Cô Gái Có Hình Xăm Rồng chương 11-15
Chương 11
Thứ Bảy, 1 tháng Hai
Thứ Ba, 18 tháng Hai
Trong mấy giờ ngắn ngủi có ánh mặt trời của ngày thứ Bảy, Blomkvist và Berger đi bộ qua bến tàu nhỏ dọc con đường đến Ostergarden. Anh đã sống ở đảo Hedeby một tháng nhưng anh chưa làm chuyến đi nào vào sâu bên trong; thời tiết rét ướt và các cơn bão tuyết đều đặn đã ngăn anh. Nhưng thứ Bảy này trời nắng và tươi sáng, tựa hồ như Berger đã mang một thoáng xuân đến đây. Đường viền tuyết hai bên, được vén lên cao một mét. Họ vừa ra khỏi căn nhà gỗ nhỏ mùa hè là đi ngay vào rừng dương xỉ dày đặc. Blomkvist ngạc nhiên khi thấy Soderberget, quả đồi chạy ngang qua những căn gỗ nhỏ, khi ở dưới làng nhìn nó thì lại thấy nó quá cao, quá khó lọt vào đến thế. Anh nghĩ lúc còn là một đứa bé chắc Harriet đã đùa nghịch nhiều lần ở đây nhưng rồi anh lại gạt đi khỏi đầu mình mọi ý nghĩ về cô gái. Sau chừng một dặm, một hàng rào cho biết đã hết rừng, đất nông trại Ostergarden bắt đầu từ đó. Họ có thể nhìn thấy những kiến trúc cổ bằng gỗ trắng và những ngôi nhà trại màu đỏ thành hàng thành lối vuông vắn. Họ quay lại để về bằng con đường cũ.
Khi họ đi qua con đường cho xe rẽ vào dinh cơ gia đình Vanger, Vanger gõ vào cửa sổ ở trên gác rồi vẫy tay bảo họ đi lên. Blomkvist và Berger nhìn nhau.
- Em có muốn gặp một dã sử về tập đoàn không?
- Ông ta có cắn không?
- Thứ Bảy thì không.
Henrik đón họ ở của phòng làm việc của ông.
- Chắc đây là cô Berger, tôi nhận ra cô. - Ông nói. - Mikael không hé ra tí nào là cô đến Hedeby.
Một trong những tài năng xuất sắc của Berger là có thể nhập ngay vào chuyện với những người không quen biết bằng những lời lẽ thân thiện. Blomkivist đã thấy cô trổ tài nghệ mê hoặc đám con nít năm sáu tuổi khiến cho chỉ trong vòng mười phút là chúng liền hoàn toàn sẵn sàng bỏ mẹ chúng. Các ông trên tám chục hình như cũng không phải là ngoại lệ. Sau hai phút, Berger và Vanger đã mải chuyện với nhau quên cả Blomkvist. Cứ tựa như hai người quen biết nhau từ hồi còn trẻ con cơ - thôi được, ít nhất thì cũng là tuổi trẻ con của Erika.
Mở đầu Berger chẳng nể nang gì trách ngay Vanger đã mồi chài chủ bút của cô vào tròng. Ông già đáp lại rằng, theo như ông biết, qua báo chí, thì chính cô đã sa thải anh ấy. Mà nếu cô không sa thải thì nay cũng đã đến lúc ban lãnh đạo báo cần gọn nhẹ lại. Trong trường hợp này, Vanger nói, để cho Blomkvist trẻ trung sống thô tháp một thời kỳ là có lợi đôi chút cho anh.
Hai người đã tranh luận đến năm phút về các điều thiếu sót của Blomkvist bằng những từ ngữ khiến cho phát cáu lên được. Blomkvist ngả người ra sau, vờ ra vẻ bị mắng mỏ nhưng anh cau mày khi Berger đưa ra vài nhận xét phê bình có thể ngụ ý rằng anh là một nhà báo tuy thất bại nhưng lại có vẻ thành thạo các ngón tình dục. Vanger nghiêng đầu cười phá lên.
Blomkvist ngạc nhiên. Anh chưa thấy Vanger tự nhiên, nhẹ nhõm như thế này bao giờ. Anh có thể thình lình thấy rằng, cách đây hơn năm chục tuổi - hay thậm chí ba chục - Vanger chắc đã phải là một người đàn ông khá hấp dẫn, lôi cuốn các bà các cô. Chắc đã có những phụ nữ đi ngang qua con đường của ông, thế nhưng trong gần một nửa thế kỷ ông vẫn cứ độc thân.
Blomkvist uống một ngụm cà phê rồi lại dỏng tai lên khi thấy câu chuyện đột nhiên xoay ra nghiêm túc và liên quan đến Millennium.
- Mikael bảo tôi là các anh chị đang có vấn đề ở tạp chí. - Berger liếc Blomkvist. - Không, anh ấy không bàn gì đến công chuyện nội bộ của anh chị đâu, nhưng phải điếc hay mù thì ai đó mới không thấy tạp chí của anh chị đang gặp khó khăn, như Tập đoàn Vanger.
- Tôi tin rằng chúng tôi có thể chữa chạy được tình thế này, - Berger nói.
- Tôi nghi ngờ. - Vanger nói.
- Tại sao chứ?
- Hãy xem đây - anh chị có bao nhiêu nhân viên? Sáu? Một tạp chí ra hàng tháng với số lượng in 21.000 bản, giá thành xuất bản, lương lậu, phát hành, các văn phòng... Anh chị cần thu nhập chừng 10 triệu. Tôi nghĩ chúng ta đều biết bao nhiêu phần trăm của món tiền này là phải đến từ tiền thuê quảng cáo.
- Vậy ư?
- Cho nên trong lúc vội vàng ông bạn Wennerstrom, một kẻ ba láp thù dai và thiển cận đã quên mất cú đánh bồi theo của hắn. Trong sáu tháng qua hai người mất bao nhiêu mục quảng cáo?
Berger thận trọng nhìn Blomkvist. Blomkvist bất chợt nín thở. Trong các dịp anh và Vanger đề cập đến tương lại của Millennium, thì những nhận xét khiến cho rầu lòng hay tình cảnh của tờ tạp chí là có liên quan đến khả năng hoàn thành công việc của Blomkvist ở Hedestad. Nhưng nay Vanger đang nói với Erika, giữa một ông chủ với một bà chủ. Những tín hiệu trao đổi giữa hai người mà Blomkvist không thể hiểu kia chứng tỏ một điều rằng anh cơ bản chỉ là một người thuộc tầng lớp lao động nghèo ở Norrland còn Berger là một cô gái thượng lưu với dòng dõi danh giá.
- Có thể cho tôi một ít cà phê nữa không? - Berger hỏi. Lập tức Vanger rót ngay. - OK, ông đã trả được bài làm. Chúng tôi thì đang chảy máu.
- Bao lâu?
- Chúng tôi đã có sáu tháng để xoay xở loanh quanh. Tám tháng là tối đa.Chúng tôi không có đủ vốn giữ cho nổi lềnh bềnh được lâu hơn nữa.
Không thể dò ra nổi vẻ mặt của ông già khi ông ta nhìn ra ngoài cửa sổ. Nhà thờ vẫn đứng đó.
- Hai người có biết tôi đã từng ở trong nghề báo? - ông nói, một lần nữa với cả hai.
Blomkvist và Berger cùng lắc. Vanger lại cười, rầu rĩ.
- Chúng tôi sở hữu sáu tờ báo ngày ở Norrland. Trong những năm 50, 60 trước kia. Đó là theo ý bố tôi - cụ nghĩ có một mảng truyền thông đại chúng ở sau lưng thì có thể được lợi thế về chính trị. Hiện tại chúng tôi vẫn đang là một trong những chủ sở hữu của tờ Hedestad Courier. Birger là chủ tịch của ban quản trị của nhóm những người sở hữu. Con trai của Harald, - ông nói thêm, điều này là hay cho Blomkvist.
- Và cũng là một nhà chính trị địa phương. - Blomkvist nói.
- Martin cũng ở trong ban quản trị này. Anh ta giữ cho Birger đi đúng đường lối.
- Tại sao ông buông tờ báo mà ông sở hữu? - Blomkvist hỏi.
- Do đổi mới tổ chức hồi những năm 60. Ở mặt nào đó, các báo xuất bản cũng là một thú chơi hơn là một lợi ích. Khi chúng tôi cần giảm nhẹ ngân sách, thì một trong những tài sản chúng tôi bán là tờ báo... Nhưng tôi biết là một tờ báo phải là thế nào... Tôi hỏi hai người một câu riêng tư được không?
Lần này hướng vào riêng Erika.
- Tôi chưa hỏi Blomkvist điều này và nếu bạn không muốn trả lời thì không sao. Tôi muốn biết các bạn sẽ kết thúc ra sao trong cái thế sa lầy này. Các bạn có hay không có chuyện?
Lần này vẻ mặt Blomkvist nom khó dò xét. Chỉ một thoáng ngập ngừng Berger đã nói:
- Chúng tôi có một chuyện. Nhưng đó là một chuyện rất khác.
Vanger gật đầu, vẻ như hiểu đích xác điều Berger nói. Blomkvist thì không.
- Tôi không muốn bàn vấn đề này. - Blomkvist cắt gọn. - Tôi đã điều tra nghiên cứu
và đã viết bài báo . Tôi có mọi nguồn tôi cần. Nhưng rồi ra ma hết.
- Mọi điều mới nhất anh viết cũng là có nguồn tin cả?
- Có.
Giọng Vanger thình lình sắc đanh lại.
- Tôi không thể hiểu anh bị ma xui quỷ ám thế nào mà lại đi đạp vào một bãi mìn như thế. Tôi không nhớ ra nổi có chuyện nào lại thế này, trừ có lẽ cái vụ trên tờ Expressen trong những năm 60, nếu như cánh trẻ các bạn có nghe nói đến. Nguồn của anh cũng là từ một cha ngoa ngoắt, điêu xạo chứ? - Ông lắc đầu, quay sang Berger nói một cách bình tĩnh. - Trước kia tôi đã là một chủ phát hành báo và giờ tôi vẫn có thể lại là một chủ phát hành báo. Cô nói sao về vấn đề nhận một đối tác khác?
Câu hỏi đến như tiếng sét giữa trời xanh nhưng xem vẻ Berger không hề sửng sốt chút nào cả.
- Ông hãy nói kỹ hơn. - Cô nói.
Vanger nói:
- Cô ở Hedestad bao lâu?
- Mai tôi về. - Cô nói.
- Cô, dĩ nhiên cả Blomkvist, có coi việc ăn uống với tôi tối nay là làm vui cho một ông già không? 7 giờ có hợp với các bạn không?
- Hợp quá. Chúng tôi thích được như thế. Nhưng ông chưa trả lời câu tôi hỏi. Tại sao ông muốn là một đối tác của Millennium?
- Tôi không muốn tảng lờ câu cô hỏi. Chỉ là nghĩ chúng ta có thể bàn chuyện đó khi ăn tối. Tôi cần nói chuyện với luật sư của tôi rồi mới có thể đặt ra một đề nghị cụ thể. Nhưng nói sơ sơ thì tôi có tiền để đầu tư. Nếu tờ tạp chí sống sót và bắt đầu lời lãi tôi sẽ rút lui ngay. Nếu không - ừ phải, xưa, tôi đã có những thua thiệt lớn hơn nhiều ấy chứ.
Blomkvist sắp nói thì Berger đặt tay lên đầu gối anh.
- Mikaerl và tôi đã phấn đấu dữ nên có thể hoàn toàn độc lập được.
- Vớ vẩn. Không ai hoàn toàn độc lập cả. Nhưng tôi nhảy ra không phải là để tiếp cận tờ báo và tôi cũng chả bận gì đến nội dung. Cha Stenbeck ác ôn phát hành tờ Modern Times mà được đủ trăm đường thì tại sao tôi không thể đỡ lưng Millennium được chứ? Nhân thể, làm những gì thì thành một tờ tạp chí hay?
- Chuyện này có dính dáng đến Wennestrom không? - Blomkvist nói.
Vanger mỉm cười.
- Mikael, tôi hơn tám chục hơn rồi. Có những điều tôi ân hận là không làm, có những người làm tôi đã ân hận là không đánh nhiều hơn nữa. Nhưng, nhân đề tài này, - ông lại quay sang Berger, - kiểu đầu tư này ít nhất cũng sẽ có một điều kiện.
- Xin cho nghe, - Berger nói.
- Mikael phải làm chủ bút lại.
- Không. - Blomkvist quặc luôn.
- Nhưng mà có đấy. - Vanger nói, cũng cộc lốc thế. - Wennerstrom sẽ lên cơn đột quỵ nếu chúng ta tung tin báo nói Tập đoàn Vanger hỗ trợ cho Millennium, đồng thời anh lại quay về làm chủ bút. Đây cũng là tín hiệu rõ ràng nhất mà chúng ta tuyệt đối có thể phát đi - ai cũng hiểu đây không phải là một chuyển giao và đường lối biên tập của tờ tạp chí thì vẫn cứ nguyên như cũ. Chỉ riêng điều này thôi cũng đủ làm các chương trình quảng cáo đang muốn rút ra sẽ có lý do nghĩ lại. Wennerstrom không phải toàn năng. Hắn cũng co kẻ thù và những công ty mới sẽ nghĩ đến chuyện xí chỗ.
- Tất cả các cái này là trò quỷ gì thế nhỉ? - Berger vừa kéo cánh cửa đóng lại, Blomkvist đã nói.
- Em nghĩ đây là những trò thăm dò trước khi bàn đến một vụ làm ăn. - Cô nói. - Anh không báo trước em Henrik Vanger là một người dễ mến như thế.
Blomkvist đến đứng ngay trước mặt Berger:
- Erika, em biết rất rõ cuộc nói chuyện này dẫn đến cái gì rồi mà.
- Hê, chàng trai. Mới 3 giờ mà em thì đã muốn được tiêu khiển tử tế trước khi ăn tối đấy nha.
Blomkvist đóa lên. Nhưng có bao giờ anh nổi đóa được lâu với Erika.
Cô mặc đầm đen, jacket dài ngang eo, giầy đế bằng mà tình cờ cô mang theo trong chiếc va li nhỏ của cô. Cô đòi anh mặc jacket và thắt cà vạt. Anh mặc quần đen, sơ mi xám, cà vạt đen và áo ngoài thể thao màu xám. Đúng giờ khi họ gõ cửa nhà Vanger, thì té ra Dirch Frode và Martin Vanger cũng là khách mời. Ai cũng jacket, cà vạt, trừ Henrik Vanger.
- Cái lợi của tuổi ngoài tám mươi là anh mặc như thế nào cũng chả ai phê phán, - ông tuyên bố. Ông thắt nơ con bướm và mặc áo len nâu.
Berger rất phấn chấn vui vẻ trong suốt bữa ăn. Chỉ đến khi họ sang phòng khách có lò sưởi và cognac đã được rót ra, câu chuyện bàn bạc mới mang một giọng điệu nghiêm túc. Họ trò chuyện gần hai giờ rồi mới ra được một đề cương phác thảo cho một vụ làm ăn.
Frode sẽ cơ cấu một công ty hoàn toàn do Henrik Vanger sở hữu, ban giám đốc sẽ gồm có Henrik, Martin và Frode. Trong một thời kỳ bốn năm, công ty này sẽ đầu tư một khoản tiền lấp cho khoảng trống giữa thu chi của Millennium. Tiền sẽ đến từ tài khoản riêng của Vanger. Đổi lại, Vanger sẽ có một vị trí nổi bật trong Ban biên tập của tờ tạp chí. Thỏa thuận này có giá trị trong bốn năm, nhưng sau hai năm Millennium có thể kết thúc nó.
Nhưng việc kết thúc trước hạn này sẽ tốn kém vì Vanger chỉ rút ra khi nào ông được trả lại khoản tiền đã đầu tư. Trong trường hợp Henrik Vanger chết, Martin Vanger sẽ thay ông ở ban biên tập trong thời gian còn lại của thời kỳ mà thỏa thuận này có giá trị. Nếu sau thời kỳ này, Martin muốn tiếp tục ở lại tạp chí thì anh có thể tự quyết định khi đáo hạn. Anh có vẻ thú với triển vọng được trả miếng Wennerstrom và Blomkvist lại một phen nghĩ ngợi nguồn gốc thù ghét giữa hai người này là cái gì đây.
Martin rót đầy các cốc rượu nho của họ. Để làm rõ ý, Henrik ngả người về Blomkvist thấp giọng bảo anh rằng bố trí mới này không có bất cứ ảnh hưởng nào đến thỏa thuận đã có giữa hai người. Blomkvist có thể nhận lại phận sự chủ bút chính thức của anh vào cuối năm nay.
Để cho tác động mạnh nhất vào giới truyền thông đại chúng, việc tổ chức lại này nên được giới thiệu vào đúng ngày Blomkvist bắt đầu thụ án tù vào giữa tháng Ba. Phối hợp hai sự kiện tiêu cực lớn như thế là, nói theo thuật ngữ của quan hệ công chúng, một sai lầm ngớ ngẩn đến mức nó không làm những kẻ bêu xấu Blomkvist ngạc nhiên cũng như những kẻ khiến cho người ta chú ý tối ưu tới vai trò mới của Heenrik Vanger. Nhưng ai cũng thấy cái lô gích ở đây - nó là một cách chỉ cho thấy rằng lá cờ vàng báo có dịch bệnh phơ phất trên toàn soạn Millennium đang sắp sửa được hạ xuống; đứng đằng sau tờ tạp chí là những người dám làm những việc độc địa nhẫn tâm. Có thể đang bị khủng hoảng nhưng Tập đoàn Vanger vẫn là một hãng công nghiệp hàng đầu có thể ra đòn tấn công khi cần thiết.
Tất cả buổi tối ấy là một cuộc bàn bạc giữa một bên là Berger và bên kia là Henrik, Martin. Chả ai hỏi Blomkvist là anh đang nghĩ gì.
Khuya đêm đó, Blomkvist nằm gối đầu trên ngực Berger, nhìn vào mắt cô.
- Em và Hennrik Vanger bàn về sự dàn xếp mất bao lâu?
- Chừng một tuần. - Cô nói, mỉm cười.
- Christer bằng lòng không?
- Dĩ nhiên.
- Tại sao không bảo anh?
- Tại sao lại phải bàn với anh trong cả cái thế giới này chứ? Anh đã từ chức chủ bút, anh đã bỏ ban biên tập và ban quản trị, anh vào rừng sống rồi cơ mà.
- Cho nên anh mới đang được đối xử như một thằng ngu.
- Ồ vâng, - Cô nói - Anh quyết tâm làm thế mà.
- Em đã giận anh thật.
- Miakael, khi anh bỏ đi em chưa bao giờ thấy phẫn nộ đến thế, bị bỏ rơi đến thế, bị phản bội đến thế. Trước đây em chưa bị điên đảo như thế với anh bao giờ. - Cô túm chặt lấy tóc anh rồi đẩy anh ra xa nữa xuống cuối giường.
Chủ nhật, trong lúc Berger rời Hedeby, Blomkvist vẫn bực Vanger đến nỗi không muốn tình cờ bắt gặp ông hay ai khác trong dòng họ nhà ông. Thay vì thế, hôm thứ Hai, anh đã đi xe buýt vào Hedestad, bỏ cả chiều ra đi bộ trong thị trấn, thăm thư viện, uống cà phê trong một hiệu làm bánh. Tối vào rạp xi nê xem Chúa tể những chiếc nhẫn mà anh chưa có thì giờ để xem trước kia. Anh nghĩ thủy quái là những tạo vật đơn giản, không phức tạp như con người.
Anh kết thúc cuộc ngao du ở nhà hàng McDonald ở Hedestad, rồi bắt chuyến xe buýt cuối cùng về Hedeby. Pha cà phê, lấy một cặp hồ sơ ra, ngồi vào bàn bếp. Anh đọc cho đến 4 giờ sáng.
Blomkvist càng đi sâu vào các tư liệu càng có một số câu hỏi liên quan đến cuộc điều tra xem vẻ không ngừng thêm quái lạ. Đấy không phải là những phát hiện đảo ngược gì mà anh tự tìm ra; chúng là những vấn đề làm cho Morell bận tâm trong nhiều thời kỳ dài, đặc biệt trong những lúc rảnh rỗi của ông.
Trong những năm cuối cùng của đời mình, Harriet đã có thay đổi. Ở một số mặt nào đó, thay đổi này có thể được giải thích như là thay đổi mà ai ai cũng đều trải qua dưới hình thức này hay hình thức khác ở lứa tuổi teen. Harriet đang lớn. Nhưng bạn học, thầy cô giáo và nhiều thành viên gia đình đều nhận thấy cô đã ngày càng hướng vào nội tâm và ngại giao tiếp.
Cô gái mà hai năm trước, là một thiếu nữ mười mấy đáng yêu đã bắt đầu lánh xa mọi người quanh cô. Ở trường cô vẫn gặp gỡ bạn bè nhưng bây giờ cô ứng xử bằng một kiểu "lơ ma lơ mơ", như một người bạn cũ của cô đã tả. Từ này không đủ quen tai với Morell nên ông không ghi nó vào sổ và hỏi thêm nhiều câu hỏi. Người ta giải thích với ông rằng Harriet không còn nói về mình nữa, không còn tán gẫu, không còn tâm sự với bạn bè.
Harriet theo đạo Cơ đốc, theo nghĩa con nít hiểu về từ này - đi học giáo lý vào Chủ nhật, đọc kinh tối, và được xác nhận. Trong những ngày về cuối đời, cô hình như sùng đạo hơn. Cô đọc Kinh thánh và đi nhà thờ đều đặn. Nhưng cô không đến ông Otto Falk, mục sư của đảo Hedybe, người vốn là bạn của nhà Vanger. Thay vào đó, vào mùa xuân cô đã tìm những giáo đoàn Pentecostal ở Hedestad. Nhưng cô tham gia nhà thờ không lâu mấy. Chỉ hai tháng sau cô đã bỏ giáo đoàn này và bắt đầu thật sự đọc các sách về đức tin Cơ đốc.
Lòng tin đắm đuối của một thiếu nữ mười mấy đối với tôn giáo chăng? Có thể, trong gia đình Vanger chưa có người nào khác từng được ghi nhận là có đức tin tôn giáo và khó mà nhận ra các xung lực lòng tin nào đã dẫn đưa cô đi. Dĩ nhiên, một điều có thể giải thích cho lòng tin của cô vào Chúa là bố cô bị chết đuối năm trước. Morell đi đến kết luận rằng một chuyện gì đó đã xảy ra với cuộc đời Harriet và quấy rối cô hay tác động đến cô. Như Vanger, Morell đã dành ra rất nhiều thời gian để trò chuyện với bạn bè của Harrite, cố tìm ra một ai đó mà cô gái có thể tâm sự cùng.
Người ta đã móc một chút hy vọng nào đó vào Anita Vanger, con gái của Harald và kém Harrite hai tuổi. Anita đã qua mùa hè 1966 ở đảo Hedeby và người ta nghĩ hai cô gái là bạn thân của nhau. Nhưng Anita không cấp cho được thông tin nào là chắc chắn. Hai cô đã quấn quýt với nhau mùa hè ấy, bơi lội, cuốc bộ, nói chuyện phim ảnh, các ban nhạc pop và sách. Harriet có đôi lần đi với Arita khi cô đến lớp học lái xe. Một lần tìm thấy hai đứa đang say sưa bên chai vang mà chúng tháu của nhà. Trong nhiều tuần hai cô cũng đã từng ở trong căn nhà gỗ nhỏ của Gottfried tại cái mỏm xa nhất của hòn đảo.
Thế là vẫn không trả lời được các câu hỏi về ý nghĩ và tình cảm riêng tư của Harriet. Nhưng Blomkvist có một ghi nhận về một trái ngược báo cáo thông tin về trạng thái không giao tiếp của Harriet chủ yếu là do các bạn học của cô nói và ở một mức độ nào đó là do người trong nhà. Arita Vanger không nghĩ Harriet lại hướng nội chút nào cả. Blomkvist ghi lại để rồi bàn với Henrik một phần nào đó của chuyện này.
Một câu hỏi cụ thể hơn, Morell đã chú ý nhiều đến nó hơn, là một trang khiến cho phải ngạc nhiên ở trong quyển sổ tay kèm theo lịch của Harriet, một quyển sổ bìa da đẹp, quà Noel người ta cho cô năm trước cái năm cô mất tích. Nửa đầu quyển sổ là lịch từng ngày trong đó Harriet ghi những cuộc gặp, những ngày thi ở trường, bài làm ở nhà v.v... Quyển sổ có một phần để ghi nhật ký nhưng Harriet chỉ ghi bữa đực bữa cái. Tháng Giêng, với khá nhiều tham vọng cô bắt đầu có nhiều mẩu ngắn gọn ghi về những người mà cô gặp trong dịp lễ Noel, và một số về những phim ảnh mà cô đã xem. Sau đó cô không viết gì về mình cho đến cuối năm học thì rõ ràng cô - tùy theo cách hiểu các mẩu ghi này - quan tâm từ xa đến một vài cậu con trai chưa từng nhắc đến tên bao giờ.
Những trang liệt kê các số điện thoại là những trang đã nắm giữ cái điều bí mật thật sự. Rõ ràng, theo trật tự a b c, là tên và số của các thành viên gia đình, bạn học, một số thày cô, một vài thành viên của giáo đoàn Pentecostal và vài người khác có thể dễ nhận ra là những người mà cô gái quen biết. Ở trang cuối cùng là mục địa chỉ trong quyển sổ, vốn để trống, và không thật sự nằm trong chỗ ghi theo trật tự a,b,c nói trên kia, có năm cái tên và số điện thoại. Ba tên phụ nữ và hai bộ chữ viết tắt.
Magda ― 32016
Sara - 32019
R. J - 30112
R. L - 32027
Mari - 32018
Số điện thoại bắt đầu 32 là số của Hedestad trong những năm 60. Số bắt đầu bằng 30 là số của Norrbyn, không xa Hedestad. Vấn đề là khi Morell tiếp xúc với từng người bạn và quen biết của Harriet, không ai biết được những các con số này là thuộc về ai.
Con số đầu tiên thuộc về "Magda" ban đầu xem ra có hứa hẹn. Nó đưa đến một hiệu bán kim chỉ ở 12 Parkgatan. Điện thoại là của một người mang tên Margon Lundmark, mẹ người này tên là Magda thật, đôi khi bà có ra giúp đỡ ở cửa hiệu. Nhưng Magda đã sáu mươi chín tuổi và không biết Harriet là ai. Cũng không có bằng chứng nào rằng Harriet đã đến hay mua cái gì ở cửa hiệu đó. Cô gái không thích chuyện khâu may.
Số thứ hai là của "Sara" thuộc về một gia đình có họ là Toeson, sống ở Vaststan, bên kia đường xe lửa. Gia đình gồm có Anders và Monica cùng các con của họ, Jonas và Peter lúc ấy đang ở tuổi mẫu giáo. Không có Sara nào trong gia đình, họ cũng không biết Harriet Vanger, ngoài chuyện cô mất tích được báo trên truyền thông đại chúng. Một quan hệ mơ hồ giữa Harriet và gia đình Toresson là Anders, thợ lợp mái, vài tuần trước đã lợp ngói cho ngôi trường mà Harriet học ở đó. Vậy là về lý thuyết thì đã có một cơ hội hai người gặp nhau, tuy có thể coi chuyện này là cực kỳ khó mà xảy ra được.
Ba con số còn lại cũng dẫn đến bế tắc như thế. Con số 32027 cho "R.L." thuộc về một Rosmarie Larsson thật. Không may bà ta đã chết vài năm trước.
Trong suốt mùa đông 1966 - 1967, Morell đã cố giải thích tại sao Harriet Vanger lại viết những tên và con số này vào sổ.
Một khả năng là các số điện thoại này đã được viết theo một kiểu mã số riêng nào đó - nên Morell cố qua đây đoán xem một cô gái tuổi mới lớn có thể nghĩ như thế nào. Do sê ri số ba mươi hai chỉ rõ tới Hedestad, ông đã đem xếp lại ba con số còn lại. Cả 32601 lẫn 32160 đều dẫn tới một Magda. Khi ông tiếp tục môn số hiệu học của mình, ông nhận ra nếu ông cứ chơi quanh quẩn với đủ các con số, sớm muộn ông sẽ tìm ra một mối liên hệ nào đó với Harriet. Thí dụ nếu ông thêm số 1 cho ba chữ số còn lại ở 32016 thì có 32017 – là số điện thoại của văn phòng Frode ở Hedestad. Nhưng một mối liên hệ như thế chả nói lên được cái gì. Ngoài ra ông không bao giờ phát hiện ra một mã số nào đó làm cho tất cả năm con số kia có ý nghĩa.
Morell mở rộng cuộc tìm tòi. Thí dụ các con số có thể là nói đến các biển sỗ xe hơi mà trong những năm 60 đều mang mã số đăng ký tỉnh gồm hai chữ và năm con số? Lại tắc tị nốt.
Morell bèn tập trung vào các tên gọi. Ông được một danh sách từng người ở Hedestad có tên Mari, Magda, hay Sara hay ai có hai chữ đầu tên viết tắt là R.L. hay R.J. Danh sách này ông có 307 người. Trong dó, 29 người có quên hệ thật sự với Harriet. Thí dụ một cậu ở lớp cô tên là Roland Jacobsson - R.J. Họ ít biết nhau và không tiếp xúc từ khi Harriet bắt đầu vào trường dự bị. Và không có liên hệ với số điện thoại.
Bí mật các con số trong quyển sổ vẫn không được giải quyết.
Lần thứ tư cô gặp luật sư Bjurman không nằm trong chương trình đã đặt. Ông buộc cô phải tiếp xúc.
Trong tuần thứ hai của tháng Hai, máy tính xách tay của Salander bị hỏng trong một tai nạn mà không nên gọi thế vì lẽ ở vụ đó cô cảm thấy cấp bách muốn giết một ai đó.
Salander đi xe máy đến họp ở An ninh Milton, để nó ở đằng sau một cái cột trong gara. Khi cô đặt ba lô xuống đất, một chiếc xe hơi Saab đỏ thẫm quay ngược ra. Cô bị xô quay lưng đi nhưng nghe thấy tiếng gẫy vỡ trong ba lô. Người lái xe hơi không thấy gì, vô tâm cho xe chạy ra khỏi ga ra.
Cái ba lô đựng chiếc iBook Apple màu trắng của cô với một đĩa cứng 25 gig và 420 megs RAM, màn hình 14 inch, chế tạo tháng Giêng năm 2002. Lúc cô mua, nó là máy tính xách tay tiên tiến nhất của Apple. Các máy tính của Salander đều được nâng cấp với những cấu hình mới nhất và đôi khi đắt nhất - thiết bị máy tính là khoản duy nhất ngông càn trong danh sách chi tiêu của cô.
Khi mở ba lô, cô thấy nắp máy tính đã bị vỡ. Cô mở máy tính, thử cho nó chạy nhưng chả có tí ọ ẹ nào cả. Cô mang đến cửa hiệu MacJesus của Timmy ở Brannkyrkagatan, hy vọng ít ra có thể cứu được một cái gì đó ở đĩa cứng. Xem xét nó một lúc, Timmy lắc đầu.
- Xin lỗi. Vô vọng.- Anh ta nói. - Cô sẽ cần thu xếp một tang lễ thật oách.
Mất chiếc máy tính thì đáng rầu nhưng không là tai họa. Salander đã có một mối quan hệ tốt đẹp với nó trong cả năm cô làm chủ nó. Cô đã sao lưu hết các tư liệu và cô có một máy tính để bàn cũ hơn Mac G3 ở nhà cũng như một máy tính cá nhân Toshiba. Nhưng cô cần một máy nhanh hơn, hiện đại hơn.
Không ngạc nhiên thấy cô để mắt vào một thứ thay thế tốt nhất: chiếc Apple PowerBook G4/1.0 GHz vỏ nhôm với bộ xử lý Power PC 7451 và một AltiVec Velocity Engine, 960 Mb RAM cùng một đĩa cứng 60 Gb. Nó có một BlueTooth và một bộ phận ghi CD và DVD cài trong máy.
Hơn hết, nó có một màn hình 17 inch đầu tiên trong thế giới máy tính xách tay với NVIDIA đồ họa với đọ nét 1440 x 900 pixels, món này làm chấn động các dân bênh vực máy tính để bàn và vượt lên trước xa mọi cái ở trên thị trường.
Nói về phần cứng, nó là Rolls Royce của máy tính xách tay, nhưng cái thật sự thúc Salander cần nó là cái đặc tính đơn giản này: bàn phím được hiển thị sáng lên ở đáy có thể đọc chữ trên bàn phím trong đêm tối mù. Quá ư đơn giản. Thế mà trước đây không ai nghĩ tới!
Trông thấy một cái là mê liền.
Nó giá 38.000 curon, cả thuế.
Đó là vấn đề.
Muốn ra sao thì ra, cô cứ đặt mua ở MacJesus. Cô mua mọi linh kiện máy tính ở đây nên họ giảm giá phải chăng cho cô. Cô tính toán các chi tiêu của mình. Bảo hiểm của chiếc máy tính bị hỏng sẽ bù một phần đáng kể vào tiền bỏ ra mua một cái máy mới nhưng tiền đóng bảo hiểm cho cái mới và giá cái mới cao hơn cho nên cô vẫn bị hụt mất 18.000 curon. Cô có 10.000 curon giấu trong một hộp sắt đựng cà phê và chi trần có thế . Cô nghĩ độc địa về ông Bjurman nhưng rồi ngậm đắng gọi người giám hộ giải thích cô bất ngờ cần tiền mua sắm. Thư ký của Bjurman nói hôm nay ông ta không có thì giờ gặp. Salander nói ông ta chỉ mất có hai chục tích tắc để viết một cái séc 10.000 curon thôi. Người ta bảo cô 7 giờ 30 phút tối đến văn phòng ông.
Blomkvist có thể không có kinh nghiệm trong việc đánh giá điều tra tội phạm nhưng anh thừa nhận viên cảnh sát điều tra Morell quả là người có lương tâm nghề nghiệp. Khi anh đọc xong kết quả điều tra của cảnh sát, Morell vẫn cứ quanh quẩn như một anh chơi bạc ở trong các ghi nhận của Henrik Vanger. Hai người đã thành bạn và Blomkvist nghĩ liệu ông cảnh sát rồi sẽ có bị ám ảnh như ông trùm công nghiệp đã bị hay không.
Theo anh, không có vẻ Morell đã để mất một cái gì đó. Giải đáp cho bí mật này không phải sẽ tìm ra được ở trong các biên bản của cảnh sát. Mọi câu hỏi có thể tưởng tượng tới đều đã được đặt ra, mọi manh mối đều đã được lần theo, có một số cái thậm chí còn được lần xa tới độ có vẻ như dớ dẩn. Anh không đọc từng câu chữ của báo cáo nhưng anh càng thâm nhập cuộc điều tra thì các manh mối và các mách nước lại càng hóa ra tối mò. Anh sẽ không tìm ra được cái gì mà người chuyên nghiệp đi trước anh cùng đội ngũ dầy dạn của ông ta đã để lọt và anh do dự nên dùng cách tiếp cận nào cho vấn đề này. Cuối cùng anh bật nghĩ ra rằng, với anh con đường thực tiễn duy nhất hợp lý cần đi là cố gắng tìm ra động cơ tâm lý của các cá nhân dính líu trong vụ.
Câu hỏi đầu tiên liên quan đến chính bản thân Harriet. Cô là người thế nào?
Từ cửa sổ bếp, Blomkvist để ý thấy sau 5 giờ chiều một tý là ánh đèn cứ sáng ở trên gác nhà Cecilia Vanger. 7 giờ 30 phút tối anh gõ cửa nhà chị, đúng lúc ti vi bắt đầu phát tin. Chị mở cửa, mặc áo tắm, mớ tóc ướt ở dưới một chiếc khăn màu vàng. Blomkvist lập tức xin lỗi đã đến quấy rầy chị và toan quay lui nhưng chị vẫy anh vào trong phòng khách. Chị cho máy pha cà phê chạy và biến mất ở trên gác trong vài phút. Khi trở xuống, chị mặc quần jean và sơ mi flanen ca rô.
- Tôi đang bắt đầu nghĩ anh sẽ không bao giờ gọi.
- Tôi nên bấm chuông trước nhưng thấy có ánh sáng thế là tôi như bị một sức mạnh đẩy đi.
- Tôi thấy ánh đèn suốt đêm ở chỗ anh. Và sau nửa đêm anh thường đi bộ. Anh là cú đêm ư?
Blomkvist nhún vai.
- Nó hóa ra như thế mất rồi. - Anh nhìn vào những sách giáo khoa để đống trên rìa bàn bếp. - Chị vẫn làm cô giáo?
- Không. Làm hiệu trưởng thì không có thì giờ. Nhưng tôi đã quen dạy lịch sử, tôn giáo và nghiên cứu xã hội. Mà tôi thì còn lại vài năm.
- Còn lại?
Chị cười.
- Tôi năm mươi sáu. Sắp hưu rồi mà.
- Trông chị không quá năm chục, giống với quãng bốn chục có dư.
- Rất biết tán đấy. Anh bao nhiêu tuổi?
- À, hơn bốn chục. - Blomkvist nói, mỉm cười.
- Và có một ngày anh vừa đúng hai chục. Tất cả đi nhanh làm sao. Cuộc đời là thế.
Cecilia Vanger dọn cà phê và hỏi anh có đói không. Anh nói anh đã ăn, cái này đúng một phần. Không thích nấu nướng, anh chỉ ăn bánh kẹp thịt nhưng anh không đói.
- Vậy tại sao anh đến? Tới lúc hỏi tôi rồi phải không?
- Thật thà thì... Tôi không phải đến để hỏi. Tôi nghĩ là tôi muốn chào một tiếng.
Chị mỉm cười.
- Anh bị kêu án tù, anh chuyển đến Hedeby, sục vào tất cả tư liệu của cái thú vui ưa thích của Henrik, đêm anh không ngủ, hay ra ngoài đi bộ khi trời lạnh cứng... Tôi có sót mất cái gì không?
- Đời tôi đang đi đến với chó.
- Cuối tuần vừa rồi người phụ nữ đến thăm anh là ai đấy?
- Erika... Tổng biên tập tờ Millennium.
- Bạn gái anh?
- Không hẳn. Cô ấy đã có chồng. Tôi là bạn nhiều hơn, người tình đôi hồi.
Cecilia cười rũ.
- Cái gì mà ngộ thế?
- Cách anh nói. Người tình đôi hồi. Tôi thích cái chữ ấy.
Blomkvist liền có thiện cảm với Cecilia Vanger.
- Tôi có thể như một người tình đôi hồi được. - Chị nói.
Chị đá văng đôi dép lê, gác một chân lên đầu gối anh. Blomkvist để tay lên chân chị vỗ nhè nhẹ vào mắt cá. Anh ngập ngừng một thoáng - anh có thể cảm thấy anh đang bước vào một vùng nước không được chờ đợi. Nhưng có ý tứ, anh bắt đầu xoa bóp bàn chân chị bằng ngón cái.
- Tôi cũng đã có chồng. - Chị nói.
- Tôi biết. Trong gia đình Vanger không ai li hôn sất.
- Tôi chưa thấy chồng tôi làm ăn trong hai chục năm.
- Đã có chuyện gì?
- Không phải việc anh. Tôi chưa làm tình trong... hừm... ba năm rồi.
- Tôi ngạc nhiên đấy.
- Tại sao? Đây là chuyện cung cầu. Một bạn trai, hay thích một người vợ hay một ai đó sống với tôi, chuyện ấy tôi không thích. Tôi tự làm lấy là tốt nhất. Tôi nên ngủ với ai? Một trong những ông giáo ở trường? Tôi không nghĩ thế. Một trong đám sinh viên? Một câu chuyện ngon lành cho các bà già ngồi lê tán gẫu. Mà họ thì luôn theo dõi sít sao những người mang tên Vanger. Ở đây, trên đảo Hedeby đây, chỉ toàn là họ hàng và người có vợ. - Chị cúi về trước hôn vào cổ anh. - Tôi có làm anh thấy chướng không?
- Không. Nhưng tôi nghĩ thế này có phải một ý hay không đây. Tôi làm việc cho chú chị.
- Và tôi sẽ là người cuối cùng nói ra điều đó. Nhưng thật thà thì chắc Henrik sẽ chả có gì để mà chống lại chuyện này đâu.
Chị cưỡi lên người anh, hôn vào miệng anh. Tóc chị còn ẩm và thơm mùi nước dầu gội. Anh lóng ngóng lần tìm các cúc của chiếc áo sơ mi flanen rồi kéo tụt nó xuống quanh vai chị. Chị không mặc nịt vú. Chị ghì lấy anh khi anh hôn vú chị.
Blomkvist đi quanh bàn làm việc đến đưa cho cô xem bản khai trương mục của cô ở ngân hàng - cô đã thuộc nó đến từng xu - tuy cô không có quyền tùy ý sử dụng nó. Ông đứng sau cô. Thình lình ông xoa gáy cô, một tay trượt khỏi vai trái cô để qua vú cô. Ông đặt một tay lên vú phải cô và cứ để nó ở đấy. Khi cô có vẻ không phản ứng, ông bóp vú cô. Salander không động đậy. Cô có thể cảm thấy hơi thở của ông sau gáy mình trong khi cô xem xét con dao mở thư trên bàn làm việc của ông; bàn tay rảnh của cô có thể với lấy nó được.
Nhưng cô không làm gì cả. Nếu có một bài học Holger Palmgren đã dạy cô trong nhiều năm thì những hành động bốc đồng sẽ dẫn tới rắc rối và rắc rối có thể có những hậu quả không vui. Cô không làm cái gì mà không cân nhắc hậu quả trước tiên.
Công kích tình dục khai mào này - mà thuật ngũ pháp lý là quấy nhiễu tình dục và lợi dụng một cá nhân đang ở trong vị trí lệ thuộc có thể đem lại cho Bjurman tới những hai năm tù giam - chỉ kéo dài vài giây. Nhưng nó cũng đã đủ để cho băng qua mãi mãi một ranh giới. Với Salander thì đây là một lực lượng thù địch thi thố sức mạnh - một dấu hiệu cho thấy ngoài mối quan hệ pháp lý đã được định nghĩa cẩn thận ra, cô còn phải phó mặc cho ý thích của ông ta và cho cả tình cảnh hết phương cầu cứu của mình. Sau đó, khi mắt hai người gặp nhau, môi ông ta khẽ hé ra và cô đọc được thấy vẻ dâm dục trên mặt ông ta. Mặt của Salander chẳng biểu lộ một xúc cảm nào.
Bjurman lùi về phía bên kia bàn, ngồi xuỗng chiếc ghế da vững chãi.
- Tôi không thể cứ hễ cô muốn là tôi đưa tiền. - Ông nói. - Tại sao cô lại cần đến cái máy tính đắt tiền như thế chứ? Có nhiều mô đen rẻ hơn để cô có thể chơi game máy tính được kia mà.
- Tôi muốn được trông coi tiền bạc của tôi như trước kia.
Bjurman nhìn cô thương hại.
- Ta phải xem sự thể như thế nào đã.
Nếu Bjurman đọc được ý nghĩ của cô gái ở đằng sau hai con mắt ơ hờ, ông ta có thể đã bớt cười đi hơn. - Tôi nghĩ cô và tôi sẽ là bạn tốt của nhau, - ông nói. - Chúng ta cần tin cậy được vào nhau.
Khi cô chả ư cũng chả đừng, ông nói:
- Bây giờ cô đã là một cô gái khôn lớn rồi, Lisbeth.
Cô gật.
- Lại đây. - Ông nói và chìa tay ra.
Salander nhìn chằm chằm vào con dao mở thư rồi đứng lên đi lại phía ông ta. Hậu quả. Ông cầm tay cô, ấn nó vào đũng quần ông. Qua lần quần thẫm màu của ông, cô có thể cảm thấy bộ phận sing dục.
- Nếu cô tử tế với tôi, tôi sẽ tử tế với cô.
Ông quàng tay kia của ông vào cổ cô, kéo cô khuỵu gối xuống, mặt chiếu vào đũng quần ông.
- Cô đã từng làm thế này rồi, đúng không? - ông vừa nói vừa kéo khóa quần xuống. Sực mùi nước và xà phòng, có vẻ như ông vừa rửa ráy xong.
Salander ngoảnh mặt đi và cố đứng lên nhưng ông túm chặt cứng. Xét theo sức người, cô có thể không đọ được với ông ta; cô nặng có 46 ký còn ông ta hơn một tạ. Hai tay ông cầm lấy đầu cô, quay cô lại cho mắt hai người nhìn nhau.
- Nếu cô tử tế với tôi, tôi sẽ tử tế với cô. - Ông nhắc lại. - Nếu cô làm lôi thôi, tôi có thể đưa cô vào viện chăm sóc cho đến hết đời cô. Cô có thích như thế không?
Cô không nói không rằng.
- Cô có thích thế không?- Ông lại nói.
Cô lắc đầu.
Ông chờ cho mắt cô cúi xuống, coi như cô đã thuần phục qua con mắt. Rồi ông kéo cô lại gần hơn, Salander hé môi ngậm lấy nó vào mồm. Vẫn kẹp tay vào gáy cô, ông hung dữ kéo xốc cô lại đằng ông. Trong suốt mười mấy phút ông huých vập, ông xay nghiền, ông như suýt nôn, cuối cùng là sướng lên. Ông ghì cô đến nỗi cô không thở được.
Ông chỉ cho cô buồng tắm trong văn phòng. Salander run bắn lên khi rửa mặt, cô cọ sạch những cái vết trên áo len. Cô nhai một ít kem đánh răng để khử đi cái mùi vị. Khi cô quay lại văn phòng, ông ta đang ngồi sau bàn làm việc, xem xét vài giấy tờ.
- Ngồi xuống, Lisbeth, - không ngửng đầu lên, ông nói với cô. Cô ngồi xuống. Cuối cùng ông nhìn cô và mỉm cười.
- Bây giờ thành người lớn rồi, đúng không, Lisbeth?
Cô gật.
- Vậy cô cũng cần biết các trò chơi của người lớn đi. - Ông ta nói. Ông ta dùng cái giọng như nói với trẻ con. Cô không đáp. Lông mày ông hơi nhíu lại.
- Tôi nghĩ đem kể với người khác chuyện này là không hay gì cho cô đâu. Nghĩ xem, ai mà tin cô chứ? Có tài liệu tuyên bố cô là người có vấn đề tâm thần đây. Nó sẽ là lời mà cô dùng để chống lại tôi. Cô nghĩ lời ai nói sẽ có trọng lượng hơn?
Ông thở dài khi cô gái vẫn lặng thinh. Ông ngán cho cái kiểu cô ngồi đó nín thinh mà nhìn ông - nhưng ông kìm lại được
- Chúng ta sẽ là bạn tốt, cô và tôi. - Ông ta nói. - Tôi nghĩ cô đến gặp tôi tối nay là cô thông minh. Cô có thể đến chỗ tôi luôn luôn.
- Tôi cần 10.000 curon mua máy tính. - Cô nói, chính xác, y như cô lại tiếp tục câu chuyện nói dở trước đây.
Bjurman nhíu lông mày. Con đĩ cứng cổ. Thật là một con trì độn. Ông ta đưa tấm séc đã viết khi cô ở trong buồng tắm. Còn hay hơn một con điếm. Tiền của nó lại trả về nó mà. Ông ngạo nghễ mỉm cười với cô. Cô cầm lấy tấm séc và bỏ đi.
Chương 12
Thứ Tư, 19 tháng Hai
Nếu là một công dân bình thường thì ngay sau khi rời văn phòng luật sư Bjurman, nhiều phần chắc chắn Salander sẽ gọi cảnh sát báo chuyện bị cưỡng hiếp. Những vết thâm tím trên cổ cô, cũng như “chữ ký” của ADN của ông ta ở trong tinh dịch đang còn vấy bẩn thân xác và áo quần cô đây sẽ ghim ông ta lại không cho giãy cựa. Ngay nếu như ông ta nói cô ấy muốn làm chuyện đó hay cô ấy đã quyến rũ tôi hay bất cứ lý do nào mà những kẻ cưỡng hiếp vẫn dùng, thì ông cũng đã vi phạm quá nhiều các quy định của chế độ giám hộ, đến mức ông sẽ lập tức bị tước bỏ quyền kiểm soát cô. Một bản báo cáo có thể sẽ dẫn đến việc Salander được nhận một luật sư thích hợp, một người giàu kinh nghiệm bào chữa những vụ hành hung, xâm hại phụ nữ; điều này đến lượt nó sẽ dẫn đến cuộc thảo luận về cốt lõi của vấn đề- tức là cái lý do mà người ta tuyên bố Salander không có thẩm quyền pháp lý.
Từ năm 1989, thuật ngữ “ không có thẩm quyền pháp lý” cho những người trưởng thành đã thôi áp dụng.
Có hai nấc bảo vệ phúc lợi: - chế độ đỡ đầu và chế độ giám hộ.
Người đỡ đầu sẽ tình nguyện giúp đỡ những cá nhân mà, vì những lý do này nọ, gặp các vấn đề về cai quản đời sống hàng ngày của họ về thanh toán hóa đơn hay tự chăm sóc vệ sinh cá nhân. Người được chỉ định làm người đỡ đầu thường là người họ hàng hay bạn thân. Nếu không có ai thân cận với người trong cuộc thì các cơ quan phụ trách phúc lợi có thể đưa ra một người đỡ đầu. Chế độ đỡ đầu là một hình thức nhẹ nhàng của chế độ giám hộ; trong chế độ trên, thân chủ - người bị tuyên bố là không có thẩm quyền- vẫn được trông coi tài sản của mình và các quyết định về việc này là có tư vấn của người đỡ đầu.
Chế độ giám hộ là một hình thức kiểm soát ngặt hơn, theo nó, thân chủ bị tước mất quyền làm chủ tiền bạc của bản thân hay quyền ra các quyết định liên quan đến các vẫn đề này nọ. Văn bản chính xác nói rằng người giám hộ sẽ tiếp quản các quyền lợi hợp pháp của thân chủ. Ở Thụy Điển có khoảng 4.000 người chịu chế độ giám hộ. Lý do thông thường nhất để áp dụng chế độ giám hộ là bệnh tâm thần hay bệnh tâm thần kết hợp với lạm dụng nghiêm trọng rượu hay ma túy. Một nhóm nhỏ hơn bao gồm những người bị điên. Trong số chịu chế độ giám hộ, nhiều người tương đối trẻ- ba mươi lăm hay ít hơn, và Lisbeth Salander là một trong số đó.
Lấy đi của ai quyền trông coi cuộc đời của chính mình- có nghĩa là cả tài khoản ngân hàng- một trong những vi phạm lớn nhất mà một chế độ dân chủ có thể áp đặt, đặc biệt khi nó áp dụng với người trẻ tuổi. Ngay cả khi có thể xem là ý đồ tốt và có giá trị về mặt xã hội thì nó vẫn cứ là một sự vi phạm. Các vấn đề về chế độ giám hộ vẫn là những đề tài về chính trị nhạy cảm, nó được các quy định ngặt nghèo bảo vệ cũng như được sở Chế độ giám hộ kiểm soát. Sở này ở dưới quyền của cơ quan hành chính tỉnh và đến lượt nó được Ombudsman của Quốc hội kiểm soát.
Sở Chế độ giám hộ phần lớn hoạt động trong những điều kiện khó khăn. Nhưng nhìn vào các vấn đề nhạy cảm do các cơ quan quyền hành nắm giữ thì phải thấy là ở trên phương tiện truyền thông đại chúng rất ít có các lời phàn nàn hay tai tiếng.
Thỉnh thoảng có các tường thuật cho hay một vài người đỡ đầu hay giám hộ đã bị kết tội biển thủ ngân sách hay bán nhà chung cư của thân chủ hay nhét các khoản thu nhập vào túi. Các trường hợp tương đối hiếm này có thể là kết quả của hai điều: các thân chủ đã bằng lòng công việc này của các nhà chức trách hay họ không có cơ hội ca thán và không có cách nào chắc chắn để làm cho truyền thông đại chúng hay các nhà chức trách nghe thấu tới họ.
Sở Chế độ giám hộ buộc phải làm một tổng kết hàng năm để xem liệu có nguyên nhân nào khiến cho nên rút chế độ giám hộ với một ai đó không. Do Salander khăng khăng từ chối khám về tâm thần- cô thậm chí chả chào thày cô giáo theo phép xã giao- nên các nhà chức trách vẫn không bao giờ tìm ra được lý do để thay đổi quyết định của mình. Kết quả là đẻ ra một tình thế nguyên trạng và cô gái thì cứ năm này sang năm khác chịu chế độ giám hộ.
Nhưng Palmgren đã hiểu lời lẽ pháp luật nói rằng các điều kiện giám hộ “phải thích hợp với từng cá nhân” có nghĩa là Salander có thể cai quản tiền và cuộc đời cô. Ông đã làm chu đáo các yêu cầu của nhà chức trách, nộp đều báo cáo hàng tháng cũng như bản tổng kết hàng năm. Trong mọi phương diện khác, ông đối xử với Salander như đối với một người bình thường khác, ông không xía vào việc cô lựa chọn cách sống hay bạn bè. Cô gái nên đeo khoen vào mũi hay xăm lên cổ hay không, ông nghĩ người quyết định chuyện này không phải là ông hay xã hội. Thái độ khá bướng bỉnh này ở trước tòa án quận là một trong những lý do khiến cho tại sao hai người lại hợp với nhau.
Chừng nào Palmgren là người giám hộ thì Salander không cần phải chú ý nhiều đến thân phận pháp lý của mình chừng nấy.
Salander không giống với bất cứ một người bình thường nào. Kiến thức về pháp luật của cô thô sơ – đây là một để tài cô không có dịp khám phá bao giờ - còn lòng tin của cô vào cảnh sát nói chung là hạn hẹp. Với cô, cảnh sát là đại diện cho một sức mạnh thù địch đã bắt bớ và làm nhục cô trong nhiều năm. Công chuyện mới nhất của cô có với cảnh sát là vào tháng Năm năm ngoái khi trên đường đến An ninh Milton, cô đi bộ qua Gotgatan, thình lình cô thấy mình đứng trước một sĩ quan cảnh sát đeo mặt nạ chống bạo loạn. Mặc dù cô không hề mảy may khiêu khích, ông ta đã vung gậy đánh vào vai cô. Phản ứng đầu tiên của cô là phản công dữ tợn, dùng ngay chai Coca-Cola đang cầm trong tay. Viên sĩ quan vội quay gót chạy, trước khi cô kịp chửi cho một trận. Mãi sau đó cô mới thấy một đám biểu tình đang giương biểu ngữ “Đòi lại đường phố” ở cuối con đường.
Vào sở của những tên vũ phu đeo mặt nạ chống bạo động kia để kiện Nils Bjurman cưỡng hiếp, ngay điều này cũng chả hề có lúc nào thoáng qua trong đầu cô. Và rồi cô báo cáo gì đây? Bjurman đã sờ vú cô. Một sĩ quan sẽ liếc vào cô và kết luận ti bé thế kia thì khó có khả năng xảy ra lắm. Và nếu như có bóp vú thật thì cô phải tự hào rằng thế mà có đứa đã quấy rồi chứ. Về đoạn mút cu lão – thì như lão đã báo trước đó là lời cô chống lại lão và theo kinh nghiệm cô, lời của người khác nặng cân hơn lời của cô nhiều. Vậy chọn đến cảnh sát làm gì.
Cô rời văn phòng Bjurman về nhà, tắm vòi sen, ăn hai bánh kẹp thịt với pho mát và rau dầm chua rồi ngồi lên chiếc ghế sofa tã nát trong phòng khách nghĩ ngợi.
Một người bình thường có thể thấy nếu cô không phản ứng thì cũng sẽ quay sang tự trách móc mình – điều này có thể cũng là một dấu hiệu khác nữa cho thấy cô quá ư bất bình thường để đến nỗi cũng không có nổi được cả phản ứng thích đáng với việc bị cưỡng hiếp nữa.
Chốn quen biết của cô không lớn, cũng không gồm có một thành viên nào thuộc tầng lớp trung lưu. Lúc mười tám, Salander đã biết chả có một cô gái nào mà lại không từng bị bắt buộc phải làm vài trò tình dục trái với ý mình. Phần nhiều các vụ cưỡng hiếp đều dính líu đến các bạn trai nhiều tuổi hơn một chút. Như Salander biết thì các sự cố này thường dẫn đến khóc lóc hay những cơn nổi giận chứ không bao giờ dẫn đến việc báo cảnh sát.
Trong thế giới của cô, đây là trật tự tự nhiên của mọi sự. Là con gái, cô là con mồi hợp pháp, đặc biệt khi cô mặc chiếc quần jacket da đen tàng tu và mi mắt thì chọc lỗ, có hình xăm và thân phận xã hội là con số không.
Rên rỉ về chuyện này chẳng nên cơm cháo gì.
Mặt khác, không có chuyện luật sư Bjurman sẽ không bị trừng phạt, Salander không bao giờ quên một chuyện bất công nào, xét về bản chất thì cô là đủ mọi thứ trừ có mỗi món tha thứ.
Nhưng thân phận pháp lý của cô khó khăn. Vì như cô có thể nhớ thì cô được coi là xảo quyệt, hung bạo đến mức không thể bào chữa được. Những nhận xét đầu tiên trong lý lịch của cô là từ các hồ sơ của cô bảo mẫu trường tiểu học. Cô bị đuổi học vì đã đánh một bạn trong lớp, đập bạn đó vào mẩu treo áo khiến vãi máu ra. Cô vẫn ngán ngẩm nhớ lại nạn nhân – một thằng con trai béo phì tên là David Gustavsson vốn quen trêu ghẹo cô, ném các thứ vào cô; Lớn lên nó sẽ thành một đứa bắt nạt nanh nọc. Hồi ấy cô chưa từng biết chữ “quấy rối” có nghĩa là gì nhưng hôm sau cô tới trường thì thằng kia dọa trả thù. Thế là cô cho nó một cú đấm tay phải được tăng cường bằng một quả bóng golf khiến nó lăn quay – Chuyện đã làm chảy thêm một ít máu và một để mục mới trong lý lịch của cô.
Cô luôn gặp trở ngại với các quy tắc về ứng xử xã hội ở trường học. Cô nghĩ đến việc của mình, không can thiệp vào bất cứ việc gì mà những người ở quanh cô làm. Nhưng luôn có một ai đó nhất định không để cho cô yên. Lên trung học, cô đã mấy lần bị đuổi về nhà sau những trận đánh nhau dữ dội với các bạn trong lớp. Những đứa con trai khỏa hơn trong lớp sớm thấy ra rằng đánh nhau với con bé xương xẩu này có thể là không thú vị. Không giống các cô gái khác trong lớp, cô không bao giờ lùi mà dùng ngay quả đấm hay một vũ khí đang có ở trong tay để tự vệ không do dự một giây. Cô đi lại với thái độ cho thấy cô thà chết chứ không nhận một nhục nhã nào.
Và cô luôn trả được thù.
Một lần Salander đánh nhau với một thằng con trai to hơn, khỏe hơn. Về sức lực thì cô không đọ nổi. Thoạt tiên nó khoái trá đẩy cô ngã xuống đất mấy lần rồi tát cô khi cô định đánh trả. Nhưng không hay cho nó, bất kể nó khỏe hơn như thế nào, cô gái ngốc nghếch vẫn cứ đánh nó và một lúc sau ngay cả bạn học của thằng con trai ấy cũng nhận thấy câu chuyện đã đi quá xa. Rõ ràng cô gái hết đường chống đỡ, đứng xem mà vẫn thấy thương tâm. Cuối cùng thằng con trai thoi vào mặt cô, môi cô bị rách và mắt nổ đom đóm. Chúng để cô ở dưới đất sau nhà thể dục. Cô ở nhà hai ngày. Sáng hôm thứ ba, cô chờ tên hành hạ với một cây gậy bóng chày rồi phang một nhát vào mang tai nó. Vì vụ quậy này, cô phải gặp Hiệu trưởng, và bị báo cáo với cảnh sát về tội đánh người, điều dẫn đến một cuộc điều tra phúc lợi đặc biệt.
Ngỡ cô điên, các bạn học đối xử theo lối nghĩ đó. Cô cũng gây được rất ít thiện cảm trong thày cô giáo. Cô đặc biệt không chuyện trò bao giờ và nổi tiếng là một học sinh không bao giờ giơ tay và thường không trả lời ngay cả khi thày cô hỏi trực tiếp. Cô không trả lời được hay vì một lý do nào khác, không ai biết chắc và điều này đã phản ánh vào các lớp học của cô. Cô có vấn đề, nhất định thế rồi, nhưng không ai muốn gánh trách nhiệm với cô gái khó tính khó nết dù cho ở các cuộc họp thày cô vẫn bàn đến cô. Đó là lý do đưa cô đến tình cảnh bị thày cô giáo lờ đi và cho phép ngồi ủ rũ trong im lặng
Cô bỏ trường trung học đổi sang một trường khác, không có một người bạn nào chào một câu từ biệt. Một cô gái với cách ứng xử kỳ quái không được ai yêu thích. Thế rồi khi cô đến ngưỡng của tuổi thiếu nữ, thì “tất cả xấu xa” đã diễn ra, điều mà cô không muốn nghĩ đến. Cơn bùng nổ cuối cùng đã buộc người ta phải rà soát lại các mục ở trong lý lịch cô gái từ hồi ở trường tiểu học. Sau vụ đó, cô được coi là…điên, ừ thế đấy, về mặt pháp lý. Tính nết đồng bóng, Salander bất cần đến một tư liệu gì để biết rằng mình là kẻ khác người. Nhưng chuyện này không làm phiền lòng cô khi mà người giám hộ là Holger Palmgren; nếu nhu cầu nổi dậy, cô có thể quấn lấy ông với những ngón tay nhỏ của mình.
Nils Bjurman xuất hiện, lời tuyên bố cô không có thẩm quyền pháp lý đã đe dọa trở thành một gánh nặng phiền lụy trong đời cô. Bất kể cô quay đi ngả nào, cạm bẫy vẫn cứ mở ra và điều gì sẽ xảy đến nếu cô chiến bại? Cô có lại bị đưa vào viện tâm thần không? Bị nhốt lại? Thật sự là hết đường.
Khuya đêm đấy, Cecilia Vanger và Blomkvist nằm bên nhau êm ả, vú Cecilia đè vào sườn anh. Chị ngước nhìn anh.
- Cảm ơn, kể ra lâu rồi đấy. Mà anh không tồi.
Anh mỉm cười. Mấy lời phỉnh nịnh ấy khiến anh phởn như con nít.
- Không mong đợi thế đâu, nhưng tôi thấy hay.
- Nếu một lần nữa tôi sẽ sung sướng,- Cecilia nói.- Nếu anh thấy thích thế.
Anh nhìn chị.
- Chị định nói là thích có một người yêu à, đúng không?
- Một người yêu đôi hồi.- Cecilia nói.- Nhưng tôi muốn anh về kẻo không lại ngủ đi mất. Tôi không muốn sáng mai thức dậy thấy anh ở đây mà tôi thì chưa tập thể dục và chưa chấn chỉnh cái mặt. Và đừng có rao lên khắp làng là chúng tôi thế đấy thì tốt.
- Không nghĩ tới chuyện đó,- Blomkvist nói.
- Trước hết tôi không muốn Isabella biết. Không thể tin bà ấy được.
- Và hàng xóm gần nhất của chính chị. Tôi đã gặp.
- Ừ, nhưng may mà chị ta không nhìn thấy cửa ra vào nhà tôi. Mikael, hãy kín đáo.
- Được, kín đáo.
- Cảm ơn. Anh có hay uống rượu không?
- Cũng đôi khi.
- Tôi mê gin cho thêm chút gì đó có vị hoa quả. Muốn một chút không?
- Chắc là có muốn.
Chị quấn mảnh vải trải giường quanh người đi xuống cầu thang. Blomkvist trần truồng đang đứng nhìn các giá sách của chị thì chị quay lại với một bình nước lạnh và hai cốc gin pha chanh. Họ đụng cốc.
- Tại sao anh sang đây?- Chị hỏi.
- Chả có lý do gì đặc biệt. Chị…
- Anh đang ngồi ở nhà, đọc hết các điều tra của Henrik. Rồi đến đây. Không cần phải thông minh cỡ siêu cũng biết đầu óc anh đang mải nghĩ chuyện gì.
- Chị đọc các cuộc điều tra chưa?
- Phần nào. Cả cuộc đời trưởng thành của tôi là sống với chuyện điều tra này mà. Sống với Henrik thì thế nào anh cũng bị bí mật Harriet tác động đến.
- Thật sự đây là một vụ án hấp dẫn. Trong nghề tôi gọi cái điều mà tôi tin này là một bí mật của gian phòng khóa kín, trên một hòn đảo. Xem vẻ khi điều tra người ta đã không theo lô gíc thông thường. Chả có câu hỏi nào được trả lời, manh mối nào cũng dẫn đến ngõ cụt.
- Đây là trò dễ ám ảnh người ta.
- Chị có ở trên đảo hôm ấy chứ?
- Có. Tôi ở đây và chứng kiến toàn bộ cuộc chấn động. Lúc ấy tôi đang học ở Stockhônglm. Tôi mong cuối tuần ấy được ở lại nhà.
- Harriet thật sự như thế nào? Hình như mỗi người lại nhìn cô ấy một cách.
- Cái này không được ghi chép hay…?
- Không ghi chép.
- Tôi chả biết tí nào về những gì đang diễn ra hay Harriet nghĩ gì ở trong đầu. Dĩ nhiên là anh đang nghĩ đến năm cuối cùng của cô ấy. Hôm nay cô ấy là một người lập dị về tôn giáo, ngày mai cô ấy son phấn lên như một con điếm, rồi mặc một cái áo len chật ních mà cô ấy có để đến trường. Rõ ràng là cô ấy hết sức không hạnh phúc. Nhưng như tôi đã nói, tôi ở đây không phải chỉ để nhặt dưa lê đi buôn.
- Sao lại ra nông nỗi ấy?
- Gottfried với Isabella chứ ai. Hôn nhân của họ thật rối ren. Hoặc là họ vào một bè hoặc là họ đánh lộn. Không phải thân xác – Gottfried không phải loại người vũ phu mà lại còn gần như sợ Isabella. Tính khí cô ta thật kinh khủng. Đầu những năm 60 đôi khi anh ta ở hoặc một thời gian dài, hoặc rất ít ngày trong căn nhà gỗ nhỏ của anh ta, chỗ này thì Isabella không bao giờ đặt chân đến. Có những thời kỳ anh ta quay về làng, nom như một gã lang thang. Rồi anh ta bớt rượu, lại ăn mặc sạch sẽ gọn gàng và thử trông nom đến công việc của anh ta.
- Đã có ai muốn giúp đỡ Harriet không?
- Henrik, dĩ nhiên. Cuối cùng cô bé đến ở nhà chú ấy. Nhưng chớ quên mất là Henrik đang bận đóng vai trò nhà công nghiệp lớn. Chú ấy thường đi đến những đâu đâu, không dành nhiều thời giờ cho tôi cũng như cho Harriet và Martin. Tôi không rõ nhiều chuyện này vì tôi ở Uppsala rồi Stockhônglm và tôi nói cho anh biết nha, tuổi thơ của tôi cũng không dễ dàng với bố tôi. Nghĩ lại, tôi nhận thấy vấn đề là Harriet không tâm sự với một ai bao giờ. Cô ấy cố hết sức để giữ cái vẻ bề ngoài, làm như họ là một gia đình hạnh phúc vậy.
- Phủ nhận.
- Đúng. Nhưng khi bố Harriet chết đuối thì cô bé thay đổi. Mọi sự không còn như trước nữa. Cho đến khi cô bé… tôi không biết nói như thế nào đây: có năng khiếu và trưởng thành sớm hơn tuổi nhưng nhìn chung vẫn là một cô bé ở tuổi mới lớn nhưng khá bình thường. Trong năm cuối cùng cô ấy vẫn xuất sắc thế, kỳ thi nào điểm cũng dẫn đầu, nhưng có vẻ như là cô ta vô hồn.
- Bố cô ấy chết đuối thế nào?
- Theo một cách vô duyên nhất. Ông ấy ngã từ chiếc thuyền bơi chèo ở ngay bên dưới buồng lái của ông ấy xuống biển. Quần của ông ấy phanh ra và lượng rượu trong máu ông ấy cực cao nên anh có thể hình dung được vì sao chuyện đó xảy ra. Martin là người đã tìm thấy ông ấy.
- Tôi không biết chuyện đó.
- Thật ngộ. Hóa ra Martin lại là một người thật sự hay. Ba mươi lăm năm trước nếu anh hỏi, tôi sẽ nói cậu ấy là người trong gia đình cần điều trị tâm thần.
- Sao lại thế?
- Harriet không phải là người duy nhất bị đau ốm vì tình trạng gia đình. Martin trong nhiều năm yên lặng và hướng nội nhiều đến mức đã lánh bỏ xã hội. Cả hai đứa trẻ đều đã có những tháng ngày gay go vì gia đình. Tôi muốn nói là tất cả chúng tôi. Tôi có vấn đề với ông bố - tôi cho rằng anh đã nhận thấy ở ông ấy một lòng say mê sự bạt mạng. Em tôi, Anita, cũng có vấn đề như thế, như Alexander, em họ tôi. Trẻ tuổi mà ở trong gia đình Vanger thì gay.
- Chuyện gì xảy ra với em chị?
- Em tôi sống ở London. Những năm 70 cô ấy đến đó làm việc trong một công ty du lịch Thụy Điển rồi ở lại. Em tôi lấy một người mà nó không hề giới thiệu cả với gia đình rồi bỏ nhau không lâu sau. Nay Anita là một giám đốc cao cấp của hãng hàng không British Airways. Nó với tôi hợp nhau nhưng liên hệ với nhau không nhiều, chỉ hàng năm mới lại gặp nhau. Anita không bao giờ đến Hedestad.
- Sao vậy?
- Vì một ông bố điên mà. Nói thế đã đủ rõ chưa?
- Nhưng chị thì ở lại.
- Tôi ở lại. Với Birger, anh tôi.
- Nhà chính trị kia.
- Anh chọc tôi đấy à? Birger nhiều tuổi hơn Anita và tôi. Chúng tôi không thân nhau bao giờ. Trong mắt anh ấy, anh ấy là một chính trị gia quan trọng ngoài sức tưởng tượng của con người với một tương lai ở trong Nghị viện và có thể cả ở hàng bộ trưởng nếu như đảng bảo thủ thắng. Thực tế anh ấy là một ủy viên hội đồng địa phương, tài cán èng èng tại một xó hẻo lánh của Thụy Điển, vai ủy viên này chắc sẽ là đỉnh cao và cũng là cả toàn bộ sự nghiệp của anh ấy.
- Một điều làm tôi lạ là các thành viên trong nhà Vanger đều đánh giá nhau thấp cả.
- Thật ra không phải thế. Tôi rất yêu Martin và Henrik. Và tôi luôn hợp với em tôi, bởi chúng tôi ít gặp nhau. Tôi ghét Isabella và không thể chịu nổi Alexander. Và tôi không bao giờ nói năng với bố. Thế là năm mươi năm mươi trong gia đình đấy chứ. Birger là…, ừ, một cha óc bã đậu huênh hoang chứ không phải là một người xấu. Nhưng tôi hiểu ý anh định nói. Hãy nhìn vấn đề như thế này: nếu là một thành viên gia đình Vanger, anh hãy sớm học nói ra ý nghĩ của mình. Chúng tôi nghĩ gì đều nói tuột ra hết.
- Ồ đúng, tôi để ý thấy các vị đều nói rất thẳng. – Blomkvist giơ tay sờ vú Cecilia.- Tôi ở đây chưa đến mười lăm phút mà chị đã tấn công tôi liền.
- Nói cho trung thực, vừa gặp anh là tôi đã nghĩ là làm thế nào để đưa được anh lên giường. Đúng là đáng để thử lắm.
Lần đầu tiên trong đời, Salander cảm thấy rất cần được một ai đó khuyên bảo. Vấn đề là hỏi xin lời khuyên thì có nghĩa là cô phải tâm sự với người khác và như thế lại có nghĩa là vạch vòi bí mật của cô ra. Cô nên nói với ai đây? Đơn giản là cô không giỏi tạo nên những mối quan hệ với người khác.
Sau khi tra thầm trong đầu quyển sổ ghi địa chỉ, cô có được mười người, tính cho nghiêm ngặt, có thể gọi là chốn quen biết của cô. Cô có thể nói với Dịch Bệnh, anh ít nhiều đã có mặt bền bỉ trong đời cô. Nhưng anh dứt khoát không là bạn và anh cũng là người cuối cùng trên thế gian này có thể giúp cô giải quyết các vấn đề của cô. Không được.
Đời sống tình dục của Salander không hẳn là khiêm tốn như cô đã để cho luật sư Bjurman tin là thế. Mặt khác, tình dục luôn (hay ít nhất là rất hay) xảy ra theo các điều kiện và sự chủ động của cô. Từ tuổi mười lăm cô đã có hơn năm chục “đối tác”. Như thế có nghĩa là mỗi năm năm anh, điều này là OK với một cô gái độc thân, coi tình dục là một tiêu khiển đáng thưởng thức. Nhưng phần lớn quan hệ với các đối tác dăm bữa nửa tháng này chỉ kéo dài được hai năm. Đó là những năm sôi động trong đoạn cuối của cái tuổi mười tám mười chín, khi cô bước tới trưởng thành.
Có một thời Salander đứng ở ngã ba đường, thật sự buông mặc đời mình – khi tương lai cô chỉ lại có thể nối thêm vào lý lịch nào nghiện ma túy, nghiện rượu và bị giam giữ ở nhiều nơi. Sau khi bước sang tuổi hai mươi và đi làm ở An ninh Milton, cô mới dịu đi đáng kể và – cô nghĩ – mới nắm lấy đời mình.
Cô không còn cảm thấy nhu cầu lấy lòng một ai đó để mua cho cô ba lon bia trong quán nữa, cô cũng không cảm thấy cần coi nhẹ bản thân qua việc đưa về nhà một cha say xỉn nào đó mà tên anh ta cô cũng chẳng thèm nhớ. Trong năm ngoái cô chỉ có một đối tác tình dục đều đặn – hầu như tình cờ chăng chớ, như các đề mục trong lý lịch của cô đã chỉ rõ.
Với cô, tình dục phần lớn là với một đứa trong đám bạn lỏng lẻo; cô không phải là thành viên thật sự nhưng được chấp nhận vì cô quen Cilla Noren. Cô quen Cilla hồi mười tám, mười chín tuổi, theo lời Palmgren nài nỉ, khi cô cố lấy cái bằng của nhà trường mà cô đã trượt ở Khôngmvux. Cilla có mái tóc màu mận chín xem với những lọn tóc đen, quần da đen, một khoen ở mũi và những đinh tán ở thắt lưng cũng nhiều như Salander. Trong năm thứ nhất hai đứa đã nghi ngờ lừ mắt nhau. Vì lý do nào đó Salander không biết, hai đứa lại quấn quýt. Salander không phải là người dễ có bạn và đặc biệt trong những năm tháng này nhưng Cilla chẳng buồn quan tâm điều ấy mà vẫn đưa cô đi quán bar. Qua Cilla, cô trở thành một thành viên của Những Ngón tay Ma quỷ, nó bắt đầu là một băng ngoại ô ở Enskede đi quán xá với bốn cô gái tuổi mới lớn rồi đi vào nhạc rock. Mười năm sau họ trở thành một nhóm bạn gặp nhau các tối thứ Ba ở Kvarnen để nói sự xấu xa của bọn con trai và thảo luận về phong trào bảo vệ phụ nữ, về ngôi sao năm cánh, âm nhạc, chính trị đồng thời nốc vô thiên lủng bia là bia. Chúng cũng sống xứng với những cái tên của chúng.
Salander thấy mình ở cái rìa của nhóm này, cô ít khi góp chuyện, nhưng người ta cũng không đòi hỏi gì hơn ở cô. Cô đến rồi đi tùy và được phép ngồi im lặng hết tối trước vại bia của cô. Cô cũng được mời dự tiệc sinh nhật và mừng Noel, tuy cô thường không đến.
Trong năm năm quần thảo vơi đám Những Ngón tay Ma quỷ, các bạn gái bắt đầu biến hóa. Tóc họ bớt cực đoan đi, quần áo đến từ các tiệm của H&M nhiều hơn là từ Myrorna tân kỳ. Họ đi học hoặc đi làm, một cô gái đã làm mẹ. Salander cảm thấy mình là đứa duy nhất không có thay đổi mấy tí, điều cũng có thể được hiểu là vì cô chỉ đơn giản chỉ ì ra tại chỗ và chẳng đi đến đâu. Nhưng họ vẫn vui vầy. Nếu có chỗ nào cô còn cảm thấy một kiểu đoàn kết của bè nhóm thì đó là trong vòng tay bầu bạn của Những Ngón tay Ma quỷ, và nói rộng hơn, với những đứa con trai là bạn với những đứa con gái.
Những Ngón tay Ma quỷ sẽ nghe cô. Chúng cũng sẽ đứng lên vì cô. Nhưng chúng không biết chuyện tòa án quận có lệnh tuyên bố cô bị bệnh tâm thần. Cô cũng không muốn chúng nhìn sai cô đi. Không chọn ngả này được.
Ngoài đó ra Salander không có lấy một người bạn học nào ở trong sổ địa chỉ. Cô không có mật mã hay nhóm ủng hộ hay các tiếp xúc chính trị thuộc bất cứ loại gì. Vậy cô nhờ ai để nói các vấn đề của cô đây?
Có thể có một nguời. Cô suy nghĩ một lúc xem liệu có nên tâm sự với Dragan Armansky không, Ông đã bảo cô cần giúp đỡ gì thì cứ đến ông không do dự. Cô chắc chắn là ông nói như thế.
Armansky cũng đã sờ mó cô một lần nhưng đó là sự sờ mó thân thiện, không có ý bệnh hoạn và không để phô trương quyền lực. Nhưng nhờ ông giúp đỡ thì không xuôi. Ông là sếp của cô, nhờ ông như thế sẽ đặt cô vào cái thế mang nợ. Salander giễu cợt với cái ý nghĩ rằn đời cô ra sao nếu người giám hộ cô là Armansky chứ không phải Bjurman. Cô mỉm cười. Ý nghĩ này nó ngồ ngộ, nhưng Armansky có thể coi nhiệm vụ ấy nghiêm túc quá đến mức ông sẽ đem vây kín cô lại cùng với sự chú ý của ông. Ngả này. Được, có thể tính đến ngả này.
Dù cô có biết rõ trung tâm khủng hoảng cho một người phụ nữ là gì thì cô cũng không bao giờ nảy ra cái ý định tự mình quay đến một trung tâm này. Trong mắt cô, các trung tâm khủng hoảng tồn tại là để cho các nạn nhân mà cô thì không bao giờ coi mình là nạn nhân. Kết quả, lựa chọn duy nhất còn lại với cô là làm cái điều cô vẫn làm – tự tay nắm lấy vấn đề và tự mình giải quyết lấy vấn đề. Đó là một sự lựa chọn dứt khoát.
Và nó không báo trước điều gì hay ho cho ngài luật sư Nils Bjurman sất cả.
Chương 13
Thứ Năm, 20 tháng Hai
Thứ Sáu, 7 tháng Ba
Trong tuần cuối cùng của tháng Hai, với Bjurman.N, sinh năm 1950, Salander cũng làm giống thân chủ cô, như một dự án đặc biệt, ưu tiên đặc biệt. Cô làm gần như mười sáu giờ mỗi ngày, tiến hành một cuộc điều tra cá nhân thấu triệt hơn những cái cô đã từng làm trước kia. Cô sử dụng hết mọi văn bản và tư liệu công cộng mà cô có thể chạm tới. Cô điều tra cả giới họ hàng và bè bạn của viên luật sư. Cô nhòm vào tài chính của ông ta và cho vào biểu đồ mọi chi tiết về học hành và nghề nghiệp của ông ta.
Kết quả làm nản lòng.
Ông ta là một luật sư, thành viên của Hội Luật gia, tác giả của một luận văn cà kê đến đáng nể nhưng lại đặc biệt chán ngấy về luật tài chính. Tiếng tăm ông ta không tì vết. Luật sư Bjurman chưa bao giờ bị phê phán.Trừ một lần ông ta phải mang ra Hội Luật gia - ông bị buộc tội đã làm trung gian trong một vụ buôn bán nhà đất chui gần mười năm trước, nhưng ông đã chứng minh được rằng mình vô tội. Tài chính của ông đúng quy tắc; Bjurman là người đã được thử thách với ít nhất 10 triệu curon trong tài sản. Ông ta nộp thuế nhiều hơn nợ, là thành viên của Hoà bình Xanh và Hội Ân xá Quốc tế,ông ta cúng tiền cho Hội Tim Phổi. Ông ta ít xuất hiện trên báo đài. Tuy ông đã kí tên mấy lần vào các bản kêu gọi cộng đồng ủng hộ những tù nhân ở thế giới thứ ba. Ông ta sống trong căn hộ năm buồng trên Upplandsgatan gần Odenplan, ông ta là thư kí hội đồng các hộ chung cư ở đây, Bjurman đã li hôn và không có con.
Salander tập trung soi vào người vợ li hôn tên là Elena. Bà sinh ra ở Ba Lan nhưng sống hết đời ở Thụy Điển. Bà làm việc ở một trung tâm phục hồi, có vẻ đã lấy một người là đồng nghiệp của Bjurman và hạnh phúc. Mục này không giúp được gì. Hôn nhân của Bjurman dài mười bốn năm, và li hôn thì suôn sẻ, không tranh chấp.
Công việc chính thức của luật sư Bjurman là làm người kiểm soát trông nom đám trẻ từng bị lôi thôi với pháp luật. Ông đã đỡ đầu cho bốn thanh niên trước khi làm giám hộ Salander. Tất cả các trường hợp này đều đính dáng đến vị thành niên và khi đám trẻ đến tuổi trưởng thành thì các nhiệm vụ này đã kết thúc với một quyết nghị của tòa án. Một trong các thân chủ của ông vẫn tham vấn Bjurman trong vai trò luật sư của ông cho nên ở mục này cũng không có thù oán nốt, Nếu Bjurman vẫn đang khai thác có hệ thống trẻ được giám hộ thì cũng không có dấu hiệu nào về chuyện này và bất kể Salander thăm thú sâu đến đâu cô cũng không tìm ra được một dấu vết sai trái nào. Cả bốn thanh niên đều đã dựng lập cuộc sống cùng với một bạn trai hay bạn gái, họ đều có việc làm, có chỗ để sống, được cấp thẻ nợ khi mua sắm.
Cô gọi từng người trong bốn thân chủ, tự giới thiệu là thư ký phúc lợi xã hội đang làm một nghiên cứu về cuộc sống của những đứa trẻ khi sống với sự trông nom của người đỡ đầu sẽ ra sao so với những trẻ khác. Vâng, sẽ được giấu tên, đó là chuyện tự nhiên mà. Cô cũng hỏi qua điện thoại mười câu hỏi. Mấy câu hỏi nhằm làm cho người trả lời đưa ra cách nhìn nhận của họ về chế độ đỡ đầu đã tiến hành ra sao – nếu họ có ý kiến về người đỡ đầu của họ, luật sư Bjurman thì sao? Không ai nói ra điều gì xấu xa về ông ta.
Khi làm xong cuộc truy xét, Salander thu tư liệu vào trong túi xách nhãn ICA rồi mang ra ngoài gian sảnh cùng với hai mươi túi xách đựng báo cũ. Xem ra Bjurman không có gì đáng chê trách. Quá khứ của ông ta không có gì để cô có thể sử dụng. Cô biết mười mươi ông ta là một kẻ gian xảo, một con lợn nhưng không tìm ra được cái gì để chứng minh.
Đã đến lúc tính sang cách làm khác. Sau khi phân tích, một khả năng cho thấy ngày càng hấp dẫn hơn - hay ít nhất có vẻ là một ngả thực tiễn thật sự. Ðiều dễ nhất sẽ là Bjurman đơn giản biến khỏi đời cô, thế thôi. Một cơn đau tim đột ngột. Hết chuyện. Kẹt là ngay cả những gã năm mươi ba tuổi đáng ghét, cũng không chịu nghe theo ý cô, mà ngoan ngoãn lên cơn đau tim cho.
Nhưng kiểu chuyện như thế này có thể thu xếp được.
Blomkvist giữ kín chuyện quan hệ với bà Hiệu trưởng Cecilia Vanger. Chị có ba quy tắc: không muốn bất cứ ai biết hai người gặp nhau; anh chỉ sang khi nào chị gọi và anh không ở lại hết đêm.
Niềm đam mê của chị làm cho anh ngạc nhiên và lạ. Khi anh tình cờ gặp chị ở quán Susanne, chị thân mật nhưng lạnh và xa cách. Khi hai người gặp nhau trong phòng ngủ của chị, chị cuồng say như rồ đại.
Blomkvist không muốn dò vào đời tư của chị nhưng anh lại được mướn để dò vào đời tư của mỗi người trong gia đình Vanger. Anh cảm thấy bị giằng xé và đồng thời cũng tò mò. Một hôm anh hỏi Henrik chị đã lấy ai và đã xảy ra chuyện gì. Anh hỏi câu này khi họ đang bàn đến Alexander và Birger
- Cecilia ấy à? Tôi nghĩ cháu nó không dính gì đến Harriet cả.
- Ông nói quá khứ của chị ấy cho tôi đi.
- Sau khi tốt nghiệp Cecilia chuyển về đây, làm cô giáo. Nó gặp một người tên là Jerry Karlsson, người này không may lại làm việc cho Tập đoàn Vanger. Họ lấy nhau. Tôi nghĩ cuộc hôn nhân này hạnh phúc – muốn gì thì cũng ở thời kì đầu. Nhưng sau hai năm, tôi bắt đầu thấy cơ sự không diễn ra như tôi chờ đợi. Anh chồng đối xử không tốt với vợ. Đấy là chuyện thường xuyên – hắn đánh Cecilia nhưng nó vẫn trung thành bảo vệ hắn. Cuối cùng một lần hắn đánh nhiều quá. Cecilia bị thương nặng đến nước phải vào bệnh viện. Tôi giúp đỡ, nó dọn đi khỏi đây đến đảo Hederby và từ đó từ chối gặp tay chồng. Còn tôi thì chắc chắn là đã đuổi việc hắn.
- Nhưng họ vẫn là vợ chồng ?
- Chuyện này là tuỳ theo định nghĩa của anh thôi. Tôi không hiểu tại sao Cecilia không làm đơn li hôn. Nhưng nó không bao giờ muốn tái hôn. Cho nên tôi cho là như vậy cũng chả làm cho khác đi.
- Tay Karlsson này, có liên quan gì với...
- ... với Harriet? Không, năm 1966 hắn không ở Hedestad, hắn không làm việc cho chúng tôi lúc ấy.
- OK.
- Mikael, tôi yêu Cecilia. Nó có thể mưu mô trong công chuyện nhưng là một người tốt trong gia đình.
Salander dành cả tuần cho việc đánh gục Nils Bjurman. Cô xem xét và loại bỏ nhiều cách làm khác nhau cho đển khi rút lại chỉ còn một vài kịch bản để chọn. Không làm cái gì xốc nổi.
Có điều là phải tạo được một điều kiện. Bjurman phải chết bằng cái cách nào đó mà cô là vô can. Bất cứ cuộc điều tra nào của cảnh sát cũng sẽ dính cô vào, việc đó cô cho là lẽ đương nhiên; sớm muộn khi người ta xét đến các trách nhiệm của Bjurman, tên cô cũng sẽ được trưng lên. Nhưng cô chỉ là một trong cả cả một rừng thân chủ cũ mới, cô mới chỉ gặp ông ta bốn lần, và sẽ không có manh mối nào cho thấy cái chết của ông ra có liên quan đến một ai trong các thân chủ của ông. Đã có bạn gái cũ, họ hàng, người quen biết chốc nhát, đồng nghiệp và những người khác. Cũng có cả cái đã quen được định nghĩa là “bạo hành ngẫu nhiên” khi mà người thủ ác và nạn nhân không biết nhau.
Nếu tên cô xuất hiện, cô sẽ là một cô gái không nơi nương tựa, bất tài bất lực với các tư liệu cho thấy cô có vấn đề về tâm thần. Cho nên sẽ rất lợi nếu Bjurman chết một cách đủ phức tạp để cho rất khó có thể nghĩ một cô gái tâm thần có vấn đề lại là kẻ thủ ác được.
Cô thôi dùng súng. Có súng không phải là chuyện lớn nhưng trong việc dò tìm súng đạn thì cảnh sát giỏi đáng sợ.
Cô nghĩ đến dùng dao, dao thì có thể mua ở bất cứ hiệu ngũ kim nào, nhưng lại quyết định thôi. Cho dù cô có thể bất thần hiện ra gí dao vào lưng ông ta thì ông ta cũng chưa chắc chết ngay. Tệ hơn, có thể lại còn vật lộn, khiến cho bị chú ý rồi máu có thể vấy vào quần áo cô, làm bằng chứng chống lại cô.
Cô nghĩ dùng một kiểu bom gì đó nhưng phương án này quá phức tạp. Làm một quả bom, bản thân chuyện ấy không thành vấn đề - Internet đầy các sách dạy cách chế tạo các của giết được nhiều người nhất này. Sẽ rất khó tìm một chỗ đặt bom sao cho người qua đường vô tội không bị thương. Ngoài ra lại cũng không đảm bảo chắc chắn ông ta sẽ chết.
Điện thoại réo.
- Chào, Lisbeth. Dragan. Tôi có một việc cho cô.
- Tôi không có thì giờ.
- Việc này quan trọng.
- Tôi bận.
Cô dập máy.
Cuối cùng cô đậu lại ở phương án dùng thuốc độc .Cô ngạc nhiên đã chọn môn này nhưng xét kỹ thì đó là một cách hoàn hảo.
Salander bỏ mấy ngày rà trên Internet. Vô thiên lủng tha hồ chọn. Một thứ là nằm trong những thuốc độc chết người nhất mà khoa học biết đến – axit hydrocyanic, nôm na là axit prussic hay axit màu xanh Phổ. Chỉ một vài miligam axit xanh Phổ đủ giết chết một người; một lít trong một thùng tưới ô doa có thể dọn sạch một thành phố cỡ trung.
Rõ ràng một chất chết người như thế là bị kiểm soát ngặt nghèo. Nhưng lại có thể chế được trong một cái bếp bình thường. Mọi thứ cần đến chỉ là một số không nhiều thiết bị hoá nghiệm và có thể tìm thấy ở trong một bộ dụng cụ hoá học của trẻ con giá vài trăm curon cùng mấy thành phần chiếu xuất từ các sản phẩm thông thường dùng trong gia đình và được Sách giáo khoa dạy làm ở trên Internet.
Một lựa chọn khác là nicôtin. Từ một tút thuốc lá có thể chiết xuất ra những miligam nicôtin, đốt chúng lên thành một thứ xirô nhầy dính. Một chất còn tốt hơn, tuy sản xuất hơi phức tạp hơn là nicôtin sunphát , cái này có đặc tính là có thể thấm qua da. Mọi việc cô phải làm là đi găng tay cao su, đổ đầy nước ấy vào một súng lục hơi rồi bơm vào mặt Bjurman. Ông ta liền hôn mê trong vòng hai chục giây và chết thẳng cẳng trong vài phút.
Salander không ngờ quá nhiều vật dụng trong nhà có thể thành vũ khí giết người. Sau vài hôm nghiên cứu vấn đề, cô đã tin rằng không có môn kỹ thuật nào lấy được cái mạng của kẻ canh giữ cô.
Có hai vấn đề: Cái chết của Bjurman tự nó không có cho cô quay lại tự cai quản lấy cuộc đời cô, và không có đảm bảo rằng người kế chân Bjurman sẽ tử tế hơn. Hãy phân tích về các hậu quả.
Vậy thì điều mà cô cần làm là kiểm soát người giám hộ cô và do đó kiểm soát được cả tình cảnh cô. Cô ngồi hết cả buổi tối trên chiếu ghế sofa cũ nát ở trong phòng khách thầm duyệt lại toàn bộ tình hình ở trong đầu. Sắp sáng, cô vứt bỏ cái ý ám sát bằng thuốc độc mà sắp xếp một kế hoạch mới.
Đây là một lựa chọn chả thú vị gì, nó vẫn cho phép Bjurman tiếp tục tấn công cô. Nhưng nếu thực hiện nó, cô sẽ thắng.
Đến cuối tháng Hai, Blomkvist sa vào một nếp làm việc hàng ngày khiến nó thay đổi việc anh ở lại Hedestad. Sáng sáng anh dậy lúc 9 giờ, ăn điểm tâm, rồi làm việc tới trưa. Trong thời gian này anh nhồi nhét các tài liệu mới vào đầu. Sau đó đi bộ một giờ đồng hồ bất kể thời tiết ra sao. Chiều anh làm việc tiếp, hoặc ở nhà hoặc ở quán Cà phê & bánh đầu cầu Susanne, chế biến sắp xếp những cái anh đọc trong buổi sáng hay viết vài đoạn có thể sẽ là tự truyện của Henrik Vanger. Từ 3 đến 6 giờ anh luôn luôn rảnh. Anh có thể mua sắm, tắm giặt hoặc vào Hedestad. Khoảng 7 giờ anh đến nhà Vanger hỏi ông những câu hỏi nổi lên hôm đó. 10 giờ anh ở nhà, có thể đọc tới 1 hay 2 giờ sáng. Anh làm việc chu đáo với các tư liệu của Vanger.
Việc định hình cho quyển tự truyện diễn ra êm ả. Anh đã viết 120 trang bản thảo sơ bộ về biên niên gia đình. Anh đã tới những năm 1920. Quá đoạn này anh sẽ làm chậm hơn và bắt đầu cân nhắc chữ nghĩa.
Qua thư viện ở Hedestad, anh đã mượn những sách viết về chủ nghĩa Quốc xã trong thời gian ấy, gồm cả luận văn tiến sĩ của Helene Loow, Chữ thập ngoặc và bố Wasa, viết về các biểu tượng mà đám Quốc xã Ðức và Thụy Ðiển đã dùng. Anh đã có bốn chục trang bản thảo khác về Henrik và mấy người anh của ông, tập trung vào Henrik là người giữ cho câu truyện gắn kết lại với nhau. Anh có danh sách những đề tài anh cần nghiên cứu về cách công ty hoạt động lúc bấy giờ. Và anh đã phát hiện ra thấy gia đình Vanger từng dính líu nặng vào đế chế lvar Kreuger-một khía cạnh khác của câu chuyện anh cần khai thác. Anh ước lượng còn phải viết khoảng 300 trang nữa. Theo kế hoạch anh đặt ra, anh muốn vào ngay đầu tháng Chín có một bản thảo cuối cùng cho Henrik Vanger xem để anh có được cả mùa thu soát lại bài viết.
Vì tất cả sự đọc và viết này, Blomkvist không tiến bộ một li nào trong vụ Harriet dù anh nghiền ngẫm các chi tiết trong đống hồ sơ, anh cũng không tìm ra nổi một mẩu thông tin duy nhất nào mâu thuẫn với báo cáo điều tra.
Một tối thứ Bảy cuối tháng Hai, anh có một cuộc nói chuyện với Henrik Vanger, trong đó anh báo cáo về những tiến bộ mới đây của mình. Ông già kiên nhẫn nghe trong khi Blomkvist kể ra hết các ngõ cụt anh đã rúc phải.
- Không có án mạng nào lại hoàn hảo cả. - Henrik nói. - Tôi chắc chắn chúng ta đã để lọt mất một cái gì.
- Vụ án mạng này được gây ra như thế nào, chúng ta vẫn chưa nói được chỗ ấy.
- Nắm lấy chỗ ấy, - Henrik nói. – Và hoàn thành công việc.
- Vô ích.
- Có thể là thế. Nhưng không bỏ cuộc.
Blomkvist thở dài.
- Các số điện thoại. - Cuối cùng anh nói.
- Ừ.
- Chắc là chúng phải nói lên cái gì.
- Tôi đồng ý.
- Chúng được ghi lại vì một mục đích gì đó.
- Ừ
- Nhưng chúng ta không diễn giải được.
- Ừ
- Hoặc nói khác đi là chúng ta đã diễn giải sai.
- Chính xác.
- Không phải số điện thoại. Là một cái gì đó.
- Có thể là thế.
Blomkvist lại thở dài, rồi về nhà đọc tiếp.
Luật sư Bjurman nhẹ người khi Salander lại gọi, nói rõ là cô cần thêm tiền nữa. Cô hoãn lần gặp đã lên lịch gần đây nhất với lý do là cô có việc phải làm và ông bị một cảm giác không thoái mái cắn rứt. Cô sẽ lại quay về là một đứa trẻ có vấn đề không thể xử lý được chăng? Nhưng do lỡ cuộc gặp nên cô đã không được trợ cấp vậy thì sớm muộn cô buộc sẽ phải đến gặp ông. Ông không thể giúp nhưng ông băn khoăn cô có bàn với một người ngoài cuộc nào đó về câu chuyện đã xảy ra không.
Sẽ phải kiềm chế cô ta. Sẽ phải cho cô ta hiểu ai là người có quyền quyết định. Cho nên ông bảo cô lần này gặp không ở sở mà tại nhà ông ta gần Odenplan. Nghe tin này, Salander im lặng hồi lâu trong máy rồi cuối cùng bằng lòng.
Cô đã dự định gặp ông ta ở sở, đúng như lần trước. Nay cô buộc phải gặp ông ở miếng đất không quen thuộc. Cuộc hẹn vào tối thứ Sáu. Cô đã được cho số toà cao ốc và cô bấm chuông nhà ông hồi 8 giờ, muộn hơn hẹn nửa giờ. Đó là bấy nhiêu thì giờ cô cần trong bóng tối của thang gác toà cao ốc để soát lại một lần cuối cùng kế hoạch, tính đến các khả năng, lên gân cốt và huy động lòng can đảm cô sẽ cần tới.
8 giờ Blomkvist tắt máy tính, mặc quần áo đi ra phố. Anh để đèn sáng trong phòng làm việc. Bên ngoài trời sáng sao và đêm lạnh buốt. Anh đi gấp lên đồi, qua nhà Vanger, bắt vào đường tới Ostergarden. Khỏi nhà Vanger anh rẽ trái, đi theo một con đường xấu hơn dọc bờ biển. Các phao thắp sáng lập loè trong vùng nước và ánh sáng từ Hedestad lấp loá vui vẻ trong bóng tối. Anh cần khí trời trong lành nhưng trên hết anh muốn tránh con mắt rình mò của Isabella Vanger. Quá nhà Vanger không xa. Anh lại ra đường cái và đến cửa nhà Cecilia Vanger ngay sau 8 rưỡi. Họ đến ngay phòng ngủ của chị.
Họ gặp nhau mỗi tuần hai lần. Cecilia không chỉ thành người tình của anh ở đây, tại chốn anh «lưu vong» này mà còn là người mà anh bắt đầu tâm sự. Thảo luận với Cecilia về Harriet Vanger thì được thưởng có ý nghĩa hơn so với Henrik, chú của chị.
Gần như kế hoạch đã tỏ ra sai ngay từ đầu.
Bjurman mặc áo choàng tắm khi ông ta mở cửa. Bực cô gái đến muộn, ông đẩy mạnh cô vào trong. Cô mặc quần jean đen, áo phông đen và chiếc jacket da bắt buộc. Cô đi bốt đen và đeo một ba lô nhỏ có dây đeo chéo qua ngực.
- Cô không biết xem cả giờ nữa hay sao? – Bjurman nói.
Salander không đáp. Cô nhìn quanh. Ngôi nhà nom rất giống như cô đã hình dung sau khi nghiên cứu bản đồ xây dựng trong lưu trữ văn thư của sở Phân vùng Thành phố. Đồ nội thất sáng màu bằng gỗ bu lô và sồi.
- Nào, vào đi, - Bjurman nói, giọng thân mật hơn, tay quàng qua vai cô và đưa cô đến cuối gian sảnh vào một chỗ bên trong căn nhà. Không cố rón rén. Ông ta mở cửa vào phòng ngủ. Không còn nghi ngờ gì nữa về cái việc ông ta chờ đợi Salander sẽ hoàn thành. Cô nhìn vội xung quanh. Ðồ đạc cho kẻ độc thân. Một cái giường đôi với một khung giường bằng thép không gỉ. Một cái tủ ngăn kéo có chức năng như một cái bàn đầu giường. Cạnh các đèn tắt bật không tiếng động. Một tủ quần áo với gương hết một bên cánh. Một ghế mây và một bàn làm việc nhỏ ở góc gần cửa. Ông cầm tay cô đưa đến bên giường.
- Bảo tôi lần này cô cần tiền làm gì. Thêm linh kiện máy tính à?
- Cái ăn. - Cô nói.
- Dĩ nhiên. Tôi ngớ ngẩn thế cơ chứ. Cô đã bỏ mất lần gặp truớc. - Ðặt tay vào dưới cằm cô, ông ta nâng mặt cô lên cho mắt hai người gặp nhau. - Cô sao?
Cô nhún vai.
- Cô có nghĩ đến những điều tôi nói lần trước không?
- Về gì?
- Lisbeth, đừng có mà vờ ngu đi. Tôi muốn chúng ta là bạn tốt và giúp đỡ lẫn nhau.
Cô chẳng nói chẳng rằng. Luật sư Bjurman nén cơn hung muốn tát cô một cái - để cho cô hoạt lên một ít.
- Cô có thích trò chơi người lớn của chúng ta tối nọ không?
- Không.
Ông nhíu mày.
- Lisbeth, đừng điên rồ.
- Tôi cần tiền để mua cái ăn.
- Nhưng hôm nọ tôi đã nói với cô rồi đấy. Nếu cô tử tế với tôi, tôi sẽ tử tế với cô. Nhưng nếu cô định phá quấy..., - ông bóp mạnh cằm cô và cô vẹo người đi.
- Tôi muốn lấy tiền của tôi. Ông muốn tôi làm gì ?
- Cô biết tôi muốn gì, - ông nắm lấy vai cô kéo đến giường.
- Khoan, - Salander vội nói. Cô nhẫn nhục nhìn ông ta rồi gật cụt lủn một cái. Cô cởi ba lô và chiếc jacket da có những đinh tán ra, nhìn quanh. Cô để chiếc jacket lên ghế nhựa rồi ngập ngừng đi mấy bước lên giường. Rồi cô dừng lại, như bị lạnh chân. Bjurman lại gần hơn.
- Khoan, - cô nói một lần nữa, với cái giọng tựa như giảng đạo lý. - Tôi không muốn mỗi lần cần tiền lại phải mút của quý của ông.
Vẻ mặt Bjurman thình lình biến đổi. Ông ta tát mạnh cô một cái. Salander mở to mắt nhưng cô chưa kịp phản ứng, thì Bjurman đã túm lấy vai cô rồi ném cô lên giường. Cô sửng sốt vì hành vi hung bạo. Khi cô cố xoay người dậy thì ông ta đè cô xuống gìường và cưỡi lên người cô.
Giống như lần trước, cô không thể đọ được với ông ta về sức khỏe, cơ may đánh trả duy nhất của cô là có thể cào vào mắt hay dùng một vũ khí nào đó làm cho ông ta bị thuơng. Kịch bản cô bày ra đã đi đời nhà ma. Cứt, cô nghĩ khi ông ta lột chiếc áo phông của cô ra. Cô kinh hoàng nhận thấy cô đã hoàn toàn hết phương đối phó.
Cô nghe thấy ông ta mở ngăn kẻo cạnh giường rồi tiếng kim loại lanh canh. Ban đầu cô không hiểu chuyện gì; rồi cô thấy còng số tám thít chặt lấy cổ tay cô. Ông ta giơ tay cô lên, đặt còng số tám vào quanh một cọc giường rồi khóa tay kia của cô lại. Ông chả mất mấy thì giờ để tụt bốt và quần jean cô ra. Rồi cởi quần lót dài ngang đùi của cô ra cầm ở trong tay.
- Cô phải học cách tin cậy tôi, Lisbeth, - ông ta nói. - Tôi sắp dạy cô chơi như thế nào cái trò của người lớn đây. Nếu cô đối xử không tử tế với tôi, cô sẽ bị trừng trị. Nếu cô tử tế với tôi thì chúng ta sẽ là bạn.
Ông ta lại cưỡi lên người cô.
- Vậy là cô không thích làm đằng hậu môn à?
Salander há mồm ra hét. Ông ta túm tóc cô, nhét quần lót dài tới ngang đùi của cô vào mồm cô. Cô cảm thấy ông ta đặt một cái gì vào quanh cổ chân cô, giạng hai chân cô ra rồi trói chúng lại để cho nằm hoàn toàn bất lực. Cô nghe thấy ông ta đi quanh gian phòng nhưng không nhìn thấy gì qua chiếc áo phông quấn quanh mặt. Ông ta phải mất vài phút. Cô thở khó nhọc. Rồi cô thấy đau kinh khủng khi ông ta thúc một cái gì đó vào hậu môn cô.
Cecilia vẫn có một quy định là Blomkvist không ở lại cả đêm. Đôi khi sau hai giờ sáng, anh bắt đầu mặc quần áo, chị vẫn nằm trần truồng trên giường, mỉm cười với anh.
- Tôi thích anh đấy, Mikael. Tôi thích anh ở bên.
- Tôi cũng thích chị.
Chị kéo anh lại giường, cởi áo sơ mi anh vừa mặc vào. Anh ở lại thêm một giờ nữa.
Sau đó về qua nhà Vanger, anh chắc chắn là đã trông thấy một bức rèm ở trên gác lay động.
Salander được bảo mặc quần áo vào. Lúc ấy là 4 giờ sáng thứ Bảy.
Cô nhặt jacket da, ba lô lên và tập tễnh đi ra cửa, ông luật sư tắm táp và ăn mặc sạch sẽ đã chờ cô ở đó. Ông ta đưa cho cô tấm séc 2.500 Curon.
- Tôi lái xe đưa cô về. - Ông ta mở cửa nói.
Cô bước qua ngưỡng cứa, ra ngoài ngôi nhà rồi quay lại nhìn ông ta. Người cô nom mảnh dẻ, mặt sưng húp híp vì khóc; ông ta gần như co rúm lại khi va phải mắt cô. Trong đời mình, ông ta chưa từng bao giờ trông thấy vẻ căm thù nào trần trụi, nung nấu âm ỉ như thế này. Salander nom đúng là điên như lý lịch cô đã ghi.
- Không. - Cô nói quá khẽ đến độ ông nghe không rõ. – Tôi về một mình được.
Ông ta đặt một tay lên vai cô.
- Có chắc không ?
Cô gật. Tay ông ta bóp chặt hơn lấy vai cô.
- Hãy nhớ cái mà chúng ta đã thoả thuận. Thứ Bảy sau lại đến đây.
Cô lại gật. Sợ. Ông ta để cô đi.
Chương 14
Thứ Bảy, 8 tháng Ba
Thứ Hai, 17 tháng Ba
Cả tuần Salander nằm bẹp, đau bụng, trực tràng chảy máu và những vết thương không trông thấy thì phải mất thời gian lâu hơn mới khỏi. Cô trải qua một điều khác hẳn lần bị cưỡng hiếp đầu tiên trong văn phòng ông luật sư, nó không còn là chuyện cưỡng bức và suy đồi nữa mà là sự tàn bạo.
Cô nhận ra quá muộn rằng cô đã đánh giá sai đến đáng sợ Bjurman.
Cô đã cho rằng ông ta đang hưởng mùi quyền lực và thích thống trị mà không thấy ông ta còn là một tên bạo dâm. Ông đã tra tay cô vào còng đến nửa đêm. Có lúc cô đã tin là ông ta muốn giết cô khi ông ta đè cái gối lên mặt cô.
Cô đã không kêu khóc.
Ngoài nước mắt vì đau đớn thuần túy về thể xác cô không rơi một giọt nước mắt nào. Khi cô rời ngôi nhà đi, cô đã chật vật đi đến chỗ đậu taxi ở Odenplan. Cô nặng nhọc leo cầu thang về nhà mình. Cô tắm vòi sen, lau máu ở bộ phận sinh dục. Rồi uống một cốc nước to với hai viên Rohypnol, lảo đảo đến giường, kéo tấm chăn lông chim trùm kín đầu.
Cô tỉnh dậy vào trưa Chủ nhật, đầu trống rỗng, cơ bắp và bụng thì đau liên miên. Cô uống hai cốc kefir, ăn một quả táo. Rồi lại uống hai viên thuốc ngủ và quay lại giường.
Cô cảm thấy như đã không thức dậy cho đến thứ Ba. Cô ra ngoài mua một hộp to Pan Pizza của cửa hàng Billy, quẳng hai chiếc vào trong lò vi ba và đổ đầy cà phê vào một chiếc phích. Đêm ấy cô thức với Internet, đọc các bài báo và luận văn về tâm lý bạo dâm.
Cô tìm thấy một bài báo của một nhóm phụ nữ ở Mỹ trong đó tác giả viết rằng tên bạo dâm gần như có linh cảm chọn “các mối quan hệ của hắn”; nạn nhân mà tên bạo dâm thích nhất là người tự nguyện đến với hắn vì cô ta nghĩ mình đã cùng đường. Tên bạo dâm chuyên tìm những người đang ở vị trí lệ thuộc.
Luật sư Bjurman đã chọn cô làm nạn nhân. Qua đấy cô thấy ra được cái cách người khác nhìn nhận cô.
Thứ Sáu, một tuần sau lần thứ hai bị hiếp, cô đi đến tiệm xăm ở quận Hornstull. Cô đã hẹn trước để khi đến tiệm sẽ không gặp khách khác. Nhận ra cô, chủ tiệm gật đầu. Cô chọn một hình xăm nho nhỏ là một dải băng hẹp và bảo muốn xăm vào cổ chân. Cô chỉ chỗ.
- Da chỗ này rất mỏng, sẽ bị đau nhiều đấy. – Người thợ xăm nói.
- Không sao, - Salander nói, cởi quần jeam rồi giơ chân lên.
- OK, một cái băng. Cô đã xăm cả một đống rồi đây. Cô chắc chắn là muốn thêm một cái nữa chứ?
- Cái này là để giúp cho nhớ một chuyện.
Blomkvist rời quán cà phê lúc 2 giờ chiều thứ Bảy sau khi Susanne đóng cửa. Anh đã bỏ cả sáng ra đánh các ghi chép của anh vào iBook. Anh đi bộ ra Khôngnsum mua một ít thực phẩm và thuốc lá rồi về nhà. Anh đã mua xúc xích rán với khoai tây, củ cải đường – một món anh không bao giờ thích, nhưng chả hiểu sao xem vẻ nó lại như hợp một cách hoàn hảo với căn nhà gỗ nhỏ ở nông thôn.
Quãng 7 giờ tối anh đứng bên cửa sổ bếp ngẫm nghĩ. Cecilia Vanger không gọi. Anh bổ quàng phải chị chiều hôm ấy lúc chị đang mua bánh mì nhưng đang mải nghĩ ngợi nên chị không thấy. Xem chừng chị sẽ không gọi tối nay. Anh liếc vào chiếc tivi nhỏ mà anh gần như không bao giờ dùng. Thay vì anh ngồi vào bàn bếp và mở một truyện bí ẩn của Sua Grafton.
Salander theo hẹn quay đến nhà Bjurman ở gần Odenplan. Mỉm cười lịch sự, chào đón, ông ta mời cô vào.
- Hôm nay cô làm thế nào đây nhỉ, Lisbeth thân mến?
Cô không đáp. Ông quàng tay qua vai cô.
- Tôi cho là lần trước có hơi dữ dằn. – Ông ta nói. – Nom cô đã đỡ căng đi một chút.
Cô mỉm cười xảo trá và ông thình lình thấy dội lên một cảm giác bất trắc. Tâm trí con bé này không hoàn toàn ở đây. Ta phải nhớ cái đó. Ông ta nghĩ liệu cô sẽ giở trò gì đây.
- Ta có vào buồng ngủ không? – Salander nói.
Mặt khác con bé có vẻ lại chịu... Hôm nay ta nhẹ tay với nó thôi. Làm cho nó tin. Ông đã để còng số tám lên trên tủ ngăn kéo. Đến lúc sắp lên giường Bjurman mới nhận thấy có một cái gì đó không ổn.
Cô là người đưa ông đến giường chứ không phải kiểu co kéo trước. Ông ta dừng lại phân vân nhìn cô khi cô lấy ở trong túi jacket ra một cái gì mà ông ngỡ là điện thoại di động. Rồi ông nhìn vào mắt cô.
- Chúc ngủ ngon đi. – Cô nói.
Thục khẩu súng bắn điện vào nách trái ông, cô phóng ra 75.000 vôn. Khi ông khuỵu chân, cô giơ vai ra đỡ rồi lấy hết sức đẩy ông xuống giường.
Cecilia Vanger cảm thấy hơi ngà ngà. Chị đã quyết định không gọi Blomkvist. Quan hệ của họ đã phát triển thành một trò hề phòng the nực cười khiến Blomkvist phải loanh qua loanh quanh rón rén để đến nhà chị mà không bị bắt gặp. Phần mình, chị đã sắm vai một thiếu nữ mười mấy tuổi tương tư sầu não không thể kiểm soát nổi. Mấy tuần qua chị đã xử sự liều lĩnh.
Vấn đề là tại mình thích anh ấy quá, chị nghĩ. Cuối cùng anh ấy sẽ làm cho mình khổ đây. Chị ngồi hồi lâu mong giá như Blomkvist không đến Hedeby.
Chị đã mở một chai vang và uống hai li trong cảnh một thân trơ trọi. Chị quay sang tivi để xem chương trình Rapport và cố theo dõi tình hình thế giới nhưng rất nhanh đã thấy mệt với những bình luận lý do tại sao Tổng thống Bush phải ném bom Iraq và các thứ linh tinh khác. Chị lại ngồi vào ghế sofa trong phòng khách, cầm lấy quyển Người Laser của Gellert Tamas. Đọc được vài trang chị lại đặt sách xuống. Lập tức việc này khiến cho chị nghĩ đến bố mình. Ông đã làm những trò quái đản gì vậy nhỉ?
Lần cuối cùng hai bố con thật sự gặp nhau là vào năm 1984, khi chị và bố cùng anh Birger đi săn thỏ rừng ở bắc Hedestad. Birger đem ra thử một con chó săn mới – một con săn cáo nòi Thụy Điển mà anh vừa mới có được. Lúc ấy Harald bảy mươi ba và chị đã làm hết sức để chấp nhận các trò rồ dại của bố, những cái đã biến tuổi thơ của chị ra thành cơn ác mộng cũng như đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời trưởng thành của chị.
Trước kia chưa bao giờ Cecilia mong manh như hồi ấy. Hôn nhân của chị vừa chấm dứt ba tháng trước. Bạo hành gia đình... cái thuật ngữ này mới nhạt nhẽo làm sao. Với chị nó đã mang một kiểu lạm dụng triền miên không dừng. Những quả đấm vào đầu, những quăng quật hung hãn, những dấu hiệu rầu rĩ và những lần bị đánh lăn quay ra sàn bếp. Những cơn nổi khùng nổi đóa của chồng chị là không thể hiểu được và các trận đánh đập quá thường hay xảy ra đến nỗi chị đã bị thương thật sự. Chị bắt đầu quen đi.
Cho đến ngày chị đánh trả và anh ta hoàn toàn mất kiểm soát. Cuối cùng anh ta đã ném chiếc kéo cắm vào bả vai chị.
Anh ta hối hận và hoảng hốt đưa chị đi bệnh viên, dựng ra một chuyện tai nạn kỳ quái mà nhân viên phòng cấp cứu nhìn thấu ngay. Chị thấy xấu hổ. Họ khâu cho chị mười hai mũi và giữ chị ở lại bệnh viện hai ngày. Rồi chú chị đón chị về nhà chú. Chị không nói chuyện với chồng nữa.
Mùa thu năm ấy, tính khí Harald Vanger vui vẻ, gần như thân mật. Nhưng vào rừng một quãng xa rồi, thình lình không cơn chẳng cớ, ông bắt đầu mắng mỏ chị bằng những lời thóa mạ nhục nhã và những nhận xét không thể nào chịu nổi về đạo đức và những triển vọng về tính dục của chị. Ông gầm gừ rằng thảo nào một con điếm như thế mà không giữ nổi được một thằng đàn ông.
Birger có vẻ như không thấy mỗi một lời của bố là một lằn roi da bện quất vào em gái. Thay vì lại cười to lên, rồi theo cách của riêng anh, quàng tay ôm lấy bố, làm cho tình hình dịu đi bằng cách bình luận rằng bố thừa biết đàn bà họ là gì mà. Anh nháy mắt vui vẻ với Cecilia và bảo Harald Vanger lên đứng ở trên một gờ đất nhỏ.
Trong một thoáng giây nhìn bố và anh trai, Cecilia nhận ra mình đang cầm ở trong tay một khẩu súng săn nạp sẵn đạn. Chị nhắm mắt lại. Lựa chọn duy nhất cho chị lúc ấy hình như là giơ súng lên bắn hết cả hai viên. Chị muốn bắn luôn cả bố lẫn anh, nhưng chị đặt súng xuống dưới chân, quay gót đi đến chỗ đậu xe. Chị thẳng thừng vất họ lại, một mình về nhà. Từ hôm ấy chị từ chối cho bố vào nhà mình và không bao giờ vào nhà bố.
Ông đã hủy hoại đời tôi, Cecilia nghĩ. Ông hủy hoại đời tôi ngay từ lúc tôi còn là một đứa trẻ.
8 giờ 30 phút, chị gọi Blomkvist.
Bjurman đau. Ông không điều khiển được bắp tay bắp chân của ông. Người ông như bị bại liệt. Ông không nhớ ông có bị ngất đi không nhưng ông u u minh minh. Khi ông dần dần kiểm soát lại được cơ thể, ông phát hiện thấy ông nằm trần truồng trên giường, cổ tay bị đeo còng số tám và hai chân giạng đau đớn sang hai bên. Ông đau nhức bởi những vết bỏng ở chỗ bị điện cực phạm vào.
Salander đã kéo chiếc ghế mây đến bên, kiên nhẫn ngồi hút thuốc lá chờ, bốt ghếch lên giường. Khi ông toan nói thì nhận thấy miệng đã bị dính kín. Ông quay đầu. Cô đã kéo hết các ngăn tủ ra, đổ mọi thứ đựng ở trong đó lên sàn.
- Tôi đã tìm thấy các đồ chơi của ông. – Salander nói. Cô giơ lên một roi da bện, chọc chọc vào một đống các dương vật giả, dây rợ khung cốt, mặt nạ cao su ở trên bàn. – Cái này dùng làm gì? – Cô giơ lên một cái nút to tướng để cắm vào hậu môn. – Không, đừng cố mà nói, tôi không thiết nghe những cái ông nói đâu. Có phải đây là cái hôm nọ ông dùng với tôi không? Ông chỉ cần lắc hay gật thôi. – Cô ngả người lại phía ông ta, chờ.
Cảm thấy kinh hoàng xuyên qua ngực, Bjurman mất hết bình tĩnh. Ông giằng giằng cái còng. Nó đã làm chủ tình thế. Không thể. Ông không thể làm gì để chống lại được khi Salander cúi xuống nhét cái nút to tướng kia vào giữa hậu môn ông.
- Vậy ra ông là một thằng bạo dâm. – cô nói tưng tửng như không. – Ông thích nhồi nhét các thứ vào bên trong người ta, có phải thế không? – Cô nhìn vào mắt ông ta. Mặt cô không mang một biểu hiện gì. – Không có thứ bôi trơn ư, đúng chứ hả?
Bjurman rú lên ở sau miếng băng dính khi Salander tát mạnh vào hai má ông ta và tọng cái nút vào cái chỗ đích thực của nó.
- Đừng thút thít. – Salander nói, bắt chước giọng ông ta. – Nếu ông kêu, tôi sẽ phải trừng phạt ông đấy nha.
Cô đứng lên đi sang bên kia giường. Bjurman bất lực đưa mắt nhìn theo cô... Cái quỷ gì thế này nhỉ? Cô đã đẩy chiếc tivi 32 inch ở bên phòng khách sang. Đầu máy DVD của ông thì cô để ở trên sàn. Cô nhìn ông ta, tay vẫn lăm lăm chiếc roi.
- Tập trung chú ý đây, không được phân tán. Cũng đừng cố nói năng, - chỉ là gật thôi. Có nghe thấy tôi nói không?
Ông gật.
- Tốt. – Cô cúi xuống nhặt chiếc ba lô. – Có nhận ra cái này không? – Ông gật. – Đây là cái ba lô tôi mang đến nhà ông lần vừa rồi. Một món có ích. Tôi mượn của An ninh Milton. – Cô kéo khóa mở cái túi dưới đáy. – Đây là một camera số. Ông có xem chương trình Insider trên TV3 không? Đây là máy mà bọn phóng viên xấu xa kia vẫn dùng khi cần ghi lại một cái gì bằng một camera giấu kín.
Cô kéo khóa đóng lại.
- Thấu kính đâu, hẳn ông đang muốn hỏi thế? Nó giỏi là ở chỗ này đây. Ống kính quang học góc độ rộng bằng sợi phíp. Thấu kính nom như một cái cúc thì nằm ẩn ở trong một cái cựa khóa của một dây quàng vai. Có lẽ ông nhớ ra được là tôi đã đặt cái ba lô lên bàn đây trước khi ông sờ soạng tôi. Tôi đã làm cho thấu kính chắc chắn là chĩa vào giường này.
Cô cầm một đĩa DVD lên, lùa nó vào trong hộp đĩa. Rồi cô quay ghế mây lại để có thể ngồi xem màn hình. Châm một điếu thuốc lá khác, cô bấm điều khiển từ xa. Luật sư Bjurman đích thân mở cửa cho Salander.
Cô không biết cả xem giờ nữa hay sao?
Cô cho cái đĩa quay ông ta từ đầu đến cuối. Nó chấm hết sau chín chục phút, giữa chừng là cảnh luật sư Bjurman trần như nhộng ngồi tựa vào thành giường uống một cốc vang và nhìn Salander, co rúm với hai bàn tay bị còng lại ở đằng sau.
Cô tắt tivi ngồi trên ghế chừng mười phút không nhìn Bjurman, ông ta không dám nhúc nhích. Rồi cô đứng lên vào buồng tắm. Khi trở lại cô lại ngồi vào ghế. Giọng cô sạn sắc như giấy ráp.
- Tuần vừa rồi tôi đã có một sai lầm, - cô nói. - Tôi nghĩ ông sẽ giúp tôi tạo ra cớ để mà đánh tôi nữa. Ở ông điều vốn dĩ đã đủ là bỉ ổi nhưng vẫn chưa đủ bỉ ổi nên tôi đã không tạo được cớ cho ông. Tôi ngỡ có thể dễ dàng thu thập được tư liệu thú vị để chứng minh ông là một lão già bẩn thỉu. Tôi đã đánh giá ông sai. Tôi không biết ông mắc cái thói bệnh hoạn như thế. Tôi sẽ nói chẻ hoe ra đây. Cái đĩa này cho thấy ông cưỡng hiếp một cô gái hai mươi tư tuổi, tâm thần có vấn đề mà ông được chỉ định làm người giám hộ. Và ông không biết nếu bị đẩy đến đường cùng thì tôi sẽ có thể bị ảnh hưởng về mặt tâm thần đến đâu. Bất kỳ ai xem cái đĩa này cũng sẽ thấy ông không chỉ là một tên sa đọa mà còn là một thằng bạo dâm cuồng loạn. Đấy là điều thứ hai và tôi hy vọng tôi sẽ phải xem cái đĩa này lần chót. Khá là bổ ích, ông có nghĩ thế không? Mong muốn của tôi là ông mới chính là kẻ sẽ phải nhập viện chứ không phải tôi. Ông có nghe tôi nói những gì từ nãy đến giờ không?
Cô chờ. Ông ta không phản ứng nhưng cô có thể trông thấy ông ta run. Cô chộp lấy cái roi da, khẽ ve vẩy dứ dứ nó ở trên bộ phận sinh dục của Bjurman.
- Có nghe tôi không? – cô nói to hơn.
Ông gật.
- Tốt. Vậy chúng ta là cùng hội cùng thuyền đấy.
Cô kéo ghế lại gần để nhìn thấy được mắt ông ta.
- Ông nghĩ chúng ta nên làm gì về chuyện này nhỉ? – Ông không trả lời câu này. – Có ý nào hay không? – Khi ông không đáp, cô thò tay túm lấy bìu ông kéo ra cho đến lúc ông đau nhăn rúm cả mặt lại. – Có cái ý nào hay không? – cô nhắc lại.
Ông lắc đầu.
- Tốt. Nếu vẫn không có ý nào thì tôi sẽ cho ông một trận phát rồ phát dại lên nhỉ.
Cô ngả lại đằng sau, dụi thuốc lá vào thảm.
- Nghe đây, tuần tới, chừng nào rút được cái của này ra khỏi đít thì báo ngay lập tức cho ngân hàng của tôi rằng tôi – và chỉ mình tôi thôi – được mở tài khoản của tôi. Tôi nói cái gì có hiểu không?
Bjurman gật.
- Tốt đấy. Từ nay ông sẽ không còn bao giờ gặp tôi nữa. Mai đây chỉ gặp khi nào tôi thấy cần. Ông phải chấp hành một cái lệnh ngặt nghèo của tôi là biến cho khuất mắt tôi.
Ông gật đầu như giã gạo. Nó không định giết mình.
- Nếu mai này còn cố tiếp xúc với tôi thì các bản sao đĩa này sẽ bay tứ tung tới mọi tòa soạn ở Stockholm. Hiểu không?
Ông gật.
- Mỗi năm ông phải chyển báo cáo về phúc lợi của tôi cho sở Chế độ giám hộ một lần. Ông sẽ báo cáo rằng đời sống của tôi hoàn toàn bình thường, rằng tôi có một việc làm chắc chắn, rằng tôi đang tự trông nom cho tôi và ông không thấy có gì là bất thường trong ứng xử của tôi cả. OK?
Ông gật.
- Mỗi tháng ông sẽ chuẩn bị một báo cáo về việc ông và tôi không hề gặp nhau. Ông sẽ nói chi tiết những điều tích cực về tôi cũng như mọi sự diễn ra tốt đẹp với tôi như thế nào. Ông sẽ gửi một bản sao đó cho tôi. Hiểu chứ?
Ông lại gật. Salander để ý thấy mồ hôi đang vã ra trên trán ông ta.
- Trong vòng một năm hay hơn gì đó, hãy cứ cho là hai đi, ông sẽ chủ động tiến hành thương lượng ở tòa án quận để rút bỏ tuyên bố về tình trạng không có thẩm quyền về pháp lý của tôi. Ông sẽ lấy các báo cáo giả mạo của ông về các lần ông gặp tôi ra làm cơ sở cho đề nghị này của ông. Ông sẽ tìm một bác sĩ tâm thần đứng ra thề rằng tôi đã hoàn toàn bình thường. Ông sẽ phải cố gắng đấy. Ông sẽ phải làm chính xác mọi sự trong quyền hạn của ông để bảo đảm rằng tôi đã đủ thẩm quyền về pháp lý.
Ông gật.
- Ông có biết vì sao ông sẽ phải cố gắng hết sức không? Mẹ kiếp ông có lý do hay đấy. Nếu ông không làm thì tôi sẽ cho cái đĩa này ra công khai.
Bjurman nghe từng lời của Salander. Mắt ông ta rực lên vì thù hận. Ông ta cả quyết cô gái để cho ông ta sống là đã phạm sai lầm. Mày sẽ kết thúc cái đời mày bằng cái quả này. Sớm muộn tao sẽ nghiền nát mày ra. Nhưng ông ta vẫn tiếp tục cố hết sức gật đầu đáp lại từng câu hỏi.
- Nếu ông định tiếp xúc với tôi thì cũng sẽ bị tương tự.
Cô làm một cử chỉ cứa cổ.
- Hãy chào từ biệt với lối sống sang trọng này, với tên tuổi hay ho của ông cùng với hàng triệu bạc của ông ở trong cái tài khoản ở nước ngoài này.
Bất giác mắt ông mở to ra khi cô nhắc đến tiền. Mẹ kiếp con quỷ này sao lại biết chuyện này...
Cô mỉm cười rút ra một điếu thuốc khác.
- Tôi muốn giữ mớ chìa khóa vào nhà ông và văn phòng ông.
Ông ta nhíu mày. Cô ngả về trước, mỉm cười ngọt ngào.
- Trong tương lai tôi sẽ kiểm soát cuộc đời ông. Khi ông ít chờ đợi nhất, khi ông đang ngủ trên giường chắc thế, tôi sẽ xuất hiện ở trong buồng ngủ này với cái này trong tay. – Cô giơ súng bắn điện lên. – Tôi sẽ kiểm tra ông. Nếu tôi thấy ông lại có một đứa con gái nào nữa – và dù cho nó tự nguyện – nếu tôi lại thấy ông với một người đàn bà nào nữa...
Salander lại làm cử chỉ cứa cổ.
- Nếu tôi bị chết... nếu tôi là nạn nhân của một tai nạn hay bị xe hơi đè hay một cái gì đó thì các bản sao này sẽ tự động được đăng lên trên các báo. Cộng thêm một báo cáo tôi tả rõ cho thấy có một người giám hộ như ông thì sẽ ra làm sao. Một điều nữa. – Cô lại ngả về đằng trước, gần đến mức chỉ cách mặt ông ta có năm sáu phân tay. – Nếu ông mà còn đụng đến tôi thì tôi sẽ giết ông. Đây là một lời hứa hẹn.
Bjurman tin cô tuyệt đối. Không có vẻ lừa bịp nào trong con mắt cô.
- Hãy ghi vào trong đầu rằng tôi là một con điên. Nhớ không?
Ông gật.
Cô tư lự nhìn Bjurman.
- Tôi không nghĩ tôi và ông sẽ là bạn tốt của nhau. – Salander nói. Ngay bây giờ ông hãy nằm đây tự chúc mừng mình là tôi đã khá ngố nên mới để cho ông sống. Ông nghĩ dù có là tù nhân của tôi, ông vẫn kiểm soát được vì ông nghĩ nếu tôi không giết ông thì tôi chỉ còn mỗi cách là để cho ông đi. Nên ông chứa chan hy vọng là như thế nào đó sẽ khôi phục được ngay lập tức quyền lực của ông với tôi. Đúng không?
Ông lắc đầu. Ông bắt đầu cảm thấy yếu thật sự.
- Ông sẽ nhận một món quà của tôi để cho ông luôn nhớ đến thỏa thuận của chúng ta.
Cô mỉm cười ma mãnh rồi leo lên giường quỳ vào giữa hai đùi ông. Bjurman không biết cô định làm gì nhưng thình lình cảm thấy khiếp đảm.
Rồi ông trông thấy cái kìm ở trong tay cô. Ông quẫy đầu, ông cố oằn vặn người cho đến khi cô đè một đầu gối lên bụng dưới của ông và thúc mạnh xuống để cảnh cáo.
- Hãy nằm im vì lần đầu tiên tôi dùng món đồ này đấy.
Cô làm việc cần mẫn trong hai giờ đồng hồ. Khi cô làm xong, ông thôi thút thít. Ông hình như đã rơi vào trong trạng thái ù lì vô cảm.
Cô tụt xuống giường, nghẹo đầu sang một bên nhìn cái tác phẩm thủ công của mình với một con mắt phê phán. Tài năng nghệ thuật của cô có hạn. Ở mức hay nhất thì cho là các chữ cô viết nom có vẻ ấn tượng chủ nghĩa. Cô đã dùng mực đỏ và xanh. Thông điệp viết bằng chữ hoa thành năm dòng ở trên bụng ông ta, từ núm vú đến vừa khít bộ phận sinh dục. TÔI LÀ MỘT CON LỢN BẠO DÂM, MỘT ĐỨA SA ĐỌA, MỘT ĐỨA HIẾP DÂM.
Cô thu dọn mấy cái kim và đặt các ống mực vào trong ba lô. Rồi cô vào buồng tắm rửa ráy. Cô cảm thấy khỏe khoắn hơn khi trở lại buồng ngủ.
- Chúc ngủ ngon. – Cô nói.
Cô mở một bên còng số tám, đặt chìa lên bụng ông ta rồi bỏ đi. Cô mang theo các đĩa DVD và chùm chìa khóa của ông ta.
Quãng sau nửa đêm, lúc hai người hút chung điếu thuốc, anh bảo chị là hai người sẽ không thể gặp nhau một thời gian. Cecilia ngạc nhiên quay nhìn anh.
- Anh bảo sao?
Anh có vẻ ngượng.
- Thứ Hai tôi phải ở tù ba tháng.
Không cần phải giải thích thêm. Cecilia nằm im. Chị thấy như muốn khóc.
Chiều thứ Hai, Dragan Armansky ngạc nhiên thấy Salander gõ cửa nhà ông. Ông không thấy tăm hơi cô từ khi ông ngừng cuộc điều tra về vụ Wennerstrom hồi đầu tháng Giêng, mỗi lần ông toan liên hệ thì cô hoặc không trả lời hoặc dập máy nói cô bận.
- Ông có việc cho tôi không? – cô hỏi, chả chào chả hỏi.
- Chào. Thấy cô là nhất rồi. Ngỡ cô chết hay làm sao rồi chứ.
- Có một vài việc tôi phải thu xếp.
- Hình như cô thường phải thu xếp gì đó.
- Lần này thì cấp bách. Nay tôi quay lại rồi đây. Ông có việc gì cho tôi không?
Armansky lắc đầu.
- Xin lỗi. Lúc này không.
Salander bình thản nhìn ông. Một lát, ông bắt đầu nói.
- Lisbeth, cô biết tôi mến cô và muốn có việc cho cô. Nhưng cô đi đã hai tháng mà tôi thì có đến cả tấn việc. Đơn giản là không thể dựa vào cô được. Tôi đã phải trả lương cho người khác để thế vào chỗ cô, còn hiện nay thì thật tình tôi không có việc gì.
- Ông có thể cho âm lượng to lên không?
- Gì chứ?
- Ở radio ấy.
... tạp chí Millennium. Tin về nhà công nghiệp kỳ cựu Henrik Vanger sẽ là chủ đồng sở hữu và có một ghế ở ban lãnh đạo tạp chí Millennium, tin đến cùng ngày hôm đó cũng cho hay Mikael Blomkvist nguyên CEO và chủ bút bắt đầu thụ án tù ba tháng vì vu cáo doanh nhân Hans-Erik Wennerstrom, Erika Berger, Tổng biên tập Millennium nói trong một cuộc họp báo rằng Blomlvist sẽ tiếp tục giữ vai chủ bút sau khi mãn hạn tù.
- Kìa, có chuyện đấy.
Salander đáp quá khẽ khiến Armansky chỉ thấy môi cô mấp máy. Cô đứng lên và đi ra cửa.
- Khoan. Cô đi đâu?
- Nhà. Tôi muốn sục vài thứ. Gọi tôi nếu ông có công việc gì.
Tin Millennium được tăng cường bằng việc Henrik Vanger gia nhập là sự kiện còn ghê gớm hơn là Lisbeth Salander chờ đợi. Bản in tối của Aftombladel đã ra, với một bài tóm tắt sự nghiệp của Vanger và xác nhận đây là lần đầu tiên trong khoảng hai mươi năm ông trùm công nghiệp già đời xuất hiện trước công chúng. Tin ông thành chủ đồng sở hữu của Millennium được coi như chuyện khó tin chẳng khác gì chuyện Peter Wallenberg hay Erik Penser bật nhảy ra làm các chủ đồng sở hữu của ETC hay các nhà bảo kê của tạp chí Ordfront vậy. Bài viết lớn quá đến nỗi bản tin 7 giờ 30 phúc của Rapport phát nó như mẩu tin quan trọng thứ ba và được cho lâu ba phút. Erika Berger được phỏng vấn ở tòa soạn Millennium. Thình lình vụ Wennerstron lại hóa thành ra tin tức mới toanh.
- Năm ngoái chúng tôi có sai sót nghiêm trọng dẫn đến tạp chí chúng tôi bị khởi tố vì vu cáo. Chúng tôi ân hận về điều này... và chúng tôi sẽ theo đuổi chuyện này vào một dịp thích hợp.
- Chữ “theo đuổi câu chuyện” mà bà nói là có ý gì?
- Ý tôi nói là cuối cùng chúng tôi sẽ kể lại các sự kiện theo cách của chúng tôi mà tới nay thì chúng tôi chưa làm.
- Bà có thể làm việc đó ở tòa không?
- Chúng tôi không chọn cách ấy. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục nghiệp vụ điều tra của báo chí như trước kia.
- Thế có nghĩa là bà đang nắm câu chuyện nó làm nảy ra việc buộc tội kia?
- Về vấn đề này tôi không có gì để nói hơn.
- Sau khi bản nghị án đưa ra bà sa thải luôn Mikael Blomkvist?
- Nói thế không chính xác. Xin đọc thông báo của chúng tôi ở trên báo. Ông ấy cần nghỉ. Cuối năm ông ấy sẽ quay lại, vẫn là CEO và chủ bút.
Camera quét khắp phòng tòa soạn trong khi các phóng viên vội vã thuật lại thông tin về câu chuyện sóng gió của Millennium, một tạp chí độc đáo và nói thẳng nói thật. Blomkvist không có mặt để bình luận. Anh đang trong nhà tù Rullaker ở Jamtland, cách Ostersund một giờ đồng hồ.
Salander thấy Dirch Frode ở rìa màn hình đi qua một cánh cửa vào các phòng ban biên tập. Cô cau mày, cắn môi dưới suy nghĩ.
Thứ Hai mãi đến 9 giờ, Vanger được dành một đoạn bốn phút ở bản tin. Ông được phỏng vấn trong một trường quay truyền hình ở Hedestad. Người phóng viên mở đầu bằng tuyên bố sau hai thập niên đứng trong hậu trường, nhà công nghiệp Hanrik Vanger đã trở lại. Đoạn tin được bắt đầu với một tiểu sử lướt nhanh bằng các hình ảnh trắng đen cho thấy ông với Thủ tướng Erlander khánh thành các nhà máy trong những năm 60. Rồi camera tập trung vào chiếc sofa ở trường quay, nơi Henrik Vanger đang ngồi hoàn toàn thoải mái. Ông mặc sơ mi vàng, cà vạt hẹp xanh lá cây và một bộ comlê nâu sẫm vừa vặn người. Ông gầy nhưng giọng nói trong, rắn rỏi. Ông cũng khá hồn nhiên. Người phóng viên hỏi ông điều gì đã đẩy ông trở thành chủ đồng sở hữu của Millennium.
- Đó là tờ tạp chí hay nhất mà tôi hết sức thích thú đọc trong nhiều năm. Hiện nay việc phát hành đang bị công kích. Có những kẻ đang tổ chức một cuộc phong tỏa thuê bao quảng cáo, cố làm cho nó quỵ.
Người phóng viên không ngờ tới câu trả lời này, nhưng lập tức phỏng đoán câu chuyện vốn đã bất bình thường sẽ có thêm những khía cạnh bất ngờ.
- Cái gì ở đằng sau cuộc phong tỏa?
- Đây là điều mà Millennium đang xem xét kỹ lưỡng. Nhưng bây giờ tôi nói rõ rằng Millennium sẽ không bị chết trong loạt đạn đầu tiên đâu.
- Đó là lý do khiến ông đã mua tạp chí?
- Thật là tồi tệ nếu những lợi ích đặc biệt lại có quyền lực làm câm họng những tiếng nói nghịch tai trong truyền thông đại chúng.
Vanger làm cứ như suốt đời mình ông là một phần tử cấp tiến về văn hóa gắn bó với quyền tự do ngôn luận. Blomlvist phá lên cười khi anh qua buổi tối đầu tiên ở trong nhà tù Rullaker bằng xem tivi. Các bạn tù khác khó chịu liếc anh.
Khuya hôm ấy, khi anh nằm trên chiếc giường hẹp trong xà lim – nó làm anh nhớ tới một căn phòng gò bó ở trong nhà trọ cho xe hơi qua đường với cái bàn tí xíu, một chiếc ghế và một cái giá trên tường – anh phải thừa nhận rằng Vanger và Erika đã đúng như thế nào trong việc cần tung cái tin này ra thị trường. Quả là anh đã thấy được trong thái độ của dân chúng với Millennium một cái gì đó đã thay đổi. Sự ủng hộ của Hanrik Vanger là một lời tuyên chiến với Wennerstrom không hơn không kém. Thông điệp đã rõ: trong tương lai anh không chỉ có chiến đấu với một tòa soạn sáu mống người và một ngân sách hàng trăm năm tương đương với giá tiền của một hội nghị có ăn trưa của Tập đoàn Wennerstrom. Nay anh sẽ chống lại với cả Tập đoàn Vanger, có thể chỉ là cái bóng của tầm vóc to lớn xưa nhưng vẫn đại diện được cho một sự thách thức gay go đáng kể.
Thông điệp Vanger tung lên truyền hình là cốt để nói ông đã chuẩn bị chiến đấu và cuộc chiến này với Wennerstrom sẽ là đắt giá đây.
Berger thận trọng chọn chữ chọn lời. Cô không nói nhiều nhưng việc cô nói rằng tạp chí chưa kể vụ việc ra theo cách của nó đã cho ra một ấn tượng là cô đang có một cái gì để nói. Mặc dù Blomlvist bị kết tội, nghị án và nay đang ngồi tù, cô vẫn xuất hiện và nói – kiệm lời – rằng anh không phạm tội vu cáo, rằng có một sự thật khác nữa tồn tại. Chính xác ra thì vì cô đã không dùng chữ “vô tội” mà sự vô tội của anh lại rõ hơn bao giờ hết. Việc anh sẽ quay lại vai chủ bút đã chứng tỏ rằng Millennium chẳng có chuyện gì đáng để phải xấu hổ. Trong mắt công chúng, sự tin cậy đã không thành vấn đề - ai cũng yêu thích một lý luận nổi loạn và nếu phải chọn giữa một doanh nhân giàu có nhưng thối nát và một tổng biên tập duyên dáng lại nói năng thẳng băng thì cũng có thể đoán được công chúng ngả thiện cảm về phía nào. Nhưng truyền thông đại chúng sẽ không dễ mua chuyện này đến thế - song Berger có thể đã “lấy lòng” được một số người phê bình.
Ngày hôm ấy chả có việc nào làm cho tình hình thay đổi cơ bản nhưng họ đã tranh thủ được thời gian và làm cho cán cân quyền lực nhích lệch một tí. Blomkvist hình dung Wennerstrom chắc đã phải có một buổi tối không vui. Wennerstrom có thể không biết là họ đã biết nhiều ít đến đâu, nên trước khi làm một cuộc động binh, hắn sẽ cần phải tìm cho ra được điều này.
Mặt lầm lì, Berger tắt tivi và máy VCR sau khi xem cuộc phỏng vấn mình trước rồi tới Vanger. Đã là 2 giờ 45 phút sáng; cô phải nén cơn thèm gọi Blomkvist. Anh bị giam, xem ra khó lòng được phép giữ điện thoại di động. Cô về nhà quá muộn, chồng cô đã ngủ. Cô đi đến quầy rượu, rót lấy một cốc to rượu mạch nha Aberlour suất đơn – mỗi năm cô uống rượu một lần – rồi ngồi bên cửa sổ nhìn qua Saltsjon sang nhà đèn ở cửa eo biển Skuru.
Sau ký thỏa thuận với Vanger, khi chỉ còn hai người, cô và Blomkvist đã cãi nhau ầm ĩ. Họ đã trải qua nhiều cuộc tranh cãi kịch liệt về việc lên trang cho một bài báo đặc biệt, về mẫu thiết kế của tạp chí, về đánh giá mức tin cậy của các nguồn tin và về trăm thứ bà dằn khác liên quan đến việc cho ra một tờ tạp chí. Nhưng cuộc cãi nhau ở nhà khách của Vanger đã chạm đến các nguyên tắc khiến cô nhận thấy mình đang đứng ở trên một miếng đất rung rinh.
- Anh không biết làm gì bây giờ. – Blomkvist nói. – Người này thuê anh giả vờ viết tự truyện của ông ta. Cho đến nay, dù ông ta cố buộc anh viết một cái gì đó giả dối hoặc cố thuyết phục anh viết trẹo câu chuyện đi theo cái cách không hợp với anh thì anh vẫn được tự do và có thể bỏ đi. Bây giờ ông ta là chủ đồng sở hữu của tạp chí chúng ta – và là người duy nhất có nguồn lực cứu được Millennium. Thình lình anh hóa ra chung chiêng ở giữa, trong tư thế mà các nhà đạo đức học chuyên nghiệp sẽ chẳng bao giờ lại tán thành.
- Anh có ý nào hay hơn không? – Berger hỏi. – Vì nếu có thì cứ nói thẳng nó ra để còn đánh máy hợp đồng và ký chứ.
- Erika, Vanger đang lợi dụng chúng ta trong một kiểu trả thù cá nhân chống lại Wennerstrom.
- Vậy thì sao? Chính chúng ta cũng cần trả thù Wennerstrom.
Blomkvist quay đi châm thuốc lá.
Chuyện trò của hai người kéo dài một lúc kha khá cho đến khi Berger vào phòng ngủ, cởi quần áo, leo lên giường. Hai giờ sau anh đến nằm bên, cô vờ ngủ.
Tối hôm ấy, một phóng viên của tờ Dagens Nyheter hỏi cô một câu tương tự:
- Khẳng định mình là độc lập thì Millennium có thể đáng tin đến đâu?
- Anh muốn nói gì?
Người phóng viên nghĩ câu hỏi đã đủ rõ nhưng dẫu sao vẫn nói lại một lần nữa.
- Một trong những mục tiêu của Millennium là điều tra các tập đoàn công ty. Tạp chí sẽ còn có thể đáng tin cậy khi nói rằng nó đang điều tra Tập đoàn Vanger không?
Berger ngạc nhiên nhìn anh ta tựa như cô hoàn toàn không ngờ lại có thể có câu hỏi này.
- Anh định ám chỉ rằng mức độ tin cậy của Millennium đã bị giảm sút vì một nhà tài chính nổi tiếng với tài sản lớn đã bước vào cùng làm chủ phải không?
- Bây giờ bà không thể điều tra Tập đoàn Vanger mà vẫn còn được tin cậy nữa.
- Đây là một quy tắc áp dụng đặc biệt với Millennium thôi hay sao?
- Xin lỗi?
- Ý tôi là anh làm việc cho một tờ báo mà phần lớn là do các thực thể công ty sở hữu. Như thế phải chăng có nghĩa là bất cứ báo nào do Tập đoàn Bonnier phát hành thì đều không đáng tin hay sao? Sở hữu tờ Aftonbladet là một tập đoàn Na Uy đồ sộ, tập đoàn này cũng lại là người chơi chủ yếu trong IT và truyền thông – phải chăng cái này có nghĩa là những gì Aftonbladet đăng lên về công nghiệp điện tử đều không đáng tin cậy? Chủ sở hữu của Metro là Tập đoàn Stenbeck. Anh có muốn nói rằng ở Thụy Điển không tờ báo nào có lợi ích kinh tế lớn ở đằng sau mà lại đáng tin cậy cả không?
- Không, dĩ nhiên không rồi.
- Vậy sao anh lại vòng vo ám chỉ rằng mức độ tin cậy của Millennium sẽ bị giảm sút vì có người ủng hộ chúng tôi?
Người phóng viên giơ hai tay lên trời.
- OK, tôi rút câu hỏi ấy lại.
- Không. Đừng làm thế. Tôi muốn các anh in ra đúng những gì tôi nói mà thôi. Và anh có thể thêm vào là nếu DN hứa tập trung nhiều hơn một ít vào Tập đoàn Vanger thì chúng tôi cũng sẽ tập trung hơn một ít vào Tập đoàn Bonnier.
Nhưng đây là thế tiến thoái đều khó về đạo đức.
Blomkvist làm việc cho Henrik Vanger, người ở vị trí vẩy bút một cái là Millennium chìm. Cái gì sẽ xảy ra nếu Blomkvist và Vanger trở thành kẻ thù?
Và trên hết, cô đã đặt giá bao nhiêu cho sự tin cậy của bản thân cô và từ khi nào, từ một biên tập viên độc lập cô đã trở thành một biên tập viên “hư hỏng”?
Salander tắt trình duyệt máy tính và đóng iBook của cô lại. Cô đang không có việc và đói. Tình cảnh trên không làm cô lo phiền nhiều lắm vì cô đã lấy lại quyền cai quản tài khoản ở ngân hàng và Bjurman đã gánh lấy cái quy chế về quá khứ khó chơi của cô. Cô xử lý cái đói bằng mở cho máy pha cà phê chạy. Cô làm ba miếng sandwich to tướng bằng bánh mì đen kẹp với pho mát, trứng cá cavia và một quả trứng luộc. Cô vừa ăn bữa khuuya trên ghế sofa ở phòng khách vừa làm việc với đống thông tin mới thu nhặt được.
Luật sư Frode ở Hedestad thuê cô điều tra Mikael Blomkvist, nhà báo bị tù vì vu cáo nhà tài chính Hans-Erik Wennerstrom. Vài tháng sau, Henrik Vanger, cũng ở Hedestad, vào ban lãnh đạo tờ tạp chí của Blomkvist, tuyên bố có một âm mưu muốn nghiền nát tờ tạp chí. Tất cả cùng diễn ra trong cái ngày nhà báo vào tù. Hấp dẫn nhất là một bài báo từ hai năm trước – “Với hai bàn tay trắng” – về Hans-Erik Wennerstrom mà cô tìm thấy trong tờ Monopoly Financial phát hành trên mạng. Hình như anh ta bắt đầu nghề báo cũng ở trong cái Tập đoàn Vanger hồi cuối những năm 60.
Bạn không cần là một nhà khoa học về tên lửa để nhìn thấy các sự kiện này là có phần nào liên quan nhau. Phải có cả đến một bộ xương người ở trong tủ của họ mất và Salander thích săn lùng các bộ xương. Hơn nữa vì hiện nay cô chả có việc quái gì để mà làm.
Chương 15
Thứ Sáu, 16 tháng Năm
Thứ Bảy, 31 tháng Năm
Thứ Sáu, 16 tháng Năm, Mikael Blomkvist ra khỏi nhà tù Rullaker sau hai tháng được nhận vào đó. Cũng hôm anh vào đây, anh đã làm, chả có mấy lạc quan, bản cam kết giữ kỷ luật nhà tù. Lý do nào đứng ở sau việc tha anh, điều ấy anh không bao giờ hiểu hết nhưng nó có thể liên quan gì đó tới việc anh không hề xin nghỉ phép tới việc danh sách tù nhân là bốn mươi hai mà số giường lại có ba mươi mốt. Muốn gì thì người coi tù- Peter Sarowsky, một người Ba Lan lưu vong bốn mươi tuổi- mà Blomkvist cánh hẩu với, chắc đã viết nhận xét nên rút ngắn hạn tù của anh đi.
Thời gian ở trong tù anh không bị căng thẳng mà còn khá vui. Sarowsky cho hay nhà tù được thiết kế cho đám gây gổ phá quấy và những dân lái xe say rượu chứ không phải cho đám tội phạm hình sự lõi nghề. Nề nếp thường ngày khiến anh nhớ đến lúc sống ở một ký túc xá thanh niên. Các bạn tù, một nửa là những thế hệ dân nhập cư thứ hai, nhìn Blomkvist như một loài chim lạ ở trong bầy. Anh là người tù duy nhất xuất hiện trong bản tin truyền hình, điều đã cho anh một địa vị nhất định nào đó.
Ngày đầu tiên, anh được gọi đến nói chuyện và được tổ chức Khôngmvux chữa bệnh, chỉ bảo hay tạo cho cơ hội học hành dành cho người lớn tuổi cũng như tư vấn nghề nghiệp. Anh không cảm thấy có chút nhu cầu rèn cặp nào để trở lại với xã hội, anh nghĩ anh đã được học hành và có nghề nghiệp rồi. Mặt khác, anh đề nghị được giữ iBook ở trong xà lim để anh có thể tiếp tục làm quyển sách đã nhận viết cho người ta. Yêu cầu của anh được thỏa mãn không khó khăn. Sarowsky còn thu xếp mang đến cho anh một chiếc tủ khóa để cất máy tính ở trong xà lim. Không phải vì một bạn tù nào có thể lấy cắp hay phá hay một chuyện gì đại loại mà với anh, họ luôn giữ một con mắt bảo vệ. Cứ kiểu đó Blomkvist qua hai tháng làm việc chừng sáu giờ một ngày cho quyển biên niên của gia đình Vanger, công việc chỉ bị ngừng lại chút ít để làm vệ sinh và giải trí hàng ngày. Blomkvist và hai người khác, một ở Skhôngvde đến và một gốc rễ tận Chile, được phân công quét dọn nhà thể dục thể thao mỗi ngày. Giải trí thì có xem tivi, đánh bài hay tập vật. Blomkvist phát hiện mình là một tay chơi poker khá nhưng ngày nào anh cũng bị thua một ít tiền. Nội quy cho phép đánh ăn tiền nếu tổng số tiền đánh không quá năm curon. Trước ngày được tha một hôm anh mới được báo. Sarowsky gọi anh đến văn phòng và hai người đụng cốc rượu aquavit mừng với nhau.
Blomkvist đi thẳng về căn nhà gỗ nhỏ ở Hedestad. Khi đi tới bậc tam cấp anh nghe thấy tiếng meo meo và con mèo nâu đỏ đã hộ tống anh.
- OK, mày có thể vào,- anh nói,- Nhưng tao không còn sữa đâu nhá.
Anh dỡ đồ khỏi túi. Tựa như anh đang nghỉ lễ và anh thấy thật tình nhớ những ngày tháng gần gũi với Sarowsky và các bạn tù. Có vẻ như phi lý song quả là anh đã sống vui vẻ ở Rullaker, việc phóng thích anh đến quá đột ngột khiến anh không kịp cho ai hay biết.
Vừa sau 6 giờ tối. Anh vội đến Khôngnsum để mua thực phẩm đồ dùng e nó đóng cửa. Khi về nhà, anh gọi Berger. Một tin nhắn nói hiện thời cô không có mặt. Anh bảo cô ngày mai gọi anh.
Rồi anh đi đến nhà người mướn anh. Anh thấy ông già ở tầng trệt. Trông thấy Mikael, ông già ngạc nhiên nhướng lông mày lên.
- Trốn ư?
- Tha sớm.
- Lạ đấy.
- Lạ cả với tôi.
Hai người nhìn nhau một thoáng. Rồi ông già làm Blomkvist ngạc nhiên khi ông dang tay ra ôm lấy anh.
- Tôi sắp sửa ăn đây. Đi với tôi.
Anna mang lên nhiều bánh kếp nhân thịt và dâu rừng. Họ ngồi trong phòng ăn chuyện trò gần hai giờ, Blomkvist cho biết anh làm biên niên gia đình đã đến đâu và vẫn có những lỗ thủng và khoảng cách. Họ không nói gì đến Harriet nhưng Vanger đã kể hết với anh chuyện về Millennium.
- Chúng tôi đã có một cuộc họp tòa soạn. Cô Berger và đối tác Malm của anh khá tốt nên đã đến đây họp hai lần còn Dirch thì thay mặt tôi dự một cuộc họp ở Stockholm. Tôi thật lòng mong trẻ hơn vài tuổi nhưng thật là đi xa thì quá mệt với tôi. Tôi sẽ cố đi xuống dưới đó mùa hè này.
- Chả có lý do nào mà phải họp ở trên này. – Blomkvist nói. – Vậy làm chủ sở hữu một phần tạp chí rồi thì ông thấy sao?
Henrik mỉm cười giễu.
- Bao nhiêu năm rồi mới có một điều thú vị nhất ấy. Tôi đã ngó vào tài chính, thấy khá là sòng phẳng. Tôi sẽ không phải bỏ nhiều tiền vào như tôi nghĩ, khoảng cách giữa thu và chi đang co hẹp lại.
- Tôi đã nói chuyện với Erika tuần này. Cô ấy nói số đối tác thuê quảng cáo đã tăng lên.
- Đã bắt đầu chạy đều nhưng còn phải cần thời gian. Thoạt tiên là các công ty của Tập đoàn Vanger mua một loạt các trang quảng cáo. Nhưng hai đối tác thuê quảng cáo trước kia- điện thoại di động và đại lý du lịch - đã trở lại. – Ông cười toét. – Chúng ta cũng đang chen lên chút ít với từng đứa một trong đám kẻ thù của Wennerstrom. Và tin tôi đi, danh sách này dài đấy.
- Ông có trực tiếp thấy gì từ phía Wennerstrom không?
- À, thật sự thì không. Nhưng chúng tôi xì ra câu chuyện Wennerstrom đang tổ chức một cuộc bao vây Millennium. Cái này chắc sẽ làm cho lão lộ mặt đê tiện ra. Nghe nói một phóng viên ở DN đã liên hệ được với lão và bị lão hằm hằm trả lời.
- Ông thú chuyện này, đúng không?
- Chữ thú không trúng. Tôi nên dấn chân vào chuyện này nhiều năm trước rồi mới phải.
- Giữa ông và Wennerstrom có chuyện gì đấy?
- Đừng có cố mà moi. Cuối năm nay anh sẽ thấy thôi.
9 giờ khi Blomkvist rời nhà Henrik, trong không khí có một cảm giác rõ rệt tiết xuân. Bên ngoài trời tối, anh do dự một lát. Rồi anh trở lại cung đường quen thuộc đến gõ cửa nhà Cecilia Vanger.
Anh không ngờ tới điều anh sắp thấy. Cecilia mở to mắt và lập tức nom không thoải mái khi để anh vào nhà. Hai người đứng đó, thình lình không cầm chắc được về nhau. Chị cũng hỏi anh vượt ngục phải không và anh nói rõ sự thể.
- Tôi chỉ đến chào. Tôi có làm công việc bị ngắt không?
Chị tránh mắt anh. Mikael thấy ngay là chị không đặc biệt vui khi gặp anh.
- Không…không, vào đi. Anh muốn cà phê không?
- Muốn.
Anh theo chị vào bếp. Chị quay lưng lại anh trong khi đổ nước vào máy pha cà phê. Anh đặt một tay lên vai chị, chị cứng ngay người lại.
- Cecilia, xem vẻ chị không muốn mời tôi cà phê đâu.
- Tôi không chờ anh, tưởng một tháng nữa cơ, - Chị nói. – Anh làm tôi ngạc nhiên.
Anh quay người chị lại để nhìn được vào mặt chị. Họ đứng lặng một lúc. Chị vẫn không nhìn vào mắt anh.
- Cecilia, quên cà phê đi. Có chuyện gì thế?
Chị lắc đầu, thở dài.
- Mikael, tôi muốn anh đi đi. Đừng hỏi. Cứ đi đi thôi.
Đầu tiên Mikael về căn nhà gỗ nhỏ, nhưng dừng lại ở cổng ngoài, phân vân. Thay vì vào nhà, anh lại qua cầu đi xuống bờ nước, ngồi lên một tảng đá. Anh hút một điếu thuốc, soát lại các ý nghĩ của mình và nghĩ cái gì đã có thể thay đổi được thái độ của Cecilia đối với anh ghê gớm đến thế.
Đột nhiên anh nghe thấy tiếng máy nổ và trông thấy một con tàu to màu trắng lướt vào eo biển bên dưới cây cầu. Khi nó đi qua, Mikael trông thấy Martin đứng cầm lái, mắt chăm chú nhìn để tránh đá ngầm dưới nước. Đây là tàu động cơ đi biển gần mười lăm mét, một vật mang sức mạnh đáng nể. Anh đứng lên đi vào con đường bờ biển. Anh phát hiện thấy nhiều tàu đã đang ở các bến khác nhau trong vùng nước, một mớ lẫn lộn những tàu buồm và tàu máy. Cô nhiều tàu Petersson, ở một bên là một du thuyền yatch loại IF đang dập dềnh theo lằn nước. Những tàu khá là những chiếc lớn hơn, đắt tiền hơn. Anh để ý thấy một chiếc Hallberg-Rassy. Các con tàu cũng chỉ ra sự phân chia hơn kém của của bến du thuyền ở Hedestad – không nghi ngờ gì là Martin Vanger có con tàu lớn nhất và lộng lẫy nhất.
Anh dừng lại trước cửa nhà Cecilia Vanger, liếc trộm lên cửa sổ thắp sáng ở tầng trên cùng. Rồi về nhà pha cà phê cho mình. Anh vào phòng làm việc chờ cà phê ngấm.
Trước khi tự tìm đến trình diện ở nhà tù, anh đã trao lại tất cả tư liệu về Harriet. Khôn ngoan ra thì không để chúng ở lại tại một căn nhà trống không. Nay các giá sách nom trần trụi. Trong kho các báo cáo, anh chỉ có năm sổ tay của chính Henrik Vanger còn những cái anh mang theo đến nhà tù thì nay anh đã thuộc lòng. Anh để ý thấy ở trên giá trên cùng một quyển album anh để quên ở đó, anh mang nó ra bàn nhà bếp. Anh rót cà phê và bắt đầu xem quyển album. Đó là những ảnh chụp ngày Harriet mất tích. Bức đầu tiên là cái ảnh cuối cùng của Harriet, trong cuộc diễu hành Ngày trẻ con ở Hedestad. Rồi có vài ảnh rất rõ về hiện trường vụ xe đâm nhau trên cầu. Trong nhiều dịp trước kia, anh đã xem xét từng chiếc bằng cả kính phóng lớn. Nay anh gần như lơ đãng lật giở các trang; anh biết anh sẽ chẳng tìm ra được một bức nào mà anh chưa từng xem qua. Anh chợt cảm thấy bận tâm thật tình đến vụ mất tích không thể giải thích của Harriet Vanger và đóng sập quyển album lại.
Bồn chồn anh đến bên cửa sổ nhà bếp nhìn vào bóng tối.
Rồi anh đảo mắt về lại quyển album. Anh không giải thích được cái cảm giác nhưng một ý nghĩ vụt lướt qua đầu anh tựa như anh vừa phản ứng lại với một cái gì anh mới trông thấy. Nó giống như một tạo vật vô hình nào vừa thì thào bên tai anh khiến tóc gáy anh dựng đứng.
Anh mở quyển album. Anh xem kỹ từng trang, xem từng chiếc ảnh về cây cầu. Anh nhìn tấm ảnh về Henrik Vanger trẻ hơn đang hót dầu và một Harald trẻ hơn, một người mà anh chưa hề gặp. Thành lan can cầu gẫy, các cao ốc, các cửa sổ và những xe cộ nhìn thấy trong các tấm ảnh. Anh không nhận ra được Cecilia hai mươi tuổi ở giữa đám người đứng xem. Cô mặc cái váy liền áo màu sáng và một jacket thẫm màu, hầu như có mặt ở trong ít nhất hai chục tấm ảnh.
Anh cảm thấy mình đang vừa mới bị kích động, qua nhiều năm Blomkvist đã học được là hãy tin ở bản năng của mình. Các bản năng này đang phản ứng lại với một cái gì đó trong quyển album nhưng anh không thể nói ra nó là cái gì.
11 giờ anh vẫn ở bên bàn bếp xem kỹ từng bức ảnh một thì nghe tiếng cửa mở.
- Tôi vào được không?
Đó là Cecilia Vanger. Không chờ trả lời, chị ngồi xuống đối diện anh ở bên kia bàn. Blomkvist có một cảm giác là lạ về một điều gì anh từng quen quen. Chị mặc một váy liền áo mỏng, suông và sáng màu cùng một jacket lơ xám, các thứ gần như giống với váy áo chị mặc trong các bức ảnh từ 1966.
- Anh thành vấn đề mất rồi đấy.- Chị nói.
Blomkvist nhướng lông mày.
- Xin lỗi, hồi tối anh đến gõ cửa đã làm tôi ngạc nhiên. Nay tôi khổ tâm quá không ngủ nổi.
- Tại sao chị khổ tâm?
- Anh còn không biết sao?
Anh lắc đầu.
- Anh hứa là tôi nói ra thì không cười nhé.
- Hứa.
- Mùa đông vừa rồi tôi quyến rũ anh là đã làm một việc ngu ngốc, bốc đồng. Tôi chỉ muốn hưởng thụ, có thế thôi. Đêm đầu tôi uống rượu khá say và hơn nữa, tôi không định bắt đầu một cái gì lâu dài với anh. Rồi hóa ra khác. Tôi muốn anh biết rằng trong đời tôi những tuần cùng anh, người tình thoảng qua, là sung sướng nhất.
- Tôi cũng nghĩ nó hay.
- Mikael, tôi nói dối anh và cả với tôi. Tôi không hề thanh thản về tình dục. Tôi đã có năm bạn tình. Một là khi tôi hai mươi mốt và lần đầu có chuyện. Rồi với chồng tôi, tôi gặp ông ta năm hai mươi lăm và ông ta quay ra là một kẻ xấu. Rồi một ít thời gian với ba người mà tôi gặp riêng rẽ trong vài năm một. Nhưng anh đã khơi lên ở trong tôi một cái gì. Đơn giản là tôi không thể thỏa mãn. Có một cái gì đó liên quan đến việc anh không quá đòi hỏi.
- Cecilia, không cần phải…
- Suỵt, chớ chặn lời, nếu không tôi không nói được với anh điều này.
Blomkvist ngồi im.
- Hôm anh đi tù, tôi vô cùng thảm hại. Anh đi, cứ y như anh chưa từng tồn tại bao giờ. Nhà khách đây tối om. Giường tôi trống không và lạnh. Và tôi, một mẹ nạ dòng năm mươi sáu.
Chị im lặng một lát rồi nhìn vào mắt Blomkvist.
- Mùa đông vừa rồi tôi phải lòng anh. Tôi không muốn nhưng nó đã xảy ra. Và rồi tôi đánh giá lại và hiểu ra là anh ở đây cũng chỉ tạm bợ thôi, một ngày nào đó anh sẽ bỏ đi mãi mãi còn tôi thì ở lại đây suốt đời. Tôi đau khổ quá cho nên quyết định không cho anh vào nhà nữa khi anh ở tù ra.
- Tôi xin lỗi.
- Không phải lỗi của anh. Hồi nãy khi anh đi, tôi ngồi khóc. Tôi mong có cơ hội lại sống được cuộc đời mình. Rồi tôi quyết định một điều.
- Là gì?
Chị nhìn xuống bàn.
- Chỉ vì một ngày nào đó anh bỏ đây đi mà thôi anh thì tôi điên lên mất. Mikael, chúng ta có bắt đầu lại được không? Anh có thể quên chuyện xảy ra hồi đầu hôm không?
- Đã quên rồi. – Anh nói. – Nhưng cảm ơn vì đã nói với tôi.
Chị vẫn nhìn xuống gầm bàn.
- Nếu anh còn muốn tôi thì chúng ta hãy cùng nhau.
Chị lại nhìn anh. Rồi chị đứng lên đi đến phòng ngủ. Chị vứt jacket xuống sàn, vừa đi vừa kéo váy lên qua đầu.
Blomkvist và Cecilia Vanger thức dậy khi cửa chính mở ra và một ai đó đang đi qua bếp. Họ nghe thấy tiếng một vật gì nặng buông xuống gần lò bếp. Rồi Berger đứng ở ngưỡng phòng ngủ mỉm cười, nhưng nụ cười mau chóng biến ra thành bàng hoàng.
- Ôi trời. – Cô lùi lại một bước.
- Chào, Erika, - Blomkvist nói.
- Chào, tôi rất xin lỗi. Tôi xin lỗi nghìn lần vì đã xộc vào như thế này. Tôi lẽ ra phải gõ cửa.
- Bọn này lẽ ra phải khóa cửa chính. Erika, đây là Cecilia Vanger. Cecilia, Erika Berger là Tổng biên tập của tạp chí Millennium.
- Chào. – Cecilia nói.
- Chào. – Berger nói. Trông cô lúng túng như không dứt khoát được là lịch sự bắt tay hay bỏ đi. – Ơ…, tôi có thể đi bộ một lúc.
- Không đi bộ mà đi chuẩn bị cà phê có được không? – Blomkvist nhìn đồng hồ báo thức trên bàn đầu giường. Đã quá trưa.
Berger gật đầu rồi đóng cửa buồng ngủ lại. Blomkvist và Cecilia nhìn nhau. Chị nom bối rối. Họ đã làm tình và trò chuyện đến 4 giờ sáng. Rồi Cecilia nói chị nên ngủ lại và rồi mai đây có dân ba lăng nhăng nào biết chị đã ngủ với Mikael Blomkvist thì chị cũng cứ là tỉnh khô. Chị đã quay lưng lại anh còn anh thì hai tay ấp lấy chị.
- Nghe nhé, - anh nói. – Eriaka đã có chồng và không phải bạn tình của tôi. Thỉnh thoảng bọn này gặp nhau nhưng chúng ta có gì thì cô ấy cũng không bận tâm gì hết…Bây giờ chắc cô ấy đang cảm thấy ngượng.
Một lát sau khi họ vào bếp, Erika đã bày ra cà phê, nước quả, mứt chanh, pho mát và bánh mì nướng. Trông đã thấy ngon. Cecilia đi thẳng đến Erika chìa tay ra.
- Tôi ở đây bất ngờ quá. Chào.
- Cecilia thân mến, tôi xin lỗi là đã đâm xầm vào như một con voi. – Erika nói với vẻ rất ngượng.
- Hãy quên đi vì Chúa. Mà thôi, ăn sáng với nhau đi đã.
Sau điểm tâm, Berger xin lỗi nói phải đi chào Henrik Vanger, để hai người ở lại. Cecilia dọn bàn, quay lưng lại Mikael. Anh đã đi đến ôm lấy chị.
- Bây giờ thì thế nào đây? – Cecilia nói.
- Chả thế nào. Là thế đấy – Erika là bạn tốt nhất của tôi. Hai chục năm nay bọn này vẫn cứ lúc thân sơ với nhau và chắc vẫn cứ như thế trong hai chục năm nữa. Tôi hy vọng như vậy. Nhưng bọn này chưa bao giờ là một đôi và cũng không bao giờ thọc vào chuyện tình tang của nhau.
- Cái chúng ta đang có đây là gì? Tình tang chứ?
- Tôi không biết là gì nhưng xem ra chúng ta ăn ý với nhau.
- Tối nay cô ấy ngủ đâu?
- Chúng ta sẽ tìm một chỗ nào đó cho cô ấy. Một trong những phòng để không của Henrik. Muốn gì thì cô ấy cũng sẽ không ngủ ở giường tôi cơ mà.
Cecilia nghĩ một lúc.
- Không biết tôi có xử lý được không. Anh và cô ấy thì có thể nhưng tôi thì không biết… tôi không… - Chị lắc đầu. – Tôi về lại chỗ của tôi, tôi cần nghĩ về chuyện này một lát.
- Cecilia, từ đầu chị đã hỏi và tôi đã nói với chị về quan hệ của tôi với Erika. Với chị, việc cô ấy không có gì đáng ngạc nhiên ghê gớm đến thế.
- Đúng. Nhưng chừng nào cô ấy ở Stockholm, xa tít tận dưới kia thì tôi còn có thể lờ cô ấy đi được.
Cecilia mặc jacket vào.
- Cảnh này nhố nhăng. – Chị mỉm cười nói. –Tối nay đến ăn tối, mang Berger đến, tôi nghĩ tôi bắt đầu thích cô ấy.
Erika đã giải quyết chuyện ngủ ở đâu. Trước đây trong các dịp đến Hedeby thăm Vanger cô đã ở một trong những buồng để không của ông và cô đã hỏi thẳng là có thể mượn của ông được không. Henrik khó giấu được vui mừng, ông cam đoan với cô là bất cứ lúc nào cô đều được hoan nghênh.
Các thủ tục này không còn là vấn đề, Blomkvist và Berger đi bộ qua cầu, vào ngồi ở sân trời của quán Cà phê & bánh đầu cầu Susanne ngay trước giờ đóng cửa.
- Em thật là ngu, - Berger nói. –Lái xe từng ấy đường đất lên để mừng anh trở về với tự do thì lại thấy anh trên giường với người đàn bà định mệnh của thị trấn.
- Anh xin lỗi.
- Anh với quý bà ấy đã bao lâu… -Berger ngoáy ngoáy ngón tay trỏ.
- Khoảng từ lúc Henrik Vanger thành chủ chung.
- À…à…
- À à là thế nào?
- Tò mò thôi.
- Cecilia là người tốt. Anh thích chị ấy.
- Em không phê phán, em chẳng qua là ngu thế thôi. Mỡ đến mồm thì lại bỏ đi ăn chay. Tù sao?
- Như một kỳ nghỉ lễ bình an vô sự. Công việc ở tạp chí thế nào?
- Tốt lên. Lần đầu tiên trong năm, thu nhập về quảng cáo tăng. Năm ngoái chúng ta tụt dốc thì nay đã thay đổi, nhờ Henrik. Nhưng lạ là khách hàng đặt mua báo cũng tăng lên chứ.
- Có vẻ họ đang dao động.
- Ở mọi mặt. Nhưng trong quý vừa rồi chúng ta có được những ba nghìn khách hàng đặt mua báo. Mới đầu em nghĩ chỉ là may nhưng các khách hàng đặt mua mới cứ tiếp tục tăng thêm. Xưa nay trong chuyện đặt mua báo thì đây là cú nhảy vọt lớn nhất. Đồng thời các khách hàng vẫn đặt mua cũng đang qua ban biên tập mà thường xuyên đổi mới tạp chí. Không ai trong chúng ta hiểu được chuyện này. Chúng ta không mở lấy một chiến dịch quảng cáo nào. Christer bỏ cả tuần ra làm sơ đồ chấm điểm xem ở mục này loại khách hàng nào xuất hiện. Thứ nhất, họ đều là những khách hàng mới toe đặt mua báo. Thứ hai, 70 phần trăm trong đó là phụ nữ. Thường là khác đấy. Thứ ba, có thể nói các khách hàng đặt mua báo này đều là viên chức có thu nhập trung bình ở ngoại thành: giáo viên, tầng lớp quản lý bậc trung, viên chức dân sự.
- Nghĩ xem, tầng lớp trung lưu nổi lên chống tư sản gộc nhỉ?
- Em không biết. Nếu đà này duy trì thì có nghĩa là diện mạo người đặt mua báo có thay đổi lớn. Hai tuần trước họp ban biên tập bọn này quyết định bắt đầu mở các mục mới trên tạp chí. Em muốn có nhiều hơn những vấn đề về công ăn việc làm gắn với TCO, Hội liên hiệp những Người làm thuê có tay nghề, cũng như các phóng sự điều tra về các vấn đề của phụ nữ, đại khái là vậy.
- Đừng thay đổi quá nhiều, - Blomkvist nói. – Nếu có nhiều người đặt mua báo hơn lên thì có nghĩa họ thích cái chúng ta đang làm ở trên báo rồi đó.
Cecilia mởi cả Henrik Vanger ăn tối, có thể là để tránh bớt nguy cơ một số đề tài chuyện trò dễ gây rắc rối. Chị làm món nai om.
Berger và Henrik bỏ khá nhiều thời gian bàn việc phát triển Millennium và các khách hàng đặt mua báo mới, nhưng chuyện trò đã chuyển dần sang các vấn đề khác. Đến một lúc, Berger bỗng quay sang Blomkvist hỏi công việc anh ra sao.
- Tôi tính một tháng nữa thì xong bản thảo về biên niên gia đình để Henrik Vanger xem.
- Một biên niên theo tinh thần của gia đình Addams. – Cecilia nói.
- Nó cũng có một vài khía cạnh lịch sử nhất định đấy. – Blomkvist nhượng bộ.
Cecilia liếc sang Vanger.
- Mikael, Henrik không thật sự quan tâm đến biên niên gia đình đâu. Thật ra chú ấy muốn anh giải đáp bí mật vụ Harriet mất tích.
Blomkvist không nói không rằng. Từ khi bắt đầu quan hệ với Cecilia anh nói với chị khá công khai về Harriet. Cecilia đã suy luận đó mới là công việc giao cho anh cho dù anh chưa bao giờ chính thức thừa nhận. Chắc chắn anh không bao giờ nói với Henrik rằng anh và Cecilia đã bàn tới chuyện này.
Cặp lông mày chổi xể của Henrik hơi rúm lại, Erika im lặng.
- Chú Henrik thân mến, - Cecilia nói. – Cháu không ngu. Cháu biết chú với Mikael đã thỏa thuận gì cho nhau nhưng anh ấy ở đây là về Harriet. Có đúng không?
Vanger gật đầu và liếc nhanh Blomkvist.
- Tôi đã cảnh báo anh là lưỡi cô ấy bén mà. – Ông quay sang Berger. – Tôi cho rằng Blomkvist đã nói rõ với cô việc anh ấy đến làm ở Hedeby đây.
Cô gật đầu.
- Và tôi cho rằng cô thấy đó là một việc vô nghĩa. Không, cô không cần trả lời. Đây là một nhiệm vụ ngớ ngẩn và vô nghĩa. Nhưng tôi cần phải tìm cho ra.
- Tôi không có ý kiến về chuyện này. – Berger trả lời xã giao.
- Với cô dĩ nhiên là có đấy. – Ông quay sang Blomkvist. – Bảo xem anh đã tìm ra được một cái gì có thể đưa chúng ta tiến lên chưa.
Blomkvist tránh cái nhìn của Henrik. Anh lập tức nghĩ tới cái sự quả quyết lạnh băng, dẫu chưa thể phân xử sai đúng mà anh đã có đêm qua. Cảm giác ấy theo anh suốt ngày nhưng anh không có thì giờ để làm theo cách của anh qua quyển album nữa. Cuối cùng anh ngước lên nhìn Vanger rồi lắc đầu.
- Tôi chưa tìm ra cái gì đặc biệt cả.
Đôi mắt lục lọi của ông già nhìn rọi vào anh. Ông kìm lại không bình luận.
- Các bạn trẻ, tôi không hiểu các bạn. - Ông nói. – Nhưng với tôi thì đã đến giờ đi nằm. Cảm ơn bữa ăn, Cecilia. Chúc ngủ ngon, Erika. Mai gặp tôi trước khi đi nhé.
Vanger đóng cửa chính lại rồi, tất cả đám họ đều chìm trong im lặng. Cecilia nói trước tiên.
- Mikael, tất cả là về chuyện gì thế nhỉ?
- Nghĩa là Henrik nhạy cảm với các phản ứng của con người như một cái máy đo địa chấn vậy. Hôm qua lúc chị đến tôi, tôi đang xem kỹ một tập album.
- Thế à?
- Tôi nhìn thấy một cái gì đó nhưng tôi chưa biết đó là cái gì. Nó là một cái gì gần như đã thành ra một ý nghĩ nhưng tôi đã để lọt mất.
- Vậy anh đã nghĩ đến cái gì?
- Tôi thật không thể nói được. Chị đến đúng lúc ấy.
Cecilia đỏ mặt. Tránh mắt Berger nhìn mình, chị đi ra pha cà phê.
Đó là một ngày nắng ấm. Những mầm xanh mới đã ló và Blomkvist bất chợt nhận thấy mình đang khẽ ư ử bài hát xưa về mùa xuân. Thời hoa nở đang đến. Hôm nay thứ Hai và Berger đã đi sớm.
Giữa tháng Ba lúc anh đi tù, tuyết còn phủ kín đất. Nay đã trở lại xanh và thảm cỏ quanh căn nhà gỗ của anh mơn mởn. Lần đầu tiên anh có cơ hội nhìn thấy tất cả đảo Hedeby xa gần. 8 giờ anh đến mượn Anna một phích nước nóng. Anh nói qua qua với Vanger cũng vừa mới dậy và được ông đưa cho tấm bản đồ đảo của ông. Anh muốn nhìn thật sát hơn căn nhà gỗ của Gottfried. Henrik bảo anh căn nhà này thuộc sở hữu của Martin Vanger nhưng quanh năm thường không có người ở đây. Thỉnh thoảng họ hàng có mượn đến nó.
Blomkvist túm được Martin trước khi anh đi làm. Anh hỏi liệu có mượn chìa khóa được không. Martin cười vui vẻ:
- Tôi cho rằng biên niên đang đến chương về Harriet.
- Tôi chỉ là muốn nhòm một cái…
Martin trở lại sau một phút với chiếc chìa khóa.
- Thế này OK chưa?
- Chừng nào tôi còn có liên quan thì nếu cần anh cứ đến đây. Phiền là nó nằm ở đầu đằng kia của đảo. Đúng nó là một điểm đẹp hơn cái căn nhà gỗ anh đang ở kia thật.
Blomkvist làm cà phê và bánh kẹp. Anh lấy đầy một chai nước trước khi đi, nhét bữa ăn trưa của anh vào ba lô. Anh đi theo một lối mòn hẹp cỏ mọc um tùm mất một phần chạy men theo vịnh biển ở trên mạn bắc đảo Hedeby. Căn nhà gỗ củ Gottfried ở một mũi đất cách làng một dặm rưỡi và anh ung dung cất chân đến đó mất có một nửa giờ.
Martin Vanger nói đúng. Khi Blomkvist đến khúc quành của con đường mòn hẹp, một vùng bóng râm cây cối mở ra ở cạnh biển. Có một cảnh quan tuyệt vời về cái phá con con của sông Hede, bến du thuyền Hedestad ở bên trái và bến công nghiệp ở bên phải.
Anh ngạc nhiên thấy không ai nghĩ đến chuyện vào nhà Gottfried. Đó là một kiến trúc thô sơ làm bằng những súc gỗ ố đen nằm ngang với một mái ngói và một khung màu xanh cùng một cổng có mái ở trước cửa ra vào chính. Người ta đã quên trông coi căn nhà gỗ. Sơn ở cửa và cửa sổ đã bong thành mảng và chỗ chắc từng là thảm cỏ thì nay cỏ dại cao đến nửa mét. Dọn dẹp nó cũng phải mất một ngày làm bở hơi tai.
Blomkvist mở cửa và tháo đinh ốc các cánh cửa chớp ở mặt trong cửa sổ ra. Nhà có vẻ là một kho chứa cũ không tới 400 mét vuông. Bên trong bằng ván gỗ, gồm có một buồng với các cửa sổ to hướng ra mặt nước ở hai bên cửa ra vào. Một cầu thang dẫn lên gác xép để ngủ không che kín ở cuối căn nhà và cái gác xép này trùm lên một nửa không gian căn nhà. Dưới cầu thang là một khoang có lò ga, một quầy bar và một chậu rửa. Đồ đạc cơ bản cần thiết, ẩn trong tường ở bên trái cửa ra vào, có một cái ghế dài, một bàn làm việc ọp ẹp và bên trên là một giá sách với các ngăn bằng gỗ tếch. Dưới xa hơn ở cùng bên là một tủ quần áo rộng. Ở bên phải cửa là một bàn tròn với năm chiếc ghế gỗ; một lò sưởi đứng ở giữa bức tường hông nhà.
Căn nhà không có điện; thay vì có mấy cây đèn dầu hỏa. Trên bậu một cửa sổ có một cái radio bán dẫn Grunding cũ. Ăng ten gẫy rời. Blomkvist bấm nút mở máy nhưng pin đã hết.
Anh lên cầu thang hẹp nhìn khắp cái gác xép. Có một giường đôi với tấm đệm trần, một bàn đầu giường và một tủ ngăn kéo.
Blomkvist để một lúc lục lọi kỹ căn nhà gỗ. Bàn làm việc trống rỗng trừ vài cái chiếc khăn tay và vải thoang thoảng mùi mốc. Trong tủ quần áo có vài bộ quần áo lao động, một đôi áo khoác, ủng cao su, một đôi giày tennis cũ nát và một lò đốt bằng dầu hỏa. Trong các ngăn kéo bàn làm việc là giấy viết, bút chì, một cỗ bài và vài cái gài đánh dấu trang sách. Trong tủ bếp có đĩa, cốc vại, cốc thủy tinh, nến và vài gói muối, vài túi trà. Trong ngăn kéo bàn có các dụng cụ bếp núc.
Anh tìm thấy những dấu vết duy nhất cho thấy sự quan tâm đến tri thức ở trên bàn làm việc. Mikael bắc một cái ghế để ngó lên giá sách. Ở ngăn dưới cùng có mấy số Se, Recordmagasinet, Tidsfordriv và Lektyr từ cuối những năm 50 và đầu 60. Có vài tờ báo hàng ngày từ 1965 và 1966, Matt Livs Novell, và một vài truyện tranh: Số 91, Những người ma và Những người Digan. Anh mở một tờ Lektyr từ 1964 rồi tủm tỉm cười thấy các cô gái gợi dâm nom trinh trắng quá.
Chừng một nửa sách là bìa thường thuộc xe ri Manhaltan của Wahlstrom: Mickey Spillane với các đầu đề như Hôn em đi, Chết người với các bìa kinh điển của Bertil Hegland. Anh tìm thấy hơn chục sách của Kitty, bộ năm tiểu thuyết nổi tiếng của Enid Blyton, và Bí mật Tàu điện ngầm của Sivar Ahlrud. Anh tủm tỉm nhận ra chốn quen thuộc. Ba quyển của Astrid Lindgren: Những đứa con của Ngôi làng huyên náo, Kalle Blomkvist và Rasmus, và Pippi Tất dài. Ngăn trên cùng có một quyển sách hướng dẫn nuôi chim, một sách với tên Đế chế Xấu xa, một quyển về Chiến tranh Mùa đông của Thụy Điển, sách giáo lý của Luther, Sách về các Thánh ca, và Kinh thánh.
Anh mở Kinh thánh, đọc trang bên trong: Harriet Vanger, 12 tháng Năm, 1963. Đây là Kinh thánh Xác chứng của cô gái. Anh bùi ngùi đặt nó trở về ngăn giá.
Đằng sau căn nhà có một lán gỗ và dụng cụ với một lưới hái, cào, búa và một thùng to những cưa, bào và nhiều dụng cụ khác. Anh đem một chiếc ghế đến cổng có mái rồi rót cà phê ở trong phích ra. Anh châm một điếu thuốc lá và nhìn suốt vịnh Hedestad qua tấm màn che của những bụi cây thấp cằn.
Căn nhà gỗ của Gottfried xuềnh xoàng hơn là anh tưởng. Đây là nơi mà Harriet và bố của Martin rút về khi hôn nhân của ông với Isabella đang tới đoạn cuối hồi những năm 50. Ông đã lấy căn nhà gỗ này làm nhà và ở đây ông đã rượu chè say sưa. Ông chết đuối dưới kia, gần cầu tàu. Sống ở căn nhà gỗ về mùa hè hẳn là dễ chịu, nhưng khi nhiệt độ tụt xuống dưới âm đóng băng thì chắc chắn phải lạnh buốt. Theo lời Henrik, Gottfried tiếp tục làm việc cho Tập đoàn Vanger cho tới năm 1964 – thời kỳ này thường bị gián đoạn vào những lúc ông say xỉn. Việc ông có thể ít nhiều vừa thường xuyên sống trong căn nhà gỗ này mà vẫn xuất hiện ở chỗ làm việc với râu ria cạo nhẵn, tắm rửa sạch sẽ, xúng xính trong áo jacket và cà vạt cũng đã cho thấy ông là người nghiêm khắc với bản thân mình tới mức nào. Và đây cũng là nơi Harriet thường hay ở đến mức họ đã đến đây tìm cô trước tiên. Vanger đã bảo anh rằng trong năm cuối cùng của mình, Harriet hay đến căn nhà gỗ, có vẻ để được yên tĩnh trong những ngày nghỉ lễ hay cuối tuần. Trong mùa hè cuối cùng, cô đã sống ba tháng ở đây tuy hàng ngày có vào làng. Anita Vanger, em của Cecilia, sống sáu tuần với cô ở đây.
Khi chỉ có một mình ở đây thì cô đã làm gì? Các tạp chí Mitt Livs Novell và Người Digan cũng như một số sách về Kitty chắc phải là của cô. Có thể cả quyển vở nháp cũng là của cô. Và cuốn Kinh thánh của cô thì vẫn còn ở đây.
Phải chăng cô muốn ở gần với ông bố đã khuất – có thể đó là thời kỳ tang lễ mà cô cần trải qua đầy đủ chăng? Hay có liên quan gì đến những suy ngẫm về tôn giáo của cô? Căn nhà gỗ đạm bạc - cô có ý sống ở trong một tu viện sao?
Blomkvist đi theo bờ biển xuống phía đông nam nhưng đường luôn bị các khe núi cắt quãng và những bụi bách xù mọc đầy không thể vượt qua. Anh quay lại căn nhà gỗ và bắt đầu quay trở về Hedeby. Theo bản đồ thì có một đường mòn qua rừng đi đến một chỗ gọi là Pháo đài. Anh phải mất hai mươi phút để tìm thấy nó ở trong những bụi cây rậm rạp. Pháo đài là cái gì còn lại của tuyến phòng thủ bờ biển trong Đại chiến Thế giới thứ hai; những boong ke xi măng với những đường hào tỏa ra ở xung quanh một tòa nhà chỉ huy. Cỏ dày đặc và các bụi cây mọc trùm lên tất cả.
Anh theo một con đường mòn xuống tới nhà tàu. Cạnh nhà tàu anh tìm thấy xác một con tàu Petersson bị đắm. Anh quay lại Pháo đài, theo một đường mòn đi đến một hàng rào – anh đã đến Ostergarden từ lối bên kia. Đường mòn khó đi – có những vạt xâm xấp nước buộc phải đi vòng. Cuối cùng anh đến một đầm lầy và qua đó là một nhà kho. Như mắt anh nhìn thấy thì con đường mòn chấm hết ở đó, cách đường đi Ostergarden chừng non trăm mét.
Quả đồi Soderberget nằm ở bên kia đường. Blomkvist đi lên một con dốc dựng đứng và ở đoạn cuối thì phải trèo. Đỉnh đồi Soderberget là một vách đá tương đối thẳng đứng chiều đi xuống. Anh theo gờ đất quay về Hedeby và dừng lại bên những căn nhà gỗ nghỉ hè để thưởng thức cảnh bến cá cổ và nhà thờ cùng căn nhà gỗ của chính anh. Anh ngồi lên một tảng đá phẳng và rót chỗ cà phê âm ấm còn lại ra.
Cecilia Vanger giữ khoảng cách. Anh không muốn phiền nhiễu cho nên chờ một tuần mới đến nhà chị. Chị để anh vào.
- Chắc anh nghĩ tôi khá là rồ, một bà hiệu trưởng đáng kính, năm mươi sáu tuổi mà hành động như đứa con gái mười mấy.
- Cecilia, chị là một phụ nữ trưởng thành. Chị có quyền làm những gì mà chị muốn.
- Tôi biết nên tôi đã quyết định sẽ không gặp anh nữa. Tôi không chịu nổi…
- Xin chị mà, chị không nợ tôi một giải thích nào hết. Tôi hy vọng chúng ta vẫn là bạn.
- Tôi muốn chúng ta là bạn. Nhưng quan hệ với anh thì tôi không xoay sở nổi. Tôi vẫn vốn không được tốt trong các quan hệ. Tôi thích anh để cho tôi được yên tĩnh một thời gian.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro