Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

CL 122-125

Côn Luân

Thạch Công Sơn Đầu

Năm một ngàn hai trăm bảy mươi lăm, Tống Độ Tông Triệu Kỳ ốm chết ở Lâm An. Cùng năm đó, Giả Tự Đạo lập Triệu Hiển mới bốn tuổi lên làm vua, bản thân hắn nắm quyền nhiếp chính, bưng bít mọi tin tức nơi tiền phương. Triều đình Đại Tống mù mờ hoang mang, bấp bênh bất ổn. Bá Nhan nhận được mật báo, biết rằng thời cơ đã chín muồi, bèn dẫn hai mươi vạn quân xuôi dòng Hán Thủy di chuyển xuống nam. Cùng lúc, Cận Phi và Vân Thù cũng tổ chức nhiều đợt chiêu mộ nghĩa quân tương trợ triều đình. Các hào kiệt miền nam đều nhiệt thành xả thân, khốn nỗi Đại Tống binh hèn tướng yếu khiến công sức đóng góp của họ chỉ như muối bỏ bể, không gặt hái được kết quả gì.

Mùa thu cùng năm, quân Nguyên vượt Trường Giang, theo dòng Giáp Giang tiến vào. Nhiều trọng thần, đại tướng lũ lượt kéo nhau ra đầu hàng, dâng cống mỹ nữ để lấy lòng ngoại bang, trong số đó có Binh bộ Thượng thư Lữ Sư Quỳ và Điện tiền chỉ huy sứ Phạm Văn Hổ.

Mặc Tương Phàn thất thủ, Giả Tự Đạo vẫn cố sức dập tắt mọi lời xì xào, nhưng dần dần, khi các cứ điểm tiền phương liên tiếp bị đánh hạ thì tình hình không thể che đậy được nữa. Tin khẩn tới tấp bay về Lâm An, hoàng thất và các quan lại đều kinh hoàng, thúc ép Giả Tự Đạo thân chinh ra trận đẩy lui quân địch. Họ Giả không còn cách nào khác, đành bổ Hạ Quý làm phó soái, miễn cưỡng thống lĩnh hai mươi vạn thủy lục quân cùng ba ngàn chiến thuyền vượt sông sang tây, giao chiến với quân Nguyên ở Lỗ Cảng.

Khi hai bên giáp mặt nhau, mười vạn hùng binh Nguyên triều nhất tề gầm lên như sấm rền trên sóng, ồ ạt từ thượng lưu kéo xuống. Người Tống tuy yếu về kỵ binh nhưng rất thành thạo thủy chiến, cũng ngược dòng hăng hái tiến lên. Hai bên giao tranh hồi lâu mà không phân thắng bại, Hạ Quý phập phồng lo sợ, nhân lúc không ai để ý liền chèo thuyền trốn chạy.

Bấy giờ, Giả Tự Đạo đang lười biếng tựa vào lòng ái thiếp quan chiến, chung rượu nghiêng ngả trên tay. Hắn vốn mù tịt về chiến trận, chỉ biết hai bên giao đấu ác liệt chứ chẳng biết ai thắng ai thua, nhác thấy Hạ Quý bơi qua cạnh tàu mình, vội hỏi:

- Thắng rồi hả?

Hạ Quý hổn hển đáp:

- Không đỡ nổi!

Giả Tự Đạo xuất thân lưu manh đầu đường xó chợ, nghe vậy phát hoảng, không còn để ý đến cung cách lễ tiết gì nữa, nhảy chồm chồm rủa xả:

- Đồ mặt nạc đóm dày, sao không nói sớm? – rồi vội vàng kéo ái thiếp nhảy tót lên thuyền nhẹ đã chuẩn bị sẵn, nối đuôi Hạ Quý chèo đi rõ nhanh.

Có kẻ trông thấy chủ và phó tướng một trước một sau lủi mất thì kinh hãi báo động. Quân Tống nơi đầu sóng ngọn gió nghe tin ấy, ý chí chiến đấu lập tức tiêu tan. Tướng lĩnh giẫm đạp nhau bỏ trốn, binh sĩ mạnh ai nấy chạy, trận thế hỗn loạn rối ren. Lính Nguyên thừa cơ công kích khiến quân Tống thua liểng xiểng, số đầu hàng lên đến mười mấy vạn người, lương thảo quân dụng bị tịch thu bằng sạch.

Tin bại trận ở Lỗ Cảng truyền về Lâm An, cả triều đình cùng phẫn nộ. Tạ Thái hậu cách hết mọi chức tước của Giả Tự Đạo, truyền chỉ lưu đày Tuần Châu. Giả Tự Đạo trơ trọi một thân một mình, vai vế không còn, phe cánh tan rã, đành bó tay chịu trói, trên đường áp giải bị sai nha là Trịnh Hổ Thần sát hại tại Chương Châu.

Sau trận Lỗ Cảng, tướng sĩ vùng Giang Hoài hoàn toàn thui chột ý chí chiến đấu, phản kháng rất lẻ tẻ, còn phần lớn đào ngũ hoặc đầu hàng. Lính Nguyên chia làm ba đường hành quân, cánh Lương Tiêu tiến vào theo ngả Giang Nam. Vừa tới Kinh Khẩu, gã bỗng nhận được thư khẩn, Bá Nhan ra lệnh quay gấp về Dương Châu.

.

Tại trướng soái Dương Châu, Bá Nhan triệu tập các tướng, nặng nề thông báo:

- Thánh thượng hạ chỉ ngừng xuống nam, chuẩn bị tiễu phạt sang phía tây.

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Tại sao? Không đánh Tống nữa à?

A Truật u ám nói:

- Tây bắc có biến! Cháu nội Oa Khoát Đài là Hải Đô, hiện đang đóng ở Diệp Mật Lập, nhân lúc đại quân ta nam chinh bỏ trống mặt tây bắc đã chiêu tập phiên vương kết thành liên minh bên bờ sông Tháp Na Tư. Hắn kết tội thánh thượng đã chà đạp di huấn của Thái Tổ để thay thế bằng luật lệ của người Hán, vin cớ đó cùng các phản vương tuyển mộ hai mươi vạn thiết kỵ, vượt núi A Nhĩ Thái[2], tấn công cựu đô Hòa Lâm[3].

Bá Nhan tư lự:

- Hải Đô túc trí đa mưu lại giỏi dụng binh, xưa rày vẫn luôn kình chống thánh thượng. Hiện thánh thượng cũng chưa biết nên quyết thế nào, vừa sai tín sứ chuyển lời rằng: “Trẫm chinh thảo Đại Tống hai lần, hai lần đều thất bại quay về. Nay Bá Nhan sắp thành công thì Hải Đô lại đến sinh sự, giữa đường bỏ dở kể cũng đáng tiếc, nhưng nếu vì một dải đồng lầy nước đọng phương nam mà để mất bạt ngàn đất đai màu mỡ phương bắc thì khác nào thả con cá rô bắt con săn sắt, ngẫm thực không đáng”. Và người lệnh cho ta nghị hòa với Lâm An, hai bên vạch địa giới mà cai trị.

A Truật nói:

- Người Tống liên tục thất bại, binh sĩ rệu rã chán chường, đây chính là thời cơ để hưng binh! Nếu nghị hòa để họ lấy lại sức thì mai sau tấn công sẽ khó khăn gấp mười. Hải Đô tuy nhiều binh mã thật, nhưng các phiên vương tây bắc mỗi người một bụng, không đồng chí đồng lòng. Tôi nghĩ, chỉ cần vài vạn tinh binh là đủ chặn đứng mũi đâm thọc của chúng, tội gì phải điều động hết binh mã nam chinh sang đó?

Bá Nhan gật đầu:

- Ta cũng nghĩ như ngươi! Bây giờ ta sẽ về Đại Đô, tìm cách thuyết phục thánh thượng. Khi ta đi vắng, ngươi tạm thay trách nhiệm Chủ soái trong doanh. – Ngừng một lát, y gọi. – Lương Tiêu!

Lương Tiêu đáp lời đứng dậy, Bá Nhan nói:

- Từ lúc này, ngươi làm Tổng đô thống cả thủy và lục quân, phò tá A Truật đốc suất binh mã.

Lương Tiêu nhận lệnh. Bá Nhan lại dặn dò một hồi rồi cho các tướng lui, vội vã trở về Đại Đô ngay trong đêm.

Cùng đêm ấy, Lương Tiêu hạ trại ở Qua Châu. Vừa ổn định lều trướng, nghe báo Quách Thủ Kính cầu kiến, gã mừng rỡ ra ngoài nghênh đón. Hai người đã lâu không gặp, nắm tay nhau hàn huyên vui vẻ. Họ Quách bảo:

- Hôm nay Quách mỗ đến cáo từ đại nhân.

Lương Tiêu hỏi:

- Ông định về Đại Đô à?

- Phải. – Quách Thủ Kính đáp. – Bây giờ quân đội ngừng di chuyển, tạm thời đóng trại một chỗ, ta không cần cất trạm nước mới nữa. Vả chăng năm nay Hoàng Hà dâng cao, có thể gây lũ lụt, thánh thượng triệu ta về bắc bàn bạc cách giải quyết.

Lương Tiêu thở dài:

- Chưa hết can qua đã thủy tai xảy đến, thiên hạ chẳng lúc nào được bình yên.

Quách Thủ Kính cũng thở dài:

- Thế nên mới có câu: Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm. Cảnh trái ngang trên đời thường vô cùng vô tận!

Mỗi người đeo đuổi một suy tư, lặng cầm chén trà buồn bã. A Tuyết đứng bên, thấy vẻ mặt họ bỗng nhiên ảm đạm thì rất lấy làm lạ: “Vừa tươi cười hớn hở, sao đã ỉu xìu ngay được?”.

Sau một lúc trầm mặc, Quách Thủ Kính lên tiếng trước:

- Quách mỗ có một câu này, chẳng biết nên nói hay không.

- Tôi xin nghe, đại nhân đừng khách sáo!

Quách Thủ Kính vịn bàn nhỏm dậy, thở dài:

- Tướng quân là một tài năng hiếm có, đem tài năng ấy đổ vào chinh chiến sát phạt, không cảm thấy đáng tiếc lắm ư?

Lương Tiêu ngẩn người. Quách Thủ Kính đưa nhanh mắt về phía A Tuyết, vẻ ngập ngừng. Lương Tiêu xua tay:

- Ở đây toàn người nhà, đại nhân chớ ngại.

Quách Thủ Kính nghiêm nghị gật đầu:

- Tướng quân không như người khác, Quách mỗ nói thẳng ra vậy.

Y đứng hẳn lên, chắp tay sau lưng bước về phía cửa, dõi mắt nhìn bầu trời trong trẻo ngoài trướng, chậm rãi buông từng chữ:

- Thánh thượng thừa kế bá nghiệp của cha ông, chí lớn dạt dào, muốn mở mang bờ cõi ra bốn biển, tạo nên công tích ghi tạc ngàn năm. Lương tướng quân thạo phép dụng binh, hễ đánh là thắng, hễ chiếm là được, chiến công hiển hách. Chỉ hiềm, người ta thường nói: chẳng vương triều nào là vững bền mãi mãi. Dẫu Đại Nguyên thống nhất thiên hạ thì liệu sẽ duy trì được bao lâu đây? – Y ngoảnh lại, ánh mắt sáng quắc. – Thử hỏi mấy trăm năm sau, sử sách có ghi nhận tướng quân là người như thế nào không? Và tướng quân để lại được gì cho hậu thế?

Lương Tiêu không hiểu lắm, giọng nói pha chút ngạc nhiên:

- Tôi thường nghe: chết là hết. Đã nhắm mắt xuôi tay còn bận tâm nhiều thế làm gì cho mệt?

Quách Thủ Kính lắc đầu:

- Quách mỗ nghĩ nói thế không ổn. Trên đời tuy không có vương triều nào tồn tại mãi mãi, nhưng có những sự vật vẫn lưu dấu ngàn năm, chỉ cần tướng quân dồn tâm trí mình vào đó…

Lương Tiêu sực nhớ ra một chuyện, háo hức hỏi:

- Chắc ông muốn nhắc đến việc triều đình định sửa sang lịch pháp?

Quách Thủ Kính vỗ tay:

- Tướng quân tinh ý lắm. Từ khi Tổ Xung Chi làm ra lịch Đại Minh đến nay, mấy trăm năm rồi, phép tính lịch vẫn chưa cải tiến được là bao. Có hai nguyên nhân: một là do phạm vi đo đạc còn nhỏ hẹp, hai là do kiến thức toán học còn hạn chế. Sắp tới thống nhất được thiên hạ, lãnh thổ Đại Nguyên sẽ rộng lớn vượt xa thời Hán thời Đường. Thánh thượng định đặt đài thiên văn ở các nơi, quan sát nhật nguyệt hầu xây dựng nên cách tính lịch mới. – Nói đến đây, nhận ra Lương Tiêu lắng nghe chăm chú, biết gã đã dao động, họ Quách mỉm cười. – Tướng quân tinh thông toán thuật bậc nhất thời nay, nếu bằng lòng phối hợp với Quách mỗ hoàn thành bộ lịch mới thì quả là cái phúc của lê dân trăm họ, là ơn đức lưu truyền hậu thế hàng ngàn đời sau!

Dạo bị giam trong Thiên Viên Địa Phương, Lương Tiêu đã từng manh nha ý tưởng sáng tạo một bộ lịch hợp lý hơn bộ lịch của tiền nhân. Hiềm nỗi công việc quá lớn, sức một người không đảm đương nổi. Mấy năm nay tuy trải qua nhiều biến cố, nhưng ý tưởng ấy chưa một lần rời bỏ trí óc gã, thậm chí mỗi ngày một thêm cháy bỏng, nay nghe Quách Thủ Kính khơi gợi, nó lại nao nao quẫy động. Lương Tiêu đứng bật dậy đi đi lại lại, chợt thở dài rầu rĩ:

- Đáng tiếc tôi còn bận quân vụ, khó lòng phân tâm đến việc khác.

- Không gấp! Quách mỗ đã phác kế hoạch rồi. Đợt đo đạc tới đây sẽ tiến hành trên diện rộng, bắc phải đến Khâm Sát hãn quốc, tây đến Y Nhĩ hãn quốc, đông đến Cao Ly, nam đến Quỳnh Châu. Quỳnh Châu hiện vẫn thuộc phạm vi kiểm soát của Đại Tống, vì vậy một khi chưa diệt xong Đại Tống thì vẫn chưa thể bắt tay sửa lịch được. Chuyến này trở về Đại Đô, ta sẽ tâu thánh thượng cử tướng quân cai quản cục Thái Sử, giám sát việc tu chính lịch pháp, nhưng thế thì tướng quân đành phải buông hết quyền bính lớn lao cũng như cuộc sống giàu sang phú quý.

Lương Tiêu cười nhạt:

- So với việc làm lịch thì đánh trận và phú quý đáng kể gì đâu.

Quách Thủ Kính hoan hỉ tán thưởng:

- Quả nhiên ta không nhìn lầm! Lương tướng quân đúng là người được sinh ra để tinh nghiên học thuật.

Lương Tiêu nói:

- Đợi thu xếp việc quân tạm ổn, tôi sẽ lên kinh gặp đại nhân.

Quách Thủ Kính giơ tay:

- Thỏa thuận thế!

Lương Tiêu tủm tỉm đập tay ba lần với họ Quách. Cả hai cùng cười phá lên.

Đến giờ cơm tối, A Tuyết bày sáu thức nhắm và một bình rượu hoa quả. Lương Tiêu cùng Quách Thủ Kính nâng chén đàm luận hết sức ăn ý. Lương Tiêu say sưa nói:

- Muốn cải tiến lịch Đại Minh thì cần chú ý đến năm yếu tố : một là chuyển động biểu kiến của mặt trời, hai là tốc độ vận hành của mặt trăng, ba là độ lệch giữa hoàng đạo và xích đạo, bốn là hệ tọa độ của hoàng đạo và xích đạo, năm là chu kỳ của trăng để đi hết một vòng bạch đạo…

Gã càng nói càng sôi nổi, Quách Thủ Kính càng nghe càng rạng rỡ mặt mày. Hai người chấm rượu vẽ toán pháp ra bàn, mô tả các khí cụ thiên văn, trao đổi miệt mài quên cả uống rượu, A Tuyết phải nhắc, họ mới dứt ra được.

Cơm rượu xong, phấn hứng dâng cao, cả hai liền kê giường cạnh nhau trao đổi thâu đêm. Lương Tiêu trò chuyện với Quách Thủ Kính, tầm mắt được mở rộng, tư tưởng càng thêm cao xa. Tiếc nỗi đất nước đương cơn loạn lạc, thiên văn lịch pháp hay thủy lợi máy móc cũng mới dừng ở mức nói cho thỏa lòng mà thôi. Sáng hôm sau, Quách Thủ Kính cáo từ về bắc, Lương Tiêu đi tiễn một quãng đường, nhìn theo bóng họ Quách, lòng ngao ngán: “Quách đại nhân thật cương quyết, dám dứt khoát rời bỏ quân ngũ, dốc lòng chấn chỉnh thủy lợi, sửa sang lịch pháp. Còn ta vẫn phải chinh thảo Đại Tống, thật chán quá đi thôi! Mong rằng sau trận chiến này, thiên thu vạn đại không còn chiến tranh, để ta và Quách đại nhân được tự do xây dựng lịch pháp, sao vẽ sơ đồ núi non, chỉnh đốn bách nghệ, củng cố nông tang, tạo nên một thời đại thịnh vượng huy hoàng chưa từng có trong lịch sử”. Ưu tư hồi lâu, Lương Tiêu ngậm ngùi quay về doanh trại.

.

Tháng năm năm Đức Hữu đầu tiên của nhà Tống, Lâm An biết tin quân Nguyên đang vướng nội loạn ở miền tây bắc, liền cương quyết chém chết tiết sứ Nguyên triều phái đến nghị hòa. Tể tướng Trần Nghi Trung dâng sớ lên Tạ Thái hậu xin hưng binh, đảm bảo sẽ đoạt lại Lưỡng Hoài. Tạ Thái hậu cả mừng, trao ấn soái ba quân cho Trương Thế Kiệt. Họ Trương kéo một vạn chiến thuyền đến hội hợp với Cận Phi, nâng tổng số thủy lục quân lên hai mươi vạn, tiến vây Kinh Khẩu. Lý Đình Chi đốc suất năm vạn kỵ bộ kỵ binh ra Dương Châu đánh A Truật. Vào thời khắc sinh tử ấy, Đại Tống một lòng quét sạch gian nịnh, chỉnh đốn triều chính, tinh binh mãnh tướng tụ họp tại Hoài Đông, sẵn sàng cùng quân Nguyên quyết một trận tử chiến.

Thế tấn công của quân Tống vô cùng dữ dội, tướng giữ Kinh Khẩu là Thổ Thổ Cáp liên tiếp gửi cấp báo, Lương Tiêu bèn dẫn quân vượt sông sang cứu viện. Cùng tháng đó, tướng sĩ nhà Nguyên cũng lục tục kéo đến hội quân với gã. Nguyên, Tống giáp mặt tại Tiêu Sơn, mấy vạn thuyền chiến san sát trên sông làm tắc nghẽn cả dòng chảy.

Trước giờ giao chiến, hàng tướng nhà Tống là Phạm Văn Hổ đến gặp A Truật hiến kế:

- Từ đây đi tiếp lên hai mươi dặm nữa có ngọn núi Thạch Công, đứng trên ấy nhìn xuống, toàn bộ trận thế quân Tống sẽ hiện ra trong tầm mắt.

A Truật mừng lắm, lập tức dẫn các tướng lên núi Thạch Công quan sát.

Ngọn núi cao tám trăm thước, vươn lên sừng sững bên sông. Tướng lĩnh Nguyên triều trèo lên đỉnh nhìn, dưới chân đại giang trải rộng tít tắp, khói sóng mênh mang. Kim Sơn và Tiêu Sơn đứng đối mặt nhau phía xa xa, hàng ngàn hàng vạn thuyền chiến nhà Tống tiến lui liên tục giữa hai ngọn núi, tạo thành một trận thế lạ mắt, tựa vuông mà không phải vuông, dường tròn mà không phải tròn, cứ mười thuyền kết thành một khối vuông nhỏ, cơ cấu hết sức chặt chẽ. Sau một hồi lặng lẽ quan sát, Lương Tiêu chợt thốt:

- Gay go thật!

A Truật ngạc nhiên hỏi:

- Gay ở chỗ nào?

- Ở chỗ trận thế của chúng quá đặc biệt. – Lương Tiêu giải thích. – Trận này tên là Thiên địa huyền hoàng, cứ mười thuyền một đội, khu giữa gồm năm khối, ứng với các vị trí đông, tây, nam, bắc và trung của Ngũ Nhạc. Từ trong ra ngoài, Ngũ Nhạc còn đan xen với chín khối khác, phép sắp xếp mô phỏng Cửu Châu của Trâu Diễn[4]. Mười bốn khối này kết hợp và chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên hình thế vững chãi bao la như mặt đất, gọi là Hậu thổ tiểu trận.

Mọi người quan sát trận thuyền theo chỉ dẫn của Lương Tiêu, quả nhiên phát hiện ra mười bốn khoảnh lờ mờ, bất giác cùng ngấm ngầm khen lạ. Lương Tiêu lại trỏ mé ngoài trận thuyền:

- Ngoài Hậu thổ còn Huyền thiên tiểu trận. Huyền thiên phân chia thành hai mươi bốn khối nhỏ, con số ứng với nhị thập tứ tiết khí trong năm. – Gã vừa thuyết minh vừa trỏ hai mươi tư vị trí. – Huyền thiên thay đổi theo thời tiết trên trời, Hậu thổ tái hiện địa hình dưới đất, muốn nắm bắt cũng không phải là rắc rối lắm, nhưng sự phức tạp sẽ nảy sinh nếu trời đất giao hòa, bởi lúc đó các biến hóa sẽ phát triển ra bất tận, khó lòng ứng phó nổi. Theo chỗ tôi biết, Thiên địa huyền hoàng vốn đã thất truyền, dạo xưa tôi cũng chỉ đọc được lỗ mỗ một vài phần mà thôi. Trong đó có câu: “Trận pháp này gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt, tiêu diệt vạn quân như nhổ một cọng cỏ, tiến thoái dễ dàng, không tài nào phá nổi”.

A Truật đổi hẳn sắc mặt, chưa kịp hỏi gì bỗng nghe có tiếng cười vang:

- Rủi thật rủi thật, cảnh sắc tươi đẹp mà chẳng ai lên thưởng thức, ngoài một đàn chó lâu nhâu sủa bậy!

Các tướng kinh ngạc ngoảnh đầu nhìn, thấy một nho sinh quần áo lôi thôi lốc thốc ngồi trên tảng đá nhẵn bóng, mặt quay ra dòng sông bát ngát, tay cầm bầu rượu giơ cao trước gió, phong thái rất mực tiêu dao. Lương Tiêu mừng rỡ vòng tay chào:

- Công Dương tiên sinh! Xa cách đã lâu, cớ sao vừa gặp ông lại nặng lời với người ta thế?

Tướng lĩnh đều kinh ngạc: “Lương Tiêu quen lão này à? Dưới chân núi có tinh binh vây kín bốn mặt, lão lên đây bằng cách nào ấy nhỉ?”.

Công Dương Vũ thản nhiên đáp:

- Người nào? Ta nặng lời với chó đấy chứ!

Các tướng nghe giọng giễu cợt đều sinh lòng phẫn nộ. Lương Tiêu sực nghĩ ra một điều, bèn hỏi:

- Ông là sư phụ của Vân Thù phải không ạ?

- Thế thì sao?

Lương Tiêu gật đầu, mặt trắng bệch:

- Thế thì tôi hiểu rồi.

Công Dương Vũ nhếch mép:

- Hiểu cái con khỉ! – đoạn cười khà khà, dõi mắt xuống dòng sông, vỗ tay lên mặt đá, dài giọng ngâm. – Thiên hạ vốn là một, Sao nỡ cắt hai miền? Lên lầu Đa Cảnh nhìn xuống, Hận mất nước sao quên. Gần, sóng Trường Giang nổi cuộn; Xa, lẻ loi hai ngọn núi. Muốn mượn tiếng sấm rền, Muốn mượn lưỡi tầm sét, Đuổi rợ khỏi trung nguyên. Ngóng Hoài thượng, Tân Dã xứ, Ngựa mang yên. Ý trời đã định, Lương thảo binh khí cũng vừa quyên. Chỉ thiếu người như Sĩ Nhã, Chỉ thiếu người như Việt Thạch. Phải dóng trống chiêu hiền, Nổi một cơn mưa lớn, Quét sạch bụi bắc biên.[5]

A Truật chăm chú lắng nghe nhưng không hiểu, bèn hỏi nhỏ Đô đốc thủy quân Trương Hoằng Phạm:

- Lão ta hát bài gì vậy?

Trương Hoằng Phạm vốn giỏi thi từ, liền giải thích:

- Bài hát này ý nói: giang sơn tươi đẹp ơi, ta muốn được như Tổ Địch, Lưu Côn đuổi hết Hồ, Lỗ, muốn như Gia Cát Khổng Minh dẫn quân bắc chinh.

A Truật đanh mặt, dùng tiếng Hán hỏi:

- Túc hạ là ai?

Công Dương Vũ nhìn y:

- Ngươi hỏi ta là ai? Ta là kẻ: Sáng rong Nam Hải chiều Thương Ngô, Áo đựng rắn xanh, gan góc to. Lên xuống Nhạc Dương người chẳng biết, Ngâm vang bay vút Động Đình hồ.

Các thân binh không nhẫn nại nổi nữa, bèn lao bổ tới, nào ngờ mới giơ đao đã thấy toàn thân tê liệt. Câu thơ chưa ngâm dứt, mười tên thân binh đã há hốc mồm, đứng rúm một chỗ như tượng đất.

Công Dương Vũ giũ giũ tay áo:

- A Truật, theo ngươi ta là ai nào?

Bài thơ trên do Lã Động Tân làm, Công Dương Vũ nhân hứng đọc ra, ngụ ý mô tả mình có cốt cách phong lưu thần tiên. A Truật không hiểu được ý ấy, lại thấy sự việc quỷ quái lạ lùng, sống lưng ớn lạnh, y hô to:

- Mọi người hãy cẩn thận! Tên đồ gàn này biết yêu thuật đó!

Công Dương Vũ phì mũi:

- Tiên thuật rành rành ngươi lại bảo yêu thuật là sao? Chà, thế nhân vẫn chê bọn Thát ngu như lợn, quả tình không sai, nói cho ngươi nghe chẳng khác gảy đàn tai trâu! Vô vị quá sức!

A Truật gắng trấn tĩnh, chậm rãi hỏi:

- Đừng lải nhải những câu dấm dớ nữa, túc hạ tới đây có công to việc lớn gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Kẻ hèn mọn này khốn cùng quẫn bách, lấy đâu ra công to việc lớn, chẳng qua chỉ táy máy toàn trò vè của bọn hạ lưu thôi. Lý Thái Bạch từng viết: Gieo một ván thiên địa, chưa chắc quên chiến tranh. Lần này ta đến cốt muốn chơi một ván bài từ xa với tên cẩu hoàng đế Hốt Tất Liệt nhà các ngươi.

A Truật nghe lời lẽ quá sức kỳ dị, thầm nhủ: “Gặp một thích khách cao cường thế này, đành đi bước nào biết bước đó thôi. Gắng con cà con kê với lão ta để kéo dài thời gian vậy”. Y bèn hỏi:

- Được, túc hạ muốn chơi kiểu bài nào?

Công Dương Vũ xua tay:

- Bảo đàn gảy tai trâu thực chẳng oan! Gieo một ván thiên địa là gieo xúc xắc chứ cái gì nữa! Ai thắng thì được giang sơn này. Vậy là có người chơi và vật cá cược rồi đấy, chỉ còn thiếu xúc xắc thôi! – Nói đoạn ông giơ cao cái túi vẫn mang bên hông, giũ mạnh, một đầu người lông lốc lăn ra.

Nhìn rõ tướng mạo người đó, A Truật bỗng biến sắc mặt, giọng lạc đi:

- Yến Thiết Mộc Nhi!

Công Dương Vũ cười:

- Tên hắn đấy à? Ta thấy hắn diễu võ dương oai trên lưng ngựa, ngứa mắt quá bèn tiện tay ngắt đầu xuống. – Ông cười hì hì, trỏ đầu người nói oang oang. – Coi nó là con xúc xắc đầu tiên của ta. Nghe đồn hắn là Vạn phu trưởng kỵ binh, vậy tính ba chấm đi.

Yến Thiết Mộc Nhi lĩnh tước Vạn hộ hầu, dũng cảm thiện chiến, nào hay mới đó mà đầu đã lìa khỏi cổ. Các tướng đều sinh mối xót xa thương cảm. A Truật đang giữ trọng trách đại tướng, không dám tỏ ra mềm yếu, bèn lạnh lùng nói to:

- Vạn phu trưởng là xúc xắc ba chấm thì chắc bản soái được sáu chấm nhỉ!

Công Dương Vũ bật ngón cái:

- Thống soái ba quân có khác, rất biết mình biết người. Đáng tiếc chỉ có mỗi ngươi là xúc xắc sáu chấm nên không gieo được lục lục. Cũng may trời còn thương, ban cho ba vị đô thống. Tên đê tiện họ Lương là Tổng đô thống, tính năm chấm. Đô thống lục quân A Lạt Hãn tính bốn chấm, Đô đốc thủy quân Trương Hoằng Phạm tính bốn chấm. Tham nghị chính sự Đổng Văn Bỉnh không có nhiều binh lính nhưng phẩm hàm lại cao, tử tế ra cũng nên tính bốn chấm, còn Phạm Văn Hổ, cái tên bán nước cầu vinh, khốn nạn vô loài nhất trong bọn khốn nạn vô loài, tính một chấm cũng là đề cao hắn thái quá, đem ra làm xúc xắc chỉ tổ bẩn tay lão phu.

Phạm Văn Hổ bị chửi như tát nước, mặt có sắc giận nhưng trong lòng lại mừng húm, khẽ khàng nhích sang một bên.

Lúc này mặt trời chưa lên cao, dải sông tuôn dài, phía xa thoáng đãng bằng phẳng, quang cảnh rất nên thơ. Trong khi đó trên đỉnh núi Thạch Công chật hẹp, bầu không khí ngột ngạt vô cùng. Công Dương Vũ vẫn giữ nguyên vẻ cười cợt như thể họp mặt nói chuyện phiếm. Nhưng ông càng cười đùa, các tướng càng ngạt thở. Ngày thường họ điều động đến hàng ngàn hàng vạn binh mã, nắm trong tay quyền sinh quyền sát bao nhiêu con người, muốn gì được nấy, vậy mà bây giờ khác nào cá nằm trên thớt, mặc kẻ khác làm tình làm tội, chưa ai trong bọn gặp phải tình huống khóc dở mếu dở thế này bao giờ.

Công Dương Vũ vuốt râu:

- Con bạc, con bạc, được ăn cả ngã về không. Ta vừa rồi vận rủi quá, chỉ đổ được tam, xin hỏi quý vị, tiếp theo đây ta nên gieo xúc xắc mấy chấm?

Ông quét mắt khắp mặt các tướng, không ai bước ra.

Công Dương Vũ cười nhạt, đang định lên tiếng khích bác, thình lình Lương Tiêu lướt khỏi hàng, chân không chạm đất, vung tay vỗ lưng một tên thân binh. Tên này chới với khua khoắng tứ chi, huyệt đạo tức thì được giải. Lương Tiêu xuyên trái xuyên phải giữa tốp người, cử động như bướm lượn, xuất chưởng như chớp nháy, chỉ trong khoảnh khắc, hơn mười tên thân binh hoa tay múa chân lấy thăng bằng, cử động trở lại.

Lương Tiêu co mình xuống xà tấn, điềm nhiên nói:

- Công Dương tiên sinh, mời!

Nét giận thoáng qua khuôn mặt Công Dương Vũ, nhưng ông lại nhe răng cười ngay:

- Năm chấm hả, hay lắm!

Đoạn giơ chưởng phải từ từ vỗ tới ngực Lương Tiêu. Chưởng phong đặc quánh, Lương Tiêu không né được, đành phải đón đỡ, nào ngờ vừa cất tay bỗng thấy máu nóng cuộn trào trong ngực, gã mất tự chủ giật lui ba bước. Một tên thân binh không ý thức được mức độ nguy hiểm nên nhào tới đỡ chủ tướng. Vừa chạm đầu ngón tay vào lưng Lương Tiêu, thân hình hắn đã bị một luồng đại lực ùa thốc sang hất văng đi xa sáu trượng. Tên lính lộn bắn một vòng trên không rồi rơi thút xuống vực, tiếng gào thê thảm mau chóng chìm lấp dưới khoảng sâu mênh mông.

Công Dương Vũ không để Lương Tiêu đứng vững, lập tức lắc mình bay đến trên đầu gã:

- Đồ khốn, đỡ tiếp một chưởng của lão tử đây!

Lương Tiêu nào dám đấu tay không nữa, lập tức tuốt kiếm đâm thẳng tới ngực Công Dương Vũ. Ông già hừ mũi, nhuyễn kiếm Thanh Li bật ra khỏi tay áo, lưỡi thép mỏng tang, lúc duỗi lúc uốn hệt như đàn rắn quẫy trườn, mổ vào mọi chỗ yếu hại khắp mình Lương Tiêu.

Kiếm đôi bên vũ động rất nhanh, chỉ ngóc lên hụp xuống một thoáng đã trao đổi năm chiêu, xuất chiêu thần tốc nhưng không giao nhau lấy một lần, trông như thể người nào biểu diễn bài múa kiếm của riêng người nấy, nhưng thực chất toàn những sát chiêu nhăm nhăm tìm sơ hở đánh vào chỗ hiểm của nhau. Lương Tiêu tuy tiến bộ chóng mặt, nhưng vẫn kém sút rất nhiều so với Công Dương Vũ, đã mấy lần suýt lâm hiểm cảnh.

Thấy gã đỡ được liền năm sát chiêu của mình, Công Dương Vũ vừa kinh ngạc vừa buồn rầu: “Chỉ cần thời gian đủ dài, thằng bé này nhất định sẽ trở thành tông sư một phái. Tiếc thay nó kéo bè kéo cánh với quân tàn ác, võ công càng cao sẽ càng gây nhiều tai họa. Hôm nay nếu không trừ bỏ, chẳng biết mai sau nó còn dồn bao nhiêu người Tống vào chỗ chết?”. Ý nghĩ ấy khiến lòng dạ ông trở nên sắt đá. Công Dương Vũ phóng trường kiếm tới mặt Lương Tiêu, khiến gã phải luống cuống tung mình nhảy tránh. Chợt thấy dưới chân hẫng một cái, Lương Tiêu hoảng hồn than thầm: “Chết rồi! Sau lưng là vực thẳm!”. Gã toan ghìm đà lao, Công Dương Vũ đã xoáy thẳng kiếm tới mặt gã.

Đám tướng sĩ xung quanh thốt lên kinh hãi, Lương Tiêu ngã ngửa xuống vực, cùng lúc ấy, nhác thấy một cái khe trên vách đá, gã bèn vận kiếm đâm mạnh vào. Keng một tiếng, Lương Tiêu nắm đốc kiếm, người treo lửng lơ, đu đa đu đưa trên luồng gió sông ào ạt thốc lên. Công Dương Vũ không truy đuổi, vuốt râu giễu cợt:

- Ngươi sử chiêu khỉ đánh đu này hay đấy!

Lương Tiêu tự biết khó thoát chết, cũng chẳng thèm cân nhắc lời nói nữa:

- Ông giở chiêu chó ăn phân mà đâm tôi đi!

Công Dương Vũ chột dạ: “Nó đang ở dưới thấp, ta muốn đâm phải cúi xuống, bộ dạng chồm hỗm như chó hoang, chẳng hóa mắc bẫy miệng lưỡi nó sao?”. Ông già tần ngần, chợt nghe gió rít sau lưng, đám thân binh đã múa đao chạy tới. Công Dương Vũ xoay phắt lại vẫy một chưởng quét ngã bốn tên, đám còn lại khiếp đảm dừng bước. A Truật thét:

- Kẻ nào thụt lùi, chém!

Quân lệnh như sơn, không ai dám chống, đám thân binh tiếp tục hò hét liều chết xông lại. Công Dương Vũ bật cười, nhuyễn kiếm chui tọt vào tay áo:

- Binh tôm tướng tép chả bõ dính răng, chỉ tổ mất công. – Dứt lời, ông lạng đến sát mặt A Truật, tóm chặt lấy ngực áo y, cười khà khà. – Luôn mồm thúc người khác đi vào chỗ chết, còn bản thân mình thì chẳng giở ra được mấy nả sức.

Chủ soái đã bị kiềm chế, đám thuộc tướng đều tái mét mặt.

Lương Tiêu rung tay rút kiếm, tạo đà lộn ngược lên miệng vực, người chưa tiếp đất đã hét vang, vận kiếm sử Hoán kiếm đạo. Quẻ Hoán là Khảm dưới Tốn trên, tức gió đi trên nước, nước gặp gió tan. Hoán kiếm đạo vũ động tựa cuồng phong, trút bão táp xuống lưng Công Dương Vũ.

Ông già vốn cố ý thả lỏng cho Lương Tiêu lên, thấy thế cười nói:

- Đến đúng lúc lắm! – đoạn túm lưng A Truật, quay mặt y ra làm khiên đỡ trường kiếm Ảo Nguyên.

Lương Tiêu vẫn vận kiếm không ngừng, đâm liên tiếp sáu nhát, thân kiếm bị nội lực của gã ép mạnh đến nỗi cong lại, nhát nào nhát nấy đều lướt sát những chỗ yếu hại khắp mặt mũi A Truật. Các tướng chứng kiến mà hồn xiêu phách lạc, nhao nhao phản đối:

- Lương Tiêu, ngươi điên rồi sao?

Lương Tiêu lẳng lặng thi triển kiếm pháp, càng sử càng dẻo tay, trông qua tưởng chừng múa máy phạt chém bừa bãi, nhưng thực chất hết sức cẩn trọng để tránh đả thương A Truật, đồng thời vòng lách qua y để ngắm đâm Công Dương Vũ. A Truật hiểu rõ ý Lương Tiêu nên rất bình tĩnh, kể cả khi mũi kiếm lướt sát trán mình, y cũng không chớp mắt, thần sắc vẫn thản nhiên như không.

Nhìn hai người, một kẻ tự tin có thừa, kiên trì xuất kiếm tấn công, một kẻ dũng cảm đối mặt, thản nhiên coi thường cái chết, Công Dương Vũ vốn tự phụ mà cũng không nén nổi cảm giác ớn lạnh: “Người Nguyên có hạng tướng soái anh dũng thế này, chả trách đánh đâu thắng đó. Kẻ đánh kiếm cố nhiên đã tài ba gan góc, nhưng kẻ hứng kiếm tỉnh bơ mặc kiếm chờn vờn quanh mình mới thực sự là bản lĩnh cao minh”.

Nghĩ tới đây, Công Dương Vũ không nén được lòng mến tài, bèn lôi A Truật sang một bên, duỗi ngón tay nắm mũi kiếm Ảo Nguyên rồi búng nhẹ. Tức thì, một luồng khí nóng chạy theo thân kiếm đẩy thẳng xuống hổ khẩu Lương Tiêu, cánh tay rát bỏng như bị lửa đốt, gã vội thu kiếm nhảy vụt ra sau.

Công Dương Vũ cười:

- Núi đá đổ xuống đầu, mãnh hổ rình sau lưng mà mặt không đổi sắc! Tên nguyên soái Thát Đát này định lực không tồi. Tốt lắm! Lương Tiêu, hai chúng ta cá cược thêm ván nữa, vật cược chính là tính mạng A Truật. Nếu ngươi thắng, ta tha chết cho hắn, nếu ngươi thua thì, chính ngươi phải tự sát.

Lương Tiêu biết không còn cách nào khác để ép Công Dương Vũ thả người, bèn nhướng mày đáp:

- Được, xin tiên sinh nói rõ!

A Truật nghe mà cảm động.

Công Dương Vũ đặt ra việc đánh cược chỉ do hứng chí nhất thời, thành thử nói xong lại hối hận ngay: “Hoàn cảnh bây giờ đã khác trước, ta mà bất cẩn là Đại Tống đi tong. Dẫu rằng năm xưa ta đã lập thệ không ngó ngàng đến sự hưng vong của nước nhà, song đó chỉ là lời lẽ lúc cả giận mất khôn. Tiểu tử Văn Tĩnh từng nói: “Tuy triều đình không đúng, nhưng nếu bọn Thát chiếm đóng Đại Tống, bách tính sẽ khốn khổ”. Hắn nói phải lắm! Lão phu quyết rồi, hôm nay nhất định không để một tên tướng Thát nào toàn mạng xuống núi”. Suy tính xong đâu đấy, ông mỉm cười hỏi:

- Được, ngươi khá đoán xem, tên A Truật trong tay ta đây sống hay chết?

Lương Tiêu ngạc nhiên nghĩ bụng: “Cố nhiên là sống mà”. Gã định trả lời thì sực nghĩ ra: “Không phải, sự sống chết của A Truật đang nằm cả ở tay ông già, ta làm sao thắng được? Nếu ta đoán sống, ông thúc khẽ chưởng lực là A Truật mất mạng, rồi ta phải tự tận. Nếu ta đoán chết thì dù A Truật may mắn được tha, ta vẫn cứ chết như thường”. Lương Tiêu khó xử quá, cứ đứng đực mặt hồi lâu.

Công Dương Vũ cười thầm: “Hễ nó đáp “sống” là ta phát tài, gieo xúc xắc một lượt được cả ngũ và lục. Nhưng xem chừng nó không chịu mắc lừa”. Ông bèn giục:

- Ngươi nghĩ xong chưa? Ta đếm đến ba, nếu ngươi vẫn không đoán ra thì coi như thua. Nghe đây, một…

Lương Tiêu mím môi, mặt trắng bệch. Công Dương Vũ cười:

- Hai!

Khi ông sắp sửa buông từ “Ba!” thì một giọng lạnh lùng xen vào:

- Ta đoán là sống!

Giọng nói không to nhưng rền vang như sấm, chấn động hết thảy màng nhĩ mọi người. Công Dương Vũ giật mình liếc mắt nhìn ra, thấy Tiêu Thiên Tuyệt đang đứng trên một tảng đá, tà áo đen bay phần phật. Ông hơi đổi sắc mặt, nhưng cười ngay:

- Lão quái vật, e rằng ngươi đoán sai rồi.

Đoạn nhấn tay toan đẩy chưởng lực, chợt một luồng gió tanh táp đến sau lưng, Công Dương Vũ lật tay đâm mạnh Thanh Li kiếm ra sau, tức thì nghe thấy tiếng gầm vang vọng. Đúng khoảnh khắc ông già phân tâm, Tiêu Thiên Tuyệt lạng người đến gần, chộp tay vào vai A Truật, một luồng nội lực xộc qua vai y thúc sang lòng bàn tay nhà nho. Công Dương Vũ phải đối phó cả trước lẫn sau, không kịp ứng biến, cổ tay nóng sực lên rồi bị nội kình vô song của Tiêu Thiên Tuyệt đẩy bật ra. Ông chưa kịp chộp con tin lại thì họ Tiêu đã nhấc A Truật lướt lui về sau hơn một trượng, ngạo nghễ nói:

- Ai đoán sai đây?

Công Dương Vũ hừ mũi, liếc mắt trông kẻ vừa đánh lén mình, thấy con hổ đen đang chống ba chân xuống đất, nhe nanh gầm gừ, chân còn lại cào đất toay toáy, trên chân rành rành một vết kiếm sâu, máu chảy đầm đìa. Công Dương Vũ tức giận nghĩ: “Đồ súc sinh, làm hỏng cả việc lớn của ta”. Các tướng ngỡ ngàng không hiểu người áo đen và con vật kia từ đâu chui ra, Lương Tiêu thì trừng trừng nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, bàn tay cầm kiếm run bần bật.

Lúc này, một thân binh lấy tù và ra rúc u u. Đám vệ binh ở sườn núi bắt được tín hiệu liền nhao nhao hò la đổ lên cứu viện. Công Dương Vũ cười ha hả, hai mắt sáng quắc:

- Tiêu lão quái, ngươi có một thứ bản lĩnh thuộc loại vô địch thiên hạ khiến Cùng Nho khâm phục lắm lắm.

Tiêu Thiên Tuyệt nhạt nhẽo hỏi:

- Bản lĩnh gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Công phu đón gió hít rắm ấy, đích thực là thiên hạ đệ nhất! Bất kể lão tử ở đâu, ngươi cũng ngửi được hơi gió, à không, ngửi được hơi rắm mà lần mò tìm đến!

Tiêu Thiên Tuyệt kìm giận:

- Không dám. Lão Cùng Nho cũng có một bản lĩnh đáng gọi là vô song.

Công Dương Vũ vênh mặt:

- Bản lĩnh vô song của lão tử thì nhiều chứ, chẳng hay ngươi nhắc đến bản lĩnh nào?

- Nhiều đến đâu cũng không đáng kể, chỉ đáng kể mỗi bản lĩnh né tránh trốn chạy khi chạm mặt lão phu. Bản lĩnh vắt chân lên cổ chạy tóe khói đó, Tiêu mỗ rất khâm phục.

Công Dương Vũ lắc lư đầu chế giễu:

- Lão quái vật nói sai rồi. Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Thói thường nam nhân theo đuổi nữ nhân, ta là tu mi nam tử, cũng chỉ mến thục nữ, không ham nam sắc, đời nào chịu được trò đeo bám dai dẳng của ngươi… – Ý bảo Tiêu Thiên Tuyệt mắc bệnh đồng tính nam nên mới lẵng nhẵng theo mình khắp nơi cùng chốn như thế.

Ai nghe cũng ngạc nhiên, mọi con mắt đổ dồn vào Tiêu Thiên Tuyệt: “Thật không ngờ, trông lão già mặt mày lạnh lùng, hóa ra lại có đam mê khác thường đến vậy!”.

Tiêu Thiên Tuyệt nổi trận lôi đình, gắt ầm lên:

- Đánh rắm, đánh rắm!

Công Dương Vũ bịt tay áo vào mũi:

- Làm gì mà đánh liền hai phát thế? Thối quá, thối quá! – vừa nói vừa cười ha hả, thanh âm lồng lộng bầu trời.

Trong số những người trên núi, trừ Tiêu Thiên Tuyệt và Lương Tiêu, ai cũng nhức hết cả tai, đầu váng tim run, lảo đảo suýt ngã.

Tiêu Thiên Tuyệt nghe điệu cười thập phần quái dị bèn lưu tâm đề phòng. Lão liếc mắt nhìn quanh, chợt kinh ngạc nhận thấy một chiếc diều lụa hình dáng như con rết, dài chừng mười trượng tà tà bay lên khỏi trận thế quân Tống.

Công Dương Vũ chợt nhích tay, Thanh Li kiếm xé gió đâm tới Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu giật lui nửa bộ, múa tay phản kích. Hai bóng người xoay vù vù trong phạm vi mấy trượng, bàn tay và thanh kiếm liên tục giao nhau chát chát, nghe như tiếng trân châu rơi xuống khay ngọc, khó lòng phân biệt được ai nhanh ai chậm, ai trước ai sau.

Binh lính ùn lên núi càng lúc càng đông. Lương Tiêu lo lắng nghĩ thầm: “Người đời thường nói, hai đánh một chẳng chột cũng què. Công Dương Vũ tuy lợi hại, nhưng trước mặt có Tiêu Thiên Tuyệt, sau lưng có vạn mã thiên quân thì muốn thoát thân e cũng không dễ…”. Gã suy tính rất nhanh, chợt quát to:

- Lão khọm già, xem chiêu đây! – rồi cùng kiếm lao đi, vẫy một nhát đâm thẳng vào Tiêu Thiên Tuyệt. Các tướng đều thốt lên kinh ngạc, nhưng Lương Tiêu chẳng buồn bận tâm, chỉ những múa kiếm thần tốc tấn công.

Tiêu Thiên Tuyết đang ráo riết quyết phân thắng phụ, bị tập kích bất ngờ buộc phải giật lui ba bước. Công Dương Vũ bực tức mắng:

- Ai khiến đồ nhãi ranh nhà ngươi đa sự? – đoạn chuyển kiếm đâm Lương Tiêu.

Lương Tiêu không tránh kịp, tưởng chừng bị mũi kiếm mềm xuyên thủng tim đến nơi, thình lình Tiêu Thiên Tuyệt nhấp chân áp sát, vỗ ra một chưởng. Công Dương Vũ đành buông Lương Tiêu, thu binh khí về ứng phó. Lương Tiêu thở phào, tiếp tục vận kiếm đâm Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu cáu kỉnh quát:

- Đồ súc sinh, muốn chết ư?

Tuy miệng nạt nộ như vậy, nhưng thực chất một thân một mình đương cự với hai cao thủ vốn đã không đơn giản, làm sao mà đánh chết được Lương Tiêu, lão già đành tạm thời thi triển thân pháp né tránh các mũi tấn công.

Nhân lúc Tiêu Thiên Tuyệt chuyển công thành thủ, Công Dương Vũ thừa cơ vung kiếm đâm Lương Tiêu, gã trẻ tuổi đã phòng bị sẵn, xuất thủ chống trả, chỉ thoáng chốc hai bên lại trao đổi mấy chiêu. Lúc này Tiêu Thiên Tuyệt chuyển thế phi thân đến, định giở chưởng, nào ngờ Công Dương Vũ và Lương Tiêu cùng xoay kiếm ra đón lão.

Tiêu Thiên Tuyệt đành đảo người liên tục để né tránh. Thoát hiểm xong, định thần nhìn kỹ thì thấy Lương Tiêu và Công Dương Vũ đã lại xáp vào giao đấu rồi, Tiêu Thiên Tuyệt nổi giận đùng đùng, lập tức chia song chưởng tấn công cả hai. Công Dương Vũ và Lương Tiêu cũng trở kiếm về đấu với lão. Hết đợt này tới đợt khác, lúc xáp vào lúc tách ra hệt như tam quốc tranh hùng, chỉ trong nháy mắt cả ba đã chiết đến hơn trăm chiêu mà vẫn khó bề phân thắng phụ. Quân Nguyên chỉ sợ Lương Tiêu bị thương, lăm lăm đao nỏ hườm sẵn, nhưng ném chuột lại ghê cũi bát nên chưa dám vọng động.

Trong lúc ba người kịch chiến, gió đông bắc nổi lên rất mạnh, con diều lụa nương chiều gió từ từ bốc cao, lên tới khoảng tám mươi trượng, xấp xỉ đỉnh Thạch Công thì nó lững lờ ghé lại gần ngọn núi. Quân sĩ kéo lên càng lúc càng nhiều, Công Dương Vũ biết khó lòng thực hiện được ý định nữa, bèn trừng mắt nhìn Lương Tiêu, lại trừng mắt nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, chợt quất mạnh kiếm tới trước buộc Lương Tiêu phải lùi ra xa rồi vỗ một chưởng về phía Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu huy chưởng chống đỡ, hai chưởng xô mạnh vào nhau, Công Dương Vũ cười ha hả:

- Lão quái vật, Cùng Nho đi đây!

Tiêu Thiên Tuyệt sững sờ một thoáng, đoạn thét vang, tung mình nhảy theo. Công Dương Vũ lộn nhào một vòng, bật ra khỏi đỉnh núi, chỉ còn tiếng cười rơi tõm lại:

- Đừng tiễn nữa, Tiêu lão quái, hẹn ngày tái ngộ!

Khinh công của Công Dương Vũ vốn siêu tuyệt, lại mượn được chấn lực từ đơn chưởng của Tiêu Thiên Tuyệt, có đà băng đi xa tới hơn mười trượng. Hiềm nỗi Thạch Công sơn cao đến tám trăm thước, dù Công Dương Vũ lợi hại cách mấy, rơi xuống tới đất cũng khó bảo toàn tính mạng. Mọi người đều đoán ông ta thà chết chứ không để bị bắt nên nhảy vực tự tận. Lương Tiêu chua xót trong lòng, cơ hồ sa lệ!

Gió sông hun hút, con diều dừng lơ lửng ở lưng chừng không, kéo căng sợi dây gai nối liền mặt đất. Dưới ánh dương, sợi dây sáng lóa như bôi mỡ. Công Dương Vũ vụt phất tay phải, một dải vải trắng dài chừng mười trượng phụt ra khỏi tay áo, cuốn vào dây gai. Con diều hơi trĩu xuống, treo nhà nho đu đưa giữa không trung. Công Dương Vũ vắt dải lụa qua dây gai rồi bám lấy hai đầu lụa, thả mình tuột vun vút xuống như đứa trẻ chơi trò cầu trượt suốt dọc sợi dây dài đến trăm trượng ấy.

Trên núi ai nấy ồ à kinh ngạc. Tên bay chíu chít về phía Công Dương Vũ. Ông giơ kiếm múa tít, cuốn rơi hết những loạt tên. Nhờ dây gai có bôi mỡ, Công Dương Vũ trượt xuống nhanh như sao băng lướt ngang trời, mau chóng vượt ra ngoài tầm xạ tiễn.

Quân hai bên đóng trên sông, trông thấy cảnh tượng lạ mắt ấy đều giơ tay chỉ trỏ, xì xào kinh ngạc.

A Truật cau mày, chợt giật lấy một cánh cung, đặt tên tẩm lửa ngắm bắn dây diều. Sợi dây trét đầy mỡ, vừa chạm phải mũi tên đã bắt cháy bùng bùng, lửa theo chiều gió trùm lên nuốt chửng cánh diều. Con diều lộn nhào rơi xuống, Công Dương Vũ mất thăng bằng, cũng rớt thẳng xuống sông.

Khi còn cách mặt nước chừng mười trượng, giữa tiếng hô hoán của hàng vạn người, Công Dương Vũ búng mình lộn nửa vòng lên trên sợi dây gai, đồng thời duỗi tay trước gió để tấm áo được thổi căng phồng như quả bóng, tốc độ rơi chậm hẳn lại, chậm hơn cả dây diều nhẹ.

A Truật bật la thất thanh:

- Lão đồ nho này ghê gớm thật!

Trong lúc y la, sợi dây đã chạm nước. Công Dương Vũ hạ xuống theo, đạp lên dây mà chạy như cưỡi gió, ung dung lướt vào trận thế quân Tống, mất tăm mất dạng.

Thấy Công Dương Vũ đã thoát nạn, Lương Tiêu cũng yên yên dạ, ngoảnh đầu nhìn quanh thì không thấy bóng dáng Tiêu Thiên Tuyệt đâu nữa, gã vội vàng cầm kiếm đuổi theo. Tiêu Thiên Tuyệt cưỡi hổ vượt núi băng đèo như đi trên đất bằng. Khi Lương Tiêu chạy xuống đến chân núi, lão đã tan biến như chưa từng xuất hiện.

Lương Tiêu ngơ ngẩn hồi lâu, chợt một giọng oang oang vọng tới chỗ gã:

- Tổ sư ngươi! Vì sao lão tử không được đứng đây?

Lương Tiêu nghe giọng quen tai bèn liếc mắt nhìn thì thấy Trung Điều Ngũ Bảo đang giậm chân bình bịch đằng xa, vây xung quanh là binh lính Nguyên triều. Người vừa lớn tiếng chính là Hồ Lão Bách, tay khoanh trước ngực ngang bướng cãi cọ. Hồ Lão Thiên tiếp lời:

- Phải đó, mảnh đất rộng này là hố xí của nhà ngươi đấy à? Mà cứ coi như là hố xí nhà ngươi, cho lão tử đi nhờ một lần thì đã làm sao?

Năm huynh đệ cùng cười ha hả.

Quân Nguyên nghe hắn nói năng nhố nhăng, thảy đều tức giận, chực xúm vào quây đánh, Lương Tiêu bèn tới gần bảo:

- Khoan đã!

Nhận ra gã, binh lính đều lùi lại. Trung Điều Ngũ Bảo gặp Lương Tiêu thì hớn hở vô cùng, vây quanh gã mồm năm miệng mười tranh nhau nói. Lương Tiêu cũng vui mừng không kém:

- Năm tên lưu manh, đến đây làm gì?

Hồ Lão Vạn nói:

- Lão tử theo Tiêu đại gia mà. Tiêu đại gia đi trước, lão tử rớt lại sau, không ngờ bị bọn này vây riết, còn bị chúng đổ diệt là gian tế nữa.

Lương Tiêu cau mày, một binh sĩ bước lên phân trần:

- Bẩm tướng quân, vừa rồi trên núi xảy ra lắm việc rắc rối, dưới đây bỗng mọc đâu ra mấy tên bận trang phục miền nam này, chúng thuộc hạ sinh nghi mới tra xét, không ngờ họ lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay ngay được.

Lương Tiêu bảo:

- Họ không phải gian tế đâu, các ngươi giải tán đi!

Đám binh lính đỡ những đồng đội bị ngã dậy, cùng bái chào rồi rút lui. Hồ Lão Thiên đảo cặp mắt ti hí nhìn quanh:

- Đồ đệ của lão tử đâu rồi đại ca?

Lương Tiêu đứng sững. Hồ Lão Nhất cũng náo nức:

- Dương Tiểu Tước không đi theo đại ca ư?

Hồ Lão Thiên kêu lên:

- Lý Đình đâu? Lão tử thấy nhơ nhớ hắn!

Hồ Lão Vạn cười:

- Lão tử nghĩ ra vô khối tuyệt chiêu muốn truyền hết cho Vương Khả, bảo đảm hắn tiến bộ rất nhanh, không ai địch nổi.

Hồ Lão Nhất liếc Hồ Lão Vạn, giọng mỉa mai:

- Tuyệt chiêu đâu ra, lão tử mà chỉ vẽ cho Dương Tiểu Tước dăm ba chiêu, đảm bảo hắn cất tay là Vương Khả mềm nhũn như quả hồng.

Hồ Lão Thập nói tranh:

- Tam Cẩu Nhi thì thậm chí không cần cất tay, chỉ nhổ một bãi nước bọt cũng đủ dìm chết Vương Khả.

Hồ Lão Thiên huênh hoang:

- Thế cũng chưa là gì, Lý Đình chỉ đánh một phát rắm là đủ để thối ngã tên ranh con đấy!

Ba Bảo này bất mãn về cái câu “không ai địch nổi” nên hợp lực móc máy cho Hồ Lão Vạn biết nhục. Hồ Lão Vạn tức mình, nhưng nghĩ hai nắm đấm không địch nổi sáu cánh tay nên đành nuốt giận làm thinh. Lương Tiêu lưỡng lự một thoáng rồi nói:

- Bọn chúng đang ở Kinh Khẩu, nếu các ngươi muốn gặp thì lên ngựa đi, ta đưa về gặp.

Năm người mừng rỡ vâng lời. Lương Tiêu dắt mấy con ngựa đến, dẫn họ vào thành.

Lý Đình và Vương Khả mừng quýnh lên khi gặp sư phụ. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cũng phấn khởi tột độ, bất chấp ánh mắt tò mò của mọi người xung quanh, ôm chặt lấy hai đồ đệ vẫn đóng nguyên bộ giáp trụ, lăng đi lăng lại như nghịch với trẻ con. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập càng nhìn càng ngứa mắt. Hồ Lão Thập túm áo Lương Tiêu hỏi giật giọng:

- Tam Cẩu Nhi đâu?

- Ừ đúng, Tiểu Tước Nhi đâu? – Hồ Lão Nhất cũng thắc mắc.

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Ta mệt lắm, ngươi hỏi Lý Đình sẽ biết.

Lý Đình chỉ kịp hét lên: “Lương đại ca!” là đã bị Trung Điều Ngũ Bảo túm giằng túm xé, rối rít gặng hỏi. Không còn trốn vào đâu được, gã đành cứ sự thực mà ngọn ngành kể ra.

Ngũ Bảo ngơ ngác nhìn nhau, Hồ Lão Nhất chợt gầm to:

- Ngươi dối trá, đồ súc sinh…

Dứt lời, hắn túm chặt Lý Đình, vo nắm đấm chực đánh. Hồ Lão Thiên xót đồ đệ vội giơ tay ngăn, hai anh em liền lăn xả vào vật lộn. Hồ Lão Thập đứng sững một hồi rồi cũng rống lên oa oa, đá Lý Đình chí chết. Hồ Lão Vạn giơ tay ngăn:

- Ngươi đá hắn thì có tác dụng gì?

Hồ Lão Thập liền nện nắm tay vào vai Hồ Lão Vạn, mắt đỏ hoe hoe. Hồ Lão Vạn đau thấu xương cốt, lật đật giật lui, bực bội mắng:

- Ngươi điên đấy à?

Rồi họ cũng tay đấm chân đá thình thịch. Kình khí bắn ra xung quanh, chém nát từ bộ bàn ghế bằng gỗ tử đàn đến đủ các thứ bình ngọc ấm bạc bày biện trong sảnh.

A Tuyết, Thổ Thổ Cáp và Nang Cổ Ngạt nghe tin chạy sang, nhìn cảnh ẩu đả hỗn loạn quá mức, đều sợ sệt không dám lại gần. Lương Tiêu mất kiên nhẫn đành chạy ra quát to:

- Dừng tay!

Hồ Lão Thập nghe tiếng giật mình, đầu óc cũng hơi tỉnh táo lại, túm vai Lương Tiêu hỏi:

- Đại ca, tên oắt Lý Đình lừa bọn ta, phải không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Hắn không lừa ai đâu, mỗi câu mỗi chữ đều là thật.

Hồ Lão Thập sững sờ thõng tay, dập đầu xuống đất binh binh, mồm lẩm nhà lẩm nhẩm. Hồ Lão Nhất vốn bị ba huynh đệ liên thủ giữ ghịt lấy, đang vẫy vùng giãy giụa, chợt nghe Hồ Lão Thập khóc mếu, hắn cũng rụng rời khóc òa lên.

Không ngờ hai tên ấy nặng tình cảm như vậy, ai trông cũng xúc động can tràng, khóe mắt hoen ướt. Hồ Lão Thiên ngơ ngẩn buông Hồ Lão Nhất ra:

- Hồ Lão Nhất đừng khóc, cùng lắm lão tử tặng Lý Đình cho ngươi là được chứ gì!

Nói đoạn kéo Lý Đình lại, ép gã dập đầu lạy Hồ Lão Nhất. Hồ Lão Vạn thấy thế cũng lôi Vương Khả đến trước mặt Hồ Lão Thập:

- Này, lão tử… – Trong lòng hắn thực ra không muốn, do dự khá lâu mới cắn răng nói. – Lão tử cũng đem đồ đệ kính tặng ngươi đây.

Hồ Lão Thập vắt mũi dãi:

- Thèm vào đồ đệ của ngươi, lão tử chỉ cần Tước Nhi của lão tử thôi!

Hồ Lão Nhất nấc nghẹn:

- Phải, lão tử cũng chỉ cần Tam Cẩu Nhi thôi!

Hai người đau lòng quá đỗi, lại khóc rống lên. Bốn huynh đệ cứ hết khuyên lơn đến chối từ, biếu đi đẩy lại đám đồ đệ tuồng như bọn chúng chỉ là đồ vật chén bát, có thể chuyển nhà đổi chủ bất cứ lúc nào. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cuối cùng bất lực, đành nài Lương Tiêu:

- Ngươi lắm mưu nhiều kế, mau nghĩ cách…

Lương Tiêu thở dài, chìa tay nâng cả Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập dậy:

- Đều tại ta không bảo vệ được hai tên ấy, các ngươi cứ trút giận vào ta đây.

A Tuyết vội can:

- Không được! – đoạn vòng hai tay ôm chặt Lương Tiêu, sợ Hồ gia huynh đệ đánh thật.

Hồ Lão Thập sụt sùi một lúc, lắc đầu bảo:

- Có phải lỗi của đại ca đâu, đều tại lão tử dạy dỗ Tam Cẩu Nhi chưa tới nơi tới chốn.

Hồ Lão Nhất cũng tự trách:

- Phải, Dương Tiểu Tước mà học được hết công phu rồi thì chỉ đánh thắng chứ ai giết nổi hắn?

Lương Tiêu không ngờ hai anh em họ đúc rút kết luận nhanh như vậy, nói giọng ngỡ ngàng:

- Các ngươi nghĩ thoáng ra được thế thì tốt. – Gã quay sang Vương Khả và Lý Đình. – Hai đệ là bằng hữu chí thiết với Tam Cẩu Nhi, Dương Tiểu Tước. Sư phụ của họ là sư phụ của các đệ, cha mẹ họ cũng là cha mẹ của các đệ, sau này dẫu lập được sự nghiệp to lớn thế nào cũng phải ghi nhớ điều ấy.

Hai người vâng dạ, lạy Ngũ Bảo ba lạy. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập đều thở dài, nhưng nghĩ kỹ có ít cũng còn hơn không, cuối cùng đành ngậm ngùi chấp thuận.

Đêm ấy Lương Tiêu mở tiệc tẩy trần cho năm người. Trung Điều Ngũ Bảo không vui vẻ mấy, ỉu xìu uống một lúc rồi gọi Lý Đình và Vương Khả vào vườn trong truyền dạy võ công. Họ đều nôn nóng hết sức, chỉ muốn dốc ngay toàn bộ bản lĩnh ra cho hai đồ đệ, vì vậy đôn đốc luyện tập rất khe khắt. Lý Đình và Vương Khả tuy đã làm tướng nhưng vẫn rất nhu thuận với các sư phụ, không dám chống đối mảy may.

Lương Tiêu thấy vậy cũng yên tâm, bèn về phòng nghỉ ngơi. Giữa đêm, gã choàng tỉnh vì một tiếng hú dài. Lúc đầu còn tưởng là tiếng Trung Điều Ngũ Bảo la ó dạy dỗ đệ tử, nhưng nghe kỹ, nhận ra nội lực vô song trong âm thanh, gã bàng hoàng mặc áo chạy ra.

Ngoài sân, Trung Điều Ngũ Bảo, Lý Đình và Vương Khả đang ngửa cổ nhìn lên, khuôn mặt đầy vẻ kinh hoàng. Trong đêm tối, có hai bóng người xẹt qua xẹt lại trên các mái nhà, tốc độ di chuyển quá nhanh làm phát ra tiếng gió vù vù.

Lương Tiêu chú mắt nhìn, kinh ngạc nhận ra Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt. Tướng sĩ trong phủ cũng mất giấc vì tiếng động, ai nấy theo nhau trở dậy, đèn đuốc thắp sáng trưng.

Công Dương Vũ cười ngất:

- Tiêu lão quái, ở đây toàn là đồng bọn của ngươi, có giỏi thì cùng ta ra ngoài thành đơn đả độc đấu?

Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng trả lời:

- Ra thì ra, kể cả ngươi giăng bẫy ta cũng không sợ.

Hai bóng người tách lìa, song song chạy ra ngoài thành. Lương Tiêu tung mình lên mái nhà, bám sát đằng sau, Trung Điều Ngũ Bảo cũng chạy theo, luôn miệng kêu la chí chóe. Càng tiến xa, cước lực của tám người càng phân rõ cao thấp, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt chạy ngang nhau, Lương Tiêu cách họ chừng một trăm ba mươi bộ, còn Trung Điều Ngũ Bảo thì bị bỏ lại sau khá xa.

Khi Lương Tiêu đuổi đến lầu thành, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt đã ở bên ngoài và đang thần tốc di chuyển về hướng nam, không hiểu họ vượt thành bằng cách nào. Hai bóng đen lao như tên bay, chỉ chớp mắt đã lẩn vào đêm tối.

Lương Tiêu băn khoăn: “Công Dương tiên sinh định đến giết ta ư? Ta phải nói chuyện với ông cho minh bạch, rốt cục là ta sai ở điểm gì, hay chính bản thân ông sai. Còn Tiêu Thiên Tuyệt, ta và lão ấy thù sâu như bể, đánh trận là chuyện nhỏ, báo thù mới là việc lớn, lần này đã gặp được nhất định không thể bỏ qua”. Gã lập tức thét mở cổng thành, lao ra đuổi theo hai người.

[1] Trên núi Thạch Công.

[2] Tức Altai, một dãy núi ở trung tâm châu Á, nằm trên khu vực biên giới Nga, Trung Quốc, Mông Cổ và Kazakhstan.

[3] Tức Kara Korum, kinh đô của Đế quốc Mông Cổ từ thời Oa Khoát Đài đến giai đoạn đầu cai trị của Hốt Tất Liệt, trước khi ông này thiên di về Đại Đô.

[4] Theo Trâu Diễn, đất trung nguyên gồm chín châu: Thần thổ Đông nam Thần châu, Thâm thổ Chính nam Cung châu, Thao thổ Tây nam Nhung châu, Tịnh thổ Chính tây Thăng châu, Bạch thổ Chính trung Kí châu, Phì thổ Tây bắc Trụ châu, Thành thổ Bắc phương Huyền châu, Ẩn thổ Đông bắc Hàm châu, Tín thổ Chính đông Dương châu.

[5] Bài từ theo điệu Thủy điệu ca đầu của Trình Bí thời Tống.

Côn Luân

Xà Khiếu Tước Lai

Lương Tiêu chạy một mạch, thi thoảng bắt gặp dấu vết hai người để lại, cây gãy đá nát như cuồng phong quét qua. Gã trông thấy mà kinh hoàng, tự nhủ cho dù tìm được Tiêu Thiên Tuyệt chắc mình cũng mất mạng. Ý nghĩ khiến gã bi phẫn vô cùng, biết rõ chuyến đi lành ít dữ nhiều mà chân không sao dừng được.

Đuổi về phía tây nam suốt nửa đêm vẫn không bắt kịp, dấu chân hai người càng lúc càng mờ nhạt, Lương Tiêu chạy đến sáng sớm ngày hôm sau thì mất dấu. Gã sục sạo khắp nơi hồi lâu nhưng vẫn không vớt vát được chút manh mối nào, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt y như thể đã bốc hơi.

Lương Tiêu không nản lòng, tiếp tục tiến bước, băng qua mấy thôn làng đều tịnh không gặp một người sống, khắp mặt đất vương vãi những thương gãy cung đứt, thi thể lăn lóc, phần nhiều là binh lính hai nước Tống, Nguyên, nhưng cũng có không ít dân lành, cảnh tượng thê thảm không kể xiết.

Lương Tiêu lòng dạ ngổn ngang, chạy tiếp trăm dặm cuối cùng cũng gặp một nhóm dân Tống, hỏi ra mới biết có mấy tốp lính Nguyên tăng cường đi qua vùng này, đụng độ với lính Tống. Cư dân sợ loạn quân cướp bóc, bèn bỏ lại vườn tược, nháo nhào chạy đi tránh nạn.

Nhìn nhóm dân Tống quần áo lam lũ đầu tóc rối bù, mặt mũi lem nhem sắc diện hoảng hốt, Lương Tiêu vụt nhớ đến những gì đã từng chứng kiến, nỗi hối hận trào dâng ngập lòng.

Dạo thề độc diệt Tống, gã chẳng thể ngờ rằng cứ đánh đánh giết giết là sẽ đẩy muôn dân vào cảnh lầm than. Sau khi tận mắt trông thấy thảm trạng trong thành Tương Dương, gã đã ăn năn lắm rồi, còn gắng gượng theo quân giao chiến được đến nay đều là nhờ những lời hùng hồn về một thiên hạ thống nhất hòa bình vĩnh cửu của Bá Nhan. Ngày lại ngày chinh chiến, làm chứng nhân bất đắc dĩ cho những màn tàn sát thê lương, lòng Lương Tiêu lúc nào cũng như thiêu như đốt.

Đêm nay, gặp hết làng mạc hoang vu đến dân tình li tán, gã hối hận cùng cực, bàng hoàng tự hỏi: “Cứ thế này mãi, chẳng biết còn bao nhiêu người chết, liên lụy bao nhiêu dân lành đây? Có lẽ rồi sẽ như Lan Á nói, sau chiến tranh, dầu cho thiên hạ thái bình ngàn năm, nhưng tâm hồn ta không bao giờ yên ổn được nữa”.

Lương Tiêu thẫn thờ hồi lâu, khi tỉnh táo lại, nạn dân đã đi xa. Gã nhìn theo bóng họ, lòng đau đớn như bị rắn độc cắn xé, thống khổ nghĩ: “Tiêu Thiên Tuyệt giết cha ta, cướp mẹ ta mang đi, khiến ta cô khổ phiêu bạt. Đến nay chính ta lại khiến bao nhiêu dân lành mất nhà mất cửa, tứ cố vô thân, thế này thì ta cũng có khác gì Tiêu Thiên Tuyệt đâu?”.

Lương Tiêu bất chấp tính mạng truy đuổi Tiêu Thiên Tuyệt chỉ cốt trả thù, nhưng ý nghĩ trên đã dập tắt hết mọi quyết tâm, chà cùn mọi ý định báo cừu xưa nay, gã lầm lũi tiến bước, không bận tâm đã đi bao xa, càng không biết mình đi về hướng nào.

Đêm khuya, hai chân nặng như đeo đá, Lương Tiêu rã rời ngồi xuống một gốc cây, dõi mắt về làng mạc phía xa, không gian tăm tối và lạnh lẽo như địa ngục. Đôi hồi gió rít lạnh căm lùa cành lá kêu u u, nghe như tiếng ai sầu ai thảm.

Sức lực kiệt quệ, tinh thần bải hoải, Lương Tiêu đờ đẫn chìm vào giấc ngủ. Cuối giờ dần đầu giờ mão, gã choàng tỉnh vì một tràng cười quái dị. Tiếng cười vút lên chói tai lẫn với âm thanh rin rít lạ lùng. Lương Tiêu bò dậy, tiếng cười tạm ngưng, bốn bề trở lại yên tĩnh.

Lương Tiêu nhìn về phía phát ra tiếng cười thì chỉ gặp bóng đêm dày đặc, không le lói lấy một tia sáng, người bỗng ớn lạnh.

Gã dò dẫm bước theo hướng tiếng cười đến mười mấy dặm, phía trước dần dần hiện lên bóng nhà cửa nhấp nhô, nhìn kỹ thì ra là một thôn trang. Lúc này trời sắp sáng, soi nổi dáng núi lởm chởm vươn cao phía sau ngôi làng. Thì ra con đường đã đưa Lương Tiêu tới gần địa giới Hoàng Sơn.

Nơi cổng làng ngổn ngang mười mấy xác chết của lính Nguyên. Lương Tiêu tiến đến, ngồi xổm xuống giở xem quần áo một người, trên ngực hắn in một vết đen trông giống con mắt âm hiểm nhìn trừng trừng. Lương Tiêu thót tim, khám kỹ hơn thì nhận ra toàn thân hắn mềm nhũn như bông, toàn bộ gân cốt đứt gãy từng đoạn, không còn một đoạn xương hay gân nào nguyên vẹn.

Lương Tiêu rất đỗi nghi hoặc, đoán chừng tên lính này bị đấm chết, gân cốt toàn thân đều hứng quyền kình nên gãy rời. Nhưng nếu như vậy, quyền kình của hung thủ quả là tàn độc lạ lùng, chưa từng thấy bao giờ. Gã tiếp tục xem sang các binh sĩ khác, trên ngực họ đều có dấu nắm đấm, gân cốt cũng gãy vụn.

Lương Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đào một cái huyệt chôn tất cả xuống, xong xuôi đứng dậy thận trọng đi vào làng. Gã đoán có thể hung thủ vẫn còn ở trong trấn, bèn lập tức dồn tụ nội kình, đi bước nào cũng nghe ngóng động tĩnh xung quanh. Suốt một thôi đường, thấy các nhà trong làng đều mở toang cửa lớn cửa sổ, bên trong vắng ngắt không một bóng người.

Lúc này trời tờ mờ sáng, gió lạnh căm căm thi thút xuyên qua các ô cửa, gào rít tựa tiếng quỷ khóc ban đêm. Lương Tiêu gan góc cùng mình mà cũng không khỏi phát run khi nghĩ tên sát nhân đang lẩn quất đâu đây. Thình lình có một tiếng “bình” rất to, Lương Tiêu thất thanh la lên:

- Ai? – rồi liếc mắt nhìn, phát hiện ra là một cánh cửa gỗ đang du đẩy qua lại bỗng đóng sập vào ngõng do gió thổi mạnh hơn.

Lương Tiêu thở phào, chợt thấy giữa khoảng khép mở của cánh cửa dường như thấp thoáng bóng người, gã thót tim, nhảy vọt tới lách mình vào nhà, nhưng bên trong trống hoác, không có một ai. Đang kinh ngạc thì nhận ra trên nền đất in một bóng đen dài thượt, do nắng sớm mới lên hắt vào từ ngoài cửa sổ, Lương Tiêu đạp cửa bay ra. Đập vào mắt gã là sáu người đang đứng thõng tay xếp thành hàng một, tất cả đều vận quân phục Nguyên triều.

Lương Tiêu nhướng mày hỏi:

- Các ngươi là thuộc hạ của ai?

Sáu binh sĩ vẫn bất động, bộ dạng ngây ngốc. Lương Tiêu rất lấy làm lạ, bèn lại gần vỗ vào vai người đứng cuối hàng. Sau một tiếng “bộp”, sáu tên lính cùng đổ rạp về phía trước, chồng so le lên nhau như những quân bài cửu. Lương Tiêu sửng sốt nhìn kỹ thì thấy họ đã chết lè lưỡi lồi mắt tự bao giờ rồi.

Gã cúi xuống kiểm tra. Tình trạng tử vong của nhóm này khác với đám quân Nguyên ngoài cổng làng, gân cốt tuy đứt gãy hết nhưng trên mình không có vết thương gì rõ rệt. Riêng người cuối hàng đứt ngón út bàn tay phải, người thứ năm cụt ngón út bàn tay trái. Người thứ tư thì Lương Tiêu phải khám nghiệm khá lâu mới phát hiện ra ngón út bàn chân trái của hắn đã rụng. Người thứ ba rơi đâu mất ngón út bàn chân phải. Người thứ hai khá kỳ lạ, các sợi tóc tách rời từng đoạn nhỏ, ngoài ra không có thương tích gì nữa. Lương Tiêu hoang mang xem đến người đầu tiên thì thấy gân xương tóc tai đều nguyên vẹn, gã trầm tư một lúc rồi mở áo giáp lục tìm, quả nhiên phát hiện trên ngực hắn in hình nắm đấm đen kịt.

Lương Tiêu suy nghĩ rất lung, một tia sáng bỗng xẹt qua óc, gã bất giác buột miệng thốt thành tiếng. Ai đó bật cười lạnh lùng:

- Nhìn ra rồi phải không?

Lương Tiêu hoảng hốt ngước lên. Một người đang lẳng lặng đứng cách gã chừng một trượng, ăn vận trễ nải nhưng phong thái rất ung dung đường hoàng. Lương Tiêu trố mắt:

- Công Dương tiên sinh… – Đắn đo một thoáng, gã hỏi. – Những người này đều do ông giết phải không?

Công Dương Vũ hừ mũi:

- Giết hạng vô danh tiểu tốt chỉ tổ bẩn tay. – Ông nhìn Lương Tiêu từ đầu xuống chân. – Hà, nhưng nếu ngươi muốn chết thì lão phu cũng vui vẻ giúp ngươi thỏa nguyện.

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Tiêu Thiên Tuyệt đâu rồi?

Công Dương Vũ hững hờ đáp:

- Hắn gặp cố nhân, đang bịn rịn hàn huyên.

Lương Tiêu thấy Công Dương Vũ đột nhiên xuất hiện đã kinh ngạc lắm rồi, lại nghe ông nói năng lấp lửng thì càng thêm nghi hoặc:

- Ở đây đã xảy ra chuyện gì?

- Cái thân ngươi bây giờ còn khó giữ, đừng thò mũi vào chuyện người khác nữa!

Lương Tiêu nóng mặt:

- Cứ cho là Lương Tiêu tội đáng muôn chết, lẽ nào Vân Thù chưa từng phạm lỗi?

Công Dương Vũ cau đôi mày rậm, mắt lóe lên sắc lạnh. Lương Tiêu xua tay:

- Tiên sinh khoan động thủ, sáu người này là đồng đội của tôi. Người ta thường nói nghĩa tử là nghĩa tận, tiên sinh hãy thư cho tôi ít thời gian để giúp họ yên nghỉ rồi giao đấu cũng chưa muộn.

Dứt lời, gã tuốt kiếm đào huyệt mai táng sáu binh sĩ nọ. Công Dương Vũ quan sát một lúc, lạnh lùng bảo:

- Chúng nó chết có ngươi chôn cất, chẳng biết ngươi chết rồi ai lo hậu sự cho?

Lương Tiêu ngẫm lại từ dạo tòng quân tới nay, chinh chiến liên miên, đã gặp bao cảnh thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Hàng ngàn hàng vạn binh lính ngã xuống nơi sa trường đều biến thành các thi thể vô danh. Bản thân mình sống tới hôm nay thực đã may mắn lắm rồi. Càng nghĩ càng thê lương, gã lắc đầu:

- Người ta trên đời, ai mà không chết? Cùng là nhắm mắt xuôi tay, được chôn cất hay không có gì khác nhau? Lẽ nào tiên sinh đã biết mai sau ông chết có ai an táng hộ rồi chăng?

Công Dương Vũ ngẫm cảnh mình xa vợ lìa con, tấm thân cô quạnh không một bóng người thân, sợ rằng khi trăm tuổi nắm xương tàn sẽ rơi rụng trong núi hoang, chẳng ai ngó ngàng tới. Không nén được nỗi xót xa, ông thở dài sau một lúc câm lặng:

- Được, nể mặt Văn Tĩnh, lát nữa ngươi chết, lão phu sẽ tự tay an táng cho.

Trong lòng Lương Tiêu lẫn lộn biết bao cảm xúc. Gã vốn muốn tìm đến thanh minh với Công Dương Vũ, nhưng chuyến đi này khiến gã mục kích gần hơn bi kịch của binh đao, vừa hối hận vừa căm hờn, cho rằng bản thân mình gánh nặng bao tội nghiệt, chẳng màng phân trần lý lẽ nữa, chỉ nghĩ: “Hôm nay chết dưới tay ông già cũng như một sự giải thoát”, rồi lại chua xót: “Khổ nỗi thù cha chưa trả, mẹ đi đâu cũng không rõ, ta thõng tay chịu chết chẳng phải là bất hiếu lắm sao?”.

Cùng lúc ấy Công Dương Vũ bị lời lẽ của gã khơi gợi những tiếc hận bấy lâu trong tim, rầu rĩ tự nhủ: “Ta không thể quay lại Thiên Cơ cung được nữa, con cái sờ sờ ra đấy mà cũng như không, sau này về với tổ tiên, e rằng chẳng có ai hương khói tế tự ta cả. Chà, hài tử Văn Tĩnh vốn dĩ hiền lương, không may táng mạng dưới tay lão quái vật, ta nhất định báo thù cho hắn. Song hắn chỉ được một mụn con này, nếu nó chết, chẳng phải hắn sẽ tuyệt hậu hay sao?”. Khi mới biết tin Lương Tiêu tấn công quân Tống, ông đã đùng đùng nổi giận, những muốn giết ngay cho hả, nhưng đến lúc này bỗng lại ngập ngừng.

Ông già cầm râu trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu đang theo dõi với ánh mắt thắc mắc thì Công Dương Vũ chậm rãi hỏi:

- Ngươi có biết sáu tên này chết thế nào không?

Lương Tiêu cân nhắc một thoáng rồi đáp:

- Đều chết vì quyền kình. Song vì sao người thứ hai đứt tóc, bốn người đằng sau gãy ngón tay ngón chân thì thật khó hiểu.

- Đó chính là chỗ cao cường của kẻ ra tay. Nếu đấm cả sáu gãy xương đứt gân mà chết thì khó khăn gì, nhưng đây hắn chỉ đẩy quyền kình đến ngón tay hay cọng tóc nạn nhân, hoàn toàn không chạm vào các gân cốt khác. Nội lực tinh diệu tới mức có thể vận hành tùy ý rồi.

Lương Tiêu rùng mình:

- Tiêu Thiên Tuyệt chăng?

Công Dương Vũ cười nhạt:

- Tiêu lão quái giết người theo kiểu chém to kho mặn, đời nào nghịch ngợm tủn mủn đến thế? Môn võ công này xuất xứ từ Thiên Trúc, tên tiếng Phạn của nó là Thấp bà Quân đồ lị[1]. Theo tín ngưỡng Bà La Môn, “thấp bà” là vị thần hủy diệt, “quân đồ lị” nghĩa là rắn, cũng là tên gọi nội lực trong Du già thuật[2]. Thấp bà Quân đồ lị do đó có thể dịch ra là Rắn của thần hủy diệt, nhưng thường được gọi là Hỏa xà. Sau khi luyện thành công phu, nội kình hệt như trăm ngàn con rắn độc trườn khắp cơ thể địch thủ, húc vỡ tim, đập nát xương hoặc băm gan chặt ruột hoàn toàn tùy tâm ý của người thi triển.

Lương Tiêu tư lự:

- Xem chừng kẻ đó đã luyện thành.

- Đúng vậy.

Lương Tiêu nhướng mày:

- Tên hắn là gì?

Công Dương Vũ lườm Lương Tiêu, cười khẩy:

- Ranh con, ngươi chết đến nơi rồi còn hỏi chi cho lắm?

Lương Tiêu bực tức nói:

- Ai bảo ông không động thủ ngay đi, toàn lảm nhảm những chuyện đẩu đâu.

Công Dương Vũ buồn bã nghĩ: “Nếu ta đủ nhẫn tâm để động thủ, hà cớ phải rườm lời thế. Khốn thay hiện tại quyết tâm của lão phu suy yếu mất rồi, phải làm sao cho ngươi khiến ta tức giận mới ra tay được”. Ông bèn gợi ý:

– Nội công của hung thủ cao cường nhỉ, ngươi có khâm phục không?

Đối với Công Dương Vũ, kẻ tu luyện môn Hỏa xà này là kẻ đại gian đại ác, Lương Tiêu chỉ cần buông một từ “có” thôi thì nhất định ông sẽ nổi giận và thừa căm phẫn để lấy mạng gã. Vì vậy vừa hỏi dứt, ông liền nhìn chăm chăm vào mặt Lương Tiêu để dò thái độ.

Lương Tiêu nhíu mày, lắc lắc đầu:

- Trên đời này, nhiều lắm là có bốn người khiến tôi khâm phục, hung thủ còn lâu mới lọt được vào danh sách ấy.

Công Dương Vũ thất vọng ê chề, tiện miệng hỏi thêm:

- Thế à, bốn người nào?

- Có một hòa thượng vô cùng nghĩa khí, dám nói dám làm. Ông ấy xếp thứ tư trong số những người Lương Tiêu khâm phục.

- Cửu Như chứ gì?

- Tiên sinh cũng quen ông ấy à?

Công Dương Vũ hừ mũi, không trả lời thẳng vào câu hỏi:

- Ai nữa?

- Người tiếp theo là Liễu Tình đạo trưởng. Tại sao thì chắc khỏi phải giải thích.

Công Dương Vũ gật đầu lia lịa, hớn hở nói:

- Tất nhiên tất nhiên, nàng xếp thứ nhất phải không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Thứ ba.

Công Dương Vũ cáu kỉnh nghĩ bụng: “Để xem ai xếp được trên nàng”. Lương Tiêu tiếp:

- Người thứ hai Lương Tiêu khâm phục là một tiểu cô nương.

Công Dương Vũ nhăn mặt nghĩ bụng: “Một đứa ranh con mà dám so đọ với Tuệ Tâm hử?”. Ông hừ mũi giận dữ. Lương Tiêu bùi ngùi:

- Tiểu cô nương này mắc bệnh nan y nhưng không bi quan buồn bực mà luôn vui vẻ giúp đỡ người khác, nhờ cô bé giúp đỡ nên mới có Lương Tiêu ngày nay.

Công Dương Vũ dịu nét mặt, khẽ gật đầu. Lương Tiêu chốt hạ:

- Còn người Lương Tiêu khâm phục nhất là một viên quan nhà Nguyên.

Mắt Công Dương Vũ lóe sáng, kình đẩy suốt xuống tay. Lương Tiêu thủng thẳng:

- Người ấy họ Quách tên Thủ Kính. Ông ta dồn hết tâm sức cũng như hứng thú vào cải tạo thủy lợi và nghiên cứu lịch pháp, công lao rỡ ràng ngàn năm, phúc đức cao dày vạn kiếp, do đó xếp đầu trong bảng bốn người Lương Tiêu khâm phục.

Công Dương Vũ nghe tới đây, cơn giận xẹp xuống, gật gù bảo:

- Nếu quả thực như ngươi kể thì bất luận hắn ta là Nguyên hay Tống đều đáng được thế nhân kính phục.

Nói thì nói vậy, nhưng thấy mình không được liệt vào hàng nhân vật khiến Lương Tiêu khâm phục, Công Dương Vũ cũng hơi tự ái. Lương Tiêu nhẩn nha tiếp:

- Ngoài ra, Lương Tiêu còn rất mến mộ võ công và tài trí của Công Dương tiên sinh, nhưng cái lối bỏ mặc vợ con và hờ hững tình thân của ông lại khiến Lương Tiêu không có thiện cảm lắm nữa.

Công Dương Vũ bừng bừng nổi giận, nhưng suy tính một hồi, nghĩ rằng nếu vì thế mà giết Lương Tiêu thì lại chứng tỏ bản thân mình nhỏ nhen, bèn nén cơn nộ hỏa, cười nhạt bảo:

- Nhóc con miệng còn hôi sữa, chả hiểu cái quái gì! – Trong bụng thì phát ớn: “Thằng ranh giảo hoạt kinh khủng, chắc đã nhìn ra toan tính của lão phu nên mới giả vờ bịa chuyện nói quanh khiến ta không nắm được thóp nó đây”. Cân nhắc một hồi lại nghĩ: “Ờ mà việc gì ta phải đích thân động thủ, để nó ngoan ngoãn tự tận chả tiện hơn ư?”.

Trầm ngâm một hồi, ông chợt bảo: “Ngươi theo ta lại đây!” rồi quay bước. Lương Tiêu đành đi theo.

Lúc này trời đã sáng bạch, bốn bề quang đãng. Đến một gốc tùng đầu làng, Công Dương Vũ xòe chưởng chặt lên thân cây, lá đổ xuống ràn rạt như mưa. Nhà nho phất tay áo rộng. Hệt như bị hút, màn lá liền tụ thành một chuỗi chui vào tay áo ông.

Thu xong đám lá, Công Dương Vũ nói:

- Nếu ta tự tay giết ngươi thì khó tránh mang tiếng cậy mạnh hiếp yếu. Trên núi Thạch Công, ngươi và ta chưa cá cược xong, bây giờ tiếp tục vậy.

Lương Tiêu nhướng mắt nhìn. Công Dương Vũ lại khua tay áo, lá tùng bắn phụp phụp xuống nền đất xốp, mau chóng xếp thành một đồ hình, tựa vuông mà không phải vuông, dường tròn mà không phải tròn.

Công Dương Vũ hỏi:

- Ngươi nhận ra chứ?

Lương Tiêu hơi đổi sắc mặt:

- Nhận ra, đây là Thiên địa huyền hoàng. Phải chăng hôm qua chính tiên sinh đã bày trận cho quân Tống?

Công Dương Vũ không trả lời thẳng, lấp lửng bảo:

- Lúc ấy ngươi khua môi múa mép, xổ ra những gì như là: “Trận pháp này gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt, tiêu diệt vạn quân như nhổ một cọng cỏ, tiến lui dễ dàng, không tài nào phá nổi”, nghe chừng cũng có tí kiến thức. Bây giờ coi mỗi chẽ lá tùng là một quân sĩ, nếu ngươi phá được trận này thì ta tha chết, nhược bằng thua thì tự chặt đầu là hết nợ.

Lương Tiêu quan sát trận thế hồi lâu, đoạn lắc đầu:

- Đáng tiếc tôi không có bản lĩnh hút lá tùng, làm sao đấu với tiên sinh được?

- Khó gì, với tu vi hiện nay của ngươi, ta hướng dẫn qua loa là ngươi làm được ngay thôi.

Công Dương Vũ cho rằng Lương Tiêu khó thoát chết nên không giấu miếng, nhặt ngay một chiếc lá tùng giảng giải:

- Công phu này tên gọi Bích vi tiễn, coi lá tùng là tên, nội lực là cung, cứ thế bắn đi. – Thấy Lương Tiêu lộ vẻ ngơ ngác, ông sốt ruột. – Không hiểu à? Ta hẵng hỏi ngươi, bắn cung thế nào?

Lương Tiêu thạo thuật kỵ xạ, nắm rõ đặc tính của cung tên, bèn đáp:

- Cánh cung cứng mạnh, dây cung mềm dai. Tay trái nắm cánh cung, tay phải bật dây cung là bắn được.

- Ừ, một cây cung gồm đủ cương nhu, còn nội lực có tách bạch cương và nhu không?

Lương Tiêu hiểu ra:

- Ý tiên sinh là dùng cương kình làm cánh, nhu kình làm dây, lá tùng làm tên?

Công Dương Vũ gật đầu:

- Tiểu tử khốn kiếp, cũng không đến nỗi tối dạ!

Lương Tiêu đăm chiêu:

- Xem chừng công phu này tương tự Cung huyền kình của Tiêu Thiên Tuyệt.

Công Dương Vũ trợn trắng mắt, mắng ngay:

- Láo lếu, tương tự là thế nào? Hừ, Bích vi tiễn là Bích vi tiễn, hoàn toàn không dây mơ rễ má gì với Cung huyền kình. – Nghĩ sao ông lại hừ mũi. – Dẫu có đôi chút liên quan, Cung huyền kình cũng chỉ là loại bàng môn tả đạo. Tiêu lão quái cho rằng thân mình là cung, còn ta cho rằng khí cơ là cung, gần với đạo trời hơn, cảnh giới hai bên vô cùng chênh lệch, khó lòng so sánh được. Lão Tử từng nói: “Đạo Trời như giương cung. Cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên. Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù vào”; lại răn: “Muốn đóng được phải mở trước”. Yếu lĩnh của Bích vi tiễn chính là ở đó, so với nó thì thứ công phu Cung huyền kình vứt đi kia kém xa một vạn tám ngàn dặm.

Công Dương Vũ thóa mạ một hồi thì vơi tức, bắt đầu giảng giải cặn kẽ cách hướng mạch, cách vận kình. Lương Tiêu vốn nắm bắt nhanh, lại có luồng nội lực gồm đủ âm nhu nhờ trận chiến chân khí của hai đại cao thủ trên Hoa Sơn, nghe Công Dương Vũ giảng xong, gã ngắt một nhánh lá tùng, vận năm thành cương kình và năm thành nhu kình, cương kình căng ra, nhu kình kéo vào, khi hai luồng kình tương giao, chỉ nghe “sựt” một tiếng, nhánh lá tùng thụ lực bay lút xuống bùn.

Công Dương Vũ hài lòng bảo:

- Thằng bé này dạy được đấy. Nhớ cho kỹ đây, ngoài cương trong nhu là xuất, ngoài nhu trong cương là nhập.

Lương Tiêu gật đầu, nắm tay đấm lên thân cây làm lá đổ rào rào, đoạn đẩy nhu kình, hãm cương kình, chiêu thức trái hẳn lúc nãy, tư thế hệt như xoay ngược cây cung, cánh vào trong, dây ra ngoài, đảo chiều bắn của mũi tên. Màn lá tùng bị chưởng lực của Lương Tiêu hấp hút, ào ạt bay về phía gã. Lương Tiêu chụp tay áo xuống, thu gọn số lá tùng.

Công Dương Vũ lộ vẻ ưu tư:

- Kể ra, nguyên lý này không hẳn chỉ giới hạn ở việc đả thương người bằng lá tùng. Mai sau, nếu nội lực ngươi đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa thì có thể tận dụng được cả lông tơ và bụi nhỏ kia đấy. Nhưng ngươi mà may mắn đạt tới cảnh giới đó, chắc trên thế gian chẳng còn ai địch nổi ngươi nữa.

Lương Tiêu nghe giọng ông có ý tiếc hận thì mỉm cười buồn bã, chia kình làm cương và nhu bắn lá tùng ra khỏi tay áo, cũng sắp thành một hình trận, tựa tròn mà không phải tròn, tựa vuông mà không phải vuông.

Công Dương Vũ chớp mắt:

- Ngươi cũng dùng cái này?

- Thiên địa huyền hoàng là trận thế của các trận thế, không thể phá giải. Chẳng còn cách nào tốt hơn dĩ độc trị độc.

Công Dương Vũ cười nhạt:

- Kể ra cũng khá tinh tường.

Ông phẩy tay áo, lá tùng trên mặt đất như bị gió thổi, hai mươi tư khối trong Huyền thiên tiểu trận bắt đầu vần chuyển. Lập xuân nổi đùng đoàng tựa sấm, Vũ thủy như gió tạt mưa nghiêng, Xuân phân chia âm dương hai nửa, Kinh trập quẫy động tựa giao long, Lập hạ cuốn ngốn ngấu như lửa, Mang chủng tua tủa hệt lúa non, Tiểu thử – Đại thử liền một dãy, Sương giáng mịt mù tựa tuyết bay, Tiểu tuyết – Đại tuyết đảo phải trái, Hàn lộ thoắt đọng rồi thoắt tan. Cứ thế, trận hình biến hóa theo bốn mùa, lúc dàn hàng ngang lúc xếp hàng dọc, tiến hành hợp công.

Lương Tiêu cũng phất tay áo chạy trận Huyền thiên, nhưng phương vị có phần khác biệt. Đông chí đối Hạ chí của Công Dương Vũ, Thu phân đối Xuân phân, Đại tuyết đối Tiểu thử, Xử thử đối Thanh minh, Hàn lộ đối Cốc vũ. Huyền thiên ứng với sự thay đổi của hai mươi tư tiết khí, có âm dương tương khắc tương sinh, trận pháp của Công Dương Vũ bị khắc chế, tức thì chạy chậm hẳn lại.

Lương Tiêu lại phất tay áo, Thành thổ từ hướng tây bắc, Ẩn thổ từ hướng đông bắc, Thần thổ từ hướng đông nam, Thao thổ từ hướng tây nam… Chín khối của tiểu trận Hậu thổ lần lượt đánh ra từ các phương vị khác nhau.

Công Dương Vũ nhẹ nhàng khoát tay áo rộng, Huyền thiên trận tản ra hai cánh, chín khối Cửu Châu nổi lên ở giữa. Theo đúng nguyên tắc hỏa phương nam khắc kim phương tây, mộc hướng đông trấn thủy hướng bắc, ông dùng Thâm thổ chính nam đối phó Bính thổ hướng tây, Tín thổ chính đông chống cự Thành thổ hướng bắc bên trận Lương Tiêu. Bảy khối còn lại cũng bám sát vị trí tương khắc theo ngũ hành. Trận thế của Công Dương Vũ mang hình hạc trắng xòe cánh, trông dáng thanh thoát mà ẩn tàng sát cơ.

Lương Tiêu nhận ra đây là hình hạc tường, một trong chín biến của Thiên địa huyền hoàng trận, lập tức hô to:

- Hổ quỳ!

Nội kình của gã tới đâu, Hậu thổ tiểu trận thu vào tới đó, Huyền thiên tiểu trận nhô ra ngoài, hình dáng như mãnh hổ ngồi rình, làm đối trọng với bạch hạc giang cánh. Công Dương Vũ biết rõ tấn công không được bao lâu nữa, đấu được một lúc, trận thế cuốn vào trong, chuyển ra hình bí hí[3].

Bí hí là một trong chín con trai của rồng, dáng dấp giống con rùa, khi trưởng thành thì thoát mai, hóa rồng mà đi. Hình trận này ẩn công trong thủ, đường hướng biến hóa rất phong phú. Lương Tiêu tức thì dàn trận theo hình phượng bay, dễ biến thủ thành công. Công Dương Vũ lập tức đổi hình rồng vàng, hai trận Huyền thiên, Hậu thổ chốc chốc lại đảo vị trí, thế như thần long biến ảo, khó định đầu đuôi. Lương Tiêu đối phó bằng hình rùa đen, mặc rồng vàng xáp vào tấn công dữ dội đến đâu vẫn bất động như núi.

Trông bề ngoài, tưởng chừng hai bên tỉ thí nội lực thông qua việc điều khiển lá tùng, nhưng thực chất họ đang đọ mưu đọ trí. Chẳng mấy chốc, chín biến hình Thiên địa huyền hoàng đã dùng hết, Công Dương Vũ và Lương Tiêu bèn phát triển thêm kiểu trận mới, hệt như đánh cờ. Coi chín biến là dàn trận căn bản, trên nền tảng ấy họ lại tùy cơ ứng biến, lần lượt đưa ra những ý tưởng mới. Bởi đây là thi đấu trận pháp, hàm chứa đủ mọi nguyên lý về ngũ hành tương khắc, về bát quái cửu cung nên phức tạp hơn hẳn nguyên lý đánh cờ thông thường.

Công Dương Vũ càng đấu càng kinh hoàng: “Tiểu tử này còn ít tuổi mà kiến thức toán học đã sâu sắc quá! Ta nghiền ngẫm Thiên địa huyền hoàng đã bao nhiêu năm mà không chiếm nổi ưu thế so với một kẻ mới vận hành lần đầu”. Thực tế Lương Tiêu cũng bóp đầu bóp trán, suy nghĩ đến rã rượi cả người, không dám sơ ý mảy may. Thoạt tiên gã gắng gỏi cốt mong thoát chết, nhưng càng lúc càng hứng thú, dần dần chú ý đến mặt học thuật của trận thế, thậm chí còn thiết tha hơn cả mục đích cầu sinh.

Hai người đều thông tuệ mẫn tiệp, xứng đáng là kỳ phùng địch thủ của nhau trong trận đấu trí này. Lúc đầu họ chạy trận như gió táp mưa sa, nhưng lần lần, mức căng thẳng càng cao thì tốc độ biến trận càng chậm. Cứ nhăn nhó suy nghĩ một lúc, họ lại quất tay áo, trao đổi một lượt biến hóa, đến nước không khai triển được nữa thì dừng, lại chống má trầm tư cho tới lúc một tia sáng khác lóe lên trong trí.

Giao đấu miệt mài suốt hai canh giờ vẫn chưa phân thắng bại, thình lình ở mạn núi phía tây có tiếng ưng kêu lảnh lót, ngân nga mãi không dứt, Công Dương Vũ nhíu mày vẻ sốt ruột.

Tiếng ưng vang vọng hồi lâu, không hề ngắt quãng. Công Dương Vũ đứng bật dậy, giũ tay áo, hai chẽ lá tùng bắn véo về phía Lương Tiêu. Gã này đang chìm đắm trong trận pháp, không đề phòng nên bị chẽ lá găm trúng hai huyệt Đản trung và Thần phong khiến thân thể tê dại.

Công Dương Vũ cười khì khì:

- Lát nữa tỉ thí tiếp cũng không muộn, hai tên quỷ kia đấu đá đã lâu mà không biết kết quả thế nào, chúng ta đi xem cho vui.

Lương Tiêu bị xách chạy, gió rít vù vù bên tai, cảnh vật cứ ào đến trước mắt rồi lại lùi tít ra sau. Công Dương Vũ nhảy cao hụp thấp, chỉ nháy mắt đã băng đi xa đến mấy chục dặm.

Đến một sườn núi, ông nhảy phóc lên một tảng đá to, cười bảo:

- Tới nơi rồi! – nói đoạn thả Lương Tiêu xuống.

Gã thiếu niên giương mắt nhìn. Cách chỗ họ khá xa có dãy núi xanh mờ giăng ngang chân trời, mây vờn sương phủ che kín vòm không. Cạnh đó là rặng lau sậy, hoa lau rung rinh trắng như đọng tuyết. Bên rặng lau sậy có hai người, một vận đồ trắng một vận đồ đen, người áo đen chính là Tiêu Thiên Tuyệt, người áo trắng tuổi ước ngũ tuần, nhân dạng khác hẳn dân trung thổ, mũi cao mắt sâu, da trắng, mặt mày nhẵn nhụi, môi mỏng dính, tóc bạc chải mượt cuộn thành búi to trên đỉnh đầu. Còn một người khác ngồi gần chỗ hắn, mình bận quân phục Đại Nguyên, chiếc mũ lông chiên đã bỏ ra, để lộ mái tóc đen đổ xõa xuống đến thắt lưng.

Tim Lương Tiêu đập thình thịch, nếu không bị điểm huyệt, chắc gã đã hét toáng lên.

Bởi vì tên lính Nguyên đó nào phải ai xa, chính là A Tuyết! Lạ một nỗi thân hình cô thẳng đuỗn khác thường, dáng ngồi cứng đờ như đá.

Người áo trắng ngậm ngang miệng một ống tiêu dài đỏ sẫm, tiếng ưng kêu phát ra từ chính ống tiêu này.

Trên không, bảy tám con chim ưng, diều hâu vừa rít lên dữ tợn vừa mổ cào cắn xé hai con kên kên, lông vũ rụng lả tả. Đôi kên kên dũng mãnh lạ thường, mỗi lần mổ hoặc cào phát đều trúng một con diều hoặc ưng, hất nó rơi xuống đất. Lương Tiêu nhớ lại mẹ từng kể thuở nhỏ có nuôi một cặp kên kên, chắc là hai con này đây.

Tùy theo nhịp tiêu bổng hoặc trầm, từ những khe núi hang đá ở khắp bốn phương tám hướng lại có chim ưng hoặc diều hâu lồng lộn bay tới, chỉ thoáng chốc đã tập hợp đến mấy chục con, cùng xúm quanh đôi kên kên mà bươi cào xâu xé.

Lương Tiêu thầm kinh ngạc: “Không lẽ người này biết dùng âm thanh để điều khiển ưng cắt?”.

Đôi kên kên dần dần yếu thế, không địch nổi số đông, đầu và cánh bị mổ trúng, lảo đảo chao nghiêng, rền rĩ thê thảm. Tiếng tiêu chợt ré lên, bầy ưng diều liền xáp lại hai con kên kên lẻ loi, đồng loạt vươn mỏ giơ vuốt tấn công. Máu tưới ra khắp nửa vòm trời, đôi kên kên đã bị xé bung làm nhiều mảnh.

Tiêu Thiên Tuyệt hừ mũi giận dữ, hàng mày chữ bát nhíu thấp. Người áo trắng ngưng thổi tiêu, đắc ý nói:

- Tiêu lão quái, ngươi bảo cặp kên kên này vô địch tầng không mà? Bây giờ thua rồi đấy, còn gì để nói đây?

Dứt lời hắn cười ha hả, tiếng cười xen lẫn điệu rít rin rít lạ lùng.

Lương Tiêu nghe quen tai, sực nhớ: “Tràng cười quái dị hồi đêm chắc là của hắn”.

Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng đáp:

- Được, hiệp này coi như ta thua. Theo thỏa thuận, trước tiên chọi chim, kế đến tỉ võ. Hạ Đà La, ngươi có giỏi thì lần này đừng trốn.

Người áo trắng cười khà khà, chẳng ừ chẳng không. Thấy Tiêu Thiên Tuyệt chực xông tới, hắn vội đặt ống tiêu lên miệng, thổi một tràng lanh lảnh.

Như đáp lại, khắp trời vang vọng một bầu âm thanh hỗn tạp, hàng đàn ưng diều sà xuống, nhất tề lao bổ vào Tiêu Thiên Tuyệt. Lương Tiêu khiếp đảm: “Kẻ này có khả năng điều khiển chim ưng, chẳng rõ lai lịch hắn ra sao?”.

Tiêu Thiên Tuyệt thét vang, múa song chưởng lên đón bầy chim. Rẹt một tiếng, tựa hồ bị một giàn đao kiếm vô hình phạt qua, đám ưng, cắt, diều hâu gãy cánh cụt đầu rơi xuống lộp độp, những con còn sống thì bay tán loạn, không dám áp sát Tiêu Thiên Tuyệt nữa.

Chỉ thoáng chốc, bầy ưng diều đông đúc đã bị đánh tan, chỉ sót một con chim ưng, nó kinh hoàng sải cánh chực bay, thình lình cùng tiếng gầm dữ dội, một con hổ đen từ vạt rừng bên cạnh phóng ra, tung mình chồm cao hơn một trượng, vồ con chim kéo xuống, di mạnh nó trên mặt đất, xem chừng không sống được nữa rồi.

Hạ Đà La cười rin rít:

- Thiên vật nhận của lão càng ngày càng sắc bén!

Tiêu Thiên Tuyệt trợn mắt:

- Đừng lải nhải nữa, đền mạng đôi kên kên cho ta.

Lão đảo người, nhoài tới gần ba trượng, Hạ Đà La không hề cử động mà thân hình bỗng lướt ngang đi xa đến hai trượng, tránh khỏi phát chưởng của Thiên Thiên Tuyệt:

- Bình tĩnh nào Tiêu lão quái, mở to mắt mà xem đây!

Hắn lại đặt ống tiêu ngang miệng, tiếp tục thổi. Lần này là âm điệu lách cha lách chách, Lương Tiêu tự hỏi: “Tiếng chim gì nhỉ, nghe quen tai lắm”.

Tiêu Thiên Tuyệt ngưng bước, cười nhạt:

- Được, lão phu gắng xem xem.

Lão đứng lại, quạt liền ba chưởng. Hạ Đà La tuy đang ở cách xa mấy trượng mà cũng phải xê xích để né tránh, cuối cùng lui hẳn ra ngoài mười trượng, mặt mày nhăn nhó, nhưng miệng vẫn thổi liên miên.

Chỉ trong chớp mắt, bốn phương tám hướng rộ lên tiếng phụ họa ríu rít. Vòm trời tối sầm. Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Trên không xuất hiện vô số chim sẻ, di chuyển rất nhanh về phía này như một đám mây dày màu gai xám. “Ra là tiếng chim sẻ”, gã nghĩ.

Bầy sẻ dường nổi cơn điên, tràn tới cực nhanh rồi đổ rào rào xuống Tiêu Thiên Tuyệt như giàn tên nhọn. Tiêu Thiên Tuyệt tiếp tục phát chưởng. Chưởng phong tới đâu, xác sẻ rụng lộp độp tới đó, nhưng một đợt rơi xuống, đợt thứ hai đã đùn lên thay thế, lớp nối lớp tấn công không màng sống chết.

Tiêu Thiên Tuyệt thoạt đầu xuất chưởng còn ung dung thư thái, nhưng dần dần càng lúc càng nhanh, cuối cùng song chưởng lên xuống như chong chóng. Vậy mà đàn sẻ vẫn dồn về nườm nượp, che rợp bầu trời, phủ dày mặt đất, y như thể toàn bộ chim sẻ của dãy Hoàng Sơn đều tụ tập lại đây.

Khi đàn sẻ đã quây kín trên không, Hạ Đà La dùng tiếng tiêu tách chúng làm hai tốp. Một tốp bọc Tiêu Thiên Tuyệt bằng nhiều lớp như vỏ hành. Tốp kia xúm đến chỗ hổ đen, vươn mỏ mổ chí chát. Con hổ gầm thét giơ vuốt quất đuôi, nhưng đàn sẻ quây kín đến nỗi nước cũng không lọt, con hổ che chắn được đằng đầu thì đuôi lại sơ hở. Chẳng bao lâu, chỉ nghe một tiếng gầm khủng khiếp, hai mắt chảy máu, trong cơn kinh hoàng nó guồng chân chạy trốn. Nhưng bầy sẻ truy đuổi kỳ cùng, chuyên nhắm những chỗ con vật không với được vuốt tới mà mổ rỉa khiến máu thịt bắn tung tóe. Hổ đen phóng đi xa đến hơn hai mươi trượng thì tiếng gầm rít dữ dội đã đổi ra rên rỉ thê lương, bốn chân mềm nhũn, nó đổ vật ra đất.

Tiêu Thiên Tuyệt phổ Thiên vật nhận vào song thủ, chưởng phong thường khi sắc bén là thế mà gặp phải tình cảnh quái dị này cũng khó lòng phát huy uy lực. Se sẻ vốn là loại nhỏ bé yếu đuối hạng nhất trong các loài chim, nhưng nhờ số lượng đông đảo và tổ chức tấn công đồng loạt nên sức mạnh lại vượt xa ưng diều. Tiêu Thiên Tuyệt quạt chết một lớp thì lớp khác sà đến, đánh giết đến mức xác sẻ tích dày cả thước trên đất, còn con hổ đen đã bị đàn chim bươi vầy, rỉa sạch máu thịt, còn trơ khấc bộ xương trắng.

Lương Tiêu dày dạn và can đảm có thừa, đã từng thống lĩnh thiên quân vạn mã phi ngựa quất roi tung hoành trên sa trường, vậy mà gặp cảnh này cũng không khỏi ớn lạnh.

Tiêu Thiên Tuyệt thét vang, quạt chưởng vù vù đánh thủng một lỗ hổng giữa lớp sẻ, đoạn tung mình lao vụt ra ngoài như một vầng mây đen, lướt thẳng về phía rặng lau sậy.

Lương Tiêu theo dõi lộ khinh công của Tiêu Thiên Tuyệt với ánh mắt tán thưởng, đoán thầm: “Từ bụi lau sậy chắc lão sẽ nhảy xuống nước, muốn thoát bầy sẻ quái gở kia thì quả thực đó là cách đơn giản nhất”.

Nhưng Tiêu Thiên Tuyệt chỉ bay là là trên rặng lau rồi lướt ra xa hơn ba trăm bộ, không xuống nước mà đáp lên bờ bên kia, một cành sậy màu xanh nhạt đã nằm trong tay lão tự bao giờ.

Tiêu Thiên Tuyệt nhăn trán, ngắt bỏ hết lá nhánh, để lại một ống sậy thuôn thuôn, đoạn ngậm nó vào miệng thổi u u. Tiếng sáo sậy vốn thê lương ai oán, lại được nội lực của Tiêu Thiên Tuyệt thúc đẩy, âm thanh càng thêm thắt ruột thắt gan.

Kiến thức võ học của Lương Tiêu đã khác xa ngày xưa, vừa thấy khóe mắt cay cay, gã rợn người hiểu ra, vội vàng dùng phép Nhập định và Tẩy tâm trong Tử phủ nguyên tông để tập trung tinh thần, loại bỏ tạp niệm, chống lại tác động của tiếng sáo sậy.

Tiếng sáo vút lên, xen lẫn tiếng tiêu của Hạ Đà La. Bầy sẻ bị nhiễu âm thanh, không biết theo bên nào, đập cánh soạt soạt bay rối rít quanh xác đồng loại, kêu lên ai oán rồi tản dần đi, kết thúc trận đấu thấm đẫm máu tanh.

Lương Tiêu thở phù, cảm thấy như học thêm được một điều, bụng bảo dạ: “Cách nhổ cỏ tận rễ của Tiêu Thiên Tuyệt quả thực cao minh. Bầy sẻ bay đến vì tiếng tiêu, phá được tiếng tiêu là tức khắc đập tan mọi mũi tấn công của chúng”.

Đàn sẻ đã biến mất nhưng Tiêu Thiên Tuyệt vẫn không buông sáo, thậm chí còn đẩy thêm nội lực vào ống sậy cho nhạc điệu tăng độ bi thiết, âm thanh rầu rĩ vọng chân mây, bồi hồi quanh sơn cốc, nghe như lữ khách thở than nỗi tha hương, thiếu phụ nỉ non đêm lẻ bóng. Hạ Đà La đổi liên tục các loại tiếng chim, các cung biến điệu, từ yến oanh thỏ thẻ, vàng anh líu lo cho chí hạc kêu não nuột, quạ gào inh tai.

Nhạc âm của hai bên đều vận dụng nội lực khiến người nghe điêu đứng bàng hoàng, rất khó chống đỡ. Lương Tiêu phải dùng Tẩy tâm và Nhập định để trấn tĩnh mới thoát được nguy hiểm. Đương tập trung tinh thần, chợt nghe tiếng sụt sịt, gã thất kinh mở bừng mắt nhìn thì thấy A Tuyết nghẹn ngào vật vã như hoa lê bị gió dập mưa vùi.

Nguyên là tiếng sáo của Tiêu Thiên Tuyệt quá đỗi thảm thiết, A Tuyết nghe mà kinh tâm động phách, huyết khí dâng cao, không kiềm chế được nên bật khóc. Khổ nỗi còn bị điểm huyệt nên khí lực không đủ, cô muốn khóc to nhưng đuối sức, đành chỉ thút thít nấc nghẹn. Nỗi đau đớn bị khơi lên trong ngực do đó vô phương giải tỏa, tích lại mỗi lúc một dày, mặt A Tuyết dần dần trắng bệch, hai mắt lạc thần.

Lương Tiêu hiểu nếu cứ tiếp tục thế này, A Tuyết nhất định sẽ đau thương quá độ mà chết. Gã muốn cứu viện nhưng thân thể tê liệt, định xung khai huyệt đạo thì Bích vi tiễn quá ư lợi hại, gã thử mấy lần đều tốn công vô ích, đành tuyệt vọng nhìn A Tuyết gặp nạn.

Thình lình, Công Dương Vũ bỗng phá lên cười, tiếng cười chấn động rừng núi. Đoạn ông xếp bằng ngồi xuống, nhuyễn kiếm Thanh Li đặt ngang đầu gối, ngón co ngón búng gẩy trên thân kiếm làm phát ra âm thanh keng keng như chặt đá chặt vàng.

Công Dương Vũ bảo:

- Tiêu lão quái, Khổng Tử dạy: nhạc buồn nhưng đừng nên bi lụy. Ngươi thổi sáo bát nháo như vậy nghe chẳng lọt tai chút nào.

Dứt lời, ông dùng kiếm thay đàn, vuốt lên thành âm chủy, vũ, miết xuống tạo âm cung, thương. Giai điệu uyển chuyển, chẳng những mượt mà như đàn gỗ ngô đồng hay danh cầm cổ kim mà còn réo rắt hân hoan khiến nỗi buồn thương dịu bớt. Ông cất giọng hòa theo khúc nhạc:

Ngoài đồng hoang có con chương,

Bên nhà có một cô nàng đương xuân.

Bạch mao chàng gói thịt phần,

Đem sang dụ dỗ tấm thân ngàn vàng.

Trong rừng bộc tốc mọc hoang,

Có con hươu chết nằm lang ngoài đồng,

Chàng đem ngả thịt gói xong,

Tặng cho người ngọc những mong kết tình.

“Khoan khoan chàng hãy kìm mình,

Đừng khua chó sủa, đừng rình rờ khăn!”

Bài Dã hữu tử khuân[4] này trích trong Kinh Thi, kể chuyện nàng con gái đang tuổi xuân mơn mởn ở nơi đồng dã, có chàng trai lấy lá bạch mao gói thịt con chương, con hươu đem tặng tán tỉnh. Ý thơ linh động, tươi tắn hồn nhiên.

Công Dương Vũ hát xong, nhạc đệm thay đổi, ông lại chuyển sang bài khác:

Nàng rằng: gà gáy sáng kìa,

Chàng: ừ, trời cũng tờ mờ từ lâu.

Vậy chàng nên dậy cho mau,

Sao mai lấp lánh phương nào rồi kia.

Đeo cung rong ruổi đồng quê,

Bắn chim phù, nhạn mang về cho em.

Nhạn, phù chàng bắn, để xem,

Em làm vài món lại thêm rượu nồng

Thuận hòa tới lúc răng long,

Vui duyên cầm sắt, thỏa lòng thương yêu.

Đây là bài Nữ viết kê minh[5], cũng trích trong Kinh Thi, thuật lại chuyện đôi nam nữ tự tình đêm hôm, ý ngọt ngào âu yếm, tình nồng nàn lả lơi.

Hai bài hát cất lên, lập tức pha loãng âm giai của sáo sậy. Nỗi đau đớn đè trĩu ngực A Tuyết cũng vợi bớt, nhưng tự nhiên một cảm giác lạ lùng khác lại xâm chiếm hồn cô, khiến mặt cô đỏ ửng và đầu óc tràn ngập muôn tưởng tượng xa xôi, tất cả đều xoay quanh hình ảnh Lương Tiêu.

Hạ Đà La ngưng thổi địch, cười rin rít:

- Thì ra Công Dương huynh cũng là người đồng hội đồng thuyền với chúng ta. Kinh Thi còn có bài Thư cưu họa tiếng quan quan, Bên cồn sông vắng hót vang vui vầy. Yêu kiều thục nữ thế này, Cùng chàng quân tử sánh tày lứa đôi. Sái gia[6] trẻ trung mến người ngọc, thường ngày đều theo đuổi cái đẹp đấy.

Hắn vốn chỉ lõm bõm về thơ Hán, tự nhiên gặp đúng dịp để khoe khoang dấn vốn ít ỏi của mình thì lấy làm đắc ý lắm, cười toe toét liếc về phía A Tuyết. Lương Tiêu khinh bỉ nghĩ: “Chí ít cũng bốn năm chục tuổi đầu rồi mà còn tự xưng là trẻ trung mến người ngọc. Trơ thế không biết!”.

Công Dương Vũ mỉm cười, lại hát:

Tân Đài tráng lệ, Hoàng Hà cuộn trôi,

Tưởng lấy được chàng xinh tươi,

Ngờ đâu gá nghĩa với người hom hem.

Tân Đài chất ngất, Hoàng Hà lao xao,

Tưởng sa xuống chốn thanh cao,

Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang.

Khấp khởi quăng lưới, vớt phải cóc già,

Tưởng thân gửi gã hào hoa,

Tân hôn đêm ấy hóa ra lão còng[7].

Hạ Đà La nghe ca từ dường như ngụ ý đả kích, nhưng không hiểu rõ lắm, đang cau mày ngẫm nghĩ thì Công Dương Vũ cười hỏi:

- Hạ xú xà, ngươi có hiểu Tưởng sa xuống chốn thanh cao, Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang nghĩa là gì không?

Hạ Đà La cười đáp:

- Ngôn từ kín đáo sâu xa thế, sái gia lỗ mỗ Hán văn, thực không hiểu nổi.

Công Dương Vũ nháy mắt:

- Tưởng sa xuống chốn thanh cao, Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang, nói rộng ra là chê cười sự bất cân xứng, châm biếm những con cóc ghẻ không tự lượng sức đòi ăn thịt thiên nga ấy mà.

Hạ Đà La sầm mặt:

- Huynh đài muốn chửi sái gia là cóc ghẻ?

Công Dương Vũ cười tươi:

- Ấy, chính thế! Lão phu chửi ngươi ba lần cóc ghẻ mà ngươi vẫn một mực không chịu hiểu, thực là nước đổ đầu vịt. Ha ha ha…

Hạ Đà La hầm hầm hừ một tiếng rõ to.

Trong lúc hai người đối đáp, tiếng sáo sậy của Tiêu Thiên Tuyệt dần dần thay đổi sắc độ, ai oán sầu thương giảm bớt, tăng thêm tình ý miên man. Công Dương Vũ ngạc nhiên lắng nghe.

Tiêu Thiên Tuyệt đang thổi bài Kiêm gia, cũng thuộc Kinh Thi:

Bên sông sậy mọc xanh xanh

Móc vương trên lá rành rành tựa sương,

Người ta đêm nhớ ngày thương,

Ở bờ đối diện mà dường quá xa,

Ngược nguồn tìm lối ta qua,

Gặp đường trắc trở cùng là quanh co

Trở lui tìm lối hạ du,

Ngờ đâu người lại lửng lơ giữa dòng.

Khúc hát này kể chuyện một chàng trai từng trải muôn vàn vất vả để đeo đuổi người mình yêu thương. Công Dương Vũ vốn có tâm bệnh nên rất đồng cảm với tình cảnh nhân vật. Ông đã lặn lội cùng trời cuối đất để tìm Lâm Tuệ Tâm, chịu đựng nhiều khổ sở tới mức toàn bài Kiêm gia cũng không đủ diễn tả một phần vạn nỗi khổ đó, càng ngẫm càng thương thân, đầu óc dần dần chống chếnh mụ mẫm.

Tiêu Thiên Tuyệt thổi hết một lượt bài Kiêm gia liền thổi lại lần nữa. Âm thanh đó vây bọc mọi giác quan của Công Dương Vũ, bản đàn dưới những ngón tay ông cũng dần dần đổi theo giai điệu Kiêm gia:

Rặng lau mọc kín bờ sông

Móc trong buổi sớm ròng ròng chưa khô,

Người ta thương nhớ mong chờ,

Thoáng trông hình bóng ở bờ bên kia,

Ngược nguồn chân lựa nẻo đi,

Gập ghềnh khúc khuỷu dễ gì tiến sang,

Trở lui tìm lối xuôi đàng,

Ngờ đâu người đã chuyển sang giữa cồn.

Công Dương Vũ dùng tiếng đàn đấu với Tiêu Thiên Tuyệt nhưng lại vô tình bị cuốn theo giai điệu lung lạc của đối thủ, chỉ thoáng chốc, nhịp tim hòa với nhịp đàn, đôi mắt dần dần rực lên cuồng nhiệt. Hạ Đà La nhận thấy có thể lợi dụng được, bèn nghĩ bụng: “Võ công tài trí kẻ này đều đáng gờm, không nhân đây trừ khử hắn thì còn đợi tới khi nào?”. Hắn lập tức ghé ống tiêu lên miệng, thổi ra âm thanh của chim thư cưu.

Thư cưu là loài chim ái tình, trống mái quấn quýt bên nhau cả đời không lìa xa. Tiếng tiêu của Hạ Đà La não nuột luyến láy, hệt như châm dầu vào lửa, khiến uy lực từ cây sáo sậy tăng lên bội phần.

Công Dương Vũ nghe sáo sậy và tiếng chim đồng vọng, tâm trạng thoắt phấn khởi thoắt bi ai, thoắt vui vẻ thoắt âu sầu. Bỗng nhiên, trước mắt ông thấp thoáng hiện ra hình ảnh Liễu Tình áo trắng chân trần, tóc xanh buông dài chấm đất yêu kiều đứng giữa mây trời, mỉm cười tươi tắn.

Khí huyết bừng bừng, Công Dương Vũ trân trân dõi nhìn bằng cặp mắt ứa lệ, đôi tay cất cao, ông gọi:

- Tuệ Tâm, cơn cớ gì mà nàng trốn tránh ta, cơn cớ gì? Nàng có biết ta tìm nàng khổ sở đến nhường nào không? Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co. Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co…

Ngày thường ông vẫn than sầu oán khổ, nhưng tự trọng thân phận nên thủy chung chỉ giữ trong lòng, lúc này bị tiếng sáo và tiếng tiêu thúc đẩy tâm tư nên thổ lộ cả ra, mà đã thổ lộ là ào ạt như thác đổ, không sao kìm nén được nữa.

Lương Tiêu thấy Công Dương Vũ mất hết tỉnh táo thì lo cuống, khốn nỗi hai chẽ lá tùng găm cứng các huyệt đạo đã cản trở mọi cố gắng can thiệp của gã. Trong lúc bối rối, một tia sáng thình lình lóe lên trong óc: “Ban nãy Công Dương tiên sinh chẳng đã dạy ta Bích vi tiễn đó ư? Ngoài cương trong nhu là xuất, sao ta không lấy dùng thứ kình đó mà bắn mấy chiếc lá này ra?”.

Vừa nghĩ dứt, gã đã dồn nội lực đến huyệt Đản trung, đặt cương kình bên ngoài, nhu kình bên trong rồi bật cung, sau một tiếng “phụt” nhẹ, nhánh lá tùng rời thân bay ra. Lương Tiêu hoan hỉ lặp lại cùng cách thức, đẩy nốt cả chẽ lá tùng ở huyệt Thần phong đi.

Lúc này Công Dương Vũ đã mê man thần trí, hoa chân múa tay, lẩm nhẩm mãi câu hát Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co, bắt đầu mấp mé bờ vực của sự điên loạn.

Lương Tiêu không kịp đắn đo nhiều, lập tức nhảy vọt tới hét vang, áp một chưởng lên huyệt Ngọc chẩm của Công Dương Vũ, đổ chân khí vào Đốc mạch rồi dồn nó chạy tới huyệt Đại chuy.

Pháp môn này bắt nguồn từ thiên Nhập định trong Tử phủ nguyên tông. Thường khi bắt đầu tập nhập định, người tu đạo vẫn còn rất nhiều tạp niệm, chỉ sơ sẩy một chút là sa vào tẩu hỏa nhập ma, vì vậy bên cạnh phải có sư tôn hỗ trợ, gọi thần trí họ quay về. Tình cảnh hiện tại của Công Dương Vũ cũng tương tự tẩu hỏa nhập ma nên cách làm của Lương Tiêu công hiệu ngay tức khắc. Công Dương Vũ rùng mình, lập tức tỉnh táo lại.

Tiêu Thiên Tuyệt căm thù Công Dương Vũđến tận xương tủy, định nhân cơ hội ngàn năm một thuở này mà dồn kình địch vào cảnh chết vì loạn trí, nào ngờ đến thời khắc quyết định lại bị Lương Tiêu phá ngang. Nhìn đôi đồng tử của Công Dương Vũ trở nên linh động, Tiêu Thiên Tuyệt hiểu rằng thế là xôi hỏng bỏng không, trong lòng tức giận vô cùng, lão gắng đẩy sức vào tiếng sáo, nhằm lúc Công Dương Vũ chưa thật tỉnh táo thì tấn công để ông trở tay không kịp. Hạ Đà La cùng chung ý nghĩ, tiếng tiêu càng thêm riết róng.

Công Dương Vũ vừa tỉnh đã gặp ngay hai mặt giáp kích, thầm than nguy hiểm, lập tức tập trung tinh thần phòng thủ. Ông xếp bằng ngồi xuống, tay trái gẩy nhuyễn kiếm tấu thật nhanh giai điệu Phong vũ thuộc Kinh Thi hầu chống lại tiếng sáo sậy của Tiêu Thiên Tuyệt, tay phải gỡ bầu rượu sơn đỏ ở thắt lưng, đập nó cồm cộp lên mặt đá theo âm cung và thương tạo tiếng cú mèo kêu để chống đỡ nhạc tiêu của Hạ Đà La. Hiềm nỗi tâm lực ông đã tiêu hao quá độ trong lúc thất thần vừa rồi, chưa kịp điều hòa hơi thở lại phải đối phó cùng lúc với hai địch thủ nên nhọc sức vô cùng. Chỉ thoáng chốc, đỉnh đầu Công Dương Vũ bốc khói trắng nghi ngút, sau vài tích tắc, bầu rượu bửa đôi, lại thêm một lát, đầu ngón tay lướt qua lưỡi kiếm đứt da bật máu.

Lương Tiêu bèn tung mình lại gần Hạ Đà La, quạt chưởng tấn công. Hạ Đà La thấy gã còn quá trẻ mà chưởng phong đã quá đỗi sắc bén thì ngạc nhiên hết sức, nhưng đang đấu đến thời khắc then chốt, hắn không muốn phân tâm đỡ đòn, bèn nhích đi xa hơn một trượng.

Lương Tiêu phát chưởng hụt mà cũng không trông thấy động tác di chuyển của Hạ Đà La nên vô cùng kinh sợ. Gã xoay bật người, lướt sang chỗ A Tuyết ôm choàng lấy cô. A Tuyết mừng mừng tủi tủi, đôi mắt đẹp long lanh lệ. Hạ Đà La không tiện di chuyển về, nhưng bộ dạng đằng đằng sát khí, hầm hầm giương mắt nhìn.

Trận đấu giữa Công Dương Vũ, Tiêu Thiên Tuyệt và Hạ Đà La mỗi lúc một nguy hiểm. Lương Tiêu xé áo bịt hai tai A Tuyết lại, đoạn vỗ ba chưởng về phía Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu vẫn điềm nhiên ngồi yên, đợi chưởng phong của Lương Tiêu tới gần, áo lão bỗng phồng lên rồi xẹp xuống, đón và từ từ hóa giải luồng kình.

Lương Tiêu phát hoảng, muốn tiến lên giao đấu, song không nỡ bỏ A Tuyết một mình. Gã thầm nghĩ nếu không ngăn cản Tiêu Thiên Tuyệt và Hạ Đà La thì Công Dương Vũ chắc chắn sẽ thất bại. Đang bối rối, gã chợt nghe thấy tiếng chuông boong boong vọng tới, âm thanh đầy đặn và vang vọng khắp khe khắp núi, liền đó là một giọng oang oang:

- Hai đánh một, trơ tráo quá thể…

Cùng với lời nói, tiếng chuông vẫn ngân nga, nhịp buông điểm đúng khoảng lặng giữa những nốt chuyển của cây sáo sậy.

Tiêu Thiên Tuyệt bất ngờ, suýt bị tiếng chuông làm lạc nhịp, đành buông Công Dương Vũ, thúc nội lực vào tiếng sáo để đương cự tiếng chuông.

Công Dương Vũ nhớ lại tình cảnh khốn đốn vừa rồi, hai mắt trợn tròn, trỏ tay nói lớn:

- Hạ xú xà! Lúc trước không tính, bây giờ hai ta đơn đả độc đấu lần nữa.

Ông trút hết mọi căm giận với Hạ Đà La xuống Thanh Li kiếm, dùng nó thay đàn tấu bài Ân vũ:

Mau thay oai vũ nhà Ân,

Hưng binh chém Sở khí gần Đẩu, Ngưu…

Cảm nhận rõ rệt luồng sát khí rờn rợn bốc tận chân mây, Hạ Đà La không dám trễ nải, cũng dùng tiếng hót của muôn loài chim để đáp trả.

Bỗng đâu lại một tràng cười dài. Lương Tiêu dõi mắt nhìn ra. Từ cuối khúc quanh của sơn đạo, Cửu Như đang rảo bước chạy tới, vai vác quả chuông đồng cũ mòn, nhỏ bằng một nửa chiếc chuông đại ở chùa Hàn Sơn. Lão giơ gậy gõ liên hồi lên tang chuông làm phát ra tiếng boong boong ầm ĩ.

Nhận ra Lương Tiêu, nhà sư cười vang:

- Nhóc con, đã lâu không gặp!

Lương Tiêu ôm quyền đáp:

- Đại sư vẫn phong độ như xưa, thật đáng mừng!

Cửu Như cười ha hả:

- Tiểu tử dẻo mồm! Đợi bần tăng xong việc, chúng ta sẽ đánh chén một bữa thỏa thuê, uống hẳn ba trăm chung rượu! – Không đợi Lương Tiêu đáp lời, lão đã đưa mắt nhìn sang Hạ Đà La, cười bảo. – Hạ xú xà, bần tăng gặp người quen cũ, mải kể lể hàn huyên nên đến muộn. Ha ha, ngươi tưởng ta không nhớ đấy à?

Lão vừa nói vừa đập vù cây gậy xuống đỉnh đầu Hạ Đà La.

Gậy đập thẳng xuống, động tác không có gì đặc biệt, song Hạ Đà La xem chừng rất úy kỵ, lùi tránh đến hơn một trượng. Hắn nhét ống tiêu vào trong tay áo, mỉa mai:

- Đồ lừa trọc, ngươi cứ muốn bám nhằng nhẵng đánh chí chết thế ư?

Cửu Như cười khì khì:

- Ta chỉ đánh chí chết thôi, còn bám nhằng nhẵng là cung cách của con rắn bẩn tính nhà ngươi. Người ta bảo đánh rắn phải đánh dập đầu, dắt trâu phải xỏ lỗ mũi. Ha ha, đáng tiếc Hạ xú xà không phải đạo sĩ, bằng không bần tăng cũng tìm một sợi thừng xỏ lỗ mũi ngươi dắt đi.

Trong lúc chọc ghẹo, nhà sư vẫn múa tít cây gậy.

Hạ Đà La lắc mình lùi xa ra, trợn mắt mắng:

- Đồ lừa trọc, trời đất tuy rộng lớn nhưng không có gì thoát khỏi hai từ “lý lẽ”. Sái gia chưa từng trêu cợt ngươi lần nào, vậy mà năm xưa ngươi ráo riết đuổi đánh ta khỏi trung nguyên. Cứ cho là bỏ qua chuyện quá khứ đi, hôm nay ta mới trở lại, tại sao ngươi cũng dai dẳng bám theo suốt mấy ngàn dặm qua?

“Thịch” một tiếng, Cửu Như dộng mạnh cái chuông xuống, cắm phập cây gậy gỗ trắc bên cạnh, cười nhạt:

- Ngươi đủ trơ trẽn để nhắc đến lý lẽ à? Ngươi đột nhập trung nguyên, tàn sát hơn ba trăm mạng, cưỡng bức hơn sáu mươi dân nữ. Chẳng từ một việc ác nào, chết trăm lần chưa đủ đền tội.

Hạ Đà La nóng nảy cắt ngang:

- Lũ dân đen đó sinh ra là để sái gia luyện công, giết vài ba đứa đã ăn thua gì! Còn đám đàn bà con gái kia, được sái gia biệt đãi là phúc phận của chúng nó, vừa khoái lạc vô bờ vừa bảo toàn tính mạng, nhất cử lưỡng tiện đến thế là nhất rồi!

Cửu Như quắc mắt, chạy quanh Hạ Đà La hai vòng, phỉ nhổ:

- Con rắn đốn mạt, ta quất nát đít ngươi!

Lão khua gậy lên, Hạ Đà La uốn mình tránh, lạnh lùng đáp:

- Đã thế, hôm nay có ngươi thì không có ta.

Hắn rút trên vai ra một thứ binh khí khuôn dạng kỳ lạ, tay cầm ở giữa, từ đó xòe ra bốn phía bốn mũi dao cong lưỡi liềm dài chừng một thước hắt ánh lạnh băng, trông tổng thế giống hình chữ卐.

Thứ binh khí này tên là Bát Nhã phong, sắc bén tuyệt luân, lối phát chiêu rất kỳ dị, Cửu Như bật cười:

- Ăn cắp ở đâu ra đấy? – đoạn tay phải múa gậy vun vút, tay trái cất chuông, miệng quát to. – Chết này!

Cái chuông kêu “hù” một tiếng, chụp xuống đỉnh đầu Hạ Đà La.

Bát Nhã phong lóe lên sắc lạnh, chém đứt đôi chuông đồng. Cửu Như cười ha hả, xoáy tít cây gậy như chim xuyên rừng cây, lao qua giữa hai mảnh chuông đồng, đập thẳng xuống ngực đối thủ. Hạ Đà La uốn mình tránh, động tác mềm dẻo như người không xương, binh khí quay vù vù hệt như một vầng trăng sáng lăng về phía Cửu Như.

Công Dương Vũ bình sinh tự phụ, thấy Cửu Như ra tay thì cũng ngừng gẩy kiếm tấn công Hạ Đà La.

Ông đưa mắt sang Tiêu Thiên Tuyệt, cười khà khà:

- Hạ xú xà có hòa thượng tiếp đón rồi, chúng ta cũng nên dứt khoát một lần cho xong.

Tiêu Thiên Tuyệt ngừng thổi sáo sậy, lạnh lùng đáp:

- Đúng ý lão phu.

Chữ “phu” vừa buông, tay áo Công Dương Vũ đã bay phần phật, lưỡi nhuyễn kiếm bắn tới trước mặt Tiêu Thiên Tuyệt.

Tiêu Thiên Tuyệt hơi đảo người, song chưởng thoắt biến đao biến kiếm, biến giáo biến thương, trong khoảnh khắc mà hoán đổi chiêu thức của bảy tám loại binh khí khác nhau để chặn thế kiếm dữ dội như cuồng phong của Công Dương Vũ. Nhà nho càng đánh càng sảng khoái, cất tiếng hú dài, đường kiếm phóng khoáng như gió thổi hoa rơi, lồng lộng như trăng soi mặt sóng, thoát khỏi mọi gò bó của ý thức, nghiêng dần về hướng tự nhiên tiềm thức.

Tiêu Thiên Tuyệt thấy khó mà chống đỡ được bằng tay không, bèn lấy sáo sậy ra khỏi tay áo. Thiên vật nhận của lão vốn là nội kình, yếu lĩnh ở chỗ “vạn vật trong trời đất đều là binh khí của ta”, hễ phổ nó vào chưởng, quyền thì da thịt rắn đanh như đao, chùy; phổ nó vào giấy, cỏ thì các đồ vật ấy cứng sắc như cưa, kiếm, không gì không chém được. Vì vậy mà ống sáo tuy chỉ là một đoạn lau sậy dài năm tấc, nhưng khi nằm trong các ngón tay Tiêu Thiên Tuyệt, nó trở nên khí thế và mạnh mẽ không thua bất cứ một loại khí giới nào.

Cuộc tỉ thí giữa bốn đại cao thủ hôm nay là một dịp hiếm có, cả đời cũng khó gặp một lần. Lương Tiêu theo dõi đến hoa cả mắt: xem cặp Cửu Như – Hạ Đà La thì lại bỏ lỡ Công Dương Vũ – Tiêu Thiên Tuyệt, nhìn Công Dương Vũ – Tiêu Thiên Tuyệt thì lại không bao quát được Hạ Đà La và Cửu Như.

Bốn đấu thủ ra chiêu càng lúc càng dữ dội. Trong một tích tắc tránh đòn, Hạ Đà La chợt nhận ra Công Dương Vũ đang đứng đâu lưng với mình, liền sinh ác tâm, bèn tận dụng khoảnh khắc né chiêu Cửu Như mà khua Bát Nhã phong đâm lén nhà nho.

Công Dương Vũ trở lui kiếm chắn đỡ. Tiêu Thiên Tuyệt tự phụ thân phận, không muốn liên thủ với Hạ Đà La bèn ngừng tấn công. Chợt Cửu Như cười to:

- Tiêu lão quái, ba mươi năm cách mặt, bần tăng tưởng ngươi đi ngủ với giun với dế rồi kia đấy! – Dứt lời, lão múa gậy đánh tới.

Tiêu Thiên Tuyệt giơ ống sáo gạt gậy ra, hoàn trả một chưởng, lạnh lùng đáp:

- Tên sư trọc nhà ngươi sống đến hôm nay kể cũng hiếm có nhỉ!

Cửu Như xoay gậy quét ngang đập thẳng, đâm trái hất phải, hai bên giao đấu không khoan nhượng.

Chẳng bao lâu, Tiêu Thiên Tuyệt xoay sang đấu với Hạ Đà La, Cửu Như thành ra đấu với Công Dương Vũ. Thuở xưa bốn người đã từng chạm trán, nay tái ngộ sau ngần ấy năm, ai cũng muốn xem đối phương tinh tiến bao nhiêu, vì vậy cứ lát lát lại đổi đấu thủ, chú ý thăm dò căn cơ của nhau.

Lương Tiêu theo dõi một cách say sưa, bất giác tự hỏi: “Trong số này, rốt cục ai là người lợi hại nhất nhỉ?”. Gã đang băn khoăn, chợt nghe Cửu Như cười bảo:

- Lão đồ gàn, ngươi khác với Tiêu lão quái và Hạ xú xà, bần tăng vốn chẳng muốn cho ngươi một bài học làm gì, khổ nỗi ngoại hiệu của ngươi lại phạm vào điều đại kỵ của bần tăng.

Công Dương Vũ cau mày:

- Ngoại hiệu nào?

Cửu Như cười:

- Có kẻ tán dương ngươi là thiên hạ đệ nhất kiếm, chữ “kiếm” thì thôi không nói, nhưng bốn chữ “thiên hạ đệ nhất” khiến bần tăng chướng tai không chịu nổi.

Công Dương Vũ nhổ phì phì:

- Ba hoa khoác lác, làm như ngươi là thiên hạ đệ nhất không bằng!

Cửu Như bật ngón tay cái trái, cười hì hì:

- Quả nhiên là dân đọc sách, hiểu nhanh hơn hẳn người thường. Bần tăng không chỉ là thiên hạ đệ nhất mà thiên thượng cũng là đệ nhất luôn đấy!

Trước thái độ dương dương tự đắc và giọng điệu huênh hoang của nhà sư, Công Dương Vũ vừa bực mình vừa tức cười, mắng rằng:

- Chả trách người ta gọi ngươi là lừa trọc, mặt dày hơn cả da lừa!

Ông ta được Cửu Như giải vây, lòng vốn cảm kích vô cùng, trước sau xuất thủ vẫn nương nhẹ, đến lúc này bị Cửu Như nói khích mới nảy thói háo thắng, tung hết chiêu thức ra giao đấu.

Hai người đều dùng binh khí màu đen, lúc tạm ngưng trông như rắn đen quấn cành khô, lúc tấn công dữ dội thì như rồng đen cưỡi mây. Cửu Như càng đấu càng hứng khởi, hò hét vang lừng.

Nhà sư đang hò la, chợt mé ngoài núi có người thét vào:

- Lão lừa trọc đấy phải không?

Tiếng thét tựa sấm rền, vang dội khắp dãy núi. Cửu Như hơi biến sắc, buột miệng gắt:

- Ừ, chính cha ngươi đây!

Người nọ cười ha hả:

- Lại đây lại đây, chúng ta tái đấu ba trăm hiệp nữa.

Cửu Như nhăn nhó sỉ vả:

- Đấu cái con khỉ, bần tăng còn có việc hệ trọng phải làm, không rỗi mà chơi với ngươi. – Lão bỏ mặc Công Dương Vũ, quất gậy đánh vút, nện thẳng xuống đầu Hạ Đà La.

Trong số bốn người thì thì Hạ Đà La có kém sút hơn chút đỉnh, đơn đả độc đấu may ra chống đỡ được chừng sáu trăm chiêu, nhưng cứ thay đối thủ liên tục, chiêu số biến đổi quá nhiều khiến hắn khó thích ứng. Lúc này hắn đang tập trung tinh thần đón đỡ, chắn chỗ này lại hở chỗ kia, bị Cửu Như nện liền hai gậy phải luống cuống giật lui.

Chợt Cửu Như gầm lên như sấm:

- Trúng!

Một gậy của lão bay tới, nện trúng vai trái Hạ Đà La. Tên này đau thấu xương cốt, lập tức quay mình chạy trốn. Cửu Như bám sát không rời. Bên chạy bên đuổi, chớp mắt đã phóng lên tới sống núi.

Đột nhiên, một người phi thân ra chặn đường Cửu Như, miệng cười hì hì:

- Lão lừa trọc, đánh nào, đấu nào!

Kẻ đó vừa nói vừa luôn tay luôn chân đấm đá, chiêu thức tinh diệu vô cùng, Cửu Như bản lĩnh là vậy mà cũng phải dừng bước.

Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt đều ngạc nhiên. Họ vừa tỉ thí với Cửu Như, biết rõ nhà sư lợi hại đến mức nào, nay thấy lão bị một người tay không vung quyền bức lui, chẳng ai hiểu ra sao nữa. Cả hai quan sát võ công của người mới đến, mặc dù kiến thức rất rộng mà đều thắc mắc trước đường lối võ công và lai lịch chủ nhân.

Sau khi xáp vào giao đấu chớp nhoáng chừng hai mươi hiệp, Cửu Như quật một gậy đẩy lui người nọ, tung mình nhảy vọt qua sống núi.

Đối thủ bị bỏ rơi kêu oai oái:

- Chạy đi đâu? Đánh nữa, đánh nữa nào…

Vừa gọi, y vừa nhào một vòng theo Cửu Như, mất tăm dưới mé bên kia. Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt thấy người nọ nói năng cử chỉ đều kỳ cục mà võ công cao cường nhường ấy thì đều hết sức tò mò, không ai bảo ai, cùng thi triển khinh công bám sát đằng sau.

Chạy được mấy bước, Công Dương Vũ chợt dừng chân, quay lại trừng mắt với Lương Tiêu:

- Tiểu tử họ Lương, hôm nay lão phu nhận ơn cứu viện của ngươi mà còn hạ thủ giết ngươi thì thật không phải. Nhưng nếu ngươi vẫn tiếp tay cho bọn Thát thì dù mang tiếng bất nghĩa, trước sau gì lão phu cũng lấy mạng ngươi.

Lương Tiêu thoáng trầm ngâm, đoạn vòng tay đáp:

- Xin tiên sinh yên lòng, từ nay về sau, Lương Tiêu quyết không làm tổn hại đến một dân lành nào của Đại Tống nữa.

Công Dương Vũ cau mày ngắm gã từ đầu xuống chân, đoạn gật đầu, chạy như gió cuốn theo hướng Tiêu Thiên Tuyệt.

Lương Tiêu nhìn theo bóng hai người, lòng chộn rộn muôn ý nghĩ. Lát sau ngoảnh lại A Tuyết, thấy hai má cô đỏ hồng, đôi mắt long lanh, hàng mi dài còn ngân ngấn lệ, gã bèn bắt mạch thử xem.

Nhận ra hai mạch Nhâm, Đốc đều tắc, Lương Tiêu vận nội lực khai thông, nhưng vô hiệu. Gã thi triển Bích vi tiễn, cương kình làm cánh, nhu kình làm dây, ngưng khí làm tên, đẩy nội lực vào cơ thể cô gái. A Tuyết nghe lồng ngực nhẹ nhõm hẳn đi, buột miệng kêu:

- Ca ca, muội nhớ huynh chết đi được!

Lương Tiêu định đả thông Đan điền cho A Tuyết, nghe vậy mắng át:

- Mở miệng ra là chết với sống, gở kinh lên được!

A Tuyết đỏ mặt, cúi đầu vò vò chéo áo. Lương Tiêu hỏi:

- Tại sao muội lại ở đây?

Mắt A Tuyết hoe đỏ:

- Nghe… Hồ Lão Vạn kể huynh đuổi theo Công Dương tiên sinh và Tiêu Thiên Tuyệt, muội lo quá, liền quất ngựa rời thành đi tìm huynh.

Lương Tiêu phát cáu:

- Hồ Lão Vạn, cái đồ lắm mồm! Về rồi ta sẽ cho mấy cái bạt tai!

A Tuyết cuống quýt nài:

- Ca ca đừng đánh hắn. Hắn mà không nói, chẳng phải muội càng lo lắng hơn ư?

Lương Tiêu lườm cô:

- Lo lắng thì có tác dụng gì? Vậy tại sao muội rơi vào tay người áo trắng? Hắn… hắn có ức hiếp muội không? – Họng nghẹn lại, gã vội lấp liếm. – Thôi, nếu không tiện trả lời, coi như ta chưa hỏi, quên câu ấy đi!

A Tuyết lắc đầu:

- Muội không rõ nguyên nhân khiến hắn bắt muội, chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao đã bị đưa đến đây rồi. Chuyện cũng chẳng có gì bất tiện, để muội kể hết cho huynh nghe.

Lương Tiêu xót xa nghĩ: “Muội khờ của ta, chắc đã bị hắn phạm đến thân rồi, vậy mà cũng không biết chuyện gì xảy ra nữa!”. Gã gắng nén nỗi đau lòng, dịu dàng bảo. – Muội kể những chi tiết bình thường ấy, chỗ nào không vui thì tránh đi. Từ rày về sau cũng đừng bận tâm nghĩ ngợi, coi như chưa từng xảy ra chuyện gì là được.

A Tuyết ngạc nhiên:

- Coi như chưa từng xảy ra chuyện gì là sao? Muội nhớ rõ cả mà. Lúc đó muội phóng ngựa ra ngoài thành, chưa xác định được là nên đi hướng nào, đang sấp ngửa chạy chợt cảm thấy mình ngựa trĩu xuống tựa hồ có người ngồi lên phía sau lưng.

Lương Tiêu buột hỏi:

- Người áo trắng phải không?

- Vâng. Muội ngoái đầu nhìn thì chẳng thấy một ai, nhưng vừa quay đầu đi thì có luồng hơi phà vào tai muội tê tê buồn buồn thế nào ấy. – Kể tới đây cô cảm thấy hổ thẹn, khuôn mặt đỏ bừng.

Lương Tiêu cau mày, ngập ngừng hỏi:

- Sau đó thì sao?

- Sau đó, muội thò chưởng ra sau đẩy hắn, không ngờ đẩy hụt, khi thu chưởng về thì hắn lại thở khì vào tai muội, vừa thở vừa thì thào: “Tiểu cô nương biết võ công à, hay quá nhỉ”. Muội phát hoảng, không nhịn được bèn hỏi: “Ta mặc đồ nam mà, vì sao ngươi biết ta là tiểu cô nương?”. Hắn cười hì hì: “Sái gia tinh mắt lắm, ruồi bay qua còn phân biệt được con đực hay con cái nữa là! Ở trung nguyên này, sái gia chưa từng gặp ai vừa xinh xắn vừa biết võ công như cô nương”. Nghe cái giọng thơn thớt nói cười ấy, không hiểu sao muội cảm thấy rất nhột nhạt, bèn đuổi: “Ngươi đừng ngồi sau lưng ta nữa, kẻo nặng quá ngựa nó không chịu nổi đâu. Ngươi mà không xuống là ta đánh đó”. Hắn cười: “Được, cô đánh đi, đánh trúng là ta xuống liền”, dứt lời liền với tay lên sờ soạng mặt muội.

Kể tới đây, A Tuyết cúi gằm xuống, mặt đỏ như gấc chín. Lương Tiêu nặng nhọc lắc đầu:

- Thế là đủ, ta không muốn nghe nữa.

A Tuyết nhíu mày:

- Sự việc sau đó lạ lùng lắm, huynh bỏ ngang là tiếc đấy. – Không để Lương Tiêu kịp lên tiếng, cô tiếp tục. – Khi ấy muội bực lắm, bèn ngoảnh đầu lại đẩy, nhưng không thấy hắn đâu, vừa xoay mình đi thì hắn đã phà hơi vào tai muội, còn lảm nhảm nhiều câu kỳ cục, muội không hiểu lắm. Nhưng câu này thì dễ hiểu, hắn khen muội ưa nhìn… Theo huynh hắn có nói thật không? So với Liễu cô nương, với chủ nhân hay Lăng thư thư, Băng thư thư thì muội không bén gót ai cả.

Lương Tiêu nhìn khuôn mặt khả ái trắng trẻo, thở dài bảo:

- Thôi thôi, không kể nữa, chúng ta về đi!

A Tuyết thắc mắc:

- Sao cơ? Sắp tới vô khối sự lạ, muội chưa nói xong mà.

Lương Tiêu xót xa nghĩ: “Để con bé kể ra hết rồi khóc thỏa thuê một bữa thì có khi tốt hơn”. Gã bèn nghiến răng bảo:

- Được, muội thong thả kể tiếp đi, ta nghe.

A Tuyết tiếp:

- Vâng, đúng lúc muội không xua đuổi được hắn, đang lo cuống cuồng thì sau lưng bỗng vang lên tiếng chuông coong coong y hệt tiếng chuông của ông sư vừa rồi ấy. Người áo trắng “hừm” một tiếng rồi rủa: “Đồ lừa trọc chết đâm chết chém, tổ sư con… bà ngươi”. – A Tuyết ngừng lời, ngượng nghịu thanh minh. – Câu này là tên áo trắng chửi, muội chỉ thuật lại thôi.

Lương Tiêu nín lặng. A Tuyết ngắc ngứ nói:

- Hắn lầm bầm mạ lị vài ba câu nữa rồi đột nhiên điểm huyệt muội, cười hì hì bảo: “Tiểu cô nương, ta mượn tạm con ngựa”, đoạn giằng dây cương, ra roi phóng điên cuồng. Chạy hồi lâu hắn mới dừng lại nghỉ, kéo muội xuống giải huyệt. Bấy giờ muội mới nhìn rõ hắn, lo rằng lỡ việc đi tìm huynh, muội sợ hãi òa khóc. Người nọ vỗ về: “Nín nín, chúng ta tìm một chỗ êm ái, sái gia sẽ khiến cô vui thích”. Muội đáp: “Không tìm thấy ca ca thì chẳng có gì khiến ta vui cả”. Người nọ cười: “Ca với chả cốc, lát nữa cô sẽ sướng mê tơi, rối rít gọi ta là ca ca ấy”. Muội nghe kiểu nói năng kỳ cục đâm bực, bèn bảo: “Còn lâu ta mới gọi ngươi là ca ca, trên đời này ta chỉ có một ca ca mà thôi”. Người nọ vẫn nhơn nhơn: “Lát nữa cô nương sẽ chẳng tự chủ được đâu, trông xinh xắn thế kia, lại là xử nữ, lại biết võ công, làm cái đệm cho ta luyện đan thì còn gì thích hợp bằng. – A Tuyết nhíu đôi mày thanh, hỏi. – Ca ca, đệm luyện đan là cái gì?

Lương Tiêu cũng không hiểu lắm, bèn nói át đi:

- Là cái cũng chẳng hay ho gì.

- Muội cũng ngờ ngợ rằng đấy chẳng phải những lời lẽ tử tế. Người nọ vừa lải nhải vừa nhìn muội với ánh mắt kỳ lạ rồi đứng bật dậy, kéo muội chạy vào rừng. Muội vùng vẫy mà không thoát được, đang lo quýnh, chợt lại nghe tiếng chuông ngân. Tên áo trắng sững sờ tức giận: “Tiên sư con lừa trọc, toàn làm người ta nhấp nhổm”, đoạn rủa xả vô khối lời lẽ thô tục. Hừm, muội phát ngượng miệng, cách quãng đoạn này nhé ca ca?

Lương Tiêu theo dõi câu chuyện mà tim giật thột từng hồi, lúc này nghe vậy bèn bảo:

- Không chỉ cách quãng mà còn nên quên sạch những lời ấy đi.

A Tuyết gật đầu:

- Vâng. Hắn vừa chửi rủa vừa lôi muội lên ngựa phi nước đại. Mỗi lần dừng lại, nghe thấy tiếng chuông vọng tới là hắn nổi điên, mà cũng như sợ hãi, vì hễ nghe tiếng chuông là lại quất ngựa chạy ngay.

Lương Tiêu thở phào nghĩ bụng: “Có Cửu Như đại sư đuổi theo phía sau, Hạ Đà La dù bắt được A Tuyết cũng không tiện giở trò. Đại sư luôn tay gõ chuông chắc cũng để khắc chế tiếng tiêu của hắn”.

A Tuyết tiếp tục:

- Chạy như thế suốt một ngày trời, cuối cùng con ngựa kiệt sức khuỵu xuống. Người đó bỏ ngựa lại, kéo muội đi bộ. Được một thôi đường, muội gặp một toán lính Nguyên đi ngược chiều. Thấy muội vận quân phục Đại Nguyên, họ bèn nhao nhao la lối, bắt tên áo trắng buông tha muội. Tên này khủng khỉnh cười, thình lình điểm huyệt muội rồi tung mình tới trước, giáng quyền lia lịa, mỗi quyền phóng ra là một người ngã xuống.

A Tuyết kể tới đây, khuôn mặt ảm đạm. Lương Tiêu nghĩ bụng: “Thì ra đám lính Nguyên mất mạng vì muốn cứu A Tuyết, ta chôn cất họ kể cũng như báo đáp được một phần”. Biết câu chuyện đang đến hồi căng thẳng, gã giục:

- Sau đó thì sao?

- Sau đó còn sáu binh sĩ sống sót, họ rất sợ hãi, ném vũ khí đi mà ra sức chạy trốn, nhưng bị kẻ kia tóm trở lại dồn vào làng. Trong làng vắng ngơ vắng ngắt, hắn bắt sáu người chặt củi nhóm lửa, vo gạo thổi cơm. Ăn xong, hắn ra lệnh cho họ xếp hàng một rồi vung quyền đấm, sáu người không động đậy gì cả. Hắn chạy quanh họ một vòng, cười ré lên tựa như cao hứng lắm.

Lương Tiêu ngẫm nghĩ: “Bao giờ Tiêu Thiên Tuyệt mới xuất hiện đây?”.

- Cười xong, kẻ đó bảo muội: “Tốt rồi, bây giờ lão hòa thượng cũng bị ta cắt đuôi, không còn ai quấy nhiễu giấc mộng đêm lành của chúng ta nữa…”. Hắn hau háu nhìn làm muội sợ chết khiếp. Muội vùng chạy, nhưng bị hắn tóm được tay áo. Đúng lúc ấy, trên mái nhà chợt có tiếng người nói: “Lão đồ gàn, chuyện của chúng ta phải gác lại đã”. Người khác nói: “Hay hớm chưa, khéo không mất cả chì lẫn chài, lão phu không muốn ngươi chết dưới tay kẻ khác đâu”. Người đầu tiên hừ mũi: “Nói thối đếch chịu được!”. Nhận ra giọng Tiêu Thiên Tuyệt và Công Dương tiên sinh, muội vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, ngạc nhiên vì tình cờ gặp họ, vui mừng vì nghĩ họ đã ở đây thì tức là ca ca cũng ở gần đây. Còn người nọ nghe tiếng biến sắc mặt, đoạn cười phá lên: “Lão quái vật, lão đồ gàn, các ngươi đều là tông sư một phái, cơn cớ gì nấp nom thò thụt, lẵng nhẵng bám theo sái gia như vậy?”. Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng nói: “Lẵng nhẵng đâu mà lẵng nhẵng? Chẳng qua lão phu muốn xem ngươi tiến bộ đến mức nào nên cất công đi thêm mấy chục dặm mà thôi. Hừ, ngươi lại còn dắt theo cả nữ nhân, chắc chê trận đòn năm xưa ở phủ Khai Phong chưa đủ độ chứ gì?”.

- Ái chà! – Lương Tiêu kêu lên. – Khoan đã, muội nói là phủ Khai Phong à?

- Vâng, muội nhớ là ông ấy bảo phủ Khai Phong.

Lương Tiêu vỡ lẽ: “Thì ra là hắn. Hừ, Hồ Lão Vạn, cái đồ xuẩn ngốc, rõ ràng là Hạ Đà La lại nhớ trẹo thành Hoạt Lạc Đà mấy chả Tử Lạc Đà”.

A Tuyết tiếp tục:

- Tên áo trắng bảo: “Được lắm, Tiêu lão quái! Thôi thì ngươi và lão đồ gàn cùng lên một lượt đi, sái gia chẳng sợ đâu”. Tiêu Thiên Tuyệt hừ mũi: “Khỏi khích tướng, mình lão phu là đủ lấy mạng chó của ngươi rồi”. Nói đoạn ông ta nhảy xuống khỏi mái nhà, phát chưởng chém liền. Người áo trắng đón đỡ, cười bảo: “Chúng ta đọ cước lực trước”. Nói xong hắn túm lấy muội, guồng chân chạy vào trong núi, Tiêu Thiên Tuyệt liền đuổi theo. Người nọ chạy lòng vòng hồi lâu, chợt dừng lại: “Tiêu lão quái, sái gia mang theo một người, chạy mất sức quá. Bây giờ giao đấu thể nào ngươi chẳng chiếm ưu thế”. Tiêu Thiên Tuyệt bèn gợi ý: “Được, tạm nghỉ chừng thời gian cạn một chén trà rồi hẵng đấu tiếp”. Người nọ tỏ vẻ chán chường: “Tẻ nhạt quá, hay nhân lúc nghỉ thì tỉ thí kiểu khác vậy. Nghe đồn lão quái có hai con kên kên hung hãn vô cùng, đúng không?”. Tiêu Thiên Tuyệt hỏi thế thì sao, người nọ bèn nói: “Ta cũng có mấy con chim ưng, hay hai bên chọi chim rồi đọ võ công sau?”. Tiêu Thiên Tuyệt cố nhiên là nhận lời, tên kia bèn lấy ra một ống tiêu đỏ sẫm như máu, bắt đầu thổi…

Nghe tới đây, Lương Tiêu ngắt lời:

- Đoạn sau ta chứng kiến cả rồi.

Gã xúc động trong lòng, nghĩ thầm chuyến này A Tuyết còn giữ được sự trinh bạch đều là nhờ Cửu Như và Tiêu Thiên Tuyệt. Cửu Như đã đành, nhưng Tiêu Thiên Tuyệt cũng ra tay trợ giúp thì thực khiến gã bối rối không biết nên nghĩ sao cho phải.

Hai huynh muội ngồi lặng nhìn nhau hồi lâu. Cuối cùng Lương Tiêu chậm rãi bảo:

- Về thôi!

- Huynh không đuổi theo Tiêu Thiên Tuyệt và Công Dương tiên sinh nữa à?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Ta không bỏ muội ở đây được.

Nói đoạn gã quay đi, A Tuyết ngẩn ngơ một lúc, chợt níu tay gã kêu:

- Ca ca!

- Sao?

Lương Tiêu ngoảnh lại. A Tuyết rưng rưng lệ, run rẩy nói:

- Huynh hãy hứa, bất kể thế nào cũng không bỏ rơi muội. Suốt một đêm một ngày nay, cứ nghĩ không còn được gặp huynh nữa, A Tuyết… chỉ muốn chết đi cho rảnh. – Cô nấc nghẹn, nước mắt thánh thót tuôn rơi.

Lương Tiêu ngẩn người, giơ tay vuốt gọn mái tóc cô gái, thở dài bảo:

- Nha đầu ngốc nghếch, sau này dù đi đâu, ta cũng sẽ đưa muội theo, không để muội phải lo lắng nữa.

A Tuyết nghe vậy là thỏa nguyện, bỗng nhận ra đầu ngón tay Lương Tiêu lướt đến đâu, da thịt mình tê dại đến đấy, tim cứ đập thình thịch.

Lương Tiêu dắt tay A Tuyết chực đi, chợt nghe “Ha!” một tiếng. Từ sống núi phía sau có một người chạy vòng xuống, áo trắng tóc bạc, chính là Hạ Đà La.

Số là hắn lợi dụng lúc Cửu Như bị người lạ mặt nào đó lẽo đẽo bám theo, bèn ẩn thân vào bụi cây, đợi bốn cao thủ đi khuất cả mới thò mặt ra. Hắn tự nhủ nếu bọn Cửu Như muốn truy đuổi mình thì thể nào cũng tiến lên phía trước, thực tế mình chạy lộn lại, nhất định sẽ khiến ba kẻ ấy trượt mục tiêu. Nghĩ sao làm vậy, hắn mò về đường cũ, tình cờ chạm trán Lương Tiêu và A Tuyết.

Hắn liếc Lương Tiêu, cười rin rít:

- Ca ca cô đấy phải à? Nghe cô gọi thân thiết quá, sái gia phát ghen lên. Hay cô cũng nhận cả sái gia làm ca ca có được không?

Gặp phải cường địch, trí óc Lương Tiêu bắt đầu hoạt động rất nhanh để tìm cách đối phó. A Tuyết có gã bên cạnh nên can đảm hơn lên, mai mỉa đáp trả:

- Già đầu rồi mà còn đòi làm ca ca ta, tóc ngươi bạc trắng thế kia, làm bá bá ta có khi còn thừa tuổi đấy!

Hạ Đà La sầm mặt, nhép nhép môi, cười khan:

- Ngươi chẳng hiểu cái cóc khô gì, sái gia ta tóc bạc sớm, đâu phải là già. Ha ha, cô không muốn ta làm ca ca thì nhất định ta phải làm.

A Tuyết bĩu môi:

- Ta thèm vào, trên đời này ta chỉ có một ca ca.

Hạ Đà La dịu nét mặt, cười ha hả:

- Càng dễ xử, ta giết phăng tên ca ca này của cô, thế là cô chỉ còn một ca ca là ta đây thôi.

A Tuyết nghe bắt bẻ, nhất thời không đối đáp lại được. Hạ Đà La cứ nhếch mép cười nhìn Lương Tiêu, tựa hồ cân nhắc xem nên bắt đầu ra tay thế nào. Lương Tiêu bỗng nhướng mắt cười to:

- Cửu Như đại sư, người đến đúng lúc quá!

Hạ Đà La bị Cửu Như truy đuổi suốt ngàn dặm, vốn đã hết sức cảnh giác, hệt như con chim phải cung sợ làn cây cong, nghe Lương Tiêu nói thế lập tức ngoảnh phắt đầu nhìn ra, nhưng chẳng thấy bóng dáng ai cả. Hắn biết bị mắc lừa bèn ngoảnh ngay lại. Bấy giờ Lương Tiêu đã ôm A Tuyết chạy như bay đến một ngọn núi.

Hạ Đà La tức tối, nhưng vẫn cười rin rít:

- Đệ đệ cũng biết ghẹo người đấy nhỉ? – Đoạn lắc mình, chỉ hai nhịp nhấp nhô là đã tới gần Lương Tiêu khoảng mười trượng. – Tiểu cô nương muốn ca ca cô chết kiểu gì đây? Chết toàn thây hay bằm nát? Nếu cô không chạy, ta sẽ để hắn được nguyên vẹn về với ông bà tổ tiên.

A Tuyết sợ quá, răng đánh cầm cập, không thốt nên lời.

Lương Tiêu vụt đổi hướng, chạy tọt vào một vạt rừng rậm, gọi to:

- Công Dương tiên sinh!

Hạ Đà La cười rú:

- Hảo đệ đệ lại lừa ca ca rồi! Lát nữa sái gia sẽ cứa lưỡi đệ, xem nó dài tới chừng nào…

Hắn vừa trêu chọc vừa chạy theo vào rừng.

Chợt có tiếng gió sắc lạnh rít tới gần. Hạ Đà La lướt vội lại sau, vỗ song chưởng ra, chỉ thấy mấy vật bé xíu cắm phụp phụp xuống đất, hắn nhóng mắt nhìn kỹ, nhận ra đó là mấy chẽ lá tùng xanh mướt.

Hạ Đà La phát hoảng: “Bích vi tiễn của lão Cùng Nho? Rõ ràng hắn chạy cùng đường Tiêu lão quái, sao chỉ chớp mắt đã vòng về đây được rồi? Phải chăng hắn hận ta mấy lần ám hại nên cố ý sai thằng nhóc này ra dụ ta vào đây báo thù”. Nghĩ mà toát mồ hôi hột, Hạ Đà La bèn hộc tốc chạy trở ra, cười khành khạch:

- Giấu đầu hở đuôi thật chẳng xứng mặt hảo hán. Lão đồ gàn, có gan thì ra đây đấu ba trăm hiệp với sái gia.

Đợi một lát vẫn không thấy mảy may động tĩnh, Hạ Đà La rất đỗi ngờ vực, lại thét:

- Cùng Nho!

Nhưng vạt rừng vẫn lặng ngắt. Ngẫm lại, Hạ Đà La cảm thấy mấy mũi Bích vi tiễn chứa kình đạo rất thường, khác hẳn thủ pháp xuất quỷ nhập thần, nhanh đến chóng mặt của Công Dương Vũ.

Hắn bàng hoàng sực hiểu mình lại mắc lừa lần nữa, liền vươn cổ hú dài, chạy ào vào rừng, đuổi theo dấu vết Lương Tiêu. Phóng một mạch đến hơn ba trăm dặm, hắn nghểnh đầu nhìn thì thấy Lương Tiêu cõng A Tuyết bám dây leo trèo lên một ngọn núi cao gần đấy.

Hạ Đà La cười rú rít:

- Thú quá thú quá, đệ đệ thực giảo hoạt lươn lẹo.

Lương Tiêu nghe tiếng cười, luôn miệng kêu khổ. Sau khi dùng mưu đẩy lui Hạ Đà La, gã thầm nhủ đi đường bằng nhất định không thoát nổi hạng già đời lăn lộn giang hồ như tên xú xà kia, nhác trông có một cái hang trên sườn núi, gã bèn áp dụng cách thức hành quân địa hình bò lên đó, thầm nhủ khi Hạ Đà La phát hiện ra bị lừa và đuổi theo chắc cũng chỉ biết đường đi loanh quanh ven chân núi thôi.

Nào ngờ tình hình biến đổi khác thường, người tính không bằng trời tính, Hạ Đà La đã đuổi đến nơi. Lương Tiêu đang ở lưng chừng núi, khác nào cưỡi trên hổ, không xuống được nữa, chỉ còn cách gắng gượng tiến bước.

Càng lên cao, thế núi càng cheo leo hiểm hóc, rất nhiều chỗ chỉ có một hốc nông choèn hoặc một mỏm đá cạn để đặt mũi chân. Nghe tiếng cười rin rít chói tai, Lương Tiêu cúi đầu nhìn xuống, Hạ Đà La đạp bước phi hành, đã gần đến cái hang nơi sườn núi.

A Tuyết cuống cuồng kêu:

- Ca ca, hắn đuổi tới nơi rồi!

Lương Tiêu suy tính rất nhanh, chợt giơ kiếm lên chém đứt dây leo bên dưới.

A Tuyết đang lấy làm lạ, chợt nghe tiếng kêu tức giận của Hạ Đà La bèn ngoái cổ xuống nhìn, mắt bỗng hoa lên. Lúc này, hai huynh muội đã tới chỗ cao đến trăm trượng, rừng rú đất đá dưới kia đều bé như con kiến. Hạ Đà La đang dừng ở sườn núi, tay phải bám mỏm đá, hai chân cử động ngùng ngoằng, đẩy người trườn lên. A Tuyết ngạc nhiên:

- Huynh nhìn bộ dạng leo núi của hắn kìa!

Lương Tiêu ngó theo, cũng rất lấy làm thắc mắc.

Số là Lương Tiêu chặt đứt dây leo, Hạ Đà La mất chỗ vịn, chỉ còn cách vận dụng công phu để trèo lên, không ngờ mới trèo thêm được mấy trượng thì cánh tay trái bỗng rã rời đau nhói, hắn sực nhớ lúc nãy bị Cửu Như quật gậy vào vai. Cửu Như có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, một gậy đó đủ đánh nát đá tan vàng, Hạ Đà La thi triển nội công độc môn hầu khử bớt kình lực, nhưng vẫn bị thương vào xương cốt, bây giờ phải ra công trèo lên vách đá hiểm trở, vết thương tái phát, đau đớn vô cùng. Không làm sao khác được, hắn đành dùng hai chân và một tay leo lên.

Ba người leo cao dần, gió chướng quay cuồng xô đẩy, tở tóc tai họ rối tung. Mỗi nhịp dướn giúp Lương Tiêu tiến thêm vài trượng. Qua đến đâu, gã chặt sạch dây mây và tùng bách đến đấy, không chừa một chỗ bám víu nào cho Hạ Đà La. A Tuyết nghiêng đầu nhìn, chỉ thấy cảnh vật bên dưới càng lúc càng bé, tim đập thon thót, cô hãi hùng không dám liếc mắt xuống nữa, nhưng khi ngẩng mặt lên trên thì càng bàng hoàng khiếp sợ.

Bên trên họ là vách đá sừng sững trơ lì, hệt như bị lưỡi tầm sét vạt thẳng một mảng, ngoài mấy nhành tùng trơ trọi thì không còn chỗ nào để tỳ tay đặt chân. A Tuyết ngấm ngầm than khổ: “Lỡ sơ sảy thì hai ta sẽ lộn cổ xuống tan thây chứ còn gì?”. Đang kinh hoảng quá độ, cô bỗng sực nghĩ: nếu rơi xuống, coi như được chết bên Lương Tiêu, vĩnh viễn không chia lìa nữa. Vừa nghĩ thế, bao nhiêu thảng thốt trong lòng bỗng chớm quyện ý vị ngọt ngào, cô áp đầu lên vai Lương Tiêu, nghe rõ nhịp tim gã truyền tới dập dồn. A Tuyết như chìm đắm trong cơn mơ mộng, bất luận mây núi tùng bách gì đều bỗng biến thành xa vời hư ảo.

Lương Tiêu không rỗi hơi mà bận tâm xem cô gái đang nghĩ gì. Gã chỉ một lòng một dạ tìm kế thoát hiểm nên tập trung tối đa sức lực cố gắng leo cao, thậm chí hai lòng tay đã trầy hết da, rướm máu, trét lên đá, lên dây leo mà gã cũng không cảm thấy.

Hạ Đà La không tài nào áp sát được, lại thiếu mất sức một cánh tay nên càng thêm chật vật. Hắn bò một lúc, ngước mắt nhìn thì thấy mấy trăm trượng trên kia nhẵn trơ, hệt như một mặt gương, lại thấy bóng Lương Tiêu mỗi lúc một xa, hệt như nhòa vào mây trời, hắn tức bầm gan tím ruột: “Tiểu tử này là khỉ vượn thành tinh chắc? Làm sao mà trèo nhanh như vậy?”. Lại cảm thấy cánh tay trái đau nhức lên từng hồi, xối vào tận óc, thầm biết nếu không tĩnh dưỡng thì sẽ để lại di chứng, mai sau không thể phát huy hết uy lực của võ công, dẫu bắt được Lương Tiêu đi nữa thì lợi bất cập hại, hắn bèn tính toán: “Sái gia hẵng tạm náu nơi sườn núi, đợi trị thương xong lên bắt chúng nó cũng chưa muộn”.

Hai canh giờ nữa trôi qua, cuối cùng Lương Tiêu cũng trèo tới đỉnh, tứ chi rời rã, liền ngồi phệt xuống đất thở hồng hộc như trâu. A Tuyết lấy khăn tay ra thấm mồ hôi cho gã, đoạn đưa mắt nhìn quanh. Đỉnh núi rộng không quá mười trượng, địa thế tương đối bằng phẳng, chính giữa có một cây tùng cổ thụ, cành lá uốn éo mềm mại, dáng dấp thanh thoát, tán tỏa bóng rợp đến nửa đỉnh, dưới gốc cây có một tảng đá lõm tích đầy nước, nước trong leo lẻo nhìn tới tận đáy, rêu mọc xanh rì.

Lương Tiêu không kịp ngó nghiêng, lập tức vươn đầu ngó xuống, dưới thấp Hạ Đà La đang dùng một tay hai chân nhúc nhắc trườn lui. Lương Tiêu thoạt tiên kinh ngạc, rồi sực đoán ra nguyên cớ, gã yên yên dạ, bảo A Tuyết:

- Tên ác ôn kia tạm thời chưa lên đây, chúng ta theo mặt sau lần xuống thôi.

Gã kéo A Tuyết vòng sang mặt bên kia, nhưng thất vọng tràn trề, bởi ba bề núi đều là vách đá cheo leo, khúc khuỷu gập ghềnh hơn hẳn mặt trước, thậm chí so với chúng thì lối hai người vừa lên có thể coi là đường lớn bằng phẳng thênh thang.

Lương Tiêu ngao ngán ngồi bịch xuống, A Tuyết cũng lặng lẽ ngồi kế bên.

Hai người trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu chợt bảo:

- Phải lột vỏ cây bện dây mà xuống.

A Tuyết bảo:

- Ca ca mệt quá rồi, nghỉ một chốc nữa cũng được.

- Chỉ sợ thời gian không đợi chờ, vết thương ở vai tên kia mà bình phục thì hắn lên đây không khó khăn gì đâu.

A Tuyết cũng vô kế khả thi, đành gật đầu.

Sau chuyến tránh nạn chật vật, hai người đều mệt rũ, bèn tựa gốc cây tùng thiếp đi. Một lát sau, Lương Tiêu choàng tỉnh trước, cảm thấy gió chướng căm căm từ phía đông cuộn tới, lạnh cắt da cắt thịt, gã bất giác so vai rụt cổ, nhìn xuống thì thấy A Tuyết vẫn chưa tỉnh, người co quắp, áng chừng rét lắm. Lương Tiêu cởi áo đắp lên mình cô rồi ngồi quay lưng ra đầu gió.

Gã ngắm người con gái, thấy hàng mày thanh nhíu khẽ như vương sầu, bất giác xót xa trong dạ: “Từ ngày theo ta đến nay, muội thường phải lo lắng sợ hãi, chẳng mấy khi được yên ổn…”.

Lương Tiêu đang tự oán trách, chợt nghe A Tuyết gọi khẽ “ca ca”, gã cúi xuống nhìn kỹ, thấy hai mắt cô vẫn nhắm nghiền, chắc là nói mớ. Lương Tiêu thương xót vô cùng, lại thấy khóe mắt cô ứa lệ, đôi môi bặm bặm, lẩm nhẩm:

- Trăng cong gợi hàng mi, Khi nào đầy ai biết, Hồng đậu chẳng dám nhìn, Sợ mắt nàng hoen ướt. Tần ngần bổ quả đào, hạt tựa tim da diết. Hai đóa hồng chia xa, rồi sẽ thôi ly biệt…

Giọng A Tuyết tuy nhỏ nhưng rất rõ, từng lời từng chữ đều gõ mạnh vào trái tim Lương Tiêu. Mấy năm trước ở Thiên Viên Địa Phương, khi đọc bài tiểu lệnh này lần đầu, gã vẫn chưa thấm thía ý vị ai sầu ẩn sâu trong từ ngữ, đến nay, sau bao nhiêu trải nghiệm và thời gian, cuối cùng gã cũng thẩm thấu được đôi chút. Khi chia xa người thương, lòng nhung nhớ khiến ta nhìn đâu cũng thấy bóng hình nàng, chẳng dám ngắm trăng, ngại trăng cong gợi nhớ hàng mi dày, chẳng dám ăn hồng đậu, ngại nhớ đôi mắt nhòa lệ ướt, chẳng dám bổ đào, ngại trông thấy nhân hạt giống trái tim thổn thức. A Tuyết theo hầu Hàn Ngưng Tử đã lâu, hẳn nghe ngâm bài từ nhiều lần đến mức ghi sâu vào tâm khảm, bình thời không nói, đến khi mơ ngủ mới thốt ra.

Có lẽ cô đang nằm mộng thấy chuyện gì thương tâm lắm, lẩm nhẩm xong bài từ thì nước mắt đã vòng quanh. Lương Tiêu ngắm A Tuyết, một nỗi ăn năn bỗng nghẹn đầy lồng ngực. Gã bẩm sinh nhạy bén, làm gì không nhận ra tâm tư của người con gái, chỉ hiềm bấy nay không sao quên lãng được hình bóng Liễu Oanh Oanh nên nửa như vô tình nửa như cố ý né tránh tình cảm của A Tuyết. Bây giờ ngẫm lại, mối si mê của thiếu nữ ngây ngô này đối với gã chẳng khác nào dây trầu không cuốn thân cau, dẫu khô vàng úa héo cũng quyết không xa lìa.

Lương Tiêu nghĩ: “Ta đánh Tống là sai, lưu luyến Liễu Oanh Oanh có lẽ cũng sai nốt. Cô ta vừa gặp Vân Thù đã xiêu lòng, cớ gì ta phải bịn rịn mãi không quên?”. Nghĩ tới đây, cái bóng xanh thướt tha trong đáy tim gã bỗng nhòa đi, Lương Tiêu cúi đầu ngắm A Tuyết, lòng chớm rung động.

Khi A Tuyết mở bừng mắt thì gặp ngay cái nhìn thiết tha của Lương Tiêu. Cô không hiểu vừa xảy ra chuyện gì, chỉ biết mặt mình nóng lên, và tim đập hồi hộp trước ánh mắt ấy. Thoáng thấy khóe mắt gã dường vương ngấn lệ, cô hốt hoảng hỏi:

- Huynh khóc đấy à?

Lương Tiêu cau mày:

- Hỏi ngốc, ta khóc hồi nào? Chính muội khóc ấy.

A Tuyết giật mình hồi tưởng những cơn mộng mị, đoạn ngượng ngùng nói lảng đi:

- A, còn phải bện dây nữa đúng không?

Lương Tiêu sực nhớ, kêu lên:

- Trời ạ, ta quên béng đi mất!

Hai người lập tức tước vỏ cây bện thừng. Cây tùng lâu đời, vỏ và cành rắn đanh, may mà Ảo Nguyên kiếm khá sắc mới róc được. Tuy vậy công việc tiến triển khá chậm chạp, đến tận chập tối, họ mới tết được đoạn dài chừng một trượng. Hai người bận rộn làm đến tận đêm khuya rồi díp mắt ngủ thiếp đi.

Gần sáng, chợt nghe có tiếng chí chóe huyên náo từ vách đá cao hơn vọng xuống, Lương Tiêu và A Tuyết bàng hoàng choàng tỉnh, ngước mắt nhìn, thảy đều biến sắc. Vô số chim sẻ đang ràn rạt bay xuống, xoay tít mù như cơn lốc trên tán cây tùng.

Tiếng cười tựa kim khí của Hạ Đà La lan đi trong không khí, vọng tới chỗ họ:

- Hảo đệ đệ, hảo muội muội, các ngươi xuống núi cho mau! Kẻo ta phát hiệu lệnh thì các ngươi sẽ thành bữa điểm tâm cho đàn sẻ đó đấy, ha ha…

Giọng hắn không to, nhưng sử dụng thủ pháp thiên lý truyền âm nên nghe rất rõ, Lương Tiêu bủn rủn cả người, vận đủ nội lực cười lớn:

- Ai làm món điểm tâm cho ai còn chưa chắc đâu!

Hạ Đà La loáng thoáng nghe thấy, thầm nhủ không hiển lộ uy phong thì khó mà đàn áp được hai kẻ cứng cổ này, bèn thổi điệu nhạc chim. Đàn sẻ theo hiệu vỗ cánh soạt soạt lao bổ xuống gốc cây.

Lương Tiêu ra dấu cho A Tuyết xích lại gần mình rồi vo nắm đấm nện vào thân cây tùng, quyền kình tới đâu, lá rụng rào rào tới đó. Lương Tiêu vỗ ra hai chưởng, chưởng trước là cương kình, chưởng sau là nhu kình, hệt như cánh cung vô hình đón lấy màn lá tùng làm tên mà bắn ra ào ạt.

Đàn sẻ bị tiếng tiêu của Hạ Đà La sai khiến, mất hết cả thần trí, chỉ biết sấn sổ lao vào, không biết né tránh. Ngay tức khắc, loạt đầu tiên bị lá tùng bắn xuyên thân, rơi lộp bộp xuống đất, những con còn sống vẫn liều lĩnh công kích. Lương Tiêu đành liên tục bắn lá tùng, chỉ một lát sau, xác sẻ đã chất dày đỉnh núi.

Hạ Đà La những tưởng Lương Tiêu và A Tuyết sẽ chết khiếp vì đàn sẻ và mau chóng van xin đầu hàng, nào ngờ tấu nhạc vi vút hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, hắn chột dạ nhớ ra một chuyện, lập tức ngừng thổi, thét to lên rằng:

- Tiểu tử kia, ngươi biết dùng Bích vi tiễn phải không?

Lương Tiêu cười vọng xuống:

- Kể cũng không đần lắm nhỉ!

Hạ Đà La tức tối vô cùng. Bích vi tiễn chính là khắc tinh của trận pháp chim sẻ, ai mà ngờ Lương Tiêu đã luyện được. Hắn càng nghĩ càng đằng đằng sát khí.

Lương Tiêu đẩy lui được đàn sẻ, lại cấp tốc bện dây thừng, tiếc nỗi vỏ cây quá ngắn, nhiều lắm cũng chỉ được chừng mười trượng, huống hồ cũng không bền và dai đến mức gánh được thể trọng của hai người. Lương Tiêu cúi nhìn bốn phía, ngẫm nghĩ nếu chỉ có một thân một mình thì gã đã mạo hiểm trèo xuống, nhưng cách ấy không thực hiện được khi mang theo A Tuyết. Xuống núi thường khó hơn lên núi, gã bóp trán, lòng đầy ưu phiền.

Giữa trưa hôm sau, Hạ Đà La bỗng lại thổi tiêu, điều động đàn sẻ đến bay vần quanh đỉnh núi. Hắn đoán được dự tính của Lương Tiêu nên bày trận sẻ để phong tỏa hết mọi đường xuống. Nếu Lương Tiêu ngồi yên trên đỉnh núi thì còn dùng được Bích vi tiễn để phá trận, nhưng nếu gã tụt xuống theo vách núi thì bầy sẻ sẽ tập kích, bản lĩnh gã cao cường đến đâu cũng chỉ còn nước ngã lộn cổ. Kế bện dây leo hạ sơn vậy là không thể thực hiện được.

A Tuyết chỉ cần ở bên Lương Tiêu là đã hân hoan, chẳng hề bận tâm tìm cách thoát thân. Thấy sẻ chất đầy đỉnh núi, cô bèn nhặt một ít làm lông, dùng nước trong hõm đá rửa sạch, lại gom cành khô đánh đá nhóm lửa, xiên mười mấy con lên quay thơm lừng.

Khi sẻ chín, cô đưa cho Lương Tiêu một xiên. Lương Tiêu nếm thử, thấy thịt mềm vừa, lại thoang thoảng mùi gỗ tùng, bất giác tán thưởng:

- Khéo tay lắm.

A Tuyết rạng rỡ mặt mày, nếm thử một con:

- Không ngờ thịt sẻ ngon thế. Nhưng các thư thư nói, ăn thịt sẻ, khi cầm bút sẽ run tay. – Nói đoạn lại dàu dàu.

Lương Tiêu cười xòa:

- Miễn là muội chế biến thì dẫu toàn thân run bần bật, ta vẫn ăn sạch bách như thường.

A Tuyết cúi mặt, hai má thấp thoáng lúm đồng tiền:

- Vậy sau này muội sẽ thường xuyên quay sẻ cho huynh ăn.

Lương Tiêu thở dài:

- Không cần đến mức “thường xuyên”, chẳng qua hôm nay hoàn cảnh bắt buộc thôi.

Quay lại tình hình khó khăn trước mắt, Lương Tiêu nhăn nhó phiền não. Hồi tưởng cảnh Công Dương Vũ dùng diều thoát hiểm trên núi Thạch Công, gã thở dài nghĩ: “Đáng tiếc ở đây không dùng được cách ấy”.

Lương Tiêu buồn bã, niềm hứng khởi của A Tuyết cũng xẹp xuống. Cô ngây dại nhìn ra ngoài vực núi, ngắm bầy chim đang bay quần quanh rất tự do tự tại, trầm ngâm nói:

- Nếu chúng ta biến được thành chim thì hay biết mấy, dẫu cao dẫu xa đến đâu cũng có thể bay tới nơi.

Lương Tiêu nghe vậy, sực nảy ra một ý, nghiền ngẫm hồi lâu, gã vỗ tay cười lớn:

- Muội nói phải lắm, vậy chúng ta sẽ biến thành chim bay đi xa, để tên ác ôn kia không tài nào đuổi kịp nữa.

A Tuyết giương mắt nhìn gã đầy thắc mắc, Lương Tiêu mỉm cười:

- Muội còn nhớ con chim tre ta làm trước đây không?

A Tuyết nhìn gã cười cũng vui lây, gật đầu:

- Muội nhớ, chỉ cần xiết dây cót thật chặt là bay được, đáng tiếc chuyến này ra đi vội vội vàng vàng nên không kịp mang theo.

Lương Tiêu cười lớn:

- Không sao, ta sẽ làm một con to hơn để nó chở mình xuống núi.

Gã liếc mắt sang cây tùng già, ước lượng:

- Cây này là đủ gỗ dùng đây. – nói đoạn tuốt kiếm, ngắm nghía hồi lâu rồi ngậm ngùi. – Ảo Nguyên ơi Ảo Nguyên, mi vốn là một thứ binh khí lợi hại, đáng tiếc chủ nhân vô năng, đành để mi tủi phận làm rìu bổ củi. – Chợt thấy A Tuyết chắp tay sì sụp lạy cây tùng, gã ngạc nhiên hỏi. – Muội làm gì vậy?

- Muội đang nói với cây rằng: đại thụ ơi đại thụ, ngươi ăn sâu bám rễ ở đây suốt mấy trăm mấy ngàn năm, đáng tiếc huynh muội ta phải tìm đường sống nên đành hi sinh ngươi vậy. Ngươi có linh thiêng thì làm chứng, sau này nhất định ta sẽ thắp hương tế bái ngươi, cầu cho ngươi phiêu diêu về miền cực lạc.

Lương Tiêu sắp bật cười, chợt nhìn lại dáng vẻ cô đơn của cây tùng, bỗng không cười được nữa, tự nhủ: “Cỏ cây còn đáng thương huống hồ dân chúng thiên hạ, ta công thành phá lũy, tàn sát bao người còn ra thể thống gì?”.

Gã càng nghĩ càng buồn rầu, gắng trấn định tâm tư để vẽ sơ đồ chặt cây. Nhờ tiếp xúc với toán học phương tây, kiến thức về thuật cơ quan của gã càng thêm phong phú, so với con chim tre chế tạo dạo nào thì con chim gỗ tùng tinh xảo hơn nhiều. Lương Tiêu miệt mài thi công, đêm xuống cũng đốt lửa để làm, không hề ngơi nghỉ.

Sáng tinh mơ ngày thứ tư, gã đã hoàn thành con chim gỗ, hình dáng như chim ưng, tổng sải cánh dài cỡ ba trượng, chiều dài dọc thân là hai trượng năm thước, dưới bụng có lắp vòng xiết, đầu đuôi và hai cánh gắn bốn chiếc chong chóng, nối truyền động với hai tay quay ở mé trên. Phần đế đặt bánh xe tròn, dưới bánh xe đặt hai trục trượt làm đà cất cánh.

Chim gỗ tuy đã làm xong, nhưng hướng gió chưa ổn định nên không tiện cất cánh ngay, Lương Tiêu càng thêm chán nản. Tự cổ chí kim chưa ai bay bằng chim gỗ, chẳng may sơ suất, gã rơi xuống đất tan xương nát thịt đã đành, nhưng nếu A Tuyết có mệnh hệ gì thì dẫu xuống suối vàng gã cũng không nguôi hối hận.

Hạ Đà La ban ngày khóa kín mọi đường xuống núi, ban đêm thì chui vào hang vận công dưỡng thương. Nội công Bà La Môn của hắn cực kỳ thâm hậu, không cần thuốc thang mà đến đêm hôm thứ ba, vết thương ở vai đã khỏi. Ghét nỗi ban đêm trèo núi nhiều rủi ro nên hắn tạm nén lòng đợi trời sáng lại.

Mấy hôm nay, hắn đã hỏi thăm vài cư dân trong vùng, biết được ngọn núi này tên là Thiên Đô, với nghĩa “thiên tiên đô hội”, là ngọn hiểm trở bậc nhất trong bảy mươi hai ngọn của rặng Hoàng Sơn, từ xưa đến nay rất ít người leo được lên tới đỉnh. Hạ Đà La nghe kể nổi lòng hiếu thắng. Hôm sau, mới tờ mờ sáng, hắn đã lập tức rời sơn động, nội lực sung mãn, chân tay lành lặn, do đó cũng phấn chấn tinh thần, tay bám chân đạp, trèo băng băng lên vách núi.

A Tuyết giữ nhiệm vụ cảnh giới, không may sương mù và mây phủ che lấp tầm mắt nên cô không phát giác ra Hạ Đà La từ đầu, đến khi báo động được cho Lương Tiêu thì Hạ Đà La chỉ còn cách đỉnh hơn hai mươi trượng và vẫn nhảy như bay dọc vách đá. Gã thầm rủa: “Lão tặc đi nhanh thật!”.

Gió vừa lệch về hướng tây bắc, tuy vẫn chưa thích hợp lắm để cất cánh nhưng cũng chỉ còn cách thử mà thôi, Lương Tiêu bèn đỡ A Tuyết ngồi lên con chim, vặn tay quay, bốn chiếc chong chóng bắt đầu chạy ro ro, khuấy mù bụi đất trên đỉnh núi.

Lương Tiêu vung kiếm chặt đứt dây buộc ở đằng đuôi. Con chim trượt lọc rọc theo trục gỗ. Đến lúc thoát khỏi đầu mút, thay vì lượn lên khoảng không, nó bổ nhào xuống núi.

[1] Shiva Kundalini.

[2] Tức Yoga.

[3] Theo thuyết Long sinh cửu tử, rồng có chín con trai, ngoài bí hí ra còn tù ngưu, nhai xế, trào phong, bồ lao, toan nghê, bệ ngạn, phụ tí, ly hốt.

[4] Ngoài đồng hoang có con chương chết.

[5] Nàng rằng gà gáy.

[6] Lối tự xưng của đàn ông vùng Quan Tây thời Tống, Nguyên.

[7] Bài Tân Đài, thuộc Kinh Thi. Vệ Tuyên Công vốn đa dâm hiếu sắc, muốn cướp vợ của con trai nên dựng Tân Đài bên bờ Hoàng Hà để thực hiện ý định ấy.

Côn Luân

Thùy Thắng Thùy Bại

Sự việc xảy ra quá bất ngờ, A Tuyết hãi hùng nhắm chặt mắt, la lên thất thanh, Lương Tiêu cũng hoảng hồn tái mặt, kêu trời như bộng.

Hạ Đà La trèo lên rất nhanh, chỉ chớp mắt đã cặp đỉnh, xảy đâu gió rít mạnh trên đầu, gần như quạt hắn ngã nhào xuống núi. Tưởng Lương Tiêu thừa cơ từ điểm cao tập kích, Hạ Đà La hấp tấp vận lực đánh ra một chưởng, vì từ dưới đánh lên, để đảm bảo độ sát thương nên hắn dồn đủ mười thành nội kình. Chưởng phong mang sức nặng ngàn cân, hất đúng con chim gỗ khiến nó tà tà bốc cao. Bốn chiếc chong chóng quay ngược chiều gió, chim gỗ trĩu xuống một nhịp rồi bật lên, dừng giữa lưng chừng, cuối cùng lấy lại thăng bằng và bay đi.

Lương Tiêu thở phào nhẹ nhõm, cười vang:

- Hạ Đà La, đa tạ ngươi đã tiễn chân bọn ta!

Tên cao thủ vùng Tây Vực nằm bám vào vách đá, ngơ ngác nhìn theo hai người đang nương chiều gió bay xa dần, nét mặt sửng sốt, tay chân rụng rời, suýt nữa hắn lăn tòm xuống núi.

Từ khi cất cánh, A Tuyết vẫn nhắm nghiền mắt, mãi cho đến khi con chim thôi lắc lư cô mới định thần, hé mi nhìn ra, chỉ thấy trước mặt trập trùng những ngọn núi xanh cao vút, nắng ban mai nhuộm ánh hồng rực rỡ lên biển mây bồng bềnh. Xa xa, sông hồ lấp lóa như dát vàng khảm ngọc, uốn lượn qua muôn dãy đồi rặng núi rồi chảy tan vào biển lớn. Mấy hôm nay, tuy mắt đã quen với phong cảnh Hoàng Sơn, nhưng chưa bao giờ A Tuyết thấy vùng núi ấy tươi đẹp như lúc này.

Con chim gỗ xuôi chiều gió đưa hai người bay qua đỉnh Quang Minh, ngọn Liên Hoa, ngọn Thiên Đô và lần lượt chao qua sáu mươi chín ngọn còn lại trong dãy Hoàng Sơn. Gió mát lồng lộng thổi phồng tà áo, không gian bao la khiến tâm hồn thảnh thơi rộng mở, Lương Tiêu không kìm được lòng, liền vòng tay ôm A Tuyết. Cô gái ngả đầu vào ngực gã. Trong khoảnh khắc ấy, thân thể và trái tim họ như hòa làm một, mọi mối ưu phiền, mọi sự tranh đoạt trên đời đều nhạt nhòa tan loãng như mây khói xung quanh.

Gió nhẹ đưa chim gỗ ra khỏi vùng núi. Trải dưới đôi cánh nó lúc này là bình nguyên bao la với ruộng đồng mênh mang và đường sá bằng phẳng. Nhiều nông dân đang cày cấy, trông thấy con chim gỗ thì bỏ dở công việc, la ó chỉ trỏ hoặc chạy theo xem.

Lương Tiêu cúi xuống nhìn đồng bằng, thở dài ao ước:

- Giá được bay mãi thế này thì thích biết bao nhiêu!

- Phải lắm! – A Tuyết hưởng ứng ngay.

Lương Tiêu cười buồn, khi ngước mắt lên, nhận ra Trường Giang đang lấp lánh cuộn sóng phía trước, gã liền lay động tay quay. Con chim hạ dần về phía dòng sông, cuối cùng đáp xuống nước, bập bềnh trôi xuôi hạ du.

Lương Tiêu tháo cánh chim làm mái chèo, bơi rẽ về hướng bờ sông. Khi đặt chân lên nền đất cứng, hai huynh muội còn đứng lặng nhìn theo con chim gỗ cho tới khi nó trôi xa hẳn, lòng ngập tràn cảm giác nuối tiếc. Một lúc lâu sau, Lương Tiêu thở dài, dắt tay A Tuyết:

- Đi nào!

Cô gái ngước lên, ánh mắt họ giao nhau. Nhớ lại cảnh âu yếm trên cao lúc nãy, mặt hai người cùng nóng bừng. Lương Tiêu ngoảnh đầu đi, bồi hồi nhận ra rằng trong khoảnh khắc ấy, hình ảnh A Tuyết đã xâm chiếm toàn bộ tâm hồn mình. Gã liếc mắt nhìn trộm, thấy nàng đang chau mày cúi mặt, không hiểu nghĩ ngợi những gì, cảm thấy hơi ấm nơi bàn tay nhỏ nhắn thấm dần vào da thịt mình, gã bỗng xốn xang trong dạ, chỉ muốn ngửa mặt lên trời hú vang cho thỏa niềm thống khoái.

Hai người nắm tay đi về phía đông suốt một ngày thì đến đại doanh Kinh Khẩu. Lính gác trông thấy Lương Tiêu từ xa, vội cấp báo vào doanh. Cổng lớn lập tức mở toang, ba kỵ sĩ phóng thốc ra, chính là Thổ Thổ Cáp, Lý Đình và Nang Cổ Ngạt. Cả ba đều bận áo sô giáp trắng, nét mặt buồn đau.

Khi tới gần, Lý Đình nhảy xuống ngựa, ôm choàng lấy Lương Tiêu khóc lạc cả giọng. Lương Tiêu đoán hiểu tất cả, muốn nói nhưng họng nghẹn ngào, đành chỉ vỗ vỗ vai gã. A Tuyết ngạc nhiên:

- Xảy ra chuyện gì thế Lý Đình? Vương Khả đâu?

Lý Đình rùng mình, nước mắt vòng quanh, môi run run nhưng không thành tiếng. Thổ Thổ Cáp buồn bã đáp:

- Vương Khả tử trận rồi!

A Tuyết máy môi, nước mắt dâng ngập mi rồi chảy ròng ròng xuống hai má. Thổ Thổ Cáp nghiến răng kể:

- Lương Tiêu bỏ đi mà không báo một lời, A Truật đại nhân giận lắm, trách ngươi là đồ vô kỷ luật. Ta nghe chướng tai, bèn bảo dẫu thiếu ngươi thì chúng ta cũng chẳng thua được nào! A Truật nói ngay: “Việc quân không phải chuyện chơi, ngươi đã chắc chắn như vậy thì khi khai chiến, các ngươi làm tiên phong, thắng là công lao các ngươi, thua là tội của Lương Tiêu, ta sẽ nghiêm trị hắn”. Chỉ lát sau, quân Tống hạ chiến thư khiêu khích, đại nhân kéo quân ra nghênh địch. Trận pháp đối phương vô cùng lợi hại, bên ta tổn thất khá nặng. Vương Khả liền đề xuất: “Chúng ta chết cũng không sao, quyết không được để liên lụy đến Lương đại ca”. Thế là hắn rủ Lý Đình dẫn một đội thuyền chất đầy hỏa khí lao vào giữa trận quân Tống, ta và Nang Cổ Ngạt bọc quân yểm hộ hai cánh. Không may Lý Đình bị địch nhân cầm chân ngang đường, Vương Khả bèn đốt luôn thuyền hắn rồi luồn thẳng vào tâm trận địch. Hỏa khí bắt lửa phát nổ, thiêu rụi ngay mười mấy chiếc tàu lớn của quân Tống, kế đó được hướng gió đông nên liên tục lan rộng, khiến mấy trăm dặm thuyền chiến của chúng đều cháy thành than… – Thổ Thổ Cáp nấc nghẹn, chua xót kết thúc. – Quân Tống đại bại, nhưng Vương Khả không quay về nữa, ngay cả thi… thi thể cũng chẳng thấy đâu.

Lý Đình khóc đến lả cả người, khi Thổ Thổ Cáp dứt lời, qua làn nước mắt nhòe nhoẹt, gã nhìn sang Lương Tiêu, thấy gã này cũng đứng như hóa đá, bèn nói:

- Lương đại ca! Nhất định huynh phải trả thù cho Vương Khả, chính mắt đệ chứng kiến tên họ Vân đứng hò hét chỉ huy trong hàng quân Tống. Trước kia thì hắn hãm hại Triệu San, Dương Giác, hôm nay lại đến lượt Vương Khả. Đệ… đệ không đội trời chung với hắn…

Lương Tiêu bỗng rùng mình, hộc ra một ngụm máu, Lý Đình hốt hoảng:

- Huynh sao thế?

Lương Tiêu quệt máu, ngước mắt lên vòm không xám xịt, lầm bầm:

- Sinh con trai phải đâu là tốt, con gái kia mới thực cát tường…

Lý Đình nghe lời lẽ quái lạ đâm rợn người:

- Huynh vẫn tỉnh táo đấy chứ?

Lương Tiêu gạt gã ra, sải bước vào doanh, giọng thảm não:

- Gả chồng cứ chọn tiện đường, con trai đành đoạn sa trường vùi thây. Người có thấy ở miền Thanh Hải, xương chất chồng hỏi mấy ai gom. Hồn ma cũ mới khóc om, trời sầu đất thảm âm âm tiếng hờ.

Mọi người đứng sững, nhìn theo bóng gã khuất dần trong khu lều trại.

Lý Đình gắng vắt óc đoán hiểu ý nghĩa của mấy câu vừa rồi, chợt một tia hồi ức xẹt qua tâm trí. Dạo lên đường tòng chinh, Lương Tiêu đã từng đọc bài thơ này, nào ngờ lời thơ ấy ứng vào bọn họ như một câu sấm nghiệt ngã. Bốn người bạn thân háo hức cùng nhập ngũ, chưa tới Lâm An đã chỉ còn sót mỗi một người. Càng nghĩ, gã càng không cầm được nước mắt, lòng đau như dao cứa.

Trong cuộc chiến Kinh Khẩu, thủy quân Tống tổn thất hơn một vạn thuyền chiến. Lâm An được tin, cả triều đình bàng hoàng thảng thốt. Cùng lúc bên nhà Nguyên, vua quan cũng đang xôn xao tranh cãi xem có nên tiếp tục diệt Tống hay không, vừa hay tin báo tiệp ở Kinh Khẩu bay về, Bá Nhan mừng rỡ dâng biểu: “Sau chiến dịch này, Đại Tống đã hao tổn nguyên khí, cạn kiệt sức lực, phòng thủ mà không giữ được, việc lấy tiểu thành Lâm An dễ dàng khác nào lấy đồ trong túi. Trời đang phù hộ chúng ta, đất đai vạn dặm của Đại Tống chính là cơ nghiệp ngàn đời của bệ hạ”. Hốt Tất Liệt đọc xong tấu chương, bất chấp chiến sự miền tây, lập tức phong Bá Nhan làm Hữu thừa tướng, A Truật làm Tả thừa tướng, Lương Tiêu làm Bình chương chính sự, hạ chỉ cất quân xuống nam tiêu diệt Đại Tống.

Bá Nhan trở về đại doanh, ra lệnh cho A Truật tiếp tục vây hãm Dương Châu, lại cắt Lương Tiêu làm tiên phong kéo quân xuống Thường Châu.

Thường Châu vốn là căn cứ địa của Thần Ưng môn. Sau khi Kinh Khẩu thất bại, Cận Phi và Vân Thù thu thập tàn binh quay về tổng đàn. Nghe tin quân Nguyên kéo xuống nam, hai người vào thư phòng mật đàm cả ngày mà không vạch ra được kế sách nào. Vân Thù ngồi thẫn thờ hồi lâu, chợt nói:

- Huynh đệ ta tử trận nơi sa trường đã đành, nhưng mẫu thân và tỷ tỷ thì tính sao đây? Văn nhi còn nhỏ, chẳng lẽ cũng phải tuẫn nạn vì đất nước à?

Cận Phi lắc đầu than:

- Sự bất đắc dĩ thôi!

Vân Thù cau mày:

- Theo đệ, nên bảo tỷ tỷ thừa lúc đêm xuống đưa mẫu thân và Văn nhi rời khỏi thành…

Cận Phi mắng:

- Vớ vẩn, chúng ta đang giữ trọng trách bảo vệ thành trì, lúc này lại lo di chuyển gia quyến riêng thì còn ra cái thể thống gì?

Vân Thù nhợt mặt, chưa kịp đáp lời thì cửa phòng kẹt mở, ánh sáng soi lên một lão phu nhân khuôn mặt đầy đặn, mái tóc muối tiêu, mình bận đồ sô gai. Sau lưng bà là một thiếu phụ chừng ba mươi tuổi, nét mặt nhang nhác Vân Thù.

Hai huynh đệ sửng sốt nhìn ra. Họ mải bàn bạc, lòng dạ lại ngổn ngang trăm mối nên không để ý rằng ngoài cửa có người. Cận Phi đứng bật dậy, thi lễ:

- Sư nương! – đoạn nhìn sang thiếu phụ. – Tiểu Tuyền!

Vân Thù cũng đứng dậy, cúi đầu trước hai người:

- Mẫu thân! Tỷ tỷ!

Vân phu nhân thong thả nói:

- Tình cờ đi ngang qua, ta đã nghe hầu hết những điều hai con thảo luận.

Giọng bà khản đặc, nhưng lời lẽ thốt ra rất rành rọt uy nghi, ánh mắt xoáy vào mặt Vân Thù:

- Lối suy nghĩ nhỏ nhen của con chẳng khác gì phường tự tư tư lợi như Giả Tự Đạo. Chẳng lẽ bao nhiêu đạo lý cha răn dạy, con đều bỏ ngoài tai hết cả rồi ư?

Vân Thù toát mồ hôi, khuỵu xuống run rẩy thưa:

- Hài nhi gánh nạn một mình đã đành, nhưng để liên lụy đến mẫu thân và tỷ tỷ thì thật không yên lòng.

Vân phu nhân thở dài:

- Nước non loạn lạc, việc nhà đáng chi? Bọn Thát xéo nát hàng vạn dặm giang sơn Đại Tống, tàn sát vô số gia đình, thêm một nhà họ Vân thì đáng kể gì? Ta không phải hạng đàn bà tầm thường, Tiểu Tuyền cũng rất hiểu đại cục. Ở Vân gia, đâu chỉ nam nhi mới biết điều trung nghĩa!

Giọng bà điềm đạm ung dung, Vân Thù nghe mà lòng đau như cắt, nước mắt lã chã tuôn rơi. Vân phu nhân thở dài, chìa tay ra đỡ Vân Thù dậy:

- Con có biết chữ “thù” trong tên con nghĩa là gì không?

- Dạ có, đó là chữ “thù” trong “đặc thù”.

Vân phu nhân gật đầu:

- Đúng, cha đặt tên ấy là mong con nổi bật hơn người, trở thành một đại anh hùng, đại hào kiệt khác hẳn số đông! Làm gì cũng ngó trước ngó sau thì đâu phải cốt cách của trang nam tử!

Vân Thù rùng mình, cúi đầu im lặng. Vân phu nhân ngoảnh lại hỏi Vân Tuyền:

- Văn nhi đâu con?

Vân Tuyền mỉm cười:

- Cháu đang luyện võ mẹ ạ!

Dứt lời, nàng đưa mắt nhìn Cận Phi. Hai người vừa là đồng môn, vừa là phu phụ. Cận Phi ngắm nàng, cảm thấy giữa lúc gian nguy này, mỗi ánh mắt nụ cười của thê tử đều đáng quý vô ngần, nhìn bao nhiêu cũng không đủ, bỗng lại nhớ rằng trong cuộc chiến sắp tới đây, tất cả chỉ có đường chết chứ không còn lối thoát nào nữa, y đau buồn khôn tả, cụp mắt xuống thở dài. Vân Tuyền nhẹ nhàng nắm tay Cận Phi, dùng đầu ngón tay viết nhẹ vào lòng bàn tay y: “Muội không sợ”. Cận Phi giật mình ngước lên, mắt ướt nhoèn.

Vân phu nhân vừa thong thả bước ra vừa bảo:

- Muộn rồi, các con đã vất vả suốt một ngày, mau đi nghỉ đi!

Vân Thù đưa mẹ về phòng xong, định quay về phòng mình thì nghe ngoài vách có tiếng binh khí va chạm, bèn đi vòng qua ô cửa tròn ra ngoài đình. Phong Miên đang cầm kiếm gỗ giao đấu kịch liệt với một thiếu niên sử thương. Sở Uyển chắp tay sau lưng đứng xem, thấy Vân Thù đến liền nhoẻn cười:

- Vân công tử!

Phong Miên muốn hiển lộ bản lĩnh trước mặt chủ, liền nhảy vụt ra sau hai thước, giả vờ sơ hở, dụ thiếu niên nọ xuất chiêu đâm mình. Khi thương đâm tới, Phong Miên vụt nghiêng người nắm lấy cán thương, giơ cao kiếm gỗ chém bộp xuống cánh tay đối thủ. Thiếu niên nọ đành thõng tay giật lui, tức giận thốt:

- Lại thua rồi! – Liếc thấy Vân Thù đứng sau, cậu kêu lên. – Cữu cữu, tại sao con toàn thua thế?

Vân Thù gắng tỏ ra bình thường, mỉm cười nói:

- Ai bảo trước đây con nghịch ngợm ham chơi, luyện công quấy quá!

Cận Văn níu lấy gã:

- Cữu cữu dạy con một ít bản lĩnh cấp tốc để con xung trận giết bọn Thát đi! – Nói đến ba chữ “giết bọn Thát”, mắt cậu bé rực sáng.

Vân Thù thầm thở dài, nhưng ngoài mặt vẫn gượng mỉm cười:

- Cấp tốc thì ta không dạy nổi.

Cận Văn bĩu môi:

- Hừ, cữu cữu hẹp hòi thế? – Cậu quay ngoắt sang Phong Miên. – Chúng ta đấu lại!

Hai bên hò hét, tiếp tục lao vào giao đấu.

Vân Thù theo dõi một lúc rồi bảo Sở Uyển:

- Lại đây, ta có chuyện muốn nói với cô nương!

Sở Uyển theo gã đi ra khỏi đình. Hai người im lìm dạo bước giữa những lùm cây bụi hoa, thình lình Vân Thù lên tiếng:

- Cô nên về nhà thì hơn!

- Vì sao? – Sở Uyển ngạc nhiên.

- Đang lúc nước sôi…

Sở Uyển không nghe hết, lập tức ngắt lời:

- Muội biết, nhưng muội không sợ! – Cô ta đăm đăm nhìn gã, ánh mắt long lanh, giọng dịu dàng. – Có huynh ở bên, muội không sợ gì hết!

Một cái bóng xanh bất thần lướt nhanh qua tim khiến Vân Thù bàng hoàng: “Sao ta lại nhớ tới nàng?”. Gã ngắm Sở Uyển, đau khổ nghĩ: “Sở cô nương cũng là một thiếu nữ tốt, nhưng… e rằng cả đời này, ta không bao giờ quên nổi người đó”. Trước ánh mắt trân trối của gã, Sở Uyển e lệ nhìn xuống, mặt đỏ như quả bồ quân.

Hai người đang lặng lẽ đứng bên nhau, chợt một a hoàn lao tới, kéo Vân Thù gọi giật giọng:

- Công tử ơi… nguy, nguy lắm…

Vân Thù ngạc nhiên:

- Nói chậm thôi nào Thư Mi!

A hoàn nuốt khan, òa khóc:

- Lão phu nhân… treo cổ tự tận rồi…

Hệt như bị sét đánh, Vân Thù giật lui, cơ hồ ngã phệt xuống. Sở Uyển vội giơ tay đỡ, gã thiếu niên chết điếng người, quáng quàng chạy vào phòng mẹ. Xác phu nhân vẫn treo lơ lửng giữa nhà, cổ thít một dây lụa bạch trắng như tuyết. Vân Thù lính quýnh đỡ mẹ xuống, đưa tay thăm mũi thì thấy đã tắt thở. Gã đau lòng quá độ, khóe mắt cay xè, những muốn khóc rống lên mà không sao bật được thành tiếng.

Chẳng biết ngồi thẫn thờ như thế bao lâu, chợt cảm thấy có người vỗ vai mình, Vân Thù ngước nhìn thì gặp ngay đôi mắt sưng húp của Cận Phi. Họ Cận trầm giọng bảo:

- Đại địch đang ở trước mặt, đệ hãy gắng kìm nén đau thương!

Vân Thù liếc ra sau y, chột dạ hỏi:

- Tỷ tỷ đâu rồi?

Cận Phi gục đầu:

- Nàng lừa lúc ta ra ngoài… đã nuốt vàng tự tận…

Y gắng sức nén tiếng thổn thức, nhưng không cầm được hai hàng lệ lăn dài trên má.

Cùng một lúc mất đi hai người ruột thịt, Vân Thù cứ ngồi bệt ra đất, đầu óc trống rỗng, không đứng dậy nổi mà cũng không nghĩ được gì nữa. Cận Phi nhác thấy trên bàn có tờ giấy hoa tiên liền cầm xem, trên đó viết bốn chữ tiểu khải: “Thà làm ngọc nát, còn hơn ngói lành”. Nét chữ thanh tú nhưng bút lực rất mạnh, hằn xuống cả mặt trái tờ giấy, Cận Phi nhận ra thủ bút của Vân phu nhân thì xót xa quá độ, nước mắt chứa chan.

Phương Lan lặng lẽ đi vào, nhìn hai người một lát rồi thở dài:

- Bọn Thát đã đến!

Hai huynh đệ cả kinh, vội kìm nước mắt chạy ra khỏi phòng, lao lên đầu thành. Trên cao, vòm trời bao la xanh ngắt không một gợn mây, dưới thấp, quân Nguyên rục rịch tiến đến, người ngựa dày đặc trên bình nguyên, nhìn không thấy đâu là cùng.

Đột ngột, quân Nguyên ngừng bước tiến, một kỵ sĩ tách tốp phi lên. Cận Phi cười nhạt:

- Định dụ hàng chứ gì?

Y khua tay. Ở các lỗ châu mai, cung nỏ đều kéo căng, chỉ đợi người nọ đến chân thành là bắn hắn thành nhím luôn.

Kỵ sĩ kia phi ngựa rất nhanh, trong thoáng chốc đã tới gần, Vân Thù nhận ra Lương Tiêu, lòng bừng bừng căm giận. Lương Tiêu đến cách thành một ngàn bộ thì gò cương, giơ cao hoa thương, ngửa mặt nhìn lên gọi:

- Có Vân Thù ở đó không?

Vân Thù hỏi to:

- Ngươi đến chiêu hàng à?

Lương Tiêu từ tốn nói:

- Không, ta đến khiêu chiến. Mong ngươi ra đây cùng ta quyết một trận đơn đả độc đấu. Nếu ngươi chết vì tay ta thì từ nay Lương Tiêu sẽ vĩnh viễn cao chạy xa bay, rút lui khỏi mọi cuộc chinh chiến. Nếu ta chết vì tay ngươi thì càng không còn gì phải bàn nữa.

Vân Thù nghe mà nóng máu, định nhận lời ngay, Cận Phi vội can:

- Kẻ này ngụy kế đa đoan, nhất định có âm mưu gì đây, đệ đang mang trọng trách giữ thành, không được khinh suất xuống đó.

Vân Thù sững người, cúi đầu im lặng. Lương Tiêu đứng đợi hồi lâu, không thấy động tĩnh gì bèn sốt ruột gọi:

- Vân Thù!

Vân Thù nhăn mặt chực lao xuống, Cận Phi nhoài theo kéo lại:

- Đừng trúng kế khích tướng của hắn!

Vân Thù đành nghiến răng nén chịu. Gọi liền ba lần mà trên thành vẫn lặng ngắt như tờ, Lương Tiêu hậm hực quay ngựa trở về, cho quân hạ trại ngoài thành, từ hôm ấy tâm trạng buồn chán, ngày nào cũng say sưa chè chén với Trung Điều Ngũ Bảo. Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt và Lý Đình không hiểu ra sao, mà cũng không dám giục gã công thành, vì hễ hỏi đến là Lương Tiêu nổi cáu. A Tuyết thấy đại ca nát rượu như thế thì buồn lắm, khổ nỗi không giỏi khuyên nhủ, cô đành an phận túc trực thường xuyên bên cạnh để lau rửa chăm sóc cho gã.

Sáu ngày sau, Bá Nhan tới Thường Châu. Chứng kiến cảnh bê tha ấy, y nổi trận lôi đình, nhưng thấy Lương Tiêu say đến nỗi thậm chí không nhận ra mình là ai, y tạm thời hoãn xử phạt, thay Lương Tiêu đích thân điều động binh mã tấn công thành trì. Thường Châu thành cao hào sâu, Vân Thù lại giỏi phòng thủ, quân Nguyên tấn công hơn mười ngày mà không có cách nào phá hạ, ngược lại còn tổn thất rất nhiều.

Triều đình Tống nghe tin liền phái viện binh tới, khốn nỗi mới đến Ngu Kiều thì đã bị quân mai phục của Thổ Thổ Cáp đánh tan tác. Tháng thứ hai, Lý Đình phá hủy được tàu bè hộ thành của Thường Châu.

Nang Cổ Ngạt đắp đài cao ngoài thành, đưa thang mây áp sát tường lũy để một vạn bộ binh Nguyên triều đột nhập Thường Châu.

Quân Tống rút vào nội thành, vừa đánh vừa lui. Vân Thù đoạn hậu, múa song kiếm tít mù. Quân Nguyên cứ ùn ùn đổ vào. Được một hồi, Cận Phi thấy tình thế khó bề cứu vãn bèn quay sang túm vai Vân Thù bảo:

- Ta ở đây đương cự, đệ dẫn binh mã phá vòng vây phía nam mà chạy đi.

Vân Thù sửng sốt:

- Huynh nói gì vậy?

Cận Phi xẵng giọng:

- Đệ đã quên phải báo thù cho sư phụ rồi sao?

Vân Thù sững người. Cận Phi nghiêm mặt nói:

- Sư phụ lẫy lừng danh hiệp một thời, cuối cùng tính mệnh tiếng tăm thảy đều bị hủy trong tay Tiêu Thiên Tuyệt, thù cha chưa báo, đệ đâu được phép chết! Tài trí võ công đệ đều trên ta gấp trăm lần, hãy bảo toàn mạng sống để mai sau tiếp tục giao chiến với quân Thát.

Vân Thù vùng khỏi tay y, tức giận phản đối:

- Đệ thà tử trận chứ không bỏ trốn.

Cận Phi kề đao vào cổ mình, trừng mắt:

- Được lắm, nếu đệ không đi, ta tự tử ngay cho đệ xem!

Vân Thù choáng váng nhìn sư huynh, hai mắt đỏ hoe. Cận Phi đâm phập đao xuống đất, nắm lấy vai gã, ôn tồn bảo:

- Sư nương dùng cái chết để gửi gắm Thường Châu lại cho chúng ta, vì vậy ta quyết phải giữ thành đến cùng, nhưng cái chí đuổi man di của sư phụ cũng không thể bỏ lửng ở đây được. Đệ phải gánh lấy cái chí ấy, còn di ý của sư mẫu ta sẽ thực hiện trọn vẹn.

Vân Thù ngơ ngẩn đưa mắt nhìn Phương Lan. Lão già vuốt râu cười lớn:

- Tiểu tử ngốc nghếch, khỏi cần bận tâm đến ta, mau đi đi!

Vân Thù nghẹn ngào:

- Phương lão tiền bối…

Phương Lan xua tay:

- Thân này sắp xuống lỗ rồi, chẳng thiết chạy đâu nữa. Nếu hôm nay con phá được vòng vây, mai sau nhớ gắng sức giết thật nhiều lính Thát thay ta là được. – nói đoạn cười ha hả, giọng cười hào sảng là thế mà vẫn không che giấu được ý vị thê lương.

Vân Thù đang nghẹn ngào, Cận Văn đã dắt ngựa ra. Vân Thù nghiến răng đón lấy dây cương, nhảy phắt lên yên, thình lình ngoái lại tóm Cận Văn kéo lên cùng. Cậu bé bị điểm vào huyệt Khí hộ ở thắt lưng, không cựa quậy gì được. Cận Phi chưa kịp ngăn cản, Vân Thù đã giật mạnh cương. Tuấn mã tung vó phóng vút đi xa. Cận Phi thẫn thờ nhìn theo sư đệ, nước mắt ướt đẫm hai má.

Vân Thù dẫn quân đánh thẳng ra ngoài thành, Lý Đình nôn nóng báo thù nên ráo riết đuổi theo, tới Ngu Kiều thì bắt kịp. Hai bên lao vào chiến đấu kịch liệt, Vân Thù đại hiển thần uy, tung hoành xông xáo giữa trận địch, chém giết vô số rồi dẫn hơn một trăm binh lính sống sót xé trùng vây lao đi.

Hai bên chạy đuổi hơn một trăm dặm nữa. Thổ Thổ Cáp cũng dẫn thiết kỵ Khâm Sát đuổi theo hỗ trợ, ngựa phóng nhanh như gió, tên tới tấp như mưa. Quân Tống ngã nghiêng ngã ngửa, khi cặp bến Bình Giang thì chỉ còn mười kỵ mã, sông sâu trước mặt, kẻ địch sau lưng, quả thực tiến thoái lưỡng nan!

Vân Thù đã trúng mấy mũi tên, máu nhuộm ướt cả giáp sắt. Khi chạm bờ sông, gã không chần chừ nhiều, ôm chặt lấy cháu rồi hú vang, giật ngựa chồm dậy, lao vút xuống sông như mũi tên. Đám tàn quân cũng nhất tề hò hét, nhảy ào ào xuống nước theo gã.

Khốn thay phần lớn bọn họ đều đã bị thương, sóng nước Bình Giang lô xô, chỉ thoáng cái đã nuốt chửng hết người này đến người khác, duy chỉ có Vân Thù nhờ nội công thâm hậu nên cắp Cận Văn gắng sức đạp sóng bơi được sang bờ bên kia.

Quân Nguyên đuổi đến bờ sông. Thổ Thổ Cáp giương cung. Tên vừa rời dây đã bị một ngọn roi quất tới cuốn lấy. Thổ Thổ Cáp ngoái đầu nhìn, kinh ngạc kêu lên:

- Lương Tiêu!

Gã Bình chương chính sự hồi sáng còn say khướt, bây giờ đã nhìn hắn bằng cặp mắt sáng quắc tỉnh táo. Thổ Thổ Cáp ngạc nhiên hỏi:

- Sao không để ta bắn?

Lý Đình cũng thắc mắc:

- Phải đó đại ca, hôm nay không báo thù, còn đợi đến bao giờ đây?

Lương Tiêu nhìn theo Vân Thù hồi lâu, lắc đầu thở dài:

- Hảo hán!

Mọi người ngơ ngác. Lương Tiêu giật ngựa quay về, vừa thả nước kiệu vừa nói to:

- Hắn thà chết không khuất phục, chẳng phải hảo hán hay sao? Hảo hán như thế, ta muốn cùng quyết bề sinh tử chốn sa trường chứ không đời nào lợi dụng cái khó của hắn mà bắn hạ bằng cung nỏ!

Bọn Thổ Thổ Cáp đều đã từng giao thủ với Vân Thù, ít nhiều đều bội phục bản lĩnh của gã, nghe Lương Tiêu nói vậy thì không phản đối, cũng không gạn hỏi gì thêm nữa.

Vừa lúc ấy, một viên Bách phu trưởng giải tù binh đến. Lương Tiêu đưa mắt nhìn, nhận ra Sở Uyển và Phong Miên, cả hai đều trúng tên, đang vịn vào nhau chệch choạc bước đi.

Bách phu trưởng nói:

- Tôi phát hiện hai đứa này bị thương núp bên đường.

Sở Uyển trừng trừng nhìn Lương Tiêu, đôi mắt đẹp bắn ra đầy oán độc. Phong Miên chu môi nhổ nước bọt vào gã, nhưng bị thương yếu sức nên chỉ nhổ được tới vó ngựa mà thôi. Một tên lính đứng bên vụt giơ đao chém tên oắt to gan. Lương Tiêu liền quất roi cuốn phăng đại đao của hắn đi. Tên lính sợ sệt lùi lại sau. Lương Tiêu dặn viên y quan:

- Trị thương cho họ, không được ngược đãi.

Y quan vâng mệnh, rút mũi tên, bôi thuốc và băng bó vết thương cho hai tù binh.

Vân Thù gắng sức vượt sông lên tới bờ, hai cậu cháu dìu nhau mà đi. Sau một trận khổ chiến, họ đều đã sức cùng lực kiệt. Chật vật đi được một quãng, Cận Văn mất máu nhiều quá, ngã vật ra đất, Vân Thù cũng bị kéo ngã theo, tuyệt vọng nghĩ: “Chẳng lẽ chúng ta lại bỏ mạng ở đây?”. Thình lình có tiếng vó ngựa lộp cộp, Vân Thù ngoái đầu nhìn thì thấy nhiều bóng người lố nhố trong đêm, không rõ là bao nhiêu người.

Vân Thù gượng dậy thét to, múa thanh kiếm đâm túi bụi về phía toán người, nào ngờ mới chạy được mấy bước đã quíu chân ngã bẹp xuống, góc trán va phải một tảng đá xanh, hai mắt tối sầm, loáng thoáng nghe thấy tiếng đàn bà kêu lên, rồi đầu óc trống rỗng, ngất lịm đi.

Lương Tiêu dẫn quân quay về Thường Châu, đi được nửa ngày đường thì trông thấy bóng vọng gác in lên nền trời. Nang Cổ Ngạt phi như bay ra đón họ, mặt mày rạng rỡ. Lương Tiêu hỏi han tình hình trong thành, Nang Cổ Ngạt hớn hở kể:

- Bá Nhan đại nhân nói Thường Châu đã làm chúng ta tổn thất rất nhiều binh tướng, phải dạy cho bọn chúng một bài học, vì vậy đại nhân hạ lệnh “đồ thành”, giết sạch từ trên xuống dưới, gà chó cũng không tha. – Hắn cười vang khoái trá, chợt nhận ra mặt Lương Tiêu trắng bệch thì lo lắng hỏi. – Ngươi bị thương ư?

Lương Tiêu vụt túm lấy ngực Nang Cổ Ngạt, nhấc bổng hắn lên khỏi yên, gằn giọng:

- Bá Nhan hạ lệnh đồ thành?

Gã túm rất chặt, Nang Cổ Ngạt tắc khí không nói được, chỉ trả lời bằng cách gật gật đầu. Lương Tiêu lăng tay một cái, Nang Cổ Ngạt ngã ngửa xuống, suýt nứt xương sống.

Lương Tiêu quất ngựa phi nước đại vào thành, chạy quanh một vòng. Không còn một người Tống nào sống sót, chỉ thấy nhiều tốp lính Nguyên mắt đỏ ké, hò hét chém giết. Bọn Thổ Thổ Cáp chạy theo sau, thấy Lương Tiêu phi ngựa lang thang đã lâu, định gọi lại thì bỗng Lương Tiêu giật ngựa quay đầu, phóng nước đại ra khỏi thành, quay về đại doanh.

Phi một mạch tới trướng soái, gã nhảy phắt xuống ngựa, sải bước chạy vào, mấy tên thân binh không ngăn cản kịp, bị gã đấm nhát một ngã nhào hết cả. Bá Nhan đang dùng bữa, ngước lên chưa kịp hỏi han gì thì Lương Tiêu đã vung chưởng phải tát thẳng vào mặt y. Bá Nhan hoảng hồn giơ tay đỡ, chợt nơi ngực tắc nghẹn, hóa ra đã bị chưởng trái của Lương Tiêu khống chế rồi.

Bá Nhan vừa sửng sốt vừa tức giận. Nhưng từng trải trận mạc đã nhiều, y không biểu lộ gì, chỉ nghiêm khắc hỏi:

- Ngươi định tạo phản à?

Lương Tiêu nghiến răng, hai mắt trợn to như muốn nứt:

- Ông hạ lệnh đồ thành?

Bá Nhan cau mày:

- Thế thì sao? Thường Châu khiến chúng ta hao binh tổn tướng quá mức, nếu không trừng trị làm gương thì các thành trì khác cũng bắt chước cứng đầu cứng cổ theo, khi nào mới đến được Lâm An?

Lương Tiêu nhổ phì phì, giọng tức giận:

- Trên chiến trường, kẻ chết người sống là sự thường. Chém chết tướng sĩ thì còn đi một nhẽ, nhưng dân chúng trong thành tay không tấc sắt, ông đuổi tận giết tuyệt như thế, thử hỏi tinh thần anh hùng ở đâu?

Bá Nhan cười nhạt:

- Người trong thiên hạ, ai chẳng là máu thịt do cha mẹ sinh ra, ai mà chẳng có anh em vợ con? Cùng là sát nhân thì giết binh tướng hay dân thường cũng có gì khác nhau? Trước đây ngươi đã tàn hại bao nhiêu người, sao hôm nay bỗng đổi dạ nhân từ như đàn bà thế? Khi đánh trận, tướng quân là nông phu, tất cả số còn lại là lúa đồng. Ai gặt lúa nhiều hơn, nhanh hơn thì kẻ đó là danh tướng!

Y nói gay gắt, sắc mặt nghiêm nghị. Mỗi lời mỗi chữ đều như dùi nhọn xoáy vào trái tim Lương Tiêu. Gã khổ sở nghĩ: “Phải, đều là giết người thì có gì khác biệt đâu?”.

Lúc ấy, Thổ Thổ Cáp, Lý Đình và Nang Cổ Ngạt hớt hải kéo nhau vào trướng, thấy cảnh ấy đều kinh hãi khôn tả. Thổ Thổ Cáp thét:

- Lương Tiêu, ngươi điên rồi sao?

Nang Cổ Ngạt cũng khuyên giải:

- Mau buông Thừa tướng ra, Lương Tiêu!

Lý Đình nói như khóc:

- Lương đại ca, đừng làm chuyện dại dột!

Lương Tiêu nghe can gián, tinh thần bỗng bải hoải. Bá Nhan thừa cơ vùng ra. Lương Tiêu toan đuổi theo, nhưng Thổ Thổ Cáp đã bổ nhào đến giữ chặt gã, Lương Tiêu lấy lại tỉnh táo, thúc cùi chỏ trái vào đúng huyệt Kỳ môn của Thổ Thổ Cáp khiến tên này ngã bổ chửng. Nhưng chỉ một thoáng trùng trình đó đã đủ để Bá Nhan áp sát, vung tả chưởng chém xéo lên ngực gã. Chưởng lực hung mãnh khôn tả, đẩy Lương Tiêu bắn đi đến tám bộ. Hai gối mềm nhũn, gã ngồi phệt xuống đất, miệng ộc máu tươi, đám thân binh hò hét xông tới, ấn dúi gã xuống đất.

Bá Nhan dùng mu bàn tay lau mồ hôi trán, hỏi bằng giọng sắc lạnh:

- Ngươi biết tội chưa?

Lương Tiêu nghiến răng im lặng. Bá Nhan mắng:

- Ngươi vô lễ với thượng cấp, hành thích chủ soái, thực là tội to bằng trời. Có cho voi giày ngựa xéo cũng không quá đáng!

Thổ Thổ Cáp quỳ thụp xuống:

- Mong Thừa tướng khai ân, Thổ Thổ Cáp nguyện đem tất cả công lao đổi lấy tính mệnh Lương Tiêu.

Nang Cổ Ngạt cũng quỳ xuống:

- Tính khí Lương Tiêu xưa nay vẫn nóng nảy thẳng thắn, khẩn cầu thừa tướng cho chúng thuộc hạ đưa hắn về khuyên giải dần.

Lương Tiêu cau mày cáu kỉnh, Lý Đình hiểu rõ tâm ý của gã, bèn dập đầu van vỉ:

- Lương đại ca, đừng nói nữa, đừng nói nữa!

Gã dập đầu đến nỗi trán trợt cả máu. Lương Tiêu đâm mềm lòng, bao nhiêu lời nóng nảy đều nuốt ngược vào, ngước nhìn Bá Nhan, giọng đã hòa hoãn hơn:

- Tôi xông vào trướng uy hiếp ông là quấy! Nhưng ông hạ lệnh đồ thành là sai!

Bá Nhan vốn không nỡ xuống tay với viên ái tướng này, thấy gã biết điều ăn nói ôn hòa thì cũng ôn tồn bảo:

- Đồ thành đúng hay sai thì khoan bàn đến. Ngươi đã nhận lỗi, vậy ta hẵng nể mặt ba vị này mà tha cho ngươi một lần, lần sau còn tái phạm thì chém chết không bàn ra tán vào gì cả. – đoạn khoát tay. – Thả hắn ra!

Các thân binh vâng lệnh buông Lương Tiêu.

Lương Tiêu từ từ đứng dậy, Lý Đình định đỡ lấy gã, nhưng bị gã rảy ra. Lương Tiêu nén chịu nội thương, chậm rãi bước ra khỏi trướng. Bọn Thổ Thổ Cáp sợ gã lại gây chuyện nên đi theo xa xa đằng sau. Lương Tiêu về đến tận trướng mới ngoái đầu lại hỏi:

- Bọn tù binh đâu?

Thổ Thổ Cáp đáp ngay:

- Bọn họ được đối xử rất tốt, đúng như ngươi dặn.

Lương Tiêu bảo Lý Đình:

- Đưa họ ra đây!

Lý Đình phóng ngựa vào doanh, chỉ lát sau đã đưa bọn Sở Uyển ra. Lương Tiêu lặng im một thoáng rồi xua tay:

- Thả bọn họ!

Quân sĩ vâng lời tháo dây trói cho hai người, Sở Uyển không hiểu ra sao, hừ mũi rồi vênh mặt bước đi, Phong Miên cũng trừng mắt nhìn Lương Tiêu, nén đau tập tễnh theo sau Sở Uyển.

Lý Đình tức khí phản đối:

- Hai tên này là đồng bọn sát hại Tam Cẩu Nhi, không thả chúng được!

Lương Tiêu im lìm nhìn theo bóng Sở Uyển và Phong Miên mãi cho đến khi không còn trông thấy họ nữa mới hỏi:

- Các ngươi thử nói xem, chúng ta đánh nhau là vì cái gì?

Nang Cổ Ngạt, Lý Đình và Thổ Thổ Cáp nhìn nhau ngơ ngác. Sau một lúc ngẫm nghĩ, Nang Cổ Ngạt trả lời:

- Thì cũng như Thành Cát Tư Hãn nói đó, điều khoan khoái nhất trong đời nam tử là dẹp yên loạn lạc, chiến thắng địch nhân, đoạt của cải, cướp tuấn mã, bắt lấy thê thiếp của chúng.

Thổ Thổ Cáp phụ họa:

- Đúng vậy, Thành Cát Tư Hãn đã nói thì nhất định không sai đâu.

Lý Đình ngập ngừng một thoáng rồi cũng gật đầu tán đồng.

Lương Tiêu nhìn ba người bạn, ánh mắt lúc lóe sáng lúc tối sầm, đoạn buồn rầu ngó sang thành Thường Châu:

- Tàn sát quyến thuộc, phá tan nhà nát cửa, cưỡng bức vợ con và cướp đoạt những thứ người ta yêu quý, đó là chí hướng của các ngươi phải không?

Ba người bối rối nhìn nhau, Thổ Thổ Cáp ngập ngừng:

- Hình như ngươi có gì không ổn…

Lương Tiêu cười buồn, phất tay áo rồi lững thững bỏ đi.

Côn Luân

Tây Tái Long Ngâm

Thường Châu bị phá, Tô Châu và Hồ Châu trông gương tày liếp, lũ lượt treo cờ trắng đầu hàng. Mùa xuân năm sau, Thổ Thổ Cáp công phá Độc Tùng quan, mở đường cho đại quân Nguyên triều kéo vào Lâm An. Quan viên lớn nhỏ giẫm đạp lên nhau chạy trốn khỏi kinh thành. Tống đế và Tạ Thái hậu hết cách ứng phó, đành phái sứ nghị hòa nhưng bị Bá Nhan từ khước, không lâu sau cũng phải giao nộp ngọc tỉ truyền quốc, dâng biểu đầu hàng. Bá Nhan cất quân tới chân thành Lâm An, Tạ Thái hậu dắt ấu đế Triệu Hiển ra quy thuận. Vua tôi Đại Tống ngậm hờn nuốt lệ quỳ rạp trước vó câu Mông Cổ. Xảy đâu trời bỗng đổ cơn mưa phùn lắc rắc, phủ lên núi non đồng dã một tấm màn nước u ám mịt mờ. Bá Nhan xuống ngựa đỡ Triệu Hiển dậy, bất giác cảm thấy đắc ý vô cùng, không kìm được thống khoái phá lên cười ha hả. Mười vạn quân Nguyên hoan hô rầm rĩ phụ họa chủ soái. Quần thần Nam triều vừa khiếp hãi vừa thương thân, đôi hàng nước mắt đầm đầm như mưa. Người đương thời là Uông Nguyên Lượng có làm bài thơ than rằng:

Núi Tây Tái mặt trời chìm lấp,

Cửa Chính Bắc mưa bụi rắc rây.

Người bắc cười người nam nhỏ lệ

Đỗ quyên, ta vái một lạy này.[2]

.

Lương Tiêu theo đại quân xuống nam, chức là Bình chương chính sự, danh là phó soái toàn quân, thực chất chỉ ngất ngưởng với rượu, ngày nào cũng say ngả say nghiêng, chẳng có lấy một phen tỉnh táo.

Sáng hôm ấy, sau một đêm túy lúy, gã thức giấc với cái đầu đau như búa bổ. A Tuyết thiết tha nài gã ra khỏi doanh trại dạo chơi cho khuây khỏa, Lương Tiêu không nỡ làm cô mếch lòng, đành miễn cưỡng ưng thuận.

Hai huynh muội lỏng cương để ngựa đi tha thẩn ven hồ Tây Tử. Trước mắt họ là mây xám nhàn nhạt, khói sóng mênh mang, đình đài lầu các vẫn vẹn nguyên cảnh cũ, chỉ khác là thiếu tiếng cầm ca réo rắt, bặt hơi đàn sáo rộn ràng, xa xa sương mù giăng kín chân trời khiến không gian ảm đạm, che mờ cả đường nét hùng vĩ của núi Tây Tái.

Lương Tiêu ngắm Tây hồ, hồi tưởng buổi đầu gặp gỡ cha con Hoa Thanh Uyên. Lúc ấy gã và Hiểu Sương còn nhỏ, chưa hiểu chuyện đời, tính tình rất đỗi hồn nhiên, ngày nay cảnh sắc vẫn y nguyên mà sao tâm hồn không thể như trước nữa.

Lương Tiêu đương bồi hồi thương cảm, chợt nghe văng vẳng tiếng hồ cầm, giai điệu thảm não thê lương, liền đó có giọng ca hòa vào:

Chim chóc bay liền cánh,

Cây cỏ mọc liền cành,

Đáy nước từng đôi cá giỡn quanh,

Trên tổ uyên ương sánh,

Phố sá phồn hoa lấp lánh,

Thế gian thái bình.

Ngờ đâu nổi trận điêu linh,

Tây hồ tan vỡ mọi nhu tình.[3]

Khúc nhạc buồn nản nghẹn ngào, ngân nga hồi lâu không dứt.

Lương Tiêu thầm nhủ: “Chim chóc bay liền cánh,Cây cỏ mọc liền cành, Đáy nước từng đôi cá giỡn quanh, Trên tổ uyên ương sánh. Quả thực Tây hồ được tự nhiên ban cho nhiều vẻ phong lưu, dễ gợi hứng hưởng lạc. Trách nào vương công Đại Tống chẳng ham mê trác táng đến nỗi mất sạch tất cả, ngay cả Tây hồ cũng không giữ được. Giá dành một nửa thời gian vui thú xa hoa ấy vào việc trị quốc rèn thân thì làm gì đến nông nỗi này?”. Càng nghĩ càng u uất, gã tháo nậm rượu dốc một hơi cạn sạch.

Khi họ trở về doanh trại thì đã quá trưa, Bá Nhan cho người tới triệu kiến. Lương Tiêu bảo A Tuyết về trước rồi chậm chạp đi vào trung quân, mới gần tới trướng soái, đã nghe bên trong vọng ra nhiều tiếng nói cười nhộn nhạo. Trông thấy gã, Bá Nhan hồ hởi gọi:

- Đến đúng lúc lắm, mau lại chào mấy vị khách quý!

Đám người hiện diện trong trướng cùng ngoảnh ra nhìn.

Lương Tiêu đảo mắt một vòng, mặt tái hẳn đi. Người ngồi bên phải Bá Nhan là vương tử Thoát Hoan, bên trái là Hạ Đà La vận áo trắng phau. Mé dưới Thoát Hoan là một lão già tóc bạc áo vàng, chính thị Hoàng hạc Minh Quy. Mé dưới Hạ Đà La là một lạt ma áo vàng vai u thịt bắp, tướng mạo thô kệch đang xếp chân bằng tròn. Sau lưng bốn người này còn vài gương mặt khác mà phần lớn Lương Tiêu đều đã gặp qua, lần lượt là Cáp Lý Tư, Hỏa Chân Nhân, A Than tôn giả, cuối cùng là một lão già áo xanh lạ mặt, vóc người cao gầy, mặt mũi xương xẩu, thần thái ôn hòa. Lương Tiêu không ngờ những kẻ đối địch mình lại khéo chọn thời gian và địa điểm để hội tụ đến thế, bất giác tim đập thình thịch, mồ hôi đầm đìa, hơi rượu giã đi quá nửa.

Thoát Hoan nhận ra kẻ thù cũ, nét mặt thoạt kinh ngạc thoạt giận dữ, nhưng chỉ thoáng chốc đã làm ra vẻ tươi tỉnh:

- Lương Tiêu đây à? Quả là tuổi trẻ tài cao đúng như lời đồn nhỉ!

Hắn nghiến răng trèo trẹo khi nói ra bốn chữ “tuổi trẻ tài cao”, rõ ràng là thù hận chứ chẳng ngụ ý tán thưởng gì. Bá Nhan đánh mắt ra hiệu cho Lương Tiêu, đoạn vui vẻ giới thiệu:

- Vị này là Trấn Nam Vương Thoát Hoan, hiện đang tiếp quản Giang Nam.

Lương Tiêu vẫn đứng như bụt mọc, Bá Nhan cau mày:

- Gặp vương gia sao không hành lễ?

Lương Tiêu nhếch mép, ngước mắt nhìn nóc lều. Bá Nhan tuy bất hòa với Thoát Hoan nhưng cũng không muốn hắn phải bẽ mặt trước đông người, đang khó xử thì Thoát Hoan phẩy tay, nói cộc lốc:

- Thôi, ta và Lương đại nhân cũng là chỗ quen biết cũ, chẳng phải quỳ lạy làm gì cho nhiêu khê!

Bá Nhan mỉm cười, tận dụng câu đó để thoát khỏi tình thế lúng túng, lại trỏ Minh Quy:

- Đây là Minh tiên sinh, quân sư mới của Trấn Nam Vương. Tiên sinh túc trí đa mưu, học nhiều hiểu rộng.

Minh Quy hơi ưỡn mình lên, phác một điệu bộ như cười với Lương Tiêu, nhưng không tỏ tiếng nhận quen. Lương Tiêu ngạc nhiên tự hỏi, không hiểu tại sao lão già kiêu ngạo này chịu khuất thân làm đầu sai cho Thoát Hoan. Bá Nhan chìa tay về phía lạt ma áo vàng:

- Đây là Đảm Ba đại sư, đại đệ tử của Đế sư[4] đương triều Bát Tư Ba.

Lương Tiêu giật mình, Đảm Ba thì gã không biết, nhưng danh tiếng Bát Tư Ba thì gã đã từng nghe đến rồi. Thiên hạ đồn rằng người này bẩm sinh mẫn tuệ, mười sáu tuổi gặp Hốt Tất Liệt là được phong ngay làm Đế sư, quyền nghiêng một cõi, thanh uy hiển hách.

Đảm Ba chắp tay chào hỏi:

- Bình chương dụng binh như thần, danh thơm vang lừng đến cả triều ca, Đảm Ba kính ngưỡng đã lâu!

Lương Tiêu cúi mình đáp lễ, giọng bình thản:

- E rằng thiên hạ đồn đại quá lời!

Thoát Hoan thấy gã bái chào Đảm Ba mà không dập đầu lạy mình, bất giác hừ mũi tức giận. Bá Nhan toan dẫn kiến tới Hạ Đà La thì lão này đã đứng bật dậy, hể hả nói tranh:

- Đúng là người nhà mà chẳng biết nhau, sái gia có mắt như mù, lỡ tay đắc tội chỗ nào thì mong Bình chương đại xá cho chỗ đó.

Ai cũng lấy làm lạ, không hiểu hai người quen nhau lúc nào và ở đâu. Lương Tiêu tự nhủ đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại, lão già mặt trơ trán bóng này đã nhận lỗi mà mình còn khiêu khích báo thù thì tỏ ra quá hẹp hòi, bèn cười nhạt, quay đi định ngồi xuống, chợt nghe Cáp Lý Tư hỏi:

- Bình chương đại nhân còn nhớ tiểu nhân không nhỉ?

Nhìn cái mặt hơn hớn và ánh mắt láo liên, Lương Tiêu cảnh giác gật đầu:

- Nhớ.

Cáp Lý Tư sải bước ra giữa sảnh, cười hì hì:

- Nếu đại nhân không chê Cáp Lý Tư thấy người sang bắt quàng làm họ thì hãy tỏ tình thân mật chút nào! – Hắn chìa tay trái cho Lương Tiêu.

- Ừ thì tỏ! – Lương Tiêu đáp và giơ tay phải.

Đúng lúc tay hai người áp sát, chiếc nhẫn Xà Nhãn ma toan ở ngón giữa của Cáp Lý Tư vụt xoay mặt đá xuống hướng lòng bàn tay.

Bá Nhan trông thấy rõ mồn một, chưa kịp thét dừng thì tay hai người đã chạm vào nhau rồi buông ngay ra. Lương Tiêu quay mình bước về ghế ngồi, Cáp Lý Tư vẫn đứng đực tại chỗ, mắt nhìn xuống, mặt nhợt nhạt, thảng thốt kêu lên:

- Bình chương đại nhân, xin dừng bước!

Lương Tiêu ngoái đầu:

- Sao nào?

Cáp Lý Tư lắp bắp:

- Nhẫn… nhẫn tôi…

- Nhẫn nào? – Lương Tiêu hỏi.

Cáp Lý Tư nhìn trân trân vào mặt Lương Tiêu, mắt rực lửa. Viên kim cương Xà Nhãn là báu vật gia truyền của nhà hắn, cứng rắn dị thường, cắt đứt được cả đao kiếm bằng thép tinh, vừa rồi hắn định thừa cơ bắt tay để chọc chủng bàn tay Lương Tiêu. Nào ngờ gã thiếu niên tương kế tựu kế, thi triển ngay Như ý ảo ma thủ nhẹ nhàng tuốt chiếc nhẫn khỏi ngón tay đối phương. Khi Cáp Lý Tư phát hiện ra biến cố thì Lương Tiêu đã thu tay về rồi. Không dưng mất cả chì lẫn chài, chưa đả thương được địch thủ đã bị cướp nhẫn quý, Cáp Lý Tư vừa kinh hãi vừa tức giận khôn tả.

Lương Tiêu nghênh ngang ngồi xuống, mặt thản nhiên như không. Cáp Lý Tư đứng mãi đấy không tiện mà về chỗ cũng không xong, chực mở miệng kêu, chợt Hạ Đà La xì xà xì xồ mấy câu. Cáp Lý Tư sợ sệt lùi về sau lưng lão. Hạ Đà La nhìn thẳng vào mặt Lương Tiêu:

- Bản lĩnh của Bình chương đại nhân thật cao cường! Con trai ta có chỗ nào mạo phạm, mong đại nhân thứ lỗi cho!

Lương Tiêu liếc Cáp Lý Tư, lạnh lùng hỏi:

- Hắn là con ngươi à? Ta thấy ngươi là con hắn mới phải.

Thoát Hoan và bọn tùy tùng thảy đều biến sắc, bất bình nghĩ bụng: “Tên này nói năng hỗn hào quá!”. Không ngờ Hạ Đà La hớn hở mặt mày, bật ngón tay cái cười vang:

- Đại nhân tinh tường thực! Hạ mỗ vốn bất tài, chẳng tinh thông môn pháp nào cả, được mỗi thuật dưỡng sinh trụ nhan là tương đối có thành tựu, tuổi tác ngần này rồi nhưng so với người ngoại tam tuần thì trông vẫn trẻ hơn. – nói đoạn vênh váo nhìn quanh, vẻ dương dương tự đắc.

Lương Tiêu vốn muốn làm cho cha con hắn bẽ mặt một phen, nào ngờ Hạ Đà La không tức mà còn hí hửng, khiến gã cụt hứng, chẳng buồn ngó ngàng tới ai nữa, rót rượu ra chén uống tì tì, chỉ thoáng chốc đã cạn sạch hai bình rượu nóng rồi nằm gục xuống bàn, mụ mẫm thiếp đi.

Những người hiện diện trong trướng đều tỏ ra khinh rẻ bộ dạng nát rượu của Lương Tiêu. Bá Nhan bất bình nghĩ: “Thằng ôn này mỗi ngày một tồi tệ, sớm biết nó làm ta xấu mặt thế kia thì đã không gọi sang”. Y đành giả vờ không chú ý đến tác phong của viên ái tướng, quay lại trò chuyện với khách khứa:

- Đảm Ba đại sư phụng chỉ đến trấn yểm long mạch Đại Tống, chẳng hay phương pháp cụ thể thế nào?

Đảm Ba mỉm cười:

- Nghe trấn yểm thì to tát, thực chất tiến hành cũng không mấy phức tạp. Trước tiên cần kéo đổ hoàng cung Đại Tống, cắt lấy căn mạch địa linh của nó, sau đó đào tung lăng tẩm của Tống đế các đời, trộn lẫn tinh cốt họ với xương trâu ngựa rồi vùi xuống đất, xây tháp cao mười trượng chặn bên trên, thu thập kinh Phật, tượng Phật, chân ngôn Mật tông về cất giữ trong đó. Cứ thế, vương khí Đại Tống sẽ lụi tàn, long mạch bị cắt rời, con cháu họ Triệu vĩnh viễn không còn ngóc đầu dậy được nữa!

Lương Tiêu không muốn chuyện trò với đám người này nên cố ý giả say, nghe đến đây rùng mình nghĩ bụng: “Vậy là tên sư trọc kia tới Lâm An để đào mộ người ta? Hắn là kẻ xuất gia, đúng lẽ nên lấy việc hành thiện làm đầu, sao có thể hành động đê hèn đốn mạt đến thế?”.

Thoát Hoan góp chuyện:

- Theo ta, cắt long mạch nhà Tống vẫn chưa đủ đâu.

Đảm Ba tỏ vẻ chú ý:

- Hẳn vương gia có cao kiến, tiểu tăng xin nghe.

Thoát Hoan nói:

- Họ Triệu dứt mạng hoàng đế đã đành, nhưng khó lòng đảm bảo các họ khác không nổi lên chống phá. Chẳng làm thì thôi, đã làm thì nên mạnh tay cho triệt để, phải dò hết mộ táng của các danh gia sĩ hoạn nhà Tống mà tróc đến tận đáy, như vậy mới bảo đảm Đại Nguyên chúng ta sẽ thiên thu trường trị, nhất thống sơn hà.

Đảm Ba băn khoăn:

- Vương gia dạy cũng có phần đúng, nhưng mộ phần của người Tống nhiều như thế, đào sao cho hết?

Thoát Hoan cười hì hì:

- Thì đào được cái nào hay cái đó!

Bá Nhan gật gù:

- Vương gia nói phải lắm! Cũng như hành quân đánh trận đấy, hôm nay giết mấy trăm binh mã, ngày mai gắng lấy mạng đại tướng, khiến chúng mất cả lớn lẫn bé, cuối cùng đành tự nhận thua!

Thoát Hoan vỗ tay:

- Chẳng thẹn là danh tướng đương thời, chuyện gần chuyện xa đều xoay quanh việc đánh trận.

Mọi người cười ồ.

Lương Tiêu càng nghe càng căm giận, phẫn nộ nghĩ thầm: “Ta vào sinh ra tử tranh đoạt giang sơn, không ngờ lại phục vụ cho phường bất nhân vô liêm sỉ này”. Hơi men bốc lên, gã đập mạnh bàn, đứng bật dậy.

Trong trướng lặng ngắt. Bá Nhan nhìn mặt Lương Tiêu, biết rằng sắp có chuyện chẳng lành. Y định quát bảo để trấn áp gã phó soái nóng tính, chợt phía xa có tiếng động rất lạ vọng tới, thoắt chậm thoắt nhanh, thoắt bổng thoắt trầm khiến người ta nôn nao khó chịu. Lương Tiêu quên bẵng cả điều định nói, đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Bá Nhan hạ lệnh cho Na Tốc đi xem tình hình, chỉ lát sau, Na Tốc đã dẫn vào một viên Bách phu trưởng bộ dạng nhớn nhác.

Bá Nhan nghiêm giọng hỏi:

- Hoảng hốt cái gì? Mới thế này đã mất vía thì lúc ra chiến trường còn quýnh quíu tới mức nào?

Bách phu trưởng nuốt ực một cái, vội vàng thi lễ:

- Khởi bẩm Thừa tướng, trong doanh trại hữu quân xuất hiện một quái vật!

Bá Nhan lạnh lùng bảo:

- Chỉ giỏi tầm xàm, ban ngày ban mặt lấy đâu ra quái vật?

Bách phu trưởng biện bạch:

- Tiểu tướng không dám nói ngoa, tiếng động vừa rồi chính do quái vật phát ra đấy.

Đám khách khứa giật mình. Bách phu trưởng kể:

- Thoạt tiên, tiếng động truyền đi từ lều của Ngột Đột Hải, một thuộc hạ của tiểu tướng. Lúc ấy chẳng mấy ai bận tâm, còn tưởng đó là tiếng ngáy của hắn. Tiểu tướng nghĩ chưa tới giờ gà lên chuồng đã chây lười đến thế thì thật không nên, bèn bảo Hô Hòa Đài đi lôi hắn dậy.

Bá Nhan nói:

- Ban ngày ban mặt dám ngủ ngáy ầm ĩ cả trại, phải phạt roi rồi treo lên cổng doanh thị chúng!

Bách phu trưởng vội vã đáp:

- Vâng vâng! Nào ngờ Hô Hòa Đài vào lều Ngột Đột Hải, chỉ kêu “ối” một tiếng là bặt tăm. Tiểu tướng lấy làm lạ, liên tiếp phái người sang xem, không ngờ đi rồi mà chẳng ai trở về, trong khi đó âm thanh quái gở nọ mỗi lúc một vang to, lúc đầu vi vút như tiếng kèn lá chuối, dần dần nổi lên ồn ã như tiếng bò rống, tiểu tướng định đích thân vào xem thì Ngột Đột Hải đi đến.

Thoát Hoan ngạc nhiên:

- Tên ấy không ở trong lều hắn à?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Hắn canh gác ngoài cổng, nghe đồn lều mình có sự lạ thì chẳng nói một lời, cắm cúi chui vào. Chỉ nghe hắn thét lên một tiếng rồi im bặt. Âm thanh quái gở kia vẫn vang vọng, mà càng lúc càng ầm ĩ, một lát sau cả đại doanh đều nghe thấy. Tướng sĩ ta từng trải nhiều chiến trận, sợ gì xông pha nơi hòn đạn mũi tên, nhưng sự việc này lạ lùng quá sức, e rằng có tà vật quỷ quái hãm hại nên người trần không thắng nổi. Nghe nói Đảm Ba tôn giả đang ở đây, tiểu tướng bèn đến cung kính mời tôn giả đi hàng phục yêu ma.

Dứt lời hắn đưa mắt sang Đảm Ba, vẻ mặt đầy thành kính. Trong lúc hắn thuật chuyện, âm thanh kỳ cục nọ biến hóa hết sức quái lạ, trầm như tiếng tiêu rủ rỉ, bổng như ngói vỡ sấm rền, giai điệu lên xuống bất thường, đổi gam không theo quy tắc gì hết.

Bá Nhan tuy không tin chuyện ma quỷ, nhưng chưa bao giờ nghe thấy sự lạ nhường ấy, trong lòng cũng hơi hoang mang. Đảm Ba trầm ngâm một thoáng rồi đứng dậy:

- Bẩm Thừa tướng, Đảm Ba xin đi một chuyến để xem yêu tà xứ nào!

Hạ Đà La cũng chậm rãi đứng lên:

- Cho phép sái gia đi với tôn giả!

Đảm Ba biết võ công Hạ Đà La cao thâm vô lượng, sư phụ Bát Tư Ba còn phải nhún nhường với hắn vài phần, liền chắp tay đáp:

- Vậy phiền tiên sinh!

Bá Nhan vốn chẳng coi phù phép Mật tông vào đâu, nhưng sĩ tốt trong doanh lại rất tin quỷ thần, nếu không khéo ứng xử thì sẽ làm dao động lòng quân, y bèn cười bảo:

- Ta cũng đi!

Đảm Ba can:

- Đâu dám phiền đến đại giá của Thừa tướng, xin hãy hâm nóng rượu chờ, Đảm Ba đi rồi về ngay.

Mọi người quay lại chỗ ngồi, trong lòng vô cùng thấp thỏm. Chỉ thoáng chốc, tiếng động lạ chậm dần, rồi im bặt. Thoát Hoan đập tay cười:

- Tôn giả thần thông quảng đại, không biết đã bắt được quái vật gì? Bản vương muốn sang xem xem.

Hắn nhỏm dậy, chợt nghe có tiếng hò hét vọng tới, đang ngờ vực chưa hiểu ra sao thì thấy viên Bách phu trưởng vừa rồi lại hớt hải chạy vào, hơi thở đứt đoạn, giọng nói rời rạc:

- Bẩm thừa tướng, không ổn rồi! Đảm Ba tôn giả bị thương.

Thoát Hoan sửng sốt:

- Bị yêu quái cắn hay sao?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Không phải yêu quái, đó là một người!

Ai nấy kinh ngạc, Bá Nhan bảo:

- Ngươi thong thả kể cho ngọn ngành, đừng để sót một chi tiết nào cả!

Bách phu trưởng gắng trấn tĩnh, bắt đầu kể:

- Tôn giả đến khu doanh trại của bọn thuộc hạ, dừng ngoài lều, niệm chú một hồi rồi đột ngột đẩy mạnh hai tay ra trước. Một cơn cuồng phong cuộn lên khỏi mặt đất, thổi tốc cái lều đi.

Bá Nhan nghĩ thầm: “Pháp môn Đại thủ ấn của Mật tông đây mà”. Y hỏi:

- Trong lều có gì khác lạ không?

Bách phu trưởng trả lời:

- Nghe thì lạ đấy, chứ nhìn cũng chả có gì lạ. Lều bay đi, để lộ ra Hô Hòa Đài, Ngột Đột Hải và mấy binh sĩ nữa nằm ngã ngổn ngang. Trên giường có một kẻ đang ngủ, người ngợm bẩn thỉu quần áo rách rưới, âm thanh kỳ quái đó chính là tiếng ngáy của lão ta!

Thoát Hoan ngạc nhiên hỏi:

- Sức người mà tạo ra được âm thanh hùng hậu ấy ư?

Mặt viên Bách phu trưởng méo xệch:

- Nghe tưởng bịa, nhưng sự thực đúng thế, tiểu tướng không dám nói man.

Bá Nhan không biểu lộ gì, ôn tồn bảo:

- Được rồi, ngươi kể tiếp đi!

Bách phu trưởng vâng dạ tiếp tục:

- Đảm Ba tôn giả bèn hỏi cái kẻ đang ngủ say sưa ấy rằng: “Yêu quái phương nào dám đến tác oai ở đây?”. Giọng tôn giả như sấm rền, thuộc hạ váng cả óc, điếc cả tai.

A Than tôn giả tán thưởng:

- Đấy là tuyệt kỹ Sư tử hống của tông phái Mật tông!

- Sư tử hống à? – Bách phu trưởng lẩm bẩm. – Tiểu tướng chưa nghe đến bản lĩnh ấy bao giờ, nhưng hổ gầm chắc cũng chỉ đến thế mà thôi! Người nọ bị tiếng động đánh thức, ngồi bật dậy dụi mắt rồi lườm tôn giả: “Ngươi la ó gì vậy?”. Lão ấy để râu dài, đầu tóc rối như tổ quạ, bộ dạng điên điên dở dở nhưng rõ ràng không phải yêu quái. Đảm Ba bèn hỏi: “Các hạ…”. Chưa dứt câu, kẻ kia đã lắc mình áp sát, túm ngực tôn giả ném văng đi…

Ai nấy nghe kể đều biến sắc. Đảm Ba từ nhỏ theo học Bát Tư Ba, thụ giáo hết chân truyền của thầy, bất luận Phật pháp hay võ công đều đáng xếp hạng cao trong tông phái Mật tông, nào ngờ chỉ một chiêu đã bị địch thủ lẳng đi xa, thực khiến người ta bất ngờ.

Bách phu trưởng không nhận ra vẻ kinh ngạc của mọi người, tiếp tục kể:

- Tôn giả nương đà ném, lộn một vòng trên không rồi vững vàng đáp xuống đất. Lão già nọ khen ngợi: “Đại hòa thượng bản lĩnh khá lắm!”. Đảm Ba tôn giả lộ vẻ kinh ngạc, lập tức đính chính: “Ta là lạt ma, không phải hòa thượng[5]”. Người nọ hỉnh mũi: “Mặc kệ nạt ma hay nạt quỷ, cứ lại đây cho lão tử xem bản lĩnh của ngươi được mấy nả!”, đoạn ưỡn ngực bảo: “Nện lão tử sáu chưởng thử xem!”.

Các cao thủ trong trướng nghe đến đây đều tái mặt kinh hoàng, Bá Nhan tự nhủ: “Người này quá tự phụ, Đại thủ ấn của Đảm Ba đã đạt tới cảnh giới phi phàm, xô đổ được cả tường đồng vách sắt nữa là. E rằng ngay sư phụ ta cũng chưa chắc dám đứng yên hứng sáu chưởng liên hoàn của hắn!”.

Bách phu trưởng vẫn thao thao kể:

- Đảm Ba tôn giả tỏ rõ ngạc nhiên, chắp tay hỏi: “Các hạ từ đâu tới? Vì sao giả ma giả quỷ gây rối ở đây?”. Lão già nọ sốt ruột, xua tay nói: “Đừng rườm lời nữa, đánh hay không đây? Nếu không đánh thì ta đi vậy”. Tôn giả đang ngập ngừng thì vị áo trắng đi cùng xen vào: “Tiên sinh đây đã dạy thế, tất có bản lĩnh cao cường. Tôn giả cứ thẳng tay nện mấy chưởng, chắc cũng không đến nỗi làm ông ta sứt mẻ gì đâu!”.

Lương Tiêu cười nhạt nghĩ bụng: “Tên Hạ Đà La gian ngoan xảo quyệt, không nắm chắc phần thắng nên đứng ngoài làm thầy dùi, hô hào chọc ngoáy cho Đảm Ba xuất thủ, định giở mẹo trai cò tranh nhau ngư ông đắc lợi đây mà”.

Bách phu trưởng kể:

- Vị áo trắng nói xong, tôn giả nghe chừng xuôi xuôi, bèn bảo quái nhân nọ: “Vậy xin vô phép!”. Kẻ kia cười ha ha: “Ừ, ra tay đi!”. Tôn giả nhào tới trước mặt lão vung tay đánh một chưởng. Lão già ấy lùi ngay một bước, nhưng tôn giả giật lui đến hai bước.

- Sao, người đó bị thương chứ? – Bá Nhan hỏi.

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Không ạ!

Bá Nhan nhướng mày, mắt đầy vẻ kinh ngạc.

Bách phu trưởng tiếp tục:

- Tôn giả sững người một thoáng rồi đánh ra chưởng thứ hai, lão già lùi một bước, tôn giả lùi hai bước. Lúc này tôn giả đã động nộ, cúi mình chắp tay, xương kêu răng rắc như tiếng đậu tương nổ trong chảo rang, đoạn phóng hai tay, đánh liên hoàn bốn chưởng vào mình lão già…

Thoát Hoan chưa nghe hết đã vỗ tay khen:

- A, lão già nọ mất mạng, còn Đảm Ba bị kình lực của lão chấn ngược lại nên thụ thương phải không?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Lão già lui liền bốn bước nhưng không hề hấn gì, trong khi đó tôn giả giật lùi đến một trượng, mặt trắng nhợt như tờ giấy.

Bá Nhan vỗ bàn đứng bật dậy quát:

- Láo lếu! Xương cốt phát ra tiếng động tức là đã vận nội kình toàn thân. Kẻ kia định dùng xác phàm chống đỡ môn pháp Đại thủ ấn chứa mười thành công lực ư?

Y quát ầm ầm như sấm, Bách phu trưởng kinh sợ quỳ mọp sát đất, khiếp đảm kêu van:

- Từng lời từng chữ của thuộc hạ đều là sự thật, không dám nói càn!

Bá Nhan cũng nhận thấy mình hơi thiếu kiềm chế, bèn nhíu mày ngồi trở lại bàn:

- Thôi, chuyện sau đó ra sao?

Bách phu trưởng nói:

- Đảm Ba tôn giả hít một hơi dài mới gượng đứng dậy được, đoạn nói: “Các hạ võ công cái thế, Đảm Ba tài mọn không sánh bằng, dám hỏi quý tính cao danh?”. Lão già gãi gãi đầu, lẩm bẩm: “Quý tính cao danh? Quý tính cao danh à?”. Lão lải nhải mấy lần câu ấy rồi vò đầu bứt tai: “Chả nhớ nữa, chả nhớ nữa!”. Lão liếc mắt lại, trừng trừng nhìn tôn giả: “Này Nạt ma hòa thượng, ngươi đánh ta sáu chặp, ta cũng phải đánh ngươi một chặp chứ nhỉ!”. Vừa dứt lời, lão lập tức lăng mình tới trước mặt tôn giả. Hai bên mới đứng đối mặt nhau, tôn giả đã ríu chân ngã bật ra xa, miệng ộc máu tươi.

Cử tọa nghe đến đây đều ớn lạnh: “Kẻ này lĩnh sáu chưởng của Đảm Ba mà vẫn bình an vô sự, trong khi Đảm Ba thậm chí không đỡ nổi một chưởng của hắn! Rốt cục hắn là thần thánh phương nào?”. Bách phu trưởng tiếp tục:

- Thấy tôn giả bị thương, chúng thuộc hạ chực vung gươm vung giáo lao vào thì tiên sinh áo trắng đã lắc mình tới trước mặt lão già. Hai bóng người xẹt qua xẹt lại, xoay mòng mòng trong bãi, lão già nọ cứ luôn mồm: “Khá lắm, khá lắm!”, giọng điệu dường hoan hỉ. Họ giao đấu hồi lâu nhưng không phân thắng bại.

Cáp Lý Tư nghe kể cha mình hiển lộ thần uy thì ra chiều đắc ý. Bá Nhan cũng nghĩ: “Thường nghe ngoại hiệu của Hạ Đà La là Xà ma, tung hoành Tây Vực vô đối thủ, ban đầu ta còn bán tín bán nghi, bây giờ xem chừng danh bất hư truyền! Nhưng lão già kia lai lịch thế nào nhỉ?”. Bách phu trưởng vẫn kể tiếp:

- Chúng thuộc hạ thấy tiên sinh áo trắng cũng khó bề thắng được, bèn cùng ùa đến giúp, lão quái nhân cười hà hà: “Hay lắm, chúng ta chơi trò gà con đuổi bắt diều hâu, chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông nào!”. Lão bèn bỏ ngang tiên sinh áo trắng, guồng chân chạy vòng vòng quanh trại…

Thoát Hoan thắc mắc:

- Xưa nay chỉ có diều hâu tha gà, chứ làm gì có gà con đuổi bắt diều hâu?

Bách phu trưởng nhăn nhó nói:

- Tiểu tướng đoán lão già ngụ ý rằng lão là diều hâu còn bọn tiểu tướng là gà con ấy. Tất nhiên gà con thì đuổi bắt diều hâu sao được! Quanh trại lúc đó có đến một trăm binh tướng, toàn bộ hiệp đồng truy kích lão, rõ ràng là trông thấy lão chạy sát gần mà khi cả bọn xúm vào bao vây thì thậm chí không tóm được đến bóng của cái chéo áo.

Thoát Hoan nhăn trán suy luận:

- Nhất định là lão ta nhảy lên cao, phải không?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Tiểu tướng đứng ngoài lược trận nên quan sát rất rõ, ba bốn mươi người cùng bủa vây lão nọ, khi vòng người đổ xô tới, lão ta không hề nhảy nhót gì cả, chỉ khẽ lắc mình xuyên qua giữa đám đông ấy như một đụn gió. Chẳng ai tóm được, thậm chí chạm đầu ngón tay cũng không luôn.

Thoát Hoan ngờ vực ra mặt. Bách phu trưởng định thề thốt, chợt một tiếng hú dài vẳng tới, nội kình rất thâm hậu, tiếng hú thứ nhất chưa dứt, tiếng thứ hai đã vút lên the thé sắc nhọn lẫn với những tràng ri ri. Bách phu trưởng tái mặt kêu:

- Đấy, đến rồi đấy…

Bá Nhan cau mày đứng bật dậy:

- Chúng ta ra xem xem thần thánh phương nào!

Y rời trướng soái trước tiên, Thoát Hoan và những người khác lục tục theo sau. Chỉ trong nháy mắt, còn trơ trọi mỗi Lương Tiêu bên bàn. Gã uống rượu như hũ chìm, lúc này đã say khướt, vừa đứng dậy bỗng thấy nôn nao trong ngực, tay chân bủn rủn, phải bám lấy vách lều, rồi cúi xuống mửa thốc mửa tháo. Thình lình có bóng người nháng lên trước mặt. Lương Tiêu hé mắt nhìn, trong trướng mới xuất hiện thêm một người, miệng rộng mũi cao, hàng mày xếch chạy thẳng lên mấn tóc, tướng mạo uy nghi, chỉ hiềm đầu tóc rối bù, quần áo vốn dĩ là tơ lụa hảo hạng nhưng lúc này đã rách tươm, lem nhem bẩn thỉu. Lão ta ngồi chềnh ềnh trên cái ghế Bá Nhan ngồi lúc nãy, tay cầm rượu tay gắp thịt, liên tục đưa lên hạ xuống ăn uống nhồm nhoàm.

Lương Tiêu nhớ lại câu chuyện của Bách phu trưởng, liền hỏi:

- Ông là ai?

Lão già ngừng ăn uống, cau cau đôi mày ra ý phiền muộn, gõ gõ trán lắc đầu:

- Chả nhớ nữa, chả nhớ nữa!

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Chả nhớ nữa là sao?

Người nọ đáp:

- Chả nhớ ta là ai ấy mà.

Lương Tiêu càng ngạc nhiên:

- Tại sao không nhớ?

Lão già trợn mắt lên toàn lòng trắng, lúng búng nói:

- Không nhớ, hễ nhớ là sai.

Lương Tiêu nghĩ bụng: “Người ngợm đâu mà lạ lùng”, rồi ngoảnh ra nhìn. Đám thân binh ngoài cửa đều đứng ngây như tượng gỗ, nghe trong trướng có tiếng chuyện trò mà cũng không hề nhúc nhích. Lương Tiêu chột dạ, nắm kiếm quát:

- Các hạ làm gì vậy?

Lão già cười:

- Ăn cơm, ăn cơm! – đoạn lim dim đôi mắt, cười hì hì. – Có cơm không ăn, tiện cho hoàng đế; có cứt không ỉa, lỗi với đại vương. Lẽ nào ngươi không ăn uống bài tiết gì hay sao?

Lương Tiêu càng nghe càng kinh ngạc, chợt nhận ra ánh mắt lão già thoáng vẻ điên dại khác hẳn người thường thì dịu mặt hỏi:

- Ông từ đâu đến đây?

Lão già đáp:

- Từ ngoài biển.

Lương Tiêu hỏi:

- Chèo thuyền vào à?

Lão già trừng mắt:

- Nhăng nhít, ta dùng sào đấy!

- Thế chẳng phải chèo thuyền thì là gì?

- Vậy à? – Lão già bối rối, đang định nghĩ tiếp, chợt lắc đầu. – Không nghĩ nữa, càng nghĩ càng sai.

Lương Tiêu nhẫn nại hỏi:

- Ông chèo thuyền đến đây làm gì?

- Tìm người đánh nhau.

- Tìm ai đánh nhau?

- Tìm hòa thượng.

- Hòa thượng nào?

Lão già gãi đầu:

- Chả nhớ nữa!

Lương Tiêu cau mày:

- Không nhớ thì ông định tìm ai?

Lão già vò đầu nghĩ ngợi, chợt trừng mắt, đập bàn quát:

- Đồ khốn, làm hại ta phải suy tư buồn rầu, ta đánh chết mày…

Miệng nói tay vung, hai cây đũa xé gió bay tới nhanh khôn tả. Lương Tiêu né mình, vừa tránh được đôi đũa thì hai chiếc đĩa sứ từ hai mé trái phải lao vào gã. Thì ra lão già đã tính toán được hướng lắc tránh của Lương Tiêu nên ném đĩa khóa đường, đẩy Lương Tiêu vào vòng chắn của hai chiếc đĩa.

Lương Tiêu vội vã xòe hai tay, phẩy trúng hai chiếc đĩa sứ. Đĩa sứ cùng bay xoay vào trong, va nhau vỡ vụn ngay trước ngực Lương Tiêu sau một tiếng động khô giòn. Chiêu này là Tịch hề liêu hề của Sở Tiên Lưu, Lương Tiêu thi triển mô phỏng, chỉ một động tác đã phá được sát chước của lão già.

Quái nhân nọ ồ lên, không có vẻ tức giận mà lại ra ý vui mừng, nhét luôn tảng thịt dê vào mồm rồi tung mình bật dậy, khum năm ngón tay nhoe nhoét mỡ chụp xuống đầu Lương Tiêu.

Lương Tiêu lạng người đi. Lão già chụp hụt, tươi tỉnh reo lên:

- Ta bắt ngươi tránh, ta bắt ngươi tránh! – đoạn tung ra hai trảo nữa, thế tấn công như cuồng phong bạo vũ.

Lương Tiêu cúi đầu né được một trảo, còn trảo thứ hai áp sát quá nhanh, gã không kịp tránh đành tuốt kiếm đỡ, vận đúng chiêu thế Minh Di đâm vào vai phải lão già. Lão già hụp mình tránh được, trôi đến bên bàn, chụp lấy một cây đũa cười hì hì:

- Lại đây lại đây! Ngươi dùng kiếm đâm ta, ta dùng đũa đâm ngươi, xem ai đâm trúng ai nào. – Lão đạp chân lướt đến, giơ đũa phát chiêu, chính là đường lối Minh Di kiếm, nhưng xuất thủ thần tốc hơn Lương Tiêu nhiều.

Lương Tiêu hoảng hồn, cấp tập đổi sang Đại Hữu kiếm, lão già cũng trở tay theo đúng tư thế Đại Hữu đâm đũa ra. Lương Tiêu kinh hãi cùng cực, tung mình nhảy về sau, biến chiêu thành Tiểu Súc kiếm, lão già cũng vận dụng Tiểu Súc, xuất thủ sau mà tới điểm trước, đâm phập vào hổ khẩu Lương Tiêu khiến gã lỏng tay cầm, thanh kiếm rơi kịch xuống đất.

Lương Tiêu không kìm nổi nữa, la lên:

- Ông cũng biết Quy Tàng kiếm?

Lão già cười hì hì:

- Ngươi cũng biết Quy Tàng kiếm?

Lương Tiêu cau mày, đảo chân bước theo Thập phương bộ vòng ra sau lưng lão già, khép song chưởng thi triển Tam tài quy nguyên, nhưng chưa kịp đẩy ra thì đã không thấy bóng dáng đối thủ đâu nữa. Đang tưởng mình hoa mắt thì chợt nghe mé hậu có tiếng kình phong cuộn lên ào ạt, Lương Tiêu vụt đổi chiêu Thiên toàn địa chuyển, xoay phắt người lại đánh vào ngực trái lão già. Lão già cũng xoay người tít mù, giáng chưởng vào ngực trái đối thủ, chiêu thức và tâm pháp đều giống hệt Lương Tiêu.

Chưởng lực chạm nhau, Lương Tiêu bắn vút ra xa một trượng, ngã thình xuống đất, khí huyết nhộn nhạo. Gã tự nhủ lão già này sở học uyên nguyên không kém gì Công Dương Vũ, thành thạo cả Quy Tàng kiếm và Tam tài quy nguyên chưởng, chỉ còn cách áp dụng một loại công phu ít thấy mới mong chế ngự được lão ta. Gã bèn thi triển võ công trong Huyền dịch cảnh, trước tiên vẫy hai chưởng theo chiêu thế Phục Hy vấn quải. Nào ngờ mới nhích chưởng, lão già đã đẩy ra một chiêu Phục Hy vấn quải y xì đúc. Lương Tiêu choáng váng, cấp tập đổi thành Chu Văn Vương bốc quy, thoáng cái lại sang Quỷ Cốc Tử phát khóa, tạo chuỗi hai chiêu liên hoàn. Lão già kỳ quái nọ cười lớn, cũng biến ngay ra hai chiêu này, bất luận chiêu thức hay tâm pháp đều cùng một dạng với Lương Tiêu.

Đến đây, Lương Tiêu đã kinh hãi quá độ, bởi hiện tại trên thế gian chỉ có mình gã luyện được võ học thạch trận của Thiên Cơ cung, không hiểu sao quái nhân kia cũng phát chiêu giống hệt. Lương Tiêu suy nghĩ rất lung, khi chiết giải đến chiêu thứ mười ba thì chợt đoán ra nguyên nhân, buột miệng hỏi:

- Lão già kia, ngươi bắt chước võ công của ta phải không?

Gã vừa mở miệng, quái nhân cũng nói:

- Lão già kia, ngươi bắt chước võ công của ta phải không?

Hai cái miệng riêng rẽ mà cùng cất tiếng một lượt, cùng nói ra một lời.

Lương Tiêu bàng hoàng hiểu rằng bất luận gã sử chiêu nào, lão quái sẽ sử chiêu đó, không chỉ chính xác về động tác tư thế mà còn nhạy bén về thần thái tư tưởng, lại nhờ công lực cực cao nên dù ra tay sau nhưng luôn tới điểm trước để khắc chế gã. Nghĩ đến đây, gã bèn ra chiêu Môn sắt luận đạo, một chiêu bắt nguồn từ điển cố Vương Mãnh thời Bắc triều. Vương Mãnh buổi đầu tấn kiến Phù Kiên, một tay mò trong ngực bắt rận, một tay trỏ trời đất bàn việc lớn, thoát li lễ tiết mà đường hoàng ung dung. Khẩu quyết của chiêu này là, tay trái nhắm thẳng huyệt đạo đối phương, tay phải luồn vào ngực áo lấy ám khí, chẳng hạn chủy thủ hoặc đoản đao rồi bất thần tập kích. Lần này xuất thủ, Lương Tiêu thêm thắt biến hóa riêng, tay trái chĩa thẳng như khẩu quyết, nhưng tay phải thì gập vòng vỗ vào ngực mình. Lão già cũng răm rắp bắt chước, tay trái điểm dứ, tay phải vỗ ngực.

Lương Tiêu cải biến chiêu thức cốt để lão già hạ thủ tự hại bản thân, còn chính gã, trong lúc cử động thì chú ý ghìm lực, khi tay áp hẳn đến ngực thì thu luôn nội kình về. Nào ngờ lão già mô phỏng như hệt, vì vậy chẳng hề bị thương, đồng thời năm ngón tay trái vẫn lừ lừ điểm tới huyệt đạo Lương Tiêu.

Biểu hiện đó chứng tỏ lão quái không những học được động tác, tâm pháp của chiêu thức mà còn cảm nhận được cả mức độ phát kình. Lương Tiêu chưa hết sửng sốt thì đã thấy mình bị dồn vào góc lều, liền bật cao lộn nhào một vòng, đoạn từ trên không hất chân đá dập xuống ngực lão già theo chiêu thức Quảng Thành Tử đảo thích đan lô. Lão già bắt chước ngay lập tức. Một người trên cao, một người dưới thấp, khi hai bên lao qua nhau, Lương Tiêu bỗng cảm thấy đau nhói ở lưng, thì ra đã bị trúng đòn đá ngược của lão già. Ngay tức thì, khối rượu óc ách trong bụng gã cuồn cuộn dâng trào, ộc hết cả ra miệng. Lão già quá đỗi bất ngờ, mặc dù giỏi bắt chước là thế mà cũng không sao thực hiện được trò này, chưa kể lão đang trong tư thế trồng cây chuối, nếu không kịp tránh thì nhất định sẽ bị bãi nôn của Lương Tiêu bắn hết vào người. Lão tức quá kêu oai oái, ngả mình xuống như cỏ rạp trước gió, trườn ra xa một trượng.

Tận dụng khoảnh khắc đó, Lương Tiêu liền lật mình đáp xuống, đứng vững rồi ngước mắt nhìn, gặp ngay bộ mặt cáu kỉnh và cặp mắt trừng trợn của lão già:

- Đồ xấu xa, công phu phun nước đấy tên là gì vậy?

Lương Tiêu vẫn còn đau lưng, nghe vậy bực bội đáp:

- Tên là Thiên hà lơ lửng!

Lão già gãi đầu:

- Thiên hà lơ lửng, thế quái nào mà chưa nghe bao giờ? Ái chà, không nhớ được, không nhớ được!

Hai tay lão gõ đầu, vẻ mặt sốt ruột.

Lương Tiêu thầm nhủ: “Lão này điên điên khùng khùng mà võ công cao cường kỳ dị quá! Ta đánh không lại, ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn”. Thình lình, một cái bóng trắng nháng hiện ngoài cửa. Hạ Đà La lướt vào, chân không chấm đất, khuôn mặt nham hiểm, trông thấy lão quái liền cười ré lên:

- Bạn thân mến ơi, tính toán giỏi thế, nấp đâu không nấp lại nấp vào đây làm sái gia tìm bở hơi tai!

Lão già trợn trắng mắt:

- Ngươi là kẻ nào? Ai là bạn thân mến của ngươi?

Hạ Đà La nghĩ bụng: “Mới giao đấu một trận dữ dội mà đã quên ta rồi sao? Hừ, chắc hắn cố ý nhục mạ ta đây”, đoạn cười nhạt, nắm song quyền đẩy ra. Lúc này hai người đang đứng cách nhau mười trượng, Lương Tiêu sửng sốt: “Lẽ nào quyền kình của tên này bắn đi xa được đến mười trượng?”. Trong lúc đó, Hạ Đà La đã băng tới gần ba trượng, thoắt một cái xòe tay thành chưởng, lại rút ngắn gần ba trượng nữa, lần này tay nắm thành quyền. Thoắt chưởng thoắt quyền như thế thêm ba lần, khoảng cách giữa hai người chỉ còn không quá năm thước.

Lão già tròn xoe mắt nhìn đôi tay của Hạ Đà La, vẻ mặt rất chăm chú.

Lương Tiêu đứng bên xem, nhác thấy song chưởng của Hạ Đà La nhích động, bất giác tự hỏi: “Hắn sắp biến quyền hay dùng chưởng đây? Ờ, phải rồi, chắc là dùng chưởng”. Không ngờ Hạ Đà La thét một tiếng, lại nắm song quyền đẩy ra. Ở bên kia, lão quái xẹt tới xuất chưởng, kình chạm kình, cuồng phong nổi lên khiến cốc đĩa nhảy tâng tâng rồi rơi xuống vỡ loảng xoảng, căn lều rộng lớn cũng nghiêng ngả lắc lư.

Sau chiêu đầu tiên, hai người cùng giật lui ba trượng, vừa hò hét inh tai vừa xuất thủ từ xa, đôi tay co duỗi khum gập nhanh như chảo chớp, thoắt chưởng thoắt quyền, thoắt trảo thoắt chỉ, hệt như trò đánh toan[6] lúc uống rượu cao hứng, chỉ khác là động tác chứa đầy kình lực, thế gian thật hiếm thấy. Ban nãy Lương Tiêu đoán sai động tác xuất thủ của Hạ Đà La, lúc này nhân dịp quan chiến ngầm tập suy luận xem họ ra nắm tay hay bàn tay, ngón tay duỗi hay khum, nào ngờ xem liền mười chiêu mà chỉ đoán trúng hai ba chiêu. Đáng ngạc nhiên là, Hạ Đà La xuất thủ rất rõ ràng gãy gọn mà lão già nọ không bắt chước nổi một chiêu một thức nào của hắn.

Lương Tiêu toàn đoán sai, trong dạ buồn bực. Hai người ra chiêu càng lúc càng chậm, nhưng chưởng phong lại dày nặng và sắc bén hơn lên. Thình lình, chưởng thế của Hạ Đà La ngưng hẳn, lão già nọ thét vang, bước lên một bước, phát chéo chưởng, đẩy chệch luồng kình của Hạ Đà La vào vách lều, cột chống gãy luôn làm ba giữa những tiếng răng rắc. Lương Tiêu chột dạ phi thân khỏi trướng, chưa đứng vững đã nghe liền một hồi rắc rắc, căn lều sụp hẳn, phủ lên Hạ Đà La và quái nhân. Hai bóng người vẫn di chuyển dưới lớp vải da trâu, thoắt tiến thoắt lui như long xà trườn quẫy. Lều đổ đã đánh động cả trại, tứ phía nhốn nháo, tướng sĩ nhốn nháo tuôn đến xem.

Nhóm Bá Nhan cũng đã quay về, định chạy lại gần, nhưng nội kình của hai đấu thủ bắn cả ra ngoài qua lớp vải lều, xem chừng có thể đả thương người. Bá Nhan khó lòng tiếp cận, bèn ra lệnh lấy cung tiễn, kéo căng cung ngắm vào hai người dưới lớp vải, nhưng họ tiến lui thần tốc, nhất thời y không phân biệt được ai với ai.

Hạ Đà La và quái nhân đấu suốt nửa canh giờ. Đám đông bên ngoài chưa biết thắng thua thế nào, đúng lúc bắt đầu sốt ruột thì nghe thấy một tiếng động lạ lùng, lớp lều da trâu thủng hai lỗ. Hai bóng người vừa hú hét vừa song song nhảy vút lên không, xuất liền bảy chưởng như chớp giật. Hạ Đà La vụt lảo đảo, ngã ngửa người ra. Lão già rú vang tung mình xáp tới, quật bốn chưởng vù vù như gió táp sóng xô. Hạ Đà La né mình tránh được ba chưởng, nhưng không né nổi chưởng thứ tư, định xòe tay chắn đỡ thì Bá Nhan vụt thả dây cung, ba mũi tên nối nhau bắn về phía lão già.

Lão già võ công tuy cao nhưng cũng không dám khinh suất, vội co mình tránh tiễn, lại thu chưởng quơ đánh, gạt rơi được hai mũi tên. Hạ Đà La thừa cơ tống một quyền trúng ngực lão. Quái nhân hú dài, bắn ngược người ra sau, thân hình như làn khói nhẹ, như chim hồng bay cao, chỉ nhấp nhô một lượt là lướt đi xa đến hơn mười trượng, vượt qua đầu toán lính, ẩn vào sau một căn lều. Hạ Đà La cũng lật mình đáp xuống đất, giật lui chừng nửa bộ mới đứng vững. Hắn hít một hơi thật sâu, bộ mặt nhợt nhạt.

Bá Nhan hạ cung tiễn, dõi mắt chăm chú nhìn vào chỗ lão già mất hút, đôi lông mày rậm cau rúm. Y đã dồn toàn lực vào ba mũi tên vừa rồi, không ngờ đều trượt đích. Lão già đó đã trúng một quyền của Hạ Đà La mà còn di chuyển nhanh nhẹn như vậy, võ công quả thực cao thâm khôn lường. Bá Nhan nghĩ nát óc cũng không đoán ra gốc gác của nhân vật này, đành hỏi Hạ Đà La:

- Tiên sinh có nhận ra lai lịch người đó không?

Hạ Đà La mím môi, lắc đầu im lặng. Một cái bóng xanh chợt nháng lên, lão già cao gầy xẹt đến trước mặt hắn, rút ra một chiếc bình ngọc trắng như mỡ dê, dốc lấy ba viên đan dược, cười khì khì bảo:

- Mạch Âm duy của đại sư hơi bị tắc, mau uống ba viên thuốc này để chữa trị.

Hạ Đà La đón lấy thuốc, hít ngửi nhưng không uống ngay, ánh mắt lướt một vòng rồi dừng lại ở Cáp Lý Tư. Tên này bắt gặp ánh nhìn của cha, cơ mặt giật nhẹ, bỗng cười hì hì tiến đến, nhón viên thuốc uống luôn. Hạ Đà La quan sát hắn chốc lát, thấy không vấn đề gì mới uống nốt phần còn lại, thở ra hít vào vài lượt xong vui vẻ khen:

- Đan dược của Thường tiên sinh quả nhiên linh nghiệm!

Bá Nhan giật mình, đưa mắt sang lão già áo xanh:

- Tiên sinh họ Thường à? Phải chăng là Tiếu Diêm vương?

Lão già áo xanh sững người một thoáng rồi tươi mặt:

- Kẻ bất tài này chính là Thường Ninh, tên tuổi hèn kém mà được Thừa tướng biết đến, thật vinh hạnh muôn phần! – Lời nói nhún nhường, nhưng vẻ mặt vô cùng đắc ý.

Bá Nhan cười nhạt, không nói gì nữa. Lương Tiêu tự nhủ: “Y thuật của lão này xem chừng không tệ, sao lại đặt ngoại hiệu là Tiếu Diêm vương?”.

Hạ Đà La đảo mắt nhìn quanh rồi dừng lại ở Minh Quy:

- Minh tiên sinh kiến văn quảng bác, chẳng hay có đoán ra thân thế của con người kỳ dị kia chăng?

Minh Quy mỉm cười:

- Minh mỗ tầm nhìn hạn hẹp, quả có thầm điểm qua vài gương mặt, nhưng ngẫm kỹ lại thấy không giống cho lắm, mong Hạ tiên sinh chỉ giáo.

Hạ Đà La nói vẻ thâm độc:

- Minh tiên sinh còn không biết, sái gia làm sao biết được. Kẻ ấy xuất thủ bát nháo khiến người ta không sao nắm bắt được đường lối võ công.

Minh Quy cười:

- Hạ tiên sinh khiêm tốn thế, bất kể kẻ đó là ai, lần sau gặp mặt cũng không dễ mà thoát khỏi tay tiên sinh đâu.

Hai kẻ trông bề ngoài thì cứ tôn xưng nhau lên, thực ra ngấm ngầm mai mỉa lẫn nhau. Hạ Đà La đấu với quái nhân nọ, rõ ràng yếu thế, thẩm hiểu dẫu mai sau còn tái đấu thì cũng chỉ đủ sức tự vệ chứ đừng mơ thắng được lão ta. Vốn là kẻ mặt dày giỏi nín nhịn, nghe giọng khích bác ngầm của Minh Quy, hắn vẫn làm ra bộ hân hoan:

- Minh tiên sinh quá khen!

Minh Quy tủm tỉm cười. Lương Tiêu thừa hiểu tính lão, nhìn lối ăn nói cử chỉ kia là đủ biết lão đã đoán ra lai lịch quái nhân nọ, nhưng vì sao không muốn tiết lộ? Trầm ngâm một lát, gã chợt hiểu ra: “Bề ngoài, lão già và Hạ Đà La cùng chung một thuyền, đều là hai cánh tay phù trợ cho Thoát Hoan, nhưng thực tế thì không được hòa thuận cho lắm. Lão họ Minh biết mà không nói, cốt để Hạ Đà La không nắm được thực lực của quái nhân, lần sau giao thủ nhẹ thì thủ hòa, nặng thì thất bại khốn đốn”.

[1] Rồng gầm Tây Tái. Tây Tái là một ngọn núi ở mặt tây nam Hồ Châu.

[2] Bài Tiền Đường ca của thi nhân – từ nhân Uông Nguyên Lượng thời Tống mạt. Câu cuối bài này mượn hình ảnh chim đỗ quyên với tiếng hót ai oán trong bài thơ Đỗ quyên của Đỗ Công Bộ để tả mối sầu vong quốc.

[3] Bài tản khúc Tây hồ xuân cảm của Lưu Chí thời Nguyên.

[4] Đế sư là chức quan đặt ra dưới triều Nguyên, dành cho vị tăng lữ cao cấp nhất trong Phật giáo Tạng truyền, vừa đảm nhiệm các vấn đề tôn giáo của cả nước vừa điều hành chính sự khu vực Tây Tạng. Bát Tư Ba (tức BLo-gros rgyal-mtshan hPhags-pa) là người đầu tiên giữ chức Đế sư, học vấn cao, được Hốt Tất Liệt rất quý trọng.

[5] Phật giáo Tây Tạng coi Lạt ma là hiện thân của Đức Phật chứ không chỉ là người tu hành kinh kệ bình thường trong thiền viện hay chùa chiền.

[6] Một trò chơi rất phổ biến ở Trung Quốc, tương tự oẳn tù tì của ta, thường chơi khi uống rượu. Có nhiều cách chơi, phổ biến nhất là hai người cùng hô những khẩu lệnh có vần điệu khác nhau đồng thời xòe các ngón tay ra để đọ, ai thua bị phạt uống rượu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: