thượng bước vào là phát hiện ra ngay.
"Hoa lê nở đẹp đấy, có điều bình lại không xứng." Kim thượng nhận xét, "Hoa và bình đều màu trắng, nhưng cũng không cùng một sắc điệu, hoa màu trắng tuyết càng làm bình trông có vẻ nhọ nhem, lại còn có vết nứt, nom rõ gai mắt. Mau đổi cái khác đi."
"Con gái làm gì có bình hoa nào nữa đâu mà đổi!" Công chúa hậm hực trả lời, "Rõ ràng cha có bình sứ đỏ Định Châu mà không cho con."
Kim thượng ngạc nhiên: "Cha làm gì có bình sứ đỏ Định Châu? Con thường đi Phúc Ninh Điện, chẳng lẽ từng trông thấy ở đó?"
"Phúc Ninh Điện thì không có, nhưng Ninh Hoa Điện có!" Công chúa kéo tay áo phụ thân, sẵng giọng, "Cha bất công, ban bình sứ đỏ Định Châu cho Trương nương tử mà không cho con, con đương nhiên buộc lòng phải tìm đại một cái bình xấu nứt để cắm hoa rồi."
Kim thượng nhíu mày: "Ninh Hoa Điện có đồ sứ đỏ Định Châu?"
Công chúa gật đầu: "Vâng, rất nhiều người từng nhìn thấy rồi."
Kim thượng đứng bật dậy, cất bước ra cửa. Công chúa đuổi theo, đợi đến khi không thấy bóng dáng phụ thân đâu nữa thì quay lại nhìn ta, nhí nhảnh lè lưỡi với ta.
Hôm sau, tất cả mọi người trong cung đều hay tin kim thượng nổi cơn thịnh nộ đập đồ sứ đỏ Định Châu trong gác quý phi.
Nghe nói kim thượng vừa vào gác quý phi trong Ninh Hoa Điện đã đưa mắt nhìn khắp nơi như tìm kiếm thứ gì. Sau trông thấy bình sứ đỏ Trương quý phi vừa bày ra, hỏi ả lấy từ đâu ra, Trương quý phi trả lời là Vương Củng Thần hiến tặng, kim thượng giận dữ, mắng ả: "Ta từng nhắc nàng chớ có nhận quà biếu của quan lại, sao nàng không nghe!" Dứt lời lập tức nhấc búa đập nát bình hoa. Trương quý phi sợ đến hoa dung thất sắc, quỳ rạp xuống tạ tội, kim thượng cứ mặc ả quỳ thế, mãi sau mới cho đứng lên.
"Ta không ngờ cha lại tức giận vậy." Sau đó, công chúa nói với ta, "Thực ra ta chỉ muốn khiến cha mắng Trương nương tử xa xỉ sẽ làm người trong cung học theo, không cho bà ta dùng bình hoa đó nữa, làm bà ta khó chịu một hồi, cũng trút giận cho huynh."
Ta nhặt một sợi tơ phất phơ bám trên chân mày nàng ra: "Công chúa không cần làm việc này cho thần. Sự việc đèn lưu ly qua đã rất lâu rồi, huống hồ lúc ấy cũng không gây nên ảnh hưởng gì xấu tới thần."
Công chúa xua tay: "Cơ mà, cứ nghĩ tới bà ta ức hiếp huynh như thế, ta lại tức anh ách, tức hơn cả lúc bà ta ức hiếp ta nữa." Nói đoạn, công chúa nắm lấy tay ta, nghiêm túc nói, "Sau này có ai ức hiếp huynh, nhất định phải nói cho ta biết đấy. Ta biết huynh biết hít sâu, nhưng ta cứ muốn bảo vệ huynh cơ."
8. Triều báo
Ba ngày sau, Trương Thừa Chiếu đưa một tờ triều báo tới trước mặt ta, phấn chấn ra mặt nói với ta: "Quan gia đuổi Vương Củng Thần về Doanh Châu rồi."
Triều báo là quyển tập tin tức do Tiến tấu viện biên tập, ghi lại chiếu chỉ gần đây, cuộc sống hằng ngày của hoàng đế, bổ nhiệm bãi miễn chức vụ của quan lại, tấu chương chiến báo của bá quan văn võ, sau khi được Xu mật viện xét duyệt, Tiến tấu viện sẽ sao chép rồi truyền báo cho thiên hạ và quan viên chư ty sở trong triều xem.
Ta mở phần của ngày hôm nay ra đọc, nhìn thấy tin thứ nhất được đăng về ngày hôm qua là: "Lễ bộ thị lang, hàn lâm thị độc học sĩ, Long Đồ Các học sĩ Vương Củng Thần rời kinh, tiếp tục giữ chức tri Doanh Châu kiêm Cao Dương Quan lộ an phủ sứ (*)."
(*) An phủ sứ là chức quan phụ trách quân vụ trị an các lộ binh mã địa phương, do tri châu, tri phủ địa phương đó kiêm nhiệm.
Điều này cũng nằm trong dự liệu của ta. Nếu kim thượng đã biết việc y dâng đồ sứ đỏ Định Châu biếu Trương quý phi thì dưới cơn thịnh nộ tất sẽ không giữ y lại làm quan kinh thành.
Quả thật đáng tiếc, thực ra y không hề có vẻ gì là giống một nịnh thần. Ta cảm thán trong lòng. Có lẽ trong tình huống tứ cố vô thân, thấy Trương quý phi chủ động giao hảo nên mới có qua có lại, huống hồ chắc chắn y biết chuyện trước đây sẽ để lại ấn tượng thế nào cho trung cung nên lấy một phần lễ hậu biểu lộ lòng mình hướng về chủ nhân hậu cung, tiếc là làm quá lộ liễu, phạm vào điều tối kỵ của kim thượng.
Tin tức trong triều báo vô cùng giản lược, tấu chương cũng chỉ lấy vài câu trọng yếu. Xem tiếp xuống, phần lớn là người nào bãi chức, người nào điều ra ngoài, người nào vào cung trả lời chất vấn, hơi đặc biệt hơn chút thì có tin tức về thi đình: "Kim thượng chọn ngày mồng ba tháng Ba thi tiến sĩ do Lễ bộ tấu danh (*) tại Sùng Chính Điện." Bên dưới liệt kê danh sách mười tiến sĩ đứng đầu do Lễ bộ tấu danh.
(*) Trước kỳ thi đình, Lễ bộ đệ trình danh sách tiến sĩ muốn trúng tuyển lên cho hoàng đế xét duyệt thì gọi là "tấu danh".
Trương Thừa Chiếu thò đầu lại, vừa xem triều báo vừa quan sát sắc mặt ta, một lát sau, nói: "Triều báo bây giờ càng ngày càng không ra sao, chuyện gì cũng vắn tắt, chẳng chi tiết gì cả. Nếu Tô Thuấn Khâm mà còn ở Tiến tấu viện, biên về vụ Vương Củng Thần rời kinh này nhất định sẽ viết thêm chuyện kim thượng tức giận đập đồ sứ đỏ Định Châu bên dưới. Phần tiến sĩ Lễ bộ tấu danh này quá nửa cũng sẽ thêm dăm câu giới thiệu kèm theo..."
Câu này hắn nói không sai. Năm đó Tô Thuấn Khâm chủ biên triều báo, đối với những sự kiện trọng đại đều tự thuật rất tường tận, ngôn ngữ ngắn gọn nhưng lại có thể giải thích đầy đủ tiền căn hậu quả, có lúc thậm chí còn thêm bình luận đằng sau, có điều, cũng bởi vậy mà bị tố là nghị luận xằng bậy trong triều báo, sau đó trên trình hoàng đế, dưới truyền tứ phương, biến thành tội vượt cấp, cũng có nghĩa mưu đồ đại diện quân chủ. Cuối cùng kim thượng lệnh Trung thư môn hạ và Xu mật viện định ra hình thức triều báo, Tiến tấu viện không được sửa đổi lung tung, thành thử triều báo trở nên đơn giản như bây giờ. Mà một trong số những nguyên nhân khiến Tô Thuấn Khâm bị mưu hại xóa tên, cưỡng chế đình chỉ công tác, rơi vào tình cảnh "vĩnh viễn không thể phục hồi", cũng là vì khi y chủ trì công tác triều báo, tin tức tuyển chọn và nội dung tấu chương đều có khuynh hướng nghiêng về phái tân chính, do đó đắc tội không ít người.
Ta gác tờ báo sang một bên, hỏi Trương Thừa Chiếu: "Sao cậu lấy được triều báo hôm nay?"
Hắn cười hềnh hệch: "Hôm nay tôi có việc đi tìm một người anh em hầu hạ bên Tiến tấu viện, thấy hắn đang chỉnh lý triều báo, chuẩn bị gửi đến các ty. Tôi liếc thấy bên trong có tin về Vương Củng Thần, nghĩ cậu nhất định sẽ có hứng thú nên thuận tay lấy một tờ."
Ta không kìm được bật cười, nhưng vẫn không quên nhắc nhở hắn: "Say này đừng tùy tiện lấy thế, bây giờ chúng ta làm việc trong hậu cung, bị người khác biết là xem triều báo cũng không hay."
Hắn khoát tay: "Cậu yên tâm đi, thân thủ của tôi làm sao mà bị người khác phát hiện được? Chỉ cần cậu không nói..."
Lời còn chưa dứt, lại nghe một người đột ngột đẩy cửa vào, cất cao giọng cười: "Ta phát hiện được đấy!"
Chúng ta đều cả kinh, cũng may ngay sau đó phát hiện ra là công chúa.
Nàng đi tới trước mặt ta, chìa tay đòi triều báo: "Cho ta xem với, bằng không ta sẽ nói cho người khác biết."
Ta đành phải đưa báo cho nàng. Nàng cụp mắt đọc, lập tức nhìn thấy tin về Vương Củng Thần trước tiên. Xem xong, nàng hỏi ta vẻ nghi hoặc: "Tay Vương Củng Thần này có phải người tốt không? Cha từng kể ta nghe chuyện y xin từ chối danh hiệu trạng nguyên, khen y trung thực không ngớt, nhưng y tặng Trương nương tử bình hoa đắt giá như vậy lại không giống việc quan tốt sẽ làm..."
Lòng người thói đời trong đôi mắt trong veo của nàng bây giờ chỉ có hai màu đen trắng, đối với sĩ phu trong triều, nàng cũng chỉ biết chia làm "quan tốt" và "quan xấu". Thế nên câu hỏi của nàng làm ta hơi do dự, nhất thời khó mà tìm được cách nào giải đáp cho thích hợp.
Trương Thừa Chiếu lại mở miệng trước: "Công chúa, nghe nói hai ngày nay quan gia bảo người học thuộc 'Nhạc Dương Lâu ký' và 'Túy Ông Đình ký'?"
"Phải đó," Công chúa đáp rất chi buồn rầu, "Thật sự khó thuộc lắm lắm. Ta học một ngày, chừng như đã nhớ rồi, nhưng vừa hơi buồn ngủ một cái là phát hiện ra 'Nhạc Dương Lâu ký' trong đầu ta chỉ còn đúng một câu 'Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ'. 'Túy Ông Đình ký' còn thảm hơn, chỉ nhớ mỗi Thái thú vui đến vui đi, còn sao lại vui thì nghĩ thế nào cũng không ra... Cha còn bắt ta ngày mai phải đọc thuộc cho cha nghe, làm sao bây giờ? Ta chỉ muốn đâm đầu vào tường cho rồi!"
Trương Thừa Chiếu khom người lắng nghe, không ngừng ra chiều thông cảm, nhưng lời nói sau đó đối với công chúa quả thực chẳng khác nào uy hiếp: "Công chúa bảo trọng, việc học thuộc không thể để chồng chất lên được, bằng không ngày mai sao học thuộc tiếp được 'Thương Lang Đình ký' đây?"
Công chúa kinh hãi: "Còn phải thuộc 'Thương Lang Đình ký' nữa?"
Trương Thừa Chiếu đáp: "Đúng ạ, thần suy ra được cách quan gia chọn bài cho công chúa học thuộc là như thế nào rồi."
Công chúa vội vàng truy vấn: "Như thế nào?"
Trương Thừa Chiếu chỉ vào tên Vương Củng Thần: "Tay Vương Củng Thần này hại ai, quan gia sẽ bắt người thuộc bài của người đó."
Công chúa ngạc nhiên, Trương Thừa Chiếu lại tiếp tục giải thích: "Năm đó Vương Củng Thần vạch tội Đằng Tông Lượng, bạn của Phạm Trọng Yêm, nói ông ấy tham ô tiền công sứ, khiến ông ấy bị giáng chức đi coi giữ Tam Lăng Quận, giày tới vò lui, cuối cùng cách chức cả Phạm Trọng Yêm đi Đặng Châu. Năm sau, Đằng Tông Lượng xây xong Nhạc Dương Lâu, đặc biệt mời Phạm Trọng Yêm viết 'Nhạc Dương Lâu ký'. Sau đó Vương Củng Thần lại xúi giục thuộc hạ và bè cánh hặc Âu Dương Tu, một lần không được, lại làm lần hai, cuối cùng biếm y đến Trừ Châu, kết quả Âu Dương Tu viết 'Túy Ông Đình ký' ở đó... Thế nên kế tiếp, quan gia nhất định sẽ bảo công chúa học thuộc 'Thương Lang Đình ký', bởi Tô Thuấn Khâm chạy đến Tô Châu viết nên bài này, toàn bộ cũng do Vương Củng Thần ban tặng."
Công chúa nghe xong, thở dài một tiếng: "Tay Vương Củng Thần này đáng ghét thật."
Trương Thừa Chiếu lập tức gật đầu đáp: "Quả thật đáng ghét. Nếu y không gây ra lắm chuyện vậy thì bây giờ công chúa nào phải học thuộc mấy bài này đâu? Thế nên công chúa hẳn đã rõ y là quan tốt hay quan xấu rồi chứ?"
Công chúa cười nói: "Hại ta học lắm bài văn vậy, đương nhiên là quan xấu rồi!"
Lý do này làm ta nghe cũng không nhịn được cười, nhưng vẫn nói rõ với công chúa: "Công chúa, đại thần xấu hay tốt không thể dùng số bài người phải thuộc ít hay nhiều để phân chia được, người thiện hay ác cũng không phải chỉ cần một hai chuyện là có thể phán định. Huống chi người ác cũng có thể làm vài việc tốt trong đời, mà người tốt đời này cũng khó đảm bảo chưa từng làm chuyện gì hồ đồ gây thương tổn cho người khác. Vương Củng Thần chăm học, trung thực, đó đều là cái tốt của y, trước đây từng có vài chuyện được người ta coi là chiến tích, xin từ chối danh hiệu trạng nguyên và níu vạt áo hoàng đế tiến gián thậm chí còn được lưu truyền thành giai thoại, nhưng về sau lại công kích đại thần tân phái, nhất là vụ việc Tiến tấu viện, y làm rất quá đáng, là tranh đấu bè phái, cũng là để xả giận tư, hại rất nhiều danh sĩ quán các, hiện tại và tương lai đều sẽ có rất nhiều người mắng y vì lẽ đó."
Công chúa tò mò hỏi ta: "Thỉnh thoảng nghe người ta nói tới vụ việc Tiến tấu viện, nhưng ta vẫn không biết rốt cuộc là xảy ra chuyện gì. Vương Củng Thần hại đám Tô Thuấn Khâm như thế nào?"
"Trước kia thần hầu hạ ở Tiền tỉnh, thường nghe văn thần nghị luận nên biết rất rõ chân tướng chuyện này!" Trương Thừa Chiếu không đợi ta trả lời, tức thì cao hứng bừng bừng nói với công chúa.
Công chúa cũng thuận thế bảo hắn: "Vậy ngươi kể đi."
Trương Thừa Chiếu liền thuật từ đầu: "Năm đó Phạm tướng công thu hút sĩ tử tài tuấn một thời, tụ tập ở quán các... Công chúa biết quán các có chức năng gì không?"
Công chúa đáp: "Quán các chính là Sử quán, Chiêu văn quán, Tập hiền viện và Bí các, người làm việc trong đó phụ trách biên sử, soạn sách và quản lý thư tịch văn hiến các loại, có đôi khi cũng sẽ giảng giải kinh nghĩa cho cha."
"Không chỉ có vậy," Trường Thừa Chiếu giải thích, "Quán các còn kiêm trách nhiệm dạy bảo học trò, là nơi triều đình trữ nhân tài đợi bổ nhiệm. Người nhậm chức ở quán thường mấy năm sau đều sẽ làm việc ở lưỡng chế, làm tri chế cáo, trung thư môn khách hoặc hàn lâm học sĩ, có thể thăng lên nữa, còn có thể vào nhị phủ, làm tể tướng hoặc xu mật sứ. Cũng chính bởi vậy nên con đường vào quán các vô cùng gian nan. Bình thường sẽ lấy năm người đỗ đầu tiến sĩ, điều sang nơi khác làm quan mấy năm trước, ba cái tên đứng đầu hết một nhiệm kỳ sẽ được gọi về, đứng thứ tư thứ năm thì hai nhiệm kỳ, trở lại kinh thành, trải qua trọng thần triều đình tiến cử, lại qua hoàng đế hạ chỉ triệu thí (*), thi xong một trận, qua cửa rồi mới có thể vào quán các nhậm chức. Đương nhiên, ngoài những cái này ra còn có người vào được nhờ thưởng công hoặc đặc ân, nhưng văn sĩ lễ quyến bản triều, quan gia coi trọng nhất là khoa cử, hiện giờ không có xuất thân tiến sĩ thì không thể lên được chức cao, thế nên người trong quán các cũng chia đẳng cấp, người xuất thân tiến sĩ, lại trải qua triệu thí tự cho là mình cao hơn, thường kiêu ngạo hơn những người nhậm chức nhờ đặc ân."
(*) Một phương thức tuyển chọn quan lại thời phong kiến, là hoàng đế gọi đến phỏng vấn trực tiếp.
Công chúa mỉm cười: "Đám Tô Thuấn Khâm nhất định là tiến sĩ đỗ đạt đúng không?"
Trương Thừa Chiếu gật đầu, kể tiếp: "Phải ạ. Tô Thuấn Khâm vốn là con nhà tướng môn thế gia, ông nội y Tô Dịch Giản là trạng nguyên thời Thái Tông, làm quan tới chức phó tướng tham tri chính sự, cha y Tô Kỳ làm quan tới Công bộ lang trung, mà ông ngoại y Vương Đán thì là tể tướng triều Chân Tông. Y vốn được ké cha bổ ấm một chức quan huyện úy, nhưng y coi rẻ chức quan này nhỏ nhoi, từ chức, tham gia tiến cử, đỗ tiến sĩ. Sau lại được Phạm Trọng Yêm tiến cử, tham gia triệu thí giành được chức quan trong quán các, ngoài tập hiền hiệu lý ra thì còn làm giám tiến tấu viện. Sau khi vào quán các, bạn bè y kết giao đa số đều cùng một dạng, là người đỗ đạt có tài có tiếng. Những người này đều ủng hộ quốc sách của Phạm tướng công, tuy là đảng quân tử nhưng đã quen thói cuồng ngạo, chỉ điểm giang sơn, nhìn quyền quý bằng nửa con mắt, lại thường trào phúng quan viên Ngự sử đài văn dốt võ nát, càng ngày càng chọc giận Vương Củng Thần bất hòa với Phạm tướng công và Đỗ tướng công. Vả lại quán các còn là nơi trữ nhân tài, những kẻ sĩ đối đầu với y hôm nay rất có thể sẽ là trọng thần triều đình mai sau, thế nên y một mực muốn cách chức danh sĩ quán các trục xuất khỏi kinh, nhưng khổ nỗi chưa kiếm được đối sách, mãi cho đến khi Tiến tấu viện mở hội tế thần mùa thu..."
"Là cái lễ tế thần người kinh đô mở vào hai mùa xuân thu mỗi năm ấy hả?" Công chúa hỏi.
Trương Thừa Chiếu thưa: "Vâng. Người kinh đô mở tiệc tụ hội nhân dịp đó đã thành tập tục. Khi ấy, Tô Thuấn Khâm theo lệ cũ của Tiến tấu viện bán chút giấy cũ, lại tự mình bỏ ra một vạn đồng, chuẩn bị mở tiệc chiêu đãi đám bạn bè danh sĩ quán các kia..."
"Chỉ mời những người đỗ đạt thôi à?" Công chúa cười hỏi.
"Đúng ạ." Trương Thừa Chiếu thuận thế nịnh nọt, "Công chúa thông minh thật đấy, đoán cái nào trúng ngay cái đó! Lúc ấy có một thái tử xá nhân (*), tên là Lý Định, cũng muốn tham gia vào hội tế thần của Tiến tấu viện, nhưng bị Tô Thuấn Khâm từ chối, còn cười bảo y: 'Trên mâm cỗ đã chẳng có man la tất giáp thì lý nào lại có ghế cho quốc xá ngu bỉ?', man la tất giáp là món bánh kẹp thịt dê lợn của người Phồn; quốc xá ngu bỉ chỉ bác sĩ Quốc tử giám, Thái tử trung xá, ngu bộ, bỉ bộ viên ngoại là những chức quan dùng để bổ ấm cho con em quan lớn. Ngụ ý là yến hội của bọn ta chỉ mời tao nhân mặc khách, cái ngữ con em quan lớn người ngợm chẳng khác gì món bánh kẹp thịt tạp nham của dân Phồn như ngươi miễn tham gia."
(*) Là chức quan theo hầu làm bạn với thái tử, người được bổ nhiệm thường chọn từ con em thế gia vọng tộc, thuộc Thái tử trung xá.
Công chúa cười to: "So sánh người ta với bánh kẹp thịt của người Phồn, Lý Định còn biết giấu mặt mũi đi đâu... Y nuốt không trôi cục tức này, nhất định sẽ trả thù."
Trương Thừa Chiếu vỗ tay: "Lại chẳng à! Lý Định ghi hận trong lòng, tuy không tham gia hội tế thần nhưng lại cài tai mắt nằm vùng trong yến hội. Đám danh sĩ quán các này cũng không cẩn thận, uống đến ngà ngà rồi, sử quán kiểm thảo (*) Vương Thù sai người cho gọi hai nữ kỹ vào ngồi chung mua vui, điện trung thừa, tập hiền hiệu lý Vương Ích Nhu càng thêm hăng hái, ngẫu hứng làm bài 'Ngạo ca', trong thơ có hai câu: 'Say nằm Bắc Cực khiến vua dìu, Chu Công Khổng Tử lùa làm nô.'"
(*) Chức quan chưởng quản việc biên soạn sách sử.
Công chúa nghe xong nổi giận đùng đùng, mắng: "Muốn sai khiến hoàng đế đi dìu y? Hoang đường!"
Trương Thừa Chiếu lập tức tự vả mình một cái, nói: "Thần nhất thời vô ý, kể thẳng quá, xin công chúa thứ tội."
Công chúa nghe câu này còn tức thì hoàn toàn có thể tưởng tượng ra tâm trạng của kim thượng khi nghe. Ta bèn cúi người, khuyên công chúa: "Đây chỉ là lời thiếu niên ngông cuồng của Vương Ích Nhu, vốn không phải cố ý."
Cũng may công chúa nóng lòng nghe tiếp diễn biến về sau nên không tính toán gì nhiều, xua tay nói: "Quên đi, dù sao sau đó y cũng nhận trái đắng rồi. Thừa Chiếu kể tiếp đi."
Trương Thừa Chiếu tuân mệnh, lại nói: "Tai mắt Lý Định nghe được câu ấy lập tức đi ra nói cho y. Lý Định tìm ngay tới Vương Củng Thần, thuận lại việc này. Vương Củng Thần nhanh chóng vào cung diện thánh, tố cáo chuyện Tiến tấu viện. Quan gia giận dữ, lập tức lệnh Hoàng thành ty tróc nã người tham gia yến hội. Khi đó trên đường phố Biện Kinh toàn là nội thị tay cầm binh khí, cưỡi ngựa phi phóng đi bắt người, thần dân không biết xảy ra chuyện gì, cả thành ầm ĩ nháo nhào, tiếng hô to gọi nhỏ đến trong cung cũng nghe thấy được."
"Bắt được toàn bộ?" Công chúa tròn mắt hỏi.
"Tất nhiên rồi ạ," Trương Thừa Chiếu hớn hở, "Đám kẻ sĩ quán các đó đều là thư sinh, sao có thể phản kháng! Chỉ một loáng đã bắt tất vào tù. Sau đó Vương Củng Thần suất lĩnh Ngự sử đài hặc Tô Thuấn Khâm tội biển thủ, Vương Ích Nhu tội phỉ báng Chu Khổng, đám Vương Thù và kỹ nữ ngồi chung, yêu cầu quan gia trừng trị từng người, thậm chí còn thỉnh quan gia tru diệt Tô Thuấn Khâm và Vương Ích Nhu. Mà Hàn Kỳ thì ra sức can gián, nói từ khi bệ hạ lên ngôi tới nay chưa từng làm chuyện tru diệt sĩ phu, một khi lỗ mãng, người nghe thấy ắt sẽ kinh hãi."
Công chúa gật đầu: "Họ tuy có hơi ngông cuồng càn rỡ nhưng cũng không đến nỗi phải rơi đầu."
Trương Thừa Chiếu nói: "Công chúa thật không hổ là con gái hoàng đế, nghĩ giống y hệt quan gia. Sau nữa, quan gia gạch tên giáng Tô Thuấn Khâm xuống làm thứ dân, các danh sĩ còn lại đều bị giáng chức điều ra ngoài, quán các nhất thời vắng tanh, trong một khoảng thời gian dài có muốn soạn sách, biên sử, giảng kinh cũng không tìm được ai thích hợp, triều báo cũng ngừng ra rất lâu. Bởi nhất thời không tìm được nhiều người siêu quần xuất chúng như vậy trong tiến sĩ để bổ sung vào quán các nên quan gia lại nảy ra ý định muốn trị cái tật ngả ngớn của bọn tài sĩ, bè cánh Vương Củng Thần bèn nhận ý chỉ, đề cử vài tay chất phác khuyết thiếu tài cán vào..."
Hai mắt công chúa chợt sáng bừng, hỏi: "Tay Dương An Quốc kia cũng được bổ sung vào khoảng thời gian ấy?"
Trương Thừa Chiếu cười gật đầu: "Đúng ạ, đúng ạ, cái tay dở hơi ấy được bổ sung vào quán các chính lúc đó."
Ta nghe đến tên Dương An Quốc cũng muốn phì cười. Người này tài sơ học thiển, ngôn hành thô bỉ, mỗi lần giảng đọc kinh nghĩa cho kim thượng, lời nói đều lẫn tạp từ ngữ dân gian quê mùa, thế nên quan thần phụng dưỡng trong cung cứ thấy gã có cử chỉ gì là phì ra cười trước. Có một hôm, gã giảng giải "Một ống cơm một bầu uống" cho kim thượng, miệng chỉ toàn tiếng địa phương: "Nhan Hồi nghèo rớt mồng tơi, trong nhà chỉ có một tô kê ăn, một hồ nước uống." Một lần khác, giảng tới câu "Chủ động tặng bó tu, ta bảo ban không từ" trong "Luận ngữ", tu là thịt khô, mười miếng thành một bó. Người xưa gặp nhau tất sẽ mang vật làm lễ ra mắt, bó tu là cái lễ ít ỏi nhất. Câu này vốn là "Kể từ lúc lấy bó tu làm lễ mọn cầu thầy, ta chưa bao giờ không chỉ bảo dạy dỗ." Kim thượng nghe vậy mỉm cười. Hôm sau ban thưởng rộng rãi cho ngôn quan, những người khác đều thành khẩn từ chối không dám nhận, duy chỉ có Dương An Quốc là thản nhiên nhận lấy. Việc này đã sớm truyền thành trò cười trong cung, đến kim thượng khi giảng "Luận ngữ" cho công chúa cũng từng ngậm cười nhắc tới.
"Kẻ nực cười trong đây không chỉ có mỗi Dương An Quốc thôi đâu," Trương Thừa Chiếu lại nói, "Trong quán các còn có một Bành Thừa cũng là tay thần kỳ lắm đó! Sau khi vào Tiến tấu viện, hàn lâm học sĩ thiếu một vị trí, quan gia muốn chọn từ đám văn thần trong quán các bổ sung vào, thực sự không tìm được ai đủ tốt, bèn chọn Bành Thừa lớn tuổi nhất. Sau đó ông ta thảo chiếu lệnh cho quan gia, câu cú từ ngữ còn buồn cười hơn nữa kia. Có lần một nguyên soái thủ giữ biên ải xin được vào triều yết kiến, quan gia gọi Bàng Thừa đến, nói với ông ta ý của mình, bảo ông ta thảo chiếu phúc đáp, sau đó Bành Thừa viết vào chiếu đáp rằng: 'Chờ đến bận hiu hiu thì tà tà mà đi'."
Công chúa lấy làm khó hiểu, nhăn mày hỏi ta: "Câu nghe tối nghĩa thế, ý là gì vậy? Hoài Cát, huynh hiểu không?"
Ta mỉm cười: "Thần cũng chỉ có thể suy đoán. Có lẽ ông ấy muốn nói, đợi bao giờ trời lạnh thì được phép khởi hành."
Trương Thừa Chiếu cười nói: "Chính là ý đó đấy. Lời gốc của quan gia là: 'Đợi khi nào vào thu mát mẻ, ông hẵng về.' Chiếu thư này truyền ra làm vài hàn lâm học sĩ ngã lăn ra cười. Bành Thừa còn rất chuộng dùng kiểu câu này. Sau nữa thì đến vụ đại thần Điền Huống – tri Thành Đô Phủ, khi ấy Tây Thục gặp phải họa mất mùa, Điền Huống vừa vào Kiếm Môn Quan hiểm trở đã lập tức mở kho thóc cứu tế, sau đó dâng tấu chịu tội, Bành Thừa lại viết chiếu phúc đáp: 'Mới qua hiểm lởm nhởm đã đổ nỗi bùi ngùi', lại thành chuyện hài một thời. Năm nay Bành Thừa bị bệnh chết, đồng liêu của ông ta Vương Kỳ viết ai điếu cho ông ta, còn nhịn không được giễu ông ta một câu, viết trong ai điếu: 'Nhất là câu hiu hiu, đố ai nối gió nổi.'"
Công chúa tựa vào bàn cười một lúc, mới nói: "Thì ra mấy năm nay trong hàn lâm học sĩ cũng trộn lẫn một đám ô hợp đến vậy. Xét đến cùng, cũng là lỗi của Vương Củng Thần."
Cũng chính vì chuyện này mà Vương Củng Thần càng bị tài tử danh sĩ trong thiên hạ chỉ trích. Quốc triều rất coi trọng kẻ sĩ có học vấn văn chương, xét thấy trong quán các triều Chân Tông có không ít người học thức nông cạn, kim thượng còn đặc biệt chỉ thị: "Chức quan quán các là dành cho kẻ sĩ biết chữ nghĩa danh xứng với thực." để nâng cao điều kiện vào quán các, có một thời người được tuyển chọn đều là tinh anh thiên hạ, thế nên nhân tài bản triều xuất hiện lớp lớp, rất nhiều đại thần đã sẵn có tiếng làm chính trị lại còn nổi danh tài văn chương, đủ để lưu danh thiên cổ, trở thành danh thần quốc gia. Mà vụ việc Tiến tấu viện dẫn đến thay đổi nguyên tắc chọn kẻ sĩ vào quán các, tuy tăng thêm người chất phác cẩn trọng nhưng đồng thời cũng rất thiếu năng lực, cứ hễ giảng kinh là chỉ biết giải thích đúng từ ngữ trong sách cổ, còn có những kẻ như Dương An Quốc và Bành Thừa trà trộn trong đó, cứ thế mãi thể nào cũng sẽ gây bất lợi cho giang sơn xã tắc.
Nhưng những lời này ta chỉ nghĩ trong lòng vậy thôi chứ không nói với công chúa, Nàng trò chuyện cười đùa cùng Trương Thừa Chiếu một hồi, chợt lại hỏi: "Nhưng vì sao cái tay Vương Củng Thần này lại có quyền lực to lớn vậy, muốn hại ai là hại người đó?"
"Bởi khi đó, y là ngự sử trung thừa, chính là chức quan phụ trách giám sát bách quan đó ạ." Trương Thừa Chiếu trả lời, "Chức quyền của Ngự sử đài là duy trì trật tự bách quan, chỉnh đốn kỷ cương, khuyên nhủ hoàng đế, tham nghị triều chính và thẩm lý hình ngục. Triều đình còn có quy định, trong một trăm ngày mà ngự sử không chỉ trích được tình hình chính trị đương thời nào, lập tức biếm ra ngoài làm quan. Cho dù Vương Củng Thần không có thù riêng với quan khác thì y cũng phải tìm cho ra người mà vạch tội, thế nên đang yên đang lành nhất định đừng đắc tội với ngự sử... Nói đến quy định trăm ngày này, trong triều còn có một chuyện hài khác: Ngự sử tiền nhiệm Vương Bình sắp tròn trăm ngày mà vẫn chưa nói được chuyện gì, đồng liêu đều rất kinh ngạc, nhưng ngẫm nghĩ rồi lại bảo: 'Có thể là Vương ngự sử đang đợi thời cơ phát ra, đã có lời ắt phải là đại sự.' Một ngày nọ, rốt cuộc cũng nghe nói y dâng trát (*) vách tội, cả đám vội báo cho nhau, cùng lặng lẽ tìm trát của ông ta, kính cẩn đọc mà học tập, chỉ thấy ông ta chỉ trích chuyện trong ngự thiện có sợi tóc. Trong bài chỉ trích ông ta còn viết thế này: 'Trang dung nghiêm kính nhường nao, chợt thấy bóng hình xoăn cuộn.'"
(*) Tên một loại công văn quan lại phong kiến dùng để tâu lên cấp trên hoặc thông báo cho cấp dưới.
Vừa nói dứt lời, Trương Thừa Chiếu đã tự cười bò ra trước, công chúa chưa hiểu được hoàn toàn, vừa ăn mơ vừa hỏi ta: "Câu chỉ trích đó của ông ta là có ý gì?"
Ta tủm tỉm đáp: "Ý ông ấy là, hoàng đế đang chuẩn bị dùng bữa, ngự dung nghiêm túc trang trọng cỡ nào, không ngờ bỗng thấy một sợi tóc yên bình cuộn mình trong đĩa."
Công chúa tức khắc há miệng ra cười, bất cẩn bị miếng mơ chưa nuốt xuống làm sặc, ho suyễn một tràng. Ta đang định đi qua chiếu cố, Trương Thừa Chiếu đã giành trước vỗ lưng cho nàng, còn bưng trà đưa nước.
Công chúa thở hổn hển, nói: "Trước đây người trong quán các nói đài quan không xứng chức, hóa ra cũng chẳng phải chỉ trích vô lý!"
Trương Thừa Chiếu tiếp lời: "Đúng thế đó! Nếu không phải quả thực đài quan có chỗ thiếu sót thì Âu Dương Tu và bạn bè quán các của y đã chẳng đem chuyện ấy ra nói hết lần này tới lần khác làm gì."
Công chúa lại cười bảo: "Lại nói, chuyện Vân nương chăm nom cũng không khác Vương ngự sử mấy. Ta mà ăn cơm không ngoan, bà ấy sẽ nêu lời tố cáo với tỷ tỷ ta. Đợi chút nữa, ta cũng bảo cha phong bà ấy làm ngự sử."
Vân nương chính là nhũ mẫu Hàn thị của nàng. Tiếp đó nàng liên tưởng ngay sang Miêu thục nghi, nói: "Tỷ tỷ cũng thế, bà mà cảm thấy ta không nghe lời bà, sẽ tố cáo ta với cha hoặc nương nương... Nhưng mà chức quan của bà cao hơn Vân nương, phong bà làm ngự sử trung thừa đi."
Ta nghe vậy cúi đầu cười, công chúa nhìn ta, cố ý ra vẻ nghiêm túc: "Huynh cười cái gì? Huynh cũng hay làm chuyện xấu, có lúc ta không muốn viết chữ đọc sách, huynh cũng sẽ đi mách với tỷ tỷ ta... Có thể coi là một thị ngự sử tri tạp sự."
Ta thu lại nụ cười, kính cẩn lễ phép khom người với nàng, nói: "Công chúa, thứ cho thần nói thẳng. Thần thiết nghĩ, công chúa phong thần làm hàn lâm học sĩ sẽ thỏa đáng hơn."
"Vì sao?" Công chúa hỏi.
Ta đáp: "Bởi vì thần phải sẵn sàng ứng đối với yêu cầu của công chúa bất cứ lúc nào, giảng giải kinh nghĩa cho công chúa, còn phải ngày ngày túc trực, thỉnh thoảng tuân mệnh thay công chúa nghĩ văn chương thi từ 'thảo chiếu'."
"Bộp" một tiếng nho nhỏ, là công chúa ném một quả mơ vào giữa hai hàng lông mày ta. "Huynh lại giễu cợt ta!" Nàng sẵng giọng, nhưng vẻ phẫn nộ giả bộ thoáng qua ấy nhanh chóng biến mất trong nụ cười má lúm ngay kế đó.
Ta xoa xoa ấn đường, chỉ cười. Nàng chăm chú nhìn ta một chốc, bỗng bảo: "Cơ mà, Hoài Cát, huynh học tốt như vậy, nếu không vào cung, năm nay huynh mười tám, cũng có thể đi thi trạng nguyên rồi nhỉ? Nếu đỗ tiến sĩ, muốn làm hàn lâm học sĩ quả thực cũng chẳng khó."
Nụ cười của ta tan biến, trong lòng cảm xúc lẫn lộn, không phân rõ được là vui hay buồn.
Công chúa lại mở tờ triều báo ra, xem danh sách tiến sĩ tấu danh bên trên, mỉm cười nói: "Nhưng nếu như vậy, ta cũng sẽ không quen biết huynh, e rằng chỉ có thể trèo lên Thái Thanh Lâu nhìn huynh từ xa trong lúc cha triệu kiến tiến sĩ tân khoa ở Tập Anh Điện, nghĩ thầm trong bụng: 'Anh chàng trạng nguyên này nom ưa nhìn ghê.' mà thôi."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro