Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

CHUYEN PHAP LUAN

Chuyển Pháp Luân

Lý Hồng Chí

Copyright © 2008 by Li, Hongzhi

All Rights Reserved

For information, write:

(Taiwan)

Yih Chyun Book Corp., Ltd

No. 229-9, Section 2, Chung-Ching North Road

Taipei, Taiwan 103

(US)

Yih Chyun Corp.

P.O. Box 193

Gillette, NJ 07933

ISBN: 1-58613-051-X

Translated in Vietnam,

Bản tiếng Việt, dịch tại Việt Nam

First revision, March 2003

Hiệu chỉnh lần đầu, tháng Ba, 2003

Second revision, November 2004

Hiệu chỉnh lần thứ hai, tháng Mười một, 2004

Third revision, June 2006

Hiệu chỉnh lần thứ ba, tháng Sáu, 2006

Third revision plus, February 2008

Chỉnh sửa phần phụ lục, tháng Hai 2008

http://www.phapluan.org

http://www.falundafa.org/Vietnamese

Published by Yih Chyun Corp.

Luận ngữ

"Phật Pháp" tinh thâm nhất, là khoa học huyền bí và siêu thường hơn hết thảy các học

thuyết trên thế giới. Nếu khai mở lĩnh vực này, thì cần phải cải biến từ tận gốc quan niệm

của người thường; nếu không, chân tướng vũ trụ sẽ vĩnh viễn là điều thần thoại của nhân

loại, và người thường vĩnh viễn bò lết trong cái khung do hiểu biết ngu muội của mình

dựng nên.

Vậy "Phật Pháp" đúng ra là gì? Là tôn giáo chăng? Là triết học chăng? Đó chỉ là nhận

thức của những "học giả Phật giáo hiện đại hoá" mà thôi. Họ chỉ học lý luận, họ xem đó

như phạm trù triết học để vừa phê phán vừa học [tập] và làm những cái gọi là nghiên cứu.

Kỳ thực, "Phật Pháp" không chỉ là những gì ít ỏi trong kinh sách, vốn chỉ là Pháp của tầng

sơ cấp của "Phật Pháp". "Phật Pháp" là từ những lạp tử, phân tử đến vũ trụ, từ thứ nhỏ hơn

cho đến lớn hơn, nhìn thấu hết thảy điều bí mật, không gì không bao [hàm], không gì bị bỏ

sót. Nó là đặc tính "Chân Thiện Nhẫn" của vũ trụ, [với] những luận thuật khác nhau của

các tầng khác nhau; cũng chính là điều Đạo gia gọi là "Đạo", Phật gia gọi là "Pháp".

Khoa học của nhân loại ngày nay dẫu phát triển đến đâu, cũng chỉ là một bộ phận của

bí mật trong vũ trụ. Mỗi khi chúng tôi đưa ra những hiện tượng cụ thể trong "Phật Pháp",

liền có người nói: "Giờ đã là thời đại điện tử, khoa học rất phát triển, phi thuyền vũ trụ đã

bay đến cả những tinh cầu khác, vậy còn giảng chi mấy điều mê tín cũ xưa ấy". Nói thẳng

ra, máy tính dẫu phát triển đến đâu, cũng không sao sánh nổi bộ não người, mà não người

cho đến tận bây giờ vẫn là chỗ mê không thể nghiên cứu cho thấu đáo. Phi thuyền vũ trụ

dẫu bay cao đến đâu, cũng không thể bay khỏi không gian vật chất này nơi nhân loại

chúng ta đang tồn tại. Tri thức của nhân loại hiện đại có thể liễu giải được chỉ là những

điều lẻ tẻ vô cùng thiển cận, quá cách biệt với nhận thức chân chính về chân tướng của vũ

trụ. Thậm chí có người không dám nhìn thẳng, không dám tiếp xúc, không dám thừa nhận

sự thực của những hiện tượng tồn tại một cách khách quan; vì họ quá bảo thủ, không

muốn thay đổi quan niệm truyền thống để tư duy. Chỉ có "Phật Pháp" mới có thể khai mở

những chỗ mê về toàn vũ trụ, thời-không, và [thân] thể người; Nó có thể thực sự phân biệt

thiện và ác, tốt và xấu; phá bỏ hết thảy kiến [giải] sai lầm, đưa ra chính kiến.

Tư tưởng chỉ đạo về nghiên cứu phát triển của khoa học nhân loại hiện nay chỉ có thể

hạn cuộc trong thế giới vật chất; sự vật được nhận thức rồi thì nó mới được nghiên cứu,

[người ta cứ] theo lề lối ấy. Nhưng tại không gian chúng ta [có] những hiện tượng [tuy]

nhìn không thấy sờ không được, nhưng tồn tại [một cách] khách quan, và lại có khả năng

phản ánh đến không gian vật chất chúng ta, [có] biểu hiện hết sức thực tại, [người ta] lại

khước từ không động chạm đến, cho đó là những hiện tượng 'bất minh'. Người cố chấp

khăng khăng vô căn cứ tìm lý do để nói rằng đó là hiện tượng tự nhiên; người có dụng ý

khác đã trái với lòng mình mà chụp lên mọi thứ cái mũ lớn 'mê tín'; người ít truy cầu lảng

tránh rằng khoa học chưa đủ phát triển. Nếu nhân loại có thể nhận thức lại mới về bản thân

và vũ trụ, thay đổi hoàn toàn quan niệm đã cứng nhắc, thì nhân loại sẽ có một [bước] nhảy

vọt. "Phật Pháp" cho phép nhân loại thấu triệt thế giới vô lượng vô biên. Từ nghìn xưa đến

nay, có thể đưa ra thuyết minh sáng tỏ đầy đủ về nhân loại, mỗi từng không gian vật chất

tồn tại, sinh mệnh, cho đến toàn vũ trụ, thì chỉ có "Phật Pháp".

Lý Hồng Chí

MỤC LỤC

Luận ngữ

Bài giảng thứ nhất

1Chân chính đưa con người lên cao tầng.............1

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau.....4

Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận

định người tốt xấu..............................................6

Khí công là văn hoá tiền sử................................7

Khí công chính là tu luyện...............................10

Luyện công vì sao không tăng công.................11

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp..................16

Bài giảng thứ hai

21

Vấn đề liên quan đến thiên mục.......................21

Công năng dao thị............................................28

Công năng túc mệnh thông...............................29

Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới.........32

Vấn đề hữu sở cầu............................................35

Bài giảng thứ ba

41

Tôi đối xử với các học viên đều như đệ tử.......41

Công pháp Phật gia và Phật giáo......................41

Tu luyện phải chuyên nhất...............................44

Công năng và công lực.....................................46

Phản tu và tá công............................................47

Phụ thể..............................................................50

Ngôn ngữ vũ trụ...............................................54

Sư phụ cấp gì cho học viên...............................55

Trường năng lượng...........................................60

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công

như thế nào.......................................................60

Bài giảng thứ tư

63

Mất và được......................................................63

Chuyển hoá nghiệp lực.....................................64

Đề cao tâm tính................................................70

Quán đỉnh.........................................................73

Huyền quan thiết vị..........................................75

Bài giảng thứ năm

80

Đồ hình Pháp Luân...........................................80

Kỳ Môn công pháp...........................................81

Luyện tà pháp...................................................82

Nam nữ song tu................................................84

Tính mệnh song tu............................................85

Pháp thân..........................................................86

Khai quang.......................................................87

Khoa chúc do....................................................91

Bài giảng thứ sáu

93

Tẩu hoả nhập ma..............................................93

Luyện công chiêu ma.......................................98

Tự tâm sinh ma...............................................102

Chủ ý thức phải mạnh.....................................106

Tâm nhất định phải chính...............................106

Khí công võ thuật...........................................110

Tâm lý hiển thị...............................................113

Bài giảng thứ bẩy

116

Vấn đề sát sinh...............................................116

Vấn đề ăn thịt.................................................118

Tâm tật đố.......................................................122

Vấn đề trị bệnh...............................................126

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công

........................................................................128

Bài giảng thứ tám

132

Tịch cốc..........................................................132

Trộm khí.........................................................133

Thu khí...........................................................135

Ai luyện công thì đắc công.............................136

Chu thiên........................................................140

Tâm hoan hỷ...................................................146

Tu khẩu...........................................................147

Bài giảng thứ chín

149

Khí công và thể dục........................................149

Ý niệm............................................................150

Tâm thanh tịnh................................................154

Căn cơ.............................................................157

Ngộ.................................................................159

Người đại căn khí...........................................162

Bài giảng thứ nhất

Chân chính đưa con người lên cao tầng

Trong toàn bộ quá trình truyền Pháp, truyền công tôi có bổn ý là có trách nhiệm với

xã hội, có trách nhiệm với học viên; hiệu quả thu được thật tốt, ảnh hưởng đến toàn xã hội

cũng rất tốt. Vài năm trước có rất nhiều khí công sư truyền công; những gì họ giảng đều

thuộc về tầng chữa bệnh khoẻ người. Đương nhiên, không phải nói là công pháp của

những người khác không tốt; tôi chỉ nói rằng họ không truyền gì tại cao tầng. Tôi cũng

biết rõ tình thế khí công trên toàn quốc1. Cả trong ngoài nước hiện nay, về việc truyền

công lên cao tầng một cách chân chính, thì chỉ có mình cá nhân tôi đang làm. Truyền công

lên cao tầng ấy, tại sao không có ai làm? Là vì nó động chạm đến những vấn đề rất lớn,

động chạm đến lịch sử uyên nguyên rất sâu xa, động chạm đến phạm vi cũng rất rộng,

những vấn đề liên quan đến cũng hết sức gay gắt. Nó không phải là [điều] mà người bình

thường có thể truyền được, bởi vì nó phải động đến những điều của rất nhiều công phái.

Đặc biệt là chúng ta có rất nhiều người luyện công, họ nay học công này, mai học công

khác, đã làm thân thể của mình loạn lung tung hỏng cả; họ nhất định rồi sẽ không thể tu

lên được nữa. Người ta theo một con đường lớn [đại đạo] mà tu lên, [còn] họ [theo] các

đường nhánh; họ tu cái này, cái kia can nhiễu; tu cái kia, cái này can nhiễu; đều can nhiễu

đến họ, họ đã không [thể] tu được nữa rồi.

Những sự tình ấy chúng tôi đều phải giải quyết, cái tốt lưu lại, cái xấu bỏ đi; đảm bảo

từ nay trở đi chư vị có thể tu luyện; nhưng [chư vị] phải đến học Đại Pháp một cách chân

chính. Nếu chư vị ôm giữ các chủng tâm chấp trước, đến cầu công năng, đến trị bệnh, đến

nghe ngóng lý luận, hoặc giả ôm giữ mục đích bất hảo nào đó; như thế đều không được.

Bởi vì như tôi đã nói, việc này hiện nay chỉ có mình cá nhân tôi đang làm. Sự việc như thế

này, cơ hội không nhiều, và tôi cũng không truyền [giảng] lâu theo cách này. Tôi thấy

rằng những người trực tiếp nghe tôi truyền công giảng Pháp, tôi nói thật rằng...... sau này

chư vị sẽ hiểu ra; chư vị sẽ thấy rằng khoảng thời gian này thật đáng mừng phi thường. Tất

nhiên chúng tôi nói về duyên phận; mọi người ngồi tại đây đều là duyên phận.

Truyền công lên cao tầng, mọi người nghĩ xem, [đó] là vấn đề gì? Đó chẳng phải độ

nhân sao? Độ nhân ấy, chư vị đúng là tu luyện chân chính, chứ không chỉ là chữa bệnh

khoẻ người. Là tu luyện chân chính, đối với tâm tính của học viên thì yêu cầu cũng nhất

định phải cao. Chúng ta là những người ngồi tại nơi này, đến để học Đại Pháp, chư vị phải

coi mình đúng là những người luyện công chân chính đang ngồi tại đây, chư vị phải vứt bỏ

các tâm chấp trước. [Khi] chư vị ôm giữ các loại mục đích hữu cầu mà đến học công, học

Đại Pháp, [thì] chư vị sẽ không học được gì hết. [Tôi] nói rõ cho chư vị một chân lý: toàn

bộ quá trình tu luyện của người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của

con người. Con người trong xã hội người thường, kẻ tranh người đoạt, kẻ lừa người dối,

chỉ vì chút đỉnh lợi ích cá nhân mà làm hại người khác; các tâm ấy đều phải vứt bỏ. Nhất

là với những người học công tại đây hôm nay, những tâm ấy lại càng phải vứt bỏ hơn nữa.

Ở đây tôi không giảng trị bệnh; chúng tôi cũng không trị bệnh. Nhưng là người tu

luyện chân chính, chư vị mang theo thân thể có bệnh, [thì] chư vị tu luyện không được.

Tôi phải giúp chư vị tịnh hoá thân thể. Tịnh hoá thân thể chỉ hạn cuộc cho những ai đến

học công chân chính, những ai đến học Pháp chân chính. Chúng tôi nhấn mạnh một điểm:

[nếu] chư vị không bỏ được cái tâm ấy, không bỏ được cái [suy nghĩ về] bệnh ấy, [thì]

1Toàn quốc: tức là Trung Quốc. Trong toàn cuốn sách này, các từ như nước ta, toàn quốc, v.v. đều là để nói về

Trung Quốc. Tất cả các chú thích đều do người dịch tự ý biên soạn, không phải chính văn, chỉ có tác dụng tham

khảo.

Chân chính đưa con người lên cao tầng

1

chúng tôi chẳng thể làm gì, đối với chư vị chẳng thể giúp được. Tại sao? Bởi vì trong vũ

trụ này có một [Pháp] lý: những sự việc nơi người thường, chiểu theo Phật gia [tuyên]

giảng, đều có quan hệ nhân duyên; sinh lão bệnh tử, [chúng] tồn tại đúng như vậy ở [cõi]

người thường. Bởi vì con người trước đây đã làm điều xấu [nên] nghiệp lực sinh ra mới

tạo thành có bệnh hoặc ma nạn. Chịu tội [khổ] chính là hoàn trả nợ nghiệp; vậy nên,

không ai có thể tuỳ tiện thay đổi nó; thay đổi [nó] cũng tương đương với mắc nợ không

phải trả; cũng không được tuỳ ý mà làm thế, nếu không thì cũng tương đương với làm điều

xấu.

Có người tưởng rằng trị bệnh cho người khác, chữa bệnh khoẻ người là việc tốt. Theo

tôi thấy, [họ] đều không thật sự trị khỏi bệnh; đều chỉ là trì hoãn bệnh, hoặc là chuyển hoá

[bệnh], chứ không đúng là trị bỏ nó đi. [Để] thật sự trừ dứt nạn ấy, thì phải tiêu trừ nghiệp

lực. Nếu thật sự có khả năng trị hết bệnh ấy, thanh trừ triệt để nghiệp lực ấy, thật sự đạt

đến điểm ấy, [thì] tầng của cá nhân đó cũng không thấp lắm. Họ đã thấy rõ một [Pháp] lý,

chính là không được tuỳ ý phá hoại [Pháp] lý trong [cõi] người thường. Trong quá trình tu

luyện, người tu luyện xuất phát từ tâm từ bi mà làm một vài việc tốt, giúp người trị bệnh,

chữa bệnh khoẻ người; điều ấy được phép; nhưng cũng không thể hoàn toàn trị hết [bệnh]

cho người ta được. Nếu như có thể thật sự trị tận gốc bệnh cho một người thường, thì

người thường không có tu luyện ấy có thể ra khỏi đây, chẳng còn chút bệnh nào hết; ra

khỏi cửa vẫn là một người thường, và xuất phát từ lợi ích cá nhân người ấy vẫn tranh đoạt

như những người thường; vậy làm sao có thể tuỳ ý tiêu trừ nghiệp lực cho họ được? Điều

ấy tuyệt đối không được phép.

Vậy vì sao lại có thể giúp người tu luyện [trị bệnh] được? Bởi vì người tu luyện là

trân quý nhất, [vì] người ấy muốn tu luyện; vậy nên, một niệm [muốn tu luyện] xuất phát

ra là trân quý nhất. Trong Phật giáo có giảng Phật tính; một khi Phật tính xuất hiện, các

Giác Giả có thể giúp người ấy. Ý nghĩa ấy là gì? Nếu hỏi tôi giảng, bởi vì tôi đang truyền

công tại cao tầng, liên quan đến [Pháp] lý tại cao tầng, liên quan đến những vấn đề rất lớn.

Nơi vũ trụ này, chúng tôi thấy rằng sinh mệnh con người không phải sinh ra tại xã hội

người thường. Sự sản sinh ra sinh mệnh chân chính của con người chính là sinh ra trong

không gian vũ trụ. Bởi vì trong vũ trụ này có rất nhiều các loại vật chất chế tạo sinh mệnh;

với sự vận động tương hỗ, những vật chất ấy có thể sản sinh ra sinh mệnh; nên cũng nói,

sinh mệnh tối nguyên sơ của con người đến từ vũ trụ. Bản lai của không gian vũ trụ là

lương thiện, là mang đầy đủ chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn; con người sinh ra cùng với

vũ trụ là đồng tính. Nhưng sản sinh ra nhiều thể sinh mệnh rồi; thì cũng phát sinh quan hệ

xã hội [trong] quần thể. Trong đó có một số người có thể tăng thêm tư tâm; tầng của họ

dần dần rất chậm hạ thấp xuống; [khi] không thể ở tại tầng ấy nữa, thì họ phải rớt xuống

dưới. Tuy nhiên tại tầng kia [họ] lại biến đổi không còn tốt nữa, họ không thể ở lại, và tiếp

tục rớt xuống dưới; cuối cùng rớt xuống đến tầng của nhân loại.

Toàn thể xã hội nhân loại đều cùng trong một tầng này. Đã rớt đến bước này, đứng tại

góc độ công năng mà xét, hoặc đứng tại góc độ các Đại Giác Giả mà xét, [thì] những thể

sinh mệnh kia cần phải bị tiêu huỷ. Tuy nhiên các Đại Giác Giả đã xuất phát từ tâm từ bi

mà cấp cho họ một cơ hội nữa; [các Đại Giác Giả] tạo nên một hoàn cảnh đặc thù, một

không gian đặc thù như thế này. Tuy vậy các thể sinh mệnh tại không gian này khác xa

các thể sinh mệnh tại tất cả không gian khác trong vũ trụ. Những thể sinh mệnh tại không

gian này không thể nhìn thấy các thể sinh mệnh tại các không gian khác, và không thể

nhìn thấy chân tướng của vũ trụ; bởi vậy ai [rớt xuống đây] đều tương đương với rơi vào

[cõi] mê. Muốn hết bệnh, trừ nạn, tiêu nghiệp, thì những người này phải tu luyện, [phải]

'phản bổn quy chân' đó chính là điều mà các loại [môn pháp] tu luyện đều nhìn nhận. Con

người phải phản bổn quy chân, đó mới là mục đích chân chính để làm người; do vậy một

Chân chính đưa con người lên cao tầng

2

cá nhân hễ muốn tu luyện, thì được [xác] nhận là Phật tính đã xuất hiện. Niệm ấy trân quý

nhất, vì vị ấy muốn phản bổn quy chân, muốn từ tầng của người thường mà nhảy ra.

Có thể mọi người đã từng nghe câu này trong Phật giáo: 'Phật tính nhất xuất, chấn

động thập phương thế giới'. Ai mà nhìn thấy, [thì] đều [muốn] giúp người kia, giúp một

cách vô điều kiện. Phật gia độ nhân không nói điều kiện, [cũng] không có giá cả; có thể

giúp đỡ người kia một cách vô điều kiện; vậy nên chúng tôi có thể làm cho học viên rất

nhiều sự việc. Nhưng [đối với] một người thường, chỉ muốn làm người nơi người thường,

họ [chỉ] muốn hết bệnh, thì không thể được. Có người nghĩ: 'Mình hết bệnh thì mình sẽ tu

luyện'. Tu luyện không có điều kiện nào hết; muốn tu luyện, thì tu luyện thôi. Nhưng

mang một thân thể có bệnh, hoặc có người mang trên thân những tín tức còn rất loạn; có

người chưa từng luyện công; cũng có người đã luyện công hàng chục năm, nhưng vẫn

loanh quanh ở [tầng luyện] khí, cũng chưa tu được lên trên.

Vậy làm sao đây? Chúng tôi sẽ tịnh hoá thân thể họ, để họ có thể tu luyện lên cao

tầng. Trong khi tu luyện tại tầng thấp nhất, có một quá trình, chính là thân thể chư vị được

hoàn toàn tịnh hoá cho đến triệt để; tất cả những gì không tốt tồn tại trong tư tưởng, quanh

thân thể tồn tại trường nghiệp lực và những nhân tố làm thân thể không được khoẻ mạnh;

toàn bộ những thứ ấy phải được thanh lý ra hết. Nếu chẳng thanh lý, mang theo thân thể

nhơ nhớp, thân thể đen bẩn và tư tưởng dơ xấu như vậy, thử hỏi có thể đạt đến tu luyện lên

cao tầng được không? Ở đây chúng ta không luyện khí, không yêu [cầu] chư vị luyện gì ở

tầng thấp ấy hết; chúng tôi đẩy chư vị vượt qua, để cho thân thể chư vị đạt đến trạng thái

vô bệnh. Đồng thời chúng tôi còn cấp cho chư vị một bộ đã hình thành đầy đủ mọi thứ cần

thiết cho [việc tạo] cơ sở của tầng thấp; như thế, chúng ta sẽ ở trên tầng rất cao [mà] luyện

công.

Chiểu theo thuyết pháp tu luyện, khí được tính [thế nào]: có ba tầng. Nhưng tu luyện

chân chính (không tính phần luyện khí), gồm có hai tầng lớn tất cả: một là tu luyện 'thế

gian pháp', hai là tu luyện 'xuất thế gian pháp'. Thế gian pháp và xuất thế gian pháp này

khác với 'xuất thế gian' và 'nhập thế gian' [được giảng] trong chùa, vốn chỉ là lý luận.

[Của] chúng tôi là biến hoá tại hai tầng lớn tu luyện [thân] thể người một cách chân chính.

Bởi vì trong quá trình tu luyện thế gian pháp thân thể người được tịnh hoá liên tục, tịnh

hoá không ngừng; do đó khi đến hình thức cao nhất của thế gian pháp, thân thể đã hoàn

toàn được thay thế bằng vật chất cao năng lượng. Còn tu luyện xuất thế gian pháp cơ bản

là tu luyện Phật thể, là thân thể cấu thành từ vật chất cao năng lượng, [trong đó] tất cả

công năng đều tái xuất lại mới. Chúng tôi nói về hai tầng lớn như vậy.

Chúng tôi giảng duyên phận; với mọi người ngồi đây, tôi có thể làm cho mọi người

những sự việc này. Chúng ta hiện nay cũng đã hơn hai nghìn người; với vài nghìn người,

thậm chí nhiều hơn nữa, trên vạn người, tôi cũng có thể làm được; nghĩa là, chư vị không

cần luyện lại những gì ở tầng thấp. Sau khi tịnh hoá thân thể của chư vị và đẩy chư vị vượt

qua, tôi sẽ cài cho chư vị một bộ hoàn chỉnh một hệ thống tu luyện; chư vị lên ngay trực

tiếp tu luyện tại cao tầng. Nhưng [điều này] chỉ giới hạn cho những học viên đến tu luyện

chân chính; không thể nói rằng [hễ] chư vị ngồi ở đây, [thì] chư vị là người tu luyện. Khi

trong tư tưởng [chư vị] có chuyển biến căn bản, thì chúng tôi có thể cấp [cho chư vị];

không chỉ những thứ ấy; sau này chư vị sẽ hiểu rõ ràng minh bạch rằng tôi đã cấp cho mọi

người rốt ráo những gì. Tại đây chúng tôi cũng không giảng trị bệnh; nhưng chúng tôi nói

điều chỉnh toàn thể thân thể của học viên, sao cho chư vị có thể luyện công. Chư vị mang

cái thân thể có bệnh, thì chư vị hoàn toàn không thể xuất [hiện] công; do đó mọi người

cũng không nên tìm tôi để trị bệnh; tôi cũng không làm việc ấy. Tôi ra công chúng1 có

mục đích chủ yếu là đưa con người lên cao tầng, đưa con người lên cao tầng một cách

chân chính.

1Xuất sơn: ra công chúng (nghĩa chuyển, nghĩa bóng).Chân chính đưa con người lên cao tầng

3

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau

Trước đây có nhiều khí công sư giảng rằng khí công có nào là sơ cấp, trung cấp, cao

cấp. Cái đó toàn là khí, đều là những thứ tại cùng một tầng luyện khí, mà cũng phân thành

sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Về những gì thực sự tại cao tầng, hầu hết những người tu luyện

khí công chúng ta không có gì trong đầu hết, [họ] hoàn toàn chẳng biết gì. Từ nay trở đi,

những gì chúng tôi nói rõ đều là Pháp tại cao tầng. Hơn nữa tôi muốn khôi phục lại danh

tiếng chân chính của [pháp môn] tu luyện. Tại khoá học này tôi muốn đề cập đến một số

hiện tượng bất lương trong giới tu luyện. Chúng ta đối đãi, nhìn nhận những hiện tượng ấy

như thế nào, tôi đều cần giảng rõ; hơn nữa truyền công giảng Pháp tại cao tầng có liên

quan đến nhiều mặt, liên quan đến vấn đề rất lớn, thậm chí rất gay gắt; tôi cũng muốn

giảng rõ những điều ấy; lại có những can nhiễu xuất phát từ không gian khác đến xã hội

người thường chúng ta, đặc biệt can nhiễu đến giới tu luyện; tôi cũng cần giảng rõ; đồng

thời [tôi] cũng giúp học viên của chúng ta giải quyết những vấn đề ấy. Nếu vấn đề ấy

chẳng được giải quyết, [thì] chư vị không luyện công được. Muốn giải quyết tận gốc

những vấn đề đó, chúng tôi cần phải coi mọi người [học viên] như những người tu luyện

chân chính thì mới làm vậy được. Đương nhiên, không dễ mà chuyển biến ngay lập tức tư

tưởng của chư vị; trong khi nghe bài giảng từ nay trở đi, chư vị sẽ chuyển biến tư tưởng

của mình một cách từ từ; cũng mong muốn rằng chư vị chú ý nghe [giảng]. Tôi truyền

công khác với người khác truyền công. Có người truyền công, họ chỉ đơn giản là giảng

một chút về công lý của họ, sau đó kết nối [để truyền] một chút tín tức, rồi dạy một bộ thủ

pháp là xong. Người ta hiện nay đã quen với [phương cách] truyền công như thế.

Truyền công chân chính cần phải giảng về Pháp, phải thuyết về Đạo. Qua mười bài

giảng trên lớp, tôi cần nói rõ những [Pháp] lý tại cao tầng, chư vị mới có thể tu luyện

được; nếu không, thì không cách nào tu luyện. Người ta chỉ truyền những thứ tại tầng chữa

bệnh khoẻ người thôi; [nếu] chư vị muốn tu luyện lên cao tầng, [nhưng] chư vị lại không

có Pháp để chỉ đạo tại cao tầng, [thì] chư vị không thể tu luyện được. Ví như chư vị đi

học, chư vị mang sách giáo khoa tiểu học mà đến đại học, [thì] chư vị vẫn chỉ là học sinh

tiểu học. Có người cho rằng [họ] học rất nhiều công, học công này, học công kia, có cả

chồng chứng chỉ tốt nghiệp; nhưng công của họ vẫn chưa hề [tăng] lên. Họ cho rằng

những thứ đó chính là nghĩa lý chân chính và toàn bộ khí công; không phải thế, đó chỉ là

phần vỏ nông cạn của khí công, [là] những thứ tại tầng thấp nhất. Khí công không chỉ là

vậy; nó là tu luyện, là điều rộng lớn tinh thâm; ngoài ra tại những tầng khác nhau tồn tại

những Pháp khác nhau; vậy nó khác với những thứ luyện khí chúng ta biết hiện nay;

[những thứ mà] chư vị có học nhiều nữa cũng vậy thôi. Lấy một thí dụ, sách tiểu học của

Anh chư vị cũng học, sách tiểu học của Mỹ chư vị cũng học, sách tiểu học của Nhật chư vị

cũng học, sách tiểu học của Trung Quốc chư vị cũng học, [rốt cuộc] chư vị vẫn chỉ là học

sinh tiểu học. Chư vị học càng lắm khí công tại tầng thấp, nhận càng nhiều những thứ ấy,

thì trái lại lại càng có hại, [vì] thân của chư vị đã bị loạn mất rồi.

Tôi cũng cần phải nhấn mạnh một vấn đề, tu luyện chúng ta cần phải có truyền công

[và] giảng Pháp. Một số hoà thượng ở chùa, đặc biệt là [hoà thượng] Thiền tông có thể có

cách nghĩ khác. Hễ nghe đến giảng Pháp, họ liền không thích nghe. Tại sao? Thiền tông

[nhìn] nhận rằng: Pháp ấy không thể giảng, Pháp đã giảng ra [thành lời] thì không còn là

Pháp nữa; không có Pháp có thể giảng; chỉ có thể tâm lĩnh thần hội; vậy nên đến ngày nay

Thiền tông không giảng Pháp gì hết. Đạt Ma [bên] Thiền tông truyền [dạy] điều ấy; [đó] là

căn cứ theo một câu của Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca Mâu Ni giảng: 'Pháp vô định Pháp'.

Ông ấy căn cứ trên câu thoại của Thích Ca Mâu Ni mà sáng lập pháp môn Thiền tông.

Chúng tôi nói cái pháp môn ấy là thứ dùi sừng bò. Sao lại gọi là dùi sừng bò? Khởi đầu

khi Đạt Ma dùi vào trong thì thấy còn rộng; nhị tổ dùi vào thì thấy không còn rộng nữa;

tam tổ thì thấy còn lọt được; tứ tổ thì thấy hẹp lắm rồi; ngũ tổ về cơ bản chẳng còn gì để

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau

4

dùi nữa; tới lục tổ Huệ Năng thì đã đến đỉnh [sừng bò] và có dùi cũng chẳng đi đến đâu

được nữa. Ngày nay chư vị nếu muốn đến Thiền tông học Pháp, chư vị chớ hỏi; nếu chư vị

hỏi ông [thầy] bất kể vấn đề gì, [ông ta] sẽ quay lại cho vào đầu chư vị một gậy, gọi là

"bổng hát"1. Đó nghĩa là chư vị không được hỏi, phải tự mình ngộ. Chư vị nói: 'Tôi chưa

biết nên mới đến học, ngộ được gì đây? Ông lại cho tôi một gậy [là sao]?!' Đó là cái sừng

bò kia đã dùi đến đỉnh rồi, không còn gì có thể giảng nữa. Đạt Ma giảng rõ là nó chỉ có thể

truyền đến lục tổ, sau đó không dùng được nữa. Mấy trăm năm qua rồi, đến nay vẫn có

người ôm chết cứng cái lý của Thiền tông mà không bỏ. Hàm nghĩa chân chính của lời

giảng "Pháp vô định Pháp" của Thích Ca Mâu ni là gì? Tầng của Thích Ca Mâu Ni là

[tầng] Như Lai; [nhưng] các tăng nhân sau này có rất nhiều vị không hề ngộ đến tầng của

Thích Ca Mâu Ni, [không ngộ được] tâm thái trong cảnh giới tư tưởng của Ông, hàm

nghĩa chân chính trong Pháp mà Ông giảng, [cũng như] hàm nghĩa chân chính trong lời

mà Ông nói. Vậy nên đời sau người giải thích thế này, người giải thích thế kia, giải thích

đến độ hỗn loạn; cho rằng 'Pháp vô định Pháp' nghĩa là chư vị không được giảng, đã

giảng ra thì không còn là Pháp nữa. Thật ra không phải nghĩa như vậy. Thích Ca Mâu Ni

dưới cội bồ đề khai công khai ngộ rồi, chưa lập tức đạt đến tầng Như Lai. Trong suốt 49

năm truyền Pháp, Ông liên tục tự mình đề cao. Mỗi khi đề cao [lên] một tầng, Ông quay

lại xét thấy Pháp mình vừa giảng xong không còn đúng nữa. Lại đề cao lên, Ông phát hiện

rằng Pháp mình vừa giảng xong lại cũng không đúng nữa. Cứ đề cao lên, Ông lại phát hiện

rằng Pháp vừa giảng xong lại không còn đúng. Trong toàn bộ 49 năm, Ông không ngừng

thăng hoa như thế; mỗi lần đề cao [lên] một tầng, [Ông] lại phát hiện Pháp Ông giảng

trước đó về nhận thức đều là rất thấp. Ông cũng phát hiện rằng Pháp của mỗi một tầng là

thể hiện của Pháp tại mỗi một tầng đó; mỗi một tầng đều có Pháp, nhưng đó không phải là

chân lý tuyệt đối của vũ trụ. Vả lại Pháp của tầng cao so với Pháp của tầng thấp thì [tiếp

cận] gần đặc tính của vũ trụ hơn; vậy nên, Ông bèn giảng: 'Pháp vô định Pháp'.

Cuối cùng Thích Ca Mâu Ni lại giảng: 'Ta đời này chưa có giảng Pháp nào hết'.

Thiền tông lại lý giải rằng không Pháp có thể giảng. Vào những năm cuối, Thích Ca Mâu

Ni đã đạt đến tầng Như Lai; hỏi tại sao Ông nói Ông chưa có giảng Pháp nào hết? Thực ra

Ông đã nêu ra một vấn đề gì? Ông [muốn] nói: 'Đạt đến tầng Như Lai như ta, ta chưa thể

thấy được [chân] lý tối hậu của vũ trụ, Pháp tối hậu của vũ trụ là gì'. Vậy nên Ông muốn

nói người đời sau không được lấy những lời Ông giảng làm chân lý tuyệt đối, chân lý bất

biến; nếu không người đời sau sẽ bị hạn cuộc vào tầng Như Lai hoặc thấp hơn Như Lai,

mà không thể đột phá lên tầng cao hơn. Người đời sau không lý giải được nghĩa chân

chính của câu nói ấy, [nên nhìn] nhận rằng Pháp đã giảng ra thì không còn là Pháp, [họ] lý

giải kiểu như thế. Kỳ thực Thích Ca Mâu Ni [muốn] giảng rằng: Các tầng khác nhau có

Pháp của các tầng khác nhau, Pháp của mỗi một tầng không phải là chân lý tuyệt đối của

vũ trụ; nhưng Pháp của mỗi một tầng có tác dụng [làm Pháp lý] chỉ đạo tại mỗi một tầng.

Thật ra Ông đã giảng chính [Pháp] lý này.

Trước đây có nhiều người, đặc biệt [bên] Thiền tông, cứ nhất mực bảo trì nhận thức

thiên kiến và sai lầm cực đoan ấy. Không dạy chư vị, thử hỏi chỉ đạo [tu] luyện làm sao,

luyện thế nào, rồi tu ra sao? Trong Phật giáo có nhiều chuyện cổ Phật giáo, có thể có

người đã từng xem; kể rằng lên trên trời, sau khi đến thiên quốc, rồi phát hiện rằng kinh

«Kim Cương» ở đó so với kinh «Kim Cương» ở dưới [hạ giới], từng chữ đều khác nhau, ý

nghĩa cũng khác nhau. Tại sao kinh «Kim Cương» kia lại khác với kinh «Kim Cương» tại

nhân gian? Lại có người nói: Kinh sách của thế giới Cực Lạc so với [kinh thư] dưới [hạ

giới] quả là khác hẳn, hoàn toàn khác nhau, không chỉ các chữ khác nhau mà hàm nghĩa, ý

nghĩa cũng khác nhau, chúng đã thay đổi hẳn rồi. Thật ra, chính là cùng một Pháp đồng

nhất [nhưng] tại các tầng khác nhau [thì] có các biến hoá và hình thức hiển hiện khác

1Bổng hát: gậy cảnh tỉnh.

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau

5

nhau; đối với người tu luyện tại các tầng khác nhau, có thể phát huy tác dụng chỉ đạo khác

nhau.

Mọi người đều biết, trong Phật giáo có cuốn sách nhỏ tên là «Tây phương Cực Lạc

thế giới du ký», kể rằng một tăng nhân kia đả toạ luyện công, nguyên thần [bay] đến thế

giới Cực Lạc xem ngắm cảnh tượng [nơi ấy]; hết một ngày; rồi quay về nhân gian đã thấy

sáu năm trôi qua. Vị ấy thấy được không? Đã thấy, nhưng điều vị ấy đã thấy không phải là

chân tướng. Tại sao? Bởi vì tầng của vị ấy không đủ, [nên] chỉ có thể ở tầng của vị ấy mà

hiển hiện cho vị ấy những thể hiện của Phật Pháp mà vị ấy nên được thấy. Bởi vì một thế

giới kiểu như vậy chính là thể hiện cấu thành của Pháp; cho nên, vị ấy không thể thấy

được chân tướng. Tôi giảng rằng 'Pháp vô định Pháp' chính là có hàm nghĩa như thế.

Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu

Trong Phật giáo người ta luôn tìm hiểu xem Phật Pháp là gì. Cũng có người [nhìn]

nhận rằng Pháp giảng trong Phật giáo chính là toàn bộ Phật Pháp; thực ra không phải.

Pháp mà Thích Ca Mâu Ni giảng, cách đây 2 nghìn 5 trăm năm dành cho những người

thường ở tầng cực thấp, mới thoát thai từ xã hội nguyên thuỷ; [là] Pháp giảng cho những

người có tư tưởng đơn giản như thế. Thời mạt Pháp mà Ông nói đến, chính là hôm nay;

con người hiện tại mà dùng Pháp ấy để tu luyện thì đã không thể được nữa. Vào thời mạt

Pháp, hoà thượng trong chùa tự độ còn rất khó, huống là độ nhân. Pháp mà Thích Ca Mâu

Ni thời đó truyền là nhắm thẳng vào tình huống bấy giờ mà truyền; ngoài ra Ông cũng

không hề giảng hết ra những gì bản thân Ông tại tầng của mình biết về Phật Pháp; muốn

bảo trì bất biến vĩnh cửu [Pháp ấy], cũng không thể được.

Xã hội đang phát triển; tư tưởng của nhân loại càng ngày càng phức tạp; khiến con

người không dễ dàng theo cách đó mà tu được nữa. Pháp trong Phật giáo không thể khái

quát toàn bộ Phật Pháp, nó chỉ là bộ phận rất nhỏ của Phật Pháp. Còn có rất nhiều Pháp

lớn của Phật gia đang lưu truyền tại dân gian, đơn truyền qua các thời đại. Các tầng khác

nhau có các Pháp khác nhau, các không gian khác nhau có các Pháp khác nhau; đó chính

là Phật Pháp thể hiện khác nhau tại từng không gian, tại từng tầng khác nhau. Thích Ca

Mâu Ni cũng giảng rằng tu Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn; nhưng trong Phật giáo chỉ có

Thiền tông, Tịnh Độ, Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Mật tông, v.v khoảng hơn chục pháp môn,

không thể bao quát hết Phật Pháp được. Bản thân Thích Ca Mâu Ni không hề truyền ra hết

Pháp của mình, [Ông] chỉ nhắm thẳng vào năng lực tiếp thụ của người thời đó mà truyền

một bộ phận mà thôi.

Vậy Phật Pháp là gì? Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện Nhẫn, Nó

chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn bản. Phật Pháp tại

các tầng khác nhau có các hình thức thể hiện khác nhau, tại các tầng khác nhau có các tác

dụng chỉ đạo khác nhau; tầng càng thấp [thì] biểu hiện càng phức tạp. Vi lạp không khí,

đá, gỗ, đất, sắt thép, [thân] thể người, hết thảy vật chất đều có tồn tại trong nó cái chủng

đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy; thời xưa giảng rằng ngũ hành cấu thành nên vạn sự vạn vật

trong vũ trụ; [ngũ hành kia] cũng có tồn tại chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy. Người tu

luyện đến được tầng nào thì chỉ có thể nhận thức được thể hiện cụ thể của Phật Pháp tại

tầng ấy; đó chính là quả vị và tầng tu luyện [của người ấy]. Nói chung, Pháp rất lớn. Đến

điểm cực cao mà giảng, thì rất đơn giản; bởi vì Pháp kia giống như hình dáng của kim tự

tháp. Đến nơi tầng cực cao thì ba chữ có thể dùng để khái quát, đó chính là Chân Thiện

Nhẫn; thể hiện tại các tầng cực kỳ phức tạp. Lấy con người làm ví dụ, Đạo gia xem [thân]

thể người như một tiểu vũ trụ; con người có thân thể vật chất; nhưng chỉ cái thân thể vật

chất ấy không thể đủ cấu thành một con người hoàn chỉnh được; còn phải có tính khí, tính

cách, đặc tính, và nguyên thần mới có thể cấu thành một con người hoàn chỉnh, độc lập, và

mang theo cá tính tự ngã. Vũ trụ này của chúng ta cũng như thế; có hệ Ngân Hà, có các

Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu

6

thiên hà khác, cũng như các sinh mệnh và nước, vạn sự vạn vật trong vũ trụ này; [tất cả

những thứ ấy] chúng đều có phương diện tồn tại vật chất; đồng thời chúng cũng có tồn tại

đặc tính Chân Thiện Nhẫn. Dẫu là vi lạp vật chất nào thì cũng bao hàm chủng đặc tính ấy,

trong vi lạp cực nhỏ cũng bao hàm chủng đặc tính ấy.

Chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn để nhận định tốt và xấu trong vũ trụ.

Thế nào là tốt, thế nào là xấu? Chính là dùng Nó {Chân Thiện Nhẫn} mà xác định. 'Đức'

mà chúng ta nói đến trong quá khứ cũng tương tự như thế. Tất nhiên chuẩn mực đạo đức

của xã hội nhân loại hiện nay đã biến đổi rất nhiều, tiêu chuẩn đạo đức đã méo mó hẳn rồi.

Hiện nay [nếu] có người noi gương Lôi Phong, thì có thể bị coi là mắc bệnh tâm thần.

Nhưng nếu vào hồi thập kỷ 50, 60, thì ai dám nói người ấy bị bệnh tâm thần? Chuẩn mực

đạo đức của nhân loại đang trượt trên dốc lớn, đạo đức thế gian trượt xuống hàng ngày;

chỉ chạy theo lợi, chỉ vì chút đỉnh lợi ích cá nhân mà làm tổn hại người khác; người tranh

kẻ đoạt, chẳng từ một thủ đoạn nào. Mọi người thử nghĩ xem, có được phép tiếp tục như

thế này không? Có người làm điều xấu, chư vị nói rằng anh ta đã làm điều xấu, anh ta

cũng không tin; anh ta thật sự không tin rằng mình đã làm điều xấu; có một số người dùng

chuẩn mực đạo đức đang trượt dốc kia mà tự đo lường bản thân mình, cho rằng mình tốt

hơn người khác, vì tiêu chuẩn để đánh giá đã thay đổi rồi. Dẫu tiêu chuẩn đạo đức của

nhân loại có thay đổi thế nào đi nữa, đặc tính của vũ trụ không hề thay đổi; Nó chính là

tiêu chuẩn duy nhất để xác định người tốt xấu. Là người tu luyện, phải chiểu theo tiêu

chuẩn này của vũ trụ mà yêu cầu chính mình, không thể chiểu theo tiêu chuẩn của người

thường mà đặt yêu cầu cho mình được. Nếu chư vị muốn phản bổn quy chân, chư vị muốn

tu luyện lên trên, thì chư vị cần chiểu theo tiêu chuẩn ấy mà làm. Là một cá nhân, nếu

thuận với đặc tính Chân Thiện Nhẫn này của vũ trụ, thì mới là một người tốt; còn người

hành xử trái biệt với đặc tính này, thì đúng là một người xấu. Trong đơn vị [công tác],

hoặc ngoài xã hội, có người có thể nói chư vị xấu, [nhưng] chư vị không nhất định đúng là

xấu; có người nói chư vị tốt, chư vị lại cũng không nhất định đúng là tốt. Là người tu

luyện, [nếu] đồng hoá với đặc tính này, [thì] chư vị chính là người đắc Đạo; [Pháp] lý đơn

giản như vậy.

Đạo gia tu luyện Chân Thiện Nhẫn, trọng điểm tu Chân; vậy nên Đạo gia giảng tu

chân dưỡng tính, nói lời chân, làm điều chân, làm chân nhân, phản bổn quy chân, cuối

cùng tu thành Chân Nhân. Nhưng cũng có Nhẫn, cũng có Thiện; [còn] trọng điểm rơi vào

tu Chân. Trọng điểm của Phật gia rơi vào tu Thiện của Chân Thiện Nhẫn. Vì tu Thiện có

thể tu xuất tâm đại từ bi; một khi xuất hiện tâm từ bi, thì [thấy] chúng sinh rất khổ, do vậy

phát sinh nguyện vọng muốn phổ độ chúng sinh. Nhưng cũng có Chân, cũng có Nhẫn;

trọng điểm rơi vào tu Thiện. Pháp môn Pháp Luân Đại Pháp của chúng ta chiểu theo tiêu

chuẩn tối cao của vũ trụ-Chân Thiện Nhẫn đồng tu-[vậy nên] công chúng ta luyện rất

to lớn.

Khí công là văn hoá tiền sử

Khí công là gì? Rất nhiều khí công sư giảng về điều này; điều tôi giảng khác với điều

họ giảng. Rất nhiều khí công sư [chỉ] giảng từ tầng [của họ]; còn tôi thì giảng về nhận thức

đối với khí công từ tầng cao hơn, so với nhận thức của họ tuyệt nhiên khác hẳn. Có khí

công sư giảng: Khí công nước ta có lịch sử 2 nghìn năm; cũng có vị giảng [khí công] có

lịch sử 3 nghìn năm; có vị giảng có lịch sử 5 nghìn năm, so với lịch sử nền văn minh của

dân tộc Trung Hoa chúng ta thì không khác là mấy; lại cũng có người giảng rằng, dựa theo

quan sát văn vật khai quật được thì [khí công] có lịch sử 7 nghìn năm, [vậy là] vượt xa lịch

sử nền văn minh của dân tộc Trung Hoa chúng ta. Nhưng nhận thức của họ dù thế nào đi

nữa, nó cũng không vượt quá xa khỏi lịch sử nền văn minh của nhân loại. Chiểu theo

thuyết tiến hoá của Darwin, thì nhân loại [xuất phát] từ thực vật dưới nước, rồi [thành]

Khí công là văn hoá tiền sử

7

động vật dưới nước, sau đó bò lên lục địa, rồi leo lên cây, rồi lại quay xuống mặt đất thành

người vượn, cuối cùng tiến hoá thành nhân loại hiện đại có tư tưởng có văn hoá; từ đó mà

suy ra rằng nền văn minh nhân loại thực sự xuất hiện không thể quá 1 vạn năm. Còn suy

xét trước đó, thì ngay cả thắt nút dây để ghi nhớ sự việc [họ] cũng chưa [biết]. [Họ] che

thân bằng lá cây, ăn thịt sống; còn trước đó nữa, thì có thể còn chưa biết lấy lửa, hoàn toàn

là con người hoang dã, con người nguyên thuỷ.

Nhưng chúng tôi phát hiện một vấn đề; tại nhiều địa phương trên thế giới còn lưu lại

rất nhiều những tích cổ văn minh, [tuổi của chúng] vượt xa rất nhiều lịch sử nền văn minh

nhân loại chúng ta. Những tích cổ ấy, đứng về góc độ công nghệ mà xét, thì có trình độ

công nghệ rất cao; còn về góc độ nghệ thuật mà xét, thì cũng khá cao siêu; con người hiện

đại [dường như] chỉ là mô phỏng lại nghệ thuật của người xưa, [vốn] có giá trị thưởng

thức rất sâu sắc. Nhưng chúng đã được lưu lại từ trên mười vạn năm, mấy chục vạn năm,

vài trăm vạn năm, thậm chí trên vài trăm triệu năm về trước. Mọi người thử nghĩ xem,

điều ấy chẳng phải đang cười giễu lịch sử ngày nay hay sao? Cũng không có gì đáng cười

hết; bởi vì nhân loại không ngừng tự hoàn thiện, không ngừng tự nhận thức lại một cách

mới, xã hội chính là đang phát triển như thế, [và] nhận thức ban đầu không nhất định là

tuyệt đối chính xác.

Có thể nhiều người đã nghe nói đến "văn hoá tiền sử", cũng gọi là "văn minh tiền sử";

chúng tôi giảng về [vấn đề] văn minh tiền sử đó. Trên trái đất có châu Á, châu Âu, Nam

Mỹ, Bắc Mỹ, châu Đại Dương, châu Phi, và châu Nam Cực; những nhà Địa Chất học gọi

chúng với tên chung là "bản khối đại lục". Các bản khối đại lục hình thành cho đến hôm

nay, đã trải qua hàng chục triệu năm lịch sử. Nên cũng nói, có rất nhiều lục địa từ đáy biển

nổi lên, cũng có rất nhiều lục địa trầm xuống đáy biển; ổn định ở trạng thái hiện nay đã

qua lịch sử hàng chục triệu năm rồi. Nhưng tại nhiều đáy biển, [người ta] đã phát hiện

nhiều kiến trúc cổ đại to lớn; những kiến trúc này được chạm khắc tinh tế và đẹp phi

thường; [chúng] không phải là di sản của nền văn hoá nhân loại hiện nay, mà chúng khẳng

định đã được kiến tạo từ trước khi bị trầm xuống đáy biển. Từ hàng chục triệu năm trước

thì hỏi ai đã sáng tạo ra những nền văn minh ấy? Lúc bấy giờ, nhân loại chúng ta còn chưa

là khỉ, làm sao tạo dựng nổi những thứ trí tuệ cao như thế? Trên thế giới, các nhà khảo cổ

học đã phát hiện một loài sinh vật, mang tên "bọ ba thuỳ"; nó là sinh vật có từ 600 triệu

đến 260 triệu năm trước đây; còn trước đây 260 triệu năm cho đến nay nó không có nữa.

Một khoa học gia của Mỹ đã phát hiện một khối hoá thạch bọ ba thuỳ; đồng thời trên mặt

[khối hoá thạch] còn có dấu chân một người đang đi giày đạp lên, in rõ mồn một trên mặt

[khối hoá thạch]. Điều ấy chẳng phải là chế nhạo những nhà lịch sử học là gì? Cứ chiểu

theo thuyết tiến hoá của Darwin, vào 260 triệu năm trước lẽ nào đã có con người được?

Tại bảo tàng của Đại Học Quốc Gia Peru có một khối đá; trên khối đá ấy có khắc một

hình người; theo khảo sát thì hình người này được khắc lên đó 3 vạn năm về trước. Nhưng

hình người ấy mặc y phục, đội mũ, đi giày, trong tay lại còn cầm một chiếc kính viễn vọng

đang quan sát thiên thể. Con người 3 vạn năm trước hỏi biết dệt vải may áo là sao? Lại

càng khó tin hơn nữa, là người ấy cầm kính viễn vọng để quan sát thiên thể, vậy nhất định

còn có tri thức về thiên văn. Chúng ta vẫn [nhìn] nhận rằng một người châu Âu là Galileo

là người đã phát minh ra kính viễn vọng; tính đến nay mới hơn 3 trăm năm lịch sử; vậy ai

là người đã phát minh ra kính viễn vọng 3 vạn năm trước? Còn rất nhiều chỗ mê khó giải

thích nữa. Chẳng hạn có rất nhiều bức bích hoạ đá trong các động đá tại Pháp, Nam Phi,

và dãy núi Alps; chúng được khắc hết sức chân thực và sống động. Những hình người

được khắc trông vô cùng tinh tế và đẹp, và được tô với chất liệu mầu là một thứ khoáng

chất. Nhưng họ vận trang phục người hiện đại, tương tự Âu phục, mặc quần nịt. Có người

tay cầm thứ như cái tẩu thuốc, có người cầm ba-toong, có người đội mũ. Những con khỉ

mấy chục vạn năm trước, làm sao có được mức độ nghệ thuật cao như thế?

Khí công là văn hoá tiền sử

8

Nói xa hơn nữa, ở châu Phi có nước Cộng Hoà Gabon có một mỏ quặng uranium;

nước này có phần lạc hậu, tự mình không thể chiết luyện uranium, [nên phải] xuất khẩu

[quặng] sang những nước tiên tiến. Năm 1972, một nhà máy ở Pháp nhập khẩu quặng

uranium ấy. Qua hoá nghiệm đã phát hiện rằng quặng uranium này đã được chiết luyện và

đã bị sử dụng. Thấy quá lạ, họ bèn phái những nhân viên khoa học kỹ thuật đi khảo sát,

khoa học gia nhiều nước khác cũng đi khảo sát. Cuối cùng kiểm chứng được rằng mỏ

quặng uranium kia chính là một lò phản ứng hạt nhân cỡ lớn; hơn nữa bố cục hết sức hợp

lý; con người hiện đại chúng ta không thể tạo dựng. Vậy thử hỏi nó được xây dựng vào

thời gian nào? Vào 2 tỷ năm trước; nó đã được vận hành 50 vạn năm. Điều ấy quả là

những chữ số thiên văn; chiểu theo thuyết tiến hoá của Darwin thì không thể nào giải thích

nổi; sự tình như thế có rất nhiều. Những gì mà giới khoa học kỹ thuật phát hiện hôm nay

đã đủ để thay đổi sách giáo khoa hiện nay của chúng ta. [Khi] quan niệm cũ cố hữu đã

hình thành hệ thống và phương pháp tư duy, [thì] rất khó tiếp thu nhận thức mới. Khi chân

lý xuất hiện [người ta] không dám tiếp thụ, mà lại bài xích nó theo bản năng. Vì ảnh

hưởng của những quan niệm truyền thống, hiện nay không có ai [đứng ra] chỉnh lý điều

này một cách có hệ thống; vậy nên quan niệm của người ta luôn không theo kịp sự phát

triển; [nếu] chư vị có nói đến điều như thế-tuy nó chưa được phổ biến nhưng đã được

phát hiện rồi-[thì] vẫn có người nói đấy là 'mê tín', không [chịu] tiếp nhận.

Nhiều nhà khoa học dũng cảm ở nước ngoài đã công khai thừa nhận rằng chúng

[thuộc về] văn hoá tiền sử, là nền văn minh có trước nền văn minh lần này của nhân loại

chúng ta; chính là trước nền văn minh kỳ này của chúng ta đã tồn tại [những] thời kỳ văn

minh khác, hơn nữa [đã] không chỉ một lần. Khảo sát những văn vật khai quật được,

[người ta] thấy rằng đều không là sản vật của một thời kỳ văn minh. Do vậy [người ta]

nhìn nhận rằng nhiều lần văn minh nhân loại gặp phải đợt huỷ diệt, chỉ có một số ít người

sống sót; sau đó sống một cuộc sống nguyên thuỷ, dần dần sinh sôi thành [xã hội] nhân

loại mới, tiến vào nền văn minh mới. Sau đó lại đi đến huỷ diệt, dần dần sinh sôi thành

nhân loại mới; nó đã trải qua những chu kỳ biến đổi như thế. Các nhà vật lý giảng rằng, sự

vận động của vật chất là có quy luật, sự biển đổi của toàn vũ trụ chúng ta cũng là có quy

luật.

Sự vận động của trái đất chúng ta, trong vũ trụ bao la này, trong hệ Ngân Hà đang vận

chuyển này, không thể lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió; rất có thể nó va phải một tinh

cầu nào đó, hoặc một vấn đề nào đó nảy sinh, [và thế là] tạo thành một tai nạn rất lớn.

Đứng từ góc độ của công năng chúng tôi mà xét, thì chính là đã được an bài như vậy. Tôi

đã một lần khảo sát rất kỹ lưỡng, phát hiện rằng nhân loại đã có 81 lần [rơi vào] trạng thái

huỷ diệt hoàn toàn; chỉ có một ít người sống sót; lưu lại theo một chút văn hoá tiền sử vốn

có từ đầu, [họ] tiến vào một thời kỳ [mới], sống cuộc sống nguyên thuỷ. Nhân loại sinh sôi

đông lên rồi cuối cùng xuất hiện nền văn minh. Trải qua 81 lần chu kỳ biến đổi như thế;

tôi cũng chưa khảo sát được cho đến [tận thời điểm] ban đầu. Người Trung Quốc giảng về

thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Thiên tượng biến hoá khác nhau, thiên thời khác nhau, dẫn

đến xã hội người thường có những trạng thái xã hội khác nhau. Theo vật lý học giảng [thì]

sự vận động của vật chất là có quy luật; sự vận động của vũ trụ cũng lại như thế.

[Vấn đề] văn hoá tiền sử giảng bên trên chủ yếu chỉ để nói với mọi người rằng: khí

công cũng không phải là phát minh của nhân loại hôm nay, [nó] cũng đã được lưu lại từ

niên đại rất xa xưa, [nó] cũng là một thứ văn hoá tiền sử. Trong kinh thư [Phật giáo] chúng

ta cũng có thể tìm thấy luận thuật tương tự. Thích Ca Mâu Ni đương thời có giảng rằng,

Ông đã tu thành đắc Đạo từ hàng ức kiếp về trước. Một kiếp là bao nhiêu năm? Một kiếp

là bao nhiêu ức năm, đó là con số rất lớn, quả là không thể nghĩ bàn. Nếu đó là lời chân

thật, chẳng phải nó tương hợp với lịch sử nhân loại, và sự biến đổi của toàn trái đất hay

sao? Ngoài ra Thích Ca Mâu Ni còn giảng rằng, trước Ông có sáu vị Phật nguyên thuỷ tồn

Khí công là văn hoá tiền sử

9

tại, Ông cũng lại có sư phụ, v.v. tất cả đã từng tu luyện đắc Đạo từ hằng bao nhiêu ức kiếp.

Nếu những sự tình này chính là lời chân thật, vậy trong những công pháp chính thống,

công pháp chân truyền chân chính đang truyền ngoài xã hội chúng ta hôm nay, hỏi có

phương pháp tu luyện như thế hay không? Nếu yêu cầu tôi trả lời, [thì] đương nhiên là có,

[nhưng] chẳng thể gặp nhiều. Hiện nay giả khí công, nguỵ khí công, cho đến những loại

người có mang theo phụ thể, tất cả đã loạn tạo những thứ để lừa người; [số ấy] vượt xa khí

công chân chính gấp bội; thật giả khó mà phân biệt được. Khí công chân chính không dễ

phân biệt được, cũng không dễ mà tìm được đâu.

Thực ra không chỉ khí công là được lưu lại từ niên đại xa xưa; [mà] Thái Cực, Hà Đồ,

Lạc Thư, Chu Dịch, Bát Quái, v.v. đều là [những thứ] di lưu từ tiền sử. Vậy nên chúng ta

hôm nay đứng tại góc độ người thường mà nghiên cứu chúng, nhận thức chúng, [thì]

chẳng nghiên cứu được gì sáng tỏ. Đứng tại tầng, từ góc độ, trong cảnh giới tư tưởng của

người thường, [thì] lý giải không được những điều chân chính [trong ấy].

Khí công chính là tu luyện

Khí công đã có lịch sử xa xưa đến như vậy, thì rốt cuộc nó có tác dụng gì? Tôi nói

cho mọi người rằng, [pháp môn] chúng ta là tu luyện Đại Pháp của Phật gia, vậy đương

nhiên là tu Phật; còn Đạo gia thì đương nhiên tu Đạo đắc Đạo. Tôi nói cho mọi người hay,

[chữ] "Phật" ấy không hề mê tín. Chữ "Phật" {Buddha} là tiếng Phạn, tiếng Ấn Độ cổ.

Vào thời [Phật giáo] truyền vào nước Trung Quốc chúng ta, nó có hai chữ, đọc là "Phật

Đà", cũng có người phiên âm là "Phù Đồ". Truyền tới truyền lui, người Trung Quốc

chúng ta lược bớt đi một chữ, đọc thành "Phật". [Nếu] dịch ra tiếng Trung Quốc, thì ý

tưởng là gì? Chính là 'Giác Giả', [là] người thông qua tu luyện mà giác ngộ. Ở đây nào có

mang màu sắc mê tín gì?

Mọi người thử nghĩ xem, tu luyện có thể xuất hiện công năng đặc dị. Trên thế giới

hiện nay có sáu loại công năng đã được công nhận; [nhưng] không chỉ có vậy, tôi nói rằng

công năng chân chính có trên một vạn loại. Người ngồi chỗ kia, không động tay không

động chân, mà có thể làm những điều mà mọi người dùng hết cả tay lẫn chân cũng không

làm được; có thể thấy được [Pháp] lý chân chính của các không gian vũ trụ; thấy chân

tướng của vũ trụ; thấy những điều người thường không thấy. Chẳng phải đó đã là người tu

luyện đắc Đạo? Chẳng phải đó đã là Đại Giác Giả? Liệu có thể nói người ấy cũng như

người thường? Chẳng phải là người tu luyện giác ngộ là gì? Gọi là 'Giác Giả' chẳng đúng

sao? Dịch thành tiếng Ấn Độ cổ thì chính là 'Phật' {Buddha}. Thực ra là như thế, khí

công chính có tác dụng ấy.

Hễ đề cập đến khí công, liền có người nói: 'Không bệnh hỏi ai luyện khí công?' Ngụ

ý rằng khí công [chỉ] là để chữa bệnh; đấy là nhận thức rất nông cạn, rất là nông cạn. Chỗ

này không có trách mọi người, bởi vì có rất nhiều khí công sư toàn làm cái việc chữa bệnh

khoẻ người, toàn giảng về chữa bệnh khoẻ người, không có ai giảng đến cao tầng cả. [Tôi]

không có ý nói rằng công pháp của những vị ấy không tốt, [vì] sứ mệnh của họ chính là

truyền những điều ở tầng chữa bệnh khoẻ người, [và] phổ biến khí công. Có rất nhiều

người mong muốn tu luyện lên cao tầng, [họ] có suy nghĩ như thế, có nguyện vọng như

thế; nhưng tu luyện không đắc Pháp, kết quả tạo thành rất nhiều khó khăn, lại còn xuất

hiện rất nhiều vấn đề. Tất nhiên, việc truyền công tại cao tầng một cách chân chính có liên

quan đến [những] vấn đề rất cao. Vậy nên chúng tôi có bổn ý là có trách nhiệm đối với xã

hội, có trách nhiệm đối với con người; [và] hiệu quả của toàn bộ [quá trình] truyền công là

tốt. Có những điều thật sự rất cao, nói đến [nghe] giống mê tín; nhưng chúng tôi [sẽ] cố

gắng dùng khoa học hiện đại để giải thích.

Có những điều hễ chúng tôi đề cập đến, liền có người nói là mê tín. Tại sao? Tiêu

chuẩn của họ chính là [điều gì] khoa học chưa nhận thức đến được, hoặc giả họ tự mình

Khí công chính là tu luyện

10

chưa tiếp xúc đến được; họ cho rằng [chúng] không hề tồn tại, họ cho rằng [chúng] đều là

mê tín, đều là duy tâm; họ có quan niệm kiểu như thế. Quan niệm như thế có đúng không?

Hễ gì mà khoa học chưa nhận thức đến được, cũng chưa phát triển đến bước đó, đều có thể

nói là mê tín, là duy tâm? Người này chẳng phải tự mình làm mê tín? Làm duy tâm? Cứ

chiểu theo cái quan niệm như thế [mà hành xử], khoa học thử hỏi có thể phát triển, có thể

tiến bộ được không? Xã hội nhân loại cũng chẳng thể thúc đẩy lên được. Những điều mà

giới khoa học kỹ thuật phát minh ra đều là những điều con người chưa từng [biết], [nếu]

đều cho đó là mê tín, [thì] tất nhiên cũng chẳng cần phát triển. Khí công không phải là thứ

duy tâm; có nhiều người không hiểu khí công, vậy nên mãi cho rằng khí công là duy tâm.

Ngày nay dùng những máy đo thân thể các khí công sư [người ta thấy] có thành phần của

sóng hạ âm, sóng siêu âm, sóng điện từ, tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia phóng xạ gamma,

neutron, nguyên tử, nguyên tố kim loại vi lượng; những thứ ấy chẳng phải tồn tại vật chất

là gì? Chúng cũng là vật chất. Cái nào là không do vật chất cấu thành? Chẳng phải thời-

không khác cũng do vật chất cấu thành là gì? Làm sao có thể nói là mê tín? Khí công đã là

dùng để tu Phật, tất nhiên sẽ động chạm đến nhiều vấn đề cao thâm; chúng tôi đều phải

giảng [những vấn đề này].

Khí công đã có tác dụng ấy, thì sao chúng ta lại gọi nó là 'khí công'? Kỳ thực nó

không được gọi là 'khí công'; nó được gọi là gì? Gọi là "tu luyện"; chính là tu luyện. Tất

nhiên, nó còn có những tên cụ thể khác, nhưng được gọi chung là 'tu luyện'. Vậy gọi 'khí

công' là sao? Mọi người đều biết, khí công đã được phổ cập ngoài xã hội có lịch sử hơn 20

năm1, khai thuỷ vào giữa thời kỳ Đại Cách mạng Văn hoá, và lên thành cao trào vào thời

kỳ cuối. Mọi người thử nghĩ xem, thời ấy trào lưu tư tưởng cực tả khá là nghiêm trọng.

Chúng tôi sẽ không đề cập đến những tên của khí công thời văn hoá tiền sử gọi là gì; trong

tiến trình phát triển của văn minh nhân loại chúng ta lần này, [khí công] đã qua một thời

xã hội phong kiến, nên thường mang những cái tên mang đậm sắc thái phong kiến. Và

[những môn] có quan hệ đến tôn giáo thường có những cái tên mang đậm sắc thái tôn

giáo. Ví dụ: nào là Tu Đạo Đại Pháp, Kim Cương Thiền, La Hán Pháp, Tu Phật Đại Pháp,

Cửu Chuyển Kim Đan Thuật, toàn là những thứ như thế. Nếu gọi [bằng] những tên như

thế trong thời Đại Cách mạng Văn hoá, thử hỏi chư vị có tránh khỏi bị phê phán? Mặc dù

nguyện vọng phổ cập khí công của các khí công sư là tốt, vì để chữa bệnh khoẻ người cho

quảng đại quần chúng, đề cao tố chất thân thể cho mọi người, điều ấy rất tốt, nhưng không

làm được; người ta không dám gọi chúng [với những tên] như thế. Vậy nên rất nhiều khí

công sư vì để phổ cập khí công, đã từ hai cuốn «Đan Kinh» và «Đạo Tạng», lấy ra hai chữ

tách khỏi nội dung [của cuốn sách]2, gọi là 'khí công'. Nhiều vị còn đào sâu vào danh từ

'khí công' mà nghiên cứu, nhưng chẳng có gì nghiên cứu; trong quá khứ nó chỉ được gọi

là 'tu luyện'. 'Khí công' chỉ là danh từ mới đặt ra cho phù hợp với ý thức tư tưởng của con

người hiện đại mà thôi.

Luyện công vì sao không tăng công

Luyện công vì sao không tăng công? Khá nhiều người có lối nghĩ như thế này: Mình

luyện công chẳng được chân truyền, ông thầy nào giảng cho mình mấy tuyệt chiêu, rồi vài

thủ pháp cao cấp, [thì] công của mình tăng ngay. Hiện nay có đến 95% người có lối nghĩ

như thế; tôi thấy rằng điều ấy thật đáng cười. Tại sao đáng cười? Bởi vì khí công không

phải kỹ năng nơi người thường; nó hoàn toàn là những điều siêu thường; nó phải được

dùng những [Pháp] lý tại cao tầng để đánh giá. Tôi giảng cho mọi người rằng, công không

1Theo hiểu biết của người dịch, Sư phụ bắt đầu truyền Pháp vào tháng Năm năm 1992, giai đoạn truyền công giảng

Pháp trực tiếp một cách có hệ thống trải qua hơn hai năm cho đến cuối 1994; các bài giảng được thâu âm, kết tập

và đến tháng Giêng 1995 cuốn Chuyển Pháp Luân được xuất bản lần thứ nhất. Như vậy đọc giả có thể tạm dựa

vào các con số đó làm điểm tham chiếu về thời gian.

2Đoạn chương thủ nghĩa: lấy ra cái nghĩa nhưng lại tách khỏi văn chương.Luyện công vì sao không tăng công

11

lên được cao có nguyên nhân căn bản là: hai chữ "tu luyện", người ta chỉ coi trọng chữ

'luyện' mà chẳng coi trọng chữ 'tu'. Chư vị hướng ngoại mà cầu, thì cầu thế nào cũng

không được. [Với] thân thể người thường kia, bàn tay người thường kia, và tư tưởng người

thường kia của chư vị; chư vị muốn [từ] vật chất cao năng lượng diễn hoá trở thành công?

[Công] tăng trưởng lên? Nói chuyện sao dễ vậy! Theo tôi thấy là chuyện đáng cười. Cũng

tương đương với hướng ngoại mà cầu, hướng ngoại mà tìm, vĩnh viễn không tìm được.

Nó không giống kỹ năng nơi người thường chúng ta: chư vị trả một số tiền, học một

số kỹ thuật, là chư vị có được nó trong tay. Nó không như thế; nó là điều vượt xa khỏi

tầng của người thường; vậy nên phải dùng [Pháp] lý siêu thường để yêu cầu chư vị. Yêu

cầu đó là gì? Chư vị phải hướng nội mà tu, không thể hướng ngoại mà tìm. Bao nhiêu

người cứ hướng ngoại mà cầu, nay cầu cái này, mai cầu cái khác, lại còn ôm giữ tâm chấp

trước truy cầu công năng, và đủ loại mục đích [khác nhau]. Có người còn muốn làm khí

công sư, còn muốn chữa bệnh kiếm tiền! Tu luyện chân chính là tu thẳng cái tâm của chư

vị, gọi là 'tu tâm tính'. Ví dụ như, chúng ta trước mâu thuẫn giữa người với người, trước

thất tình lục dục của cá nhân, [và] các thứ dục vọng, ta [đều] coi nhẹ. Trong khi chỉ vì lợi

ích cá nhân mà tranh mà đấu, chư vị lại muốn tăng công, nói chuyện sao dễ vậy! Chư vị

nào có khác chi người thường? Chư vị làm sao có thể tăng công? Vậy phải coi trọng tu

luyện tâm tính, [thì] công của chư vị mới có thể tăng, tầng [của chư vị] mới có thể đề cao

lên được.

'Tâm tính' là gì? Tâm tính bao gồm có đức ('đức' là một thứ vật chất), gồm có Nhẫn,

gồm có ngộ, gồm có xả, xả bỏ các thứ dục vọng tâm chấp trước trong người thường; còn

cả khả năng chịu khổ v.v., bao gồm nhiều thứ phương diện [khác nhau]. Cần phải đề cao

[tất cả] các phương diện tâm tính con người; như vậy chư vị mới có thể thật sự đề cao lên;

đó là nguyên nhân then chốt bậc nhất để đề cao công lực.

Có người nghĩ: 'Vấn đề tâm tính mà ông nói đến ấy, nó là điều trong hình thái ý thức,

là chuyện [về] phương diện cảnh giới tư tưởng của con người; nó không [liên quan đến

cái] công mà chúng tôi luyện'. Không liên quan là sao? Lịch sử xưa nay trong giới tư

tưởng học vẫn luôn có vấn đề rằng vật chất là đệ nhất tính hay tinh thần là đệ nhất tính;

nghị luận mãi, tranh luận mãi về vấn đề ấy. Kỳ thực tôi nói với mọi người rằng, vật chất

và tinh thần chúng là nhất tính. Trong nghiên cứu khoa học [thân] thể người, hiện nay các

nhà khoa học đều nhận định rằng tư duy xuất phát từ đại não chính là vật chất. Như vậy nó

là một thứ tồn tại vật chất, nhưng chẳng phải nó [cũng] là thứ ở trong tinh thần con người

hay sao? Chẳng phải là nhất tính là gì? Cũng như vũ trụ mà tôi giảng, nó có tồn tại vật

chất, đồng thời nó có tồn tại đặc tính. Đặc tính Chân Thiện Nhẫn trong vũ trụ kia, người

thường không cảm nhận được sự tồn tại của nó, bởi vì toàn thể người thường cùng ở trên

mặt của một tầng này. Khi chư vị siêu xuất khỏi tầng của người thường, thì có thể quan sát

được. Quan sát như thế nào? Bất kể vật chất nào trong vũ trụ, bao gồm tất cả toàn thể

những vật chất tràn đầy trong toàn vũ trụ, chúng đều là những linh thể, chúng đều có tư

tưởng; chúng đều là những hình thái tồn tại của Pháp vũ trụ tại các tầng khác nhau. Chúng

không cho phép chư vị thăng hoa lên; chư vị muốn đề cao, nhưng đâu có đề cao được,

chúng không cho phép chư vị nâng cao lên. Vì sao không cho phép chư vị lên cao? Bởi vì

tâm tính của chư vị chưa đề cao lên. Mỗi một tầng đều có tiêu chuẩn khác nhau; muốn đề

cao tầng, chư vị nhất định phải vứt bỏ những tư tưởng không tốt và đổ đi những thứ dơ

bẩn, [và] đồng hoá với yêu cầu tiêu chuẩn của tầng ấy; có như vậy chư vị mới có thể lên

đó.

Hễ tâm tính chư vị đề cao, thì thân thể chư vị sẽ phát sinh biến đổi to lớn; hễ tâm tính

chư vị đề cao lên; thì vật chất của thân thể chư vị bảo đảm sẽ biến đổi. Biến đổi gì? Những

truy cầu chấp trước những thứ xấu của mình, chư vị sẽ quẳng chúng đi. Lấy một ví dụ,

một chiếc chai đựng đầy thứ dơ bẩn, xiết nút thật chặt; ném nó xuống nước, thì nó chìm

Luyện công vì sao không tăng công

12

ngay đến đáy. Chư vị đổ những thứ bẩn đi, càng đổ nhiều ra thì nó lại càng có thể nổi lên

cao hơn; [nếu] đổ hết [thứ bẩn] ra ngoài, [thì] nó nổi hẳn lên trên. Trong quá trình tu luyện

chúng ta cần gạt bỏ những thứ không tốt tồn tại nơi thân người của mình, [thì] mới có thể

thăng hoa lên trên được; đặc tính của vũ trụ chính là có tác dụng ấy. [Nếu] chư vị không tu

luyện tâm tính của mình, chuẩn mực đạo đức của chư vị không đề cao lên trên, tư tưởng

xấu và vật chất xấu không bị quẳng đi, [thì] chúng chẳng cho phép chư vị thăng hoa lên

trên; chư vị nói rằng chúng không phải nhất tính là gì? Chúng ta thử nói một chuyện đùa,

ví như có người kia từ chốn người thường thất tình lục dục đầy đủ cả, lại được thăng

thượng lên làm Phật, mọi người thử nghĩ xem có thể sẽ ra sao? Không chừng thấy một Đại

Bồ Tát quá đỗi khả ái, vị ấy liền phát sinh tà niệm. Bởi vì tâm tật đố chưa bỏ được, vị ấy

lại phát sinh mâu thuẫn với các vị Phật; những chuyện như thế có được phép tồn tại

không? Cần xử lý sao đây? Chư vị nhất định phải từ chỗ người thường mà vứt bỏ hết tất

cả các chủng tư tưởng không tốt, [rồi] chư vị mới có thể đề cao lên được.

Vậy cũng nói, chư vị phải coi trọng việc tu luyện tâm tính, chiểu theo đặc tính Chân

Thiện Nhẫn của vũ trụ mà tu luyện; vứt bỏ [hết] những dục vọng, tâm không tốt, ý định

hành động xấu ở người thường. Chỉ một chút đề cao cảnh giới tư tưởng, [thì] đã có những

thứ xấu trong thân chư vị được loại bỏ bớt rồi. Đồng thời chư vị phải chịu khổ một chút,

chịu tội một chút, [thì] nghiệp lực nơi thân chư vị được tiêu trừ một phần; qua đó chư vị có

thể thăng hoa lên một chút; tức là, lực mà đặc tính vũ trụ khống chế chư vị không còn lớn

[như trước]. Tu tại tự kỷ, công tại sư phụ. Sư phụ cấp cho chư vị một cái công [để] tăng

công; [khi] cái công này phát huy tác dụng, [thì] đức, một dạng vật chất, quanh thân chư vị

sẽ được diễn hoá trở thành công. [Khi] chư vị không ngừng đề cao, không ngừng tu lên,

[thì cột] công trụ của chư vị cũng không ngừng đột phá lên. Là người tu luyện, [thì] ngay

nơi hoàn cảnh người thường mà tu luyện bản thân, mà 'ma luyện' chính mình; các tâm

chấp trước những thứ dục vọng đều dần dần vứt bỏ. Điều mà nhân loại chúng ta thường

cho là tốt, thì từ cao tầng mà xét lại thường thấy là xấu. Vậy nên điều mà người ta cho là

tốt ấy, ở nơi người thường thì lợi ích cá nhân càng nhiều thì cho là càng sống tốt, [nhưng]

các Đại Giác Giả lại thấy rằng cá nhân ấy là càng xấu. Xấu chỗ nào? Vị ấy được càng

nhiều, thì vị ấy càng làm tổn hại người khác; [để] đạt được những thứ lẽ ra không được, vị

ấy sẽ [coi] trọng danh lợi, như thế vị ấy mất đức. Chư vị muốn tăng công, [nhưng nếu] chư

vị không chú trọng tu luyện tâm tính, [thì] công của chư vị hoàn toàn không tăng lên được.

Giới tu luyện chúng ta giảng rằng, nguyên thần của con người là bất diệt. Trước đây

nói đến nguyên thần của con người, là có thể có người nói đó là mê tín. Mọi người đã biết

rằng vật lý học nghiên cứu [thân] thể con người chúng ta có phân tử, proton, electron,

nghiên cứu tiếp xuống nữa thì có hạt quark, neutrino, v.v. [Mới] đến bước đó, [mà] kính

hiển vi đã không thấy được rồi. Nhưng nó còn quá xa mới đến được bản nguyên của sinh

mệnh, bản nguyên của vật chất. Mọi người đều biết rằng về phân rã nguyên tử hạch, cần

một năng lượng va chạm rất lớn cũng như một nhiệt lượng rất lớn mới có thể tổng hợp,

mới có thể phân rã hạt nhân. Vào lúc con người chết, những hạt nguyên tử trong thân thể

có thể tuỳ tiện chết theo không? Vì vậy chúng tôi phát hiện rằng khi con người chết rồi, thì

chỉ tại tầng không gian của chúng ta, thành phần phân tử ở tầng thô nhất mới bị tuột ra;

còn tại các tầng không gian khác thì các thân thể không hề bị huỷ. Mọi người thử nghĩ

xem, dưới kính hiển vi thân thể người trông ra sao? Toàn bộ thân thể con người luôn vận

động; chư vị đang ngồi kia bất động, [nhưng] toàn bộ thân thể lại vận động, các tế bào

phân tử cũng đang vận động, toàn bộ thân thể rất lơi lỏng, giống như những hạt cát ghép

thành. Dưới kính hiển vi thân thể người trông như vậy, so với thân người dưới tròng mắt

này của chúng ta quả nhiên sai biệt rành rành. Đó là vì cặp mắt này của con người đã tạo

thành cho chư vị một loại giả tướng như vậy, không cho phép chư vị thấy những thứ ấy.

[Khi] thiên mục khai [mở], thì có thể phóng đại những thứ ấy mà nhìn; nguyên nó chính là

Luyện công vì sao không tăng công

13

bản năng của con người, hiện nay lại gọi là công năng đặc dị. Nếu chư vị muốn xuất hiện

công năng đặc dị, thì phải phản bổn quy chân, vãng hồi tu.

Chúng ta hãy thuyết về 'đức'. Giữa chúng có quan hệ liên đới cụ thể nào? Chúng tôi

sẽ phân tích để giảng giải. Con người chúng ta trong rất nhiều không gian đều có một thân

thể tồn tại. Hiện nay chúng tôi xem các thành phần của thân thể, [thì] phần to nhất là các tế

bào, đó chính là nhục thân của chúng ta. Nếu như chư vị tiến nhập được vào [không] gian

[giữa] tế bào và phân tử, [không] gian [giữa] phân tử và phân tử, [thì] chư vị sẽ thể nghiệm

được việc tiến nhập vào không gian khác rồi. Hình thức tồn tại của thân thể ấy ra sao? Tất

nhiên chư vị không thể dùng khái niệm của không gian hiện hữu này để lý giải [không

gian bên kia] được đâu; thân thể của chư vị phải đồng hoá theo những yêu cầu tồn tại của

không gian ấy. Tại không gian kia thân thể vốn có thể thành lớn thành nhỏ, lúc ấy chư vị

sẽ phát hiện rằng nó là không gian mênh mông vô tỷ. Đây chỉ nói đến một hình thức tồn

tại đơn giản của không gian khác, đồng thời ở cùng một chỗ có tồn tại không gian khác.

Con người tại rất nhiều các không gian khác đều có một thân thể chuyên biệt; và trong một

không gian nhất định, thì có một trường bao quanh thân thể. Là trường gì vậy? Trường ấy

chính là cái mà chúng tôi gọi là 'đức'. Đức là một loại chất màu trắng; nó không phải là

thứ mà trước kia chúng ta cho rằng chỉ là điều [thuộc về] tinh thần, điều ở trong con người

[với] hình thái ý thức; nó hoàn toàn là dạng tồn tại vật chất; vậy nên những người già

trước đây thường nói nào là tích đức, nào là tổn đức; những lời nói ấy hết sức đúng. [Chất]

đức ấy ở chung quanh thân thể người, nó hình thành một trường. Trước đây Đạo gia giảng

rằng sư phụ tìm đồ đệ, chứ không phải đồ đệ tìm sư phụ. Ý nghĩa là sao? Vị ấy cần xét

xem thân thể đồ đệ mang theo thành phần đức có nhiều không; nếu nhiều thì người ấy dễ

tu; nếu ít thì người ấy khó tu, người ấy sẽ rất khó tăng công lên cao.

Đồng thời tồn tại còn có một loại vật chất màu đen, ở đây chúng tôi gọi là 'nghiệp

lực'; trong Phật giáo gọi đó là 'ác nghiệp'. Vật chất màu trắng cùng vật chất màu đen, hai

loại vật chất ấy tồn tại đồng thời. Giữa hai loại vật chất ấy có quan hệ thế nào? Loại vật

chất đức là khi chúng ta chịu khổ, bị đánh đập, làm việc tốt thì được nó; còn vật chất màu

đen là khi người ta làm việc xấu, làm việc không tốt, hiếp đáp người khác, thì nhận được

loại chất màu đen. Bây giờ không chỉ có những kẻ chỉ chạy theo lợi, mà còn có những kẻ

không điều ác nào mà không làm, chỉ vì tiền mà không việc gì là không làm: giết người

hại mệnh, thuê giết người, đồng tính luyến ái, hút hít ma tuý, v.v. việc gì cũng có. Trong

khi làm những việc xấu thì người ta bị tổn đức. Tổn ra sao? Khi một cá nhân [nhục] mạ

người khác, cá nhân ấy chiếm được tiện nghi, và thấy giải toả [hả giận]. Trong vũ trụ này

có một [Pháp] lý, gọi là 'bất thất giả bất đắc, đắc tựu đắc thất', chư vị chẳng mất, [nó]

cưỡng chế chư vị phải mất. Ai có tác dụng ấy? Chính là đặc tính vũ trụ có tác dụng ấy; vậy

nên chư vị muốn chỉ có được [mà không mất] thì không thể được. Nó xảy ra như thế nào?

Trong khi vị này [nhục] mạ, hiếp đáp người khác, vị này chính là đã lấy đức cấp cho

người kia; đối phương là bên chịu ép uổng, chịu thiệt, chịu khổ, vậy nên mới được bồi

thường. Vị này [nhục] mạ người kia ở bên này, thì theo cái lời [nhục] mạ ấy vào lúc đó

trong phạm vi không gian của mình đã có một khối đức bay mất đi, và lọt vào thân của

người ta. Vị này càng nhục mạ nặng nề, thì lại cấp càng nhiều đức cho người ta. Đánh

người, hiếp đáp người khác cũng lại giống như thế. Vị kia đánh người một đấm, đá người

một cước, thì tuỳ theo cú đánh mạnh đến đâu mà đức bị chuyển sang lớn đến đó. Người

thường không thấy được cái [Pháp] lý ở tầng này; khi chịu hiếp đáp, vị ấy chịu không

được: 'Ông đánh tôi, tôi đánh trả ông'. "Păng" một đấm trả lại, và cái đức kia lại quay về;

hai người chẳng được gì mất gì. Vị ấy có thể nghĩ: 'Ông đánh tôi một, tôi đánh ông hai,

nếu không thì không hả được cái khẩu khí này'. Vị ấy lại đánh nữa, và từ mình một khối

đức lại bay ra sang bên đối phương.

Luyện công vì sao không tăng công

14

Đức được coi trọng là vì sao? Chuyển hoá của đức có quan hệ thế nào? Trong tôn

giáo giảng rằng: có đức ấy, đời này không được đời sau được. Họ được gì? Đức của họ mà

lớn, thì có thể làm đại quan, [hoặc] phát đại tài, muốn gì được nấy; cái tác dụng hoán đổi

của đức là như thế. Trong tôn giáo còn giảng: nếu người kia chẳng có đức, rồi sẽ 'hình

thần toàn diệt'. Nguyên thần vị ấy rồi bị tiêu huỷ; vị ấy trăm tuổi [lâm chung] là toàn bộ

chết hết, chẳng còn gì. Còn giới tu luyện chúng tôi giảng rằng đức có thể trực tiếp diễn

hóa trở thành công.

Chúng tôi bây giờ sẽ giảng về đức diễn hoá trở thành công. Trong giới tu luyện có câu

rằng: "tu tại tự kỷ, công tại sư phụ". Có người giảng về 'an đỉnh thiết lư, thái dược luyện

đan', hoạt động ý niệm, họ cho rằng [điều ấy] rất quan trọng. Tôi nói với chư vị rằng,

chẳng quan trọng chút nào; chư vị mà nghĩ nhiều thì đó là tâm chấp trước. Chư vị mà nghĩ

nặng [về nó], thì chẳng phải chư vị chấp trước truy cầu là gì? Tu tại tự kỷ, công tại sư phụ;

chư vị chỉ cần nguyện vọng [tu luyện] là đủ rồi. Mà chân chính làm việc ấy là sư phụ cấp

cho [chư vị], chư vị hoàn toàn không làm được. Thân thể người thường của chư vị, liệu có

thể diễn hoá thành thể sinh mệnh cấu thành từ vật chất cao năng lượng không? Hoàn toàn

không thể được, nói ra chỉ là chuyện cười thôi. Quá trình diễn hoá [thân] thể con người tại

các không gian khác rất huyền diệu, rất phức tạp; chư vị hoàn toàn làm không nổi việc này

đâu.

Sư phụ cấp cho chư vị những gì? Cấp cho chư vị một công [để] tăng công. Bởi vì đức

ở bên ngoài [thân] thể con người, công chân chính của người [tu luyện] là từ đức mà sinh

thành. Tầng của một người cao thấp ra sao, [và] công lực lớn đến đâu, tất cả là từ đức mà

sinh thành. Ông [sư phụ] diễn hoá đức của chư vị trở thành công, tăng trưởng thẳng lên

trên dưới dạng xoáy ốc. Công quyết định một cách chân chính tầng cao thấp của cá nhân

được tăng trưởng lên bên ngoài [thân] thể, cuối cùng theo xoáy ốc trên đỉnh đầu mà hình

thành một cột công trụ. Công của một người cao bao nhiêu, chỉ cần nhìn xem công trụ của

vị ấy cao đến đâu [là biết], nó chính là tầng của vị ấy, là 'quả vị' được giảng trong Phật

giáo. Có người khi đả toạ thì nguyên thần có khả năng rời khỏi thân, lập tức đến một mức

cao nào đó; có hướng lên nữa cũng không lên được, cũng chẳng dám lên. [Nguyên thần]

người ấy ngồi trên công trụ của mình mà lên, [nên] người ấy chỉ lên cao đến vậy. Bởi vì

công trụ của người ấy cao đến đó thôi, có lên cao hơn cũng không được; đây là vấn đề quả

vị trong Phật giáo.

[Để] đo tâm tính cao đến đâu, còn có một cái xích độ. Xích độ và công trụ không tồn

tại trong cùng một không gian, mà đồng thời tồn tại. Tâm tính chư vị tu lên rồi; chẳng hạn

như tại nơi người thường, người khác [nhục] mạ chư vị một câu, chư vị chẳng nói gì, tâm

chư vị thật thản nhiên; đánh chư vị một đấm, chư vị cũng chẳng nói chi, chỉ mỉm cười, bỏ

qua; [đó là] tâm tính chư vị đã lên rất cao. Như vậy chư vị là người luyện công, chư vị

đáng được gì? Chẳng phải được công là gì? Tâm tính của chư vị đề cao rồi, thì công của

chư vị cũng tăng cao lên theo. Tâm tính cao bao nhiêu công cao bấy nhiêu, đó là chân lý

tuyệt đối. Trước đây có người tại công viên luyện công cũng vậy, ở nhà luyện công cũng

vậy, rất dùng tâm luyện, rất cung kính, luyện được rất khá. Nhưng một khi ra khỏi cửa đã

không phải là người ấy rồi, lại hành xử như bản thân xưa kia, nơi người thường lại vì danh

lợi mà tranh mà đấu; hỏi công người ấy có thể tăng trưởng được không? Hoàn toàn không

thể tăng được; bệnh người này cũng không lành được, cũng lại vì lý do ấy. Vì sao có

người luyện công một thời gian lâu mà bệnh vẫn chẳng hết? Khí công là tu luyện, là điều

siêu thường, không phải là môn thể thao nơi người thường; cần phải coi trọng tâm tính thì

mới có thể lành bệnh hoặc tăng công.

Có một số người cho rằng an đỉnh thiết lư, thái dược luyện đan, rằng cái đan ấy là

công; không phải thế. Đan chỉ tồn trữ một bộ phận năng lượng, nó không phải toàn bộ

năng lượng. Vậy đan ấy là cái gì? Mọi người đã biết, chúng ta còn có một phần khác để tu

Luyện công vì sao không tăng công

15

mệnh, thân thể cũng có thể xuất công năng, và còn rất nhiều các thuật loại khác. Hầu hết

những thứ ấy đều bị khoá lại, không cho phép chư vị lấy ra sử dụng. Có rất nhiều công

năng, trên vạn loại công năng; hình thành cái nào là khoá cái ấy. Tại sao không cho xuất

ra? Mục đích là không cho chư vị tuỳ ý sử dụng nơi xã hội người thường; [chư vị] không

được phép tuỳ tiện can nhiễu đến xã hội người thường, cũng không được tuỳ tiện thể hiện

bản sự của chư vị tại xã hội người thường; bởi vì làm thế là phá hoại trạng thái của xã hội

người thường. Có nhiều người đang tu trong ngộ, chư vị hiển hiện [công năng] cho họ,

người ta thấy điều ấy là sự thật, tất cả đều đến tu; [cả] những kẻ thập ác bất xá cũng đến

tu; điều này không được. Không cho phép chư vị hiển thị [công năng] như thế; chư vị lại

cũng dễ làm điều xấu, bởi vì chư vị không thấy hết được quan hệ nhân duyên của nó, [và]

chư vị không thấy hết được bản chất của nó; chư vị cho rằng đây là việc tốt, nhưng có thể

đấy là việc xấu; vậy nên không cho chư vị dùng. Bởi vì một khi làm việc xấu, tầng sẽ bị

rớt, tu như chưa có tu; do vậy rất nhiều công năng bị khoá. Làm sao đây? Đến ngày khai

công khai ngộ, cái đan ấy chính là quả bom, nó nổ tung khai mở tất cả công năng, tất cả

khoá trong thân, và trăm khiếu [huyệt]; chấn động "păng" một cái là chấn động mở hết;

[đan] có tác dụng ấy. Hoà thượng trăm tuổi [lâm chung] rồi hoả táng lại có xá lợi tử; có

người bảo đó là xương, hoặc răng. Vậy hỏi người thường sao chẳng có? Đó chính là cái

đan kia đã khai nổ; năng lượng của nó đã phóng thích ra ngoài; bản thân nó cũng bao hàm

một lượng lớn vật chất không gian khác. Rốt cuộc nó cũng là dạng tồn tại vật chất, nhưng

nó chẳng còn công dụng gì nữa. Con người hiện nay coi nó trân quý lắm; nó có năng

lượng, lấp lánh ánh sáng, rất cứng; nhưng nó chỉ là vậy thôi.

Không tăng công còn có một nguyên nhân nữa, chính là [vì] không biết Pháp tại cao

tầng, [thì] không thể tu luyện lên được. Nghĩa là sao? Như tôi vừa nói trước đây, có một số

người đã học rất nhiều công pháp; tôi nói rằng chư vị có học nhiều nữa cũng vô dụng, vẫn

chỉ là học sinh tiểu học, là học sinh tiểu học trong [giới] tu luyện; [chúng] toàn là những

[đạo] lý ở tầng thấp. Chư vị lấy những [đạo] lý tầng thấp để tu luyện lên tầng cao, thì

không có tác dụng chỉ đạo. Đến đại học mà lại đọc sách tiểu học, thì chư vị vẫn là học sinh

tiểu học thôi; dẫu học nhiều nữa cũng vô dụng, kết cục lại càng hỏng việc. Các tầng khác

nhau có các Pháp tại các tầng khác nhau. Pháp tại các tầng khác nhau có tác dụng chỉ đạo

khác nhau; vậy nên chư vị mà lấy [Pháp] lý của tầng thấp [thì] không thể chỉ đạo tu luyện

lên cao tầng. Những gì tôi nêu rõ sau đây đều là [Pháp] lý tu luyện tại cao tầng; tôi kết hợp

những điều tại các tầng khác nhau vào bài giảng; vậy nên trong quá trình tu luyện của chư

vị từ nay trở đi, [chúng] sẽ có tác dụng chỉ đạo [cho tu luyện]. Tôi có một số sách, băng

tiếng, băng hình; qua đó chư vị sẽ nhận thấy rằng, chư vị xem qua, nghe qua một lượt; qua

một thời gian xem lại, nghe lại, đảm bảo nó [lại] có tác dụng chỉ đạo đối với chư vị. Chư

vị không ngừng đề cao bản thân, [thì nó] không ngừng có tác dụng chỉ đạo đối với chư vị;

đây chính là Pháp. Vậy luyện công chẳng tăng công có hai nguyên nhân [nói] trên: không

biết Pháp tại cao tầng thì chẳng có cách nào tu; không hướng nội mà tu, không tu tâm tính

[thì] chẳng thể tăng công. Đó chính là hai nguyên nhân.

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp

Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi là một pháp môn trong 8 vạn 4 nghìn pháp môn

của Phật gia; trong thời kỳ lịch sử văn minh nhân loại của chúng ta đây nó chưa từng được

truyền bá công khai; nhưng trong một thời kỳ tiền sử nó đã được quảng bá rộng rãi để độ

nhân. Tôi vào điểm cuối thời kỳ mạt kiếp lại đưa Nó ra hồng truyền một lần nữa; vậy nên

Nó vô cùng trân quý. Tôi đã giảng hình thức đức trực tiếp chuyển hoá trở thành công.

Công thực ra không phải từ luyện mà có, nó từ tu mà có. Nhiều người mong cầu tăng

công, [nhưng] chỉ chú trọng luyện thế nào, chẳng chú trọng tu ra sao; kỳ thực công hoàn

toàn dựa vào tu tâm tính mà xuất lai. Vậy vì sao mà chúng tôi cũng dạy người ta luyện

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp

16

công tại đây? Trước tiên [tôi] nói một chút, vì sao hoà thượng không luyện công? Vị ấy

chủ yếu đả toạ, niệm kinh, tu tâm tính; vị ấy có tăng công; vị ấy chỉ tăng công xác định

tầng cao thấp của mình. Bởi vì Thích Ca Mâu Ni giảng phải vứt bỏ hết thảy mọi thứ thế

gian, gồm cả bản thể, vậy nên không cần [tập] động tác hình thể. Đạo gia không nói đến

phổ độ chúng sinh; họ không đối mặt với những người có tâm thái khác nhau, các chủng

tầng khác nhau, [kiểu] người nào cũng có, có người tư tâm nhiều, có người tư tâm ít. Họ

tuyển chọn đồ đệ; chọn ba đồ đệ, nhưng trong đó chỉ có một đồ đệ chân truyền, chủ định

là đồ đệ ấy đức phải cao, phải tốt, không xảy ra vấn đề gì. Vậy nên trọng điểm là truyền

các thứ thủ pháp, để tu mệnh. Luyện các thứ thần thông thuật loại; [họ] yêu cầu có một số

động tác.

Pháp Luân Đại Pháp cũng là công pháp loại tính mệnh song tu; vậy yêu cầu có động

tác để luyện. Một mặt động tác là để gia trì công năng; 'gia trì' là gì? Là dùng công lực lớn

mạnh của chư vị để tăng sức mạnh cho công năng của chư vị; càng ngày càng mạnh; mặt

khác là nơi thân thể chư vị cần diễn hoá ra rất nhiều thể sinh mệnh. Tu luyện trên cao tầng,

Đạo gia giảng về nguyên anh xuất thế, Phật gia giảng về thân kim cương bất hoại, còn cần

diễn hoá ra rất nhiều các thứ thuật loại nữa. Những thứ ấy phải thông qua thủ pháp mà

thành, động tác là để luyện những thứ ấy. Một bộ công pháp tính mệnh song tu hoàn

chỉnh, nó yêu cầu cả tu, yêu cầu cả luyện. Tôi nghĩ rằng mọi người đã hiểu rõ được công

kia là từ đâu; công quyết định một cách chân chính tầng cao hay thấp của chư vị, hoàn

toàn không hề từ luyện mà có được, mà là từ tu. Chư vị trong quá trình tu, tại nơi người

thường mà đề cao tâm tính của mình, đồng hoá với đặc tính vũ trụ; [khi] đặc tính vũ trụ

không còn ước chế chư vị nữa, [thì] chư vị có thể thăng hoa lên được. Đức [sẽ] bắt đầu

diễn hoá trở thành công, tuỳ theo việc đề cao tiêu chuẩn tâm tính của chư vị, mà nó thăng

lên theo; nó chính là có mối quan hệ như thế.

Bộ công pháp của chúng tôi, là chân chính thuộc về [loại] công pháp tính mệnh song

tu. Công mà chúng ta luyện được được tồn trữ trong từng tế bào thân thể, tận đến trong

thành phần vi lạp tồn tại vật chất ở trạng thái vi quan cực nhỏ, cũng chứa công [là] vật chất

cao năng lượng. Tuỳ theo công lực chư vị cao bao nhiêu, [thì] mật độ của nó càng lớn bấy

nhiêu, uy lực của nó càng lớn bấy nhiêu. Vật chất cao năng lượng này có linh tính; bởi vì

nó được tồn trữ từ trong mỗi tế bào, cho đến tận bản nguyên của sinh mệnh; [nên] nó dần

dần hình thành hình thái giống như tế bào của thân thể, [trở nên] cùng loại chuỗi sắp xếp

của phân tử; [trở nên] cùng hình thái của hết thảy nguyên tử hạch. Nhưng bản chất ấy đã

thay đổi rồi; nó không còn là thân thể được cấu thành từ những tế bào nhục thể ban đầu

nữa; chẳng phải chư vị đã không còn trong ngũ hành là gì? Tất nhiên [quá trình] tu luyện

của chư vị chưa kết thúc; chư vị phải [tiếp tục] tu luyện giữa những người thường; vậy nên

bề ngoài chư vị trông vẫn như người thường; điểm khác biệt duy nhất là so với những

người cùng tuổi thì trông chư vị trẻ hơn nhiều. Tất nhiên, đầu tiên phải loại bỏ những thứ

không tốt trong thân thể chư vị, trong đó có cả các bệnh tật. Nhưng, tại đây [chúng tôi]

không trị bệnh, điều chúng tôi làm là thanh lý thân thể; danh từ cũng không gọi là 'trị

bệnh'; chúng tôi gọi đó là 'thanh lý thân thể'; vì người tu luyện chân chính mà thanh lý

thân thể. Có một số người đến để trị bệnh. [Đối với] người bệnh rất nặng, chúng tôi không

cho phép đến lớp; bởi vì người ấy không thể vứt bỏ được cái tâm trị bệnh ấy, không thể

vứt bỏ được suy nghĩ về bệnh. Người ấy mắc trọng bệnh, rất khó chịu đựng, hỏi người ấy

có thể vứt bỏ [cái tâm nghĩ về bệnh ấy] không? Người ấy tu luyện không được. Chúng tôi

nhấn mạnh lần nữa, chúng tôi không nhận người mang bệnh nặng; ở đây là tu luyện, nó so

với suy nghĩ của họ thì quá là khác xa; người ấy có thể tìm một vị khí công sư khác để giải

quyết. Tất nhiên nhiều học viên mang bệnh; vì chư vị là người tu luyện chân chính, nên

chúng tôi có thể giúp chư vị xử lý chuyện này.

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp

17

Học viên Pháp Luân Đại Pháp chúng ta sau một giai đoạn tu luyện, từ bên ngoài mà

trông thì thấy khác rất nhiều; da trở nên mềm, trắng hồng; người cao tuổi có nếp nhăn xuất

hiện giảm nhiều, thậm chí có rất rất ít [nếp nhăn]; đó là một hiện tượng phổ biến. Ở đây tôi

không nói chuyện trời ơi đất hỡi, chúng ta ngồi tại đây có những học viên lâu năm đã hiểu

được điểm này. Ngoài ra những phụ nữ cao tuổi sẽ có kinh nguyệt trở lại; bởi vì công pháp

tính mệnh song tu yêu cầu khí của kinh huyết để tu luyện mệnh. Kinh nguyệt sẽ trở lại,

nhưng không nhiều; giai đoạn này chỉ có một chút thôi, vừa đủ; đây cũng là hiện tượng

phổ biến. Nếu không như thế, thì chư vị thiếu mất nó hỏi luyện mệnh sao được? Nam giới

cũng vậy, là người cao tuổi, hoặc thanh niên đều cảm thấy thân thể nhẹ nhàng. Là người tu

luyện chân chính, chư vị sẽ cảm giác thấy được sự thay đổi này.

Bộ công pháp chúng tôi luyện được rất lớn; không giống như nhiều công pháp mô

phỏng theo động vật mà luyện. Bộ công pháp này luyện được quả là hết sức lớn. [Pháp] lý

mà Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử đương thời giảng, đều là [Pháp] lý nội trong phạm vi hệ

Ngân Hà của chúng ta. Pháp Luân Đại Pháp chúng ta luyện gì? Chúng ta là tu luyện chiểu

theo nguyên lý diễn hoá của vũ trụ, tu luyện chiểu theo tiêu chuẩn chỉ đạo của đặc tính tối

cao của vũ trụ-Chân Thiện Nhẫn. Chúng ta luyện một điều rất to lớn, tương đương với

luyện vũ trụ.

Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi còn có một đặc điểm hết sức đặc thù mà không

giống bất kỳ một công pháp nào khác. Ngoài xã hội hiện nay đều lưu truyền các [môn] khí

công thuộc về tẩu đan đạo, luyện đan. Khí công loại luyện đan ở trong người thường rất

khó đạt khai công khai ngộ. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi không tẩu đan đạo; bộ

công pháp của chúng tôi tu luyện một Pháp Luân tại bụng dưới; trong lúc giảng bài trên

lớp tôi đích thân cấp [Pháp Luân] cho học viên. Trong khi tôi đang giảng Pháp Luân Đại

Pháp, tôi lần lượt cấp Pháp Luân cho mọi người; có người có cảm giác được, có người

không cảm giác được. Đại đa số các vị là có cảm giác thấy; bởi vì tố chất thân thể [mỗi]

người có khác nhau. Chúng ta luyện Pháp Luân, chứ không luyện đan. Pháp Luân là

[hình] ảnh thu nhỏ của vũ trụ, có đầy đủ hết thảy các công năng của vũ trụ; Nó có thể vận

chuyển, xoay chuyển một cách tự động. Nó nằm tại bụng dưới của chư vị chuyển động

vĩnh viễn; từ khi đã cấp cho chư vị trở về sau, không bao giờ dừng lại; vĩnh viễn năm này

qua năm khác chuyển động như thế. Trong quá trình Nó chuyển động theo chiều kim đồng

hồ1, Nó tự động hấp thụ năng lượng từ vũ trụ; Nó tự biết diễn hoá năng lượng, cung cấp

năng lượng cần thiết cho các nhu cầu diễn hoá của tất cả bộ phận thân thể của chư vị.

Đồng thời, khi Nó quay ngược chiều kim đồng hồ, Nó phát phóng năng lượng; các chất

phế bỏ được đẩy xuất ra ngoài, rồi tiêu tán ra quanh thân thể. Khi phát phóng năng lượng,

Nó đẩy ra rất xa; rồi lại quay lại lấy năng lượng mới. [Khi] Nó đẩy năng lượng ra, thì

những người ở chung quanh chư vị thu được lợi ích. Phật gia giảng độ kỷ độ nhân, phổ độ

chúng sinh; không chỉ là tự tu, còn cần phổ độ chúng sinh; người khác cũng được theo

hưởng lợi; có thể vô ý điều chỉnh thân thể cho người ta, trị bệnh, v.v. Tất nhiên năng

lượng không có mất, Pháp Luân khi quay thuận chiều kim đồng hồ, Nó lại tự thu lại [năng

lượng], bởi vì Nó thường chuyển không dừng.

Có người suy nghĩ: 'Vì sao mà Pháp Luân ấy thường chuyển không dừng?' Cũng có

người hỏi tôi: 'Nó vì sao mà chuyển động? Nguyên lý ở chỗ nào? Năng lượng tụ nhiều có

thể thành đan, điều ấy còn lý giải được; chứ Pháp Luân xoay chuyển thì thật khó tin.' Tôi

đơn cử một thí dụ cho chư vị, vũ trụ đang vận động, trong vũ trụ có hệ Ngân Hà, có các

thiên hà tất cả đều đang vận động, chín hành tinh đang quay quanh Mặt Trời, trái đất cũng

tự chuyển động. Mọi người thử nghĩ xem, ai đẩy chúng? Ai gia lực cho chúng? Chư vị

không thể dùng khái niệm người thường mà nhận thức chúng được, nó là một dạng 'toàn

cơ' như thế. Với Pháp Luân của chúng ta cũng như thế, Nó cũng vận chuyển [như thế]. Nó

1Chiều kim đồng hồ, hiểu là người đứng từ phía trước mặt nhìn vào người luyện công mà thấy thế.Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp

18

giải quyết được vấn đề luyện công giữa trạng thái sinh hoạt người thường, [nó] gia tăng

thời gian luyện công. Gia tăng như thế nào? Bởi vì Nó xoay chuyển không ngừng, [Nó]

không ngừng hấp thụ năng lượng từ vũ trụ, diễn hoá năng lượng. Chư vị đi làm, Nó vẫn

luyện chư vị. Tất nhiên không chỉ Pháp Luân, chúng tôi cần phải cấp lên thân thể chư vị

rất nhiều cơ năng, cơ chế, liên quan chặt chẽ với Pháp Luân [và] chúng tự động vận

chuyển, tự động diễn hoá. Vậy nên công này hoàn toàn tự động chuyển hoá liên tục con

người ta, nó hình thành nên một loại "công luyện người", cũng gọi là "Pháp luyện người".

Lúc chư vị không luyện công, công luyện chư vị; vào lúc chư vị luyện công; công cũng

luyện chư vị. Chư vị ăn, ngủ, đi làm, cũng đều được công chuyển hoá liên tục. Hỏi chư vị

luyện công làm gì? Chư vị luyện công là để gia trì Pháp Luân, gia trì tất cả những cơ năng

và khí cơ mà tôi đã cấp cho chư vị. Khi tu luyện tại cao tầng, chính là vô vi, động tác cũng

là tuỳ cơ nhi hành, không có ý niệm đạo dẫn gì hết, cũng không có giảng hô hấp [tập thở].

Chúng tôi cũng không giảng thời gian, địa điểm luyện công. Có người giảng rằng,

những giờ nào là thời gian luyện công tốt? Giờ tý, giờ thìn, giờ ngọ? Chúng tôi không

giảng thời thần; giờ tý chư vị không luyện công, công luyện chư vị; giờ thìn chư vị không

luyện công, công cũng luyện chư vị; chư vị ngủ, công cũng luyện chư vị; chư vị đi đường,

công cũng luyện chư vị; chư vị đi làm; công cũng luyện chư vị. Chẳng phải là rút ngắn rất

nhiều thời gian luyện công của chư vị là gì? Chúng ta có rất nhiều người ôm giữ cái tâm

muốn đắc Đạo chân chính, tất nhiên nó là mục đích tu luyện; mục đích cuối cùng của tu

luyện là đắc Đạo, viên mãn. Nhưng có người trong những năm được sống của họ, tuổi tác

rất hữu hạn, không đủ [để tu luyện]; Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi có thể giải quyết

vấn đề ấy, rút ngắn quá trình luyện công. Đồng thời cũng là công pháp tính mệnh song tu,

[nên] khi chư vị không ngừng tu luyện, thì sinh mệnh không ngừng được kéo dài; chư vị

không ngừng luyện, nó không ngừng kéo dài; nếu người cao tuổi có căn cơ tốt, chư vị vẫn

có thể đủ thời gian luyện công. Nhưng có một tiêu chuẩn: khi vượt qua tiến trình sinh

mệnh thiên định ban đầu, [thì] sinh mệnh được kéo dài thêm kia, hoàn toàn chỉ để cho chư

vị dùng để tu luyện; chư vị suy nghĩ chỉ chệch đi chút xíu, là sinh mệnh gặp nguy hiểm

ngay; bởi vì quá trình sinh mệnh của chư vị đã qua lâu rồi. Trừ phi chư vị bước sang tu

luyện xuất thế gian pháp, thì không có khống chế ấy; lúc đó có một trạng thái khác.

[Chúng tôi] không giảng phương hướng [luyện công], cũng không giảng thu công.

Bởi vì Pháp Luân thường chuyển không dừng, cũng không thể thu dừng lại. Có điện thoại,

[hoặc] có người gõ cửa, chư vị dậy ngay để giải quyết công việc, cũng không cần thu

công. Chư vị đi giải quyết công việc, Pháp Luân lập tức quay theo chiều kim đồng hồ, thu

hồi lại những năng lượng tản xạ quanh thân thể [chư vị]. Người [nào] mà ôm khí quán

đỉnh, [thì] chư vị có ôm khí nhiều nữa rồi cũng mất. Pháp Luân là thứ có linh tính, nó tự

biết làm những việc như thế. [Chúng tôi] cũng không giảng phương hướng, bởi vì toàn bộ

vũ trụ đang vận chuyển, hệ Ngân Hà đang vận chuyển, chín hành tinh lớn đang xoay

quanh mặt trời, trái đất cũng đang tự xoay. Chúng ta chiểu theo [Pháp] lý vĩ đại của vũ trụ

mà luyện, hỏi đâu là đông nam tây bắc? Không có. Quay về hướng này mà luyện, cũng là

quay tất cả các hướng mà luyện; quay về hướng kia mà luyện, cũng tương đương đồng

thời quay về đông nam tây bắc mà luyện. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi bảo hộ học

viên khỏi bị thiên sai. Bảo hộ thế nào? Chư vị làm một người tu luyện chân chính, Pháp

Luân của chúng tôi [sẽ] bảo hộ chư vị. Gốc của tôi gắn trên vũ trụ, ai có thể động tới chư

vị, người ấy có thể động đến tôi; nói thẳng ra, người ấy có thể động đến vũ trụ này. Lời tôi

nói nghe rất huyền hoặc, sau này chư vị học lên, chư vị sẽ tự rõ. Còn có những điều khác,

cao quá nên tôi không thể giảng nói. Chúng tôi diễn giảng rõ từ nông cạn vào thâm sâu

một cách có hệ thống [các] Pháp của cao tầng. Nếu tâm tính chư vị không chính thì không

thể được; chư vị tìm cầu, thì có thể gặp vấn đề. Tôi nhận thấy Pháp Luân của nhiều học

viên lâu năm bị biến hình. Tại sao vậy? Chư vị luyện tạp lẫn với những thứ khác, chư vị

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp

19

đã muốn những thứ của người khác. Vậy sao Pháp Luân không bảo hộ chư vị? [Khi] đã

cấp cho chư vị, [Pháp Luân] chính là thứ của chư vị, phải chịu chi phối của ý thức chư vị.

Chư vị mong gì thì không ai can thiệp, đó là một [Pháp] lý trong vũ trụ. Chư vị không

muốn tu, [thì] không ai cưỡng chế chư vị tu, [nếu làm thế] thì cũng tương đương với làm

việc xấu. Ai có thể cưỡng chế chư vị thay đổi tâm chư vị được? Chư vị tự đặt yêu cầu cho

mình thôi. Lấy cái sở trường của mọi người, là nhận đủ thứ từ mọi người; nay luyện công

này, mai luyện công kia, mục đích là chữa bệnh, hỏi bệnh có chữa được không? Không

chữa được, chỉ trì hoãn nó về sau này thôi. Tu luyện tại cao tầng, cần phải giảng vấn đề

chuyên nhất: phải vững tu theo một môn; [khi đã] theo môn pháp tu nào, [thì chỉ] để tâm

tu luyện môn ấy, cứ theo môn ấy cho đến khai công khai ngộ; [rồi] chư vị mới có thể

chuyển công pháp tái tu, và đó là một bộ [công pháp] khác. Bởi vì những thứ chân chính

được truyền lại ấy, là những thứ được truyền lại từ rất xa xưa; có quá trình diễn hoá rất

phức tạp. Có người luyện công theo cảm giác; hỏi cảm giác của chư vị có nghĩa gì? Không

là gì hết. Quá trình diễn hoá thật sự diễn ra tại không gian khác, vô cùng phức tạp và

huyền diệu; sai một chút là không được; ví như một thiết bị chính xác, chỉ thêm một linh

kiện lạ vào là hỏng ngay. Thân thể chư vị tại tất cả các không gian đều biến đổi, huyền

diệu phi thường, sai một tý là không thể được. Tôi chẳng đã giảng rõ cho chư vị, rằng 'tu

tại tự kỷ, công tại sư phụ'. [Nếu] chư vị tuỳ tiện lấy những thứ của người khác, thêm

chúng vào đây, [thì] những tín tức khác sẽ can nhiễu đến pháp môn này, rồi chư vị sẽ bị

lệch; hơn nữa nó sẽ phản ánh vào xã hội người thường, đem lại những điều phiền phức nơi

người thường; đó là vì chư vị theo đuổi, người khác không thể quản; đó [cũng] là vấn đề

ngộ tính. Đồng thời chư vị thêm những thứ ấy đã làm loạn hết công [của mình], chư vị sẽ

không thể tu được nữa; sẽ xuất hiện vấn đề này. Tôi cũng không bảo mọi người phải học

Pháp Luân Đại Pháp. Chư vị không học Pháp Luân Đại Pháp, [mà] chư vị được chân

truyền ở một công pháp khác, tôi cũng tán thành. Nhưng tôi nói với chư vị rằng, tu luyện

lên cao tầng [một cách] chân chính, chắc chắn cũng yêu cầu chuyên nhất. Có một điểm tôi

nói với chư vị rằng: hiện nay truyền công chân chính lên cao tầng giống như tôi đây, thì

không hề có một người thứ hai làm đâu. Sau này chư vị sẽ hiểu được tôi đã làm những gì

cho chư vị; vậy nên hy vọng rằng ngộ tính của chư vị không quá thấp. Có rất nhiều người

muốn tu luyện lên cao tầng; hiện nay nó được bày ngay trước mặt chư vị, chư vị có lẽ còn

chưa phản ứng được gì; chư vị đi [khắp] nơi để bái sư, tốn bao nhiêu tiền, [mà] chư vị tìm

chẳng được. Hôm nay [nó] được đặt đến cổng nhà chư vị, phải chăng chư vị vẫn không

nhận ra! Đó là vấn đề có ngộ hay không, cũng chính là vấn đề có thể [cứu] độ được hay

không.

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp

20

Bài giảng thứ hai

Vấn đề liên quan đến thiên mục

Có nhiều khí công sư cũng bàn về một số tình huống [liên quan] đến 'thiên mục';

nhưng Pháp tại các tầng khác nhau có các hình thức hiển hiện khác nhau. Người tu luyện

đến tầng nào, họ chỉ thấy được cảnh tượng trong tầng đó; chân tướng vượt trên tầng đó

[thì] họ không nhìn thấy, cũng không tin; do vậy, họ cho rằng chỉ những gì tự mình nhìn

thấy tại tầng này mới là đúng. Khi họ chưa tu luyện đến một tầng cao nào đó, [thì] họ cho

rằng những thứ ấy [tại đó] không tồn tại, cũng không thể tin; đây là do tầng [của họ] quyết

định; tư tưởng của họ cũng không thể thăng hoa lên trên được. Nên cũng nói, về vấn đề

thiên mục của con người, thì có người giảng thế này, có người giảng thế kia; kết quả giảng

đến loạn cả lên; rốt cuộc cũng không ai có thể giải thích về [vấn đề thiên mục] cho rõ ràng

cả; thật ra, [vấn đề] thiên mục ấy cũng không thể từ tầng thấp mà giảng cho rõ được đâu.

Trong quá khứ, vì kết cấu của thiên mục thuộc về bí mật trong những bí mật, không cho

người thường biết được, cho nên lịch sử xưa nay cũng không hề có ai giảng về nó. Vả lại

tại đây chúng tôi cũng không xoay quanh lý luận trong quá khứ mà giảng [về thiên mục];

chúng tôi sẽ dùng khoa học hiện đại, dùng ngôn ngữ hiện đại nông cạn nhất để giảng về

[thiên mục] này, và giảng về vấn đề căn bản của nó.

Thiên mục mà chúng tôi nói, thực chất là tại chỗ giữa hai lông mày của con người

dịch lên trên một chút [rồi] nối đến vị trí thể tùng quả; đó là đường thông chính1. Thân thể

còn có rất nhiều con mắt [khác nữa]; Đạo gia giảng mỗi một khiếu chính là một con mắt.

Đạo gia gọi huyệt vị của thân thể là 'khiếu', còn Trung Y gọi là 'huyệt vị'. Phật gia giảng

mỗi lỗ chân lông chính là một con mắt; vậy nên có người dùng tai mà học chữ; có [người]

dùng tay, dùng gáy mà nhìn; lại có [người] dùng chân mà nhìn, dùng bụng mà nhìn; tất cả

đều có thể [xảy ra].

Giảng đến thiên mục, chúng tôi trước hết nói một chút về cặp mắt thịt này của con

người chúng ta. Hiện nay có một số người cho rằng cặp mắt này có thể nhìn thấy bất kể

vật chất nào, bất kể vật thể nào trong thế giới chúng ta. Do vậy, có một số người đã hình

thành một thứ quan niệm cố chấp; họ cho rằng chỉ những gì nhìn thấy được thông qua con

mắt này mới đúng là điều thực tại; còn điều họ nhìn không thấy thì không thể tin. Trước

đây người như thế được xem là 'ngộ tính không tốt'; cũng có người giảng không rõ ràng

vì sao ngộ tính không tốt. 'Không thấy thì không tin', câu này thoạt nghe rất hợp lý.

Nhưng từ một tầng hơi cao hơn một chút mà xét, [thì] nó không còn hợp lý nữa. Bất kể

một thời-không nào đều do vật chất cấu thành; tất nhiên các thời-không khác nhau có kết

cấu vật chất khác nhau, có các chủng hình thức hiển hiện của các thể sinh mệnh khác

nhau.

Tôi dẫn ví dụ này cho mọi người; trong Phật giáo giảng rằng hết thảy hiện tượng của

xã hội nhân loại đều là huyễn tượng, không thật. Huyễn tượng là sao? Vật thể này thực tại

rành rành bày đặt ở đây, ai có thể bảo là giả được? Hình thức tồn tại của vật thể là thế này;

nhưng hình thức biểu hiện của nó lại khác. Còn con mắt chúng ta có một công năng: [nó]

có thể từ vật thể của không gian vật chất chúng ta mà đưa đến một trạng thái [hình tướng]

cố định mà chúng ta nhìn thấy hiện nay. Thực ra nó không phải là trạng thái ấy; [ngay] tại

không gian của chúng ta nó cũng không phải trạng thái như vậy. Ví như nhìn qua kính

hiển vi thì thấy con người ra sao? Toàn bộ thân thể trông thật lơi lỏng; do những phân tử

nhỏ cấu thành; như những hạt cát, như những dạng hạt, luôn vận động; điện tử luôn

chuyển động quanh hạt nhân nguyên tử; toàn bộ thân thể luôn lay động, luôn vận động. Bề

1Chủ thông đạo: đường thông chính. Phó thông đạo: đường thông phụ.Vấn đề liên quan đến thiên mục

21

mặt thân thể [cũng] không trơn nhẵn, không đều đặn. Bất kể loại vật thể nào trong vũ trụ,

[như] thép, sắt, đá đều như vậy; thành phần phân tử bên trong chúng đều luôn vận động;

chư vị không thể thấy được toàn bộ hình thức của chúng; thực ra chúng không ổn định.

Chiếc bàn này cũng đang lay động, nhưng con mắt nhìn không thấy được chân tướng; cặp

mắt [thịt] này làm cho người ta nhìn sai như thế.

Không phải là chúng ta không thể thấy được các thứ ở vi quan, không phải là con

người không có bản sự ấy; mà nguyên con người sinh ra được trang bị đầy đủ bản sự đó,

[và] có thể nhìn thấy được những thứ đến một [mức] vi quan nhất định. Chính là từ khi

con người chúng ta có cặp mắt tại không gian vật chất này, mà con người mới thấy giả

tướng, làm cho người ta nhìn không thấy [chân tướng]. Do đó ngày xưa giảng rằng, những

ai [nếu] không thấy là không thừa nhận, thì trong giới tu luyện xưa nay luôn cho rằng ngộ

tính loại người ấy không tốt, đã bị giả tướng của người thường làm mê hoặc, đã mê trong

người thường; tôn giáo xưa nay vẫn giảng câu ấy; [và] chúng tôi thấy rằng nó cũng có lý.

Cặp mắt [thịt] này có thể từ những thứ trong không gian vật chất hiện hữu mà cố định

đến một trạng thái; ngoài đó ra, nó không có tác dụng gì đáng kể. [Khi] người ta nhìn một

vật, [thì] cũng không phải trực tiếp từ cặp mắt mà lên hình; con mắt cũng giống như ống

kính máy ảnh, chỉ có tác dụng của loại công cụ ấy thôi. [Khi] nhìn xa, ống kính sẽ kéo dài

ra, [và] con mắt của chúng ta cũng lại có tác dụng như thế; [khi] nhìn vào chỗ tối, đồng tử

[con mắt] cần mở to ra, [và khi] máy ảnh chụp hình tại chỗ tối, [thì] lỗ ống kính cũng cần

mở to hơn; nếu không như thế thì lượng phơi sáng không đủ, [ảnh thu được] sẽ bị tối;

[khi] đi ra nơi rất nhiều ánh sáng ở bên ngoài, đồng tử [con mắt] cần lập tức thu nhỏ, nếu

không như thế thì loá mắt, nhìn gì cũng không rõ; máy ảnh cũng [theo] nguyên lý ấy, lỗ

ống kính cũng cần thu nhỏ lại. Nó chỉ có thể thâu nhận [hình ảnh] vật thể, nó chỉ là một

thứ công cụ. Chúng ta thật sự nhìn thấy được một thứ gì, thấy một người [hay] thấy một

hình thức tồn tại của một vật thể, thì đó là do hình ảnh hình thành trên đại não của con

người. Như vậy, thông qua con mắt này nhìn, rồi lại thông qua dây thần kinh thị giác

truyền dẫn đến thể tùng quả ở nửa phần sau đại não; tại khu vực ấy nó phản ánh hình ảnh

lên đó. Nghĩa là phản ánh hình ảnh thật sự nhìn thấy được, là một bộ phận của thể tùng

quả trong đại não của chúng ta; y học hiện đại cũng nhận thức điểm này.

Khai [mở] thiên mục mà chúng tôi giảng chính là tránh việc mở dây thần kinh thị giác

của con người; ở chỗ giữa hai lông mày [chúng tôi] sẽ đánh thông ra một đường, cho phép

thể tùng quả có thể trực tiếp nhìn ra ngoài; đó gọi là 'khai thiên mục'. Có người nghĩ: Điều

này cũng không thực tế, cặp mắt này rốt cuộc cũng có tác dụng làm công cụ ấy, nó có thể

thâu nhận [hình ảnh] vật thể, không có con mắt này thì không thể được. Giải phẫu y học

hiện đại cũng đã phát hiện rằng, nửa bộ phận phía trước [của] thể tùng quả, nó đã được

trang bị một kết cấu tổ chức đầy đủ của [một] con mắt người. Vì nó đặt ở vị trí bên trong

sọ não, nên người ta giảng rằng nó là một con mắt thoái hoá. [Dù] đó có đúng là con mắt

thoái hoá hay không, giới tu luyện chúng tôi vẫn bảo lưu [quan điểm của mình]. Và dù sao

thì y học hiện đại cũng đã công nhận rằng tại vị trí ấy trong sọ não người có một con mắt.

Chúng tôi đánh thông ra một đường nhắm vào chính điểm ấy; [nó] chính là tương hợp với

nhận thức của y học hiện đại. Con mắt này không gây cho người ta giả tướng như cặp mắt

thịt kia của chúng ta, nó có thể thấy được bản chất của sự vật, thấy được bản chất của vật

chất. Do đó, với người có thiên mục tầng rất cao, họ có thể nhìn xuyên qua không gian

chúng ta mà thấy được những thời-không khác, có thể thấy được những cảnh tượng mà

người thường không thấy; người ở tầng không cao có thể có lực xuyên thấu, cách tường

khán vật, thấu thị nhân thể; nó có đầy đủ công năng như thế.

Phật gia giảng ngũ thông: nhục nhãn thông, thiên nhãn thông, huệ nhãn thông, Pháp

nhãn thông, Phật nhãn thông. Đó là năm tầng lớn của thiên mục; mỗi một tầng lại phân

thành thượng, trung, hạ. Đạo gia giảng chín lần chín là tám mươi mốt tầng Pháp nhãn. Tại

Vấn đề liên quan đến thiên mục

22

đây chúng tôi khai thiên mục cho mọi người; nhưng không khai mở tại [tầng] thiên nhãn

thông hoặc thấp hơn. Tại sao? Tuy rằng chư vị ngồi đây đã bắt đầu tu luyện rồi, nhưng chư

vị rốt ráo cũng mới vừa từ người thường mà bước lên, còn có nhiều tâm chấp trước của

người thường chưa hề vứt bỏ. Nếu khai mở tại [tầng] thiên nhãn thông hoặc thấp hơn, thì

chư vị sẽ xuất hiện cái mà người thường coi là công năng đặc dị, chư vị sẽ cách tường

khán vật, thấu thị nhân thể. Nếu chúng tôi truyền công năng như thế này trên diện rộng, ai

ai cũng được khai mở đến trình độ ấy, thì sẽ can nhiễu nghiêm trọng đến xã hội người

thường, [sẽ] phá hoại trạng thái xã hội người thường. Quốc gia cơ mật chẳng thể giữ được;

người ta có mặc quần áo hay không thì cũng như nhau; người ở trong phòng, chư vị ở

ngoài cũng nhìn thấy được; đi ngoài đường thấy vé số thì vé giải nhất có thể bị chư vị lấy

trước; không thể như thế được! Mọi người thử nghĩ xem, [nếu] ai ai cũng được khai thiên

mục đến [tầng] thiên nhãn thông, [thì] có còn là xã hội nhân loại không? Can nhiễu

nghiêm trọng đến hình thức của xã hội nhân loại là điều tuyệt đối không được phép. Nếu

tôi mà thật sự giúp chư vị khai mở đến tầng này, thì chư vị có thể lập tức trở thành khí

công sư. Có người trước đây chỉ mong muốn làm khí công sư; giờ thiên mục [được] khai

mở, [thì họ] có thể coi bệnh cho người khác. Tôi sao lại dẫn chư vị lạc sang đường tà như

vậy được?

Vậy tôi sẽ khai mở [thiên mục] cho chư vị đến tầng nào? Tôi khai mở [thiên mục] cho

chư vị trực tiếp đến tận tầng huệ nhãn thông. Khai mở tại tầng cao hơn, thì tâm tính chư vị

không đủ; khai mở tại tầng thấp hơn, thì phá hoại nghiêm trọng trạng thái của xã hội người

thường. Khai mở đến huệ nhãn thông, [thì] chư vị không có bản sự như cách tường khán

vật, thấu thị nhân thể, nhưng chư vị lại có thể thấy được cảnh tượng tồn tại nơi không gian

khác. Vậy nó có lợi ích gì? Nó có thể tăng cường tín tâm luyện công của chư vị; [khi] chư

vị thấy rành rành những điều mà người thường nhìn không thấy, [thì] chư vị hiểu rằng

chúng thật sự tồn tại. Bây giờ thì dù chư vị nhìn được rõ cũng vậy, không được rõ cũng

vậy, [thiên mục] sẽ được khai mở đến tầng này; đối với việc luyện công của chư vị đều có

lợi ích. Người thật sự tu Đại Pháp, [nếu] tuân theo chặt chẽ yêu cầu đề cao tâm tính, [thì]

đọc cuốn sách này [cũng sẽ] có hiệu quả như vậy.

Điều gì quyết định tầng của thiên mục con người? Không phải là sau khi khai thiên

mục cho chư vị thì cái gì [chư vị] cũng có thể nhìn thấy; không phải thế; nó còn có sự

phân chia tầng thứ. Vậy tầng ấy là do điều gì quyết định? Có ba nhân tố: nhân tố thứ nhất

chính là thiên mục con người cần phải có từ trong ra đến ngoài một trường, mà chúng tôi

gọi là 'khí tinh hoa'. Nó đóng vai trò gì? Nó tương tự như màn huỳnh quang của TV: nếu

chẳng được tráng huỳnh quang {phosphor} thì sau khi bật TV lên nó {TV} chỉ là bóng

đèn điện: chỉ có ánh sáng mà không có hình ảnh. Chính là nhờ có tráng huỳnh quang, nó

mới có thể hiển thị hình ảnh được. Tất nhiên, ví dụ này cũng không thật khớp lắm. Vì

chúng ta nhìn trực tiếp, còn nó {TV} phải thông qua lớp huỳnh quang để hiển hình;

[nhưng] đại khái ngụ ý là vậy. Chút xíu khí tinh hoa này vô cùng trân quý; [nó] là cấu

thành từ một thứ rất tinh hoa được tinh luyện từ đức. Thông thường khí tinh hoa này tồn

tại trong mỗi cá nhân đều khác nhau; có lẽ trong một vạn người mới có thể tìm thấy hai

người ở cùng một tầng.

Tầng của thiên mục trực tiếp là thể hiện của Pháp trong vũ trụ này của chúng ta. Nó là

điều siêu thường, và có quan hệ khăng khít với tâm tính của người ta; tâm tính một người

mà thấp, thì tầng của vị ấy cũng thấp. Vì tâm tính thấp, nên khí tinh hoa vị này tản mất

nhiều; còn nếu tâm tính người kia rất cao; vị ấy từ bé đến lớn [sống] trong xã hội người

thường, đối với danh, lợi, mâu thuẫn giữa con người, lợi ích cá nhân, và [đối với] thất tình

lục dục đều coi rất nhẹ, [thì] khí tinh hoa có thể được bảo tồn tốt hơn; do đó sau khi khai

thiên mục, [vị này] nhìn thấy được rõ ràng hơn. Với đứa trẻ sáu tuổi trở xuống, thì sau khi

Vấn đề liên quan đến thiên mục

23

khai [thiên mục] sẽ nhìn hết sức rõ ràng; [và] khai mở cũng dễ dàng, [tôi nói] một câu liền

có thể khai mở ngay.

[Vì] sự ô nhiễm của dòng chảy lớn, của thùng thuốc nhuộm lớn xã hội người thường,

[mà] điều người ta cho rằng đúng, trên thực tế rất nhiều khi lại là sai. Con người ai chẳng

muốn sống tốt? Mong muốn sống tốt ấy, có thể phải làm tổn hại đến lợi ích người khác, có

thể làm tăng trưởng tâm lý tự tư của con người, có thể chiếm đoạt lợi ích người khác, nạt

dối người khác, gây thiệt hại người khác. Chỉ vì lợi ích cá nhân, ở chốn người thường mà

tranh mà đấu, vậy chẳng phải tương phản với đặc tính của vũ trụ là gì? Do vậy, điều con

người cho là đúng, nó lại không nhất định là đúng. Khi giáo dục cho trẻ nhỏ, vì muốn

tương lai sau này có thể xác lập chỗ đứng trong xã hội người thường nên người lớn thường

hay dạy bảo ngay từ tấm bé: "con phải biết sống khôn khéo". Từ vũ trụ chúng ta mà xét thì

thấy "khôn khéo" ấy đã sai quá rồi; bởi vì chúng tôi giảng tuỳ kỳ tự nhiên, đối với lợi ích

cá nhân cần coi nhẹ. Nó mà khôn kiểu ấy, chính là chạy theo lợi ích cá nhân. "Đứa nào nạt

dối con, con hãy tìm thầy giáo nó, tìm cha mẹ nó"; "thấy tiền [rơi] con hãy nhặt [bỏ túi]",

toàn giáo dục trẻ như thế. Từ bé đến lớn đứa trẻ tiếp thụ những thứ như thế rất nhiều, dần

dần tại xã hội người thường tâm lý tự tư của nó càng ngày càng lớn; nó chỉ muốn chiếm

lợi riêng cho mình, và nó sẽ tổn đức.

Chủng vật chất đức ấy khi tổn thất rồi không tản đi mất, nó chuyển sang người khác;

nhưng loại khí tinh hoa kia thì sẽ tản đi mất. Nếu một cá nhân từ bé đến lớn sống rất 'khôn

khéo' như thế, rất coi trọng lợi ích cá nhân, chỉ chạy theo lợi, [thì] thông thường thiên mục

của loại người này sau khi khai mở rồi cũng không dùng được, nhìn không rõ ràng; nhưng

không có ý nói rằng từ nay trở đi vĩnh viễn không dùng được. Tại sao? Vì chúng ta trong

quá trình tu luyện là phản bổn quy chân, không ngừng luyện công, cũng không ngừng bù

đắp, bù đắp trở lại. Do vậy cần giảng tâm tính, chúng tôi giảng đề cao toàn bộ, thăng hoa

toàn bộ. Tâm tính nâng cao lên, các điều khác cũng theo đó mà lên; tâm tính chẳng nâng

lên, thì chút khí tinh hoa của thiên mục kia cũng chẳng thể bù đắp lại được; đạo lý là như

vậy.

Nhân tố thứ hai chính là trong khi tự luyện công, nếu như căn cơ tốt, có thể khiến

thiên mục khai mở. Thông thường một số người khi thiên mục vừa mới khai mở thì hoảng

cả lên. Tại sao lại hoảng cả lên? Bởi vì môn luyện công thường chọn lúc canh khuya giờ

tý, đêm thâu tịch lặng [để luyện công]. Vị ấy đang luyện đang luyện, đột nhiên trông thấy

một con mắt lớn ngay trước mặt, làm vị ấy phát hoảng cả lên. Lần phát hoảng này không

phải thường đâu, đến nỗi từ đó trở đi vị này không dám luyện [công] nữa. Nó làm người ta

hoảng sợ lắm! Một con mắt to như thế đang chớp chớp nhìn, thật rõ ràng rành rành. Vậy

nên có người gọi đó là 'mắt ma', cũng có người gọi là 'mắt Phật', v.v.; kỳ thực nó chính là

con mắt của chư vị. Tất nhiên, tu tại tự kỷ, công tại sư phụ. Toàn bộ quá trình diễn hoá

công của một người tu luyện, là một quá trình rất phức tạp tại các không gian khác; không

phải chỉ ở một không gian khác, mà tại tất cả các không gian; thân thể tại các từng không

gian tất cả đều biến hóa. Chư vị có tự mình làm được điều ấy không? Không làm được.

Điều ấy là do sư phụ an bài, sư phụ làm cho; do đó mới nói là tu tại tự kỷ, công tại sư phụ.

Chư vị chỉ cần tự mình có nguyện vọng như thế, mong muốn như vậy; [còn] sự việc chân

thực là do sư phụ làm giúp.

Có người tự mình luyện khai thiên mục, chúng tôi giảng đó là con mắt của chư vị, dẫu

rằng chư vị tự mình không diễn hoá ra nó được. Có vị có sư phụ; sư phụ thấy thiên mục

của chư vị đã khai mở, liền diễn hoá ra một con mắt cho chư vị; gọi là 'chân nhãn'. Tất

nhiên có vị không có sư phụ, nhưng lại có một sư phụ qua đường. Phật gia giảng: 'Phật vô

xứ bất tại'; nơi nào cũng có, nhiều đến mức độ như vậy; cũng có người giảng: 'trên đầu ba

thước có thần linh', nghĩa là [họ] có rất nhiều. Sư phụ qua đường một khi thấy chư vị tu

tốt lắm, thiên mục đã khai mở nhưng còn thiếu một con mắt, [sư phụ] liền diễn hoá một

Vấn đề liên quan đến thiên mục

24

[con mắt] cấp cho chư vị; cái đó được coi như chư vị tự mình luyện được. Bởi vì độ nhân

không nói điều kiện, không tính công, không kể thưởng, cũng không kể danh tiếng; so với

những nhân vật mẫu mực nơi người thường thì cao hơn hẳn; nó hoàn toàn phát xuất từ tâm

từ bi.

Sau khi thiên mục người ta khai mở rồi, thì xuất hiện một loại trạng thái: bị ánh sáng

chói loá mắt rất ghê gớm, cảm giác như kích thích [vào] mắt. Thật ra không phải cặp mắt

của chư vị bị kích thích, mà là thể tùng quả của chư vị bị kích thích; [nhưng] chư vị cảm

thấy giống như mắt bị kích thích. Đó là vì chư vị chưa có một con mắt; cấp cho chư vị một

con mắt xong, thì chư vị không cảm thấy mắt bị kích thích nữa. Một số chúng ta sẽ có thể

cảm thấy, [hoặc] nhìn thấy con mắt này. Vì nó có cùng bản tính vũ trụ, nên nó rất ngây

thơ, cũng rất hiếu kỳ; nó nhìn vào trong, coi xem thiên mục đã khai mở chưa, đã có thể

nhìn được chưa; nó cũng ngó vào bên trong nhìn chư vị. Bấy giờ thiên mục chư vị cũng

vừa khai mở, nó đang nhìn chư vị; đột nhiên nhìn thấy nó thì chư vị lại hoảng cả lên. Thật

ra đó chính là con mắt của chư vị, sau này chư vị có nhìn gì thì cũng thông qua con mắt

này mà nhìn; chưa có con mắt ấy thì chư vị hoàn toàn không thể nhìn được, có khai mở

[thiên mục] cũng không nhìn thấy được.

Nhân tố thứ ba là đột phá tầng thứ hiển hiện ra sự khác biệt [về] các không gian; nó

chính là vấn đề thật sự quyết định về tầng. [Để] nhìn sự vật, ngoài đường thông chính,

người ta còn có nhiều đường thông phụ. Phật gia giảng mỗi lỗ chân lông đều là một con

mắt; Đạo gia giảng tất cả các khiếu trên thân thể đều là con mắt, nghĩa là, tất cả các huyệt

vị đều là con mắt. Tất nhiên điều họ giảng chỉ là một dạng hình thức diễn biến của Pháp

trên thân thể: không nơi nào không thể nhìn được.

Tầng mà chúng tôi giảng không giống với điều ấy. Ngoài đường thông chính ra thì tại

hai lông mày, bên trên mí mắt, bên dưới mí mắt và [tại] sơn căn có một vài vị trí có đường

thông phụ chủ yếu. Chúng quyết định vấn đề đột phá về tầng. Tất nhiên người tu luyện

thông thường, nếu mà tại mấy vị trí ấy đều có thể nhìn được, thì tầng mà cá nhân ấy đột

phá lên đã rất cao rồi. Có người có thể nhìn bằng mắt [thịt], họ đã luyện được cặp mắt của

họ, nó cũng trang bị một loại hình thức công năng. Nhưng nếu con mắt này được dùng

không đúng, họ cứ nhìn được cá thể này thì không thấy các cá thể khác, vậy cũng không

ổn; do vậy có người thường dùng một con mắt để nhìn bên kia và một con mắt [khác] để

nhìn bên này. Còn chỗ dưới con mắt này (mắt bên phải) không có đường thông phụ; vì nó

có quan hệ trực tiếp với Pháp: khi làm điều không tốt người ta thường sử dụng mắt phải,

nên dưới mắt phải không có đường thông phụ. Đây là nói về việc trong khi tu luyện tại thế

gian pháp có xuất hiện một số đường thông phụ chủ yếu như vậy.

Đến tầng cực cao, sau khi tu luyện xuất khỏi thế gian pháp, thì còn xuất hiện một loại

con mắt kiểu như phức nhãn; toàn bộ trên nửa khuôn mặt sẽ sản sinh ra một con mắt đơn

lớn mà trong nó có vô số con mắt nhỏ. Có những Đại Giác Giả rất cao [tầng] tu luyện

được rất nhiều con mắt, đầy hết cả khuôn mặt. Tất cả các con mắt đều thông qua con mắt

đơn lớn này mà nhìn; muốn nhìn gì thì thấy nấy; liếc mắt một cái là thấy được tất cả các

tầng. Hiện nay các nhà động vật học, các nhà côn trùng học nghiên cứu nhặng xanh. Mắt

nhặng xanh rất lớn; dùng kính hiển vi để nhìn thì trong nó có vô số con mắt nhỏ; [mắt lớn

ấy] nó được gọi là phức nhãn. Đến tận tầng cực cao [mới] có thể xuất hiện trạng thái này;

so với [tầng] Như Lai thì còn phải lên cao rất nhiều lần, rất nhiều lần mới có thể xuất hiện.

Nhưng người thường không thể nhìn thấy được; [người] tại tầng thông thường cũng không

nhìn thấy sự tồn tại của [phức nhãn], chỉ thấy giống như người thường, bởi vì nó ở không

gian khác. Đến đây đã giảng xong phần đột phá về tầng; cũng chính là vấn đề có khả năng

đột phá các từng không gian.

Nói chung tôi đã giảng cho mọi người về kết cấu của thiên mục. Chúng tôi dùng

ngoại lực để khai thiên mục cho chư vị, như thế nhanh hơn [và] dễ hơn. Trong khi tôi đang

Vấn đề liên quan đến thiên mục

25

giảng về thiên mục, trên trán của mỗi người chúng ta đều có cảm giác căng lên, thịt tụ lại,

tụ lại xoáy vào trong. Có như thế hay không? Là như thế. Miễn là tại đây những ai thật sự

vứt bỏ tâm [chấp trước] đến đây học Pháp Luân Đại Pháp, thì ai cũng đều có cảm giác ấy;

lực cũng rất lớn, đẩy vào phía trong. Tôi xuất ra một công chuyên môn khai thiên mục để

khai mở cho chư vị; đồng thời cũng xuất những Pháp Luân để tu bổ cho chư vị. Trong khi

tôi giảng thiên mục, chỉ cần là [người thật sự] tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, chúng tôi đều

khai mở cho chư vị; nhưng không phải nhất định ai cũng có thể nhìn rõ, cũng không nhất

định là ai cũng có thể nhìn thấy; điều này có quan hệ trực tiếp đến tự thân của chư vị.

Không sao hết, chư vị nhìn không thấy cũng không sao, hãy tu luyện dần dần. Thuận theo

việc chư vị không ngừng đề cao tầng, chư vị sẽ lần lần nhìn thấy được, [trước] nhìn không

rõ [sau] sẽ lần lần nhìn rõ. Miễn là chư vị tu luyện, khi mà chư vị dốc lòng quyết tâm tu

luyện, [thì] những gì của chư vị bị tản mất sẽ [được] bồi bổ đầy đủ.

Tự mình khai thiên mục khó khăn hơn. Tôi giảng một chút rằng tự mình khai thiên

mục có một vài hình thức. Ví như trong lúc chúng ta đả toạ có người quan sát [chỗ] trước

trán, quan sát thiên mục, thì thấy trước trán là một đống đen đen, cũng chẳng [thấy] có gì.

Qua một thời gian, họ nhận thấy trước trán lần lần trắng ra. Tu luyện một thời gian, họ

phát hiện rằng trước trán lần lần sáng lên, sáng dần lên thành mầu đỏ. Đến lúc này thì nó

như hoa nở; nó tương tự như trong điện ảnh, trên TV: nụ hoa nháy mắt một cái là khai nở;

sẽ xuất hiện cảnh ấy. Mầu hồng này ban đầu là bình phẳng, sau đó ở giữa chuyển sang

dạng ống, [từ đó] không ngừng nở, không ngừng nở. Chư vị muốn tự mình khiến nó nở

thấu hoàn toàn, thì 10 năm [hay] 8 năm cũng không đủ, vì toàn bộ thiên mục đã tắc nghẽn

hẳn rồi.

Thiên mục của một số người không bị tắc nghẽn, nó đã được trang bị đường thông;

nhưng vì họ không luyện công, [nên] cũng không có năng lượng; do vậy khi họ luyện

công thì đột nhiên xuất hiện trước mắt một thứ hình tròn đen đen. Luyện công một thời

gian, nó lần lần trắng ra, từ trắng rồi lần lần sáng lên, cuối cùng ngày càng sáng hơn, cảm

giác [như] kích thích con mắt. Có người nói: Tôi thấy được mặt trời, [hoặc] tôi thấy được

mặt trăng. Thật ra, chư vị không thấy được mặt trời, [cũng] không thấy được mặt trăng.

Vậy điều mà chư vị nhìn thấy là gì? Chính là đường thông của chư vị. Có người đột phá

[lên] tầng khá là nhanh, ngay sau khi [có được] con mắt này, họ có thể trực tiếp nhìn ngay.

[Cũng] có người lại vô cùng khó khăn, họ [cảm thấy như đang chạy] theo đường thông ấy,

giống như một đường hầm, hoặc giống như một cái giếng; cứ khi nào luyện công lại

hướng ngoài mà chạy; thậm chí cả khi ngủ cũng thấy cảm giác như tự mình đang chạy ra

bên ngoài. Có người cảm giác như phi ngựa, có người [như] đang bay, có người [như]

đang chạy, có người như là đang ngồi trong xe mà xông thẳng ra ngoài; nhưng xông mãi

ra mà chẳng đến đầu [kia] bởi vì tự mình khai thiên mục thật rất khó. Đạo gia coi thân thể

người ta như một tiểu vũ trụ; nếu như đó là một tiểu vũ trụ, [thì] mọi người thử nghĩ xem,

từ trước trán cho đến thể tùng quả là mười vạn tám nghìn dặm vẫn chưa hết; do đó luôn

thấy xông ra ngoài mà vẫn chưa đến đầu.

Đạo gia xem thân thể người như một tiểu vụ trụ, [điều ấy] rất có lý. Không phải ý nói

rằng kết cấu tổ chức của nó rất tương tự với vũ trụ, [cũng] không phải giảng về hình thức

tồn tại của cái thân thể trong không gian vật chất này của chúng ta. Chúng tôi giảng rằng,

theo chỗ khoa học hiện nay nhìn nhận thì thân thể vật chất này từ tế bào trở xuống có trạng

thái thế nào? Các loại thành phần phân tử, dưới phân tử là nguyên tử, proton, hạt nhân

nguyên tử, điện tử, hạt quark; lạp tử nhỏ nhất mà hiện nay nghiên cứu đến là neutrino. Vậy

đến vi lạp hết sức nhỏ hết sức nhỏ nữa là gì? Muốn nghiên cứu thì vô cùng khó. Những

năm về sau, Thích Ca Mâu Ni đã giảng một câu như thế này, Ông nói: "Kỳ đại vô ngoại,

kỳ tiểu vô nội". Nghĩa là gì? Ngay tại tầng Như Lai [mà xét], nó lớn quá, nhìn không tới

Vấn đề liên quan đến thiên mục

26

biên giới của vũ trụ; nó nhỏ quá, không tới được vi lạp vật chất nhỏ nhất; do đó Ông

giảng: "Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội".

Thích Ca Mâu Ni còn giảng về học thuyết 'tam thiên đại thiên thế giới'. Ông nói rằng

trong vũ trụ này của chúng ta, trong hệ Ngân Hà này của chúng ta, có ba nghìn tinh cầu có

tồn tại sắc thân như thân thể nhân loại chúng ta. Ông còn giảng rằng trong một hạt cát

cũng có tam thiên đại thiên thế giới như thế này. Một hạt cát lại giống như một vũ trụ;

trong đó lại có con người có trí tuệ như chúng ta, có tinh cầu giống như thế, cũng có núi

sông nước chảy. Nghe thật quá huyền hoặc! Nếu đúng như lời ấy, mọi người thử nghĩ

xem, ở bên trong đó cũng có những hạt cát phải không? Bên trong hạt cát kia lại có tam

thiên đại thiên thế giới phải không? Như vậy trong tam thiên đại thiên thế giới ấy lại có

những hạt cát phải không, bên trong hạt cát kia cũng còn có tam thiên đại thiên thế giới

phải không? Vậy nên, đến tầng Như Lai mà nhìn cũng không đến tận cùng của nó được.

Tế bào [làm bằng] phân tử của con người cũng như thế. Người ta hỏi vũ trụ to đến

đâu; tôi nói với mọi người rằng, vũ trụ này có biên giới; nhưng tại tầng như tầng Như Lai

mà xét, thì thấy nó là vô biên vô tế, to lớn vô hạn. Mà nội bộ thân thể con người, từ phân

tử cho đến vi lạp tại vi quan trở xuống lại to lớn như vũ trụ này; nghe vậy mà thấy quá

huyền hoặc. [Khi] tạo thành một cá nhân, một sinh mệnh, [thì] tại [mức] cực vi quan đã

tạo nên thành phần sinh mệnh đặc định của nó, bản chất của nó. Do đó những điều nghiên

cứu của khoa học hiện đại còn xa mới đến chỗ này; [nếu] so sánh với các sinh mệnh ở các

tinh cầu có trí huệ cao cấp trong toàn vũ trụ này, [thì] mức độ khoa học kỹ thuật của nhân

loại chúng ta còn thấp lắm. Ngay cùng một lúc ở cùng một chỗ có các không gian khác,

[mà] chúng ta đều không đột phá đến được; còn đĩa bay của tinh cầu khác lại trực tiếp đi

trong không gian khác; khái niệm thời-không của nó khác hẳn, do đó nó nói đến là đến,

nói đi là đi, mau lẹ quá đến nỗi nếu dùng quan niệm của con người thì không thể tiếp thu

được.

[Khi] giảng về thiên mục, chúng tôi đề cập đến vấn đề như thế này, khi chư vị ở trong

đường thông mà chạy mãi hướng ra ngoài, thì chư vị cảm thấy như nó vô biên vô tế. Có

người có thể nhìn thấy một tình huống khác: họ cảm thấy không phải chạy dọc theo một

đường hầm, mà là chạy về phía trước ra ngoài theo một con đường lớn vô biên vô tế, hai

bên đường có non có nước có cả thành phố; [họ] cứ chạy một mạch mãi như thế hướng ra

ngoài; nghe vậy rất huyền hoặc. Tôi còn nhớ một khí công sư giảng câu như thế này: ông

nói rằng trong một lỗ chân lông người ta có một thành phố, trong đó có cả xe lửa, xe hơi

đang chạy. Người khác nghe vậy lấy làm sửng sốt lắm, thấy huyền hoặc lắm. Mọi người

đã biết, vật chất ở [các mức] vi lạp có phân tử, nguyên tử, proton, khảo sát xuống nữa mãi

đến tận cùng; nếu như tại mỗi tầng có thể nhìn thấy được một diện {bề mặt} của tầng, chứ

không phải là một điểm, [tức là] thấy một diện của tầng phân tử, thấy một diện của tầng

nguyên tử, một diện của tầng proton, một diện của tầng hạt nhân nguyên tử, thì chư vị đã

nhìn thấy được hình thức tồn tại tại những không gian khác nhau. Bất kể vật thể nào, kể cả

thân thể người, cũng đều đồng thời tồn tại [tại các] tầng không gian cùng với không gian

vũ trụ, [chúng] cũng có tương thông [với nhau]. Vật lý học hiện đại của chúng ta nghiên

cứu các vi lạp vật chất, [nó] chỉ nghiên cứu từng vi lạp, phân tích, phân tách nó; phân tách

hạt nhân nguyên tử rồi lại nghiên cứu thành phần phân rã [của hạt nhân]. Nếu có các thiết

bị có thể triển khai mà nhìn thấy trong tầng ấy-toàn bộ thể hiện của tất cả thành phần

nguyên tử hoặc thành phần phân tử ở trong tầng này-nếu có thể nhìn thấy được cảnh

tượng ấy, thì chư vị đã đột phá được đến không gian ấy mà nhìn thấy được chân tướng tồn

tại ở các không gian khác. Thân thể người và không gian bên ngoài [nó] có sự đối ứng,

chúng đều tồn tại theo hình thức tồn tại như thế.

Tự mình khai thiên mục còn có một số trạng thái khác nữa, chúng tôi chủ yếu đã

giảng một số hiện tượng phổ biến. Còn có người thấy thiên mục xoay chuyển; người luyện

Vấn đề liên quan đến thiên mục

27

công Đạo gia thường xuyên thấy trong thiên mục xoay chuyển; đĩa thái cực "păng" một

cái là tách mở ra, sau đó là nhìn được cảnh tượng. Nhưng không phải trong sọ não chư vị

[vốn] có thái cực; đó là sư phụ ban đầu đã cấp cho chư vị một bộ hệ thống, một thứ trong

đó là thái cực; ông [niêm] phong thiên mục chư vị lại; đến lúc chư vị khai mở [thiên mục],

nó sẽ tách mở ra. Ông đã cố ý an bài cho chư vị như thế, chứ không phải nguyên trong não

chư vị đã có.

Lại có một số người truy cầu khai thiên mục, [họ] càng luyện lại càng không khai mở

được; nguyên nhân tại sao? Bản thân họ không [hiểu] rõ. Chủ yếu là vì thiên mục không

phải là thứ có thể cầu; càng cầu càng không được. Càng truy cầu nhiều, thì không chỉ

không khai mở, trái lại một thứ [chất] tràn ra từ thiên mục của họ, đen không đen, trắng

không trắng, thứ ấy đóng kín thiên mục của chư vị lại. Càng lâu về sau, nó sẽ hình thành

một trường rất lớn, ngày càng tràn ra nhiều. Thiên mục càng không khai mở, lại càng truy

cầu hơn, thứ chất kia lại tràn ra càng nhiều; kết quả [nó] bao vây toàn bộ thân thể của họ,

thậm chí độ dày rất lớn, mang theo một trường rất lớn. Thiên mục của cá nhân này dẫu

thật sự khai mở rồi, vị ấy cũng chẳng nhìn thấy được, bởi vì vị ấy bị tâm chấp trước của

mình phong kín lại rồi. Trừ phi sau này không gọt giũa lại nữa, khi đã hoàn toàn vứt hết

cái tâm chấp trước ấy, nó mới dần dần tản đi; nhưng phải trải qua một quá trình tu luyện

rất gian khổ và rất lâu mới có thể dứt khỏi hết được; điều này rất không cần thiết. Có

người không hiểu điều ấy; sư phụ đã dặn họ không thể cầu, không thể cầu; họ không tin,

cứ một mực truy cầu; và kết quả thu được [hoàn toàn] ngược lại.

Công năng dao thị

Quan hệ trực tiếp đến thiên mục có một công năng gọi là 'dao thị'. Có người giảng:

Tôi ngồi tại đây có thể nhìn thấy cảnh tượng Bắc Kinh, nhìn thấy cảnh tượng Hoa Kỳ,

nhìn thấy [cảnh tượng] bên kia trái đất. Có người lý giải không được, theo khoa học mà lý

giải cũng không xong; tại sao như thế? Có người giải thích thế này, giải thích thế kia, nói

cũng không được thông; vì sao người ta có bản sự to lớn ấy. Không phải vậy, người tu

luyện tại tầng thế gian pháp không có bản sự này. Những gì mà họ nhìn thấy, kể cả dao

thị, kể cả rất nhiều các công năng đặc dị khác, tất cả đều có tác dụng ở trong một không

gian đặc định [của con người]; lớn nhất cũng không vượt qua khỏi không gian vật chất mà

nhân loại chúng ta đang sinh tồn; nói chung thì không vượt qua khỏi trường không gian

của thân thể bản thân họ.

Thân thể chúng ta ở trong một không gian đặc định có tồn tại một trường; trường này

và trường đức không phải là một trường, không cùng một không gian; nhưng phạm vi

trường [kích thước] to nhỏ là như nhau. Trường này có một thứ quan hệ đối ứng với vũ

trụ: phía vũ trụ có thứ gì thì trong trường này của người ta cũng có thứ đối ứng với nó; [tất

cả đều] có thể đối ứng. Nó là một loại hình tượng, không phải là [vật] chân thực. Ví dụ:

trên trái đất có nước Mỹ, có Washington, thì trên trường [kia] của người ta cũng phản ánh

nước Mỹ, phản ánh Washington; nhưng chúng là hình ảnh. [Nó] dẫu là hình ảnh nhưng

cũng là một loại tồn tại vật chất; nó là quan hệ đối ứng như vậy: tuỳ theo biến đổi ở bên

kia mà [nó] biến đổi [theo]; do đó cái mà có người gọi là 'công năng dao thị' chính là tự

nhìn vào trong phạm vi của trường không gian bản thân mình. Nhưng sau khi tu luyện

xuất khỏi thế gian pháp, thì không nhìn như thế nữa, mà là nhìn trực tiếp, gọi là 'Phật Pháp

thần thông'; đó là thứ có uy lực vô tỷ.

Công năng dao thị khi [tu luyện] thế gian pháp như thế nào? Tôi sẽ phân tích cho mọi

người rõ: trong không gian của trường ấy, ở vị trí phía trước trán của con người có một

chiếc mặt gương; người không luyện công thì [gương] buộc chặt; người luyện công thì nó

lật qua lại. Khi công năng dao thị của người luyện công sắp xuất hiện, nó sẽ liên tục lật.

Mọi người đã biết, phim điện ảnh mỗi giây 24 hình thì xem hình ảnh chuyển động liên tục,

Công năng dao thị

28

còn ít hơn 24 hình thì cảm thấy như nhảy động. Tốc độ lật của nó vượt quá 24 hình một

giây, nó ghi nhận lên chiếc gương những gì phản chiếu, [rồi] lật lại để chư vị nhìn; rồi lật

trở lại thì [hình ảnh] sẽ bị xoá hết. Sau rồi lại phản chiếu, lại lật, lại xoá hết, không ngừng

lật; do đó những thứ mà chư vị nhìn thấy [như] là vận động; đó chính là phản chiếu vào

trong trường không gian của chư vị để chư vị [có thể] nhìn thấy; còn những thứ trong

trường không gian kia là đối ứng từ [những thứ tại] vũ trụ [rộng] lớn.

Vậy sao lại nhìn được phía sau thân người [của mình]? Chiếc gương nhỏ thế, không

nhất định hoàn toàn phản chiếu được quanh thân thể? Mọi người đã biết, tầng thiên mục

của con người khai mở vượt qua thiên nhãn thông, khi sắp tiến nhập vào huệ nhãn thông,

thì sẽ đột phá không gian này của chúng ta. Chính lúc ấy, khi sắp sửa đột phá nhưng chưa

hoàn toàn đột phá, thì thiên mục sẽ phát sinh một loại biến đổi: nhìn vật thể đều không

[thấy] tồn tại, nhìn người cũng [biến] mất, tường vách cũng [biến] mất, cái gì cũng [biến]

mất, vật chất [thấy như] không tồn tại nữa. Nghĩa là trong không gian đặc định này, khi

mà nhìn thật sâu xuống, thì sẽ không thấy người nữa, chỉ có một chiếc mặt gương đứng

bên trong phạm vi trường không gian này của chư vị. Nhưng chiếc mặt gương ấy trong

trường không gian của chư vị lại to lớn như toàn bộ trường không gian ấy; do đó nó ở

trong ấy, trong khi lật đi lật lại, thì không chỗ nào là không phản chiếu. Chỉ cần bên trong

phạm vi trường không gian của chư vị [có] những thứ đối ứng với vũ trụ, thì nó có thể

chiếu xạ [hiện hình] vào trong ấy; chúng ta giảng công năng dao thị là như vậy.

Khi [người nghiên cứu] khoa học về thân thể người kiểm định công năng [dao thị]

này, thông thường [họ] dễ phủ nhận nó. Lý do phủ nhận là: chẳng hạn hỏi 'người thân

thích của một người hiện đang làm gì ở nhà tại Bắc Kinh?' Sau khi nói ra tên của người

thân thích và tình trạng đại khái, thì vị ấy có thể nhìn thấy. Vị ấy nói: Nhà lầu ấy trông ra

sao, tiến đến cổng kia như thế nào, đi vào phòng, bày biện trong phòng trông ra làm sao.

Nói tất cả đều đúng. 'Anh ấy đang làm gì thế?' Rằng 'anh ta hiện đang viết chữ'. Để

chứng thực sự thực ấy, [người kia] bèn quay điện thoại đến người thân thích [hỏi]: 'Anh

đang làm gì thế?' 'Tôi đang ăn cơm'. Thế chẳng phải không khớp với điều vị ấy nhìn thấy

là gì? Trước kia nguyên nhân phủ nhận loại công năng này chính là chỗ đó; có thể hoàn

cảnh vị ấy nhìn thấy không sai điểm nào hết. Bởi vì không gian và thời gian của chúng ta

-chúng tôi gọi là 'thời-không'-so với thời-không của không gian nơi công năng tồn tại

có một chỗ sai biệt về thời gian, khái niệm thời gian của hai phía là khác nhau. Anh ấy vừa

viết chữ xong, còn ngay bây giờ đang ăn cơm; có sự sai biệt về thời gian như thế. Do vậy

những người nghiên cứu khoa học về thân thể người, nếu vẫn luôn luôn theo lý luận thông

thường, chiểu theo khoa học hiện tại mà suy diễn, mà nghiên cứu, thì thêm cả vạn năm

nữa cũng chẳng đi đến đâu. Vì những điều này ngay từ đầu đã là thứ vượt xa người thường

rồi, nên tư tưởng con người cần phải thay đổi, không thể cứ lý giải sự việc như thế này

mãi được.

Công năng túc mệnh thông

Còn có một loại công năng có quan hệ trực tiếp đến thiên mục, gọi là 'túc mệnh

thông'. Trên thế giới hiện nay có sáu loại công năng đã được công nhận, trong đó có thiên

mục, dao thị, và còn có túc mệnh thông. Sao lại gọi là 'túc mệnh thông'? Ấy là có thể biết

được tương lai và quá khứ của cá nhân; lớn nữa thì có thể biết được sự thịnh suy của xã

hội; còn lớn hơn nữa thì có thể thấy được những quy luật biến hoá của toàn thiên thể; đó

chính là 'công năng túc mệnh thông'. Vì vật chất chiểu theo quy luật nhất định mà vận

động; trong không gian đặc thù, bất kể vật thể nào đều có hình thức tồn tại trong rất nhiều

không gian khác. [Tôi] nói một thí dụ: một khi thân thể người ta chuyển động, [thì] các tế

bào trong thân thể người đều động theo; hơn nữa ở vi quan tất cả các phân tử, proton, điện

tử, cho đến nhỏ hơn mãi nữa tất cả thành phần đều vận động theo. Nhưng chúng có hình

Công năng túc mệnh thông

29

thức tồn tại độc lập; các hình thức tồn tại của thân thể trong các không gian khác cũng đều

trải qua một loại biến đổi.

Chẳng phải chúng ta giảng vật chất là bất diệt? Trong một không gian đặc định, người

ta làm xong một việc gì, [ví dụ] người ta huơ tay làm một việc gì, tất cả đều là tồn tại vật

chất; làm việc gì thì cũng lưu lại một hình tượng và tín tức. Tại không gian khác, nó là bất

diệt, vĩnh viễn tồn tại ở đó, người có công năng nhìn một cái là thấy được cảnh tượng tồn

tại trong quá khứ, nên hiểu biết liền. Tương lai khi chư vị có công năng túc mệnh thông

rồi, chư vị nhìn thử về hình thức mà chúng ta hôm nay giảng bài tại đây, [sẽ thấy] nó vẫn

còn tồn tại, đã đồng thời tồn tại ở nơi ấy. Khi một cá nhân giáng sinh, trong một không

gian đặc thù không có khái niệm thời gian, cuộc đời vị ấy đã đồng thời tồn tại ở đó rồi; có

[những người] không chỉ là một đời [đồng thời tồn tại ở đó].

Có thể có người nghĩ: Những phấn đấu cá nhân, cải thiện bản thân của chúng ta vậy

chăng là không cần thiết? Họ không [chịu] chấp nhận [điều này]. Thực ra phấn đấu cá

nhân có thể thay đổi được những thứ nhỏ trong đời người, một số thứ nhỏ thôi; bằng phấn

đấu cá nhân có thể có được những thay đổi ấy. Nhưng chính vì nỗ lực cải biến của chư vị

mà có thể chịu nhận nghiệp lực; nếu không thế thì không tồn tại vấn đề tạo nghiệp, cũng

không tồn tại vấn đề làm việc tốt [và] làm việc xấu. Khi ngoan cố làm việc gì đó, họ sẽ

chiếm tiện nghi của người khác, họ làm điều xấu. Do đó trong tu luyện nhắc lại [nhiều lần]

rằng cần phải thuận theo tự nhiên, đó chính là đạo lý; bởi vì chư vị qua nỗ lực mà làm hại

người khác. Nguyên sinh mệnh của chư vị không có thứ đó, nhưng tại xã hội chư vị lại

được những thứ vốn thuộc về người khác; vậy là chư vị đã mắc nợ người ta rồi.

Người ta muốn [tác] động [làm thay đổi] những sự việc lớn; người thường hoàn toàn

không thể [tác] động đến được. Họ có một cách [tác] động, chính là cá nhân ấy toàn làm

điều xấu, không điều ác nào mà không làm; vị ấy có thể thay đổi được cuộc đời của mình,

nhưng vị ấy sẽ đương đầu với sự huỷ diệt triệt để. Chúng tôi từ cao tầng mà nhìn, thấy

[khi] con người chết rồi, [nhưng] nguyên thần bất diệt. Nguyên thần bất diệt là sao? Chúng

tôi thấy rằng sau khi người ta chết, [thì xác] người ở chốn an nghỉ kia, chẳng qua chỉ là các

tế bào của thân người trong không gian này của chúng ta mà thôi. Các tổ chức tế bào của

nội tạng và bên trong thân thể, toàn bộ thân người, và từng tế bào tại không gian này đều

thoát rơi ra; còn thân thể tại các không gian khác như phân tử, proton, điện tử, cho đến các

vật chất vi lạp thành phần nhỏ hơn thì không chết; chúng vẫn ở trong các không gian khác,

[chúng] vẫn tồn tại trong các không gian vi quan. Nhưng điều mà kẻ không điều ác nào mà

không làm sẽ đương đầu chính là việc toàn bộ tế bào giải thể hết, trong Phật giáo gọi là

'hình thần toàn diệt'.

Còn có một cách có thể cho phép con người biến đổi đời của họ; đây là cách duy nhất;

chính là cá nhân ấy từ nay trở đi sẽ bước trên con đường tu luyện. Vậy tại sao đi theo con

đường tu luyện có thể làm biến đổi đời người của họ? Ai có thể tuỳ tiện [tác] động đến

điều ấy? Bởi vì [khi] cá nhân ấy hễ muốn đi theo đường tu luyện, ý niệm ấy vừa mới động,

[thì] giống như ánh vàng kim loé sáng, chấn động mười phương thế giới. Khái niệm vũ trụ

đối với Phật gia là học thuyết thế giới mười phương. Bởi vì [đứng] tại sinh mệnh cao cấp

mà xét, thì sinh mệnh [đời] người không phải vì để làm người. Họ cho rằng sinh mệnh con

người là [được] sản sinh trong không gian vũ trụ, có cùng tính chất với vũ trụ, là lương

thiện, là cấu thành từ chủng vật chất Chân Thiện Nhẫn. Nhưng họ cũng có quan hệ [mang]

tính quần thể; trong quần thể khi họ phát sinh quan hệ xã hội, một số biến đổi không còn

tốt nữa, do vậy bị rớt xuống dưới; tại tầng [dưới] ấy họ cũng không trụ lại được nữa, họ lại

biến thành tệ hơn nữa, họ lại rớt thêm một tầng nữa; rớt, rớt, rớt mãi cuối cùng rớt đến

tầng người thường này.

[Rơi rớt đến] tầng này, cá nhân ấy nên bị huỷ diệt, bị tiêu huỷ. Nhưng các Đại Giác

Giả đã xuất phát từ tâm đại từ bi, mà đặc cách tạo một chủng không gian này, như không

Công năng túc mệnh thông

30

gian của xã hội nhân loại chúng ta. Tại không gian này, họ được cấp thêm một nhục thân,

thêm một cặp mắt chỉ nhìn được vật thể hạn cuộc trong không gian vật chất của chúng ta;

cũng có nghĩa là rơi vào [cõi] mê, làm cho họ không nhìn thấy được chân tướng của vũ

trụ; trong khi tại các không gian khác đều có thể nhìn thấy được. Ở trong [cõi] mê ấy, tại

trạng thái ấy, một cơ hội thế này được lưu lại cho họ. Bởi vì ở trong mê, nên cũng là khổ

nhất; có mang thân thể này, chính là phải chịu khổ. Người tại không gian này nếu có thể

quay trở về trên, Đạo gia luyện công giảng 'phản bổn quy chân', vị ấy nếu mang tâm

muốn tu luyện, chính là Phật tính xuất hiện, [thì] cái tâm ấy là trân quý nhất, mọi người sẽ

giúp đỡ vị ấy. Con người ở trong hoàn cảnh khổ như thế này mà chưa bị mê mất, còn

muốn quay trở về, do đó mọi người sẽ giúp đỡ vị ấy, giúp đỡ một cách vô điều kiện, việc

gì cũng có thể giúp được. Tại sao chúng tôi có thể vì người tu luyện mà làm những sự việc

này, nhưng không thể làm cho người thường? Đó chính là đạo lý.

Đối với một người thường [chỉ] mong trị bệnh, [chúng tôi] không giúp chư vị được;

người thường vẫn là người thường; người thường nên [ở trong] trạng thái của xã hội người

thường. Nhiều người giảng, [rằng] Phật phổ độ chúng sinh, [rằng] Phật gia giảng phổ độ

chúng sinh. Tôi nói với chư vị, chư vị thử giở tất cả kinh điển Phật giáo [mà xem], không

có nói rằng chữa bệnh cho người thường được tính là phổ độ chúng sinh. Mấy năm nay

chính những khí công sư giả đã làm loạn việc này. Những khí công sư chân chính, những

khí công sư mở đường không hề giảng hoặc bảo [chư vị] trị bệnh cho người [thường]; họ

chỉ dạy chư vị cách tự mình rèn luyện, [tự] chữa bệnh khoẻ người. Chư vị là người

thường, mới học có hai ngày chư vị làm sao có thể trị được bệnh? Có phải lừa người

chăng? Đó có phải tăng trưởng tâm chấp trước chăng? Truy cầu danh lợi, mong cầu những

điều siêu thường [rồi] hiển thị nơi người thường! Điều ấy tuyệt đối không được phép. Do

vậy có người càng truy cầu càng không có [được]; không cho phép chư vị làm như thế;

cũng không cho phép chư vị tuỳ ý phá hoại trạng thái của xã hội này.

Vũ trụ này có một [Pháp] lý rằng, khi chư vị muốn phản bổn quy chân, người ta sẽ

giúp chư vị; họ cho rằng sinh mệnh của con người là nên [để] quay trở về, chứ không phải

nên [để sống] nơi người thường. Nếu nói nhân loại chẳng có bệnh gì hết, [sống] quá ư

thoải mái, thì có bảo chư vị làm thần tiên chư vị cũng chẳng làm. Không có bệnh, cũng

chẳng có khổ, muốn gì được nấy, tốt đẹp nhường ấy, thì đúng là thế giới thần tiên rồi.

Nhưng chư vị biến đổi thành không tốt rồi rơi rớt xuống đến đây, do đó chư vị sẽ không

thể thoải mái được. Nhân tại mê trung dễ phạm điều xấu, trong Phật giáo gọi là 'nghiệp

lực luân báo'. Do đó con người thường xuyên tự họ có ma nạn nào đó, hay gặp lúc có việc

không tốt, đó đều là ở trong nghiệp lực luân báo mà hoàn trả nghiệp của mình. Trong Phật

giáo lại nói: 'Phật vô xứ bất tại'. Một vị Phật chuyển tay một cái, thì bệnh của toàn nhân

loại sẽ không còn; điều này đảm bảo là làm được. Rất nhiều chư Phật vậy sao không làm

điều ấy? Bởi vì trước đây họ {con người} làm điều không tốt, họ mới phải chịu tội này.

Nếu chư vị chữa hết cho họ, thì tương đương với phá hoại [Pháp] lý vũ trụ, tương đương

với việc cá nhân ấy có thể làm điều xấu, nợ người mà không [cần] hoàn trả; điều ấy không

được phép. Do vậy ai cũng duy hộ trạng thái của xã hội người thường, ai cũng không phá

hoại nó. Thoải mái không bệnh duy nhất mà chư vị [có thể] tìm thấy, có thể đạt được mục

đích giải thoát thật sự, chỉ có 'tu luyện'! [Khuyên] bảo con người tu chính Pháp, [đó] mới

là phổ độ chúng sinh một cách chân chính.

Tại sao có nhiều khí công sư có thể trị bệnh? Vì sao họ giảng trị bệnh? Có người có

thể đã nghĩ đến vấn đề này; đại đa số [khí công sư ấy] đều không [theo] đường chính. Khí

công sư chân chính xuất phát từ tâm từ bi, xuất phát từ [lòng] thương xót, trong quá trình

tu luyện thấy chúng sinh đều khổ, [nên] họ giúp đỡ người ta; điều ấy được phép. Nhưng

họ không trị [hết bệnh]; họ chỉ tạm thời giúp chư vị ức chế bệnh lại; hoặc giúp chư vị

chuyển dịch nó đi, bây giờ không mắc [bệnh] nhưng tương lai sẽ mắc, chuyển dịch bệnh

Công năng túc mệnh thông

31

về sau này; hoặc giúp chư vị chuyển hoá [bệnh], chuyển nó sang thân thể thân quyến của

chư vị. Còn tiêu trừ nghiệp ấy một cách thật sự triệt để, thì họ không làm được; không

được phép tuỳ tiện giúp người thường như thế; nhưng chỉ có thể giúp người tu luyện làm

việc ấy; đó chính là đạo lý.

Hàm nghĩa của câu 'phổ độ chúng sinh' mà Phật gia giảng là: đưa chư vị từ trạng thái

tối khổ của người thường lên cao tầng, vĩnh viễn không còn chịu khổ, và [được] giải thoát;

điều họ giảng có hàm nghĩa như thế. Chẳng phải Thích Ca Mâu Ni đã giảng về bờ bên kia

của niết bàn là gì? Đó là hàm nghĩa chân chính [câu] 'phổ độ chúng sinh' của Ông. Nếu ví

như chư vị ở chốn người thường toàn hưởng phúc, có tiền đến mức giường ở nhà chư vị

cũng dùng tiền mà lót, chẳng có tội [khổ] gì, thì có bảo làm thần tiên chư vị cũng chẳng

làm. [Chư vị] là một người tu luyện, [nên] có thể cải biến đường đời cho chư vị; cũng duy

chỉ có tu luyện là có thể cải biến mà thôi.

Hình thức công năng túc mệnh thông là ở bộ phận trước trán của con người có một cái

như màn huỳnh quang nhỏ của TV. Có người thì [nó] ở bộ phận trước trán; có người thì ở

cách trước trán một cự ly rất gần; có người thì ở bên trong trán. Có người nhắm mắt [mới]

có thể nhìn thấy; còn trường hợp nó hoạt [động] rất mạnh, thì có người mở mắt [cũng] có

thể nhìn thấy. Nhưng người khác nhìn không thấy, nó là thứ ở bên trong phạm vi của

trường không gian người ấy. Tức là, chủng công năng này xuất hiện rồi, thì còn một chủng

công năng nữa [có tác dụng] như tải thể, [nó] lấy cảnh tượng nhìn thấy ở không gian khác

phản ánh vào đây, do vậy có thể nhìn thấy được trong thiên mục này. Nhìn thấy tương lai

một cá nhân, nhìn thấy quá khứ một cá nhân, nhìn thấy [một cách] chuẩn xác phi thường.

Toán quái dẫu rõ ràng đến đâu, thì những việc nhỏ, chi tiết không suy tính ra được; nhưng

vị ấy {người có công năng túc mệnh thông} có thể thấy rõ ràng phi thường, cả niên đại

cũng có thể thấy được. Những chi tiết của biến đổi đều có thể thấy, bởi vì điều vị ấy thấy

chính là phản ánh chân thực của người hoặc vật ở các không gian khác.

Chỉ cần là [người] tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thiên mục ai ai cũng được khai mở.

Nhưng những công năng mà chúng tôi đề cập đến sau này, thì không khai mở giúp [chư

vị]. Tuỳ theo khi không ngừng đề cao tầng, công năng túc mệnh thông tự nhiên sẽ xuất

hiện; tương lai trong [quá trình] tu luyện sẽ gặp tình huống như thế. Khi chủng công năng

này xuất hiện, [chư vị] sẽ biết {nhận thức} được việc ấy, do đó Pháp này, Lý này chúng

tôi đều giảng hết.

Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới

"Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới" là gì? Vấn đề này nói ra rất hóc búa.

Trước đây khi nói đến vấn đề này, có nhiều khí công sư đã bị làm cho nghẹn [không biết

ăn nói ra sao] bởi những người không tin khí công. "Trong các vị luyện công đây hỏi ai đã

ra ngoài ngũ hành, trong các vị có ai không còn trong tam giới?" Có một số không phải là

khí công sư; 'khí công sư' của họ là tự phong. Đã nói không rõ thì đừng nói, họ lại dám

nói, rồi bị người ta làm cứng họng. Gây tổn thất lớn cho giới tu luyện, tạo nên hỗn loạn

lớn; có người mượn cớ này để công kích khí công. 'Không trong ngũ hành, ra ngoài tam

giới', là một câu của giới tu luyện, nguyên từ trong tôn giáo, là [câu nói] sinh ra trong tôn

giáo. Do đó chúng ta không thể tách khỏi bối cảnh lịch sử ấy, không thể tách khỏi hoàn

cảnh đương thời [lúc bấy giờ] mà giảng vấn đề này.

'Không trong ngũ hành' là gì? Vật lý học cổ đại của Trung Quốc chúng ta, [và] vật lý

học hiện đại đều nhìn nhận rằng học thuyết ngũ hành của Trung Quốc là đúng. Kim mộc

thuỷ hoả thổ, ngũ hành ấy cấu thành nên mọi sự vật trong vũ trụ; điều ấy là đúng, do vậy

chúng ta [mới] giảng về ngũ hành. Nói rằng một người ra ngoài ngũ hành, [nếu] dùng cách

nói hiện đại mà giảng, chính là đã ra ngoài thế giới vật chất này của chúng ta; nghe mà

thấy thật huyền [hoặc]. Mọi người hãy nghĩ về vấn đề này, các khí công sư có tồn tại công.

Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới

32

Tôi đã [làm] qua thí nghiệm, rất nhiều khí công sư cũng đều đã [làm] qua trắc nghiệm như

thế, [để] kiểm định năng lượng của họ. Bởi vì các thành phần vật chất trong công này [thì]

rất nhiều các thiết bị mà chúng ta đang có hiện nay đều có thể kiểm định ra được, cũng [có

nghĩa] là [với] thành phần mà khí công sư phát ra chỉ cần có một loại thiết bị [đó] tồn tại

thì có thể kiểm định được sự tồn tại của công. Hiện nay các thiết bị có thể đo thấy hồng

ngoại, tử ngoại, siêu âm, hạ âm, điện, từ, tia phóng xạ gamma, nguyên tử, neutron. Các khí

công sư đều có những vật chất ấy; còn có những vật chất mà khí công sư phát ra vẫn chưa

đo thấy được, [vì] chưa có thiết bị. Miễn là có thiết bị [thì] tất cả chúng đều có thể được đo

thấy; [người ta] phát hiện rằng vật chất các khí công sư phát ra cực kỳ phong phú.

Dưới tác dụng của một trường điện từ nhất định, khí công sư có thể phát ánh quang

huy rất mạnh mẽ, đẹp vô cùng. Công lực càng cao thì trường năng lượng phát ra càng lớn.

Còn người thường cũng có, nhưng rất nhỏ; một loại ánh quang huy rất nhỏ. Trong nghiên

cứu của môn vật lý cao năng lượng, người ta nhìn nhận rằng năng lượng chính là những

thứ như neutron, nguyên tử. Nhiều khí công sư đã [làm] qua trắc [nghiệm], những khí

công sư nổi tiếng cũng đều tham gia. Tôi cũng được đo, đo thấy tia phóng xạ gamma và

neutron nhiệt phát ra nhiều hơn vật chất thông thường [phát ra] từ 80 đến 170 lần. Lúc ấy

kim của thiết bị thí nghiệm trỏ đến hết mức rồi; vì kim đã trỏ đến tận cùng, [nên] rốt cuộc

cũng không biết được [nó] lớn ngần nào. Neutron mạnh mẽ đến nhường ấy, thật quả là

khó mà tin nổi! Người ta sao lại phát ra được neutron mạnh mẽ đến thế? Điều đó chứng

minh rằng những khí công sư chúng tôi có tồn tại công, có tồn tại năng lượng; điểm này

trong giới khoa học kỹ thuật đã chứng thực được.

Ra ngoài ngũ hành, còn phải là công pháp tính mệnh song tu; công pháp không phải là

tính mệnh song tu thì chỉ tăng [cái] công [xác định] tầng cao thấp. [Với] công pháp không

tu mệnh, thì không hề có vấn đề này, nó không giảng [vấn đề] ra khỏi ngũ hành. [Còn với]

công pháp tính mệnh song tu, thì năng lượng của nó được tồn trữ trong tất cả các tế bào

của thân thể. Người luyện công thông thường của chúng ta, người mới tăng công, [thì]

viên lạp [hạt] năng lượng phát ra rất thô, có khoảng cách, mật độ không cao, do đó uy lực

rất thấp. Khi lên đến tầng rất cao, mật độ năng lượng ấy so với phân tử nước thông thường

có thể gấp 100, 1000, [hoặc] 100 triệu lần; tất cả đều có thể. Vì tầng càng cao, mật độ của

nó càng lớn và càng tinh tế, uy lực càng lớn. Trong tình huống ấy, ở trong mỗi một tế bào

của thân thể đã được tồn trữ năng lượng ấy-không chỉ trong từng tế bào của thân thể

trong không gian vật chất này của chúng ta, mà trong tất cả thân thể tại các không gian

khác, phân tử, nguyên tử, proton, điện tử, cho đến các tế bào ở mức hết sức vi quan-tất

cả đều được chủng năng lượng ấy lấp đầy. Dần dần qua thời gian rất lâu, thân thể người đã

hoàn toàn sung mãn bằng chủng vật chất cao năng lượng ấy.

Vật chất cao năng lượng này có linh tính, nó [rất] có bản sự. Một khi nó nhiều lên,

mật độ lớn lên, sau khi sung mãn tất cả các tế bào của thân thể người, [thì] nó có thể ức

chế các tế bào của xác thịt con người, [vốn là] các tế bào vô dụng nhất. Khi ức chế vững

chắc rồi, thì sẽ không xuất hiện sự tân trần đại tạ; rốt cuộc [nó] hoàn toàn thay thế các tế

bào xác thịt của người. Tất nhiên, tôi giảng ra thì dễ, [nhưng] tu đến mức ấy là một quá

trình rất chậm. Khi chư vị tu đến mức này, tất cả tế bào của thân thể chư vị đều được vật

chất cao năng lượng này thay thế; chư vị thử nghĩ xem, thân thể chư vị có còn cấu thành từ

ngũ hành không? Có còn là vật chất của không gian này của chúng ta không? Nó đã cấu

thành từ vật chất cao năng lượng gom chọn từ các không gian khác. Thành phần của [chất]

đức kia cũng là vật chất tồn tại trong không gian khác; nó cũng không chịu sự ước chế của

trường thời gian của không gian này của chúng ta.

Khoa học hiện đại nhìn nhận rằng thời gian là có tồn tại trường; không nằm trong

phạm vi của trường thời gian thì không chịu ước chế của thời gian. Khái niệm thời-không

của không gian khác là khác hẳn so với bên này chúng ta; nó làm sao có thể ước chế vật

Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới

33

chất của không gian khác được? Hoàn toàn không có tác dụng. Mọi người thử nghĩ xem,

đến lúc ấy chư vị chẳng phải đã không trong ngũ hành là gì? Chư vị có còn cái thân thể

người thường không? Hoàn toàn không. Nhưng có một điểm: người thường nhìn không

ra1. Tuy rằng thân thể của họ đã cải biến đến trình độ ấy, nhưng sự tu luyện chưa kết thúc,

[nên] họ cần tiếp tục đột phá tầng tu lên cao; do đó họ còn cần phải tu luyện nơi người

thường; người thường mà nhìn không thấy họ2 thì không được.

Vậy sau đó thì sao? Họ ở trong quá trình tu luyện, tất cả các tế bào [làm bằng] phân tử

của họ tuy rằng được vật chất cao năng lượng thay thế, nhưng nguyên tử có trình tự sắp

xếp của nó, trình tự sắp xếp của các phân tử, hạt nhân nguyên tử không hề thay đổi. Trình

tự sắp xếp các phân tử của tế bào [vẫn] là trạng thái như thế, [mà] sờ vào thì thấy mềm;

mật độ trình tự sắp xếp các phân tử của xương cần lớn, sờ vào thì thấy cứng; mật độ các

phân tử máu thì rất là nhỏ, nó là thể lỏng. Người thường từ bề mặt mà nhìn thì không thể

thấy được sự biến đổi của chư vị; tế bào [làm bằng] phân tử của nó vẫn duy trì kết cấu và

trình tự bài trí như dạng ban đầu; kết cấu của nó vẫn không phát sinh biến đổi; nhưng năng

lượng bên trong nó đã thay đổi rồi; do đó cá nhân này từ nay trở đi không già cỗi đi một

cách tự nhiên, những tế bào của người ấy [cũng] không tiêu vong; vậy người này trẻ trung

thanh xuân mãi. Trong quá trình tu luyện, người ta sẽ trông ít tuổi; cuối cùng [bề ngoài của

người ấy] định lại ở nơi ấy.

Tất nhiên, cái thân thể ấy mà đụng phải xe hơi thì có lẽ xương cũng gãy, một khi bị

dao cắt thì vẫn chảy máu thôi. Bởi vì trình tự sắp xếp phân tử của nó không đổi, chỉ là nó

sẽ không tự nhiên tiêu vong, sẽ không tự nhiên lão hoá; không có việc tân trần đại tạ; đó

chính là điều chúng tôi gọi là 'ra ngoài ngũ hành'. Chỗ này có gì là mê tín? Dùng lý luận

khoa học hoàn toàn có thể giải thích được rõ. Có một số người [giải] nói không được rõ lại

cứ tuỳ tiện nói; người ta bèn bảo rằng 'ông làm mê tín'. Bởi vì câu này nguyên từ tôn giáo,

không phải là danh từ xuất hiện từ khí công hiện đại của chúng ta.

'Ra khỏi tam giới' là gì? Hôm rồi tôi đã giảng rằng, điểm chốt của tăng công là việc

chúng ta tu luyện tâm tính, đồng hoá với đặc tính của vũ trụ; [khi] đặc tính vũ trụ đối với

chư vị không còn ước chế nữa, tâm tính chư vị đã thăng hoa lên trên, [thì] thành phần đức

kia sẽ diễn hoá trở thành công. Không ngừng tăng lên trên, thăng lên trên; sau khi thăng

hoa lên cao tầng, thì hình thành một cột công trụ. Công trụ này cao bao nhiêu, thì công của

chư vị cao bấy nhiêu. Có một câu thế này: 'Đại Pháp vô biên'; tất cả là tuỳ vào cái tâm của

chư vị mà tu; xét chư vị tu cao được đến đâu, tất cả là dựa theo lực nhẫn nại và năng lực

chịu khổ của chư vị. [Nếu] vật chất màu trắng của bản thân chư vị dùng hết, [thì] vật chất

màu đen của bản thân chư vị có thể qua chịu khổ mà chuyển hoá thành vật chất màu trắng.

[Nếu] vẫn chưa đủ, [thì chất đen] của những người thân và bè bạn, họ không tu luyện, chư

vị thay họ mà gánh chịu tội [nghiệp], và chư vị cũng có thể tăng công; đây là nói về người

đã tu luyện đến tầng cực cao. [Là] một người thường tu luyện chư vị chớ mong tưởng

gánh chịu tội [nghiệp] cho thân nhân; một người bình thường có nghiệp lực to lớn nhường

ấy thì tu không thành. Điều tôi giảng ở đây là [Pháp] lý tại các tầng khác nhau.

'Tam giới' mà tôn giáo nói, là nói đến 9 tầng trời hoặc là 33 tầng trời; cũng lại nói

trên trời, trên đất, và dưới đất, [chúng] cấu thành các chúng sinh trong tam giới. Họ giảng

rằng hết thảy sinh vật trong 33 tầng trời đều phải qua lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi có

nghĩa là đời này là người, đời sau có thể là động vật. Trong Phật giáo giảng: 'Phải tận

dụng những năm [tháng] có ở đời này, bây giờ chẳng tu thì đến khi nào mới tu?' Bởi vì

động vật không được phép tu luyện, không được phép nghe Pháp, có tu cũng không đắc

chính quả, công mà [tăng lên] cao thì phải bị trời diệt. Chư vị hàng trăm năm mà chẳng

được thân người; [có khi] hơn nghìn năm mới được thân người; được thân người rồi cũng

1Nghĩa là người thường nhìn không thấy được sự khác biệt.2Tức là trở thành vô hình dưới con mắt người thường.Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới

34

chẳng biết quý tiếc. Nếu chư vị thác sinh thành một tảng đá thì vạn năm không ra được;

tảng đá ấy nếu chẳng tan nát, chẳng phong hoá, thì chư vị vĩnh viễn chẳng ra được; được

thân người nào có dễ chi! Nếu mà thật sự được Đại Pháp, cá nhân ấy quả là quá may mắn.

'Nhân thân nan đắc'; đó chính là đạo lý.

Chúng ta luyện công giảng về vấn đề tầng; tầng ấy hoàn toàn dựa vào tự thân tu

luyện; nếu như chư vị muốn nhảy ra khỏi tam giới, công trụ của chư vị tu được rất cao rất

cao rồi, thì chẳng phải chư vị đã đột phá khỏi tam giới là gì? Có người đả toạ một khi

nguyên thần ly thể liền lên rất cao. Có học viên viết trong bài trao đổi tâm đắc thể hội:

'Thưa Sư phụ, con lên đến bao nhiêu bao nhiêu tầng trời rồi, con nhìn thấy những cảnh

tượng như thế như thế.' Tôi nói: 'Con lại lên cao hơn một chút nào'. Người ấy nói: 'Con

không lên [nổi] được nữa, không dám lên nữa, lên cao nữa không được'. Tại sao? Bởi vì

công trụ người ấy cao được ngần ấy, người ấy [đã] ngồi trên công trụ của mình mà lên. Đó

chính là 'quả vị' giảng trong Phật giáo; [người ấy] đã tu lên đến quả vị như thế. Nhưng đối

với người [đang] tu luyện mà nói, vẫn chưa đến đỉnh điểm của quả vị. Người ấy còn

không ngừng thăng lên trên, không ngừng thăng hoa, không ngừng đề cao. Nếu công trụ

của chư vị đã đột phá qua giới hạn của tam giới, thì chẳng phải chư vị đã ra khỏi tam giới

là gì? Chúng tôi đã từng trắc định, phát hiện rằng tam giới mà tôn giáo nói đến, chỉ bất quá

là trong phạm vi chín đại hành tinh của chúng ta. Có người giảng mười đại hành tinh, tôi

nói hoàn toàn không có điều ấy. [Trong] những khí công sư trong quá khứ, tôi thấy có

người có công trụ vọt tận ngoài hệ Ngân Hà; cao nhường ấy, họ từ lâu đã qua khỏi tam

giới. Tôi vừa giảng về 'ra ngoài tam giới'; thật ra [nó] chính là vấn đề về tầng.

Vấn đề hữu sở cầu

Có nhiều người ôm giữ tâm hữu cầu đến gia nhập trường tu luyện của chúng tôi. Có

người ôm giữ [tâm] cầu công năng, có người muốn nghe ngóng lý luận, có người mong

[được] trị bệnh, cũng có người muốn đến để có Pháp Luân; tâm thái nào cũng có. Lại có

người nói: 'Nhà tôi còn có người không đến tham gia học tập, tôi [sẽ] đóng học phí, [xin]

thầy cấp Pháp Luân cho người ấy'. Chúng tôi đã phải qua biết bao nhiêu thế hệ, trải qua từ

niên đại cực kỳ xa xưa, con số ấy mà giảng ra sẽ khiến người ta phải giật mình sửng sốt;

điều được hình thành từ hằng xa xưa như thế, chư vị chỉ bỏ ra mấy chục đồng1 để mua

Pháp Luân là sao? Tại sao chúng tôi cấp cho mọi người [học viên] một cách vô điều kiện?

Chính là vì chư vị muốn làm người tu luyện; cái tâm ấy có dùng bao nhiêu tiền cũng

không mua được; [đây] là Phật tính xuất hiện; [chỉ khi đó] chúng tôi mới làm như thế này.

Chư vị ôm giữ tâm hữu cầu, chư vị phải chăng vì những điều ấy mà đến? Trong tư

tưởng chư vị nghĩ gì, [thì] tại không gian khác những Pháp thân của tôi đều biết hết. Bởi vì

hai khái niệm thời-không không giống nhau, từ không gian khác mà nhìn thì cấu thành tư

duy của chư vị là một quá trình hết sức chậm chạp. Từ trước lúc chư vị nghĩ, họ đã có thể

biết được rồi; do vậy với những tư tưởng không đúng đắn của mình, chư vị phải vứt bỏ

hết. Phật gia có giảng duyên phận; mọi người đều là [nhờ] duyên phận mà đến; đắc được

[nó] rồi có thể là vì chư vị [đáng] nên được [nó]; do vậy chư vị phải biết quý tiếc, đừng có

ôm giữ tâm hữu cầu nào hết.

Tu luyện tôn giáo trong quá khứ, Phật gia giảng 'không', cái gì cũng không mong

nghĩ2, nhập 'không môn'; Đạo gia giảng 'vô', cái gì cũng không có, cũng chẳng muốn,

cũng chẳng truy cầu. Người luyện công giảng: 'hữu tâm luyện công, vô tâm đắc công'.

Ôm giữ một chủng tu luyện trạng thái 'vô vi', chỉ quan tâm tu luyện tâm tính chư vị, thì

tầng của chư vị sẽ đột phá, chư vị đáng được gì thì đương nhiên sẽ có. Chư vị vứt bỏ

không được, [thì] chẳng đúng là tâm chấp trước là gì? Ở đây chúng tôi tức khắc truyền

1Đồng: đồng nhân dân tệ Trung Quốc {yuan-nguyên}. Các đơn vị tiền trong sách này là tiền Trung Quốc.2Chữ tưởng vừa có nghĩa là 'nghĩ', vừa có nghĩa là 'mong muốn'.Vấn đề hữu sở cầu

35

Pháp cao đến vậy, tất nhiên yêu cầu đối với tâm tính chư vị cũng phải cao; vậy nên không

thể ôm giữ tâm hữu cầu mà đến học Pháp được đâu.

Để có trách nhiệm với mọi người, chúng tôi [cần] dẫn mọi người theo con đường

[chân] chính, Pháp này [cần] được giảng rõ cho chư vị. Có người khi truy cầu thiên mục,

thiên mục ấy tự họ làm nghẽn lại, tự mình phong kín lại. Ngoài ra tôi còn nói với chư vị

rằng, trong [giai đoạn] tu luyện thế gian pháp, thì hết thảy các công năng xuất hiện đều là

một chủng loại bản năng tiên thiên mà nhục thân mang theo; hiện nay chúng ta gọi là

'công năng đặc dị'. Chúng chỉ có thể có ở không gian hiện hữu này, phát huy tác dụng

trong không gian này của chúng ta, [có thể] ước chế đối với người thường. Những tiểu

năng tiểu thuật ấy chư vị truy cầu để làm gì? Truy cầu tới truy cầu lui, sau khi sang [giai

đoạn] xuất thế gian pháp, thì chúng không có tác dụng ở các không gian khác. Đến khi tu

luyện xuất thế gian pháp, toàn bộ những công năng ấy đều phải quăng đi hết, chúng được

ép nhập vào một không gian rất thâm sâu, lưu tồn ở đó; sau này chúng được dùng như một

hồ sơ lưu ghi lại một quá trình tu luyện của chư vị, [chúng] chỉ có một tác dụng ấy.

Sau khi bước sang [giai đoạn] xuất thế gian pháp, người ta phải tu luyện lại từ đầu.

Loại thân thể ấy chính là thân thể ra ngoài ngũ hành mà tôi vừa giảng, nó là một Phật thể.

Loại thân thể ấy lẽ nào không gọi là Phật thể được? Phật thể ấy tu luyện lại từ đầu, xuất

công năng lại từ đầu; chúng không được gọi là 'công năng', mà được gọi là 'Phật Pháp

thần thông'. Chúng uy lực vô cùng, ước chế với các từng không gian; [chúng] là thứ thật

sự phát huy tác dụng; chư vị nói xem chư vị còn truy cầu công năng để làm gì? Hễ là

người truy cầu công năng, chư vị phải chăng muốn sử dụng nơi người thường, hiển thị nơi

người thường; nếu không thì chư vị muốn để làm gì? Nhìn không thấy, rờ không được;

ngay cả làm vật trang trí cũng phải tìm đồ [đẹp mắt] dễ coi chứ! Đảm bảo là ẩn giấu trong

ý thức chư vị có suy nghĩ dùng chúng với mục đích ấy. Chúng không thể truy cầu như

những kỹ năng của người thường được; chúng hoàn toàn là những thứ siêu thường, chư vị

không thể lấy chúng hiển thị nơi người thường được. Bản thân [tâm] hiển thị là một loại

tâm chấp trước rất mạnh, tâm hết sức không tốt, là tâm [chấp trước] mà người tu luyện

phải bỏ. Chư vị muốn dùng chúng để kiếm tiền, muốn dùng chúng để phát tài, [dùng] khi

phấn đấu cá nhân để đạt được những mục tiêu nơi người thường của chư vị; như thế càng

không thể được. Đó là dùng những thứ ở cao tầng để can nhiễu đến xã hội người thường,

phá hoại xã hội người thường; ý tưởng ấy rất xấu; do đó không được phép tuỳ tiện sử

dụng.

Thông thường chúng ta xuất hiện công năng phần nhiều ở hai đầu: trẻ con và người

cao tuổi. Đặc biệt là các cụ bà cao tuổi; thông thường các cụ bà giữ vững tâm tính, ở nơi

người thường không có tâm chấp trước. Sau khi công năng xuất hiện, các cụ bà dễ tự chủ,

và không có tâm lý hiển thị. Tại sao người trẻ tuổi không dễ xuất hiện [công năng]? Nhất

là nam thanh niên; [vì] họ muốn phấn đấu hết mình nơi xã hội người thường, [họ] còn

muốn đạt được mục tiêu này khác! Đến khi công năng xuất hiện, thì vận dụng nó, để thực

hiện mục đích của họ; coi nó như một loại bản sự để thực hiện mục đích của họ, việc ấy

tuyệt đối không được phép; do vậy họ không xuất hiện công năng.

Việc tu luyện không thể là trò đùa con trẻ, cũng không phải là kỹ năng nơi người

thường; [nó] là việc nghiêm túc phi thường. Chư vị muốn tu hay không, chư vị có thể tu

hay không, [điều ấy] hoàn toàn xét trên việc chư vị đề cao tâm tính ra sao. Nếu mà một cá

nhân quả thật có thể cầu công năng mà được, thì vậy là hỏng rồi. Chư vị sẽ thấy vị này

[đối với] tu luyện hay không tu luyện, thì hoàn toàn không có nghĩ tới điều này. Bởi vì tâm

tính vị này đặt trên cơ sở [tâm tính] người thường, công năng cũng là từ truy cầu [rồi có],

việc xấu nào vị ấy cũng có thể làm. Trong ngân hàng có toàn là tiền, lấy đi một chút; trên

phố có toàn vé số, cầm ngay giải nhất. Tại sao không có việc như thế tồn tại? Có khí công

sư giảng: 'Không coi trọng đức thì khi xuất hiện công năng dễ làm việc xấu'. Tôi nói rằng

Vấn đề hữu sở cầu

36

đó là câu nói sai lầm, hoàn toàn không có chuyện ấy. [Nếu] chư vị không coi trọng đức,

không tu tâm tính, thì hoàn toàn không xuất hiện công năng. Có người tâm tính tốt, ở trên

tầng ấy một khi xuất hiện công năng, [nhưng] sau đó vị này không tự chủ vững chắc, đã

phạm những việc không nên làm; có tồn tại hiện tượng như thế. Nhưng vị này hễ làm điều

xấu, thì công năng suy yếu hoặc mất. Khi đã mất thì vĩnh viễn mất; ngoài ra, nghiêm trọng

nhất là [nó] có thể làm người ta khởi tâm chấp trước.

Có khí công sư giảng rằng, học công của họ ba ngày có thể chữa bệnh, năm ngày có

thể chữa bệnh; như làm quảng cáo vậy; [nên chăng] gọi đó là 'thương mại khí công'. Mọi

người thử nghĩ xem, chư vị là một người thường, chư vị phát khí một cái là có thể trị hết

bệnh cho người khác chăng? Trên thân thể người thường cũng có khí, chư vị cũng có khí;

chư vị vừa mới luyện công, bất quá mới chỉ khai mở huyệt lao cung, có thể nạp khí phát

khí. Khi chư vị trị bệnh cho người khác, trên thân người ấy cũng là khí, có lẽ [khí của họ]

lại trị [bệnh] cho chư vị cũng nên! Giữa khí và khí với nhau nào có tác dụng ước chế gì?

Khí hoàn toàn không trị bệnh được. Ngoài ra khi chư vị trị bệnh cho họ, chư vị và bệnh

nhân hình thành một trường; khí bệnh trên thân bệnh nhân đều chạy sang thân thể chư vị,

[hai bên] nhiều như nhau; tuy rằng gốc [bệnh] ở trên thân của họ, [nhưng nếu] khí bệnh

nhiều quá thì cũng làm chư vị mắc bệnh. Một khi chư vị nhận thấy [mình] có thể trị bệnh,

thì chư vị sẽ mở cửa trị bệnh cho người ta; ai đến cũng không từ chối, chư vị sẽ khởi tâm

chấp trước. Chữa bệnh được cho người, quả là cao hứng! Tại sao có thể chữa được bệnh?

Chư vị chẳng hề nghĩ [tại sao như vậy]; trên thân các khí công sư giả đều có phụ thể, để

chư vị tin, [họ] cấp cho chư vị một chút tín tức. Chư vị trị [bệnh] 3 lần, 5 lần, 8 lần, hoặc

10 lần là hết. Nó là một dạng tiêu hao năng lượng; từ đó trở đi chút năng lượng ấy cũng

chẳng còn. Bản thân chư vị không có công, hỏi lấy công từ đâu đây? Khí công sư chúng

tôi đã trải qua hàng chục năm tu luyện; tu Đạo trong quá khứ không dễ chút nào. Không

vững theo pháp môn chân chính, mà tu theo thiên môn, tu theo tiểu đạo, thì quả thực rất

khó.

Chư vị thấy một số đại khí công sư danh tiếng lẫy lừng; [họ] phải tu hàng chục năm,

mới xuất ra được chút công ấy thôi. Chư vị chưa hề tu, [chỉ] tham gia lớp học tập là chư vị

có công? Đâu có chuyện như thế? Từ đó trở đi chư vị đã sinh ra tâm chấp trước. Hễ xuất

hiện tâm chấp trước rồi, [khi] chư vị trị bệnh không được, chư vị thấy rất lo. Có người vì

muốn bảo vệ danh [tiếng] bản thân, khi trị bệnh cho người ta thậm chí còn nghĩ những gì?

'Bệnh này tôi xin nhận, để người kia khỏi bệnh'. Đó đâu phải xuất phát từ tâm từ bi; cái

tâm danh lợi người ấy chưa hề dứt bỏ; hoàn toàn không xuất hiện tâm từ bi. Người ấy sợ

mất danh [tiếng]; không nhịn được, thà tự mình chịu bệnh kia còn hơn bị mất danh [tiếng];

tâm cầu danh quả là mạnh mẽ! Nguyện vọng của người này vừa xuất ra, tốt thôi, bệnh kia

lập tức bị chuyển hoá sang thân của người ấy; thật sự có cái tác dụng ấy; người này về nhà

chịu bệnh; người ta khỏi bệnh; sau khi trị bệnh cho người khác, người này về nhà lâm

bệnh chịu khôn thấu. Chư vị thấy bệnh trị được rồi, người ta lại gọi mình một tiếng 'khí

công sư', chư vị [cảm] thấy quả là dương dương tự đắc, khoan khoái vô cùng. Đó chẳng

phải tâm chấp trước là gì? Khi trị [bệnh] không được thì gục đầu ủ dột; đó chẳng phải tâm

danh lợi đang khởi tác dụng là gì? Ngoài ra chư vị thấy rằng khí bệnh của bệnh nhân đều

chạy sang thân của chư vị. Vị khí công sư giả kia dạy chư vị bài xuất ra ngoài như thế nào;

tôi nói với chư vị rằng, hoàn toàn không bài xuất được, một chút cũng không; bởi vì tự

thân chư vị không có năng lực phân biệt khí tốt khí xấu. Dần dần, trong toàn thân chư vị là

đen; đó chính là nghiệp lực.

Khi tu luyện một cách chân chính, chư vị phải gặp thử thách gay go; chư vị làm sao

đây? Chư vị phải chịu bao nhiêu khổ mới có thể chuyển hoá nó thành vật chất màu trắng?

Rất khó; đặc biệt người có căn cơ càng tốt thì càng dễ xuất hiện vấn đề này. Có người nhất

mực truy cầu trị bệnh, trị bệnh. Chư vị hữu sở cầu, con động vật kia liền thấy, nó liền gắn

Vấn đề hữu sở cầu

37

[nó] lên [thân chư vị]; đó chính là phụ thể. Chẳng phải chư vị muốn trị bệnh? [Nó] sẽ giúp

chư vị trị [bệnh]. Nhưng nó không phải là không có duyên cớ gì mà giúp chư vị trị [bệnh],

bất thất giả bất đắc, rất nguy hiểm; rốt cuộc thì chư vị đã chiêu mời nó đến; chư vị còn tu

luyện gì nữa đây? Tất cả là hết rồi.

Có một số người có căn cơ tốt đã dùng căn cơ của bản thân mà đổi lấy nghiệp người

khác. Vị kia có bệnh, nghiệp lực của họ lớn, chư vị chữa xong cho một bệnh nhân nặng,

chư vị về nhà thấy rất đỗi khó chịu! Trước đây chúng ta có nhiều người chữa cho bệnh

nhân rồi có cảm giác thế này: bệnh nhân thì khỏi, còn chư vị về nhà lâm bệnh nặng. Sau

một thời gian, nghiệp lực hoán chuyển nhiều lên, chư vị đổi đức lấy nghiệp lực người ta;

'bất thất bất đắc' mà. Đành rằng [điều] chư vị muốn nhận là bệnh, nhưng cũng phải dùng

đức mà trao đổi lấy nghiệp. Trong vũ trụ này có một [Pháp] lý, rằng bản thân chư vị muốn

gì, thì ai cũng quản không được, cũng không thể nói chư vị là tốt. Trong vũ trụ có điều đặc

định, rằng hễ ai có nhiều nghiệp lực thì đó là người xấu. Chư vị dùng căn cơ bản thân để

hoán chuyển lấy nghiệp lực của họ; [khi] nghiệp lực nhiều thì chư vị còn tu luyện gì nữa?

Căn cơ hoàn chỉnh của chư vị đã bị họ huỷ mất. Chẳng đáng sợ ư? Người kia khỏi bệnh,

họ thấy thoải mái; còn chư vị về nhà thấy chịu khôn thấu. Chư vị chữa lành hai bệnh nhân

ung thư, thì chư vị phải tự thế chỗ của họ; điều ấy nguy hiểm không? Nó đúng là như thế

đấy; nhiều người không hiểu đạo lý trong việc này.

Có một số khí công sư giả, chư vị không nên thấy thanh danh của họ to lớn, có danh

[tiếng] không nhất định là minh bạch. Người thường biết được gì? Nhiều người cứ nói

giống như thế liền [có người] tin theo. Chư vị dẫu thấy họ đang làm như thế hiện nay; họ

không chỉ hại người, mà họ còn hại bản thân họ; qua một hai năm chư vị sẽ thấy họ [trở

thành] như thế nào; tu luyện không cho phép phá hoại như thế. Tu luyện có thể trị bệnh;

nhưng không phải dùng để trị bệnh. Nó là một dạng siêu thường, chứ không phải kỹ năng

nơi người thường chúng ta; chư vị tuyệt đối không được phép tuỳ tiện lấy nó ra phá hoại.

Hiện nay những khí công sư giả kia đã làm nên một [vùng] ô yên chướng khí; lấy khí công

làm thủ đoạn cầu danh phát tài; họ đã tạo nên một đoàn thể tà ác [để] khuếch trương thế

lực; đông gấp bội lần những khí công sư chân chính; người thường đều nói như thế, làm

như thế, hỏi chư vị có tin theo? Cho rằng khí công chính là như thế; không phải vậy. Điều

tôi giảng mới là [Pháp] lý chân chính.

Khi người thường phát sinh các chủng quan hệ xã hội giữa người với người, vì lợi ích

cá nhân mà làm điều xấu, mắc nợ [người ta], nên phải chịu [khổ] để bồi thường. Chẳng

hạn nói, chư vị tuỳ tiện trị [bệnh], chư vị có thể thật sự trị hết, hỏi điều ấy có được phép

không? 'Phật vô xứ bất tại', có nhiều chư Phật như vậy tại sao không làm việc ấy? Họ làm

nhân loại [sống] thoải mái thì tốt quá! Sao họ không làm? Nghiệp lực của tự thân, con

người phải hoàn trả; ai cũng không dám phá hoại [Pháp] lý này. Một người trong quá trình

tu luyện, có thể xuất phát từ tâm từ bi mà giúp đỡ người khác đôi lần; nhưng cũng chỉ là trì

hoãn bệnh. Hiện nay chư vị không chịu tội [khổ], sau này chịu tội; hoặc là giúp chư vị

hoán chuyển: chư vị không mắc bệnh nhưng chư vị mất tiền, gặp nạn; có thể là vậy. Làm

việc ấy một cách thật sự, giúp chư vị tiêu bỏ nghiệp ngay tức thời, [việc ấy] chỉ hạn cuộc

cho những người tu luyện; nhưng không thể làm giúp người thường. Tại đây tôi không

giảng về [Pháp] lý của gia [phái] chúng ta [mà thôi]; tôi đang đàm [luận] về chân lý của

toàn vũ trụ chúng ta; tôi đang đàm [luận] về tình huống thực tế của giới tu luyện.

Ở đây chúng tôi không dạy chư vị trị bệnh, chúng tôi dẫn chư vị theo đường lớn,

đường chính; đưa chư vị lên cao. Do đó ở trên lớp tôi đều giảng rằng các đệ tử Pháp Luân

Đại Pháp không được phép đi coi bệnh; chư vị đi coi bệnh thì không phải là người của

Pháp Luân Đại Pháp của tôi. Vì chúng tôi đưa chư vị lên cao theo đường chính, trong quá

trình tu luyện thế gian pháp liên tục giúp chư vị tịnh hoá thân thể, tịnh hoá thân thể, tịnh

hoá thân thể, cho đến khi được vật chất cao năng lượng chuyển hoá hoàn toàn. [Nếu] chư

Vấn đề hữu sở cầu

38

vị vẫn nạp lên thân của mình những thứ [màu] đen ấy, hỏi chư vị tu luyện sao đây? Nó là

nghiệp lực mà! Hoàn toàn không thể tu luyện được nữa. Để chư vị [nạp] nhiều quá, [thì]

chư vị chịu đựng không nổi; chịu khổ quá nhiều thì chư vị không thể tu; đó chính là đạo

lý. Tôi đưa Đại Pháp này truyền ra [công chúng], có thể chư vị chưa biết được tôi đang

truyền điều gì. Đại Pháp này đã có thể truyền ra thì phải có biện pháp bảo hộ nó. Nếu chư

vị đi coi bệnh cho người ta, thì tất cả những gì tu luyện được cài trên thân thể chư vị, Pháp

thân của tôi sẽ thu hồi toàn bộ. Không thể để chư vị chỉ vì danh lợi mà tuỳ tiện huỷ hoại

những thứ trân quý ấy. Đã không làm theo yêu cầu của Pháp, [chư vị] không là người của

Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi; thân thể của chư vị sẽ lùi lại trở về vị trí người thường,

những thứ không tốt cũng quay trở lại chư vị, bởi vì chư vị muốn làm người thường.

Bắt đầu từ hôm qua sau khi nghe bài học xong, rất nhiều người chúng ta cảm thấy

thân nhẹ nhàng. Nhưng một số rất ít những người bệnh nặng [cần] xử lý trước, hôm qua

bắt đầu thấy rất khó chịu đựng. Hôm qua sau khi tôi lấy xuống những thứ không tốt của

thân thể mọi người, đại đa số chúng ta đều cảm thấy thân nhẹ nhàng, thân thể hết sức thoải

mái. Nhưng trong vũ trụ này của chúng ta có một [Pháp] lý gọi là 'bất thất bất đắc', không

thể giúp chư vị hạ hết toàn bộ xuống được, chư vị mà không phải chịu đựng một chút thì

tuyệt đối không được phép. Nghĩa là nguyên nhân căn bản của bệnh chư vị và nguyên

nhân căn bản của những thứ không tốt của chư vị đều được chúng tôi giúp chư vị lấy bỏ

đi; nhưng chư vị vẫn còn một trường bệnh. Khi thiên mục khai mở ở tầng rất thấp, thì thấy

được trong thân thể có một vài cục khí đen, khí bệnh vẩn đục; nó là một cục khí đen đã cô

đặc có nồng độ rất cao; đến lúc nó toả ra thì sẽ sung mãn khắp toàn thân thể chư vị.

Bắt đầu từ hôm nay, có người sẽ cảm thấy toàn thân phát lạnh, giống như mắc cảm

mạo nặng, có thể xương cốt đau khắp cả. Đại đa số sẽ cảm giác có chỗ khó chịu [trong

người], chân nhức, đầu choáng váng. Chỗ mà trước đây chư vị mắc bệnh có thể cho rằng

đã từng luyện khí công mà khỏi, cũng có thể đã có khí công sư chữa khỏi, nhưng [nay

bệnh] lại xuất hiện trở lại. Đó là vì họ không chữa hết cho chư vị, chỉ trì hoãn lại về sau;

còn tại vị trí ấy, chư vị nay không mắc [bệnh], mà tương lai mắc [bệnh]. Chúng tôi đều

moi nó lên, đều đẩy nó hẳn ra, gỡ bỏ nó ra từ gốc rễ. Như vậy, có thể chư vị cảm thấy như

bệnh cũ tái phát; đó là tống khứ nghiệp từ căn bản, vậy nên chư vị sẽ có phản ứng; có

người có phản ứng cục bộ, chỗ này khó chịu, chỗ kia khó chịu, đủ loại khó chịu, đều sẽ

xảy đến, [tất cả] đều là bình thường. Tôi nói với mọi người, bất kể khó chịu như thế nào,

[chư vị] nhất định phải kiên trì đến nghe giảng bài, chỉ cần chư vị đi vào giảng đường [lớp

học này], thì triệu chứng [bệnh] nào của chư vị cũng mất; sẽ không xuất hiện bất kể nguy

hiểm gì. Có điểm này, [tôi] nói với mọi người rằng, cái mà chư vị cho là "bệnh" ấy dẫu

nặng đến đâu, thì hy vọng rằng chư vị đều kiên trì đến [học]; Pháp rất khó được. Khi chư

vị càng thấy khó chịu thì tức là 'vật cực tất phản', toàn bộ thân thể chư vị cần được tịnh

hoá hết, cần phải được tịnh hoá toàn bộ. Gốc của bệnh đã được dứt bỏ, chỉ còn chút dư khí

đen kia để nó tự chạy xuất ra, để cho chư vị chịu một chút khó khăn, chịu một chút tội

[khổ] ấy mà thôi; chư vị mà không chịu đựng một chút nào thì không thể được.

Trong xã hội người thường, chỉ vì danh lợi, tranh đoạt giữa người với người, chư vị

ăn không ngon ngủ không yên, thân thể chư vị đã không còn ra hình nữa: ở không gian

khác mà nhìn thân thể chư vị, thì xương cốt kia, khúc nào cũng đều [màu] đen. Với thân

thể như thế, một khi giúp chư vị tịnh hoá mà không có chút phản ứng nào thì cũng không

thể được; do vậy chư vị phải có phản ứng. Có người còn bị miệng nôn trôn tháo. Trước

đây có nhiều học viên các địa phương viết cho tôi trong bài tâm đắc thể hội: 'Thưa Sư

phụ, con từ lúc ra khỏi lớp học trở về nhà, trên đường cứ liên tục tìm nhà vệ sinh, tìm suốt

cho đến khi về nhà'. Bởi vì nội tạng đều cần phải được tịnh hoá. Có một số vị cá biệt thì

ngủ, tôi giảng xong thì vị ấy cũng tỉnh giấc. Tại sao vậy? Bởi vì trong sọ não vị ấy có

bệnh, cần phải điều chỉnh. Hễ điều chỉnh bộ não, thì họ không thể chịu được; do đó cần

Vấn đề hữu sở cầu

39

cho họ vào trạng thái mê man bất tỉnh, để họ không hay biết. Nhưng bộ phận thính giác

một số người không có vấn đề gì; họ ngủ rất say, nhưng một chữ cũng không bỏ sót, [họ]

nghe được hết; người này sau đó tinh thần phấn khởi lên, không ngủ hai ngày cũng không

thấy mệt mỏi. Tất cả đều là những trạng thái khác nhau, đều cần điều chỉnh hết; toàn bộ

thân thể cần được tịnh hoá cho chư vị.

[Là] người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp [một cách] chân chính, khi chư vị có thể vứt

bỏ tâm [chấp trước], [thì] từ nay trở đi sẽ đều có phản ứng. [Còn với] người chẳng vứt bỏ

tâm ấy, trên miệng họ nói đã dứt bỏ rồi, thực tế họ hoàn toàn chưa vứt bỏ, do vậy rất khó

làm [tịnh hoá cho họ]. Cũng có một số người về sau này mới hiểu ra nội dung bài tôi

giảng, họ [mới] vứt bỏ, thân thể [mới] tịnh hoá; người khác đều là thân nhẹ nhàng, họ mới

bắt đầu [được] khỏi bệnh, mới bắt đầu thấy khó chịu. Ở lớp học nào cũng có những vị thụt

hậu như thế, ngộ tính hơi kém; vậy nên chư vị có gặp bất kể tình huống nào thì cũng đều

là bình thường. Tại các địa phương khác trong khi giảng bài, đều xuất hiện tình huống

này: có người thấy rất khó chịu, phủ phục trên ghế chẳng dậy, đợi tôi từ trên bục giảng

xuống trị [bệnh] cho họ. Tôi sẽ chẳng động thủ trị [bệnh], chỉ có một quan1 mà chư vị

chẳng qua nổi; sau này khi tự mình tu luyện chư vị sẽ gặp nhiều đại nạn nữa; cái này

chẳng qua nổi, thì chư vị tu luyện làm sao được? Một chuyện nhỏ ấy mà chư vị không

vượt qua nổi là sao? Tất cả đều có thể vượt qua hết. Vậy nên mọi người không nên tìm tôi

[để] trị bệnh; tôi cũng không trị bệnh; hễ chư vị động đến chữ "bệnh" là tôi không muốn

nghe.

Con người thật sự rất khó [cứu] độ; ở mỗi lớp học nào cũng có 5%, 10% số người là

không theo lên được. Ai ai cũng đắc đạo là điều không thể; là người kiên định [tu] luyện

rồi, còn cần xem chư vị có thể tu xuất lai hay không, còn cần xem chư vị có thể hạ quyết

tâm tu hay không; ai ai cũng thành Phật là điều không thể. [Người nào] chân tu Đại Pháp,

đọc sách này cũng sẽ gặp trạng thái như thế; cũng lại được hết thảy những gì đáng được

đắc.

1Quan: cửa, cửa ải; có nghĩa là khảo nghiệm, thử thách. Quá quan nghĩa là vượt qua khảo nghiệm, thử thách.Vấn đề hữu sở cầu

40

Bài giảng thứ ba

Tôi đối xử với các học viên đều như đệ tử

Mọi người biết chăng? Tôi làm việc gì đây? Đối với tất cả học viên tôi đều dẫn dắt

như là đệ tử, bao gồm cả người tự học mà có thể tu luyện một cách chân chính. Truyền

công lên cao tầng, mà không dẫn dắt chư vị như thế thì không thể được; điều ấy tương

đương với [việc làm] vô trách nhiệm, làm loạn. Chúng tôi cấp cho chư vị bao nhiêu thứ

như thế, cho chư vị biết được bao nhiêu [Pháp] lý mà người thường không đáng được biết;

tôi truyền Đại Pháp này cho chư vị, lại còn cấp cho chư vị rất nhiều thứ nữa. Giúp chư vị

tịnh hoá thân thể rồi, với lại còn liên quan đến một số vấn đề khác nữa; do vậy không dẫn

dắt chư vị như đệ tử, [thì] hoàn toàn không thể được. Tiết lộ cho một người thường nhiều

thiên cơ tuỳ tiện như thế, điều ấy không được phép. Nhưng có một điểm, thời đại hiện nay

đã biến đổi, chúng ta cũng không phải theo hình thức dập đầu chắp tay lạy nữa. Hình thức

ấy không có tác dụng gì; làm thế giống như tôn giáo; chúng ta không làm như vậy. Bởi vì

chư vị dập đầu xong, bái sư xong, ra khỏi cửa lại quay lại là chư vị khi xưa, nơi người

thường muốn làm gì liền làm nấy, chỉ vì danh lợi của mình mà tranh mà đấu, thì hỏi [dập

đầu bái sư] có tác dụng gì? Chư vị [thậm chí còn] có thể lấy cờ hiệu của tôi làm bại hoại

danh dự Đại Pháp!

Việc tu luyện chân chính đều dựa vào cái tâm của chư vị mà tu; chỉ cần chư vị có thể

tu, chỉ cần chư vị có thể tu một cách vững bước tinh tấn và kiên định, thì chúng tôi sẽ dẫn

dắt chư vị như là đệ tử; [nếu] chẳng đối xử như thế thì không thể được. Nhưng có một số

người vẫn không nhất định có thể thật sự tự coi bản thân họ là người tu luyện mà [tiếp tục]

tu; có người không thể [làm được như vậy]. Nhưng rất nhiều người sẽ đi theo tu luyện thật

sự. Chỉ cần chư vị còn tu, thì chúng tôi sẽ dẫn dắt chư vị như những đệ tử.

Hàng ngày cứ luyện mấy bộ động tác ấy, vậy có thể tính là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp

không? Không nhất định [là vậy]. Bởi vì tu luyện chân chính cần chiểu theo tiêu chuẩn

tâm tính chúng tôi đề ra mà [tự] yêu cầu, cần phải thật sự đề cao tâm tính bản thân; ấy mới

là tu luyện chân chính. Chư vị cứ luyện các động tác ấy, [nhưng] tâm tính không đề cao

lên, không có năng lượng lớn mạnh để gia trì mọi thứ, [thì] chưa nói chuyện tu luyện

được; chúng tôi cũng không thể coi chư vị là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp. Chư vị nếu cứ

như thế mãi, đành rằng chư vị luyện công, nhưng không [thực sự] chiểu theo yêu cầu của

Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi, chư vị không đề cao tâm tính, ở chốn người thường chư vị

vẫn hành xử như xưa, rất có thể chư vị vẫn gặp phải những sự cố phiền phức này khác;

[khi] xử lý không đúng, chư vị thậm chí có thể nói Pháp Luân Đại Pháp đã làm cho chư vị

luyện công thiên [sai] như thế; điều này có thể xảy ra. Vậy nên chư vị phải chiểu theo yêu

cầu tiêu chuẩn tâm tính của chúng tôi mà hành xử, ấy mới là người tu luyện chân chính.

Tôi đã nói cho mọi người vậy là rất rõ; do đó mọi người đừng tìm tôi để làm cái việc bái

sư hình thức ấy; chư vị chỉ cần thật sự tu, thì tôi sẽ đối đãi như vậy với chư vị. Pháp thân

của tôi nhiều không tính được; không chỉ là số học viên này, dẫu nhiều hơn nữa tôi cũng

quản được.

Công pháp Phật gia và Phật giáo

Công [pháp] Phật gia không phải là Phật giáo, điểm này tôi giảng rõ cho chư vị; thực

ra công [pháp] Đạo gia cũng không phải là Đạo giáo. Trong chúng ta có một số người cứ

không hiểu rõ điều này. Một số vị là hoà thượng ở chùa, cũng có một số vị là cư sỹ, họ tự

cho rằng họ hiểu biết nhiều điều trong Phật giáo, nên họ chẳng e dè gì mà cứ tuyên truyền

những điều trong Phật giáo cho các học viên chúng tôi. Tôi nói với chư vị rằng, chư vị

Công pháp Phật gia và Phật giáo

41

đừng làm thế; bởi vì đây là sự việc trong các pháp môn khác nhau. Tôn giáo có hình thức

của tôn giáo; còn ở đây chúng tôi truyền một bộ phận pháp môn tu luyện của chúng tôi;

trừ các đệ tử chuyên tu của Pháp Luân Đại Pháp, thì [chúng tôi] không giảng hình thức tôn

giáo; vậy nên [chúng tôi] không phải là Phật giáo trong thời kỳ mạt Pháp.

Pháp trong Phật giáo chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp; còn có nhiều Đại Pháp

cao thâm khác; trong mỗi tầng lại có các Pháp khác nhau. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng tu

luyện có 8 vạn 4 nghìn pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có một vài pháp môn, nó chỉ có

Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ [tông], Mật tông, v.v. chỉ mấy

pháp môn ấy; đếm ra chỉ là một con số quá nhỏ! Do vậy nó không khái quát toàn thể Phật

Pháp được; nó chỉ là một bộ phận nhỏ của Phật Pháp. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi

cũng là một pháp môn trong 8 vạn 4 nghìn pháp môn ấy; [nó] không có quan hệ gì với

Phật giáo nguyên thuỷ cho đến Phật giáo thời kỳ mạt Pháp, cũng không có quan hệ với các

tôn giáo hiện đại.

Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni sáng lập vào 2 nghìn 5 trăm năm trước đây tại Ấn

Độ cổ. Thời ấy sau khi Thích Ca Mâu Ni khai công khai ngộ, trong ký ức của Ông nhớ lại

những điều bản thân mình đã tu luyện trước đây, [Ông] lấy những điều [tu luyện] ấy

truyền rộng ra độ nhân. Pháp môn của Ông bất kể có xuất ra bao nhiêu vạn cuốn kinh

sách, kỳ thực là 3 chữ, đặc điểm pháp môn của Ông gọi là "Giới Định Huệ". Giới, chính là

cấm hẳn hết thảy dục vọng nơi người thường, cưỡng chế chư vị vứt bỏ những truy cầu lợi

ích, đoạn tuyệt khỏi hết thảy những điều thế tục này khác. Như thế tâm của họ sẽ biến

thành 'không', điều gì cũng chẳng mong nghĩ, họ có thể định lại được; chúng {Giới và

Định} tương phụ tương thành [cho nhau]. Sau khi định lại được rồi, thì cần đả toạ thực tu,

dựa vào định lực mà tu lên; đó chính là phần tu luyện chân chính của pháp môn ấy. Họ

cũng không giảng thủ pháp, không cải biến bản thể của mình. Họ chỉ tu cái công [xác

định] tầng cao thấp của mình, vậy nên [họ] chỉ một điều là tu tâm tính của mình; không tu

mệnh nên cũng không giảng diễn hoá của công. Đồng thời trong khi định thì họ tăng

cường định lực, trong khi đả toạ thì chịu khổ, [và] tiêu nghiệp của họ. Huệ, ấy chính là chỉ

người đã khai công khai ngộ, đại trí đại huệ. Thấy được chân lý của vũ trụ, thấy chân

tướng của mỗi tầng không gian; thần thông đại hiển. Khai huệ, khai ngộ ấy, còn được gọi

là 'khai công'.

Thời Thích Ca Mâu Ni sáng lập pháp môn này, ở Ấn Độ có 8 tôn giáo đang đồng thời

lưu truyền. Có một tôn giáo thâm căn cố đế gọi là Bà La Môn giáo. Trong những năm tại

thế, Thích Ca Mâu Ni đã luôn luôn phát sinh hình thái đấu tranh về ý thức [quan điểm] với

các tôn giáo khác. Vì điều mà Thích Ca Mâu Ni truyền là chính Pháp, do đó trong suốt

quá trình truyền Pháp, Phật Pháp mà Ông truyền càng ngày càng hưng thịnh. Còn các tôn

giáo khác càng ngày càng suy tàn; ngay cả Bà La Môn giáo vốn đã cắm rễ sâu nơi ấy cũng

lâm vào trạng thái bên bờ diệt vong. Nhưng sau khi Thích Ca Mâu Ni [nhập] niết bàn, các

tôn giáo khác lại bắt đầu hưng thịnh trở lại; đặc biệt là Bà La Môn giáo, lại bắt đầu hưng

thịnh trở lại. Còn khi ấy trong Phật giáo xuất hiện tình huống gì? Có một số tăng nhân đã

ở các tầng khác nhau khai công, khai ngộ rồi, [nhưng] mà tầng mà [họ] khai [công khai

ngộ] lại tương đối thấp. Thích Ca Mâu Ni đạt đến tầng Như Lai; còn nhiều tăng nhân

không hề đạt được đến tầng ấy.

Tại các tầng khác nhau Phật Pháp có các hiển hiện khác nhau; nhưng [tầng] càng cao

[thì] càng tiếp cận chân lý, [tầng] càng thấp thì càng viễn ly với chân lý. Vậy nên một số

tăng nhân khai công khai ngộ tại tầng thấp rồi, họ dùng hiển tượng trong vũ trụ mà họ thấy

tại tầng của bản thân mình, tình huống mà [họ] hiểu được và [Pháp] lý mà [họ] ngộ được,

để giải thích những lời mà Thích Ca Mâu Ni đã từng giảng. Nghĩa là, đối với Pháp mà

Thích Ca Mâu Ni từng giảng có các tăng nhân tiến hành giải thích thế này, [hoặc] giải

thích thế khác. Lại có một số tăng nhân lấy những điều bản thân mình tham ngộ mà giảng

Công pháp Phật gia và Phật giáo

42

nói như thể đó là lời của Thích Ca Mâu Ni, chứ họ không giảng [bằng] những lời nguyên

gốc của Thích Ca Mâu Ni. Như thế làm diện mục của Phật Pháp sai khác hẳn, hoàn toàn

không còn là Pháp mà Thích Ca Mâu Ni đã truyền; rốt cuộc đã làm Phật Pháp trong Phật

giáo tại Ấn Độ tiêu mất. Đó là bài học lịch sử quan trọng bậc nhất; vậy nên Ấn Độ sau này

không còn Phật giáo nữa. Trước khi tiêu mất, Phật giáo trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng

kết hợp với những điều của Bà La Môn giáo, mà hình thành tại Ấn Độ một tôn giáo [đến]

hiện nay, gọi là Ấn Độ giáo. [Họ] cũng không thờ cúng Phật nào cả, mà thờ cúng những

thứ khác; [họ] cũng không tin theo Thích Ca Mâu Ni; đã xảy ra tình huống như thế.

Phật giáo trong quá trình phát triển, đã xuất hiện một số lần cải tổ rất lớn. Một là [xảy

ra] không lâu sau khi Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế; có người căn cứ theo [Pháp] lý

ở cao tầng mà Thích Ca Mâu Ni giảng, để sáng lập ra Đại Thừa Phật giáo. [Về những ai

nhìn] nhận rằng Pháp mà Thích Ca Mâu Ni giảng công khai là giảng cho người [tu] bình

thường nghe, dùng để giải thoát tự thân, đạt đến quả vị La Hán, không giảng phổ độ chúng

sinh; được gọi đó là [theo] Tiểu Thừa Phật giáo. Hoà thượng tại các nước Đông Nam Á

bảo lưu theo phương pháp tu luyện nguyên thuỷ từ thời đại của Thích Ca Mâu Ni; người

Hán chúng ta gọi đó là Tiểu Thừa Phật giáo. Tất nhiên tự họ không thừa nhận [điều ấy];

họ nhìn nhận rằng họ kế thừa những điều nguyên gốc của Thích Ca Mâu Ni. Quả đúng là

như vậy; trên cơ bản họ kế thừa phương pháp tu luyện của thời đại Thích Ca Mâu Ni.

Đại Thừa Phật giáo vốn đã qua cải tổ ấy, sau khi truyền nhập vào Trung Quốc chúng

ta, ở Trung Quốc chúng ta [Đại Thừa Phật giáo] đã cố định lại; đó chính là Phật giáo đang

lưu truyền ở nước ta hiện nay. Trên thực tế thì nó đã thay đổi toàn bộ diện mạo so với Phật

giáo của thời đại Thích Ca Mâu Ni: từ trang phục cho đến toàn bộ các trạng thái tham ngộ,

[và] quá trình tu luyện đều đã đổi khác. Phật giáo nguyên thuỷ chỉ nhìn nhận Thích Ca

Mâu Ni là tổ tôn để thờ cúng; nhưng [trong] Phật giáo hiện đại đã xuất hiện khá nhiều vị

Phật cũng như các Đại Bồ Tát; hơn nữa đó là tín ngưỡng đa Phật. Xuất hiện tín ngưỡng

đối với rất nhiều Phật Như Lai; trở thành một chủng Phật giáo đa Phật. Ví dụ: Phật A Di

Đà, Phật Dược Sư, Đại Nhật Như Lai, v,v.; cũng xuất hiện nhiều Đại Bồ Tát. Như vậy,

toàn thể Phật giáo đã hoàn toàn khác xa với [Phật giáo] nguyên sơ do Thích Ca Mâu Ni

sáng lập thuở xưa.

Tại thời kỳ ấy còn phát sinh một quá trình cải tổ nữa, từ Bồ Tát Long Thọ truyền xuất

ra một chủng phương pháp mật tu; [nó] từ Ấn Độ đi qua Afghanistan, sau đó tiến vào

vùng Tân Cương nước ta mà truyền vào đất người Hán; [lúc ấy] đúng vào [triều] đại nhà

Đường, nên gọi đó là 'Đường Mật'. Bởi vì Trung Quốc chúng ta chịu ảnh hưởng rất mạnh

của Nho gia, quan niệm đạo đức khác với các dân tộc nói chung. Trong pháp môn tu luyện

Mật tông này có [những] điều của nam nữ song tu, xã hội thời ấy không thể tiếp thụ; do

vậy vào thời kỳ diệt Phật trong những năm Hội Xương [triều] đại nhà Đường thì nó đã bị

trừ dứt hẳn; Đường Mật đã bị tiêu mất ở nơi người Hán chúng ta. Nhật Bản hiện nay có

[môn] gọi là 'Đông Mật', [đó] chính là học từ Trung Quốc chúng ta vào thời ấy; nhưng họ

không hề qua quán đỉnh. Theo Mật tông giảng, không qua quán đỉnh mà học những điều

của Mật tông, thì thuộc về trộm Pháp, không được thừa nhận là thân thụ. Một nhánh khác

từ Ấn Độ, Nepal truyền nhập vào Tây Tạng, gọi là 'Tạng Mật', từ đó lưu truyền đến nay.

Trên cơ bản Phật giáo có những việc như thế; một cách rất đơn giản và khái quát, tôi đã

nói một lượt về quá trình diễn biến phát triển của nó. Toàn thể Phật giáo trong quá trình

phát triển, còn xuất hiện [những môn] giống như Thiền tông do Đạt Ma sáng lập, còn có

Tịnh Độ tông, Hoa Nghiêm tông, v.v.; tất cả đều chiểu theo điều Thích Ca Mâu Ni từng

giảng rồi tham ngộ [mà] ra; chúng đều thuộc về Phật giáo đã qua cải tổ. Trong Phật giáo

có hơn mười pháp môn như vậy; chúng đều đi theo hình thức tôn giáo, do đó đều thuộc về

Phật giáo.

Công pháp Phật gia và Phật giáo

43

Các tôn giáo sinh ra trong thế kỷ này; [mà] không chỉ thế kỷ này, mấy thế kỷ trước ở

các vùng khác nhau trên thế giới cũng có nhiều tôn giáo mới xuất sinh; phần đông chúng

đều là giả. Các Đại Giác Giả độ nhân, [họ] đều có thiên quốc của bản thân mình; Thích Ca

Mâu Ni, A Di Đà Phật, Đại Nhật Như Lai, v.v., các Phật Như Lai ấy độ nhân, [họ] đều có

thế giới do bản thân mình chủ trì. Tại hệ Ngân Hà này của chúng ta, có trên một trăm thế

giới như thế; Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng có thế giới Pháp Luân.

Những pháp môn giả kia độ nhân thì độ đi đâu? Họ không độ nhân được; điều họ

giảng ra không phải là Pháp. Tất nhiên có một số người đã sáng lập tôn giáo, mục đích ban

đầu [là] họ không muốn sẽ làm ma phá hoại chính giáo. Họ khai công khai ngộ tại các

tầng khác nhau, họ thấy được một chút [Pháp] lý; nhưng so với các Giác Giả [có khả

năng] độ nhân thì họ khác xa: họ rất thấp. Họ phát hiện một số [Pháp] lý, phát hiện một số

điều ở nơi người thường là sai; họ cũng [khuyên] bảo người ta làm điều tốt như thế nào;

ban đầu họ cũng không phản đối các tôn giáo khác. Cuối cùng người ta tín phụng họ, cho

rằng họ giảng có đạo lý; sau đó ngày càng tin tưởng họ; kết quả một số người sùng bái họ,

không sùng bái tôn giáo. Tâm danh lợi của họ xuất hiện, [họ] bảo đại chúng phong [cho

họ] làm [vị] nào đó; từ đó trở đi họ lập ra một tôn giáo mới. Tôi nói với mọi người rằng

chúng đều thuộc về tà giáo; dẫu chúng chẳng hại người, chúng vẫn là tà giáo. Bởi vì chúng

can nhiễu đến [việc] con người tin vào chính giáo; chính giáo là độ nhân, còn chúng thì

không thể. Dần dần phát triển, họ quay ra làm điều xấu. Gần đây có nhiều [thứ] loại này

đã lưu truyền vào Trung Quốc chúng ta; ví dụ cái gọi là 'pháp môn Quán Âm' chính là

một trong số ấy. Vậy nên mọi người phải hết sức chú ý; nghe nói rằng một nước ở đông Á

có trên 2 nghìn loại [như vậy]; tại Đông Nam Á và các nước tây phương khác, điều gì

cũng có [người] tin; có một quốc gia công nhiên có Vu giáo. Những thứ ấy đều là ma xuất

hiện tại thời kỳ mạt Pháp. Thời kỳ mạt Pháp là không phải chỉ nói đến Phật giáo; mà còn

nói về rất nhiều không gian từ một tầng rất cao trở xuống đều đã bại hoại rồi. Mạt Pháp

không chỉ nói đến mạt Pháp của Phật giáo, mà còn là xã hội nhân loại không [còn] duy trì

tâm Pháp [để] ước [chế câu] thúc đạo đức nữa.

Tu luyện phải chuyên nhất

Chúng tôi giảng rằng tu luyện phải chuyên nhất; bất kể chư vị tu như thế nào, thì cũng

không thể trộn lẫn với những thứ khác mà loạn tu. Có những cư sỹ, họ vừa tu những điều

trong Phật giáo, vừa tu những điều của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi. Tôi nói cho chư vị

biết, rốt cuộc chư vị chẳng được gì, chẳng ai cấp gì cho chư vị. Bởi vì chúng tôi đều là

Phật gia, nên ở đây có vấn đề tâm tính, đồng thời cũng có vấn đề chuyên nhất. Chư vị chỉ

có một thân thể; thân thể chư vị [hỏi] sẽ sinh ra công theo môn nào đây? Làm thế nào để

diễn hoá cho chư vị? [Hỏi] chư vị muốn đến đâu? Chư vị tu theo pháp môn nào thì chư vị

sẽ đến đó. Chư vị tu theo Tịnh Độ thì chư vị sẽ đến thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà;

còn nếu chư vị tu theo Dược Sư Phật thì chư vị sẽ đến thế giới Lưu Ly; trong tôn giáo

[cũng] giảng như thế; gọi là 'bất nhị pháp môn'.

Luyện công mà chúng tôi giảng ở đây, chính là một quá trình diễn hoá công hoàn

chỉnh; hoàn toàn tuân theo pháp môn tu luyện của bản thân mình. Hỏi chư vị sẽ đi đến

đâu? Chư vị đặt [hai] chân trên hai chiếc thuyền, thì sẽ chẳng được gì. Không chỉ giữa

luyện công và tu Phật tại chùa [là] không thể trộn lẫn; [mà] giữa các phương pháp tu

luyện, giữa khí công với khí công, giữa tôn giáo với tôn giáo cũng không thể trộn lẫn.

Ngay cả cùng một tôn giáo, [thì] giữa các pháp môn của nó cũng không thể đồng thời tu

lẫn, chỉ có thể chọn lấy một mà tu thôi. Chư vị tu Tịnh Độ, thì là Tịnh Độ; chư vị tu Mật

tông, thì là Mật tông; chư vị tu Thiền tông, thì là Thiền tông. Nếu chư vị đặt chân lên hai

thuyền, vừa tu cái này, vừa tu cái kia, thì sẽ chẳng được gì. Vậy cũng nói, trong Phật giáo

[cũng] giảng 'bất nhị pháp môn', cũng không cho phép chư vị tu lẫn. Họ cũng luyện công,

Tu luyện phải chuyên nhất

44

họ cũng tu luyện; quá trình sinh thành của công nơi họ đều chiểu theo quá trình tu luyện

và diễn hoá trong pháp môn của bản thân họ mà [tiến hành]. Tại các không gian khác cũng

có một quá trình diễn hoá cái công [ấy], cũng là quá trình hết sức phức tạp hết sức huyền

diệu; không thể tuỳ tiện trộn lẫn những thứ khác vào mà tu được.

Một số cư sỹ, nghe thấy đây là công pháp Phật gia, liền lôi kéo học viên của chúng tôi

lên chùa quy y. Tôi nói với chư vị rằng, các học viên chúng ta đang ngồi đây, chớ có ai

làm điều đó. Chư vị phá hoại Đại Pháp của chúng tôi, cũng phá hoại giới luật của Phật

giáo; đồng thời chư vị can nhiễu đến học viên, [chư vị] khiến người ta không đắc được gì

hết; điều ấy không thể được. Tu luyện là vấn đề nghiêm túc, nhất định phải chuyên nhất.

Bộ phận [môn pháp] mà chúng tôi truyền nơi người thường, tuy rằng không phải tôn giáo,

nhưng mục tiêu tu luyện là nhất trí [với nhau]; đều là [cùng] một mục đích đạt đến khai

công khai ngộ, công thành viên mãn.

Thích Ca Mâu Ni giảng rằng, đến thời mạt Pháp, tăng nhân trong chùa tự độ đã rất

khó, huống nữa là cư sỹ, càng không có ai quản. Dẫu rằng chư vị đã bái sư, nhưng người

được gọi là 'sư' ấy cũng là một người tu luyện; người ấy mà không thực tu thì vô dụng; ai

mà không tu cái tâm này thì đều không thể lên được. Quy y là hình thức nơi người thường;

chư vị quy y xong thì phải chăng [chư vị] đã thành người của Phật gia? Phật sẽ quản chư

vị? Không [hề] có chuyện ấy. Hàng ngày chư vị dập đầu lạy đến vỡ cả đầu, đốt hương hết

nén này nén khác, cũng vô dụng; chư vị phải chân chính thực tu cái tâm này thì mới được.

Đến thời mạt Pháp, vũ trụ đã phát sinh biến đổi to lớn, thậm chí ngay cả những nơi tín

ngưỡng tôn giáo cũng không còn tốt nữa; những người có công năng (kể cả hoà thượng)

đã phát hiện ra tình huống này. Hiện nay toàn thế giới chỉ mình cá nhân tôi đang công khai

truyền chính Pháp; tôi làm điều mà người ta trước đây chưa làm; ngoài ra vào thời mạt

Pháp [tôi] đã mở cửa lớn [pháp môn] này. Thực ra [điều này] nghìn năm chẳng gặp, vạn

năm chẳng gặp; nhưng có thể độ được không cũng chính là có thể tu được không thì còn

tuỳ vào bản thân [chư vị]; điều tôi giảng là [Pháp] lý của cả vũ trụ to lớn này.

Tôi cũng không bảo là chư vị phải học Pháp Luân Đại Pháp của tôi; điều tôi giảng là

một [Pháp] lý: [Nếu] chư vị muốn tu luyện [thì] chư vị nhất định phải chuyên nhất; nếu

không [thì] chư vị hoàn toàn không thể tu luyện được. Tất nhiên nếu chư vị không muốn

tu luyện, [thì] chúng tôi cũng không quản chư vị; Pháp là để giảng cho người tu luyện

chân chính nghe; do vậy nhất định phải chuyên nhất; ngay cả ý niệm của công pháp khác

cũng không được xen lẫn vào. Ở đây tôi không giảng hoạt động ý niệm; Pháp Luân Đại

Pháp chúng tôi không có bất cứ ý niệm hoạt động nào hết; do vậy mọi người cũng đừng

xen thêm ý niệm nào vào trong đây. Nhất định phải chú ý điểm này: trên cơ bản không có

hoạt động ý niệm; Phật gia giảng 'không', Đạo gia giảng 'vô'.

Tôi có một lần lấy tư tưởng của mình liên [kết] với bốn, năm Đại Giác Giả và Đại

Đạo ở tầng cực cao. Nói cao [đến đâu], từ người thường mà xét thì quả thật là cao [đến

mức] người ta có nghe cũng sửng sốt [khó tin]. Họ muốn biết trong tâm tôi có nghĩ gì. Tôi

tu luyện đã nhiều năm như vậy, người khác muốn biết tư tưởng của tôi thì hoàn toàn

không thể được, công năng người khác hoàn toàn không thể đánh vào được. Không ai biết

được tôi, họ cũng không biết được tôi nghĩ gì; họ muốn liễu giải hoạt động tư tưởng của

tôi, do vậy họ đã được tôi đồng ý, nên có một giai đoạn tư tưởng của tôi và họ liên [kết]

với nhau. Sau khi liên [kết], tôi có chút đỉnh chịu không nổi; bất kể tầng của tôi cao bao

nhiêu, cũng như tầng của tôi thấp bao nhiêu, bởi vì tôi ở nơi người thường, tôi vẫn còn làm

một việc hữu vi: tâm đang độ nhân, để tâm vào việc độ nhân. Nhưng cái tâm của họ tĩnh

đến trình độ nào? Tĩnh đến một trình độ đáng sợ. Nếu có một cá nhân tĩnh đến trình độ ấy

thì còn được; [nhưng] bốn, năm vị ngồi nơi kia, đều tĩnh đến trình độ ấy, giống như một

đầm [sâu] nước chết không có gì trong đó hết; tôi muốn cảm thụ họ mà không thể cảm thụ

được. Mấy hôm ấy trong tâm tôi rất khó chịu, chính là cảm thấy một dư vị nào đó. Người

Tu luyện phải chuyên nhất

45

thông thường chúng ta không [thể] tưởng tượng được, không [thể] cảm giác được; hoàn

toàn là vô vi, [hoàn toàn] là không.

Tu luyện trên cao tầng hoàn toàn không có hoạt động ý niệm; bởi vì chư vị ở nơi

người thường gây cơ sở trên tầng này, bộ cơ sở ấy đã được lập xong. Đến tu luyện tại cao

tầng, đặc biệt là công pháp của chúng tôi [nó] là tự động, hoàn toàn là tu luyện tự động.

Chư vị chỉ cần đề cao tâm tính của mình, công của chư vị sẽ tăng trưởng; thậm chí chư vị

không cần phải làm bất cứ thủ pháp nào hết. Động tác của chúng tôi là [để] gia cường

những cơ chế tự động; vì sao trong thiền định họ cứ thiền bất động? Hoàn toàn chính là vô

vi. Chư vị thấy Đạo gia giảng thủ pháp này, thủ pháp kia, hoạt động ý niệm này nọ, ý niệm

dẫn đạo. Tôi nói với chư vị rằng Đạo gia sau khi vượt khỏi tầng về khí một chút, sẽ không

còn gì hết; hoàn toàn không giảng ý niệm này, ý niệm kia. Vậy nên có một số người từng

luyện những khí công khác, họ vẫn mãi không vứt bỏ được những thứ nào là hô hấp, nào

là ý niệm, v.v. Tôi dạy họ những điều đại học, họ vẫn cứ hỏi tôi những việc của học sinh

tiểu học: dẫn đạo ra sao, hoạt động ý niệm thế nào; họ đã quen như thế rồi; họ nhìn nhận

rằng khí công chính là như vậy, kỳ thực không phải vậy.

Công năng và công lực

Chúng ta có nhiều người nhận thức chưa rõ về các danh từ trong khí công; cũng có

người cứ lẫn lộn không rõ mãi. Họ nói 'công năng' thành 'công lực', 'công lực' lại nói

thành 'công năng'. Chúng ta dựa vào tâm tính của chính mình mà tu [luyện] ra loại công

ấy, [nó đã] đồng hoá với đặc tính của vũ trụ, [và là] đức của bản thân diễn hoá trở thành

công. Đó chính là quyết định tầng cao thấp của cá nhân, công lực lớn nhỏ, vấn đề quả vị

cao thấp của họ; công ấy chính là then chốt bậc nhất. Trong quá trình tu luyện, người ta sẽ

xuất hiện một loại trạng thái nào? Có thể xuất hiện một số 'công năng đặc dị', mà chúng

tôi gọi tắt là 'công năng'. Còn cái công đề cao tầng mà chúng tôi vừa nói đến, nó được gọi

là 'công lực'. Tầng càng cao thì công lực càng lớn, công năng càng mạnh.

Công năng chỉ là sản phẩm phụ trong quá trình tu luyện, [chúng] không đại biểu cho

tầng, không phải đại biểu [rằng] tầng cao hay thấp của cá nhân, công lực lớn hay nhỏ; có

người có thể xuất hiện nhiều [công năng], có người xuất hiện ít. Ngoài ra công năng cũng

không phải là thứ để truy cầu như là điều chủ yếu để tu mà có thể đạt được. [Chỉ] khi

người [tu luyện] định rõ là họ tu luyện một cách chân chính, họ mới có thể xuất công

năng; không thể coi [công năng] là mục đích chủ yếu để mà tu. Chư vị muốn luyện thứ ấy

để làm gì? Mong sử dụng nơi người thường phải không? Tuyệt đối không thể cho phép

chư vị tuỳ tiện dùng chúng ở nơi người thường; do đó càng [truy] cầu càng không có. Bởi

vì chư vị [truy] cầu, bản thân [truy] cầu chính là tâm chấp trước; tu luyện cần từ bỏ chính

là tâm chấp trước.

Có rất nhiều người tu luyện đã đến cảnh giới rất cao thâm, [mà] họ chưa có công

năng. Sư phụ giúp họ khoá lại hết, e rằng họ giữ mình không vững mà phạm điều xấu; do

đó ngay từ đầu trở đi đã không cho phép họ thi triển thần thông của mình; người như vậy

tương đối nhiều. Công năng chịu sự chi phối của ý thức con người. Trong khi người ta

ngủ, có thể kiềm chế không vững bản thân, rất có thể nằm mộng mà đến sáng hôm sau trời

đất đảo lộn cả; điều này không được phép. Bởi vì tu luyện nơi người thường, nên hễ mà có

công năng to lớn thì thường không được phép dùng; hầu hết đều bị khoá lại; nhưng cũng

không tuyệt đối. Có rất nhiều người tu luyện rất tốt mà không bị khoá; [họ] có thể giữ

mình rất tốt, [nên họ] được phép có một bộ phận công năng. Với những người này, [nếu]

chư vị bảo họ lấy công năng ra hiển thị một cách tuỳ ý, [thì] họ tuyệt đối không làm thế;

họ có thể giữ mình vững vàng.

Công năng và công lực

46

Phản tu và tá công

Có người chưa từng luyện công, hoặc chỉ mới học được một vài điều trên lớp học khí

công, nhưng chúng đều thuộc về chữa bệnh khoẻ người, chứ không phải là tu luyện nào

hết. Tức là, những người này, họ chưa được chân truyền; nhưng đột nhiên trong một đêm

mà họ có được công. Chúng tôi giảng một chút về loại công ấy đã đến như thế nào; có một

vài hình thức.

Có một loại thuộc về phản tu. 'Phản tu' là gì? Chúng ta có những người cao tuổi

muốn tu luyện; tu luyện từ đầu [đối với họ] là [chuyện] đã muộn. Vào lúc phong trào khí

công đang lên cao họ cũng muốn tu luyện; họ biết rằng khí công có thể làm điều tốt cho

người khác, đồng thời có thể đề cao bản thân; họ có một nguyện vọng như vậy, mong

muốn đề cao [lên], mong muốn tu luyện. Nhưng những năm trước trong cao trào khí công,

các khí công sư đều phổ cập khí công, nhưng không hề có ai thật sự truyền [giảng] những

điều ở cao tầng. Cho đến tận hôm nay, thật sự truyền công tại cao tầng một cách công

khai, thì chỉ có một mình cá nhân tôi làm, không có người thứ hai. Phàm là phản tu, đều

50 tuổi trở lên, là người tuổi đã cao niên, căn cơ tốt phi thường, trên thân mang những thứ

rất tốt, hầu như người ta đều muốn [thu làm] đồ đệ, làm đối tượng truyền thừa. Tuy nhiên

những người này tuổi tác đã cao, lại mong muốn tu [luyện]; nói chuyện sao dễ vậy! Hỏi

tìm sư phụ nơi đâu? Nhưng khi họ muốn tu luyện, cái tâm ấy hễ nghĩ như thế, [thì] chính

như vàng kim loé sáng, chấn động thế giới mười phương. Người ta nói [đó là] Phật tính;

chính là nói đến Phật tính đã xuất lai.

Từ cao tầng mà xét, sinh mệnh con người chẳng phải vì để làm người. Là vì sinh

mệnh con người sản sinh nơi không gian vũ trụ, đồng hoá với đặc tính Chân Thiện Nhẫn

của vũ trụ, là tính bản thiện, là lương thiện. Nhưng vì sau khi những thể sinh mệnh nhiều

lên, nó cũng sản sinh ra một chủng quan hệ xã hội; do đó trong số ấy có những người biến

đổi thành tự tư hoặc không còn tốt, nên không thể [tồn tại] ở trên tầng rất cao kia được

nữa, nên phải rớt xuống, rớt xuống một tầng. Tại tầng ấy họ lại trở nên không tốt nữa, lại

rớt xuống tiếp, rớt xuống; cuối cùng rớt xuống đến tầng người thường này. Đã rớt xuống

đến tầng này, thì con người phải bị tiêu huỷ triệt để; tuy nhiên những Đại Giác Giả xuất

[phát] từ tâm từ bi, quyết định ở hoàn cảnh tối khổ ấy cấp cho con người một lần cơ hội

nữa: [họ] sáng tạo ra không gian này.

Người ở các không gian khác đều không tồn tại cái thân thể này; họ có thể phiêu

[đãng bay] lên; họ cũng có thể biến lớn, thu nhỏ. Nhưng ở không gian này cho con người

phải có cái thân thể như thế này; [chính là] cái nhục thân này của chúng ta. Sau khi có cái

thân thể này, thì lạnh chịu không được, nóng chịu không được, mệt chịu không được, đói

chịu không được, thế nào cũng là khổ. Có bệnh chư vị thấy khó chịu; sinh lão bệnh tử ấy,

chính là để chư vị trong khổ mà hoàn [trả] nghiệp; xét xem chư vị có thể quay trở về hay

không, cấp cho chư vị một cơ hội nữa; do đó con người rớt vào [cõi] mê này. Sau khi rớt

xuống đến đây, sáng tạo cho chư vị cặp mắt này, không cho phép chư vị nhìn được không

gian khác, không thấy được chân tướng của vật chất. Chư vị nếu có thể trở về, thì khổ nhất

cũng là quý nhất; ở trong mê vãng hồi tu dựa vào ngộ tính [chịu] khổ rất nhiều, thì quay về

[rất] nhanh. Nếu chư vị còn tệ hơn nữa, thì sinh mệnh sẽ bị tiêu huỷ; do vậy họ {Giác Giả}

thấy rằng, sinh mệnh của con người, mục đích không phải [vì] để làm người; [nên] bảo

chư vị phản bổn quy chân, quay trở về. Người thường chẳng ngộ ra điểm này; người

thường ở nơi xã hội người thường, họ [chỉ] là người thường; muốn phát triển như thế nào,

[sống] tốt ra sao. Họ càng [sống] tốt, thì càng tự tư, càng muốn chiếm hữu nhiều, họ càng

rời xa đặc tính vũ trụ, họ tiến đến diệt vong.

Trên cao tầng thì [nhận] thấy như thế; chư vị cho rằng đang tiến lên, nhưng trên thực

tế là thoái lùi. Nhân loại cho rằng khoa học đang phát triển tiến bộ, thực ra cũng chỉ bất

quá là đi theo quy luật vũ trụ. Trương Quả Lão trong bát tiên cưỡi lừa ngược; rất ít người

Phản tu và tá công

47

biết được tại sao ông lại cưỡi lừa ngược. Ông phát hiện rằng đi về trước lại chính là thụt

lùi, nên ông quay trở lại cưỡi như thế. Vậy nên một khi người ta nghĩ đến tu luyện, [thì]

các Giác Giả thấy rằng tâm ấy cực kỳ trân quý, nên có thể giúp đỡ một cách vô điều kiện.

Cũng như học viên chúng ta ngồi đây hôm nay, nếu chư vị [muốn] tu luyện thì tôi có thể

giúp chư vị vô điều kiện. Nhưng nếu làm một người thường, chư vị muốn coi bệnh, cầu

mong điều này, cầu mong điều khác, thì không được, không thể giúp chư vị được. Vì sao?

Vì chư vị muốn làm người thường; người thường nên phải sinh lão bệnh tử, nên phải như

thế; hết thảy đều có quan hệ nhân duyên, không thể làm rối loạn. Trong sinh mệnh [đường

đời] một cá nhân của chư vị đáng lẽ không có tu luyện; hiện nay chư vị muốn tu luyện; thì

cần phải an bài lại đường [đời] từ nay trở đi cho chư vị; và cũng có thể điều chỉnh thân thể

cho chư vị.

Vì vậy con người muốn tu luyện, ngay khi nguyện vọng ấy xuất ra, các Giác Giả nhìn

thấy rồi, thật là quá trân quý. Nhưng giúp thế nào đây? Trên thế gian có sư phụ nào dạy?

Hơn nữa đây là người đã trên 50 tuổi; các Đại Giác Giả không thể dạy được; bởi vì nếu họ

hiển hiện ra để dạy chư vị, giảng Pháp và dạy công cho chư vị, thì đó là tiết lộ thiên cơ; họ

cũng phải hạ [tầng] xuống; con người tự bản thân làm điều xấu mà rớt vào cõi mê này, nên

phải ngộ trong mê mà tu; do đó Giác Giả không thể dạy. Nếu nhìn thấy một vị Phật sống

rõ ràng giảng Pháp cho chư vị, lại còn dạy công cho chư vị, [thì cả] những kẻ thập ác bất

xá cũng đều đến học, ai ai cũng tin theo; vậy còn gì để ngộ; sẽ không tồn tại vấn đề về

ngộ. Bởi vì con người tự mình rớt đến cõi mê này, lẽ ra đã bị huỷ diệt; [các Giác Giả] cấp

cho chư vị một cơ hội ở trong mê ấy mà có thể quay về. [Nếu] có thể quay về, thì quay về;

không quay về được, thì tiếp tục luân hồi và [chịu] huỷ diệt.

Con đường là tự mình đi; chư vị muốn tu luyện thì làm thế nào đây? Họ nghĩ đến cách

này; bởi vì lúc ấy khí công lên thành cao trào, cũng là một loại biến hoá của thiên tượng.

Vì vậy để phối hợp với loại thiên tượng ấy, người ta {các Giác Giả} theo vị trí tâm tính

của họ {người tu luyện} mà cấp thêm công cho họ, cấp thêm lên thân họ [thông qua] một

loại ống mềm; giống như vòi nước: [họ] mở ra là nó {công} sẽ đến. Họ muốn phát công

thì công đến; [kỳ thực] họ không phát công, bản thân họ chưa có công; chính là trạng thái

như thế, nó được gọi là 'phản tu': từ cao xuống thấp mà tu viên mãn.

Tu luyện bình thường của chúng ta, là tu từ thấp lên cao, mãi cho đến khai công tu

viên mãn. [Người] được gọi là 'phản tu' này, tuổi đã cao mà tu từ thấp lên cao sẽ không

kịp, nên họ tu từ cao về thấp sẽ nhanh hơn; hiện tượng ấy cũng là thời đó tạo thành. Tâm

tính của những người này cần phải rất cao; tại nơi vị trí tâm tính của họ mà họ được cấp

thêm năng lượng lớn như vậy. Mục đích để làm gì? Một là để phối hợp với thiên tượng lúc

bấy giờ; người ấy làm điều tốt đồng thời họ có thể chịu khổ. Vì đối mặt với người thường,

các thứ tâm của người thường đều can nhiễu đến chư vị. Có người chư vị chữa lành bệnh

cho họ rồi, họ vẫn không hiểu được chư vị; khi chữa bệnh cho họ chư vị đã trục khỏi thân

họ biết bao thứ xấu, trị giúp họ đến một mức độ nào đó, nhưng lúc ấy chưa có thể hiện

biến đổi rõ ràng [ra bên ngoài]. Nhưng trong tâm họ không vừa ý, không cảm tạ chư vị; có

khi còn nguyền rủa rằng chư vị lừa họ! Chính là đối mặt với những vấn đề ấy, để tâm của

chư vị được 'ma luyện' trong hoàn cảnh ấy. [Giác Giả] cấp công cho họ mục đích là để họ

tu luyện, đề cao lên trên. Khi làm điều tốt [họ] lại đồng thời khai phát công năng bản thân,

tăng công của chính mình; nhưng một số người không hiểu đạo lý này. Chẳng phải tôi đã

giảng rồi sao? Không thể giảng Pháp cho họ; ngộ được thì ngộ được; đây là vấn đề về ngộ;

ngộ không được thì chẳng còn cách nào nữa.

Có vài người khi nhận công, một đêm đang ngủ đột nhiên nóng không chịu được,

không thể đắp chăn; sáng sau dậy sờ vào đâu thì đó có điện. Họ biết là công đã đến; thân

thể của ai có chỗ đau, thì chỉ cần làm qua một cái là khỏi không có sai chạy, quả là tốt. Từ

đó trở đi họ biết là [họ] có công; [họ] làm khí công sư, treo biển hiệu; họ tự phong cho

Phản tu và tá công

48

mình là 'khí công sư' mà hành nghề. Ban đầu, bởi vì cá nhân này là còn rất tốt, họ trị bệnh

giúp người ta xong, người ta đưa tiền cho họ, đưa tặng thứ này thứ khác cho họ, họ có thể

không nhận, cự tuyệt hết. Tuy nhiên chẳng trụ vững nổi trong thùng thuốc nhuộm lớn [là

xã hội] người thường mà không bị ô nhiễm; bởi vì những người thuộc loại phản tu này

chưa hề trải qua [quá trình] thật sự tu luyện tâm tính; giữ vững tâm tính của bản thân rất là

khó. Dần dần tặng những đồ kỷ niệm nhỏ thì họ nhận; rồi dần dần tặng phẩm lớn cũng

nhận; cuối cùng đưa ít quá thì không ưng ý. Rốt cuộc họ nói: 'Đưa tôi nhiều thứ thế làm

gì, đưa tiền là được rồi!' Đưa ít tiền quá là không được. Người này cũng chẳng phục

những khí công sư chân truyền, và tai họ rót đầy những lời khen tụng của người ta về

những bản sự của họ. Nếu ai nói họ không tốt, họ sẽ không vừa ý; tâm danh lợi đã xuất

hiện hoàn toàn; họ tưởng rằng mình cao minh hơn những người khác, mình thật xuất sắc.

Họ tưởng rằng cái công cấp cho họ, là để họ làm khí công sư, [để họ] phát tài; kỳ thực

[công ấy] là để họ tu luyện. Hễ tâm danh lợi dấy lên, thì trên thực tế tâm tính của họ đã rớt

xuống rồi.

Tôi đã giảng rằng, tâm tính cao đến đâu, công cao đến đó. Đã rớt xuống thì cái công

ấy không thể cấp cho họ lớn như trước nữa, cần tuỳ theo tâm tính mà cấp; tâm tính cao

đến đâu, công cao đến đó. Tâm danh lợi càng nặng, ở chốn người thường rớt xuống càng

trầm trọng, công của họ cũng theo đó rớt xuống. Cuối cùng đến khi họ hoàn toàn rớt

xuống, [thì] công không được cấp nữa, không có công nào hết. Những năm trước xuất

hiện không ít những người như thế; phần nhiều là những phụ nữ trên 50 tuổi. Chư vị thấy

các cụ bà tập công, cũng chưa hề được chân truyền, có lẽ đã đến lớp khí công học một số

động tác chữa bệnh khoẻ người, nhưng đột nhiên một hôm có công đến. Khi tâm tính

hỏng, tâm danh lợi khởi lên liền bị rớt xuống, kết quả hiện nay chẳng là gì cả, đã mất hết

công. Hiện nay loại phản tu này bị rớt xuống hết sức nhiều, phần còn lại chỉ lèo tèo thưa

thớt. Tại sao? Vì họ không biết rằng đó là để họ tu luyện; họ tưởng rằng đó là để họ phát

tài, nổi danh nơi người thường, và làm khí công sư; thực ra đó là để họ tu luyện.

'Tá công' là gì? Nó không có hạn chế về tuổi; nhưng có một yêu cầu, cần phải là

người có tâm tính đặc biệt tốt. Người ấy hiểu rằng khí công có thể tu luyện, người ấy cũng

muốn tu luyện. Tâm ấy muốn tu luyện, nhưng hỏi tìm sư phụ ở đâu? Những năm trước đây

quả là có những khí công sư chân chính đã xuất hiện truyền công, nhưng những điều họ

truyền đều là chữa bệnh khoẻ người; không có ai truyền dạy lên cao tầng, người ta cũng

không có dạy.

Giảng đến tá công, tôi còn giảng một vấn đề này: con người ngoài chủ nguyên thần

(chủ ý thức) ra còn có phó nguyên thần (phó ý thức). Có người có một, hai, ba, bốn, có khi

đến năm phó nguyên thần. Phó nguyên thần không nhất định có cùng giới tính với người

ấy; có [cái] là nam, có [cái] là nữ, không như nhau. Thực ra [ngay cả] chủ nguyên thần

cũng không nhất định có cùng [giới tính] với nhục thân; bởi vì chúng tôi đã phát hiện rằng

bây giờ nữ nguyên thần của nam có rất nhiều, nam nguyên thần của nữ cũng có rất nhiều;

hoàn toàn phù hợp với điều mà hiện nay Đạo gia gọi là thiên tượng âm dương đảo chiều

và âm thịnh dương suy.

Thông thường phó nguyên thần của con người đến từ tầng cao hơn so với chủ nguyên

thần; đặc biệt một số người, phó nguyên thần của họ đến từ tầng hết sức cao. Phó nguyên

thần không phải là phụ thể; nó và chư vị cùng sinh ra từ một thai mẹ, mang cùng một tên

với chư vị; [nó] cũng là một bộ phận của thân thể chư vị. Lúc bình thường người ta nghĩ

về điều gì, làm việc gì, là do chủ nguyên thần quyết định. Phó nguyên thần chủ yếu gắng

sức khống chế chủ nguyên thần của con người để nó không phạm điều xấu; tuy nhiên lúc

mà chủ nguyên thần quá ư chấp trước thì phó nguyên thần cũng không giúp gì được. Phó

nguyên thần không tiếp thu chỗ mê của xã hội người thường, còn chủ nguyên thần thì dễ

bị tiếp thu chỗ mê của xã hội người thường.

Phản tu và tá công

49

Một số phó nguyên thần đến từ tầng rất cao, có thể chỉ còn một chút nữa là đắc chính

quả. Phó nguyên thần muốn tu luyện, nhưng chủ nguyên thần lại không muốn tu luyện thì

cũng chịu. Một hôm trong cao trào khí công, chủ nguyên thần cũng muốn học công, tu

luyện lên cao tầng; tất nhiên suy nghĩ ấy rất chất phác, không có mong nghĩ gì đến truy

cầu danh lợi. Phó nguyên thần rất lấy làm ưng ý: 'Ta muốn tu luyện, nhưng ta không quyết

định; ngươi muốn tu luyện, quả là hợp ý ta'. Nhưng hỏi tìm sư phụ nơi đâu? Phó nguyên

thần rất có bản sự, nó rời khỏi thân thể đi tìm Đại Giác Giả mà nó đã biết trong đời trước.

Bởi vì có một số phó nguyên thần [ở] tầng rất cao, nên có thể rời thân thể; sau khi đến nơi

[phó nguyên thần] liền nói muốn tu luyện, muốn mượn công. Người ta thấy cá nhân này

rất tốt, [muốn] tu luyện thì tất nhiên giúp thôi; vậy là phó nguyên thần đã mượn được

công. Thông thường công ấy có năng lượng tản xạ; nó thông qua đường ống mà truyền

dẫn đến; cũng có [trường hợp công] mượn được đã thành hình; [công] đã thành hình thông

thường kèm công năng tồn tại.

Như vậy, họ đồng thời có kèm theo công năng; cá nhân này cũng giống như tôi vừa

giảng: đêm đang ngủ [cũng] nóng không chịu được, sáng hôm sau ngủ dậy thì thấy có

được công. Chạm vào đâu ở đó có điện; có thể trị bệnh cho người ta; họ biết rằng họ có

được công. [Công] đến từ đâu? Họ không biết rõ. Họ chỉ biết đại khái là nó đến từ không

gian vũ trụ; nhưng cụ thể nó đến như thế nào, thì họ không biết; phó nguyên thần không

có bảo cho họ [biết], là vì [kẻ] tu luyện là phó nguyên thần; họ chỉ biết rằng có công

truyền đến.

Thông thường người tá công không chịu hạn chế tuổi tác; người ít tuổi có khá nhiều;

do vậy mấy năm trước có xuất hiện một số người 20 tuổi, 30 tuổi, 40 tuổi; nhiều tuổi hơn

cũng có. Thanh niên thường khó tự chủ bản thân; bình thường chư vị thấy họ rất tốt; khi

chưa có bản sự gì nơi xã hội người thường, thì tâm danh lợi của họ rất nhẹ. Rồi một khi

nổi danh, thông thường họ rất dễ bị tâm danh lợi can nhiễu; họ cảm thấy năm tháng đời

này còn là một chặng đường rất dài, còn cần chạy vạy này khác, [còn cần] phấn đấu một

phen để đạt được một mục tiêu nào đó nơi người thường. Do vậy hễ khi công năng xuất

hiện, có được bản sự rồi, [thì] thông thường họ lấy [năng lực ấy] làm phương tiện để truy

cầu mục tiêu cá nhân nơi xã hội người thường. Điều ấy không được, cũng không được

phép sử dụng [công năng] như thế; càng dùng nhiều thì công ấy càng ít; cuối cùng thì

chẳng còn chút gì. Những người [tá công] bị rớt như vậy rất nhiều; tôi thấy rằng hiện nay

không còn một ai.

Hai tình huống mà tôi vừa giảng đến đều là những người có tâm tính tương đối tốt mà

được công; công ấy không phải do bản thân mình [tu] luyện mà thành; nó là từ các Giác

Giả; do vậy bản thân công ấy là tốt.

Phụ thể

Có nhiều người chúng ta [đã nghe] về những chuyện trong giới tu luyện về phụ thể

[là] những thứ liên quan đến động vật, cáo chồn quỷ rắn v.v. Đó thực ra là gì? Có người

giảng rằng luyện công khai phát công năng đặc dị; thực ra không phải là khai phát công

năng đặc dị; công năng đặc dị ấy chính là bản năng của con người. Chẳng qua vì thuận

theo sự phát triển tiến bộ của xã hội nhân loại, con người ngày càng theo những thứ hữu

hình ở trong không gian vật chất trước mắt chúng ta, ngày càng phụ thuộc vào những công

cụ hiện đại hoá của mình, nên bản năng của con người chúng ta ngày càng thoái hoá; cuối

cùng những chủng bản năng ấy bị làm cho tiêu mất hoàn toàn.

Muốn có công năng, thì phải trải qua tu luyện, [phải] phản bổn quy chân, nó mới tu

xuất lai được. Nhưng động vật không có tư tưởng phức tạp như thế; do đó nó câu thông

với đặc tính của vũ trụ, nó có bản năng tiên thiên. Có người giảng rằng động vật biết tu

luyện, rằng cáo biết luyện đan, rằng con rắn này biết tu luyện v.v. Không phải [là] chúng

Phụ thể

50

biết tu luyện; ban đầu chúng cũng chẳng hề biết [đến tu] luyện là gì hết; chính là vì chúng

có cái chủng bản năng tiên thiên ấy. Vì vậy dưới một điều kiện đặc định, dưới một hoàn

cảnh đặc định, sau thời gian lâu có thể phát huy tác dụng; chúng có thể đắc công, có thể

xuất hiện công năng.

Như vậy, chúng có bản sự; trong quá khứ chúng ta giảng là 'đắc linh khí', 'có bản sự'.

Từ người thường mà xét, thì động vật kia thật lợi hại, có thể chi phối con người dễ dàng.

Thật ra tôi nói rằng không lợi hại; trước mặt người tu luyện chân chính thì nó không là gì

hết; chư vị đừng coi nó tu cả 800 năm, cả 1000 năm, chẳng cần đến một ngón tay nhỏ

cũng đủ vê nát nó. Chúng tôi giảng động vật có bản năng tiên thiên như vậy, nó có thể có

bản sự. Nhưng trong vũ trụ này của chúng ta còn có một [Pháp] lý: chính là không cho

phép động vật tu thành. Vì vậy mọi người xem những sách cổ thấy viết rằng mấy trăm

năm cần giết chúng một lần, có đại kiếp tiểu kiếp. Đến một thời gian nhất định nếu động

vật tăng công, thì phải tiêu diệt chúng, sét sẽ đánh chúng, v.v. không cho phép chúng tu

luyện. Bởi vì chúng không được trang bị bản tính con người, chúng không thể tu luyện

như con người, không có đặc điểm con người; nếu tu thành thì đảm bảo chúng sẽ thành

ma; nên không cho phép chúng tu thành; do đó trời giết chúng; chúng cũng biết điểm này.

Tuy nhiên như tôi đã giảng, xã hội nhân loại hiện đang trượt trên dốc lớn, có cả những kẻ

không điều ác nào mà không làm; đã đến trạng thái như thế, hỏi xã hội nhân loại chẳng

phải nguy hiểm là gì?

Vật cực tất phản! Chúng tôi phát hiện rằng vào mỗi lần chu kỳ huỷ diệt khác nhau của

xã hội nhân loại tiền sử, đều phát sinh tình huống là đạo đức của nhân loại đã hết sức bại

hoại. Hiện nay tại không gian mà nhân loại chúng ta [đang] sinh tồn cũng như nhiều

không gian khác, mọi nơi đều ở trong hoàn cảnh vô vàn nguy hiểm; tại các không gian

khác của tầng này cũng lại như thế; chúng cũng muốn mau chóng thoát thân, chúng cũng

muốn lên tầng cao hơn; đề cao tầng thì chúng tưởng rằng có thể trốn thoát được. Nói sao

dễ dàng vậy! Muốn tu luyện, thì cần phải có thân thể người; do đó xuất hiện [tình huống

có] người luyện công bị phụ thể [nhập vào], [đó] là một [trong những] nguyên nhân.

Có người nghĩ: 'Nhiều Đại Giác Giả, nhiều sư phụ công phu cao như vậy, vì sao

không quản [việc này]?' Trong vũ trụ này của chúng ta còn một [Pháp] lý: bản thân chư vị

cầu gì, chư vị muốn gì thì người khác không muốn can thiệp. Ở đây chúng tôi dạy mọi

người theo đường chính, đồng thời giảng rõ Pháp cho chư vị, để cho chư vị tự mình ngộ;

còn học hay không là vấn đề ở bản thân chư vị. Sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân.

Không ai cưỡng bách hay bức bách chư vị phải tu; tu hay không là vấn đề riêng của cá

nhân chư vị; nghĩa là, chư vị theo đường nào, chư vị muốn gì, chư vị mong được gì, không

ai can thiệp chư vị hết; chỉ có thể khuyến Thiện.

Có người mà chư vị thấy họ luyện công, thật ra toàn cho phụ thể được [công]. Vì sao

chiêu mời phụ thể? Những người luyện công trên toàn quốc, hỏi bao nhiêu người mà đằng

sau có phụ thể? Nếu nói ra thì rất nhiều người sẽ không dám luyện công, vì con số ấy làm

người ta phát sợ! Vậy vì sao lại xuất hiện tình huống này? Nó đang là cái hoạ loạn xã hội

người thường; hỏi tại sao hiện tượng nghiêm trọng này xuất hiện? Cũng là vì nhân loại tự

mình chiêu mời chúng đến, bởi vì nhân loại đang bại hoại, đến đâu cũng có ma. Nhất là

những khí công sư giả đều mang phụ thể trên thân; họ truyền công chính là truyền những

thứ ấy. Trong lịch sử nhân loại không hề cho phép động vật [gắn] lên thân thể người; hễ

[gắn] lên là bị giết; ai thấy được đều không cho phép. Tuy nhiên tại xã hội chúng ta ngày

nay có người cầu chúng, muốn chúng, cúng [thờ] chúng. Có người nghĩ: 'Tôi đâu có cầu

chúng một cách minh xác!' Chư vị không cầu chúng, nhưng chư vị [có thể] cầu công

năng; các Giác Giả của [môn] tu luyện chính Pháp liệu có thể cấp [công năng] cho chư vị?

[Truy] cầu chính là một chấp trước nơi người thường; tâm ấy phải bỏ. Vậy ai có thể cấp?

Phụ thể

51

Chỉ có ma tại các không gian khác và động vật mới cấp thôi; vậy chẳng phải tương đương

với cầu chúng đến là gì? Chúng liền đến.

Có bao nhiêu người mang cách nghĩ đúng đắn đến luyện công? Luyện công đòi hỏi

[coi] trọng đức, làm việc tốt, hành Thiện; ở đâu làm gì đều tự yêu cầu bản thân như vậy.

Tại công viên luyện cũng vậy, ở nhà luyện cũng vậy, hỏi có mấy người suy nghĩ như thế?

Có những người mà thật không hiểu nổi họ luyện là công gì, khi đang luyện, khi đang

chuyển động, thì miệng họ chẳng dứt: 'A! Mấy cô con dâu nhà này chẳng có hiếu với tôi;

mẹ chồng của tôi sao mà quá tệ!' Có người bình luận từ chuyện đơn vị cho đến quốc gia

đại sự, không gì là họ không nói đến; điều gì không phù hợp với quan niệm cá nhân của họ

là [họ] bực bội khó chịu. Chư vị gọi đó là tu luyện được không? Còn có người khi luyện

công luyện trạm trang, chân mỏi run cả lên, vậy mà não của họ chẳng có nghỉ: 'Mọi thứ

bây giờ đắt đỏ, vật giá leo thang, đơn vị mình lại chưa trả tiền lương; tại sao mình luyện

vậy vẫn chưa được công năng? Mình luyện thành công năng rồi; mình cũng làm khí công

sư; mình cũng phát tài; mình cũng coi bệnh cho người ta để kiếm tiền'. Một khi họ thấy

người khác xuất hiện công năng, thì họ rất sốt ruột, họ nhất mực truy cầu công năng, truy

cầu thiên mục, truy cầu khả năng trị bệnh. Mọi người thử nghĩ xem: điều này sai biệt quá

xa so với đặc tính Chân Thiện Nhẫn trong vũ trụ chúng ta! Hoàn toàn trái ngược. Nói

nghiêm trọng một chút: họ đang luyện tà pháp! Ấy vậy mà họ chẳng tự biết. Họ càng suy

nghĩ như thế, ý niệm xuất phát ra lại càng xấu. Những người này chưa hề đắc Pháp; họ

không biết [coi] trọng đức; [họ] tưởng rằng luyện công thông qua thủ pháp thì có thể luyện

xuất ra công; họ nghĩ rằng mong muốn điều gì thì cũng có thể truy cầu được; họ tưởng

như vậy.

Chính vì tư tưởng của bản thân là bất chính, nên [họ] mới chiêu mời những thứ xấu.

Con động vật kia nhìn thấy rồi: 'Vị này muốn luyện công phát tài; vị kia muốn nổi danh,

muốn đắc công năng. Được lắm, thân thể hắn cũng khá, những thứ mang trên thân cũng

rất tốt; nhưng tư tưởng của hắn quả là tệ; hắn truy cầu công năng mà! Có thể hắn có sư

phụ; dẫu hắn có sư phụ ta cũng không sợ'. Nó biết rằng sư phụ của [môn] tu luyện chính

Pháp [cũng] thấy được họ truy cầu công năng như thế; càng truy cầu càng không được

cấp; đó chính là tâm chấp trước phải vứt bỏ. Họ càng nghĩ như vậy, thì càng không cấp

công năng cho họ, họ lại càng không ngộ được; càng truy cầu thì cách nghĩ càng tệ hơn.

Cuối cùng sư phụ thở dài thất vọng, thấy rằng cá nhân này không còn hy vọng, nên không

chăm sóc cho vị ấy nữa. Có người không có sư phụ, nhưng có [sư phụ] qua đường quản

một chút. Bởi vì các Giác Giả tại các không gian khác rất nhiều; Giác Giả thấy vị này, coi

thử một chút, theo họ một hôm thì thấy vị này không được, [Giác Giả] bèn bỏ đi; hôm sau

lại có một [Giác Giả khác], đến coi một chút thấy cá nhân này không được, liền bỏ đi.

Con động vật biết rằng, vị này có sư phụ cũng vậy, có sư phụ qua đường cũng vậy, sư

phụ của họ không thể cho họ những thứ họ truy cầu. Bởi vì [con] động vật không thấy

được không gian nơi các Đại Giác Giả ở, nên nó cũng không sợ, nó cứ dùi sâu vào chỗ sơ

hở này. Trong vũ trụ chúng ta có một [Pháp] lý, rằng tự mình truy cầu gì, tự mình mong

muốn gì, người khác thông thường không thể can thiệp; nó dùi sâu vào sơ hở ấy: 'Hắn ta

muốn thế, ta giúp hắn; ta giúp hắn nào có sai gì?' Nó cấp [cho vị này]. Mới đầu nó chưa

dám gắn lên [thân thể vị ấy]; trước tiên nó cấp cho vị ấy một chút công để thử. Một hôm vị

này đột nhiên thật sự thấy công mà mình truy cầu đã đến, lại có thể trị bệnh. Nó thấy thế

quả là tốt, giống như chơi khúc nhạc dạo đầu: 'Ý nguyện của hắn muốn thế, vậy ta sẽ gắn

lên [hắn], gắn rồi cấp được nhiều hơn, cấp được thoả thích hơn. Chẳng phải ngươi cầu

thiên mục? Kỳ này ta sẽ cấp đủ cho ngươi', thế là nó gắn lên [thân thể vị kia].

Tư tưởng truy cầu của vị ấy, chính là truy cầu những điều này, thì thiên mục khai mở,

lại có thể phát công, còn được một chút công năng nhỏ bé. Vị ấy vui mừng quá đỗi; vị ấy

tưởng rằng mình cuối cùng cũng truy cầu được điều ấy rồi, luyện xuất ra rồi; kỳ thực vị ấy

Phụ thể

52

chẳng luyện ra gì cả. Vị ấy cho rằng mình có thể thấu thị nhân thể, có thể thấy được thân

thể con người có bệnh ở đâu. Thực ra thiên mục vị này hoàn toàn chưa khai mở; [mà] là

con động vật đã khống chế đại não của vị ấy, nó lấy con mắt của nó để nhìn, rồi phản ánh

lên đại não vị kia; [vậy nên] vị kia tưởng rằng thiên mục của mình đã khai mở. Phát công,

ngươi cứ phát công đi, hễ vị ấy duỗi tay ra phát công, thì những móng vuốt con động vật

kia cũng từ sau lưng vị ấy cũng chìa ra; khi vị ấy phát công, thì cái đầu rắn thè ra cái lưỡi

[chẻ đôi], mà vươn đến chỗ có bệnh, chỗ sưng kia, rồi dùng đầu lưỡi mà liếm liếm. Loại

này rất nhiều; phụ thể của những người ấy đều là bản thân họ cầu mong mà đến.

Bởi vì vị này truy cầu, vị ấy muốn phát tài, muốn nổi danh. Tốt quá, công năng kia

cũng có, còn có thể trị bệnh, thiên mục lại nhìn được; như thế thật là ưng ý. Con động vật

liền thấy ngay: 'Ngươi chẳng phải muốn phát tài? Tốt, ta sẽ cho ngươi phát tài'. Khống

chế đại não của một người thường thật là việc quá dễ dàng. Nó có thể khống chế rất nhiều

người đến tìm vị này để coi bệnh, rất nhiều [người] đến. Được lắm, bên này vị ấy đang trị

bệnh, bên kia con động vật chỉ thị phóng viên báo chí đăng bài tuyên truyền. Nó khống

chế người thường làm những việc như thế; nhưng người đến coi bệnh mà trả ít tiền quá thì

không được, [nó] sẽ làm chư vị đau đầu; thế nào chư vị cũng phải đưa nhiều tiền. Danh lợi

đều được: đã phát tài lại nổi danh; cũng đã được làm khí công sư. Thông thường những

người này không giảng tâm tính, điều gì cũng dám nói; trời là thứ nhất, họ là thứ nhì. Họ

dám nói họ là Vương Mẫu Nương Nương, là Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng trần; họ còn

dám nói họ là Phật. Vì họ chưa thật sự trải qua tu luyện tâm tính, nên họ luyện công truy

cầu công năng; kết quả [họ] đã chiêu mời phụ thể [là] động vật.

Có người có thể nghĩ: 'Như thế có gì xấu đâu; dẫu sao kiếm tiền, phát tài là được rồi,

lại có thể nổi danh nữa'; có không ít người suy nghĩ như vậy. Tôi bảo với mọi người, thật

ra [con động vật ấy] nó có mục đích, nó không hề giúp chư vị một cách vô duyên vô cớ.

Trong vũ trụ này có [Pháp] lý, gọi là 'bất thất giả bất đắc'. Nó được gì? Chẳng phải tôi

vừa đề cập đến vấn đề này sao? Nó muốn được một điểm tinh hoa của thân thể chư vị để

tu thành hình người; nó sẽ ở trên thân thể người mà thu thập tinh hoa của con người. Mà

tinh hoa của thân thể người chỉ có một phần ấy; nếu muốn tu luyện, thì chỉ có phần ấy

thôi. Nếu chư vị để nó lấy mất, thì chư vị đừng nghĩ đến tu luyện nữa; chư vị còn tu luyện

gì nữa đây? Chư vị chẳng còn gì nữa, thì chư vị hoàn toàn không tu luyện được. Có người

có thể nói: 'Tôi cũng không muốn tu luyện; tôi chỉ muốn phát tài; có tiền là được rồi; lo

gì!' Tôi nói với chư vị, chư vị muốn phát tài, tôi giảng đạo lý này ra cho chư vị, thì chư vị

sẽ không nghĩ như thế nữa. Vì sao? Nếu nó ly khai khỏi thân chư vị từ sớm, thì chư vị sẽ

tứ chi vô lực. Từ đó trở đi, cả đời sẽ như thế; bởi vì tinh hoa con người đã bị nó lấy đi quá

nhiều; [còn] nếu nó rời khỏi thân chư vị muộn hơn, thì chư vị chính là một người thực vật;

nửa đời về sau chư vị chỉ nằm dài trên giường hít thở mà thôi. Chư vị có tiền liệu có thể

tiêu? Có danh liệu chư vị có thể hưởng thụ? Có đáng sợ không?

Sự tình ấy trong những người luyện công hiện nay rất nổi cộm, có rất nhiều. [Động

vật] không chỉ [làm] phụ thể, [nó] còn [có thể] giết nguyên thần của con người, nó chui

vào nê hoàn cung của người ta, ngụ ở đấy. Nhìn bề ngoài thì là một người, nhưng nó

không phải là người; hiện nay đã xuất hiện tình huống này. Bởi vì chuẩn mực đạo đức của

nhân loại đã phát sinh biến hoá; có người làm điều xấu, nếu chư vị nói với họ rằng họ đã

làm điều xấu, họ chẳng hề tin. Họ cho rằng kiếm tiền, truy cầu tiền, phát tài, đó là điều hết

sức hợp lý, là điều đúng đắn; vì thế mà làm hại người khác, làm thương tổn người khác, vì

kiếm tiền mà không việc ác nào không làm, điều gì họ cũng dám phạm. [Con động vật ấy]

nó không mất, thì nó không được; nó giúp chư vị phải chăng là vô cớ? Nó muốn đoạt

những thứ trên thân chư vị. Tất nhiên như tôi đã giảng, người ta đều vì quan niệm của

mình chẳng ngay, tâm nơi mình chẳng chính mà [tự] rước lấy rắc rối.

Phụ thể

53

Chúng tôi giảng Pháp Luân Đại Pháp. Tu luyện pháp môn này của chúng tôi, chỉ cần

chư vị giữ vững tâm tính, nhất chính áp bách tà, thì chư vị không xuất hiện bất cứ vấn đề

gì. Chư vị nếu chẳng giữ vững tâm tính, chư vị truy cầu điều này, truy cầu điều khác, chắc

chắn sẽ chiêu mời rắc rối. Có người chẳng dứt bỏ được những thứ đã luyện trước đây;

chúng tôi giảng luyện công phải chuyên nhất, tu luyện chân chính phải chuyên nhất. Chư

vị chớ coi các khí công sư viết sách; tôi nói với chư vị rằng trong những cuốn sách ấy thứ

gì cũng có, và giống như những thứ họ luyện; đó là rắn, đó là cáo, đó là chồn. Chư vị đọc

những cuốn sách đó, [thì] những thứ ấy sẽ từ trong chữ mà nhảy ra. Tôi đã giảng, những

khí công sư giả ấy đông hơn khí công sư chân chính rất nhiều lần, chư vị không phân biệt

được rõ; do đó mọi người nhất định phải giữ vững [tâm tính]. Ở đây tôi không nói chư vị

nhất định phải tu luyện Pháp Luân Đại Pháp; chư vị tu môn nào cũng được. Trong quá khứ

có một câu: 'Nghìn năm chẳng được chính Pháp, còn hơn một ngày tu thiền cáo hoang'.

Do đó, nhất định phải giữ vững [tâm tính]; tu luyện chính Pháp một cách chân chính,

không trộn lẫn bất kể thứ gì vào tu, ngay cả ý niệm cũng không được thêm vào. Pháp Luân

của một số người bị biến hình; vì sao biến hình? Họ nói: 'Tôi có luyện công nào khác

đâu?' Nhưng mỗi khi luyện công, ý niệm của họ [lại] thêm vào những thứ họ từng [luyện]

trước đây; chẳng phải là mang thêm chúng vào là gì? Vấn đề phụ thể, chúng tôi chỉ giảng

đến đây.

Ngôn ngữ vũ trụ

'Ngôn ngữ vũ trụ' là gì? Đó là một người đột nhiên có thể nói một loại lời nói kỳ diệu

bí ẩn, líu lo ríu rít, líu lo ríu rít; [họ] nói những gì, chính họ cũng chẳng biết. Người có

công năng tha tâm thông có thể hiểu được ngụ ý đại khái, nhưng không thể hiểu được

người kia nói cụ thể những gì. Ngoài ra có người có thể nói được nhiều loại ngôn ngữ

khác nhau. Có người còn cho rằng [điều này] thật xuất sắc, nhìn nhận đó là bản sự, là công

năng. [Thật ra] nó không phải là công năng, cũng không phải là bản sự của người tu luyện,

nó không đại biểu cho tầng của chư vị. Vậy nó là gì? Chính là do tư tưởng của chư vị bị

một loại linh thể ngoại lai khống chế; chư vị lại còn cho rằng tốt lắm, chư vị thấy hoan hỷ,

chư vị thấy cao hứng; chư vị càng cao hứng thì nó khống chế chư vị càng chắc chắn hơn.

Đã là một người tu luyện chân chính, chư vị chịu để nó khống chế là sao? Hơn nữa nó đến

từ tầng vô cùng thấp; do vậy, chúng ta là những người tu luyện chân chính, nên [chúng ta]

không thể chiêu mời những phiền phức đó được.

Con người là trân quý nhất, là anh linh của vạn vật; chư vị chịu để những thứ ấy

khống chế là sao? Ngay cái thân thể của mình chư vị cũng chẳng thiết, thật đáng buồn

thay! Những thứ ấy có thứ gắn lên thân người, có thứ không gắn lên thân người mà cách

thân người một đoạn; nhưng chúng thao túng chư vị, khống chế chư vị. Chư vị muốn nói

chúng liền cho chư vị nói, nói cứ líu lo ríu rít cả lên. Còn có thể truyền nữa; người khác

muốn học, dám lớn mật mà mở miệng ra, thì liền nói được. Kỳ thực những [linh thể ấy]

chúng đi thành từng nhóm từng bầy; chư vị muốn nói là chúng liền đến để chư vị nói.

Vì sao xuất hiện tình huống này? Cũng như tôi đã từng nói, chúng cũng muốn đề cao

tầng của mình; nhưng ở chỗ [chúng ở] không có khổ mà chịu, nên không thể tu luyện,

không thể đề cao [tầng]. Chúng bèn nghĩ ra một cách: giúp con người làm việc tốt; nhưng

chúng không biết rõ thực hiện ra sao; nhưng chúng biết rằng năng lượng chúng phát ra có

thể có đôi chút tác dụng ước chế đối với người mang bệnh, có thể tạm thời giải trừ sự đau

đớn cho bệnh nhân, nhưng không thể trị hết bệnh; do vậy chúng biết cách khởi tác dụng

bằng cách dùng miệng của người ta mà phát ra; chuyện là như vậy. Có người gọi đó là lời

của trời; cũng có người gọi đó là lời của Phật, [nói thế] là phỉ báng Phật. Tôi nói rằng [ăn

nói như thế] thật là hàm hồ!

Ngôn ngữ vũ trụ

54

Mọi người đều biết rằng Phật không dễ mở miệng. Nếu tại không gian này của chúng

ta mà mở miệng nói, có thể ông [Phật] sẽ gây động đất cho nhân loại; điều ấy đâu có

được! Chấn động ầm ầm như thế. Có người nói: 'Thiên mục tôi thấy ông [Phật] nói

chuyện với tôi'. Không phải ông ấy nói với chư vị. Có người nhìn thấy Pháp thân của tôi

cũng làm việc ấy; [thực ra] không phải là [Pháp thân] nói với chư vị; ý niệm mà Pháp thân

xuất ra có mang theo âm thanh lập thể, chư vị nghe thấy giống như nghe được Pháp thân

nói vậy. Thông thường Pháp thân có thể nói tại không gian mình đang ở; nhưng sau khi

truyền dẫn qua đây thì chư vị nghe không rõ Pháp thân nói gì. Bởi vì khái niệm thời-không

của hai không gian là khác nhau; một thời thần của không gian chúng ta, tức là hai giờ

đồng hồ hiện nay. Nhưng tại các đại không gian kia, thì một thời thần của chúng ta là bằng

một năm; vậy so với thời gian của Pháp thân thì chậm hơn.

Quá khứ có câu "một ngày phương trời, nghìn năm mặt đất"; ấy là nói về các thế giới

đơn nguyên không có khái niệm không gian và thời gian; chính là những thế giới mà các

Đại Giác Giả cư ngụ; ví như thế giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly, thế giới Pháp Luân, thế

giới Liên Hoa, v.v; chính là những nơi ấy. Còn thời gian tại các đại không gian kia lại

nhanh hơn [chúng ta]; nếu chư vị có thể tiếp thu được [âm thanh], thì nghe được họ nói

chuyện; có người [có được] thiên nhĩ thông, tai của họ đã khai mở; nhưng lúc có thể nghe

họ nói chuyện, thì chư vị cũng không nghe rõ. Chư vị nghe gì cũng như thế: như tiếng

chim hót hoặc tiếng máy hát quay nhanh; nghe không được nội dung. Tất nhiên có người

có thể nghe được âm nhạc, có thể nghe được [người ta] nói chuyện. Nhưng nó cần phải

thông qua một loại công năng đóng vai tải thể, để tiêu trừ sự sai biệt về thời gian, truyền

cho đến tai chư vị, [có vậy] chư vị mới có thể nghe rõ ràng; chính là tình huống như vậy.

Có người nói rằng đó là ngôn ngữ của Phật, [thực ra] nó hoàn toàn không phải.

Một khi các Giác Giả gặp mặt, hai người chỉ [cần] mỉm cười, liền hiểu nhau ngay. Bởi

vì đây là truyền cảm tư duy không dùng âm thanh; điều tiếp nhận được có mang theo âm

thanh lập thể. Khi họ mỉm cười, thì ý kiến đã trao đổi xong rồi. Cũng không chỉ dùng hình

thức [trao đổi] ấy, cũng có lúc [họ] dùng một phương pháp khác. Mọi người đã biết, trong

Mật tông, các lạt-ma Tây Tạng chú trọng những phép thủ ấn; tuy nhiên chư vị có hỏi các

lạt-ma về những thủ ấn ấy là gì? Họ nói với chư vị rằng đó là yoga vô thượng. Cụ thể là

gì? Họ cũng không biết. Kỳ thực đó là ngôn ngữ của các Đại Giác Giả. Khi có nhiều

người, [Đại Giác Giả] làm những đại thủ ấn, trông hết sức đẹp mắt, các loại đại thủ ấn; khi

có ít người, họ làm những tiểu thủ ấn, trông cũng rất đẹp mắt; các loại tư thế tiểu thủ ấn vô

cùng phức tạp, vô cùng phong phú, bởi vì chúng là ngôn ngữ. Trước đây những điều này

đều là thiên cơ, [nay] chúng tôi đã giảng ra. Những gì dùng ở Tây Tạng là một vài động

tác đơn thuần dành cho luyện công; họ đã quy nạp chúng, hệ thống hoá [chúng]. Chúng

chỉ là một loại ngôn ngữ đơn thuần dùng cho luyện công, hơn nữa chỉ là một vài hình thức

để luyện công; [còn] thủ ấn chân chính thì rất phức tạp.

Sư phụ cấp gì cho học viên

Có người sau khi gặp tôi liền bắt tay tôi, nắm lấy mãi mà không buông. Những người

khác thấy người kia cầm tay, họ cũng cầm tay tôi. Tôi hiểu được trong tâm họ nghĩ gì. Có

người muốn bắt tay với Sư phụ, cảm thấy rất cao hứng; có người nghĩ sẽ được một chút tín

tức, [nên] cầm tay là không có rời ra. Chúng tôi nói với mọi người rằng, tu luyện chân

chính là việc của cá nhân chư vị; ở đây [chúng tôi] không chữa bệnh khoẻ người, [không]

cấp cho chư vị một chút tín tức, [không] giúp chư vị chữa bệnh; chúng tôi cũng không

giảng những thứ ấy. Bệnh chư vị do tôi trực tiếp chữa cho chư vị; [học viên] ở điểm luyện

công là do Pháp thân của tôi chữa; [học viên] đọc sách tự học cũng do Pháp thân của tôi

chữa. Chư vị tưởng rằng chạm vào tay tôi là có thể tăng công được ư? Đó chẳng phải

chuyện khôi hài hay sao?

Sư phụ cấp gì cho học viên

55

Công là dựa vào tâm tính bản thân mà tu. Chư vị không thực tu, thì công ấy không thể

tăng lên được, bởi vì ở đó nó có tiêu chuẩn tâm tính. Trong khi chư vị tăng công, [tại] cao

tầng có thể nhìn thấy tâm chấp trước của chư vị, cái vật chất kia vứt bỏ rồi, trên đỉnh đầu

sẽ xuất sinh một xích độ. Hơn nữa xích độ này là một [hình] thức tồn tại của công trụ; xích

độ cao bao nhiêu, công trụ cao bấy nhiêu; nó đại biểu cho công mà bản thân chư vị tu

được, cũng đại biểu cho tâm tính cao hay thấp của chư vị. Người khác dẫu là ai cấp thêm

cho chư vị bao nhiêu cũng không được, thêm lên một chút [cũng] không trụ lại được; đều

bị rớt xuống. Tôi có thể lập tức đưa chư vị đạt đến "tam hoa tụ đỉnh"; nhưng chư vị vừa ra

khỏi cửa thì công lại rớt xuống. Nó không phải [của] chư vị, không phải do chư vị tu được,

không đặt lên được; bởi vì tiêu chuẩn tâm tính của chư vị chưa đến đó, nên ai thêm vào

cũng không thêm được; nó hoàn toàn dựa vào tự mình mà tu, tu luyện cái tâm của mình.

Tăng công lên một cách thực chất, không ngừng đề cao bản thân, đồng hoá với đặc tính vũ

trụ, thì chư vị mới có thể lên được. Có người tìm tôi xin chữ ký; tôi không muốn ký. Một

số người nói rằng Sư phụ đã cho [họ] chữ ký; họ muốn hiển thị, muốn tín tức của Sư phụ

bảo hộ họ. Đó chẳng phải là tâm chấp trước? Tu luyện là do tự mình, chư vị còn giảng tín

tức nào đây? Tu luyện tại cao tầng mà chư vị còn nói về những thứ ấy là sao? Nó có nghĩa

gì đâu? Nó chỉ để chữa bệnh khoẻ người thôi.

Công mà chư vị tự luyện được, tại mức cực vi quan, các lạp tử của công ấy có cùng

hình dạng giống hệt chư vị. Khi tu luyện xuất khỏi thế gian pháp, thì chư vị đã là tu luyện

Phật thể. Công đều mang hình dáng Phật thể, trông đẹp vô cùng, ngồi trên [toà] sen; trên

mỗi một vi lạp nhỏ đều như vậy. Còn công của động vật đều là những thứ như cáo bé, rắn

bé; trên các vi lạp nhỏ tại mức cực vi quan đều là những thứ ấy. Còn có cái [gọi là] 'tín

tức'; [có người] khuấy khuấy trà rồi đưa chư vị uống, dẫu sao nó cũng là công. Người

thường chỉ muốn tạm thời giải trừ sự đau khổ, [tạm thời] đẩy lùi bệnh tật về sau này, ức

chế [nó]; người thường dù sao vẫn là người thường; họ có làm cho thân thể họ xấu tệ thế

nào đi nữa, chúng ta cũng không quan tâm. Chúng ta là những người tu luyện, [như thế]

tôi mới vì chư vị mà giảng ra điều này. Từ nay trở đi, mọi người chớ có làm như vậy nữa;

tín tức nào đi nữa; dẫu là gì đi nữa thì cũng tuyệt đối không lấy những thứ ấy. Có khí công

sư nói: 'Ta phát tín tức cho các vị, các vị ở các nơi trên toàn quốc đều tiếp nhận được'.

Tiếp nhận gì đây? Tôi giảng cho chư vị rằng điều ấy không có tác dụng gì lớn; cứ giả

thuyết rằng nó có chỗ tốt, thì chẳng qua để cầu chữa bệnh khoẻ người mà thôi. Tuy nhiên

chúng ta là người tu luyện; công là bản thân tu xuất lai; người khác phát tín tức công gì

cũng không thể đề cao tầng [cho chúng ta] được; chỉ để chữa bệnh cho người thường.

Nhất định phải giữ tâm cho chính; việc tu luyện không ai thay thế được đâu; chư vị tự

mình tu luyện một cách chân chính, mới có thể tự mình đề cao tầng.

Vậy tôi cấp gì cho mọi người? Mọi người đã biết, chúng ta có nhiều người chưa từng

luyện công, thân thể có bệnh; có nhiều người tuy đã luyện công nhiều năm, nhưng vẫn

loanh quanh ở [giai đoạn] khí, cũng chưa có công. Tất nhiên có một số vị đã chữa bệnh

cho người ta, [nhưng] chư vị lại không biết mình làm sao mà trị được bệnh? Khi tôi giảng

về vấn đề phụ thể, tôi đã [trục xuất] các phụ thể mang trên thân thể của những người có

thể chân tu Đại Pháp; bất kể [phụ thể đó] là gì đi nữa; từ trong đến ngoài thân thể có thứ gì

không tốt, toàn bộ đều được vứt bỏ. Người tự tu chân chính khi đọc Đại Pháp này, cũng

được thanh lý thân thể; hơn nữa hoàn cảnh trong gia đình của chư vị cũng được thanh lý.

Trước đây nếu chư vị cúng thờ bài vị của cáo hoặc chồn, chư vị lập tức quăng vứt đi;

chúng đều bị thanh lý cho chư vị rồi, không còn tồn tại nữa. Bởi vì chư vị muốn tu luyện,

nên chúng tôi có thể mở cánh cửa thuận tiện nhất, làm những việc ấy cho chư vị; nhưng

chỉ hạn cuộc cho những người tu luyện chân chính mà thôi. Tất nhiên có người không

muốn tu luyện; đến tận bây giờ họ vẫn chưa hiểu ra, nên chúng tôi không thể quản [họ]

được; [người mà] chúng tôi quản là những ai tu luyện chân chính.

Sư phụ cấp gì cho học viên

56

Còn một kiểu người: trong quá khứ người ta nói rằng trên thân họ có phụ thể, và bản

thân họ cũng cảm giác là có. Nhưng sau khi giúp họ vứt bỏ [phụ thể] rồi, thì cái tâm bệnh

của họ lại không dứt: họ cứ cảm giác như trạng thái ấy vẫn tồn tại; họ cho rằng vẫn còn;

ấy chính là một loại tâm chấp trước, gọi là 'nghi tâm'. Dần dà tự họ chiêu mời cái thứ

không tốt ấy trở lại. Tự chư vị phải vứt bỏ cái tâm ấy; hoàn toàn không tồn tại [phụ thể

nữa đâu]. Có những người mà chúng tôi đã xử lý từ bài học trước, tôi đã làm những việc

ấy rồi, các phụ thể đã được vứt bỏ hết rồi.

Luyện công tại tầng thấp của Đạo gia yêu cầu [tạo] một cơ sở: cần hình thành chu

thiên, một khối điền của đan điền cần hình thành, còn có những điều ở các phương diện

khác cũng cần hình thành. Chúng ta ở đây cần đặt Pháp Luân, khí cơ; hết thảy các cơ chế

tu luyện v.v. rất nhiều, hơn vạn thứ, tất cả thứ ấy đều cấp cho chư vị, như các chủng tử

[được] gieo vào cho chư vị. Sau khi loại bỏ bệnh của chư vị, thì những gì cần làm đều

được làm, những gì cần cấp sẽ được cấp toàn bộ cho chư vị; như vậy chư vị mới có thể ở

trong pháp môn này của chúng tôi mà thật sự tu luyện xuất lai. Nếu không, nếu chẳng cấp

gì cho chư vị, thì [chỉ] là chữa bệnh khoẻ người. Nói thẳng ra: có người không giảng tâm

tính, thì chẳng thà tập thể thao.

Tu luyện chân chính cần phải có trách nhiệm với chư vị; những ai tự tu cũng được

như thế, nhưng cần phải là chân tu; chúng tôi cấp tất cả những điều ấy cho người chân tu.

Tôi đã giảng rằng phải thật sự dẫn dắt chư vị như các đệ tử. Ngoài ra, [chư vị] nhất định

phải học thật thấu Pháp ở cao tầng, [phải] biết tu luyện như thế nào; năm bộ công pháp

được truyền dạy hết để [chư vị] học. Trong tương lai chư vị có khả năng sẽ đạt đến tầng

rất cao; [bây giờ] chư vị chưa ý thức được tầng cao đến thế; đắc chính quả không thành

vấn đề. Chư vị chỉ cần tu luyện; Pháp này tôi đã kết hợp từ [Pháp] tại các tầng khác nhau

mà giảng; sau này khi chư vị tu luyện tại các tầng khác nhau, chư vị sẽ phát hiện nó đều có

tác dụng chỉ đạo cho chư vị.

Là người tu luyện, đường đời từ nay về sau sẽ được cải biến; Pháp thân của tôi sẽ an

bài lại cho chư vị. An bài như thế nào? Hỏi tiến trình sinh mệnh của một số người còn có

bao nhiêu [năm]? Người ấy tự mình cũng chẳng biết; có người còn một năm nữa, nửa năm

nữa là có thể mắc bệnh nặng, hễ mắc bệnh là bị luôn mấy năm liền; có người có thể bị tắc

nghẽn mạch máu não hoặc bệnh khác, hoàn toàn bất động. Tại đường đời từ nay về sau,

hỏi chư vị tu luyện sao đây? Chúng tôi đều giúp chư vị thanh lý hết, không cho phép sự

kiện như thế phát sinh. Nhưng chúng tôi có lời nói trước, chỉ có thể giúp người tu luyện

chân chính làm những điều ấy; tuỳ tiện làm cho người thường thì không thể; nó tương

đương với làm điều xấu. Sinh lão bệnh tử nơi người thường có quan hệ nhân duyên của

nó; không thể tuỳ tiện phá hoại.

Chúng tôi coi người tu luyện là trân quý nhất, vậy nên chỉ có thể làm vậy cho người tu

luyện. Làm những gì? Nếu uy đức của sư phụ rất cao, cũng có nghĩa là công lực của sư

phụ rất cao, thì ông có thể tiêu [trừ] nghiệp lực cho chư vị. Công của sư phụ cao thì có thể

tiêu trừ được rất nhiều; công của sư phụ thấp thì chỉ có thể tiêu trừ một chút. Chúng tôi ví

dụ thế này: lấy các chủng nghiệp lực trên đường đời từ nay về sau của chư vị mà tập trung

lại, [từ đó lấy ra] tiêu trừ đi một phần, [ví như] tiêu trừ một nửa. Nửa còn lại chư vị cũng

không qua nổi, [nó] cao hơn núi. Làm sao đây? Có thể khi chư vị đắc Đạo, trong tương lai

sẽ có nhiều người được lợi ích; như thế, có rất nhiều người sẽ thay chư vị mà đảm nhận

một phần. Tất nhiên đối với họ sẽ không đáng kể. Chư vị còn diễn luyện ra nhiều thể sinh

mệnh; vả lại ngoài bản thân chủ nguyên thần, phó nguyên thần của chư vị ra còn có rất

nhiều 'chư vị' [khác], đều thay thế chư vị mà đảm nhận một phần. Đến lúc chư vị qua kiếp

nạn, thì phần còn lại không đáng mấy. Nói là 'còn lại không đáng mấy', nhưng nó còn rất

lớn, chư vị vẫn không qua được; vậy làm thế nào đây? [Chỗ ấy] sẽ được phân thành vô số

Sư phụ cấp gì cho học viên

57

rất nhiều các phần, đặt tại các tầng tu luyện của chư vị; lợi dụng chúng để đề cao tâm tính

của chư vị, chuyển hoá nghiệp lực của chư vị, tăng công của chư vị.

Hơn nữa, một cá nhân mong muốn tu luyện, nhưng đó đâu phải chuyện dễ dàng. Tôi

đã giảng rằng đây là một việc nghiêm túc phi thường, ngoài ra nó là điều siêu xuất [khỏi]

người thường; so sánh với bất kể sự việc gì nơi người thường thì nó cũng khó hơn. Nó

chẳng phải siêu thường là gì? Do vậy so với việc gì trong người thường, thì yêu cầu đối

với chư vị cũng cao hơn. Con người chúng ta có nguyên thần; nguyên thần là bất diệt. Nếu

nguyên thần là bất diệt, mọi người thử nghĩ coi, nguyên thần chư vị trong hoạt động xã hội

tại các đời trước phải chăng đã từng làm những điều xấu? Rất có thể. Đã từng sát sinh, đã

từng thiếu nợ của ai những thứ gì, hiếp đáp những ai, làm tổn hại những ai; [tất cả] những

việc ấy đều đã có thể từng làm. Nếu đúng như thế, [thì] khi chư vị ở bên này tu luyện, họ ở

bên kia sẽ thấy rất rõ ràng. [Nếu] chư vị chữa bệnh khoẻ người [thì] họ không quan tâm

đến chư vị; họ biết chư vị [chỉ] trì hoãn về sau; hiện tại chư vị không hoàn [trả thì] tương

lai hoàn [trả], tương lai hoàn [trả] còn nặng hơn. Do vậy chư vị tạm thời không hoàn [trả],

[thì] họ cũng không lo.

Chư vị nói chư vị muốn tu luyện, họ không chịu: 'Ngươi muốn tu luyện, ngươi muốn

rời đi; ngươi tăng công rồi, thì ta không động đến ngươi được, ta không gần ngươi được

nữa,' họ có thể không chịu. Họ dùng trăm phương ngàn kế để cản trở chư vị, không cho

chư vị tu luyện, vì vậy viện đến đủ loại phương pháp để can nhiễu chư vị, thậm chí đến

giết chư vị. Tất nhiên chư vị sẽ không vì đang ngồi đả toạ nơi đây mà đầu lìa đi mất; như

thế không thể, bởi vì cần phải phù hợp với trạng thái xã hội người thường. Có thể vừa ra

khỏi cửa liền bị đụng xe hơi, ngã từ trên lầu xuống, hoặc xuất hiện các nguy hiểm khác; có

thể xuất hiện những sự việc như thế, rất là nguy hiểm. Tu luyện chân chính không hề dễ

dàng như chư vị tưởng tượng đâu; [hễ] chư vị muốn tu luyện, thì chư vị [liền] tu luyện lên

được sao? Nếu chư vị tu luyện một cách chân chính, thì lập tức gặp [những chuyện] nguy

hiểm đến sinh mệnh, lập tức vấp phải vấn đề này. Có rất nhiều khí công sư không dám

truyền công đưa con người lên cao tầng. Tại sao? Chính là [vì] họ không làm được điều

này, họ không bảo hộ chư vị được.

Có nhiều người truyền [giảng] Đạo trong quá khứ, họ chỉ có thể dạy một đồ đệ; họ

duy hộ được một đồ đệ là khá lắm rồi. Còn trên diện rộng thế này, người bình thường

không dám làm. Nhưng tại đây chúng tôi giảng cho chư vị rằng, tôi có thể thực hiện việc

này, bởi vì tôi có vô số Pháp thân, [vốn] mang đầy đủ Pháp lực thần thông lớn phi thường

của tôi, có thể triển hiện những thần thông lớn, Pháp lực rất lớn. Hơn nữa những điều

chúng tôi đang làm hiện nay cũng không hề đơn giản như biểu hiện có thể thấy được ở

chúng ta; tôi cũng không phải vì một lúc nhiệt huyết trong đầu mà đứng ra làm [việc này].

Tôi có thể nói với chư vị, rằng có rất nhiều Đại Giác Giả đều đang chăm chú theo dõi sự

việc này; đây là vào thời kỳ mạt Pháp mà chúng tôi truyền chính Pháp một lần cuối cùng.

Chúng tôi thực hiện việc này cũng không được phép sai sót; [nếu chư vị] thật sự theo con

đường chính đạo mà tu luyện, [thì] không ai dám động đến chư vị; hơn nữa chư vị có Pháp

thân của tôi bảo hộ, sẽ không xuất hiện bất kể nguy hiểm gì.

Nợ thì phải hoàn [trả]; do vậy trên đường tu luyện có thể phải gặp một số điều nguy

hiểm. Nhưng khi gặp những sự việc loại này, chư vị sẽ không sợ hãi, cũng không để cho

chư vị thật sự gặp nguy hiểm. Tôi có thể dẫn một số thí dụ cho chư vị. Vào thời tôi giảng

bài ở Bắc Kinh, có một học viên, đang đi xe đạp qua đường; vào lúc đi trên đường đến

một đoạn quành, thì một chiếc xe ô-tô cao cấp đang rẽ gấp ở đó đột nhiên đụng phải vị học

viên này của chúng ta; đây là một nữ học viên đã trên 50 tuổi. Chiếc xe ô-tô ấy đâm vào

bà một cái, đâm rất mạnh, nghe thấy "bang" một tiếng vào đầu, đầu của bà đập đúng vào

mui xe. Vào lúc ấy bàn chân của học viên này vẫn còn mắc ở bàn đạp, đầu đã va vào [ô-

tô] rồi; nhưng lại không cảm thấy đau. Không những không cảm thấy đau, mà cũng không

Sư phụ cấp gì cho học viên

58

chảy máu, cũng không có sưng. Người lái xe sợ hãi quá, nhảy vội ra khỏi xe và hỏi bà,

rằng bị đụng xe có sao không, rằng chúng ta cần đến bệnh viện không? Bà nói không sao

cả. Tất nhiên, tâm tính người học viên này của chúng ta rất cao, nên không gây khó khăn

gì cho người ta. Nói rằng không sao cả, nhưng mui xe đã bị đâm lõm một miếng lớn.

Những sự việc kiểu như thế là đến để lấy đi [sinh] mệnh [của người ta]; nhưng sẽ

không gặp nguy hiểm gì. Trước đó chúng tôi dạy tại trường Đại học Cát Lâm, có một học

viên từ cổng chính Đại học Cát Lâm đi ra; đang dắt xe vừa đến giữa thì hai chiếc xe [ô-tô]

đột ngột chạy tới kẹp ngay anh ta vào giữa, trông thấy thì như là đâm rồi; nhưng [vị này]

không hề sợ. Thông thường chúng ta gặp những tình huống như thế này đều không sợ hãi;

tại đúng tích tắc ấy, [hai chiếc] xe dừng lại, và không xảy ra vấn đề gì.

Tại Bắc Kinh còn có một chuyện nữa. Mùa Đông trời mau tối hơn, người ta cũng đi

ngủ sớm hơn. Trên đường phố chẳng có ai, rất yên tĩnh. Có một học viên đang đạp xe vội

vã về nhà; phía trước chỉ có một chiếc xe jeep đang chạy; đang chạy đang chạy, đột nhiên

chiếc xe phanh gấp. Anh này không hề chú ý, vẫn cắm đầu đạp xe tiến lên. Nhưng chiếc

xe jeep kia đột nhiên lùi lại, lùi lại cấp tốc, lùi lại rất nhanh; hai luồng lực ấy mà gặp nhau,

thì đó cũng là đến để lấy đi [sinh] mệnh [của anh ta]. Đúng vào tích tắc mà trông như đâm

vào nhau, thì một luồng lực đột nhiên kéo xe đạp của anh ấy lại một đoạn nửa mét; ngoài

ra chiếc xe jeep cũng phanh đứng lại ngay trước bánh xe của anh ta; có lẽ người lái trong

xe đã phát hiện rằng phía sau có người. Lúc ấy người học viên này cũng không sợ hãi; nói

chung lúc gặp tình huống như thế thì không sợ hãi; có thể sau này mới thấy sợ. Điều mà

anh ấy nghĩ đến trước tiên là: 'Ái chà, ai đã kéo mình lại nhỉ, mình phải cảm ơn người ấy'.

[Anh ta] quay đầu lại vừa định nói cảm ơn, thì thấy trên đường chẳng có một ai, hoàn toàn

yên tĩnh. Anh ấy lập tức hiểu ra: Chính là Sư phụ bảo hộ mình rồi!

Còn một sự kiện nữa ở Trường Xuân. Có học viên mà bên cạnh nhà là một cao ốc

đang xây; hiện nay các toà nhà này được xây rất cao; giàn giáo của nó toàn là những ống

sắt dày hai tấc, dài bốn mét. Học viên này vừa ra khỏi nhà không xa thì một chiếc ống sắt

từ trên tầng cao kia rơi thẳng đứng xuống, lao thẳng xuyên vào đỉnh đầu của anh này; mọi

người trên phố trông thấy thảy đều kinh sợ. Anh ta nói: 'Ai vỗ tôi thế?' Anh ấy vẫn tưởng

rằng ai đó đang vỗ lên đầu của mình. Đúng lúc tích tắc quay đầu nhìn lại, [anh ta] thấy

trên đỉnh đầu [mình] là một Pháp Luân lớn đang quay; chiếc ống sắt thuận theo đầu mà

trượt xuống. Trượt xong nó cắm dựng đứng xuống đất. Nếu [ống sắt] ấy mà thật sự cắm

vào thân người, thì mọi người thử nghĩ xem, nó nặng nhường ấy, thì như là xuyên qua kẹo

hồ lô, xuyên một cái là từ trên xuống dưới; rất nguy hiểm vậy.

Sự tình loại này rất nhiều, không tính đếm được; nhưng không xuất hiện nguy hiểm.

Sự việc này không phải ai cũng gặp; những người cá biệt của chúng ta mới gặp. Có gặp

cũng vậy, không gặp cũng vậy, đảm bảo là chư vị sẽ không xuất hiện nguy hiểm gì; điểm

này tôi có thể đảm bảo được. Có một số học viên, họ không chiểu theo yêu cầu tâm tính

mà làm, chỉ luyện động tác không tu tâm tính; họ không thể được xem là người luyện

công.

Giảng đến việc Sư phụ cấp những gì, đó là những thứ tôi cấp cho mọi người. Các

Pháp thân của tôi sẽ liên tục bảo hộ cho đến khi chư vị có thể tự bảo hộ được bản thân

mình; khi ấy chư vị đã xuất khỏi tu luyện thế gian pháp rồi, đã đắc Đạo. Nhưng chư vị cần

phải tự hành xử như là người tu luyện chân chính, thì mới có thể làm điều ấy được. Có

người trong tay cầm cuốn sách của tôi, trên đường phố lớn vừa đi vừa hét to lên rằng: 'Có

Lý Sư phụ bảo hộ thì không sợ xe hơi đâm'. Đó là phá hoại Đại Pháp, sẽ không bảo hộ

loại người này; thực ra các đệ tử chân tu sẽ không làm như vậy.

Sư phụ cấp gì cho học viên

59

Trường năng lượng

Chung quanh chúng ta khi luyện công có xuất hiện một trường; trường ấy là trường

gì? Có người nói là trường khí, trường từ, trường điện. Thực ra chư vị gọi đó là trường gì

thì cũng không đúng, bởi vì vật chất mà trường này bao hàm là cực kỳ phong phú. Vật

chất cấu thành trong tất cả các không gian của vũ trụ chúng ta, hầu như đều có trong công

này; chúng tôi gọi đó là trường năng lượng là thích hợp hơn; do vậy chúng tôi thông

thường gọi đó là 'trường năng lượng'.

Trường ấy có tác dụng gì? Như mọi người biết, những người tu luyện chính Pháp

chúng ta đều có một loại cảm giác thế này: vì đã tu luyện chính Pháp, họ giảng từ bi, họ

đồng hoá với đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ; do vậy các học viên chúng ta ngồi

trong trường này đều có cảm thụ, rằng trong tư tưởng không có niệm đầu nào xấu; hơn

nữa rất nhiều học viên chúng ta ngồi tại đây thậm chí không nghĩ đến hút thuốc, cảm thấy

bầu không khí hết sức tốt lành, hết sức thoải mái; đó chính là [vì] năng lượng mà người tu

luyện chính Pháp mang theo [bên mình]; trong phạm vi của trường này thì [nó] khởi tác

dụng ấy. Tương lai từ khi chư vị học xong lớp này trở đi, hầu hết mọi người chúng ta đều

sẽ có công, thật sự xuất hiện công; bởi vì [những thứ] mà tôi truyền [và] cấp cho chư vị

đều là những thứ tu luyện chính Pháp; bản thân chư vị cũng cần chiểu theo tiêu chuẩn tâm

tính mà tự đặt yêu cầu cho mình. Tuỳ theo việc chư vị luyện công không ngừng, chiểu

theo yêu cầu tâm tính của chúng tôi mà tu luyện, [thì] năng lượng của chư vị sẽ dần dần

ngày càng lớn [mạnh].

Chúng ta giảng độ kỷ độ nhân, phổ độ chúng sinh; do đó Pháp Luân xoáy vào trong

độ bản thân, xoáy ra ngoài độ nhân. Khi xoáy ra ngoài thì nó phát phóng năng lượng, có

ích cho người khác; như vậy, ai ở trong vùng che phủ của trường năng lượng của chư vị

đều được lợi ích; họ có thể cảm thấy rất thoải mái. Bất kể là chư vị đi ngoài phố, tại đơn vị

[công tác], [hay] ở nhà cũng vậy, đều có tác dụng như thế. [Đối với] người ở trong phạm

vi trường của chư vị, có thể chư vị không cố ý [mà đã] điều chỉnh thân thể của họ; bởi vì

loại trường này có thể điều chỉnh lại hết thảy các trạng thái không đúng đắn. Thân thể con

người không nên có bệnh; có bệnh là thuộc về trạng thái không đúng đắn; nó {trường năng

lượng} có thể điều chỉnh lại trạng thái không đúng đắn này. Người mang tư tưởng xấu, khi

nghĩ đến những thứ không đúng đắn, gặp tác dụng mạnh mẽ của trường của chư vị, cũng

có thể thay đổi tư tưởng của họ, có thể khi ấy họ liền không nghĩ việc xấu nữa. Có thể có

người muốn [nhục] mạ người khác, đột nhiên lại thay đổi tư tưởng, không nghĩ đến [nhục]

mạ nữa. Chỉ có trường năng lượng của tu luyện chính Pháp mới có tác dụng như vậy. Do

đó trong Phật giáo quá khứ có câu rằng: "Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh",

chính là ý nghĩa này.

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào

Chúng ta có nhiều học viên sau khi về [nhà], cảm thấy công pháp [này] rất tốt, muốn

truyền cấp cho bạn bè thân quyến. Có thể; chư vị có thể truyền, truyền cho ai cũng được.

Nhưng có một điểm, chúng tôi cần nói rõ cho mọi người; chúng tôi cấp cho mọi người

nhiều thứ như thế, vốn không thể lấy giá trị [tiền] mà đo lường được. Vì sao cấp cho mọi

người? Là để chư vị tu luyện; chỉ có tu luyện, mới có thể cấp cho chư vị những thứ ấy.

Cũng có nghĩa là, khi chư vị truyền công trong tương lai, không được dùng những thứ này

để cầu danh cầu lợi; do đó chư vị không được giống như tôi mở lớp thu phí. Bởi vì chúng

tôi cần in sách, in tài liệu, đi các nơi để truyền công, [nên] cần phí tổn. Trên toàn quốc,

học phí của chúng tôi đã là thấp nhất, trong khi những thứ chúng tôi cấp lại là nhiều nhất;

chúng tôi thật sự đưa con người lên cao tầng; điều này bản thân chư vị thể nghiệm được.

Là một học viên Pháp Luân Đại Pháp, tương lai chư vị [nếu] ra truyền công, đối với chư vị

chúng tôi có hai yêu cầu [như sau]:

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào

60

Yêu cầu thứ nhất là không được thu phí. Chúng tôi cấp cho chư vị nhiều thứ như thế,

không phải để chư vị phát tài, cầu danh, mà là để độ chư vị, để chư vị tu luyện. Nếu chư vị

thu phí, thì Pháp thân của tôi sẽ thu hồi lại toàn bộ tất cả những gì [đã từng cấp cho] chư

vị; như vậy, chư vị không còn là người của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi nữa, điều chư

vị truyền cũng không phải là Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi. Khi chư vị truyền công

thì không [được] cầu danh cầu lợi; [mà] tự nguyện phục vụ mọi người. Những học viên

của chúng tôi ở các nơi trên toàn quốc đều làm như thế, các phụ đạo viên mọi nơi cũng tự

họ làm gương. Đến học công của chúng tôi, chỉ cần chư vị muốn học, là chư vị đến học

thôi; chúng tôi có thể có trách nhiệm với chư vị; một xu cũng không lấy.

Yêu cầu thứ hai là không được trộn lẫn những gì của cá nhân vào trong Đại Pháp.

Trong quá trình truyền công, bất kể là thiên mục của chư vị đã khai mở cũng vậy, chư vị

đã nhìn thấy được gì cũng vậy, đã xuất được những công năng nào cũng vậy, chư vị không

được dùng những gì mình thấy mà giảng Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi. Một chút sự

tình mà chư vị ở nơi tầng ấy nhìn thấy được có thể quá sai khác, quá ư sai biệt so với hàm

nghĩa chân chính của Pháp mà chúng tôi giảng. Do vậy từ nay trở đi khi chư vị truyền

công, phải hết sức chú ý điều này; có như vậy mới có thể đảm bảo những gì nguyên gốc

của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi là bất biến.

Cũng không cho phép theo phương thức truyền công này của tôi, không cho phép

dùng hình thức mở lớp lớn giảng Pháp như tôi; chư vị không thể giảng Pháp. Bởi vì những

gì tôi giảng, ý nghĩa rất sâu xa, kết hợp với những điều tại cao tầng mà giảng. Chư vị tu

luyện tại các tầng khác nhau, trong tương lai sau khi chư vị đề cao [tầng], chư vị nghe lại

băng thâu âm này, chư vị sẽ không ngừng đề cao; chư vị không ngừng nghe, thì chư vị sẽ

cứ mãi có được lĩnh hội mới, có thu hoạch mới; đọc sách lại càng như vậy. Những lời tôi

giảng đã kết hợp với những điều rất cao thâm; do vậy chư vị không thể giảng được Pháp

này. Không cho phép chư vị dùng lời nói nguyên gốc của tôi mà nói thành lời của chư vị;

nếu không, đó chính là hành vi trộm Pháp. Chư vị chỉ có thể dùng lời nguyên gốc của tôi

mà giảng, [nói] thêm rằng Sư phụ đã giảng như vậy, rằng trong sách đã viết như vậy; chỉ

có thể nói như thế. Tại sao? Bởi vì một khi chư vị nói như thế, thì có mang theo lực lượng

của Đại Pháp. Chư vị không được dùng những điều mà chư vị hiểu biết để truyền như thể

là Pháp Luân Đại Pháp, nếu không, điều chư vị truyền không phải là Pháp Luân Đại Pháp,

[tức là] chư vị tương đương với phá hoại Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi. [Nếu] chư vị

chiểu theo cách nghĩ của mình, chiểu theo tư tưởng của mình mà giảng, thì đó không phải

là Pháp, không thể độ nhân, cũng không thể khởi bất kể tác dụng gì; do vậy, không ai có

thể giảng Pháp này.

Phương pháp truyền công của chư vị, chính là tại điểm luyện công, hoặc tại trường

truyền công mà bật băng tiếng, băng hình cho học viên; sau đó nhờ các phụ đạo viên dạy

họ [động tác] luyện công. Có thể chiểu theo hình thức hội thảo trao đổi: mọi người chia sẻ,

đàm luận với nhau, giảng cho nhau; chúng tôi yêu cầu thực hiện như vậy. Đồng thời,

không được gọi các học viên (đệ tử) truyền bá Pháp Luân Đại Pháp là Thầy, là Đại sư,

v.v.; Sư phụ trong Đại Pháp chỉ có một. Bất kể vào học trước hay sau cũng đều là đệ tử.

Khi chư vị truyền công, có thể có người nghĩ: 'Sư phụ có thể cài Pháp Luân, có thể vì

người mà điều chỉnh thân thể; [còn] chúng tôi làm không được'. Không sao; tôi đã giảng

cho mọi người rồi: đằng sau thân mỗi học viên đều có Pháp thân của tôi, mà không chỉ có

một [Pháp thân]; do đó Pháp thân của tôi sẽ làm những việc ấy. Khi chư vị dạy họ, nếu họ

có duyên phận, thì lúc ấy có thể đắc Pháp Luân. Nếu duyên phận còn kém chút ít, [thì] qua

điều chỉnh thân thể, rồi sau khi luyện công cũng dần dần có thể đắc [Pháp Luân]; Pháp

thân của tôi cũng sẽ giúp đỡ họ điều chỉnh thân thể. Không chỉ có vậy, tôi nói với chư vị

rằng, [nếu] đọc sách của tôi, xem băng hình của tôi, hoặc nghe băng tiếng của tôi mà học

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào

61

Pháp học công, [và] có thể tự hành xử như người luyện công, thì cũng sẽ đắc được những

gì đáng được đắc.

Chúng tôi cũng không cho phép học viên trị bệnh cho người khác; tuyệt đối cấm chỉ

học viên Pháp Luân Đại Pháp trị bệnh cho người khác. Chúng tôi dạy chư vị tu lên cao,

không cho phép chư vị khởi bất kể tâm chấp trước gì, cũng không cho phép chư vị tự mình

làm hỏng thân thể chính mình. Trường luyện công của chúng tôi là tốt hơn cả so với các

trường luyện công của các công pháp khác; chỉ cần chư vị đến luyện công tại trường này,

thì cũng tốt hơn nhiều so với điều [trị] bệnh của chư vị. Các Pháp thân của tôi ngồi thành

một vòng tròn, trên không úp trên trường luyện công có Pháp Luân lớn, [và] Pháp thân lớn

ở trên nắp trông coi trường này. Trường này không phải là một trường bình thường, không

phải là một trường luyện công bình thường, mà là một trường tu luyện. Chúng ta có rất

nhiều người có công năng đã thấy được trường này của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi,

che phủ bằng ánh sáng đỏ, toàn là màu đỏ.

Pháp thân của tôi có thể trực tiếp cài Pháp Luân; nhưng chúng ta chớ có phát triển tâm

chấp trước. Khi chư vị dạy họ động tác, họ [có thể] nói: 'Ái chà, tôi được Pháp Luân rồi'.

Chư vị [có thể] tưởng rằng chư vị cài [Pháp Luân], [thực ra] không phải. Tôi nói cho mọi

người điều này: chớ có phát triển tâm chấp trước ấy; đó đều là do Pháp thân của tôi làm.

Các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp chúng ta đều truyền công như vậy.

Ai mà thay đổi công pháp trong Pháp Luân Đại Pháp, đều chính là phá hoại Đại Pháp,

phá hoại pháp môn này. Có người lấy công pháp này biến thành văn vần; điều này tuyệt

đối không được phép. Các phương pháp tu luyện chân chính đều được lưu lại từ thời kỳ

tiền sử, được lưu lại từ những niên đại vô cùng xa xưa, đã tu luyện xuất lai vô số Đại Giác

Giả. Không ai dám động đến [thay đổi] chúng dẫu chỉ một chút; chỉ là vào thời kỳ mạt

Pháp chúng ta mới có thể xuất hiện những việc như thế. Trong lịch sử không hề xuất hiện

những việc như vậy; mọi người phải hết sức chú ý đến điểm này.

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào

62

Bài giảng thứ tư

Mất và được

Trong giới tu luyện thường bàn về quan hệ giữa mất và được1; nơi người thường cũng

hay bàn về quan hệ giữa mất và được. Người luyện công chúng ta đối với 'mất và được'

như thế nào? Nó khác với người thường; điều người thường muốn được chính là lợi ích cá

nhân, [sống] sao được tốt, được thoải mái. Nhưng người luyện công chúng ta không thế,

mà hoàn toàn trái lại: chúng ta không mong truy cầu những gì người thường muốn được,

nhưng chỗ mà chúng ta được thì người thường có muốn cũng không thể được, trừ phi [họ]

tu luyện.

Cái 'mất' mà chúng ta thường nói đến, cũng không phải là 'mất' theo phạm vi rất nhỏ.

Khi nói đến 'mất', có người nghĩ: Phải chăng là bố thí tiền tài, thấy người gặp khó khăn

thì giúp một chút, thấy người ăn xin ngoài đường thì cho một chút. Đó cũng là một thứ

'xả', cũng là một thứ 'mất'; nhưng trong vấn đề này thì đó chỉ là coi nhẹ bạc tiền hoặc vật

chất. Vứt bỏ đối với [tiền] tài ấy, đương nhiên đó cũng là một phương diện, cũng là một

phương diện tương đối chủ yếu. Nhưng cái 'mất' mà chúng tôi giảng không phải [theo]

phạm vi nhỏ ấy; chúng ta trong quá trình tu luyện, thì những tâm mà một người tu luyện

cần vứt bỏ là rất nhiều: tâm hiển thị, tâm tật đố, tâm tranh đấu, tâm hoan hỷ; rất nhiều các

loại tâm chấp trước đều phải vứt bỏ hết. Cái mất mà chúng tôi giảng là [cái mất] theo

nghĩa rộng: trong toàn bộ quá trình tu luyện, cần phải 'mất' đi tất cả các chủng chấp trước,

các chủng dục vọng của người thường.

Có thể có người nghĩ: 'Chúng ta tu luyện nơi người thường, cái 'mất' ấy phải chăng

giống như hoà thượng? Phải chăng giống như ni cô? [Nếu] mất đến như thế, thì dường

như không thực hiện nổi'. Pháp môn này của chúng tôi, [đối với] bộ phận tu luyện này nơi

người thường, yêu cầu là tu luyện tại xã hội người thường, [cần] duy trì đến mức độ tối đa

sao cho giống với người thường; không để chư vị thật sự mất đi bất kể thứ gì nơi lợi ích

vật chất. Chư vị làm quan chức to đến mấy cũng không ngại, chư vị có nhiều tiền tài đến

mấy cũng không ngại; [điều] then chốt là ở chỗ chư vị có thể vứt bỏ cái tâm kia không.

Pháp môn này của chúng tôi chính là trực chỉ nhân tâm; ở nơi lợi ích cá nhân, gặp khi

mâu thuẫn giữa người với người, thì liệu có thể coi thường coi nhẹ những chuyện ấy được

hay không-đây là vấn đề then chốt. Tu luyện trong chùa và tu luyện trong núi sâu rừng

già yêu cầu chư vị hoàn toàn cách biệt với xã hội người thường, cưỡng chế chư vị mất đi

cái tâm nơi người thường, không để chư vị đắc được những lợi ích vật chất; từ đó chư vị

mất [chúng]. Những người tu luyện nơi người thường không theo [cách] ấy; yêu cầu chính

là trong trạng thái sinh hoạt của người thường kia mà coi nhẹ chúng; nó đương nhiên rất

khó, nó cũng là vấn đề then chốt nhất của pháp môn này của chúng tôi. Do vậy cái 'mất'

mà chúng tôi giảng là [cái mất] với nghĩa rộng chứ không phải [cái mất] với nghĩa hẹp.

Chúng ta hãy thử giảng về làm điều tốt, [và] bố thí tiền tài; chư vị thấy những người ăn xin

ngoài đường hiện nay, có một số họ là ăn xin chuyên nghiệp, họ có nhiều tiền hơn cả chư

vị. Chúng ta cần để mắt tới những chuyện lớn, chứ không phải để mắt đến những chuyện

nhỏ. Tu luyện ấy, nên nhìn đến những việc lớn một cách đường đường chính chính mà tu

luyện. Chúng ta trong quá trình mất ấy, thì những điều mà chúng ta thực sự mất chính là

những thứ không tốt kia vậy.

Người ta thường cho rằng những điều mình truy cầu đều là tốt; kỳ thực tại cao tầng

mà xét, thì đều là để thoả mãn chút đỉnh lợi ích vốn đã có được nơi người thường. Trong

tôn giáo giảng: Chư vị có tiền nhiều đến mấy, làm quan to đến đâu cũng chỉ là mấy chục

1Thất: mất; đắc: được.

Mất và được

63

năm, khi sinh chẳng đem đến, khi tử chẳng mang theo. Cái công này tại sao quý giá vậy?

Chính vì nó tăng trưởng trên thân nguyên thần của chư vị, khi sinh đem đến được, khi tử

mang theo được; hơn nữa nó quyết định trực tiếp quả vị của chư vị; do đó tu được không

dễ. Nghĩa là, những gì chư vị vứt bỏ đều là những thứ không tốt, có như vậy chư vị mới có

thể phản bổn quy chân. Vậy những thứ 'được' là gì? Chính là đề cao tầng, cuối cùng đắc

chính quả, công thành viên mãn, giải quyết được vấn đề căn bản. Tất nhiên chúng ta muốn

mất đi các dục vọng người thường, để có thể đạt đến tiêu chuẩn của người tu luyện chân

chính; [nhưng] lập tức làm được thì không hề dễ dàng, từ từ mà làm mới được. Chư vị

nghe tôi nói từ từ mà làm, chư vị liền nói: 'Sư phụ bảo rằng từ từ mà làm, vậy từ từ mà

làm'. Không thể được! Chư vị phải có yêu cầu thật nghiêm khắc đối với bản thân mình;

nhưng chúng tôi cho phép chư vị đề cao một cách từ từ. Hôm nay chư vị lập tức làm được,

thì hôm nay chư vị là Phật; do vậy cũng không hiện thực; chư vị sẽ làm được điều này một

cách từ từ.

Điều chúng ta mất thực sự là những điều không tốt, chúng là gì? Chính là nghiệp lực;

nó tương phụ tương thành với các chủng tâm của con người. Ví như nói rằng những người

thường chúng ta có các chủng tâm không tốt, chỉ vì lợi ích cá nhân mà làm những điều

không tốt, vậy sẽ nhận phải loại vật chất màu đen-nghiệp lực. Điều này có quan hệ trực

tiếp đến những tâm của bản thân chúng ta; nếu muốn vứt bỏ những thứ không tốt ấy, thì

đầu tiên chư vị cần thay đổi cái tâm kia mới được.

Chuyển hoá nghiệp lực

Giữa vật chất màu trắng và vật chất màu đen có một quá trình chuyển hoá. Sau khi

mâu thuẫn phát sinh giữa người với người, thì nó có một quá trình chuyển hoá. Làm điều

tốt thì nhận vật chất màu trắng-đức; làm điều xấu thì nhận vật chất màu đen-nghiệp

lực. Còn có một quá trình truyền thừa; có vị nói rằng có phải vì nửa đời trước đây đã từng

làm điều không tốt? Cũng không hẳn như vậy; bởi vì nghiệp lực con người ta tích lại là

không phải chỉ trong một đời. Giới tu luyện giảng rằng nguyên thần bất diệt. Nếu nguyên

thần bất diệt, thì nó có thể có những hoạt động xã hội tại đời trước, như thế trong hoạt

động của đời trước nó có thể đã mắc nợ ai đó, nạt dối ai đó, hoặc giả phạm những điều

không tốt khác, như sát sinh, v.v.; như thế tạo thành nghiệp lực. Những thứ ấy, tại không

gian khác, tích lại về sau; [người ta] luôn mang chúng theo; vật chất màu trắng cũng lại

như thế; nhưng không chỉ có một nguồn ấy. Còn một tình huống: trong gia tộc và từ tổ tiên

có thể tích lại [những thứ ấy]. Những người già trong quá khứ giảng câu này: 'hãy tích

đức hãy tích đức; tổ tiên tích đức; người kia thất đức, tổn đức'. Những câu này giảng hết

sức đúng. Con người hiện nay đã không còn nghe [theo] lời ấy nữa; chư vị mà nói với một

số thanh niên về mất đức hay thiếu đức, họ sẽ hoàn toàn chẳng để tâm. Thực ra ý nghĩa

của [những câu] này thật vô cùng sâu sắc; [đức] ấy không chỉ là tiêu chuẩn tư tưởng và

tinh thần của con người cận đại, mà nó thật sự là tồn tại vật chất; trên thân thể chúng ta

đều có hai chủng vật chất [đức và nghiệp] này.

Có người nói: 'Phải chăng khi vật chất màu đen nhiều quá, thì không thể tu luyện lên

cao tầng?' Có thể nói như thế; người có nhiều vật chất màu đen, nó ảnh hưởng đến ngộ

tính. Vì nó hình thành một trường quanh thân thể chư vị, chính là bao bọc chư vị vào

trong; tách khỏi đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ; do vậy ngộ tính của loại người này

có thể kém hơn. Người ta giảng về tu luyện, về khí công, thì họ một mực coi là mê tín,

hoàn toàn không tin; họ cho rằng thật khôi hài. Thường là như vậy; nhưng không tuyệt

đối. Cá nhân ấy phải chăng khó mà tu luyện nổi, không thể tăng công cao lên được? Cũng

không phải thế; chúng tôi giảng Đại Pháp vô biên; [hoàn] toàn dựa vào cái tâm của chư vị

mà tu. Sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân; hoàn toàn [dựa] xem bản thân chư vị tu

ra sao. Có thể tu được không hoàn toàn [dựa] xem chư vị có thể nhẫn chịu không, có thể

Chuyển hoá nghiệp lực

64

phó xuất không, có thể chịu khổ không. Nếu dốc lòng quyết tâm, khó khăn nào cũng

không ngăn được, [thì] tôi nói rằng, [nó sẽ] không thành vấn đề.

Người có nhiều vật chất màu đen, thường phải phó xuất nhiều hơn người có nhiều vật

chất màu trắng. Bởi vì vật chất màu trắng đồng hoá trực tiếp với đặc tính Chân Thiện

Nhẫn của vũ trụ, nên chỉ cần tâm tính của họ đề cao lên, có thể đề cao bản thân qua những

mâu thuẫn, thì họ sẽ tăng công; nó nhanh gọn như thế. Người nhiều đức ngộ tính cao;

cũng có thể chịu khổ, nhọc cái gân cốt, khổ cái tâm chí; ngay cả chịu đựng nhiều về

phương diện thân thể mà chịu đựng ít về tinh thần, [họ] vẫn có thể tăng công. Người có

nhiều vật chất màu đen không như thế được; trước hết phải qua một quá trình thế này: đầu

tiên [phải] chuyển hoá vật chất màu đen thành vật chất màu trắng; chính là quá trình ấy,

[nó] cực kỳ thống khổ. Do đó người có ngộ tính không tốt thường chịu khổ nhiều; nghiệp

lực lớn, ngộ tính kém, họ tu luyện thật không hề dễ dàng.

Lấy một ví dụ cụ thể, chư vị thử xem họ tu luyện thế nào. Tu luyện yêu cầu [ngồi] xếp

bằng thật lâu khi thiền định; hễ xếp bằng là vừa đau vừa khó chịu; hễ kéo dài thời gian

thêm, thì tâm náo [loạn], náo [loạn] ghê gớm. Nhọc cái gân cốt, khổ cái tâm chí; thân thể

chẳng thoái mái, tâm cũng chẳng thoải mái. Một số vị [ngồi] xếp bằng lại sợ đau, liền tháo

ra mà chẳng kiên trì. Một số vị vừa xếp bằng lâu một chút, là không chịu được. Liền tháo

[chân] ra; luyện [cũng] như không. Xếp bằng hễ đau một cái, liền vội hoạt động hoạt động

rồi lại xếp bằng tiếp; chúng tôi thấy không có tác dụng. Bởi vì khi chân họ đau, chúng tôi

thấy vật chất màu đen đang [tấn] công xuống chân họ. Vật chất màu đen chính là nghiệp

lực; chịu khổ có thể tiêu nghiệp, từ đó chuyển hoá thành đức. Khi [bắt đầu] đau chính là

nghiệp lực bắt đầu bị tiêu; nghiệp lực càng chuyển áp [lực] xuống nhiều, thì chân họ lại

càng đau ghê gớm; do vậy cái đau ở chân họ không phải là vô duyên vô cớ. Thông thường

người ngồi đả toạ chân chịu đau một trận, một trận đau đến, vô cùng khó chịu; rồi lại

ngưng; sau một lúc lại bắt đầu đau nhức trở lại; thông thường như vậy.

Bởi vì nghiệp tiêu theo từng cục từng cục; sau khi một cục bị tiêu thì thấy chân đỡ

hơn; một lúc lại một cục nữa đến, thì lại bắt đầu đau. Sau khi vật chất màu đen này tiêu đi,

thì [nó] không tản mất-vật chất này bất diệt-sau khi tiêu rồi thì [nó] trực tiếp chuyển

hoá thành vật chất màu trắng; vật chất màu trắng này chính là đức. Tại sao nó có thể

chuyển hoá như vậy? Bởi vì họ đã chịu khổ, đã phó xuất, đã chịu thống khổ. Chúng tôi

giảng, [khi] bản thân chịu thống khổ, chịu khổ, làm điều tốt [thì] đức đến; do đó trong khi

thiền đả toạ thì xuất hiện vấn đề này. Có người chân vừa đau một cái là dựng ngay dậy,

hoạt động hoạt động rồi lại xếp bằng tiếp; hoàn toàn không có tác dụng. Có người tập trạm

trang, các bắp tay mỏi, chịu không được, liền hạ xuống; hoàn toàn không có tác dụng. Một

chút khổ ấy có đáng kể gì? Tôi nói rằng [nếu] chư vị luyện công dơ tay như thế mà tu

thành được thì đúng là quá ư dễ dàng. Đây là tình huống xuất hiện trong khi người ta thiền

định.

Pháp môn chúng ta chủ yếu không theo cách ấy, mặc dù một phần cũng có tác dụng

theo phương diện này. Chúng ta phần lớn là trong khi xung đột tâm tính giữa người với

người mà chuyển hoá nghiệp lực; thông thường nó thể hiện tại đây. Con người ở trong

mâu thuẫn, trong xung đột giữa người với người như vậy thì thậm chí vượt quá cả thống

khổ loại kia. Tôi nói rằng thống khổ trên thân thể là dễ chịu đựng nhất, cắn răng là vượt

qua được. Trong lúc lục đục giữa người với người, thì cái tâm kia mới thật là khó giữ

vững nhất.

Ví dụ, như có người kia, vừa đến cơ quan liền nghe thấy hai người khác nói lời xấu về

mình, nói rất khó nghe, liền cảm thấy rất bực mình. Tuy nhiên chúng tôi đã giảng rằng, là

một người luyện công, thì cần làm được 'đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu', dùng tiêu

chuẩn cao mà yêu cầu bản thân. Người ấy liền nghĩ: 'Sư phụ đã dặn rồi, người luyện công

chúng mình chẳng giống như người ta, cần có phong thái cao [mới được]'. Người ấy bèn

Chuyển hoá nghiệp lực

65

không tranh cãi với hai vị kia. Tuy nhiên thường khi mâu thuẫn đến, [nếu] chẳng làm kích

động đến tâm linh người ta, [thì] không đáng kể, không tác dụng, không đề cao được. Do

đó tâm chẳng dứt được, tâm bứt rứt; có thể tâm [người ấy] vẫn đeo đuổi, vẫn muốn quay

đầu lại coi mặt hai vị kia đang nói lời xấu về mình. Quay đầu lại ngó một cái, thấy nét mặt

hai vị kia thể hiện thật quá ác, đang nói đúng lúc bốc lửa nhất; người này lập tức chẳng

chịu được nữa, hoả khí liền bốc lên, có thể lập tức gây sự với người ta. Khi phát sinh mâu

thuẫn giữa người với người, cái tâm ấy rất khó giữ vững. Tôi nói rằng [nếu] đều trải qua

trong ngồi đả toạ, thì dễ quá; tuy nhiên không phải đều như vậy.

Do vậy sau này khi luyện công, chư vị sẽ gặp các dạng các loại ma nạn. Không có

những ma nạn ấy hỏi chư vị tu ra sao? Mọi người ai với ai cũng tốt, không có xung đột về

lợi ích, không có can nhiễu nhân tâm, chư vị ngồi nơi kia [hỏi] tâm tính đề lên cao là sao?

Như thế không thể được. Con người phải qua thực tế mà thật sự 'ma luyện' bản thân mới

có thể đề cao lên. Có người nói: 'Chúng ta luyện công vậy sao vẫn cứ gặp những chuyện

phiền phức thế này? Chẳng khác mấy so với những phiền phức nơi người thường.' Bởi vì

chư vị tu luyện ngay tại nơi người thường, họ không thể đột nhiên đưa chư vị quay đầu

xuống đất, phiêu đãng lơ lửng trên kia, để chư vị chịu khổ trên trời được; nó không thể

như thế được. [Tất cả] đều [phải] là trạng thái nơi người thường: hôm nay có ai đó sinh

chuyện với chư vị, ai đó làm chư vị bực mình, ai đó xử tệ với chư vị, đột nhiên nói lời bất

kính với chư vị; chính là để xem chư vị đối đãi với vấn đề này như thế nào.

Tại sao lại gặp những vấn đề này? [Đó] đều là nghiệp lực mà bản thân chư vị mắc nợ

tạo thành; chúng tôi đã giúp chư vị tiêu trừ vô số phần rồi. Chỉ còn lại một chút được phân

chia tại giữa mỗi tầng, để đề cao tâm tính của chư vị, thiết lập một số ma nạn để 'ma

luyện' tâm của chư vị và vứt bỏ các chủng chấp trước. Đây đều là [khó] nạn của bản thân

chư vị; nhưng chúng tôi lợi dụng chúng để đề cao tâm tính của chư vị; đều có thể để chư

vị vượt qua được. Chỉ cần chư vị đề cao tâm tính, thì có thể vượt qua; chỉ e bản thân chư

vị không muốn vượt qua; muốn vượt qua thì vượt qua được. Do đó sau này khi gặp mâu

thuẫn, chư vị không được coi đó là ngẫu nhiên. Bởi vì khi xảy ra mâu thuẫn, [nó] đột

nhiên xuất hiện; tuy vậy [nó] không hề tồn tại [một cách] ngẫu nhiên; đó là để đề cao tâm

tính chư vị. Chỉ cần chư vị coi mình là người luyện công, chư vị sẽ có thể xử lý chúng

được tốt.

Tất nhiên, những khó khăn và mâu thuẫn sẽ không được báo trước cho chư vị; [nếu]

nói cho chư vị biết hết, thì chư vị còn tu gì nữa? Chúng sẽ không có tác dụng. Thông

thường chúng đột nhiên xuất hiện, [như thế] mới có thể khảo nghiệm tâm tính con người,

mới có thể làm cho tâm tính con người thật sự đề cao lên, coi xem có thể giữ vững tâm

tính hay không, vậy mới có thể xem rõ được; do đó những mâu thuẫn xảy đến không hề

tồn tại ngẫu nhiên. Trong toàn bộ quá trình tu luyện, khi nghiệp lực chuyển hoá sẽ xuất

hiện vấn đề này; chúng khó hơn rất nhiều so với việc 'nhọc cái gân cốt' như người bình

thường chúng ta vẫn tưởng tượng. Chư vị luyện luyện công, luyện nhiều hơn một chút, tay

giơ lên phát mỏi, hoặc chân đứng phát run, vậy hỏi có tăng công; chư vị luyện thêm vài

giờ hỏi có thể tăng công? Nó chỉ có tác dụng chuyển hoá bản thể thôi, nhưng vẫn cần năng

lượng để gia trì; nó không có tác dụng đề cao tầng. 'Khổ cái tâm chí' mới là then chốt đề

cao tầng thực sự. Nếu nói 'nhọc cái gân cốt' là có thể đề cao lên được, thì tôi nói rằng

nông dân Trung Quốc khổ nhất, [phải chăng họ] đều nên được làm đại khí công sư? Chư

vị nhọc cái gân cốt đến mấy cũng không thể như họ, vốn hàng ngày làm việc [ngoài đồng]

dưới nắng gắt, vừa khổ vừa mệt; không phải việc đơn giản như thế. Vậy như tôi đã giảng,

muốn thật sự đề cao, thì phải thật sự đưa cái tâm này lên cao, thế mới có thể đề cao một

cách chân chính.

Khi nghiệp lực đang trong quá trình chuyển hoá, để có thể giữ vững bản thân-chứ

không biểu hiện như người thường vốn hay làm sự tình tệ hơn-thì bình thường chúng ta

Chuyển hoá nghiệp lực

66

[luôn] phải bảo trì tâm từ bi, tâm thái hoà ái. Khi đột nhiên gặp một vấn đề nào đấy, thì

chư vị sẽ có thể xử lý nó được tốt. [Nếu] thông thường toàn tâm của chư vị luôn hoà ái từ

bi như thế, [thì] khi đột nhiên xuất hiện vấn đề, chư vị sẽ có thêm một khoảng hoà hoãn,

[để] cân nhắc thêm. [Còn nếu] trong tâm cứ luôn nghĩ đến tranh [đấu] với người khác, đấu

[tranh] này khác, [thì] tôi nói rằng hễ gặp vấn đề là chư vị liền gây sự với người ta; đảm

bảo là như vậy. Do đó [khi] chư vị gặp mâu thuẫn nào đấy, [thì] tôi nói rằng [đó] là để vật

chất màu đen của bản thân chư vị chuyển hoá thành vật chất màu trắng, chuyển hoá thành

đức.

Nhân loại chúng ta phát triển cho đến mức độ như ngày nay, hầu như ai ai cũng đến1

trong nghiệp cuộn lấy nghiệp; trên thân người có nghiệp lực rất lớn. Do đó trong vấn đề

chuyển hoá nghiệp lực thường hay xuất hiện tình huống này: chư vị vừa đồng thời tăng

công, vừa đồng thời đề cao tâm tính, nghiệp lực của chư vị cũng đồng thời tiêu, đồng thời

chuyển hoá. Khi gặp mâu thuẫn, thì có thể biểu hiện [là] trong khi 'ma luyện' tâm tính

giữa người với người, [nếu] chư vị có thể nhẫn chịu được, [thì] nghiệp lực của chư vị cũng

tiêu, tâm tính của chư vị cũng đề cao, công của chư vị cũng tăng lên; chúng dung hợp

cùng nhau như thế. Con người trong quá khứ có đức lớn, tâm tính của họ ban đầu là cao;

[họ] chỉ cần chịu một chút khổ thì có thể tăng công. Con người hiện tại không như thế, hễ

chịu khổ một cái là không muốn tu; hơn nữa [họ] càng ngày càng không ngộ, [nên] lại

càng khó tu.

Trong tu luyện, khi đối xử với các mâu thuẫn cụ thể, khi người khác đối xử với chư vị

không tốt, có thể có tồn tại hai loại tình huống: một là chư vị tại đời trước có thể đã đối xử

không tốt với người ta; trong tâm chư vị thấy bất bình: 'Cớ chi đối xử với tôi như vậy?'

Nhưng tại sao trước đây chư vị đối xử với người ta như thế? Chư vị nói rằng chư vị đâu có

biết được lúc ấy, rằng đời này đâu liên quan gì với chuyện của đời kia; [suy nghĩ] thế

không được. Còn có một vấn đề nữa, trong lúc mâu thuẫn, thì có động chạm đến vấn đề

chuyển hoá nghiệp lực; do đó chúng ta khi đối xử [với trường hợp] cụ thể, cần phải có

phong thái cao, chứ không như người thường. Tại đơn vị [công tác], tại các hoàn cảnh

công tác khác cũng lại như thế; [kinh doanh] cá thể cũng thế, cũng có giao tiếp người với

người; không thể không có tiếp xúc với xã hội; tối thiểu cũng có quan hệ hàng xóm.

Trong các giao tiếp xã hội, sẽ gặp các dạng các loại mâu thuẫn. Bộ phận tu luyện [tại]

người thường chúng ta, bất kể chư vị có bao nhiêu tiền, làm quan [chức] to đến mấy, chư

vị làm kinh doanh cá thể, mở công ty, làm doanh nghiệp gì đi nữa, thì cũng không hề gì;

[hãy] giao dịch công bằng, giữ tâm cho chính. Các ngành nghề trong xã hội nhân loại đều

nên tồn tại; ấy là do nhân tâm không chính, chứ không phải do làm nghề gì. Có câu thuyết

trong quá khứ, kiểu như: "mười người buôn chín kẻ gian"; ấy là người thường nói thế; tôi

nói rằng đây là vấn đề 'nhân tâm'. Nếu nhân tâm được giữ cho chính, giao dịch công

bằng, [thì] chư vị phó xuất nhiều đến đâu sẽ nên kiếm được tiền nhiều đến đó; ấy là vì ở

nơi người thường chư vị phải phó xuất rồi mới được, 'bất thất bất đắc', [đây là] cái được

nhờ lao động. Mỗi giai tầng đều có thể làm người tốt, các giai tầng khác nhau có tồn tại

các mâu thuẫn khác nhau. Giai tầng cao có hình thức mâu thuẫn của giai tầng cao, đều có

thể đối xử thích hợp với các mâu thuẫn; tại giai tầng nào cũng làm người tốt, đều có thể

coi nhẹ các chủng dục vọng, [và] tâm chấp trước. Tại các giai tầng khác nhau đều có thể

thể hiện là người tốt; đều có thể tu luyện ngay tại giai tầng của mình.

Nước ta hiện nay bất kể là trong doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp khác,

mâu thuẫn giữa người với người là cực kỳ đặc biệt. Tại nước khác, trong lịch sử xưa nay

không có hiện tượng này; do đó mâu thuẫn về lợi ích thể hiện ra hết sức gay gắt; lục đục

căng thẳng, tranh đấu chỉ vì chút lợi nhỏ; những tư tưởng xuất hiện, những chiêu thuật sử

dụng đều rất xấu; làm người tốt thật khó. Ví như cá nhân kia đi đến đơn vị [công tác], liền

1Hiểu là ai ai cũng sinh ra...

Chuyển hoá nghiệp lực

67

nhận thấy không khí tại đơn vị rất không bình thường. Sau đó có người bảo rằng: một

người kia đã công khai nói xấu chư vị, tố cáo chư vị với lãnh đạo, làm chư vị rất mất mặt.

Những người khác đều nhìn chư vị với cặp mắt kỳ dị. Người bình thường đâu chịu nhịn

việc này? Làm sao nén nổi tức giận đây? "Hắn chơi tôi, [thì] tôi chơi hắn. Hắn có người

[ủng hộ], tôi cũng có người [ủng hộ]; xử lý nhau thôi." Ở nơi người thường, [nếu] làm thế,

thì người thường sẽ nói chư vị là người mạnh mẽ. Tuy nhiên là một người luyện công, thì

như thế là quá dở. Chư vị cũng tranh cũng đấu giống như người thường, thì chư vị chính là

người thường; nếu chư vị còn hơn cả hắn, thì chư vị lại còn chẳng bằng người thường như

hắn.

Chúng ta đối xử với vấn đề này thế nào? Khi gặp mâu thuẫn kiểu này, chư vị đầu tiên

nên phải bình tĩnh, không nên đối xử giống như hắn. Tất nhiên chúng ta có thể giải thích

một cách có thiện ý; nói rõ sự việc thì không hề gì; tuy nhiên chư vị chấp trước quá thì

không được. Khi chúng ta gặp phải những chuyện phiền phức như thế, thì [chúng ta]

không được giống như người ta mà tranh mà đấu. Họ làm sao, chư vị cũng làm vậy, thì

chư vị chẳng phải người thường là gì? Chư vị không những không giống hắn mà tranh mà

đấu, mà trong tâm chư vị phải không hận hắn, thật sự không thể hận hắn. Một khi chư vị

hận hắn, thì chẳng phải chư vị tức giận là gì? Chư vị chưa thực hiện được 'Nhẫn'. Chúng

tôi giảng Chân Thiện Nhẫn; 'Thiện' của chư vị cũng chẳng còn có nữa. Do đó chư vị

không thể theo giống như hắn, chư vị thật sự không thể tức giận hắn, ngay cả khi hắn làm

chư vị rất mất mặt, không cất đầu lên được. Chư vị không những không tức giận hắn, mà

trong tâm chư vị còn nên cảm ơn hắn, thật sự cảm ơn hắn. Tại người thường có thể nghĩ:

'Chẳng đúng A-Q là gì?' Chúng tôi nói với chư vị, rằng không phải vậy.

Mọi người thử nghĩ xem, chư vị là người luyện công, cần dùng tiêu chuẩn cao để yêu

cầu chư vị phải không? Không thể dùng [đạo] lý của người thường mà yêu cầu chư vị.

Chư vị là người tu luyện, điều chư vị được chẳng phải là những thứ ở cao tầng là gì? Vậy

cần dùng [Pháp] lý cao tầng để yêu cầu chư vị. [Nếu] chư vị hành xử giống hắn, thì chẳng

phải chư vị cũng như hắn? Vậy, cớ gì phải cảm ơn hắn? Chư vị thử nghĩ xem, hỏi chư vị

được những gì? Trong vũ trụ này có một [Pháp] lý, gọi là 'bất thất giả bất đắc, đắc tựu đắc

thất'. Nơi người thường hắn đã làm chư vị rất mất mặt; vậy hắn tính là bên được, hắn

chiếm được tiện nghi. Hắn càng làm chư vị mất mặt, ảnh hưởng càng mạnh mẽ, [thì] bản

thân chư vị chịu đựng càng lớn, [và] đức mà hắn tổn thất càng nhiều; chỗ đức ấy đều cấp

cho chư vị. Đồng thời khi bản thân chư vị chịu đựng, chư vị có thể vứt bỏ tâm thật nhẹ

nhàng, chẳng để nó trong tâm.

Trong vũ trụ này còn có một [Pháp] lý: chư vị đã chịu đựng thống khổ rất lớn, vậy

nên nghiệp lực tự thân của chư vị cũng phải được chuyển hoá. Bởi vì chư vị đã phó xuất;

chịu đựng lớn đến đâu, chuyển hoá lớn đến đó; đều biến thành đức. Người luyện công

chẳng phải muốn đức ấy là gì? Chẳng phải chư vị lưỡng đắc1; nghiệp lực cũng được tiêu

trừ. Nếu hắn không tạo hoàn cảnh ấy cho chư vị, thì chư vị làm sao đề cao tâm tính được?

Chư vị [đối đãi tôi] tốt, tôi cũng [đối đãi chư vị] tốt, tất cả hoà ái ngồi đây rồi sẽ tăng

công; lẽ nào có chuyện ấy? Chính là vì hắn tạo cho chư vị mâu thuẫn như vậy, tạo ra cơ

hội đề cao tâm tính, [nên] chư vị mới từ trong đó mà có thể đề cao tâm tính của mình; tâm

tính chư vị chẳng phải đã đề cao lên là gì? Tam đắc. Chư vị là người luyện công, tâm tính

chư vị nâng lên thì công của chư vị chẳng phải cũng nâng lên? Nhất cử tứ đắc. Chẳng phải

chư vị nên cảm tạ người ta? Trong tâm chư vị phải hết mực cảm ơn người ta, thật sự là

như vậy.

Tất nhiên, hắn đã xuất ra tâm không tốt, nếu không đã không cấp đức cho chư vị,

nhưng thật sự hắn đã tạo ra một cơ hội cho chư vị đề cao tâm tính của mình. Vậy cũng nói,

1Lưỡng đắc: được cả đôi đường; tam đắc: được cả ba đường; nhất cử tứ đắc: một hành động được cả bốn đường

tiện lợi.

Chuyển hoá nghiệp lực

68

chúng ta nhất định phải coi trọng tu luyện tâm tính; khi tu luyện tâm tính [thì] đồng thời

tiêu trừ nghiệp lực, chuyển hoá thành đức, chư vị mới có thể đề cao tầng; chúng tương phụ

tương thành cho nhau. Lên đến cao tầng mà xét, thì các [Pháp] lý [nơi người thường] đều

thay đổi. Người thường không hiểu rõ những việc này; [khi] chư vị lên cao tầng mà xét

những [Pháp] lý, thì mọi thứ đều đã thay đổi. Ở nơi người thường chư vị cho rằng [đạo] lý

này là đúng, nhưng nó không thật sự đúng. Lên cao tầng mà xét thì mới thật sự đúng;

thông thường là như vậy.

Tôi đã giảng thấu [Pháp] lý cho chư vị rồi; hy vọng rằng trong tu luyện sau này, mọi

người có thể tự coi mình là người luyện công, tu luyện một cách chân chính, vì [Pháp] lý

này đã được [trình] bày ở đây rồi. Có thể một số người, vì họ ở nơi người thường, nên họ

cho rằng lợi ích vật chất rõ ràng thực tại kia của người thường mới là lợi ích thiết thực.

Trong dòng chảy lớn người thường, họ không thể lấy tiêu chuẩn cao mà yêu cầu bản thân.

Kỳ thực, [về việc] làm người tốt nơi người thường [thì] đã có những nhân vật anh hùng

mô phạm làm khuôn mẫu; đó là khuôn mẫu nơi người thường. Nếu chư vị muốn làm

người tu luyện, thì hoàn toàn dựa vào cái tâm của mình mà tu, toàn dựa vào bản thân mà

ngộ, không hề có khuôn mẫu. May thay hôm nay chúng tôi đã giảng rộng Đại Pháp; trong

quá khứ [nếu] chư vị muốn tu, nhưng không ai giảng [dạy]. Như thế này chư vị chiểu theo

Đại Pháp mà thực hiện thì sẽ thực hiện tốt hơn; có thể tu hay không, có thể hành hay

không, đột phá lên đến tầng nào, hoàn toàn dựa vào bản thân chư vị.

Tất nhiên, hình thức chuyển hoá nghiệp lực cũng không hoàn toàn giống [hệt] như tôi

vừa giảng; cũng sẽ [có] biểu hiện tại các phương diện khác. Ngoài xã hội, ở gia đình đều

xuất hiện. Đi ngoài đường, hoặc trong các hoàn cảnh xã hội khác, đều cũng có thể gặp

chuyện phiền phức. Cần làm cho chư vị vứt bỏ những tâm nào mà chưa vứt bỏ được ở nơi

người thường. Tất cả các tâm chấp trước, miễn là chư vị có, thì cần phải vứt bỏ tại các

chủng hoàn cảnh [khác nhau]. [Sẽ] làm cho chư vị trượt ngã, từ đó mà ngộ Đạo; tu luyện

là như thế.

Còn có một tình huống khá điển hình: có rất nhiều người chúng ta trong quá trình tu

luyện, thông thường khi chư vị luyện công, thì ái nhân của chư vị đặc biệt không ưng ý;

một khi chư vị luyện công, liền gây sự [đánh lộn] với chư vị. Chư vị làm việc khác, thì họ

không quan tâm. Chẳng hạn chư vị đam mê chơi mạt chược mất bao nhiêu thời gian, thì

họ cũng khó chịu, nhưng không như [việc] luyện công. Chư vị luyện công đâu có can hệ gì

đến họ; rèn luyện thân thể, không ảnh hưởng đến họ, và là tốt. Nhưng hễ chư vị luyện

công, họ liền quăng đồ gây sự với chư vị. Có người chỉ vì luyện công, [mà] cãi nhau đến

mức ly hôn. Rất nhiều người đã không nghĩ thử xem tại sao lại xuất hiện tình huống này?

Sau này chư vị hỏi họ: 'Cớ sao tôi luyện công thì mình lại khó chịu nóng nảy đến thế?' Họ

không nói được gì, thật sự không nói được gì: 'Thế à, tôi không nên nóng thế, nhưng lúc

ấy phát hoả ghê quá'. Thực ra là chuyện vì sao? Khi luyện công thì đồng thời nghiệp lực

cần chuyển hoá, bất thất giả bất đắc, điều mất cũng là điều xấu; chư vị cần phải phó xuất.

Có thể vừa vào đến cửa nhà, ái nhân của chư vị liền cho chư vị một trận vào đầu; chư

vị nếu nhận nhịn qua được, thì công chư vị luyện hôm nay sẽ không uổng phí. Có người

hiểu rằng luyện công cần [coi] trọng đức, nên bình thường [quan hệ] với ái nhân của mình

rất tốt. Nhưng vừa nghĩ: "Bình thường tôi nói 'một' [thì nó] không nói 'hai'; hôm nay nó

lại cưỡi lên đầu lên cổ tôi." Không nhịn nổi, liền gây sự lại với ái nhân; như thế hôm nay

luyện cũng như không. Là vì nghiệp lực vẫn còn ở kia, họ giúp chư vị tiêu đi nhưng chư vị

đã không chịu mà còn gây sự với người ta; [nên nghiệp lực] không tiêu được. Những việc

này rất nhiều, có rất nhiều người chúng ta từng gặp tình huống này, nhưng đã không thử

nghĩ là vì sao. Chư vị làm việc khác thì họ không quan tâm đến chư vị; nguyên [luyện

công] là việc tốt, nhưng họ cứ không chịu để chư vị yên. Thực ra họ giúp chư vị tiêu

nghiệp, nhưng tự họ không biết. Họ không hề gây sự với chư vị ở bề mặt, còn trong tâm

Chuyển hoá nghiệp lực

69

lại rất tốt với chư vị; không phải như thế, [mà] cơn nóng giận thật sự xuất ra từ nội tâm.

Bởi vì nghiệp lực rơi vào ai thì người đó thấy khó chịu; đảm bảo là như vậy.

Đề cao tâm tính

Nhiều người trước đây vì không giữ vững tâm tính, [nên] vấn đề xuất hiện rất nhiều;

luyện đến một tầng nhất định rồi thì không lên được nữa. Có người nguyên [ban đầu] tâm

tính đã tương đối cao; khi luyện công liền lập tức khai mở thiên mục, đạt đến một cảnh

giới nào đó. Bởi vì căn cơ của cá nhân này khá tốt, tâm tính rất cao, nên công của họ tăng

lên rất nhanh. Khi đạt đến vị trí sở tại nơi tâm tính của họ, công của họ cũng tăng lên đến

đó, họ cần đề cao công của mình hơn nữa, thì [khi ấy] các mâu thuẫn kia cũng đột nhiên

xuất hiện, chính là để họ liên tục đề cao tâm tính. Đặc biệt là [người] ban đầu đã có căn cơ

tốt, họ cho rằng công của mình tăng lên tốt, luyện cũng rất tốt, nhưng tại sao bao nhiêu

phiền phức đột nhiên [xảy] đến? Vì sao cái gì cũng không tốt: mọi người đối với họ cũng

không tốt, lãnh đạo cũng không coi trọng họ, hoàn cảnh tại gia đình cũng trở nên rất căng

thẳng. Tại sao đột nhiên xuất hiện nhiều mâu thuẫn như thế? Tự họ không ngộ [ra được].

Vì căn cơ của họ tốt, nên đạt đến được một tầng nhất định, [và] xuất hiện trạng thái như

thế. Tuy vậy đó đã là tiêu chuẩn viên mãn tối hậu của người tu luyện chưa? Hãy còn quá

xa mới tu lên đó được! Chư vị cần liên tục đề cao bản thân. Đó là vì một chút căn cơ bản

thân mình mang theo khởi tác dụng, nên chư vị mới có thể đạt đến trạng thái ấy; đề cao

hơn nữa, thì tiêu chuẩn kia cũng cần đề cao lên.

Có người nói: 'Tôi kiếm thêm chút tiền, thu xếp gia đình ổn thoả, thì tôi không lo lắng

gì nữa, [rồi] tôi sẽ lại tu Đạo'. Tôi nói rằng chư vị đang vọng tưởng; chư vị không thể chi

phối cuộc đời người khác được, không thể thao túng vận mệnh người khác được, kể cả vận

mệnh của vợ, cha mẹ, anh em; chư vị có quyết định được [những việc ấy] không? Hơn

nữa, chư vị sau này không phải lo lắng, chư vị không có phiền phức gì nữa, thì chư vị tu

luyện gì đây? Luyện công một cách quá ư thoải mái chăng? Lẽ nào có chuyện ấy? Đó

[chỉ] là chư vị đứng tại góc độ người thường mà [mong] tưởng vậy thôi.

Tu luyện cần phải tu luyện trong ma nạn, [để] xem [đối với] thất tình lục dục chư vị

có thể dứt bỏ hay không, có thể coi nhẹ hay không. Chư vị chấp trước chính vào những

thứ ấy, thì chư vị không tu xuất lai được. Bất kể sự việc gì cũng có quan hệ nhân duyên; vì

sao người ta có thể làm người? Chính là vì người ta có 'tình'; người ta vì cái 'tình' này mà

sống; tình cảm thân quyến, tình cảm nam nữ, tình cảm với cha mẹ, cảm tình, tình bè bạn,

thực thi công việc cũng có tình, ở đâu cũng không tách khỏi cái 'tình' ấy; muốn làm hay

không, cao hứng hay không, yêu và ghét, hết thảy mọi thứ trong toàn bộ xã hội nhân loại

đều từ cái 'tình' ấy mà ra. Nếu 'tình' kia chẳng đoạn, thì chư vị không thể tu luyện được.

Người ta nếu nhảy ra khỏi cái 'tình' này, thì không ai động đến chư vị được, tâm người

thường không động đến chư vị được; thay vào đó là 'từ bi', vốn là điều cao thượng hơn.

Tất nhiên đoạn dứt điều ấy ngay lập tức không dễ dàng gì; tu luyện là quá trình lâu dài, là

quá trình lần lần vứt bỏ các tâm chấp trước của bản thân; nhưng chư vị cần phải tự mình

đặt yêu cầu nghiêm khắc cho mình.

Là người luyện công chúng ta sẽ đột nhiên gặp mâu thuẫn. Xử lý thế nào? Bình

thường chư vị luôn luôn bảo trì trái tim từ bi, [bảo trì] tâm thái hoà ái; [khi] gặp vấn đề thì

sẽ xử lý được tốt, bởi vì nó có một khoảng hoà hoãn. Chư vị luôn từ bi, lấy Thiện đãi

người, làm việc gì đều luôn luôn cân nhắc đến người khác, mỗi khi gặp vấn đề thì trước

hết nghĩ rằng: 'Việc này đối với người khác có thể chịu được không, đối với người khác

có phương hại gì không'; như vậy sẽ không xuất hiện vấn đề gì. Do đó chư vị luyện công

cần theo tiêu chuẩn cao, tiêu chuẩn cao hơn nữa mà yêu cầu bản thân.

Một số người vẫn hay không ngộ [ra được]. Có người khai mở thiên mục rồi, nhìn

thấy Phật, liền về nhà bái Phật, trong tâm cầu niệm: 'Ngài vì sao không quan tâm đến con?

Đề cao tâm tính

70

Xin giúp con giải quyết vấn đề này đi!' Tất nhiên Phật không quản; [khó] nạn kia chính là

ông ấy bày đặt ra; mục đích để chư vị đề cao tâm tính, trong mâu thuẫn chư vị dễ đề cao

lên. Hỏi ông ấy có thể giúp chư vị giải quyết [mâu thuẫn] đó không? Hoàn toàn không

giúp chư vị giải quyết; giải quyết rồi thì chư vị tăng công ra sao, đề cao tâm tính và tầng

như thế nào? Để chư vị tăng công mới là [điều] then chốt. Các Đại Giác Giả nhìn [nhận]

rằng, làm người không phải là mục đích, sinh mệnh người ta không phải vì để làm người,

mà chính là để quay trở về. Con người chịu khổ bao nhiêu; [các Đại Giác Giả] cho rằng

chịu khổ càng nhiều càng tốt, trả nợ nhanh hơn; họ thực sự nghĩ như thế. Có người không

ngộ, cầu Phật không được, liền bắt đầu oán Phật: 'Tại sao Ngài không giúp con? Hàng

ngày [con] đốt hương dập đầu lạy Ngài [cơ mà].' Có người vì điều này mà quăng cả tượng

Phật, từ đó [lăng] mạ Phật. Vì họ [lăng] mạ, tâm tính của họ cũng rớt xuống, công cũng

mất. Họ hiểu rằng mất cả rồi, nên càng hận Phật; họ tưởng rằng Phật [làm] hại họ. Họ

dùng cái lý của người thường mà đo tâm tính của Phật; làm sao có thể đo được? Họ dùng

tiêu chuẩn người thường mà xét sự việc trên cao tầng; làm sao có thể thế được? Do đó

thường hay xuất hiện vấn đề như vậy: coi những khổ [nạn] trong cuộc đời là bất công đối

với mình; có nhiều người suy sụp mà rớt xuống.

Mấy năm trước có rất nhiều đại khí công sư, danh tiếng hiển hách cũng suy sụp rớt

xuống. Tất nhiên, các khí công sư chân chính đã trở về, hoàn thành xong sứ mệnh lịch sử

của mình liền trở về. Những [khí công sư] còn [ở] lại lầm lạc nơi người thường; những

người tâm tính đã rớt xuống ấy vẫn còn đang hoạt động; họ đã không còn công nữa. Một

số khí công sư trước đây nổi danh vẫn đang hoạt động tại xã hội; sư phụ của họ thấy rằng

họ đã rớt ở chốn người thường, rớt nơi danh lợi và không thể tự kéo lên được nữa, đã hỏng

rồi; người ta bèn mang phó nguyên thần của họ đi, [mà] công đều ở trên thân của phó

nguyên thần. Những ví dụ như thế có khá nhiều.

Trong pháp môn chúng ta, ví dụ loại này rất ít, [nếu] có thì cũng không nổi cộm như

thế. Về phương diện đề cao tâm tính, thì những ví dụ nổi trội có rất nhiều. Có một học

viên ở nhà máy dệt kim tại một thành phố của tỉnh Sơn Đông, sau khi học Pháp Luân Đại

Pháp đã dạy các công nhân khác luyện; kết quả làm cho diện mạo tinh thần của nhà máy

hưng khởi hẳn lên. Trước đây các đầu [mẩu] khăn tắm của nhà máy dệt kim thường bị cất

đi mang về nhà, các công nhân đều lấy [như thế]. Sau khi học công rồi thì anh ta không

những không lấy nữa, mà còn mang những thứ đã lấy về nhà trả lại [nhà máy]. Người khác

thấy anh ta làm thế, thì không ai lấy nữa; có công nhân còn mang hết những gì đã lấy trả

lại nhà máy; trong toàn nhà máy xuất hiện tình huống như vậy.

Trạm trưởng một trạm phụ đạo ở thành phố đó đã tới nhà máy để xem [tình hình] các

học viên luyện Pháp Luân Đại Pháp ở đó [tu] luyện thế nào; giám đốc nhà máy ấy đã đích

thân gặp mặt nói: 'Những công nhân sau khi học Pháp Luân Đại Pháp của các ông, đến

sớm về muộn, làm việc hết sức cẩn thận, lãnh đạo phân công việc gì cũng [thực hiện]

không nề hà; [họ] cũng không tranh [giành] lợi ích. Họ đều làm việc như thế cả, làm cho

diện mạo tinh thần toàn bộ nhà máy khởi sắc [hơn lên], hiệu quả kinh tế của nhà máy cũng

tốt. Công của các ông thật là lợi hại; khi nào Sư phụ các ông qua đây, tôi cũng tham gia.'

Mục đích chủ yếu việc tu luyện Pháp Luân Đại Pháp của chúng ta là đưa con người lên

cao tầng, chứ không hề nghĩ đến làm những sự việc như vậy; tuy nhiên nó cũng có thể

phát huy tác dụng to lớn thúc đẩy văn minh tinh thần của xã hội. Nếu như ai ai cũng

hướng vào nội tâm mà tìm, ai ai cũng muốn bản thân làm thế nào cho tốt, thì tôi nói rằng

xã hội này sẽ ổn định, tiêu chuẩn đạo đức nhân loại cũng sẽ nâng cao trở lại.

Khi tôi giảng Pháp truyền công tại Thái Nguyên, có một [nữ] học viên trên 50 tuổi,

hai vợ chồng già cùng đến học. Khi họ đi đến giữa đường cái, một xe ô-tô chạy rất nhanh

qua đó; chiếc gương chiếu hậu của xe đột nhiên mắc vào y phục của bà. [Nó] mắc vào và

kéo bà lôi đi hơn mười mét, và làm bà ngã xuống đất "phịch" một cái, [còn] chiếc xe chạy

Đề cao tâm tính

71

xa hơn hai mươi mét mới dừng lại. Người lái xe nhảy vội ra khỏi xe và bực mình nói:

'Này, bà đi đường mà không nhìn à!' Hiện nay người ta như vậy đấy, hễ gặp vấn đề là

trước tiên [họ] đẩy trách nhiệm, có tại họ hay không thì cũng đẩy cho [người khác]. Người

ngồi trong xe nói: 'Hãy xem xem [người ta] ngã có sao không, đưa [người ta] đến bệnh

viện đi'. Lái xe hiểu ra, vội nói: 'Bác có sao không? Ngã có bị sao không ạ? Chúng ta

cùng đến bệnh viện để xem nhé'. Học viên này từ từ bò dậy khỏi mặt đất rồi nói: 'Không

sao cả, cậu đi đi'. [Bà] phủi bụi xong bèn vịn ông chồng rồi đi tiếp.

Đến lớp học, [bà] kể với tôi chuyện ấy; tôi cũng hết sức vừa ý: Tâm tính của học viên

chúng ta thực sự đã được đề cao lên. Bà kể với tôi: 'Thưa Sư phụ, hôm nay con học Pháp

Luân Đại Pháp; nếu con không học Pháp Luân Đại Pháp, thì hôm nay con sẽ không hành

xử như thế.' Mọi người thử nghĩ xem: đã nghỉ hưu rồi, vật giá hiện nay đắt đỏ như thế, đãi

ngộ phúc lợi cũng không có. Người trên 50 tuổi bị xe hơi lôi đi xa như thế, bị ngã xuống

đất. Hỏi bị thương ở đâu? Đâu cũng bị thương hết, nằm ở đó không dậy. Đến bệnh viện,

thì đi viện; đến rồi nằm lại không ra nữa. Người thường có thể sẽ [làm] như vậy. Nhưng bà

này là người luyện công, không làm như thế. Chúng ta giảng rằng, tốt xấu xuất tự một

niệm của người ta, sai biệt ở một niệm ấy đưa đến hậu quả khác nhau. Với tuổi cao

nhường ấy, là người thường, có thể ngã [vậy] mà không bị thương không? Ấy vậy mà

ngay cả da của bà này cũng không bị trầy xước. Tốt xấu xuất tự một niệm; nếu như bà

nằm tại đó nói: 'Ái chà, tôi hỏng rồi, chỗ này bị rồi, chỗ kia bị rồi'. Nếu thế thì đã có thể

gân đứt xương gãy, tê bại rồi. Chư vị được cấp bao nhiêu tiền, cả đời còn lại chư vị nằm

tại bệnh viện mà không ra, hỏi chư vị có thể thoải mái không? Người đứng ngoài xem đều

cho rằng lạ lắm: 'Bà này sao không vòi vĩnh anh kia chút tiền, đòi tiền anh kia'. Chuẩn

mực đạo đức con người ngày nay đã méo mó cả rồi. Người lái xe phóng nhanh, nhưng anh

ấy phải chăng cố ý đâm người ta? Anh ta chẳng phải vô ý là gì? Nhưng con người hiện

nay đều như vậy cả, nếu không vòi tiền, thì trong tâm người xem cũng thấy bất bình. Tôi

nói rằng hiện nay tốt xấu chẳng rạch ròi; có người nếu nói với họ rằng 'ông đang làm điều

xấu', họ sẽ không tin. Bởi vì chuẩn mực đạo đức con người đã thay đổi; có người chỉ chạy

theo lợi, chỉ vì kiếm tiền, [mà] việc gì cũng làm. 'Người chẳng vì mình, trời tru đất diệt',

[câu này] đã trở thành phương châm để sống mất rồi!

Có một học viên ở Bắc Kinh, buổi tối sau khi ăn xong dắt con trai đi dạo ở Tiền Môn,

và thấy có xe quảng cáo đang bán vé số; đứa trẻ đến xem, [và] muốn mua vé số. Chơi thì

chơi, [anh ấy] bèn cho cậu con một đồng để chơi; mua một cái được ngay giải nhì, được

một chiếc xe đạp cao cấp dành cho trẻ em; đứa trẻ vô cùng vui thích. Trong đầu anh ta lúc

đó máy động một cái: 'Mình là người luyện công, cớ sao lại cầu những thứ này? Mình đã

nhận của cải phi nghĩa mất rồi; mình đã mất cho họ bao nhiêu đức không biết?' Liền nói

với con: 'Bố con mình không cần; nếu muốn thì chúng ta tự mua'. Đứa trẻ không bằng

lòng: 'Nói bố mua bố không mua; tự con chơi được bố lại không cho con lấy.' Kêu khóc

mãi không chịu, không có cách nào khác, [anh ta] đành đẩy xe về nhà. Về nhà rồi, càng

nghĩ càng thấy khó chịu, định đem tiền đưa lại cho người ta. Nhưng nghĩ lại: 'Xổ số đã

xong, mình đưa tiền cho họ, chẳng phải họ sẽ chia nhau? Vậy quyết định đưa tiền ủng hộ

cho đơn vị [công tác].'

Tại đơn vị cũng có không ít học viên Pháp Luân Đại Pháp, [nên] lãnh đạo cũng hiểu

được anh ta. Còn nếu ở một hoàn cảnh thông thường, một đơn vị thông thường, [nếu] chư

vị nói rằng chư vị là người luyện công, trúng giải một chiếc xe đạp, nhưng chư vị lại nói

chư vị không cần, nên lấy tiền ủng hộ cho đơn vị; [nếu thế] ngay cả lãnh đạo cũng nghĩ

rằng tâm thần người này có bệnh. Người khác cũng bàn tán lung tung: 'Anh này phải

chăng luyện công thiên [sai], bị tẩu hoả nhập ma?' Tôi đã giảng, rằng chuẩn mực đạo đức

đã méo mó rồi. Vào thời thập niên 50, 60, thì việc này không đáng kể, rất bình thường,

không ai cảm thấy lạ.

Đề cao tâm tính

72

Chúng tôi giảng: dẫu chuẩn mực đạo đức của nhân loại đã biến đổi nhiều đến đâu,

[thì] đặc tính của vũ trụ-Chân Thiện Nhẫn-Nó vẫn vĩnh viễn bất biến. Có người nói

chư vị tốt, chư vị không nhất định thật sự tốt; có người nói chư vị xấu, chư vị không nhất

định thật sự xấu; [đó] là vì tiêu chuẩn nhận định tốt xấu đã méo mó rồi. Chỉ khi phù hợp

với đặc tính này của vũ trụ thì họ mới là người tốt; đó là tiêu chuẩn duy nhất nhận định

người tốt xấu, [và] đó là [điều] được thừa nhận trong vũ trụ. Chư vị dẫu thấy xã hội nhân

loại đã biến đổi nhiều đến vậy, chuẩn mực đạo đức của nhân loại đang [trượt] trên dốc lớn,

đạo đức thế gian trượt xuống hàng ngày, chỉ chạy theo lợi; nhưng sự biến hoá của vũ trụ

không thể tuỳ theo sự biến hoá của nhân loại mà biến hoá theo. Làm người tu luyện thì

không thể dùng tiêu chuẩn của người thường để yêu cầu. Người thường nói rằng việc này

là đúng, thì chư vị liền theo đó mà làm, như thế không thể được. Người thường nói tốt ấy

không nhất định là tốt; người thường nói xấu ấy cũng không nhất định là xấu. Vào thời đại

mà tiêu chuẩn đạo đức đã méo mó này, [ví như] một cá nhân làm điều xấu, chư vị bảo

rằng họ đang làm điều xấu, thì họ không tin! Là người tu luyện, thì phải dùng đặc tính vũ

trụ mà nhận định, thì mới có thể phân biệt ra cái gì là thật sự tốt và thật sự xấu.

Quán đỉnh

Trong giới tu luyện có một tình huống, gọi là 'quán đỉnh'. Quán đỉnh là một hình thức

[nghi thức] tôn giáo của phương pháp tu luyện Mật tông của Phật gia. Mục đích là cá nhân

đã trải qua quán đỉnh rồi thì không thể tái [gia] nhập môn khác, [họ đã được] thừa nhận là

đệ tử chân chính của môn này. Hiện nay việc này kỳ lạ như thế nào? Luyện công cũng

xuất hiện hình thức tôn giáo này, các công pháp Đạo gia cũng làm quán đỉnh, chứ không

[còn] chỉ có Mật tông. Tôi đã giảng: hễ lấy cờ hiệu Mật tông mà giảng công pháp Mật

tông ngoài xã hội thảy đều là giả. Tại sao nói như vậy? Bởi vì Đường Mật ở nước ta đã

tiêu mất trên một nghìn năm rồi, hoàn toàn không tồn tại; vì chịu hạn chế ngôn ngữ nên

Tạng Mật vẫn luôn không truyền vào vùng đất người Hán chúng ta một cách hoàn chỉnh.

Đặc biệt [vì] đây là Mật giáo, nên cần phải tu luyện bí mật trong chùa, hơn nữa phải trải

qua sự trao truyền bí mật từ sư phụ, sư phụ mang [đệ tử] đi tu bí mật. Không thực hiện

được điểm này, thì tuyệt đối không thể truyền ra được.

Có nhiều người ôm giữ mục đích như thế này lên Tây Tạng học công: theo người ta

bái sư học Tạng Mật, tương lai làm khí công sư, nổi danh, phát tài. Mọi người thử nghĩ

xem, các Phật sống lạt-ma thật sự được chân truyền đều có công năng rất mạnh, đều có thể

thấy trong tâm người đến học công suy nghĩ những gì. Vị kia đến để làm gì, nhìn một cái

liền hiểu rõ cái tâm ấy ngay: 'Muốn lên đây học những điều này, [sau] ra làm khí công sư

phát tài nổi danh; đến để phá hoại phương pháp tu Phật này'. Pháp môn tu Phật nghiêm

túc nhường ấy liệu có thể để chư vị vì cầu danh lợi [muốn] làm khí công sư này nọ mà tuỳ

tiện phá hoại không? Chư vị có động cơ gì? Do đó hoàn toàn không thể truyền cho vị kia

được; [họ] sẽ không được chân truyền. Tất nhiên, có khá nhiều chùa, [họ] có thể đắc được

một số thứ vỏ ngoài nông cạn. Nếu như tâm không chính, khi muốn làm khí công sư mà

phạm việc xấu, như thế sẽ chiêu mời phụ thể. Con động vật phụ thể cũng có công, nhưng

[đó] không phải là Tạng Mật. Người thật sự lên Tây Tạng cầu Pháp, có thể lên đó rồi sẽ ở

lại luôn mà không trở ra nữa; ấy là những người chân tu.

Rất lạ là hiện nay có nhiều công pháp Đạo gia cũng giảng quán đỉnh. Đạo gia là dẫn

theo mạch, hỏi làm quán đỉnh gì đây? Theo tôi biết, [khi] tôi truyền công tại phía nam, đặc

biệt ở vùng Quảng Đông có khá nhiều, có khoảng trên mười công pháp làm loạn lung tung

đang giảng quán đỉnh. Ý nghĩa là gì? Họ quán đỉnh cho chư vị rồi, chư vị sẽ là đệ tử của

họ, không thể học công khác được nữa; nếu học công khác họ sẽ trừng phạt chư vị; họ làm

những điều như thế. Đó chẳng phải tà môn oai đạo là gì? Điều họ truyền là chữa bệnh

khoẻ người, quần chúng học rồi cũng chỉ là muốn được thân thể khoẻ mạnh. [Họ] làm vậy

Quán đỉnh

73

để làm gì? Có người nói, rằng luyện công của ông ta sẽ không được luyện công khác nữa.

Ông ấy có khả năng [cứu] độ người ta đến viên mãn không? Đúng là đưa đệ tử của người

ta đi sai đường rồi! Có nhiều người làm như vậy.

Đạo gia không giảng điều này, vậy mà đã xuất hiện những gì là quán đỉnh. Tôi phát

hiện ông khí công sư làm quán đỉnh lợi hại nhất, công trụ ông ấy cao ngần nào? Chỉ cao

như toà nhà hai hoặc ba tầng là hết; tôi thấy rằng là một đại khí công sư nổi danh lẫy lừng

như thế, công [của ông] đã rớt xuống thật đáng thương. Hàng trăm hàng nghìn người xếp

thành hàng, [để] ông ấy quán đỉnh cho người ta. Công của ông hữu hạn, chỉ cao ngần ấy;

công này chẳng mấy chốc sẽ hạ xuống, không còn nữa, hỏi lấy gì để quán [đỉnh] cho

người ta, chẳng phải lừa người là gì? Quán đỉnh chân chính, nhìn tại không gian khác, thì

xương cốt của người ta từ đầu đến chân đều biến thành giống như bạch ngọc. Chính là

dùng công, vật chất cao năng lượng [để] tịnh hoá thân thể, quán toàn bộ từ đầu đến chân.

Ông khí công sư kia có thể làm được điều này không? Ông ta không thể. Ông ta làm gì

đây? Tất nhiên [ông ấy] không nhất định làm tôn giáo; mục đích là học xong công của

ông, thì đã là người của ông, chư vị phải tham gia lớp [học] của ông, học những điều của

ông ấy. Mục đích là kiếm tiền của chư vị; không ai học thì ông không kiếm được tiền.

Đệ tử Pháp Luân Đại Pháp cũng giống đệ tử các pháp môn Phật gia khác, tức là được

thượng sư quán đỉnh nhiều lần; nhưng không để chư vị biết. Người có công năng có thể

biết; người nhạy cảm cũng có thể cảm thấy; khi ngủ hoặc một lúc nào đó có thể đột nhiên

một luồng nhiệt tuôn từ trên đỉnh đầu xuống thông thấu toàn thân. Mục đích của quán đỉnh

không phải cấp công thêm cao cho chư vị; công là bản thân chư vị tu luyện xuất lai. Quán

đỉnh là một phương pháp gia trì, chính là giúp chư vị tịnh hoá thân thể, làm thân thể chư vị

thanh lý thêm một bước nữa. Cần quán [đỉnh] nhiều lần, mỗi tầng đều cần giúp chư vị

thanh lý thân thể. Bởi vì 'tu tại tự kỷ, công tại sư phụ', nên chúng tôi không giảng hình

thức [nghi thức] quán đỉnh.

Một số người còn làm những gì là bái sư. Giảng đến đây, tôi thuận tiện đề cập một

điều; có nhiều người muốn bái tôi làm Sư. Thời kỳ lịch sử chúng ta hiện nay đã khác với

xã hội phong kiến Trung Quốc; quỳ gối dập đầu có được tính là bái sư không? Chúng ta

không làm cái việc hình thức ấy. Có nhiều người chúng ta nghĩ thế này: 'Mình dập đầu đốt

hương bái Phật, trong tâm thành kính thì sẽ tăng công'. Tôi nói rằng thật khôi hài; luyện

công chân chính toàn dựa vào bản thân mà tu; cầu gì cũng vô dụng. Không bái Phật,

không đốt hương, [mà] chiểu theo tiêu chuẩn người tu luyện mà tu luyện một cách chân

chính, [thì khi] ông [Phật] gặp chư vị sẽ rất vừa ý. Ở nơi khác chư vị toàn làm điều xấu,

chư vị dập đầu đốt hương cho ông, [thì] ông gặp chư vị sẽ rất khó chịu; đó chẳng phải đạo

lý là gì? Tu chân chính dựa vào bản thân. Hôm nay chư vị dập đầu bái sư xong, ra khỏi

cửa lại muốn gì làm nấy, hỏi có tác dụng gì? Chúng tôi hoàn toàn không giảng hình thức

[bái sư] này; chư vị có thể còn làm ô uế danh dự của tôi [ấy chứ]!

Chúng tôi cấp cho chư vị nhiều như thế; tất cả mọi người chỉ cần thực tu, dùng Đại

Pháp để yêu cầu bản thân một cách nghiêm khắc, [thì] tôi đều coi chư vị là đệ tử; chỉ cần

chư vị tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, chúng tôi sẽ coi chư vị là đệ tử. Nếu chư vị không

muốn tu, thì chúng tôi không có cách nào. Nếu chư vị không tu, thì chư vị mang danh [đệ

tử] hỏi có ích gì? Học viên vào kỳ thứ nhất hay học viên vào kỳ thứ hai [cũng như nhau];

nhưng chư vị chỉ luyện mấy động tác kia thì đã là đệ tử của chúng tôi chăng? Chư vị phải

thật sự chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính của chúng tôi mà tu luyện, thì mới có thể đạt được

thân thể khoẻ mạnh, thì mới có thể thật sự lên cao tầng. Do đó chúng tôi không giảng

những việc hình thức ấy; chỉ cần chư vị tu luyện, thì là người trong môn chúng tôi. Những

Pháp thân của tôi điều gì cũng biết; chư vị nghĩ gì họ đều biết; điều gì họ cũng có thể làm

được. Chư vị không tu luyện thì họ không quản chư vị; [còn nếu] chư vị tu luyện thì [họ]

sẽ giúp đến cùng.

Quán đỉnh

74

Có công pháp trong đó người luyện công chưa gặp qua sư phụ, nói rằng hướng về một

phương nào đó mà dập đầu, trả vài trăm đồng là được. Chẳng phải lừa mình dối người là

gì? Ngoài ra người này rất tự nguyện. Từ đó trở đi duy hộ đối với công này, [đối với]

người [của công] này; cũng lại nói với người khác, rằng đừng học công khác. Tôi thấy thật

quá khôi hài. Còn có người làm những gì là 'mô đỉnh'; cũng không biết người ấy chạm

một cái thì có tác dụng gì.

Không chỉ những gì truyền công dưới cờ hiệu Mật tông là giả, mà tất cả môn truyền

công dưới [cờ hiệu] Phật giáo cũng đều là giả. Mọi người thử nghĩ xem, phương pháp tu

luyện mấy nghìn năm của Phật giáo đều [có] hình thức như thế, ai mà sửa đổi [nó] đi thì

có còn là Phật giáo không? Phương pháp tu luyện là tu Phật một cách nghiêm túc, hơn nữa

[nó] cực kỳ huyền diệu; sửa đổi một chút là loạn ngay. Vì quá trình diễn hoá công là cực

kỳ phức tạp; cảm giác của con người không là gì hết; không thể dựa vào cảm giác để tu

luyện. Hình thức tôn giáo của hoà thượng chính là phương pháp tu luyện; hễ sửa đổi thì

không còn là những điều của môn ấy nữa. Mỗi một môn đều có Đại Giác Giả chủ trì, mỗi

môn cũng tu xuất được rất nhiều Đại Giác Giả, không ai dám tuỳ ý thay đổi phương pháp

tu luyện của môn ấy; còn một khí công sư nhỏ bé, hỏi có được mấy uy đức dám coi

thường Chủ mà sửa đổi pháp môn tu Phật? Nếu như đã sửa đổi rồi, thì đó có còn là pháp

môn kia nữa không? Khí công giả có thể phân biệt được.

Huyền quan thiết vị

'Huyền quan thiết vị' còn gọi là 'huyền quan nhất khiếu'. Trong «Đan Kinh», «Đạo

Tạng», «Tính Mệnh Khuê Chỉ» có thể tra thấy những danh từ như thế. Vậy chúng là gì?

Có rất nhiều khí công sư thuyết không được rõ ràng. Là vì ở tầng sở tại của một khí công

sư bình thường hoàn toàn không thể nhìn thấy [chúng], cũng không cho phép họ thấy.

Người tu luyện nếu muốn thấy được chúng, thì tại tầng thượng của huệ nhãn thông trở lên

mới có thể thấy được; khí công sư bình thường chưa đạt đến tầng ấy, do vậy nhìn không

thấy. Giới tu luyện xưa nay đều tầm cứu xem 'huyền quan' là gì? 'Nhất khiếu' ở đâu?

'Thiết vị' như thế nào? Đọc trong «Đan Kinh», «Đạo Tạng», «Tính Mệnh Khuê Chỉ» chư

vị thấy họ toàn giảng lý luận vòng vòng, hoàn toàn không nói cho chư vị về thực chất.

Giảng tới giảng lui, còn làm chư vị lẫn lộn cả lên, [họ] giảng không rõ ràng; bởi vì không

thể để những điều thực chất cho người thường biết được.

Ngoài ra tôi nói với mọi người, vì chư vị là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi, nên

tôi mới nói với chư vị những lời này: nhất định không được đọc những sách khí công giả

loạn bậy kia; không phải [tôi nói về] mấy cuốn cổ thư ở trên, mà là nói về những sách khí

công giả mà những người hiện nay viết; ngay cả dở ra chư vị cũng đừng làm. Trong não

chư vị chỉ hơi có một niệm đầu xuất hiện: 'Úi chà, câu này có đạo lý đó'. Niệm đầu ấy vừa

loé lên, thì phụ thể ở bên kia sẽ gắn lên [thân chư vị]. Rất nhiều [sách] là do phụ thể chỉ

huy và khống chế tâm danh lợi của người ta mà viết. Sách của khí công sư giả nhiều, khá

là nhiều; rất nhiều vị không có trách nhiệm; bị phụ thể loạn bát nháo rồi mà họ cũng viết.

Cả những cuốn cổ thư nói trên hoặc những cổ thư liên quan chư vị tốt nhất cũng không

nên xem; ở đây có vấn đề chuyên nhất không loạn.

Một lãnh đạo ở Hiệp hội Khí công Trung Quốc đã kể cho tôi một chuyện, làm tôi

buồn cười quá. Kể rằng có một cá nhân kia ở Bắc Kinh, ông vẫn thường đến nghe các khí

công sư [thuyết] giảng; nghe tới nghe lui, sau một thời gian dài đi nghe như thế, ông cho

rằng khí công chính là mấy món đồ ấy [thôi]. Vì [họ] đều ở một tầng, [nên] đều giảng

những điều ấy. Ông cũng như các khí công sư giả, tưởng rằng hàm nghĩa của khí công chỉ

có vậy! Thế rồi, ông cũng muốn viết sách khí công. Mọi người thử nghĩ xem, [một] người

không luyện công [cũng] viết sách khí công; sách khí công hiện nay chỉ là sao chép của

nhau. Ông viết tới viết lui, viết đến đoạn huyền quan thì không viết được nữa. Ai biết rõ

Huyền quan thiết vị

75

huyền quan nhỉ? [Trong] các khí công sư chân chính cũng chẳng có mấy [người] biết rõ.

Ông bèn hỏi một vị khí công sư giả. Ông không biết [đó] là giả; mà bản thân ông cũng

không hiểu khí công. Tuy nhiên nếu người ta hỏi mà khí công sư giả trả lời không được,

thì người ta chẳng phải sẽ biết vị này là giả? Do vậy vị này dám nói lung tung, nói rằng

huyền quan nhất khiếu ở trên đầu chỗ tiểu tiện. Nghe thật quá khôi hài. Chư vị chớ có

cười, cuốn sách này đã xuất bản ngoài xã hội rồi. Vậy cũng nói, sách khí công hiện nay đã

ở mức khôi hài đến thế; tôi nói rằng chư vị đọc những thứ đó nào ích gì; [chúng] vô dụng,

chỉ có thể hại người.

Cái gì được gọi là huyền quan thiết vị? Người ta khi tu [ở giai đoạn] thế gian pháp,

khi tu đến trung tầng trở lên, tức là khi tu đến các tầng cao của thế gian pháp, thì người ta

bắt đầu xuất nguyên anh. 'Nguyên anh' khác với cái mà chúng tôi gọi là 'anh hài'. Anh

hài rất bé, nhảy nhót lăng xăng vui nhộn, rất nghịch ngợm. Nguyên anh bất động; [lúc]

nguyên thần không đến làm chủ nó, [thì] nó ngồi ở đó bất động, tay kết ấn, chân xếp bằng

ngồi trên [toà] sen. Nguyên anh sinh xuất ra tại đan điền; ở [mức] cực vi quan khi [nó] bé

như đầu kim cũng có thể nhìn thấy nó.

Ngoài ra [tôi] nói rõ một vấn đề nữa: đan điền chân chính [chỉ] có một khối, ở vị trí

bụng dưới. Huyệt hội âm trở lên, nằm trong thân thể con người, từ bụng dưới trở xuống,

đó chính là khối điền ấy. Rất nhiều công, rất nhiều công năng, rất nhiều thứ thuật loại,

Pháp thân, nguyên anh, anh hài, rất nhiều thể sinh mệnh, [chúng] đều từ khối điền này sinh

ra.

Quá khứ có một vài người tu Đạo giảng về thuyết thượng đan điền, trung đan điền, hạ

đan điền; tôi nói rằng đó là sai. [Họ] cũng nói sư phụ của họ đã truyền [điều này] từ bao

nhiêu [niên] đại, trong sách cũng viết thế. Tôi nói với mọi người: những đồ bã trấu bã cám

[vô dụng] thời cổ đại đều có; chư vị dẫu thấy [chúng] được truyền thừa bao nhiêu năm,

nhưng chúng không nhất định là đúng. Những tiểu đạo thế gian vẫn luôn lưu truyền ở

người thường, nhưng họ tu không [thành] được, không là gì cả. Họ gọi chúng là thượng

đan điền, trung đan điền, hạ đan điền; ý của họ là chỗ nào có thể sinh đan đều là đan điền1.

Đó chẳng khôi hài là gì? Ý niệm người ta tập trung vào một điểm, [sau] một thời gian lâu,

thì có thể sản sinh một khối năng lượng, [và] kết đan. Không tin thì ý niệm chư vị [đặt]

mãi tại cánh tay, giữ nguyên như thế, [sau] một thời gian lâu, nó sẽ kết đan. Do đó có

người thấy tình huống này, bèn nói 'vô xứ bất đan điền', nghe lại càng khôi hài hơn; nhận

thức của họ là kết đan được tức là đan điền. Thực ra đó là đan nhưng không phải điền; chư

vị nói 'vô xứ bất "đan"' hoặc thượng đan, trung đan, hạ đan; nói thế thì còn được. Còn cái

điền thật sự có thể xuất sinh vô số Pháp thì chỉ có một khối, chính là khối điền ở vị trí

bụng dưới. Như vậy thuyết về thượng đan điền, trung đan điền, hạ đan điền là sai lầm. Ý

niệm người ta đặt tại nơi đâu, [qua] một thời gian lâu, thì sẽ kết đan.

Nguyên anh sinh ra từ khối đan điền ở vị trí bụng dưới; dần dần to lớn lên rất chậm.

Đến khi lớn bằng quả bóng bàn, thì toàn bộ hình dáng thân thể đã có thể nhìn được rõ, mắt

mũi đều đã hình thành. Cũng vào lúc [nguyên anh] lớn bằng quả bóng bàn, sát cạnh thân

của nó lại có một tiểu bào tròn tròn được xuất sinh. Sau khi sinh ra rồi thì tuỳ theo nguyên

anh lớn đến đâu, nó cũng lớn đến đó. Đến khi nguyên anh lớn đến chiều cao 4 thốn, thì

xuất hiện một cánh hoa sen. Khi lớn đến chiều cao 5 đến 6 thốn, các cánh hoa sen về cơ

bản đã trưởng thành, xuất hiện một tầng hoa sen; nguyên anh rực rỡ ánh vàng kim ngồi

trên đài hoa sen sắc vàng ấy, trông rất đẹp. Đó chính là [thân] thể kim cương bất hoại;

Phật gia gọi là Phật thể; Đạo gia gọi là nguyên anh.

Pháp môn tu luyện chúng tôi đều tu luyện cả hai loại thân thể, [chúng] đều cần; bản

thể cũng cần chuyển hoá. Mọi người đều biết, rằng Phật thể không thể hiển hiện nơi người

thường; dồn hết sức thì có thể hiển hiện được hình thái, [mà] dùng mắt người thường có

1Đan điền: ruộng đan; điền → ruộng.

Huyền quan thiết vị

76

thể nhìn thấy quang ảnh của nó. Còn thân thể này, sau khi trải qua chuyển hoá, thì ở nơi

người thường [nó] giống với [thân thể] người thường; người thường nhìn không ra [chỗ

khác biệt]; nó còn có thể đi xuyên qua các không gian. Khi nguyên anh lớn đến chiều cao

4 đến 5 thốn, thì khí bào cũng đã lớn đến chiều cao ấy; nó giống như vỏ của khí cầu, trong

suốt. Nguyên anh vẫn ngồi đả toạ bất động. Khi lớn đến ngần ấy, khí bào kia cần rời khỏi

đan điền, nó đã [được] sinh ra xong, [ví như] dưa chín cuống rụng, do đó [nó] sẽ thăng lên.

Quá trình thăng lên là một quá trình vô cùng chậm, nhưng hàng ngày có thể [nhận] thấy nó

đang di động. [Nó] chầm chậm di động lên, thăng lên trên. Chúng ta quan sát thật kỹ sẽ

cảm giác được sự tồn tại của nó.

Khi thăng đến vị trí huyệt đản trung của người [tu luyện], nó cần ở tại vị trí đó một

giai đoạn thời gian. Bởi vì những tinh hoa của [thân] thể người, có rất nhiều thứ (quả tim

cũng nằm tại đây) đều cần hình thành nên một bộ ở trong khí bào này. Những [chất] tinh

hoa cần bổ sung vào cho khí bào. Qua một giai đoạn thời gian, nó lại bắt đầu thăng lên.

Đến lúc đi qua cổ của người [tu luyện], thì cảm thấy rất nghẹt thở, giống như các huyết

quản đều bị kẹp lại, sưng lên rất khó chịu; nó sẽ như thế trong khoảng một hai ngày là hết.

Rồi nó tới đỉnh đầu; chúng tôi gọi là lên [tới] nê hoàn. Nói là tới nê hoàn, kỳ thực nó đã to

đến cỡ toàn bộ đầu của chư vị; chư vị sẽ cảm thấy đầu não sưng lên. Bởi vì nê hoàn là một

vùng hết sức then chốt của sinh mệnh con người, nó cũng cần hình thành những thứ tinh

hoa tại nơi này. Sau đó nó sẽ từ đường thông đạo của thiên mục mà dồn ép ra ngoài; cảm

nhận được rất là khó chịu. Sưng lên làm thiên mục rất đau, huyệt thái dương cũng sưng

lên, [và] mắt cũng hõm vào trong; liên tục như thế cho đến khi nó dồn ép ra hẳn ngoài, và

lập tức treo [lơ lửng] ở trước trán; như vậy được gọi là 'huyền quan thiết vị', được treo tại

chỗ này.

Người đã khai mở thiên mục, đến lúc này không nhìn được nữa. Vì [trong] tu luyện

của Phật gia và Đạo gia, muốn để những thứ trong huyền quan [được] hình thành nhanh

nhất, nên cửa kia không mở. Phía trước có hai cánh cửa lớn, phía sau có hai cánh cửa,

[chúng] đều đóng lại; giống như cửa lớn của Thiên An Môn ở Bắc Kinh, hai bên mỗi bên

có hai cánh cửa lớn. Vì để chúng [được] hình thành và bổ sung nhanh nhất, nên cửa không

mở khi không gặp tình huống hết sức đặc thù; [người] có thiên mục vốn có thể nhìn được,

thì đến bước này không nhìn được nữa, không cho nhìn. Nó treo ở nơi ấy có mục đích để

làm gì? Bởi vì trăm mạch của thân thể chúng ta giao hội tại nơi ấy; vào lúc này trăm mạch

đều đi qua huyền quan quanh thành một vòng [rồi] đi ra; đều phải đi [qua] huyền quan;

mục đích là ở trong huyền quan đặt lên một cơ sở nữa, hình thành một hệ thống các thứ.

Bởi vì [thân] thể người chính là tiểu vũ trụ, nó sẽ hình thành một tiểu thế giới; toàn bộ

những thứ tinh hoa của [thân] thể người đều hình thành trong này. Tuy nhiên nó chỉ hình

thành một bộ thiết bị, chưa thể hoàn toàn vận dụng được.

[Trong] tu luyện của Kỳ Môn công pháp, huyền quan vẫn mở. Huyền quan [được]

phóng xuất ra xong, [nó] là hình ống thẳng, rồi dần dần biến thành tròn; do vậy cửa hai

bên của nó đều mở. Vì Kỳ Môn công pháp không tu Phật cũng không tu Đạo, nên tự mình

bảo hộ lấy mình. Sư phụ trong Phật gia và Đạo gia có rất nhiều, đều có thể bảo hộ chư vị;

chư vị không cần [có khả năng] nhìn, và cũng không xuất hiện vấn đề gì. Nhưng [ở] Kỳ

Môn công pháp [làm] thế không được, họ cần tự bảo hộ mình; do đó họ cần duy trì khả

năng nhìn. Nhưng lúc này thiên mục nhìn các thứ, đều giống như nhìn qua một ống kính

viễn vọng. Sau khi [một] bộ các thứ [được] hình thành xong, khoảng một tháng thì [nó]

bắt đầu quay lại. Quay vào trong đầu xong rồi, gọi là 'huyền quan hoán vị'.

Khi quay vào cũng sưng rất khó chịu, sau đó [nó] dồn ép ra ở huyệt ngọc chẩm của

người [tu luyện]. Cảm giác dồn ép ra cũng rất là khó chịu, giống như đầu nứt mở ra; lập

tức xuất ra ngay, nó xuất ra thì lập tức cảm giác nhẹ hẳn đi. Sau khi xuất ra, nó treo ở

không gian rất thâm [sâu], trong hình thức thân thể tồn tại ở không gian rất thâm [sâu]; do

Huyền quan thiết vị

77

đó [người tu luyện] khi ngủ không gối [đè] lên nó. Nhưng có một điểm: khi huyền quan

thiết vị lần thứ nhất thì trước mắt có cảm giác, tuy rằng nó ở tại không gian khác, nhưng

vẫn cứ cảm thấy trước mắt mờ mờ, giống hệt như có cái gì đó đang che chắn, không được

thoải mái lắm. Bởi vì ngọc chẩm là một đại quan1 rất then chốt, ở phía sau cũng cần hình

thành một bộ các thứ; rồi nó lại bắt đầu quay lại. Huyền quan nhất khiếu ấy thực ra không

phải là nhất khiếu, [mà] nó cần hoán vị nhiều lần; nó quay vào đến nê hoàn rồi lại bắt đầu

giáng hạ xuống, ở trong thân giáng hạ xuống, [giáng hạ] một mạch cho đến huyệt mệnh

môn. Tại huyệt mệnh môn nó lại phóng xuất ra.

Mệnh môn của con người là một đại khiếu chủ yếu cực kỳ then chốt. Đạo gia gọi là

'khiếu', chúng tôi gọi là 'quan'. Đại quan chủ yếu này, thực sự là cửa sắt, vô số tầng cửa

sắt. Mọi người đã biết rằng thân thể có nhiều tầng, các tế bào nhục thể của chúng ta hiện

nay là một tầng, các phân tử bên trong là một tầng; nguyên tử, proton, điện tử, [các lạp tử]

nhỏ vô hạn, nhỏ vô hạn, nhỏ vô hạn, cho đến các lạp tử cực tiểu, mỗi một diện đều [thiết]

lập một tầng cửa. Do vậy có rất nhiều những công năng, rất nhiều những thứ thuật loại,

đều bị khoá ở trong cửa mỗi tầng. Các công pháp khác luyện đan, đến lúc đan cần nổ tung,

đầu tiên cần chấn [động] mở mệnh môn; nếu nó chẳng được chấn [động] mở ra, công năng

sẽ không phóng thích được. Tại huyệt mệnh môn huyền quan hình thành xong một bộ các

thứ ấy, nó lại tiến vào [thân thể]. Sau khi tiến vào nó sẽ bắt đầu quay trở lại chỗ bụng

dưới; gọi là 'huyền quan quy vị'.

Sau khi quy vị, [huyền quan] không trở về chỗ ban đầu. Lúc này nguyên anh đã lớn

lắm rồi; khí bào sẽ phủ trùm lên nguyên anh, bao [bọc] lấy nguyên anh. [Khi] nguyên anh

lớn lên, nó cũng lớn lên theo. Thông thường lúc nguyên anh [của] Đạo gia lớn đến cỡ đứa

trẻ 6~7 tuổi, thì cho phép nó rời [thân] thể, gọi là 'nguyên anh xuất thế'. Vì nguyên thần

của người [tu luyện] làm chủ nó, nó sẽ có thể xuất ra hoạt động. Thân thể của người [tu

luyện] định tại chỗ kia bất động, nguyên thần xuất ra. Thông thường khi nguyên anh [của]

Phật gia tu luyện đến cỡ của bản thân [người tu luyện] thì không còn nguy hiểm gì nữa.

Thông thường đến lúc ấy cho phép nó rời [thân] thể, ly khai khỏi thân thể, có thể xuất lai.

Khi này nguyên anh đã to lớn như bản thân [người tu luyện], cái bọc cũng lớn [như thế];

cái bọc ấy đã nở ra ngoài [thân] thể rồi, [đó] chính là huyền quan. Bởi vì nguyên anh đã

lớn nhường ấy, tất nhiên [huyền quan] cũng nở lớn ra ngoài [thân] thể.

Chư vị có thể đã thấy hình tượng Phật trong chùa, thấy rằng hình tượng Phật đều ở

trong một vòng tròn, nhất là những bức hoạ hình tượng Phật, đều có cái vòng ấy, [và] ông

Phật ngồi trong đó. Rất nhiều hình tượng Phật đều như thế, nhất là những bức hoạ hình

tượng Phật tại các chùa cổ, đều như vậy cả. Vì sao ngồi trong vòng tròn, không ai [giải]

nói rõ ràng cả. Tôi nói với mọi người rằng, [nó] chính là huyền quan. Nhưng lúc này nó đã

không còn được gọi là 'huyền quan' nữa, gọi là 'thế giới'; nhưng chưa có thể thực sự gọi

là thế giới được. Nó mới chỉ có một bộ các thiết bị kia thôi; giống như nhà máy chúng ta

có một bộ các thiết bị, nhưng chưa có khả năng sản xuất; cần có nguồn năng lượng, có

nguyên liệu rồi mới có thể sản xuất. Mấy năm trước có nhiều người tu luyện nói: 'Tôi [có]

công cao hơn Bồ Tát, tôi [có] công cao hơn Phật', người khác nghe vậy thấy huyền [hoặc]

lắm. Kỳ thực họ nói không huyền [hoặc] chút nào; tu luyện [ở] thế gian công thực sự đạt

rất cao.

Vì sao xuất hiện tình huống này, tu thành rồi còn cao hơn Phật không? Không thể lý

giải trên bề mặt như thế được; công của họ thật sự rất cao. Bởi vì sau khi họ tu lên đến

tầng rất cao, rồi đạt đến lúc khai công khai ngộ của mình, thì công thực sự rất cao. Đúng

vào thời điểm ngay trước khi họ khai công khai ngộ, thì giúp họ bẻ tám phần mười công

của bản thân họ xuống, ngay cả tiêu chuẩn tâm tính của họ cũng cắt xuống. Dùng năng

lượng ấy mà bổ sung cho thế giới của họ, thế giới của bản thân họ. Mọi người đã biết rằng,

1Đại quan: cửa lớn, ở đây huyệt ngọc chẩm được tính là một quan.Huyền quan thiết vị

78

công của người tu luyện, đặc biệt là những thứ thêm lên chỗ tiêu chuẩn tâm tính, là [trải

qua] vô số khổ [nạn] một đời, tại hoàn cảnh gian khổ mà 'ma luyện', mà tu luyện xuất lai,

nên nó cực kỳ trân quý; lấy ra tám phần mười những thứ trân quý như thế mà bổ sung cho

thế giới của họ. Do vậy khi tu thành trong tương lai, [họ] muốn gì giơ tay lập tức được

ngay, cần gì có nấy, muốn làm gì thì làm được nấy, trong thế giới của họ cái gì cũng có.

Đó là uy đức của họ, bản thân kinh qua chịu khổ mà tu xuất ra được.

Chủng năng lượng này của họ có thể tuỳ ý biến hoá các thứ. Do đó Phật mong muốn

gì, muốn ăn gì, [muốn] thưởng ngoạn gì, thì đều có điều đó. Đây là [điều] bản thân họ tu

xuất lai được; chính là 'Phật vị'; không có những thứ ấy thì họ tu không thành được. Lúc

bấy giờ, mới xứng là thế giới của bản thân mình; nhưng họ chỉ còn lại hai phần mười công

để đến viên mãn, đắc Đạo. Tuy rằng chỉ còn lại hai phần mười, nhưng thân thể của họ

không [còn bị] khoá; hoặc giả không mang theo thân thể, hoặc giả mang theo thân thể,

nhưng thân thể đã được chuyển hoá [bằng] vật chất cao năng lượng rồi; lúc ấy họ đại hiển

thần thông, uy lực vô tỷ. Còn khi tu luyện tại nơi người thường thông thường mang theo

khoá, không có bản sự gì lớn; công cao đến mấy cũng chịu hạn chế; hiện nay không thế

nữa.

Huyền quan thiết vị

79

Bài giảng thứ năm

Đồ hình Pháp Luân

Ký hiệu của Pháp Luân Đại Pháp chúng ta là Pháp Luân. Người có công năng, có thể

nhìn thấy Pháp Luân này đang xoay chuyển. Chiếc huy hiệu nhỏ Pháp Luân này của

chúng ta cũng như thế, nó đang xoay chuyển. Chúng ta chiểu theo đặc tính Chân Thiện

Nhẫn của vũ trụ, để chỉ đạo sự tu luyện của mình, chiểu theo nguyên lý diễn hoá của vũ

trụ mà luyện; do đó công mà chúng ta luyện được cũng rất lớn. Theo một ý nghĩa nào đó

mà giảng, đồ hình Pháp Luân này là [hình] ảnh thu nhỏ của vũ trụ. Phật gia coi thế giới

mười phương như một khái niệm [về] vũ trụ, bốn mặt tám phương, tám phương vị; có thể

có người có thể nhìn thấy tồn tại trên dưới của nó {Pháp Luân} một công trụ, như vậy với

trên dưới được thêm vào thì [nó] chính là thế giới mười phương, cấu thành nên vũ trụ này,

đại biểu cho vũ trụ nói chung mà Phật gia nhìn nhận.

Tất nhiên trong vũ trụ này có vô số thiên hà, bao gồm cả hệ Ngân Hà của chúng ta

trong đó. Toàn bộ vũ trụ đang vận động, tất cả các thiên hà trong toàn bộ vũ trụ cũng đang

vận động; do đó các thái cực và phù [hiệu] chữ 卍 nhỏ ở trong đồ hình này cũng đang

xoay chuyển, toàn bộ Pháp Luân cũng đang xoay chuyển, hơn nữa phù [hiệu] chữ 卍 lớn ở

giữa cũng đang xoay chuyển. Theo một ý nghĩa nào đó mà giảng, nó tượng trưng cho hệ

Ngân Hà của chúng ta; đồng thời vì chúng ta là Phật gia, nên trung tâm là phù hiệu của

Phật gia; nhìn bề mặt là như vậy. Tất cả các vật chất khác nhau đều có hình thức tồn tại ở

[các] không gian khác, tại [các] không gian khác đều có hình thức tồn tại và một quá trình

diễn hoá cực kỳ phong phú và cực kỳ phức tạp. Đồ hình Pháp Luân này là [hình] ảnh thu

nhỏ của vũ trụ, tại từng không gian khác nó cũng có hình thức tồn tại và quá trình diễn hoá

của mình, vậy nên tôi gọi [đó] là một thế giới.

Khi xoay chuyển theo chiều kim đồng hồ thì Pháp Luân có thể tự động hấp thụ năng

lượng vũ trụ; khi xoay chuyển ngược chiều kim đồng hồ thì [nó] có thể phát phóng năng

lượng. Xoáy vào (thuận chiều kim đồng hồ) độ bản thân, xoáy ra (ngược chiều kim đồng

hồ) độ nhân; [đó] là một đặc điểm của công pháp chúng ta. Có người nói: 'Chúng ta là

Phật gia, vì sao còn có thái cực? Thái cực ấy phải chăng là Đạo gia?' Bởi vì công của

chúng ta luyện được rất lớn; [điều] luyện được tương đương với cả vũ trụ. Như vậy mọi

người thử nghĩ xem, trong vũ trụ này có hai 'gia' lớn là Phật gia và Đạo gia, loại trừ đi bất

kỳ 'gia' nào cũng không cấu thành nên vũ trụ hoàn chỉnh được, không thể nói là vũ trụ

hoàn chỉnh được; do đó chúng ta ở đây cũng có những điều trong Đạo gia. Có người

giảng: 'Nhưng không phải chỉ có Đạo gia, còn có những [môn] như Cơ Đốc giáo, Nho

giáo, và những [tôn] giáo khác nữa'. Tôi nói với chư vị rằng, Nho giáo khi tu luyện đến

tầng cực cao, nó quy về Đạo gia; còn ở phương tây có rất nhiều tôn giáo sau khi tu lên cao

tầng, chúng quy về Phật gia, chúng thuộc về cùng một thể hệ bên Phật gia. Đó là hai thể

hệ lớn.

Vậy tại sao thái cực đồ [hình] vừa có hai cái trên đỏ dưới xanh lam, vừa có hai cái

trên đỏ dưới đen? Theo chỗ hiểu thông thường của chúng ta, thái cực là do hai chủng vật

chất đen và trắng cấu thành, [ấy là] khí âm và khí dương. Đó là nhận thức đứng tại tầng rất

nông [cạn] mà xét; tại các không gian khác nhau có các hiển thị [tại] không gian khác

nhau. Hiển thị tại tầng cao nhất, thì mầu sắc của nó chính là như thế. Đạo [gia] mà chúng

ta vẫn thường biết đến chính là [có thái cực đồ] có mầu sắc trên đỏ dưới đen. [Tôi] lấy một

thí dụ, một số người trong chúng ta đã khai thiên mục, phát hiện rằng dùng mắt nhìn thì

thấy [vật] mầu đỏ, [nhưng] tại không gian chỉ sai khác một tầng mà nhìn thì nó là mầu

xanh lục. Cái [vật] mầu vàng kim này ở trong không gian khác lại thấy là mầu tím; nó có

Đồ hình Pháp Luân

80

sự tương phản sai biệt như thế; tức là mầu sắc tại các không gian khác nhau cũng có sự

thay đổi khác nhau. Thái cực trên đỏ dưới xanh lam là thuộc về Tiên Thiên Đại Đạo, bao

gồm pháp môn tu luyện Kỳ Môn. Phù [hiệu] chữ 卍 tại bốn [bên] mặt là Phật gia; chúng

giống với [phù hiệu] ở giữa; đều là Phật gia. Mầu sắc của Pháp Luân này trông rất tươi

sáng, chúng tôi lấy nó làm ký hiệu của Pháp Luân Đại Pháp.

Mọi người chúng ta thông qua thiên mục nhìn thấy Pháp Luân này không nhất định có

mầu sắc như vậy; mầu nền này thay đổi, nhưng mẫu hình không thay đổi. Khi Pháp Luân

mà tôi cấp cho chư vị ở vị trí bụng dưới đang xoay chuyển, thiên mục của chư vị nhìn

được [nó], có thể [là] đỏ, có thể là tím, có thể là xanh lục; cũng có thể là vô sắc. Đỏ da-

cam vàng lục lục-lam lam tím, mầu nền của nó không ngừng đổi mầu như thế; do đó điều

chư vị nhìn thấy được có thể có các mầu sắc khác; nhưng mầu sắc của mẫu hình phù

[hiệu] chữ 卍 và thái cực ở bên trong không thay đổi. Chúng tôi nhận thấy màu nền này

của mẫu hình rất đẹp mắt, nên chúng tôi lấy nó cố định lại [như thế]. Người có công năng

có thể thấu qua tầng không gian này mà thấy được rất nhiều điều.

Có người nói: 'Phù [hiệu] chữ 卍 này trông rất giống như thứ của Hitler'. [Tôi] nói

với mọi người rằng phù hiệu này bản thân nó không có khái niệm giai cấp nào hết. Có

người nói: 'Nếu góc này mà quay hướng nghiêng phía kia thì đúng là thứ của Hitler'.

Không phải như thế, nó xoay chuyển cả hai phía. Xã hội nhân loại chúng ta đã biết đến

mẫu hình này một cách rộng rãi từ 2500 năm trước đây, từ thời đại Thích Ca Mâu Ni đã

biết đến nó. Hitler là vào thời Chiến tranh thế giới lần thứ hai tính đến nay mới có mấy

chục năm; ông ta đã trộm lấy nó để dùng. Tuy nhiên mầu sắc của nó khác với của chúng

ta; nó mầu đen; hơn nữa nó hướng đầu nhọn lên trên, để đứng, dùng đứng như thế. Về

Pháp Luân này [tôi] chỉ giảng đến đây thôi, chúng tôi chỉ giảng đến hình thức bên ngoài

của nó thôi.

Vậy phù [hiệu] chữ 卍 trong Phật gia chúng ta [biểu] thị điều gì? Có người nói là cát

tường như ý; đó là cách giải thích ở người thường. Tôi nói với chư vị rằng, phù [hiệu] chữ

卍 là tiêu chí của tầng các Phật; chỉ đạt đến tầng của Phật mới có. Bồ Tát, La Hán không

có; tuy nhiên Đại Bồ Tát, tứ Đại Bồ Tát đều có. Chúng tôi thấy rằng những Đại Bồ Tát

này đã vượt xa khỏi tầng của Phật thông thường, thậm chí cao hơn cả Như Lai. Chư Phật

vượt quá tầng Như Lai có nhiều đến mức không đếm được. Như Lai chỉ có một phù [hiệu]

chữ 卍, đạt đến tầng Như Lai trở lên, phù [hiệu] chữ 卍 sẽ [xuất hiện] nhiều hơn. Vượt

gấp đôi Như Lai thì có 2 phù [hiệu] chữ 卍. Vượt lên nữa sẽ có 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, v.v.

đầy khắp thân cũng có. Trên đầu, hai đầu vai, đầu gối đều sẽ xuất hiện; khi nhiều quá thì

cả các chỗ như lòng bàn tay, ngón tay, gan bàn chân, ngón chân đều sẽ xuất hiện [các chữ

ấy]. Tuỳ theo tầng không ngừng đề cao, các phù [hiệu] chữ 卍 sẽ không ngừng tăng thêm

nhiều; do vậy phù [hiệu] chữ 卍 là đại biểu cho tầng của Phật; tầng của Phật càng cao thì

phù [hiệu] chữ 卍 càng nhiều.

Kỳ Môn công pháp

Ngoài các công pháp bên Phật gia và Đạo gia, còn có Kỳ Môn công pháp; họ tự gọi

mình là 'Kỳ Môn tu luyện'. Đối với các công pháp tu luyện thì người thường chúng ta có

nhận thức thế này: Trung Quốc từ thời cổ đại đến nay, người ta nhìn nhận rằng các công

pháp bên Phật gia và Đạo gia là các phương pháp tu luyện chính thống, cũng gọi chúng là

tu luyện chính pháp môn. Kỳ Môn công pháp này từ xưa đến nay chưa hề [được] công bố

ra thế [gian]; rất ít người biết được sự tồn tại của họ, chỉ nghe nói đến qua các tác phẩm

nghệ thuật.

Có Kỳ Môn công pháp hay không? Có. Tôi trong quá trình tu luyện, đặc biệt là vào

một số năm về sau, tôi đã gặp ba vị cao nhân ở bên Kỳ Môn; [họ] truyền cấp cho tôi

Kỳ Môn công pháp

81

những tinh hoa trong môn của mình, những điều hết sức độc đáo đặc biệt, hết sức hay.

Chính vì những điều của họ rất độc đáo đặc biệt, nên những [thứ] luyện xuất lai cũng cổ

quái phi thường; người thường không thể hiểu được. Ngoài ra còn giảng một câu: 'phi

Phật phi Đạo', không tu Phật không tu Đạo. Người ta hễ nghe thấy chẳng tu Phật cũng

chẳng tu Đạo, liền gọi họ là 'bàng môn tả đạo', họ tự gọi mình là 'Kỳ Môn công pháp'.

Nói bàng môn tả đạo là có ý khinh thường, nhưng không có ý phản đối, không bảo rằng họ

là tà pháp; điểm này là khẳng định. Lý giải trên chữ [nghĩa] cũng không có ngụ ý tà pháp.

Lịch sử xưa nay [người ta] vẫn coi công pháp của Phật và Đạo mới xứng là tu luyện chính

pháp môn; khi người ta không nhận thức được công pháp của họ, thì người ta nói họ là

'bàng môn', [tức là] cửa bên cạnh, không phải chính pháp môn. Thế còn 'tả đạo'? Tả đạo

ngụ ý là vụng về dốt nát, con đường vụng về. Chữ 'tả' tại Trung Quốc cổ đại thường hay

nói thành 'bổn'; 'bàng môn tả đạo' là có ngụ ý như thế1.

Vì sao họ không phải tà pháp? Vì họ cũng có yêu cầu nghiêm khắc về tâm tính, họ

cũng tu luyện chiểu theo đặc tính vũ trụ, họ cũng không vi phạm đặc tính của vũ trụ, [và]

quy luật của vũ trụ, họ cũng không làm điều xấu; do đó không thể nói nó là tà pháp.

Không phải vì đặc tính của vũ trụ chúng ta phù hợp với phương pháp tu luyện của Phật gia

và Đạo gia, mà là vì phương pháp tu luyện của Phật gia và Đạo gia phù hợp với đặc tính

của vũ trụ, nên mới [trở] thành chính Pháp. Tu luyện của Kỳ Môn công pháp nếu phù hợp

với đặc tính của vũ trụ này, thì họ không phải tà pháp, mà cũng lại là chính Pháp; bởi vì

tiêu chuẩn nhận định tốt-xấu thiện-ác là đặc tính của vũ trụ. Họ chiểu theo đặc tính vũ trụ

mà tu, cho nên nó cũng là con đường chính; chỉ có điều đặc điểm yêu cầu của họ khác với

bên Phật gia và Đạo gia. Họ cũng không giảng việc truyền đồ đệ một cách rộng rãi, phạm

vi truyền rất nhỏ. Đạo gia truyền công, dạy một lô đồ đệ khá đông, tuy nhiên trong đó chỉ

có một đồ đệ chân truyền; Phật gia giảng phổ độ chúng sinh, ai có thể tu thì người ấy tu.

Khi truyền thừa Kỳ Môn công pháp không thể chọn hai người, mà trong một thời kỳ

lịch sử rất dài mới tuyển chọn một người để truyền; do đó những điều của họ không hề

được người thường biết đến trong lịch sử xưa nay. Đương nhiên vào lúc khí công lên cao

trào, tôi phát hiện rằng trong công pháp này có một số ít người cũng ra truyền công. Tuy

nhiên truyền tới truyền lui [một thời gian] thì họ thấy không được, bởi vì có một số điều

mà sư phụ của họ hoàn toàn không cho phép họ truyền. Nếu chư vị truyền công [phổ cập],

thì chư vị không thể chọn người [học]; những người đến [học], tâm tính cao thấp tại các

tầng khác nhau. [Những người] ôm giữ những quan niệm khác nhau đến [học], loại người

nào cũng có, nên chư vị không có cách nào chọn đồ đệ để truyền. Do vậy không phổ cập

Kỳ Môn công pháp được, dễ xuất hiện nguy hiểm; bởi vì những điều của họ rất đặc thù.

Có người nghĩ: Phật gia tu Phật, Đạo gia tu [thành] Chân Nhân, Kỳ Môn công pháp

này tu thành thì được tính là gì? Là tản Tiên, họ không có phạm vi thế giới cố định [trong]

vũ trụ. Mọi người đều biết, Phật Như Lai Thích Ca Mâu Ni có thế giới Ta Bà, Phật A Di

Đà có thế giới Cực Lạc, Phật Dược Sư có thế giới Lưu Ly; mỗi Như Lai và Đại Phật đều

có thế giới của mình. Mỗi một Đại Giác Giả đều có một thiên quốc do tự mình tổ chức; rất

nhiều đệ tử của họ sinh sống trong đó. Nhưng Kỳ Môn công pháp họ không có phạm vi cố

định [trong] vũ trụ, họ chỉ giống như du Thần tản Tiên.

Luyện tà pháp

Luyện tà pháp là gì? Có một số hình thức như thế này: có một loại người chuyên

luyện tà pháp, bởi vì những điều đó [luôn] có người truyền trong các [thời] đại lịch sử. Tại

sao lại truyền những thứ ấy? Vì họ truy cầu những danh, lợi, phát tài ở nơi người thường,

1Về các chữ Hán trong đoạn này. Có chữ môn, nghĩa là cửa, cũng có nghĩa môn phái; tương tự với chữ đạo, nghĩa

là con đường, cũng có nghĩa là đạo, hay một môn phái nào đó. Bàng môn → cái cửa bên cạnh, không phải là chính

pháp môn. Tả đạo, hay bổn đạo → con đường vụng về dốt nát, không phải là chính đạo. Hiểu trên nghĩa bề mặt là

như vậy.

Luyện tà pháp

82

họ giảng những thứ ấy. Tất nhiên tâm tính của họ không cao, nên họ không đắc công. Họ

đắc [được] gì? [Đắc] nghiệp lực. Khi nghiệp lực của người ta lớn, thì cũng sẽ hình thành

một loại năng lượng. Nhưng họ không có tầng, họ so với người luyện công thì không so

được, nhưng so với người thường thì lại có thể ước chế người thường. Bởi vì những thứ ấy

cũng là một loại thể hiện của năng lượng, khi mật độ tập trung lại rất lớn, cũng có thể làm

cho công năng trên thân [thể] người ta mạnh lên, cũng có thể phát huy tác dụng như thế;

do đó trong lịch sử xưa nay cũng có một số người truyền những điều này. Họ nói: 'Tôi

làm điều xấu, [nhục] mạ người ta, thì tôi tăng công'. Họ không hề tăng công, [trên] thực tế

là làm mật độ vật chất màu đen tăng lên; bởi vì làm điều xấu có thể đắc vật chất màu đen,

[tức là] nghiệp lực. Do vậy họ có thể khiến những công năng nho nhỏ vốn mang trên thân

thể {của họ} nhờ nghiệp lực kia mà trở nên mạnh hơn; họ có thể sinh ra một ít công năng

nhỏ bé, nhưng không làm được điều gì to tát. Những người này cho rằng, làm việc xấu thì

cũng tăng công, [ấy là] họ có cách nói như thế.

Có người giảng những thứ như: 'Đạo cao một thước, ma cao một trượng'. Đó là tà

thuyết nơi người thường; ma kia vĩnh viễn không thể cao hơn Đạo được. Có một tình

huống như thế này; vũ trụ mà nhân loại chúng ta nhận thức được chỉ là một tiểu vũ trụ

trong vô số các vũ trụ; chúng ta gọi tắt [nó] là vũ trụ. Vũ trụ ấy của chúng ta mỗi lần trải

qua thời gian hết sức lâu dài, thì đều phát sinh một đại tai nạn vũ trụ. Vụ tai nạn ấy sẽ làm

cho hết thảy [mọi thứ] trong vũ trụ, kể cả các tinh cầu đều có thể [bị] huỷ diệt, hết thảy các

sinh mệnh trong vũ trụ đều có thể [bị] huỷ diệt. Sự vận động của vũ trụ cũng có quy luật

[của nó]; [tại] vũ trụ chúng ta lần này không chỉ có nhân loại là đã biến chất trở nên xấu;

có rất nhiều sinh mệnh đã thấy được tình huống này, rằng hiện nay, trong không gian vũ

trụ này từ lâu đã phát sinh một vụ nổ lớn. Các nhà thiên văn học hiện nay không nhìn thấy,

là vì hiện nay khi chúng ta dùng kính viễn vọng lớn nhất mà nhìn, thì quang cảnh nhìn

được là những sự việc 15 vạn năm ánh sáng trước đây. Nếu muốn nhìn thấy sự biến hoá

của thiên thể hiện nay, họ cần sau 15 vạn năm ánh sáng nữa mới có thể nhìn thấy được,

như vậy rất là lâu.

Toàn bộ vũ trụ hiện nay đã xuất hiện một biến đổi rất to lớn; mỗi khi xuất hiện sự

biến đổi như vậy, toàn bộ các sinh mệnh của toàn vũ trụ đều [bị] xử [lý] huỷ diệt, toàn bộ

đều [bị] đặt vào trạng thái huỷ diệt. Mỗi một khi phát sinh tình huống như vậy, thì đặc tính

tồn tại từ trước trong vũ trụ và vật chất trong đó đều cần phải [bị] làm cho nổ tung; thông

thường đều bị nổ chết hết; tuy nhiên qua mỗi lần nổ cũng không có sạch hết. Khi vũ trụ

mới được những Đại Giác Giả cực cao cực cao kiến tạo lại mới xong rồi, trong đó vẫn có

[còn tồn tại] một số không bị nổ chết. Các Đại Giác Giả kiến tạo vũ trụ [mới] này là chiểu

theo đặc tính của bản thân mình, [theo] tiêu chuẩn của bản thân mình mà kiến tạo vũ trụ

ấy; do đó [so] với đặc tính vũ trụ của thời kỳ trước đó có những chỗ bất đồng.

[Những sinh mệnh] không bị nổ chết, cứ ôm giữ đặc tính ban đầu, [Pháp] lý ban đầu

trong khi hành xử tại vũ trụ [mới] này. Vũ trụ mới được kiến tạo ra là chiểu theo đặc tính

vũ trụ mới, theo [Pháp] lý này mà hành xử. Do đó [những gì] đã không bị nổ chết trở

thành ma can nhiễu đến [Pháp] lý của vũ trụ. Nhưng họ không có xấu tệ đến thế, họ chẳng

qua chỉ chiểu theo đặc tính của vũ trụ chu kỳ trước mà hành xử; đó chính là cái mà người

ta gọi là 'thiên ma'. Nhưng đối với người thường họ không có sự uy hiếp gì cả, họ hoàn

toàn không hại người, họ chỉ hành sự theo cái lý họ ôm giữ mà thôi. Trong quá khứ đây là

điều người thường không được phép biết đến; tôi nói rằng những Phật ở cảnh giới rất cao

siêu quá tầng Như Lai có rất nhiều, những ma ấy đáng kể gì, so sánh thật quá ư nhỏ bé.

Lão, Bệnh, Tử cũng là một loại ma, nhưng được sinh ra để duy hộ đặc tính vũ trụ.

Trong Phật giáo giảng lục đạo luân hồi, giảng về vấn đề [có] một đạo [là] A Tu La; kỳ

thực chính là [một] sinh vật của không gian khác, nhưng không mang bản tính [con]

người. Theo [góc độ] Đại Giác Giả mà xét, chúng cực kỳ cực kỳ thấp, không hề có khả

Luyện tà pháp

83

năng gì; nhưng trong con mắt người thường thì [chúng] thật đáng sợ; chúng có tồn tại

năng lượng nhất định; chúng xem người thường như thú vật, nên thích ăn người. Mấy năm

gần đây, chúng cũng chạy ra truyền công. Chúng được tính là gì đây; [hình dáng] chúng

trông có ra hình người [đâu]? Làm người ta rất sợ; học những thứ của chúng rồi thì phải

theo chúng [thành] đồng loại của chúng. Có một số người khi luyện công, tư tưởng không

đúng đắn, khi phù hợp với cách nghĩ của chúng, chúng liền đến dạy chư vị. Nhất chính áp

bách tà, khi chư vị không truy cầu, thì không ai dám động đến chư vị. Nếu chư vị sinh ra

tà niệm, truy cầu những thứ không tốt, chúng sẽ đến giúp chư vị, chư vị sẽ tu theo ma đạo;

sẽ xuất hiện vấn đề này.

Còn có một tình huống nữa gọi là 'luyện tà pháp không tự biết'. Tại sao gọi là luyện

tà pháp không tự biết? Chính là vì người ta không hiểu được rằng mình đang luyện tà

pháp. Sự việc này hết sức phổ biến, quả là có rất nhiều. Giống như tôi đã giảng hôm vừa

rồi, có nhiều người luyện công tư tưởng không đúng đắn; chư vị thấy họ đang [luyện] trạm

trang ở kia, tay mỏi run cả lên, chân cũng mỏi run cả lên. Nhưng [đầu] não họ vẫn không

nghỉ, họ nghĩ: 'Vật giá leo thang, mình phải đi mua mấy thứ; luyện công xong mình sẽ đi

mua; nếu không giá lại tăng lên'. Có người nghĩ: 'Đơn vị [công tác] hiện nay đang phân

nhà, phân nhà [lần này] không biết có mình trong ấy không nhỉ? Người phụ trách phân nhà

đối xử tệ với mình như thế như thế'. Càng nghĩ càng bực mình: 'Hắn thể nào cũng không

cấp nhà cho mình, mình sẽ cho hắn biết tay như thế này này ...' niệm đầu nào cũng có.

Như tôi đã giảng, [họ] nói từ chuyện nhà mình cho đến quốc gia đại sự; nói đến chỗ không

vừa ý thì càng nói càng bực mình.

Luyện công cần [coi] trọng đức; khi chúng ta luyện công, chư vị không nghĩ việc tốt,

thì cũng không thể nghĩ việc xấu; tốt nhất là đừng nghĩ gì hết. Bởi vì khi luyện công tại

tầng thấp cần phải thiết lập một cơ sở; cơ sở ấy phát huy tác dụng hết sức quan trọng, bởi

vì ý niệm hoạt động của con người có một tác dụng nhất định. Mọi người thử nghĩ xem,

hỏi những gì được thêm vào trong công của chư vị, những điều chư vị luyện xuất ra được

có thể là tốt không? Nó có thể không phải là đen đen không? Hỏi có bao nhiêu người

không ôm giữ cách nghĩ như trên khi luyện công? Chư vị tại vì sao luyện công mãi mà

không hết bệnh? Tại nơi luyện công có một số người không có nghĩ đến việc xấu như thế,

tuy nhiên khi luyện [công] họ vẫn cứ ôm giữ mãi [tâm] cầu công năng, cầu điều này cầu

điều khác, các loại tâm thái, [cũng như] các loại dục vọng mạnh mẽ. Kỳ thực, [họ] đang

luyện tà pháp [mà] không tự biết; nếu chư vị bảo rằng họ luyện tà pháp, họ có thể không

ưng ý: 'Tôi là có khí công đại sư này nọ dạy tôi kia đấy'. Tuy nhiên khí công đại sư ấy bảo

chư vị [coi] trọng đức, chư vị có [coi] trọng không? Khi chư vị luyện công, chư vị cứ thêm

vào những ý niệm bất hảo, chư vị thử nói xem chư vị có thể luyện xuất ra được gì tốt

không? Chính là vấn đề ấy, nó thuộc về luyện tà pháp không tự biết, vô cùng phổ biến.

Nam nữ song tu

Trong giới tu luyện có một loại phương pháp tu luyện, gọi là 'nam nữ song tu'. Mọi

người đã có thể nhìn thấy trong phương pháp tu luyện Mật tông Tây Tạng, ở các hình

tượng Phật điêu khắc hoặc hình hoạ, thấy một [thân] thể nam ôm một [thân] thể nữ đang

tu luyện. Có những lúc hình thức biểu hiện của [thân] thể nam là Phật, đang ôm một người

nữ không mặc gì cả; cũng có [lúc là] thân biến hoá của Phật, biến thành hình tượng kim

cương đầu bò mặt ngựa, ôm một [thân] thể nữ cũng không mặc chút gì. Tại sao lại như

thế? Trước hết chúng tôi nói rõ vấn đề này cho chư vị. Trên trái đất chúng ta, không chỉ

Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho gia, [mà] toàn thể nhân loại chúng ta, vào thời cổ đại

mấy thế kỷ trước, [thì] quan niệm đạo đức của nhân loại không khác [nhau] nhiều. Do đó

loại phương pháp tu luyện ấy thực ra không bắt nguồn từ trái đất này của chúng ta, nó

truyền từ tinh cầu khác đến; nhưng loại phương pháp ấy thật sự có khả năng tu luyện. Thời

Nam nữ song tu

84

ấy khi loại phương pháp này truyền nhập vào Trung Quốc nước ta, thì chính vì nó có bộ

phận nam nữ song tu và tu luyện bí mật, [nên] không được người Trung Quốc tiếp thụ; do

đó vào những năm Hội Xương [triều] đại nhà Đường đã bị hoàng đế đất người Hán tiêu

diệt. Không cho phép nó lưu truyền tại Hán địa; thời ấy gọi là Đường Mật. Nhưng nó ở

hoàn cảnh đặc thù nơi Tây Tạng, ở vùng đất đặc thù ấy, nó đã được lưu truyền về sau. Tu

luyện kiểu như thế là vì sao? Mục đích của nam nữ song tu là cần lấy âm bổ dương, lấy

dương bổ âm, bổ trợ cho nhau cùng tu, đạt đến mục đích âm dương cân bằng.

Mọi người đã biết, dẫu là Phật gia hay Đạo gia cũng vậy, đặc biệt là học thuyết âm

dương của Đạo gia giảng rằng, [thân] thể người tự đã có âm dương tồn tại. Vì [thân] thể

người có âm dương tồn tại, [thân] thể người mới có thể tu luyện xuất ra các loại công

năng, nguyên anh, anh hài, Pháp thân cũng như các thể sinh mệnh. Vì có âm dương tồn

tại, nên có thể luyện xuất ra được rất nhiều thể sinh mệnh. Bất luận là người nam hay nữ,

đều như nhau cả, từ khối điền của đan điền ấy đều có thể sinh thành [những sinh mệnh nói

trên]; thuyết này rất có đạo lý. Đạo gia vẫn thường coi nửa trên thân là dương, nửa dưới

thân là âm; cũng có [người] coi mặt lưng là dương, mặt trước thân là âm; lại cũng có

[người] coi thân thể người bên trái là dương, bên phải là âm. Trung Quốc chúng ta có cách

nói rằng 'nam tả nữ hữu', cũng chính từ đây mà ra, rất có đạo lý. Vì thân người đã tự có

âm dương tồn tại, [nên] dưới tác dụng âm dương tương hỗ, tự thân sẽ có thể đạt đến âm

dương cân bằng, cũng sẽ có thể sản sinh ra rất nhiều các thể sinh mệnh.

Điều này đã nói rõ một vấn đề, chúng ta không cần dùng đến phương pháp tu luyện

nam nữ song tu, cũng có thể tu lên đến tầng rất cao như thế. Nếu như dùng đến phương

pháp tu luyện nam nữ song tu, nếu như giữ [tâm tính] không vững, thì sẽ nhập ma, sẽ

thành tà pháp. Tại tầng rất cao [trong] Mật tông nếu muốn dùng đến nam nữ song tu, thì

hoà thượng [hoặc] lạt-ma ấy cần phải tu luyện lên đến tầng rất cao rồi. Tới lúc đó sư phụ

của họ sẽ [hướng] dẫn họ tiến hành loại tu luyện này; vì tâm tính của họ rất cao, họ có thể

giữ [mình] được vững, [nên] không lạc sang những điều tà. Còn đối với những người tâm

tính rất thấp thì tuyệt đối không thể dùng đến [phương pháp này]; dùng đến thì sẽ nhập tà

pháp, bảo đảm là vậy. Vì tâm tính có hạn, các tâm dục vọng ở cảnh giới người thường

chưa bỏ, tâm sắc [dục] chưa bỏ, xích độ của tâm tính chỉ ở đó thôi, đảm bảo rằng hễ dùng

một cái là tà ngay. Do đó chúng tôi giảng rằng, tuỳ tiện truyền [nó] ở tầng thấp, thì chính

là truyền tà pháp.

Vài năm nay có không ít khí công sư truyền giảng nam nữ song tu. Kỳ lạ ở chỗ nào?

Đạo gia cũng xuất hiện phương pháp tu luyện nam nữ song tu; hơn nữa [nó] không phải

xuất hiện bây giờ, [mà] bắt đầu từ [triều] đại nhà Đường. Đạo gia xuất hiện nam nữ song

tu là sao? [Trong] học thuyết thái cực của Đạo gia, thân thể là tiểu vũ trụ, tự đã có âm

dương. Các đại pháp chính truyền chân chính đều lưu truyền từ những niên đại xa xưa; tự

ý thay đổi, tự ý cho thêm vào bất kể thứ gì đều chính là làm loạn những điều trong pháp

môn ấy, làm cho nó không thể đạt mục đích tu luyện viên mãn được. Do đó [nếu] trong

công pháp ấy không có những điều nam nữ song tu, thì nhất định không thể [thực hành

nam nữ song] tu; nếu dùng, thì sẽ sai lệch, sẽ xuất hiện vấn đề. Đặc biệt pháp môn Pháp

Luân Đại Pháp chúng tôi, không có nam nữ song tu, cũng không giảng về nó. Vấn đề này,

chúng tôi có nhìn nhận như vậy.

Tính mệnh song tu

Vấn đề tính mệnh song tu này đã được giảng giải rõ cho mọi người rồi. 'Tính mệnh

song tu' chính là ngoài việc tu luyện tâm tính ra, cũng đồng thời tu mệnh; nghĩa là, cải

biến bản thể. Trong quá trình cải biến ấy, trong khi các tế bào của con người dần dần được

vật chất cao năng lượng thay thế, thì lão hoá sẽ chậm lại. Thân thể biểu hiện sự lùi lại

hướng về tuổi trẻ con người, dần dần lùi lại, dần dần chuyển hoá; cuối cùng khi đã hoàn

Tính mệnh song tu

85

toàn được vật chất cao năng lượng thay thế, [thì] thân thể cá nhân ấy đã hoàn toàn chuyển

hoá thành một loại thân thể [cấu thành từ] vật chất không gian khác. Loại thân thể này

giống như 'ra ngoài ngũ hành' mà tôi đã giảng, không ở trong ngũ hành nữa; thân thể của

người ấy đã là một thân thể bất hoại rồi.

Tu luyện trong chùa chỉ là tu tính, nên không giảng thủ pháp, không giảng tu mệnh;

họ giảng niết bàn. Phương pháp Thích Ca Mâu Ni truyền là giảng niết bàn; kỳ thực bản

thân Thích Ca Mâu Ni có đại pháp cao thâm, có thể chuyển hoá hoàn toàn bản thể thành

vật chất cao năng lượng để mang theo. Ông muốn lưu lại pháp tu này, [nên] bản thân Ông

cũng niết bàn. Vì sao Ông dạy như thế? Là vì Ông muốn người ta vứt bỏ đến mức tối đa

các tâm chấp trước, điều gì cũng vứt bỏ, cuối cùng đến thân thể cũng vứt bỏ; tất cả các

tâm đều không có. Vì muốn người ta đạt đến mức độ tối đa như thế nên Ông đã đi con

đường niết bàn; do đó hoà thượng xưa nay đều đi con đường niết bàn này. Niết bàn chính

là hoà thượng chết rồi, nhục thân bỏ đi, nguyên thần của bản thân họ mang theo công mà

đi lên.

Trọng điểm của Đạo gia đặt vào tu mệnh; vì họ tuyển đồ đệ, không giảng phổ độ

chúng sinh, [nên] họ đối diện là với những người hết sức tốt, tốt phi thường. Do đó họ

giảng những thứ thuật loại, họ giảng vấn đề làm sao để tu mệnh. Tuy nhiên tại các phương

pháp tu luyện đặc định của Phật gia, đặc biệt trong phương pháp của Phật giáo thì không

thể giảng điều này. [Nhưng] không phải [tất cả] đều không giảng; trong nhiều đại pháp cao

thâm của Phật gia cũng có giảng [điều này]; pháp môn chúng tôi có giảng. Môn Pháp

Luân Đại Pháp này của chúng tôi cần cả bản thể, cần cả nguyên anh; hai cái này có chỗ

khác nhau. Nguyên anh cũng là thân thể cấu thành từ vật chất cao năng lượng, nhưng nó

không thể hiển hiện một cách tuỳ tiện tại không gian này của chúng ta; còn nếu muốn bảo

trì lâu dài hình tượng giống như người thường tại không gian này, [thì] cần phải có bản thể

chúng ta. Do vậy sau khi bản thể này chuyển hoá rồi, tuy rằng các tế bào của nó đã được

vật chất cao năng lượng thay thế, nhưng trình tự sắp xếp của các phân tử không thay đổi,

do đó nhìn thì không khác mấy so với thân thể người bình thường. Tuy nhiên có chỗ khác

biệt [so với người thường], tức là, thân thể này có thể tiến nhập vào không gian khác.

Công pháp tính mệnh song tu, từ ngoài mà quan sát người ta cảm thấy như trẻ ra

nhiều tuổi; cá nhân nhìn bề ngoài khác nhiều so với tuổi thực tế. Một hôm có người hỏi

tôi: 'Thưa Sư phụ, thầy nhìn xem con đã bao nhiêu tuổi?' Kỳ thực, bà đã gần 70 tuổi rồi,

[nhưng] biểu hiện [bên ngoài như] mới có 40 tuổi. Không có nếp nhăn, sắc mặt sáng sủa,

trắng trẻo, hồng hào; không hề giống như những người 70 tuổi. Người luyện Pháp Luân

Đại Pháp chúng ta sẽ xuất hiện tình huống này. Nói vui thế này, các cô nương trẻ tuổi đều

trang điểm, muốn da dẻ trắng trẻo hơn, đẹp hơn. Tôi nói rằng chư vị tu luyện công pháp

tính mệnh song tu một cách chân chính, [thì] tự nhiên đạt được điều ấy; bảo đảm là chư vị

không [cần] trang điểm. Chúng tôi không đưa [thêm] ví dụ về phương diện này [nữa]. Vì

trước đây tại các ban ngành có khá nhiều người cao tuổi, nên người ta thường coi tôi là

người còn ít tuổi; hiện nay khá hơn rồi, [vì] tại các ban ngành cũng có khá nhiều người trẻ.

Kỳ thực tôi cũng không còn trẻ nữa, cũng đang đến 50 tuổi rồi; hiện nay đã 43 tuổi rồi.

Pháp thân

Tại sao trên [hình] tượng Phật có một trường? Có nhiều người giải thích không được;

cũng có người nói: 'Trên tượng Phật có trường là vì hoà thượng hướng vào tượng Phật

niệm kinh mà sinh ra', tức là trường do hoà thượng tu luyện ở trước [tượng] sinh ra. Tuy

nhiên hoà thượng tu luyện cũng vậy, ai tu luyện cũng vậy, loại năng lượng ấy là tản xạ,

không định hướng; nên chăng là toàn bộ sàn, trần, tường nơi Phật đường đều có trường ấy

như nhau. Vậy cớ sao chỉ có trường ở trên tượng Phật mới mạnh như thế? Đặc biệt ở các

tượng Phật trong núi sâu, hoặc tại sơn động, hoặc tạc trên vách núi, thường hay có tồn tại

Pháp thân

86

trường ấy. Vì sao xuất hiện trường này? Có người giải thích thế này, giải thích thế kia, giải

thích thế nào cũng không giải thích được thông. Kỳ thực trên tượng Phật có trường ấy là vì

trên tượng Phật có một Pháp thân của Giác Giả. Pháp thân của Giác Giả ấy tại chỗ đó, do

đó nó có năng lượng.

Thích Ca Mâu Ni hay Bồ Tát Quán Âm cũng vậy, nếu như trong lịch sử thật sự có

nhân vật ấy, mọi người thử nghĩ xem, khi họ tu luyện, thì họ cũng là người luyện công

phải không? Người ta sau khi tu đến một tầng rất cao nào đó ở xuất thế gian pháp, thì sẽ

sản sinh ra Pháp thân. Pháp thân được sinh ra từ bộ vị của đan điền người ta, là do Pháp và

công cấu thành, là thể hiện xuất ra ở tại không gian khác. Pháp thân được trang bị đầy đủ

uy lực rất lớn của bản thân họ; nhưng ý thức của Pháp thân, tư tưởng của Pháp thân chịu

sự khống chế [điều hành] của chủ thể. Nhưng bản thân Pháp thân cũng là một sinh mệnh

cá thể hoàn chỉnh, độc lập, hết sức thực tại; do vậy bản thân [nó] cũng có thể thực thi bất

kể sự việc gì một cách độc lập. Sự việc mà Pháp thân thực thi là giống với, giống như đúc

với sự việc mà chủ ý thức của người ta mong muốn thực thi. Sự việc ấy bảo bản thân thực

thi thì sẽ thực thi như thế nào, [thì để] Pháp thân thực thi cũng lại như thế ấy; đây chính là

điều mà chúng tôi gọi là 'Pháp thân'. Tôi muốn làm một sự việc nào đó, ví như giúp đệ tử

tu luyện chân chính điều chỉnh thân thể, [thì] đều do Pháp thân của tôi làm. Bởi vì Pháp

thân không mang cái thân thể thường nhân như thế này, nên [Pháp thân] thể hiện tại không

gian khác. Thể sinh mệnh ấy cũng không cố định bất biến; Pháp thân có thể biến thành lớn

thu thành nhỏ. Có lúc Pháp thân biến thành rất lớn, lớn đến mức không nhìn được toàn bộ

đầu của Pháp thân; có lúc biến thành rất nhỏ, nhỏ đến mức nhỏ hơn cả tế bào.

Khai quang

[Hình] tượng Phật chế tạo từ công xưởng chỉ là một tác phẩm nghệ thuật. 'Khai

quang' chính là thỉnh mời một Pháp thân của Phật vào tượng Phật; rồi sau đó, coi tượng

Phật như một thân thể hữu hình [của Phật] nơi người thường để thờ cúng. Người luyện

công có cái tâm kính ngưỡng ấy, [thì] khi tu luyện, Pháp thân trên tượng Phật sẽ hộ Pháp

cho họ, coi sóc họ, bảo hộ họ; đây là mục đích chân chính của khai quang. Chỉ khi phát

xuất chính niệm trong nghi thức khai quang chính thức, hoặc có Đại Giác Giả tại tầng rất

cao, hoặc có người tu luyện ở tầng rất cao có lực lượng [quyền lực] ấy thì mới có thể thực

hiện được sự việc này.

Trong chùa giảng rằng tượng Phật cần phải khai quang; họ nói rằng tượng Phật chưa

qua khai quang thì không linh. [Về] các hoà thượng trong chùa hiện nay, các đại Pháp sư

chân chính, đều đã [qua đời] không còn tại thế. Từ sau "Đại cách mạng Văn hoá", trong

những tiểu hoà thượng có những vị không được chân truyền [nhưng] hiện nay làm trụ trì;

có rất nhiều điều bị thất truyền. Hỏi họ khai quang để làm gì? Họ nói: 'Khai quang xong,

tượng Phật sẽ linh'. Cụ thể linh [nghiệm] ra sao, họ không nói rõ được. Do đó họ chỉ cử

hành nghi lễ, đặt một cuốn tiểu kinh văn vào trong tượng Phật, sau đó lấy giấy hồ [kín] lại,

[rồi] hướng vào đó niệm kinh, và họ nói rằng đã khai quang xong. Nhưng đã đạt được khai

quang chưa? Còn phải xem họ niệm kinh ra sao. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng chính niệm,

[đạt đến được] niệm kinh nhất tâm bất loạn, thì thật sự có khả năng tạo ra chấn động đến

thế giới pháp môn tu của Ông, như thế mới mời được Giác Giả. Một Pháp thân của Giác

Giả này sẽ đến và nhập lên [tượng Phật], như thế mới đạt được mục đích khai quang.

Có hoà thượng ở đó [vừa] niệm kinh, vừa nghĩ trong tâm: 'Khai quang xong [người

ta] đưa mình bao nhiêu tiền nhỉ.' Hoặc là vừa niệm kinh vừa nghĩ: 'Người kia xử tệ với

mình quá'. Họ ở đó cũng có lục đục tranh chấp, hiện nay vào thời kỳ mạt Pháp, không thể

không thừa nhận những hiện tượng ấy; tại đây chúng tôi không [định] phê bình Phật giáo;

vào thời kỳ mạt Pháp có những ngôi chùa chẳng hề thanh tịnh. Khi trong đầu họ nghĩ

những thứ ấy, phát sinh những niệm đầu không tốt như thế, hỏi các Giác Giả có thể đến

Khai quang

87

không? Hoàn toàn không đạt được mục đích khai quang. Tuy vậy [cũng] không tuyệt đối,

cũng có những chùa và Đạo viện đặc biệt tốt.

Ở một thành phố nọ tôi thấy một hoà thượng, tay đen thui. [Vị ấy] nhét cuốn kinh văn

vào tượng Phật, dán dán lại, miệng lẩm nhẩm đọc một chập là coi như khai quang xong.

Lại lấy một tượng Phật nữa, lại lẩm nhẩm một chập; mỗi một lần khai quang là 40 đồng.

Hoà thượng hiện nay đã biến [khai quang] thành hàng hoá thương mại, kiếm tiền bằng

khai quang tượng Phật. Tôi nhìn một cái là thấy ngay khai quang chưa được, hoàn toàn

không khai quang; hoà thượng ngày nay còn làm cả những việc như thế. Tôi còn thấy một

việc gì nữa? Trong chùa có một vị kia, trông giống như một cư sỹ, nói là khai quang tượng

Phật; vị này hướng mặt một chiếc gương về phía mặt trời, để ánh sáng phản chiếu lên thân

của tượng Phật, họ nói thế là khai quang xong. Đúng là đã đến mức thật quá tức cười! Phật

giáo hôm nay đã phát triển đến mức độ ấy; nó còn là một hiện tượng rất phổ biến.

Một bức tượng Phật lớn bằng đồng chế tạo tại Nam Kinh, [được] đưa đến đặt trên Đại

Dữ Sơn ở Hồng Kông; tượng Phật rất to lớn. Nhiều hoà thượng trên toàn thế giới đến để

khai quang tượng Phật này; trong đó có một hoà thượng hướng mặt tấm gương về phía

mặt trời, để ánh sáng phản chiếu rọi lên mặt của tượng Phật [và] gọi đó là khai quang. Một

đại hội lớn đến thế, ở một trường hợp nghiêm túc đến thế mà còn làm những việc ấy; tôi

nhận thấy rằng thật đáng buồn thay! Không lạ gì, Thích Ca Mâu Ni giảng: Đến thời kỳ

mạt Pháp, hoà thượng độ bản thân còn rất khó, độ nhân lại càng khó hơn. Thêm vào đó

còn có nhiều hoà thượng đứng tại góc độ của bản thân mình mà giải thích kinh Phật; cái

thứ gọi là 'Vương Mẫu Nương Nương kinh' cũng lọt được vào trong chùa; những điều

không phải là kinh điển trong Phật giáo cũng lọt vào trong chùa; làm loạn lung tung cả,

bây giờ thật loạn. Tất nhiên, vẫn có những hoà thượng tu luyện một cách chân chính, và

còn rất tốt. Khai quang trên thực tế là thỉnh mời Pháp thân của Giác Giả về ngụ trên tượng

Phật; đó là khai quang.

Nếu bức tượng Phật ấy chưa được khai quang thì không thể [thờ] cúng; nếu [thờ]

cúng thì sẽ mang đến hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng gì? Hiện nay

những [người] chúng ta làm khoa học về [thân] thể người đã phát hiện rằng, ý niệm của

con người chúng ta, tư duy trong đại não con người có thể sinh ra một loại vật chất. Chúng

tôi ở tầng rất cao nhìn thấy nó thật sự là một loại vật chất; tuy nhiên loại vật chất ấy không

giống như hình thức sóng điện não mà hiện nay chúng ta nghiên cứu phát hiện ra, mà là

một loại hình thức đại não hoàn chỉnh. Bình thường người thường nghĩ tưởng về một vấn

đề gì thì phát xuất ra một thứ có hình thái đại não; bởi vì nó không có năng lượng, nên

[sau khi] phát xuất ra một thời gian ngắn liền tản mất; nhưng năng lượng của người luyện

công thì được bảo trì trong một thời gian lâu hơn. [Tôi] không nói rằng bức tượng Phật ấy

sản xuất ra khỏi công xưởng liền có tư tưởng; [nó] không có. Nhưng có những chiếc chưa

được khai quang, họ mang [chúng] lên chùa rồi cũng không đạt được mục đích khai

quang. Nếu như tìm đến khí công sư giả nào đó, [hoặc] người theo tà môn oai đạo để khai

quang, thì nó càng nguy hiểm hơn: cáo, chồn sẽ gắn lên đó.

Như vậy nếu tượng Phật kia chưa được khai quang, chư vị lên đó bái [lạy], thì rất

nguy hiểm. Nguy hiểm đến mức độ nào? Tôi đã giảng rằng nhân loại phát triển cho đến

hôm nay, hết thảy đều đã bại hoại; hết thảy mọi thứ ở trong toàn bộ xã hội, trong toàn bộ

vũ trụ đều theo nhau trở nên bại hoại; hết thảy mọi sự việc ở chốn người thường chúng ta

đều là do tự mình tạo thành hết. Muốn cầu chính Pháp, [muốn] theo chính Đạo đều rất

khó; can nhiễu đủ mọi phương diện. Muốn cầu Phật, hỏi ai là Phật? Muốn cầu rất khó.

[Nếu] không tin [thì hãy] để tôi giảng: Hễ người thứ nhất đến trước tượng Phật chưa được

qua khai quang mà bái [lạy] một cái là hỏng rồi. Hiện nay bái Phật hỏi có mấy người mang

trong tâm mong muốn cầu Phật đắc chính quả? Những người như thế quá ít. Mục đích của

đại đa số người bái Phật là gì? Tiêu tai, giải nạn, phát tài, [họ] cầu những thứ ấy. Đó có

Khai quang

88

phải là những điều trong kinh điển Phật giáo không? Hoàn toàn không phải những thứ ở

tầng này.

Chẳng hạn người bái Phật cầu tiền, bái [lạy] trước tượng Phật, hoặc tượng Bồ Tát

Quán Âm, hoặc tượng Phật Như Lai mà nói: 'Cho con xin phát tài'. Tốt thôi, một ý niệm

hoàn chỉnh bèn hình thành. [Vì] họ hướng đến tượng Phật mà phát xuất ra, nên [nó] lập

tức gắn lên tượng Phật. [Thân] thể tại không gian khác, có thể phóng lớn thu nhỏ; [nó] gắn

lên thân kia rồi, thì tượng Phật ấy sẽ có một đại não, sẽ có tư tưởng; nhưng chưa có thân

thể. Những người khác cũng đến bái [lạy], bái tới bái lui, sẽ cấp cho nó một năng lượng

nhất định. Đặc biệt nếu người luyện công thì còn nguy hiểm hơn; hễ bái [lạy] thì dần dần

cấp năng lượng cho nó; nó sẽ hình thành một thân thể hữu hình; tuy nhiên thân thể hữu

hình ấy hình thành tại không gian khác. Sau khi hình thành rồi thì nó ở không gian khác;

nó có khả năng biết được một số [Pháp] lý trong vũ trụ; do vậy nó có thể vì người mà làm

một chút việc, như thế nó cũng tăng trưởng một chút công; nhưng giúp đỡ người ta là có

điều kiện, có giá cả. Tại không gian khác nó hành động tự do như ý, khống chế người

thường hết sức tự do như ý. Cái thân thể hữu hình ấy so với hình tượng của bức tượng

Phật thì giống hệt như đúc; [đây] chính là Bồ Tát Quán Âm giả, Phật Như Lai giả do con

người bái [lạy] mà nên, là do con người bái [lạy] mà xuất lai; hình dáng [nó] trông giống

hệt như tượng Phật, hình tượng của Phật. Nhưng tư tưởng của Phật giả, Bồ Tát giả [ấy]

cực kỳ xấu, [nó truy] cầu tiền. Nó sinh ra ở không gian khác, nó có tư tưởng, nó hiểu biết

được một chút [Pháp] lý, nó không dám làm những điều xấu nghiêm trọng, nhưng nó dám

làm những điều xấu nhỏ nhặt. Có những lúc nó giúp đỡ con người, nếu không giúp đỡ con

người thì [nó] đã hoàn toàn là tà, nên cần phải giết nó. Giúp như thế nào? Một người kia

nói: '[Con] cầu xin Phật giúp đỡ giúp đỡ, con có người nhà đang lâm bệnh'. 'Tốt, ta giúp

ngươi'. Nó liền để chư vị bỏ tiền vào hòm công đức: tư tưởng của nó cần tiền. Tiền bỏ vào

hòm công đức nhiều bao nhiêu, [nó] liền làm bệnh chư vị mau khỏi bấy nhiêu. Bởi vì nó

có năng lượng, ở không gian khác có thể thao túng người thường. Nhất là khi người có

công đến bái [lạy], thì còn nguy hiểm hơn. Người luyện công cầu điều chi? Cầu tiền ư?

Mọi người thử nghĩ, người luyện công cầu tiền tài là sao? Cầu mong giúp thân nhân tiêu

nạn tiêu bệnh chính là chấp trước đối với tình cảm thân quyến. Phải chăng muốn chi phối

vận mệnh của người khác; mỗi người đều có vận mệnh của mình chứ! Nếu chư vị bái [lạy]

nó, lẩm nhẩm: 'Con xin được phát tài'. Tốt thôi, nó giúp chư vị; nó chỉ mong rằng chư vị

cầu thật nhiều tiền, càng cầu nhiều tiền chút nào, nó lấy được của chư vị thêm chút ấy;

giao hoán bình đẳng mà. Người khác bỏ tiền vào hòm công đức cho nó rất nhiều, [và] nó

để chư vị được [tiền]. Được như thế nào? Ra khỏi cửa thì nhặt được ví tiền, [hoặc được]

đơn vị [công tác] thưởng tiền; dù thế nào thì nó cũng làm mọi cách để chư vị được tiền.

[Nhưng] nó không thể giúp chư vị một cách vô điều kiện phải không? Bất thất bất đắc;

[nó] lấy một phần công của chư vị; hoặc lấy của chư vị những thứ như đan đã luyện thành,

nó cần những thứ ấy.

Những Phật giả ấy có những lúc rất nguy hiểm. Rất nhiều người chúng ta đã khai

thiên mục và tưởng rằng tự mình đã nhìn thấy Phật. Có người nói rằng hôm nay ở chùa có

một nhóm chư Phật đến, ông Phật kia tên là gì đã dẫn một nhóm chư Phật đến. [Lại] nói

hôm qua một nhóm như thế như thế đã đến, hôm nay một nhóm như thế như thế đã đến,

một lúc rồi rời đi, lại một nhóm nữa đến. Là gì vậy? Chính là cái loại này. Chúng không

phải là Phật thật, mà chúng là [Phật] giả; loại này rất là nhiều.

Nếu như xuất hiện tình huống này ở chùa, thì thật nguy hiểm hơn nữa. Hoà thượng

mà bái [lạy] nó, như thế nó sẽ quản hoà thượng: 'Ngươi chẳng phải đang bái [lạy] ta?

Ngươi rất minh bạch đang bái [lạy] ta! Tốt lắm, chẳng phải ngươi muốn tu luyện? Ta sẽ

quản ngươi, ta sẽ để ngươi tu như thế như thế'. Nó an bài cho chư vị, vậy chư vị tu thành

thì sẽ tu đến đâu? Tu là do nó an bài, thì các pháp môn trên kia đâu có nhận. Nó an bài, thì

Khai quang

89

chư vị tương lai sẽ quy về nó [cai] quản. Vậy chư vị chẳng phải tu cũng như không hay

sao? Tôi nói rằng hiện nay nhân loại muốn tu đắc chính quả thật rất khó. Hiện tượng thế

này rất phổ biến; tại danh sơn đại xuyên có người chúng ta thấy Phật quang, phần đông là

thuộc loại này; chúng có năng lượng, nên có thể hiển hiện ra được. Đại Giác Giả chân

chính không tự dưng hiển hiện như thế.

Trong quá khứ những cái gọi là 'địa thượng Phật', 'địa thượng Đạo' này tương đối ít;

nhưng hiện nay rất nhiều. Khi chúng làm điều xấu, ở trên sẽ muốn giết chúng; định giết thì

chúng liền chạy vào tượng Phật. Các Đại Giác Giả thông thường không tự dưng can thiệp

vào [Pháp] lý nơi người thường; Giác Giả càng cao càng không phá hoại [Pháp] lý nơi

người thường, không động tới một chút nào. Không lẽ đột nhiên đánh sét làm vỡ tan tượng

Phật; họ không làm những việc ấy; do đó nó chạy vào tượng Phật thì [họ] cũng không

quản. Nó biết là muốn giết nó, nó liền chạy. Vì vậy Bồ Tát Quán Âm mà chư vị thấy có

phải là Bồ Tát Quán Âm không? Phật mà chư vị thấy có phải là Phật không? Rất khó nói.

Rất nhiều người chúng ta liên tưởng về vấn đề này: 'Tượng Phật ở nhà mình thì thế

nào nhỉ?'. Có thể có nhiều người đã nghĩ đến tôi. Để trợ giúp học viên tu luyện, tôi bảo

chư vị làm thế này: chư vị vừa cầm cuốn sách của tôi (vì trong sách có ảnh tôi) hoặc ảnh

chụp hình tôi, tay chư vị bê tượng Phật, làm thủ ấn đại liên hoa, sau đó như là cầu tôi vậy:

'Cầu Sư phụ khai quang cho'. Sau nửa phút là vấn đề giải quyết xong. [Tôi] nói với mọi

người rằng, [việc này] chỉ giới hạn trong những người tu luyện chúng ta; khai quang cho

bè bạn thân quyến là không được, chúng tôi chỉ quản người tu luyện thôi. Có người nói

rằng đưa [hình] tượng Sư phụ đến nhà bạn bè thân quyến để trừ tà; tôi [ở đây] đâu phải để

trừ tà cho người thường; ấy là [hành vi] bất kính lớn nhất đối với Sư phụ.

Giảng đến vấn đề địa thượng Phật và địa thượng Đạo. Còn một tình huống nữa, Trung

Quốc cổ đại có rất nhiều người tu luyện tại núi sâu rừng già. Vì sao hiện nay không có?

Kỳ thực không phải là không có, mà là không để người thường biết; cũng không thiếu đi

chút nào; những vị này đều có công năng. Mấy năm nay không phải là những vị này

không có mặt, họ đều có cả đấy. Hiện nay trên thế giới còn có vài nghìn; Trung Quốc

nước ta tương đối nhiều hơn. Đặc biệt là ở các danh sơn đại xuyên đều có, một số núi cao

cũng có. Họ dùng công năng bít [hang] động lại, do đó chư vị không thấy được sự tồn tại

của họ. Họ tu luyện rất chậm, chiêu [pháp] của họ không lanh lợi, [vì] họ không nắm được

trung tâm của tu luyện. Còn chúng ta trực chỉ nhân tâm, chiểu theo đặc tính tối cao của vũ

trụ chúng ta mà tu luyện, chiểu theo hình thức ấy của vũ trụ mà tu luyện, nên đương nhiên

công tăng trưởng rất mau. Vì các pháp môn tu luyện cũng như hình kim tự tháp, chỉ có ở

giữa là đại đạo [đường lớn]. Còn tiểu đạo [đường nhỏ] ở các bên, thì tâm tính tu luyện

không nhất định là cao; có khi tu chưa cao đã khai công rồi; còn so với các đại đạo tu

luyện chân chính thì [chúng] khác biệt nhiều lắm.

Họ cũng có đồ đệ truyền thừa; môn của họ tu cao đến đó, tâm tính của họ cũng cao

đến đó; do đó đồ đệ của họ cũng tu được cao đến đó [thôi]. Là tiểu đạo thế gian càng ở

biên thì thuyết pháp càng nhiều, phương pháp tu trì cũng phức tạp, không có nắm trúng

trung tâm mà tu. Người ta tu luyện chủ yếu là tu tâm tính, họ vẫn không hiểu rõ điểm này;

họ tưởng rằng nhờ chịu khổ là có thể tu luyện. Do vậy họ trải qua một thời gian rất lâu dài,

tu qua hàng mấy trăm năm, trên nghìn năm, thì họ mới tăng được một chút công ấy thôi.

Thực ra không phải là họ dựa vào chịu khổ mà tu xuất lai; vì sao tu xuất lai? Giống hệt

như con người: vào thời trẻ tâm chấp trước rất nhiều; cho đến lúc già, thì thuận theo năm

tháng trôi qua, tiền đồ vô vọng, thì những cái tâm kia đã tự nhiên dứt bỏ đi, rơi rụng đi;

những loại tiểu đạo ấy cũng dùng phương pháp như vậy. Nên khi họ dựa vào ngồi đả toạ,

định lực, chịu khổ để tu lên, thì họ phát hiện rằng cũng có thể tăng công. Tuy nhiên họ lại

không biết rằng cái tâm chấp trước của người thường kia đã dần dần từ bỏ qua những năm

tháng gian khổ; cái tâm kia dần dần rơi rụng đi thì công tăng lên được.

Khai quang

90

Chúng ta là có tính nhắm thẳng, thật sự chỉ thẳng vào cái tâm ấy, vứt bỏ cái tâm ấy;

như vậy tu được mau lẹ phi thường. Tôi từng đi qua một số địa phương, thường hay gặp

những người kia, đã tu rất nhiều năm. Họ nói: 'Không ai biết được chúng tôi ở đây; công

việc của ông chúng tôi không quan tâm, cũng không gây rối loạn'. Đó là thuộc về những

người tương đối tốt.

Cũng có [kẻ] không tốt; không tốt thì chúng ta cũng cần xử lý. Ví dụ, lần đầu tiên tôi

đến Quý Châu truyền công, trong lúc ở trên lớp, thì có một người đến tìm tôi, nói rằng lão

sư gia anh ta muốn gặp tôi, rằng sư gia của anh ta tên là như thế như thế, đã tu luyện rất

nhiều năm. Tôi nhìn một cái thì thấy người này mang theo âm khí, rất không tốt, mặt vàng

như sáp. Tôi bảo tôi không gặp ông lão ấy, không có thời gian, từ chối thẳng. Kết quả ông

lão đó không vừa ý, [và] bắt đầu phá quấy tôi, hàng ngày phá rối. Tôi là người không thích

đấu với người ta, tôi cũng không thèm đấu với ông lão ấy. Ông ta quăng đến cái gì không

tốt thì tôi thanh lý, thanh lý hết xong, tôi lại truyền Pháp của mình.

Quá khứ vào triều Minh có một người tu Đạo, khi tu Đạo bị mắc phụ thể là rắn; sau

đó người tu Đạo tu không thành kia chết đi, và con rắn này đã chiếm hữu thân thể của

người tu Đạo ấy, rồi tu xuất được hình người. Ông sư gia của anh kia chính là hình người

mà con rắn kia tu thành. Vì bản tính của ông ta không đổi, [ông ta] lại hoá thành con rắn

lớn đến phá rối tôi. Tôi thấy vậy là thái quá, tôi bèn bắt nó trong tay, dùng một loại công

mạnh mẽ phi thường, gọi là 'hoá công', hoá phần nửa dưới của nó, hoá thành nước; nửa

thân trên của nó bỏ chạy về.

Một hôm trạm trưởng trạm phụ đạo Quý Châu của chúng ta được đồ tôn của ông ta

tìm đến, nói rằng sư gia muốn gặp bà. Bà trạm trưởng đến, vào đến hang động thì thấy tối

đen không trông thấy gì cả; chỉ thấy một hình ảnh ngồi ở đó, mắt phóng ra ánh sáng xanh

lục; hễ [ông ta] mở mắt thì động sáng, còn nhắm mắt thì trong động lại tối đen. Ông ta nói

bằng thổ ngữ địa phương: 'Lý Hồng Chí lại đến, lần này chúng tôi không có ai làm chuyện

kia nữa; tôi đã nhầm. Lý Hồng Chí đến để độ nhân'. Đồ tôn hỏi ông ta: 'Thưa sư gia, thầy

đứng dậy đi, chân của thầy bị sao thế?' Ông ta nói: 'Tôi không đứng dậy được nữa, chân

của tôi bị thương rồi'. Hỏi ông ấy bị thương ra sao, ông ta bèn bắt đầu kể về quá trình phá

rối của mình. Đến Hội Sức khoẻ Đông phương năm 1993 tại Bắc Kinh ông ta lại phá rối

tôi. Vì ông ta cứ làm điều xấu, ông ta phá hoại việc tôi truyền Đại Pháp, nên tôi đã triệt để

tiêu huỷ ông ấy. Sau khi tiêu huỷ, những sư tỷ, sư muội, sư huynh, sư đệ của ông ta đều

muốn hành động. Lúc đó tôi nói với họ mấy câu; họ đều cảm thấy kinh hoàng, khiếp sợ

lắm, không ai dám hành động gì nữa, và cũng hiểu ra chuyện này. Trong số họ một số

[người] vẫn hoàn toàn là người thường, [mặc] dù đã tu một thời gian rất dài. Đây là vài thí

dụ được nêu ra khi giảng về vấn đề khai quang.

Khoa chúc do

Khoa 'chúc do' là gì? Trong giới tu luyện, tại quá trình truyền công có nhiều người

cũng coi nó là điều được truyền trong phạm trù tu luyện; kỳ thực nó không phải là điều

thuộc phạm trù tu luyện. Nó là loại truyền thừa kiểu như quyết khiếu, chú quyết, kỹ thuật.

Hình thức mà nó sử dụng kiểu như vẽ bùa, đốt hương, đốt giấy, niệm chú, v.v.; nó có thể

trị bệnh, phương pháp trị bệnh hết sức độc đáo đặc biệt. Lấy ví dụ thế này, ví như một

người mọc mụn nhọt trên mặt, họ bèn dùng bút lông chấm [son] chu sa vẽ trên mặt đất

hình tròn, trong vòng tròn vạch một hình chữ thập; [họ] bảo người kia đứng vào trung tâm

của vòng tròn, rồi họ bắt đầu niệm chú quyết. Sau đó lấy bút son vạch hình tròn lên mặt

người kia, vừa vẽ vừa niệm chú, vẽ tới vẽ lui, đến khi chấm một điểm lên chỗ mụn nhọt,

niệm chú đến đó cũng vừa xong, bảo rằng đã khỏi rồi. Chư vị thử sờ vào [chỗ mụn nhọt],

thì thấy đã nhỏ lại, không đau nữa, nó đã khởi tác dụng. Những bệnh nhẹ thì họ có thể trị

được, còn bệnh nặng thì không được. Còn nếu như đau cánh tay thì làm sao? Miệng bắt

Khoa chúc do

91

đầu niệm chú, họ bèn bảo chư vị duỗi tay ra, lấy miệng thổi vào huyệt hợp cốc tại tay này,

và làm cho nó xuất ra ở huyệt hợp cốc của tay kia; cảm thấy như một luồng gió; sờ lại, thì

nó không còn đau như thế nữa. [Họ] còn dùng đến những việc đốt giấy, vẽ bùa, dán bùa,

v.v.; họ làm những việc ấy.

Trong các tiểu đạo thế gian của Đạo gia, [người ta] không giảng tu mệnh, hoàn toàn là

toán quái, xem phong thuỷ, đuổi tà, trị bệnh. Những tiểu đạo thế gian thường dùng đến

những thứ này. Nó có thể trị bệnh, nhưng các phương pháp nó dùng đến là không tốt.

Chúng tôi không giảng là nó dùng cách gì trị bệnh; nhưng những người tu Đại Pháp chúng

ta không được dùng chúng, bởi vì chúng mang theo những tín tức rất thấp và rất không tốt.

Các phương pháp trị bệnh ở Trung Quốc cổ đại được phân thành những khoa mục; ví dụ:

tiếp cốt, châm cứu, án ma, thôi nã, điểm huyệt, khí công trị bệnh, thảo dược trị bệnh, v.v.

phân thành khá nhiều loại. Mỗi loại phương pháp trị bệnh gọi là một 'khoa'; khoa chúc do

này được liệt vào khoa thứ 13, do đó tên đầy đủ của nó là 'khoa 13 chúc do'. Khoa chúc

do không thuộc về những điều trong phạm trù tu luyện, nó không phải là công đắc nhờ tu

luyện, mà là một thứ thuật loại.

Khoa chúc do

92

Bài giảng thứ sáu

Tẩu hoả nhập ma

Trong giới tu luyện có một thuyết, gọi là 'tẩu hoả nhập ma'; ảnh hưởng trong quần

chúng cũng rất lớn. Đặc biệt có một số người quảng bá chuyện này rất rầm rộ, làm một số

người không dám luyện công nữa. Người ta hễ nghe thấy nói rằng luyện công rồi sẽ [bị]

tẩu hoả nhập ma, liền sợ quá không dám luyện nữa. Kỳ thực, tôi nói với mọi người rằng,

tẩu hoả nhập ma hoàn toàn không tồn tại.

Có không ít người vì bản thân tâm mình không chính, chiêu mời những phụ thể. Chủ

ý thức của mình không khống chế được bản thân mình, lại còn tưởng đó là công. Thân thể

đang bị phụ thể khống chế, điên đảo hò hét lung tung cả lên. Người ta nhìn thấy luyện

công có [hình] thức như thế, sợ quá chẳng dám luyện. Chúng ta có khá nhiều người tưởng

rằng đó là công; luyện công mà như thế sao? Đó chỉ là một loại trạng thái thấp thấp nhất

để chữa bệnh khoẻ người, nhưng nó rất nguy hiểm. Nếu bản thân chư vị quen làm như thế,

thì chủ ý thức của chư vị rồi sẽ không khống chế được bản thân nữa; như thế thân thể của

chư vị sẽ có thể bị phó ý thức hoặc tín tức ngoại lai hay phụ thể các loại khống chế, và có

thể làm ra những cử động nguy hiểm, ngoài ra [nó cũng gây nên] sự phá hoại mạnh mẽ

trong giới tu luyện. Đó là nhân tâm bất chính tạo thành như vậy, là chấp trước vào sự thể

hiện bản thân, đó không phải là tẩu hoả nhập ma. Một số người, thật không hiểu vì sao

[họ] lại trở thành cái gọi là 'khí công sư', họ cũng giảng tẩu hoả nhập ma. Kỳ thực luyện

công không thể tẩu hoả nhập ma; đa số người ta nghe [điều] ấy trong các tác phẩm nghệ

thuật, nghe danh từ này trong những tiểu thuyết võ hiệp nào đó v.v. Nếu không tin, chư vị

thử dở các sách cổ, các sách tu luyện [ra xem] trong đó không hề có chuyện này. Ở đâu có

tẩu hoả nhập ma nào? Hoàn toàn không xuất hiện sự việc ấy được.

Người ta nhìn nhận rằng tẩu hoả nhập ma có một vài hình thức, điều tôi vừa giảng

cũng là một loại hình thức. Vì bản thân tâm bất chính, chiêu mời phụ thể, truy cầu những

khí công thái nào đó để hiển thị bản thân cũng như các chủng tâm thái. Có người trực tiếp

truy cầu công năng hoặc luyện khí công giả; hễ luyện là tự mình lại quen rũ bỏ chủ ý thức

của bản thân mình, không còn biết gì nữa, thân thể đã giao cho kẻ khác rồi; bị phó ý thức

hoặc tín tức ngoại lai làm chủ thân thể đến điên đảo lung tung cả lên; làm ra một số cử

động đặc thù. Bảo họ nhảy lầu thì họ nhảy lầu; bảo họ nhảy xuống nước thì họ nhảy xuống

nước. Bản thân họ chẳng còn thiết sống nữa, đã đem thân thể giao cho kẻ khác rồi. Đó

không thuộc về tẩu hoả nhập ma, mà thuộc về luyện công lầm đường lạc lối; ngay từ đầu

đã hữu ý thực thi theo hình thức ấy. Có rất nhiều người tưởng rằng lắc lư dao động chính

là luyện công, kỳ thực nếu thật sự luyện công theo trạng thái kiểu như vậy, thì sẽ tạo thành

hậu quả nghiêm trọng. Đó không phải luyện công, [mà] là chấp trước và truy cầu của

người thường tạo thành như thế.

Một tình huống khác là khi luyện công khí ứ tắc ở chỗ nào đó mà không thông; khí

lên đỉnh đầu không xuống được, họ liền sợ quá. Thân thể con người là một tiểu vũ trụ, đặc

biệt [trong] công pháp Đạo gia khi vượt quan, thì sẽ gặp chuyện phiền phức này; vượt

[quan] không qua được, thì khí quanh quẩn ở chỗ ấy. Không chỉ có đỉnh đầu, chỗ khác

cũng như thế, nhưng, [nơi] nhạy cảm nhất của con người là đỉnh đầu. Khi khí lên đỉnh đầu

rồi xung xuống, [nhưng] không vượt quan được, [thì] họ liền cảm giác thấy đầu nặng, đầu

sưng, [như] có hiện tượng đội một chiếc mũ khí dày cộp, v.v. Nhưng khí không có tác

dụng ước chế gì cả, nó cũng không làm người ta dẫn đến phiền phức gì hết, cũng hoàn

toàn không sinh ra bất kể bệnh tật gì. Có những người không hiểu rõ tình huống chân thực

của khí công, cũng phát biểu ý kiến lung tung một cách thần bí huyền hoặc, kết quả tạo

Tẩu hoả nhập ma

93

thành hiện tượng rất hỗn loạn. Người ta bèn cho rằng khí lên đến đỉnh đầu mà không

xuống được thì sẽ [bị] tẩu hoả nhập ma, xuất hiện thiên [sai] v.v., kết quả rất nhiều người

bản thân họ rất sợ.

Khí lên đỉnh đầu mà không xuống, nó chỉ là trạng thái tạm thời; có người [bị] trong

thời gian rất lâu, nửa năm vẫn không xuống. [Nếu] không xuống [thì] tìm một khí công sư

chân chính [để] đạo dẫn xuống thì có thể xuống ngay. Như vậy chúng ta phàm khi luyện

công chưa xung qua quan được, khí không xuống, [thì] chúng ta hãy thử tìm nguyên nhân

ở tâm tính, có phải là vướng ở tầng ấy một thời gian lâu quá không; cần phải thực sự đề

cao tâm tính! Khi chư vị thực sự đề cao tâm tính, chư vị sẽ thấy nó có thể xuống. Chư vị

chỉ một mực nhấn mạnh vào biến hoá công của bản thân mình mà không nhấn mạnh vào

chuyển biến tâm tính của mình; nó có thể đang đợi tâm tính chư vị đề cao, [rồi] mới phát

sinh biến đổi toàn diện được. Khí thực sự không thông thì người ta cũng không vấn đề gì;

thông thường là do tác dụng của tinh thần chúng ta, lại nghe mấy vị khí công sư giả nói

rằng khí mà lên đỉnh đầu thì xuất hiện thiên sai nào đó, nên họ sợ lắm. Sự lo sợ của họ có

khi nó thật sự mang đến phiền toái. Bởi vì hễ chư vị lo sợ, thì chính là tâm hoảng sợ;

chẳng phải đó là tâm chấp trước? Tâm chấp trước của chư vị hễ xuất hiện, [thì] chẳng phải

cần [tống] khứ tâm chấp trước sao? Càng lo sợ, thì lại càng giống như mắc bệnh; nhất định

phải vứt bỏ tâm chấp trước ấy của chư vị; để chư vị học bài học này, mà từ đó vứt bỏ tâm

hoảng sợ, đề cao lên trên.

Người luyện công trong tương lai tu luyện sẽ không thoải mái, thân thể xuất hiện

nhiều công, đều là những thứ rất mạnh mẽ [chuyển] động qua lại trong thân thể chư vị,

làm cho chư vị khó chịu thế này, khó chịu thế kia. Nguyên nhân chư vị không thoải mái

chủ yếu là chư vị cứ lo sợ thân thể bản thân mình bị bệnh nào đó; kỳ thực ở trong thân thể

xuất hiện những thứ rất mạnh mẽ, xuất ra đều là công, đều là công năng, còn có rất nhiều

thể sinh mệnh. Nếu [chúng chuyển] động, chư vị sẽ cảm thấy thân thể phát ngứa, đau, khó

chịu, v.v.; đầu dây thần kinh cảm giác rất linh mẫn; các loại trạng thái đều xuất hiện.

Chừng nào thân thể chư vị chưa được vật chất cao năng lượng chuyển hoá, đều có các loại

trạng thái [như thế], mà nguyên đây là điều rất tốt. Làm một người tu luyện, chư vị mãi cứ

coi bản thân mình là người thường, mãi cứ cho rằng có bệnh, thì hỏi luyện sao đây? Trong

luyện công khi chúng ta gặp kiếp nạn, chư vị [nếu] vẫn cứ coi bản thân mình là người

thường, tôi nói rằng tâm tính của chư vị lúc ấy đã rớt xuống chỗ của người thường. Chính

tại vấn đề này, thì ít nhất chư vị cũng đã rớt xuống tầng kia của người thường.

Chúng ta làm người luyện công chân chính, cần phải từ tầng rất cao mà xét vấn đề,

không thể dùng quan điểm của người thường mà xét vấn đề. Khi chư vị cho rằng có bệnh,

như thế có thể dẫn đến mắc bệnh. Bởi vì khi mà chư vị cho rằng nó có bệnh, thì tâm tính

của chư vị cũng cao như người thường. Luyện công và tu luyện chân chính, đặc biệt là

trong trạng thái [điều kiện] này, không [thể] dẫn đến mắc bệnh. Như mọi người đã biết

thật sự [làm người ta] mắc bệnh thì [do] bảy phần tinh thần ba phần bệnh. Thông thường

ban đầu tinh thần của người ta suy sụp, ban đầu không chịu được, gánh nặng lớn quá, rồi

làm cho bệnh tình trở nên [nguy] kịch; thường [xảy ra] như vậy. Lấy một thí dụ, quá khứ

có một người, bị trói trên giường; lấy tay anh ta ra, và nói rằng sẽ làm cho chảy máu. Sau

đó bịt mắt anh ta lại, rồi vạch một cái lên cổ tay của anh này (hoàn toàn không làm anh ta

chảy máu); rồi mở vòi nước sao cho anh này nghe thấy tiếng [nước] nhỏ giọt. Anh ta

tưởng rằng chính là máu của mình đang nhỏ giọt xuống, một lúc sau cá nhân này chết. Kỳ

thực hoàn toàn không làm anh ta chảy máu, chỉ có nước chảy thôi; tinh thần của cá nhân

này đã dẫn đến cái chết của mình. Khi chư vị cứ mãi nhìn nhận rằng bản thân mình có

bệnh, thì có khi dẫn đến bản thân chư vị phát bệnh. Bởi vì tâm tính của chư vị đã giáng hạ

xuống đến cơ sở của người thường, mà người thường đương nhiên sẽ mắc bệnh.

Tẩu hoả nhập ma

94

Là người luyện công chư vị cứ mãi cho rằng đó là bệnh, trên thực tế chư vị đúng là

đang cầu [nó]; chư vị cầu bệnh, cái bệnh ấy sẽ có thể nhập vào. Làm một người luyện

công thì tâm tính cần phải cao. Chư vị không được lo sợ mắc bệnh; lo sợ bệnh cũng là một

tâm chấp trước, nó mang đến phiền phức cho chư vị cũng như thế. Trong tu luyện cần tiêu

nghiệp, tiêu nghiệp sẽ thống khổ; làm sao có thể tăng công một cách nhẹ nhàng thoải mái

kia chứ! Nếu không thì tâm chấp trước của chư vị làm sao bỏ được đây? Tôi kể cho mọi

người một chuyện cổ trong Phật giáo: Xưa có một người đã rất cố gắng tu thành La Hán.

Vị này khi đắc chính quả, tu thành La Hán thì lẽ nào không cao hứng cho được? Nhảy

thoát khỏi tam giới rồi! Nhưng cao hứng lại chính là tâm chấp trước, [là] tâm hoan hỷ. La

Hán cần phải vô vi, tâm bất động; vị này bị rớt xuống, tu lại như không [tu]. Tu như không

thì cần tu lại, lại tu hướng lên trên một lần mới; bỏ ra bao nhiêu cố gắng lại tu lên được

nữa. Lần này vị kia lo sợ, vị ấy tự nhủ: 'Mình chớ có cao hứng, cao hứng nữa thì lại rớt

mất'. Vị này vừa lo sợ thì lại rớt xuống [một lần nữa]. Lo sợ cũng là một loại tâm chấp

trước.

Còn có một tình huống nữa, đó là có người mắc bệnh tâm thần, [người ta] liền bảo là

người ấy [bị] tẩu hoả nhập ma. Cũng có người chờ đợi tôi chữa bệnh tâm thần cho họ! Tôi

nói rằng bệnh tâm thần không phải là bệnh, tôi cũng không có thời gian quan tâm đến

chuyện ấy. Vì sao? Bởi vì người bệnh tâm thần không có bệnh độc, tại thân thể không có

bệnh biến, không có nhiễm trùng; theo tôi nhìn nhận thì không phải là bệnh. Bệnh tâm

thần chính là chủ ý thức của người ta quá yếu đuối. Yếu đuối đến mức độ nào? Giống như

một cá nhân mãi không quyết định được cho bản thân mình, chủ nguyên thần của người

bệnh tâm thần chính là như vậy. Họ không muốn quản cái thân thể ấy nữa, tự họ cứ mê mê

muội muội mãi, tinh thần không có khởi lên được. Lúc ấy phó ý thức, [và] các tín tức

ngoại lai sẽ can nhiễu đến họ. Tầng của mỗi không gian nhiều như thế, các loại tín tức đều

can nhiễu đến họ. Thêm nữa chủ nguyên thần của người ta có thể đã làm một số điều

không tốt ở đời trước, còn có chủ nợ cũng có thể làm hại họ; tình huống các loại đều xuất

hiện. Chúng tôi nói rằng bệnh tâm thần là như thế. Bảo tôi trị bệnh [tâm thần] giúp chư vị

làm sao được? Tôi nói rằng mắc bệnh tâm thần chính là như thế. Vậy xử lý ra sao? Hãy

giáo dục họ, làm cho tinh thần của họ khởi lên; nhưng khó thực hiện lắm. Chư vị [có thể]

thấy bác sỹ bệnh viện tâm thần hễ nhấc cây roi điện lên, là họ lập tức sợ quá chẳng dám

nói lăng nhăng gì nữa. Vì sao vậy? Lúc ấy tinh thần của chủ nguyên thần của họ đã khởi

lên: họ sợ [bị] điện giật.

Thông thường người ta khi đã vào cửa tu luyện thì sẽ vui mừng luyện [công] tiếp tục;

ai cũng có Phật tính, ai cũng có tâm tu Đạo; do đó một khi đã học công, có nhiều người sẽ

tiếp tục [tu] luyện suốt đời. Bất kể là người kia có thể tu lên được không, đã đắc Pháp

chưa; dù sao người ấy cũng có tâm cầu Đạo; người ấy cứ luyện mãi. Mọi người đều biết

rằng cá nhân này luyện công, người ở nơi công tác cũng biết, ngoài phố cũng biết, hàng

xóm cũng biết rằng người này luyện công. Nhưng mọi người nghĩ xem, [về] tu luyện chân

chính, mấy năm trước ai thực hiện điều này? Không ai làm cả; [chỉ] tu luyện chân chính

mới có thể thay đổi đường đời của người ấy. Nhưng người này chỉ là một người thường,

chỉ luyện công chữa bệnh khoẻ người; hỏi ai thay đổi đường đời cho họ? Là người thường,

đến một ngày kia phải mắc bệnh, đến một ngày kia phải gặp chuyện rắc rối nào đó, đến

một ngày kia biết đâu sẽ mắc bệnh tâm thần, hoặc giả hết mệnh lìa đời; một đời của người

thường là như thế. Chư vị thấy rằng người kia đến công viên luyện công, kỳ thực người ấy

không phải tu luyện một cách chân chính; người ấy mong muốn tu lên cao tầng nhưng

chưa đắc chính Pháp; [nên] người ấy không tu lên được. Cá nhân này chỉ có nguyện vọng

mong muốn tu luyện lên cao tầng, [và] người ấy vẫn còn là người luyện công tại tầng thấp

chữa bệnh khoẻ người. Đường đời của người này chưa có ai thay đổi, như thế người ấy

Tẩu hoả nhập ma

95

phải mắc bệnh. [Nếu] không [coi] trọng đức thì bệnh cũng chẳng khỏi; không thể nói rằng

luyện công sẽ không mắc bệnh gì nữa.

Người kia cần tu luyện chân chính, coi trọng tâm tính; tu luyện chân chính mới có thể

khỏi bệnh. Bởi vì luyện công không phải thể thao, mà là điều vượt khỏi người thường; do

vậy phải có [Pháp] lý và tiêu chuẩn cao hơn để yêu cầu người luyện công, cần phải thực

hiện được [chúng] thì mới đạt được mục đích. Tuy nhiên nhiều người không thực hiện như

thế, họ vẫn là người thường; do đó khi đến lúc thì họ phải mắc bệnh. Một ngày kia họ đột

nhiên bị tắc nghẽn mạch máu não, đột nhiên mắc bệnh này, mắc bệnh khác, hoặc giả một

ngày kia mắc bệnh tâm thần. Họ luyện công có thể ai ai cũng biết; khi cá nhân ấy mắc

bệnh tâm thần, người ta bèn nói rằng người này luyện công tẩu hoả nhập ma, một chiếc

mũ lớn liền chụp lên đó. Mọi người thử nghĩ xem làm thế có hợp lý không? Người ngoài

nghề đâu có hiểu; [ngay cả] người trong nghề như chúng ta, rất nhiều người luyện công

khó mà hiểu được đạo lý chân chính bên trong chuyện này. Nếu như cá nhân kia ở nhà

mắc bệnh tâm thần thì còn đỡ, [dẫu] người ta [vẫn] nói rằng người ấy [mắc bệnh là vì]

luyện công; còn nếu người này mắc bệnh tâm thần ở chính điểm luyện công, thì rất tệ hại;

cái mũ lớn kia sẽ chụp ngay vào, [và] không gỡ xuống được nữa. Rằng 'luyện công tẩu

hoả nhập ma'; báo chí cũng đều đăng như thế. Có người nhắm mắt mà phản đối khí công:

'Đấy ông xem, vừa rồi ở đó luyện [công] còn tốt lắm, mà bây giờ thành như thế đấy'. Làm

một người thường, cá nhân kia lẽ ra phải gặp điều gì thì phải gặp thôi; người ấy có thể còn

xuất hiện những bệnh khác nữa, các chuyện phiền phức khác nữa; [nếu] nói rằng đều là

luyện công [mà thành], thì có hợp lý không? Cũng như bác sỹ ở bệnh viện chúng ta, họ là

bác sỹ, vậy phải chăng họ suốt đời vĩnh viễn không mắc bệnh; có thể nhận thức như thế

không?

Do vậy mới nói rằng, có rất nhiều người họ không hiểu tình huống chân thực của khí

công, họ cũng không biết đạo lý bên trong của nó, nên [họ] nói lung tung cả. Khi xảy đến

vấn đề nào đấy, thì cái mũ nào [họ] cũng chụp lên khí công. Thời gian phổ cập khí công

ngoài xã hội còn rất ngắn, có rất nhiều người còn ôm giữ quan điểm cố chấp, mãi vẫn

không thừa nhận nó, [mà] phỉ báng nó, bài xích nó; cũng không hiểu nổi trạng thái tâm lý

của họ là gì nữa, họ chán ghét khí công nhường ấy, cứ như [khí công] có liên quan gì đến

họ vậy; hễ nói đến khí công [họ] liền bảo là duy tâm. Khí công là khoa học, là khoa học

cao hơn. Chỉ có điều loại người này quan niệm quá cố chấp, tri thức quá hạn hẹp tạo thành

như vậy.

Còn có một tình huống: trong giới tu luyện có điều gọi là 'khí công thái'; loại người

này tinh thần mơ màng, nhưng không phải là họ bị tẩu hoả nhập ma, [mà] họ rất có lý trí.

Trước hết tôi nói khí công thái là gì. Như mọi người đã biết, chúng ta luyện công chú

trọng vấn đề căn cơ. Tất cả các quốc gia toàn thế giới đều có những người tín ngưỡng tôn

giáo; còn ở Trung Quốc hàng mấy nghìn năm vừa qua đều có những người tín ngưỡng

Phật giáo, Đạo giáo; tin rằng thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Nhưng cũng có người

không tin. Đặc biệt trong thời kỳ "Đại cách mạng Văn Hoá" thì [điều ấy] bị phê phán, nói

là mê tín. Một số người cho rằng những [điều gì] mà không thể lý giải, không được học

trong sách [giáo khoa], khoa học hiện đại chưa phát triển đến bước ấy, hoặc là những sự

vật chưa nhận thức được, họ liền gộp hết lại nói đó là mê tín. Mấy năm trước loại người

này có rất nhiều, hiện nay tương đối ít. Bởi vì có một số hiện tượng [dẫu] chư vị không

thừa nhận chúng, nhưng chúng đã phản ánh hết sức thiết thực đến không gian chúng ta.

Chư vị [dẫu] không dám nhìn thẳng chúng, nhưng người ta hiện nay đã dám nói về chúng,

người ta đã mắt thấy tai nghe và cũng hiểu ra một số tình huống liên quan đến luyện công.

Một số người cố chấp đến mức độ này: hễ chư vị nói [đến] khí công, thì từ trong tâm

của họ phá ra cười chư vị, họ cho rằng chư vị làm mê tín, thật đáng cười ghê lắm. Hễ chư

vị nói [đến] những hiện tượng trong khí công, họ liền cho rằng cá nhân chư vị quá ư ngu

Tẩu hoả nhập ma

96

muội. Loại người này tuy cố chấp, nhưng căn cơ không nhất định là không tốt. Nếu căn cơ

của cá nhân này tốt, [nếu] họ luyện công, thì thiên mục có thể khai mở đến tầng rất cao,

còn xuất cả công năng nữa. Họ không tin khí công, nhưng không thể đảm bảo rằng bản

thân họ sẽ không mắc bệnh. Họ nếu mắc bệnh thì đến bệnh viện để chữa; Tây Y chữa

không khỏi thì đến Trung Y chữa; Trung Y chữa cũng không được, dùng phương thuốc gì

cũng không khỏi, đến lúc này họ bèn nghĩ đến khí công. Họ đắn đo: 'Mình thử vận [may]

này xem, xem xem khí công rốt cuộc có chữa được bệnh này của mình hay không'. Họ rất

ngại ngùng đến [thử khí công]. Họ vừa [bắt đầu] luyện công, thì vì căn cơ rất tốt, nên lập

tức luyện được rất tốt. Có thể được sư phụ nào đó để mắt đến, một sinh mệnh cao cấp ở

không gian khác giúp đỡ họ đôi chút. Họ liền lập tức khai thiên mục, hoặc giả lọt vào

trạng thái bán khai ngộ. Thiên mục khai mở đến tầng rất cao, [họ] lập tức nhìn thấy được

một số tình huống chân thực trong vũ trụ, ngoài ra còn có công năng. Chư vị thử nói xem

loại người này khi thấy được những tình huống như thế, thì đầu não của họ có chịu được

không? Chư vị thử nghĩ coi tâm thái của họ sẽ như thế nào đây? Những điều xưa nay vẫn

coi là mê tín, là tuyệt đối không thể, những điều mà hễ người khác nêu liền thấy tức cười

[lắm], thì [nay] lại triển hiện hết sức thiết thực ngay trước mắt của họ, lại còn tiếp xúc đến

được một cách hết sức thực tại. Như vậy đầu não của họ sẽ không chịu nhận nổi, áp lực

tinh thần [lên] họ là quá lớn, và lời [họ] nói ra người khác không tiếp thu được; nhưng lô-

gíc tư duy không hề loạn; mà chính là vì họ không dàn xếp [hợp lý] quan hệ hai bên. Họ

phát hiện rằng, những việc nhân loại làm là sai, còn [việc] ở bên kia thường là đúng. Chiểu

theo bên kia mà làm, thì người ta nói là họ sai. Người ta không lý giải được, nên nói rằng

cá nhân ấy luyện công tẩu hoả nhập ma.

Kỳ thực họ không bị tẩu hoả nhập ma, hầu hết người chúng ta luyện công hoàn toàn

sẽ không xuất hiện hiện tượng này; chỉ những ai đặc biệt cố chấp mới xuất hiện khí công

thái này. Những người chúng ta ngồi [đây] có nhiều [người] đã khai thiên mục, có khá

nhiều. Họ thực sự nhìn thấy những điều tại không gian khác; họ không thấy kỳ lạ gì lắm,

[mà] thấy rất tốt, đầu não cũng không thấy kích động gì, cũng không xuất hiện khí công

thái như thế. Người nào sau khi xuất hiện khí công thái, thì rất mực có lý trí, lời nói ra rất

mực có tính triết lý, hơn nữa tính lô-gíc cũng rất tốt. Chỉ là những gì họ nói thì người

thường không có tin. Có lúc họ nói với chư vị rằng, họ gặp một người đã quá cố nào đó,

[và] người ấy bảo họ hãy làm điều gì đấy. Người thường hỏi có tin được không? Sau này

họ hiểu ra, rằng những điều ấy nên cất ở trong tâm của bản thân mình, không nên nói ra;

thu xếp ổn thoả quan hệ hai bên là tốt rồi. Thông thường những người này đều có tồn tại

công năng; [và] đó cũng không phải tẩu hoả nhập ma.

Còn một tình huống nữa gọi là "chân phong"1; tình huống này cực hiếm thấy. "Chân

phong" mà chúng tôi nói đến không phải là 'điên thật', không phải có ý nói như thế, mà có

ý là 'tu chân'. Vậy chân phong là gì? Tôi nói rằng trong những người tu luyện, thì mười

vạn người mới có một người như thế, cực kỳ hiếm thấy. Do đó nó không có tính phổ biến,

cũng không tạo nên ảnh hưởng xã hội.

"Chân phong" thông thường có một điều kiện tiên quyết, đó là vị này có căn cơ hết

sức tốt, còn phải là rất nhiều tuổi. Tuổi nhiều quá, mong muốn tu luyện là [chuyện] đã

muộn. [Người] có căn cơ cực kỳ tốt thường là [người] đến đây với sứ mệnh [nào đó], là

[người] từ cao tầng đến. Xã hội này của người thường ai đến cũng thấy ghê sợ, đầu não

tẩy rồi thì không còn nhận ra được ai nữa. Vào đến hoàn cảnh xã hội người thường, thì

những can nhiễu của người ta đối với vị ấy, sẽ làm vị ấy [coi] trọng danh, [coi] trọng lợi,

cuối cùng rớt xuống, vĩnh viễn không biết ngày nào cất đầu lên được nữa; do vậy không ai

dám đến đây, ai cũng ghê sợ. [Nhưng cũng] có loại người đến; sau khi đến đây, vị này ở

nơi người thường quả thực hư hỏng, [và] thật sự phải rớt xuống, suốt đời đã làm không ít

1Chân phong: hiểu theo nghĩa từng chữ là điên thật; phong nghĩa là điên, chỗ này chơi chữ.Tẩu hoả nhập ma

97

chuyện xấu. Khi con người ta sống mà tranh giành lợi ích cá nhân thì sẽ làm rất nhiều điều

xấu, sẽ mắc nợ rất nhiều thứ. Sư phụ của vị này thấy rằng cá nhân ấy sẽ phải rớt xuống.

Tuy nhiên vị ấy là [người] có quả vị, không thể để vị ấy rớt xuống tuỳ tiện như thế được!

Làm thế nào đây? Lo lắm, không có cách nào khác để bảo vị này tu luyện, mà lúc ấy biết

tìm sư phụ ở đâu? Vị ấy phải quay lại từ đầu, phải vãng hồi tu. Nhưng nói chuyện sao dễ

vậy? Tuổi đã nhiều rồi, tu cũng là [chuyện] đã muộn, mà biết đến đâu để tìm công pháp

tính mệnh song tu đây?

Cần phải là người có căn cơ tốt phi thường, và là ở tình huống cực kỳ đặc thù này, thì

mới dùng đến phương pháp làm cho vị ấy điên. Nghĩa là, [chỉ khi] tuyệt đối không còn hy

vọng, ở tình huống bản thân không thể tự quay trở về, thì mới viện đến phương pháp này,

tức là làm cho vị ấy điên, làm cho một chỗ nào đó của đại não vị ấy phải bế tắc. Ví như

con người chúng ta sợ lạnh, sợ bẩn; vậy làm cho vị ấy có bộ phận sợ lạnh của đại não bị bế

tắc, làm cho vị ấy có bộ phận sợ bẩn cũng bế tắc lại. Sau khi làm cho vị này bế tắc một số

bộ phận rồi, thì cái tinh thần của cá nhân ấy xuất hiện vấn đề, đúng là điên điên rồ rồ. Tuy

nhiên loại người này thông thường không làm điều xấu, không [nhục] mạ người cũng

không đánh người, thường hay làm điều tốt. Nhưng vị ấy đối với bản thân lại rất tàn khốc.

Bởi vì vị này không biết lạnh, do đó mùa đông vị ấy chân không chạy trên tuyết, mặc

phong phanh, rồi bị cóng đến mức chân nứt nẻ rỉ máu; bởi vì vị này không biết bẩn, vị ấy

dám ăn cả phân, vị ấy dám uống cả nước tiểu. Quá khứ tôi có biết một người như thế,

ngay cả cục phân ngựa đông cứng ngắc cả lại, ông ấy cũng gặm như thể là thơm [ngon]

lắm; vị ấy có thể chịu những thứ khổ mà người thường ở trạng thái tỉnh táo không thể chịu

được. Chư vị nghĩ xem vị ấy bị điên rồi gặp bao nhiêu tội khổ rất lớn; đương nhiên họ

thường kèm theo có công năng; thường là các cụ bà. Trước đây [có một] cụ bà có chân bó

buộc nhỏ lại, vậy mà tường cao hơn hai mét, bà nhảy một cái là qua ngay. Người nhà thấy

bà bị điên rồi và hay chạy ra ngoài, liền khoá bà lại trong nhà. [Bà] đợi gia nhân đi vắng

rồi chỉ [tay] một cái là khoá mở tung ngay, rồi lại đi ra. [Người nhà] bèn dùng dây xích sắt

trói lại; [bà] đợi gia nhân đi vắng rồi rũ một cái là xích sắt cũng mở. Quản thế nào cũng

không quản được bà; như thế bà chịu rất nhiều khổ. Vì bà chịu khổ đến mức quá ghê gớm,

nên được cũng quá mạnh mẽ; bà hoàn trả cực nhanh những gì không tốt đã mắc nợ. Rốt

cuộc là không quá ba năm, thông thường là một hoặc hai năm, là vượt qua; cái khổ phải

chịu ấy rất to lớn. Khi đã vượt qua rồi, [bà] liền hiểu ra ngay, bởi vì bà đã được tính là tu

luyện xong, do đó lập tức khai công, các chủng thần thông đều xuất lai. Điều này cực kỳ

hiếm thấy, cực kỳ hiếm thấy; trong lịch sử cũng có [những người] như thế; [còn đối với]

người căn cơ bình thường thì không thể để chư vị như thế được. Như mọi người đã biết có

những vị tăng điên, đạo [sỹ] điên, và trong lịch sử thực sự có [tồn tại], có ghi chép. Những

[điển cố] như 'phong tăng tảo Tần', các đạo sỹ điên; những điển cố như thế có rất nhiều.

[Về] tẩu hoả nhập ma, chúng tôi nói khẳng định rằng không tồn tại. Thử nói ai có thể

tẩu hoả1, nếu thật sự được như thế, tôi nói rằng cá nhân ấy thật xuất sắc. Có thể há miệng

phun lửa, [hoặc] có thể duỗi tay phóng lửa, [hoặc] chỉ tay một cái liền châm điếu thuốc, thì

tôi nói đó là công năng!

Luyện công chiêu ma

'Luyện công chiêu ma' là gì? Ấy là khi chúng ta luyện công, thường dễ gặp một số

can nhiễu. Luyện công cớ sao lại chiêu [mời] ma? Bởi vì [khi] một cá nhân mong muốn tu

luyện [thì] thực tế rất khó khăn; chân tu mà không được Pháp thân của tôi bảo hộ, thì chư

vị hoàn toàn không thể tu thành; hễ ra khỏi cửa là chư vị có thể gặp những vấn đề [liên

quan] đến sinh mệnh [sống chết]. Nguyên thần con người là bất diệt; như vậy chư vị tại

hoạt động xã hội đời trước, có thể đã mắc nợ người ta, nạt dối người ta, hoặc đã từng làm

1Tẩu hoả: có thể hiểu là từ tẩu hoả trong cụm từ tẩu hoả nhập ma, hoặc hiểu là 'tạo ra lửa'. Chỗ này chơi chữ.Luyện công chiêu ma

98

chuyện bất hảo nào đó; chủ nợ kia sẽ tìm chư vị. Trong Phật giáo giảng rằng: Con người

sống chính là [vì] nghiệp lực luân báo. Chư vị nợ họ [gì], họ sẽ tìm chư vị đòi nợ; nếu lấy

quá đi thì sau này họ sẽ hoàn lại cho chư vị. Con không hiếu thuận với cha mẹ, [thì] sau sẽ

đổi lại; nó luân chuyển qua lại như thế. Tuy nhiên chúng tôi thực sự thấy có ma đang can

nhiễu, không cho chư vị luyện công; nó đều có quan hệ nhân duyên, chứ không phải vô

duyên vô cớ; nếu vô duyên vô cớ thì không cho phép nó như thế.

Hình thức luyện công chiêu ma phổ biến nhất, chính là [thế này]: khi chư vị chưa

luyện công, thì hoàn cảnh chung quanh còn tương đối tĩnh. Vì đã học công, nên luôn thích

luyện; nhưng khi vừa vào chỗ rồi ngồi đả toạ, thì đột nhiên cảm thấy bên ngoài không còn

tĩnh nữa. [Tiếng] còi ô-tô kêu, ngoài hành lang có tiếng đi lại, tiếng nói chuyện, tiếng sập

cửa, bên ngoài cũng bật máy thu thanh; lập tức không còn tĩnh nữa. Hoàn cảnh bên ngoài

khi chư vị không luyện công còn rất tốt, chư vị hễ luyện công thì lại như thế. Có khá nhiều

người chúng ta không thử nghĩ sâu thêm, rằng rốt cuộc đó là chuyện gì vậy; chỉ thấy rất kỳ

lạ, và thấy rất thất vọng không luyện công được. Cái điều "kỳ lạ" ấy đã ngăn trở; đó chính

là ma đang can nhiễu chư vị; chúng đang sử dụng người [khác] để can nhiễu chư vị. Đây

là hình thức can nhiễu đơn giản nhất, đã đạt được mục đích [là] không để chư vị tu luyện.

Chư vị luyện công, chư vị đắc Đạo, phải chăng bao nhiêu thứ chư vị mắc nợ rồi chư vị

không hoàn trả? Chúng không chịu, chúng sẽ không để chư vị [tu] luyện. Nhưng đây cũng

là phản ánh trong một tầng [nào đó]; qua một [giai] đoạn thời gian thì không cho phép

hiện tượng này lại tồn tại; nghĩa là khi món nợ này qua đi rồi, thì không cho phép chúng

lại đến can nhiễu nữa. Vì tu luyện Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi sẽ tu được tương đối

nhanh, đột phá về tầng cũng tương đối nhanh.

Còn có một hình thức can nhiễu nữa của ma. Như mọi người đã biết chúng ta luyện

công có thể khai thiên mục, có người sau khi khai thiên mục rồi luyện công ở nhà, liền

nhìn thấy một số cảnh tượng ghê rợn, những bộ mặt khủng khiếp đáng sợ. Có thứ đầu bù

tóc xoã, có thứ muốn đến liều mạng với chư vị, thậm chí còn xuất hiện nhiều cử động, làm

người ta sợ lắm. Có lúc hễ luyện công liền nhìn thấy ngoài cửa sổ bám đầy những thứ ấy,

làm người ta hãi lắm. Vì sao xuất hiện những tình huống này? Đó đều là những hình thức

can nhiễu của ma. Nhưng trong môn Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi, hình thức [can

nhiễu] này cực kỳ hiếm thấy, trăm phần có một; đa số đều không gặp tình huống này. Bởi

vì nó không có gì là tốt đối với luyện công của chúng ta, do đó không cho phép chúng

chọn hình thức này để can nhiễu chư vị. Tại công pháp tu luyện thông thường, sự việc này

chính là một hiện tượng phổ biến nhất, lại còn duy trì trong thời gian rất lâu. Có người

chính vì điều này mà không luyện công được, khiếp sợ ghê lắm. Luyện công đêm khuya

đều chọn hoàn cảnh rất yên tĩnh, liền thấy một người đứng ngay đằng trước, người chẳng

ra người quỷ chẳng ra quỷ, [nên] sợ quá không dám luyện nữa. Trong Pháp Luân Đại Pháp

của chúng ta bình thường không có hiện tượng này; nhưng cũng có những người rất cá

biệt, có những người tình huống cực kỳ đặc thù.

Còn một loại nữa là của công pháp nội ngoại kiêm tu; họ vừa luyện võ vừa tu nội;

công pháp loại này thường hay gặp bên Đạo gia. Khi ai đã học loại công pháp ấy, thông

thường sẽ gặp chủng loại ma này. Công pháp bình thường [khác] không gặp; chỉ có công

pháp nội ngoại kiêm tu, công pháp luyện võ mới gặp; tức là có người tìm đến họ để tỷ võ.

Bởi vì trên thế giới có rất nhiều người tu Đạo, [trong đó] có rất nhiều người là luyện võ, là

nội ngoại kiêm tu. Người luyện võ ấy, họ cũng có thể tăng công. Tại vì sao? Sau khi họ

vứt bỏ những tâm khác, [như] tâm danh lợi, những tâm như thế, thì họ cũng tăng công.

Tuy nhiên tâm tranh đấu của họ lại lần lữa mãi không bỏ, bỏ được cũng rất muộn màng;

do đó họ dễ làm sự tình này; đến một tầng nhất định vẫn còn xuất hiện [hiện tượng này].

Khi đả toạ lúc mơ mơ tỉnh tỉnh họ biết được ai đó đang luyện công, nguyên thần bèn ly thể

tìm người ta tỷ võ, xem ai công phu cao hơn; và xảy ra [trận] tranh đấu. Tại không gian

Luyện công chiêu ma

99

khác cũng xuất hiện tình huống này, cũng có [người] tìm họ để tranh đấu, đánh lộn; nếu

[từ chối] nói không đánh, thì thật sự sẽ giết họ; [nên phải] đánh nhau, đánh tới đánh lui.

Mỗi khi ngủ lại có người tìm họ để tranh đấu tỷ võ, làm cả đêm không nghỉ ngơi được. Kỳ

thực, khi này chính là lúc để tống khứ tâm tranh đấu của họ; nếu tâm tranh đấu của họ

chưa bỏ, họ vẫn mãi như thế, thì một thời gian lâu, sau mấy năm qua đi cũng không xuất

ra khỏi tầng này. Làm cho cá nhân ấy không luyện công được nữa, [làm] thân thể vật chất

ấy không chịu nổi nữa, tinh lực hao tổn quá lớn, không khéo sẽ bị [tàn] phế. Do vậy trong

công pháp nội ngoại kiêm tu sẽ gặp tình huống này; ngoài ra còn hết sức phổ biến. Công

pháp tu nội của chúng ta không có tình huống ấy, không cho phép nó xuất hiện. Một số

hình thức mà tôi vừa giảng trên đây đều tồn tại tương đối phổ biến.

Còn một loại can nhiễu nữa của ma, cũng là điều mà ai ai cũng cần gặp phải; pháp

môn của chúng ta ai ai cũng cần gặp phải: gặp 'ma sắc'. Điều này rất nghiêm trọng. Trong

xã hội người thường có sinh hoạt vợ chồng, có như thế mới sinh sôi nảy nở đời sau nơi xã

hội nhân loại. Nhân loại chính là phát triển như thế; [và] trong xã hội nhân loại cũng có cái

'tình'; do đó sự tình này đối với người thường mà xét quả là hợp với luân lý của đất trời.

Vì con người có 'tình', nóng giận là 'tình', ưng ý là 'tình', yêu là 'tình', hận cũng là 'tình';

vui thích làm điều [nào đó] là 'tình', không thích làm điều [nào đó] cũng là cái 'tình' ấy;

thấy người này hay người kia dở, yêu thích làm gì đó hoặc chẳng yêu thích làm gì đó, hết

thảy đều là 'tình'; người thường chính là vì cái 'tình' ấy mà sống. Như vậy làm một người

luyện công, một người siêu thường, thì không thể dùng cái [đạo] lý ấy để nhận định được,

cần đột phá điều này. Do đó [đối với] rất nhiều tâm chấp trước xuất phát từ 'tình', chúng

ta cần xem nhẹ, cuối cùng hoàn toàn vứt bỏ. 'Dục' và 'sắc' những thứ ấy đều thuộc về tâm

chấp trước của con người; những thứ ấy đều nên tống khứ.

Pháp môn này của chúng tôi, [đối với] bộ phận tu luyện ở nơi người thường thì không

bảo chư vị làm hoà thượng, làm ni cô; những người trẻ tuổi trong chúng ta còn cần lập gia

đình. Như vậy chúng ta đối xử với vấn đề này như thế nào? Tôi đã giảng, pháp môn này

của chúng tôi là 'trực chỉ nhân tâm', không để chư vị thật sự mất đi những gì ở nơi lợi ích

vật chất. Chính là trái lại, chính là ngay ở trong lợi ích vật chất nơi người thường mà 'ma

luyện' tâm tính của chư vị; [điều] thật sự đề cao lên, chính là tâm tính của chư vị. [Nếu]

cái tâm kia của chư vị có thể vứt bỏ được, thì cái gì chư vị cũng vứt bỏ được, ở nơi lợi ích

vật chất mà bảo chư vị vứt bỏ đi, chư vị đương nhiên sẽ vứt bỏ được. [Còn nếu] tâm của

chư vị mà không vứt bỏ được, [thì] chư vị không vứt bỏ được gì hết; do vậy mục đích thật

sự của tu luyện là tu cái tâm này. Tu luyện trong chùa họ cưỡng chế chư vị mất đi những

thứ ấy, cũng chính là để chư vị dứt bỏ cái tâm này; họ cưỡng chế chư vị, làm chư vị hoàn

toàn đoạn tuyệt với chúng, không cho chư vị nghĩ đến chúng; họ [theo] cách ấy. Nhưng

chúng tôi không yêu cầu đi [theo cách] như thế; yêu cầu của chúng ta là ngay với lợi ích

vật chất ở trước mặt, chư vị làm sao xem chúng thật nhẹ; do đó môn của chúng ta tu xuất

lai là vững chắc nhất. Không bảo chư vị đều làm hoà thượng, làm ni cô. Chúng ta là tu

luyện nơi người thường, tương lai công pháp chúng ta sẽ truyền ra càng ngày càng rộng,

[nếu] ai ai cũng thành 'hoà thượng không ra hoà thượng'1, hễ ai luyện Pháp Luân Đại

Pháp rồi đều có hình thức như thế, [thì] như vậy không được. Trong luyện công chúng tôi

yêu cầu mọi người: chư vị luyện công, ái nhân chư vị có thể không luyện công, [thì chỉ] vì

luyện công mà hai vợ chồng ly hôn là không được. Nghĩa là chúng ta coi chuyện này thật

nhẹ; chư vị không thể coi trọng nó kiểu như người thường được. Nhất là hiện nay ngoài xã

hội cái gọi là 'giải phóng tình [dục]', [và] những thứ đồ khiêu dâm đang can nhiễu đến

người ta. Một số người thấy nó [quan] trọng lắm; chúng ta là người luyện công, thì phải

coi nó thật nhẹ.

1Bất thị hoà thượng đích hoà thượng: hoà thượng không ra hoà thượng, hoà thượng nửa mùa.Luyện công chiêu ma

100

Tại cao tầng mà nhìn, [họ] nói rằng người thường ở xã hội đối với bùn đất quả là

không ngại bẩn, ở mặt đất mà chơi nghịch bùn đất vậy. Chúng tôi [đã] giảng, rằng chư vị

không thể vì điều này mà làm cho gia đình bất hoà; do đó tại giai đoạn mà chư vị đang có

hiện nay, chư vị coi nó thật nhẹ, duy trì sinh hoạt vợ chồng hài hoà như bình thường là

được rồi; tương lai [khi] đến một tầng nhất định sẽ có trạng thái của tầng ấy; [còn] hiện tại

là như thế này, chúng tôi yêu cầu chư vị thực hiện như thế này là được rồi. Đương nhiên

không thể giống như trạng thái của xã hội hiện nay, không được thế!

Tại đây còn có một vấn đề; như mọi người đã biết, thân thể người luyện công chúng

ta có năng lượng. Hiện nay 80%-90% những người trong chúng ta từ lớp học này về sau,

không chỉ hết bệnh, mà còn xuất [hiện] công; do đó trên thân thể mang theo năng lượng

rất lớn mạnh. Công mà chư vị mang theo so với tâm tính của chư vị không tương ứng.

Hiện tại chư vị tạm thời [có] công cao hơn; giúp chư vị lập tức nâng cao lên; [còn] hiện

nay đang đề cao tâm tính của chư vị. Dần dần [tâm tính] chư vị sẽ lên đến theo, đảm bảo

nội trong một [giai] đoạn thời gian thì [tâm tính] chư vị sẽ lên đến theo; do đó chúng tôi

làm việc này từ trước; nghĩa là chư vị có năng lượng nhất định. Bởi vì năng lượng tu luyện

xuất lai từ chính Pháp là thuần chính từ bi, do đó mọi người ngồi tại đây đều cảm giác thấy

một trường hoà ái từ bi. Tôi luyện công vốn tu luyện như thế, tôi mang theo [mình] những

thứ ấy. Mọi người ngồi ở đây đều cảm thấy rất hài hoà, trong tư tưởng của người ta không

có tà niệm, ngay cả hút thuốc cũng không nghĩ tới. Trong tương lai chư vị chiểu theo yêu

cầu của Đại Pháp chúng tôi mà thực hành, thì công mà chư vị tu luyện xuất lai được sau

này cũng như thế. Tuỳ theo công lực của chư vị không ngừng tăng trưởng, thì khi ấy năng

lượng tản xạ của công mang theo trên thân thể chư vị cũng rất lớn mạnh. Ngay cả khi

không có được sự lớn mạnh ấy, [thì] một người thường, ở trong phạm vi trường của chư

vị, hoặc khi chư vị ở nhà, thì chư vị cũng có thể ước chế người khác. Thân nhân ở nhà chư

vị đều có thể chịu sự ước chế của chư vị. Tại sao? Chư vị cũng không cần động niệm; bởi

vì trường ấy là thuần chính hoà ái, từ bi, là trường của chính niệm; do đó người ta không

dễ nghĩ đến điều xấu, không dễ làm những chuyện không tốt; sẽ [phát huy] tác dụng như

thế.

Hôm vừa rồi tôi có giảng 'Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh', nghĩa là năng

lượng tản xạ từ thân thể chúng ta có thể [điều] chỉnh lại hết thảy những trạng thái không

đúng đắn. Như vậy dưới tác dụng của trường này, khi chư vị không nghĩ gì đến chuyện ấy,

thì vô hình chung cũng ước chế ái nhân của chư vị. Chư vị không động niệm, chư vị cũng

sẽ không động niệm ấy, thì họ cũng không nghĩ đến. Tuy nhiên [nó] không tuyệt đối; ở

hoàn cảnh hiện tại, một khi bật TV lên xem, thì cái gì cũng có, dễ làm cho người ta khởi

dục vọng. Tuy nhiên ở tình huống thông thường, chư vị có thể khởi tác dụng ước chế như

thế. Tương lai khi tu luyện ở cao tầng, không cần tôi bảo chư vị, chư vị tự mình [cũng] sẽ

biết [cần] làm thế nào, lúc ấy sẽ có trạng thái khác; duy trì sinh hoạt hài hoà. Do đó, về

chuyện này chư vị không cần coi trọng quá; nếu chư vị để tâm thái quá thì cũng thuộc về

chấp trước. Giữa vợ chồng với nhau thì không có vấn đề về 'sắc', nhưng có 'dục vọng';

chư vị coi nó thật nhẹ, trong tâm cân bằng là được rồi.

Vậy gặp 'ma sắc' như thế nào? Nếu như định lực của chư vị chưa đủ, chư vị sẽ [thấy

nó] xuất hiện ở trong mộng khi ngủ; chính lúc chư vị ngủ hoặc chính vào lúc chư vị đả

toạ, liền đột nhiên xuất hiện: [nếu] chư vị là nam thì sẽ xuất hiện mỹ nữ, nếu chư vị là nữ

thì sẽ xuất hiện một trang nam tử mà chư vị hằng tơ tưởng, nhưng họ không mặc chút gì.

Nếu chư vị máy động niệm đầu một cái, thì có thể tiết ra, sẽ trở thành sự thực. Mọi người

thử nghĩ coi, chúng ta luyện công, khí của tinh huyết là dùng để luyện mệnh; chư vị không

thể cứ mãi tiết ra như thế. Đồng thời cái quan [khảo nghiệm] 'sắc dục' ấy chư vị chưa có

vượt qua được; như thế có được không? Do đó tôi giảng vấn đề này cho chư vị, ai ai cũng

sẽ gặp, bảo đảm là sẽ gặp. Khi tôi giảng Pháp, tôi lấy một năng lượng rất mạnh đưa vào

Luyện công chiêu ma

101

não của chư vị. Chư vị ra khỏi cửa có thể không nghĩ ra được điều tôi giảng cụ thể là

những gì; tuy nhiên khi chư vị thực sự gặp vấn đề, chư vị sẽ nghĩ lại được lời tôi đã giảng.

Chỉ cần chư vị coi bản thân mình là người luyện công, thì đúng thời điểm ấy chư vị sẽ

nghĩ ra được, [nên] chư vị có thể ước chế bản thân mình, cái quan này chư vị có thể vượt

qua được. Nếu như vượt quan [lần] thứ nhất không được, quan [lần] thứ hai sẽ rất khó giữ

được vững. Tuy nhiên có như thế này, lần thứ nhất không qua được, tỉnh ra rồi hối tiếc ghê

gớm khôn thấu; thì có thể tâm lý ấy, trạng thái ấy của chư vị, cũng sẽ nhấn sâu thêm ấn

tượng trong tư tưởng chư vị; khi gặp lại vấn đề, chư vị sẽ giữ [mình] được vững, có thể

vượt qua được. Còn nếu có người không vượt qua được, cũng không để ý, thì sau này sẽ

càng khó giữ vững hơn; đảm bảo là như vậy.

Hình thức này [cũng] có can nhiễu của ma, cũng có sư phụ diễn vật hoá vật để khảo

nghiệm chư vị; hai hình thức ấy đều tồn tại, bởi vì ai ai cũng cần vượt qua quan này.

Chúng ta bắt đầu tu luyện từ người thường, bước đi thứ nhất chính là cái quan này, ai ai

cũng gặp. Tôi nêu một ví dụ cho chư vị, hồi [tôi] dạy ở lớp học tại Vũ Hán có một học

viên như thế, một cậu thanh niên ba mươi tuổi. Tôi vừa giảng bài này trên lớp xong, cậu

này về nhà ngồi đả toạ, lập tức [nhập] định. Định trụ lại xong, đột nhiên nhìn thấy bên này

xuất hiện Phật A Di Đà, bên kia xuất hiện Lão Tử. Đó là điều cậu ấy nói trong tâm đắc thể

hội. [Họ] xuất hiện xong, [đưa mắt] nhìn cậu ấy mà không nói gì cả, rồi ẩn đi [biến mất].

Lại xuất hiện Bồ Tát Quán Âm, trong tay cầm chiếc bình; từ chiếc bình ấy bay ra một làn

khói trắng. Cậu này đang ngồi đó đả toạ, nhìn thấy thật rõ ràng; cậu ta rất cao hứng. Lập

tức [làn khói] hoá thành một số mỹ nữ, mỹ nữ ấy là những phi thiên bay lượn, trông nhất

mực xinh đẹp. Nhảy múa cho cậu ta, những vũ điệu trông thật khả ái! Cậu này tự nghĩ:

'Mình luyện công nơi này, Bồ Tát Quán Âm thưởng tặng cho mình, hoá mấy cô mỹ nữ

cho mình coi, mấy cô phi thiên bay lượn nhảy múa cho mình'. Đúng lúc cậu ta nghĩ cao

hứng nhất, thì lập tức những mỹ nữ kia [trở nên] không mặc chút gì, thực hiện một số

động tác, đến vịn cổ ôm lưng. Tâm tính của học viên chúng ta đề cao rất nhanh, lúc ấy cậu

thanh niên liền cảnh giác, điều mà cậu ấy nghĩ đến trước nhất là: 'Tôi không phải người

bình thường, tôi là người luyện công; các vị chớ đối xử với tôi như thế; tôi là [người] tu

Pháp Luân Đại Pháp'. Niệm đầu vừa xuất khởi, "xoẹt" [một cái] lập tức tất cả đều biến

mất; nguyên [chúng] là huyễn hoá mà thành. Sau đó Phật A Di Đà và Lão Tử lại xuất hiện

lại. Lão Tử lấy tay trỏ vào cậu thanh niên, vừa cười vừa nói với Phật A Di Đà rằng: 'Nhụ

tử khả giáo dã'. Tức là cậu tiểu tử này được, có thể dạy dỗ được.

Tại lịch sử hoặc tại không gian cao tầng, mà xét [một] người có thể tu hay không, [thì]

coi những thứ dục vọng và sắc của người ấy [là] rất chủ yếu; do vậy chúng ta thật sự phải

coi những thứ ấy thật nhẹ. Tuy nhiên chúng ta tu luyện tại người thường, không yêu cầu

chư vị đoạn tuyệt hoàn toàn với nó; ít nhất trong giai đoạn này, chư vị phải coi nó thật nhẹ,

không được lại giống như trước đây. Làm người luyện công thì cần phải như vậy. Hễ

trong khi luyện công mà xuất hiện can nhiễu này, can nhiễu kia, [thì] chư vị phải tìm xem

nguyên nhân [ở] bản thân mình, chư vị còn điều gì chưa vứt bỏ được không.

Tự tâm sinh ma

Cái gì gọi là 'tự tâm sinh ma'? Thân thể con người tại các tầng không gian đều có một

trường vật chất tồn tại, trong một trường đặc thù, [thì] hết thảy những gì trong vũ trụ đều

chiếu xạ lên trường không gian này của chư vị tương tự như bóng ảnh; tuy là bóng ảnh,

nhưng cũng là tồn tại vật chất. Hết thảy mọi thứ trong trường không gian của chư vị đều

nghe theo sự chi phối từ ý thức của đại não chư vị; nghĩa là, [khi] chư vị dùng thiên mục

để nhìn, tĩnh tĩnh không động niệm mà nhìn thì là chân thực; chỉ cần hơi động niệm, thì

những gì nhìn thấy đều là giả; đó chính là 'tự tâm sinh ma', cũng gọi là 'tuỳ tâm nhi hoá'.

Chính là vì có những người luyện công tự họ không thể tự đặt mình làm người luyện công,

Tự tâm sinh ma

102

không thể tự mình giữ lấy mình; họ hữu cầu vào công năng, chấp trước vào tiểu năng tiểu

thuật, thậm chí chấp trước vào những gì nghe được từ không gian khác, chấp trước vào

truy cầu những thứ ấy; loại người này dễ tự tâm sinh ma nhất, dễ bị rớt xuống nhất. Bất kể

[họ] đã tu luyện cao đến đâu, một khi tình huống này xuất hiện thì sẽ rớt xuống đến đáy,

hủy [hại] đến đáy. Đây là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Không như các phương diện

khác: khảo nghiệm tâm tính lần này nếu không qua, thì ngã rồi vựng dậy bò lên, [vẫn] còn

có thể tu tiếp được. Nhưng xuất hiện vấn đề tự tâm sinh ma này thì không được, người ấy

đời này là huỷ [bỏ] rồi. Đặc biệt là những người luyện công tại một tầng nhất định đã khai

thiên mục rồi, dễ xuất hiện vấn đề này. Còn có một số người bản thân ý thức của họ cứ

hay nhận can nhiễu từ tín tức ngoại lai; tín tức ngoại lai bảo họ thứ gì, họ liền tin thứ nấy;

cũng sẽ xuất hiện vấn đề này. Do đó trong chúng ta có những người đã khai thiên mục rồi,

sẽ nhận can nhiễu có đủ loại phương diện của các tín tức.

Chúng tôi nêu ví dụ thế này. Tu luyện ở tầng thấp mà tâm không động, [là] điều khó

làm được. Sư phụ như thế nào có thể chư vị thấy chưa rõ. Đột nhiên một hôm, chư vị thấy

một vị Đại Thần Tiên vừa cao vừa lớn đến. Đại Thần Tiên này khen chư vị hai câu, rồi

dạy chư vị vài thứ; nếu chư vị cũng nhận, thì công của chư vị đã bị loạn mất rồi. Hễ trong

tâm của chư vị cao hứng lên, nhận ông ta làm sư phụ, rồi theo ông ta học; nhưng ông ta

cũng không đắc chính quả, ở không gian kia có thể biến lớn thu nhỏ. Triển hiện như thế

trước mặt chư vị, chư vị nhìn thấy Đại Thần Tiên ấy, quả là kích động! Hễ tâm hoan hỷ

dấy khởi lên, chẳng phải chư vị sẽ theo học ông ta? Người tu luyện [nào] giữ mình không

vững thì rất khó hoá độ, và dễ tự huỷ [hoại] bản thân mình. Người trời đều là Thần, nhưng

họ cũng chưa đắc chính quả, phải nhập lục đạo [luân hồi] như nhau thôi. Chư vị tuỳ tiện

nhận sư phụ, [rồi] chư vị phải theo ông ấy, hỏi ông ấy đưa chư vị lên đến đâu? Chính ông

ta không đắc chính quả, chẳng phải chư vị có tu mà như không ư? Kết quả công của bản

thân chư vị đã loạn cả rồi. Con người rất khó không động tâm. Tôi bảo mọi người, rằng

vấn đề này rất nghiêm túc; tương lai [trong] chúng ta [có] rất nhiều người sẽ xuất hiện vấn

đề này. Pháp tôi đã giảng cho chư vị rồi; chư vị có thể giữ vững nó hay không hoàn toàn

dựa vào bản thân chư vị; điều tôi giảng là một tình huống. Gặp Giác Giả của bất kể môn

phái nào khác cũng không động tâm, chính là tu ở một môn. 'Phật nào, Đạo nào, Thần

nào, ma nào, đều chớ có mong động được cái tâm của tôi', như thế nhất định có [hy] vọng

sẽ thành công.

Tự tâm sinh ma còn có tình huống khác: can nhiễu gặp thân nhân đã qua đời; khóc lóc

nỉ non, bảo chư vị làm điều này, điều khác; chuyện gì cũng xuất hiện. Chư vị có thể không

động tâm? Chư vị yêu dấu đứa con này lắm, chư vị yêu thương cha mẹ chư vị. Cha mẹ

chư vị đã qua đời, họ bảo chư vị làm điều gì đó ... đều là những việc không thể làm; nếu

chư vị làm thì hỏng rồi; người luyện công khó như thế đó. Người ta nói rằng Phật giáo

loạn rồi, những thứ của Nho giáo đều lọt cả vào Phật giáo; những gì như 'hiếu kính cha

mẹ', 'tình cảm con cái' đều lọt cả vào; trong Phật giáo [vốn] không bao hàm những điều

ấy. Ý nghĩa là gì? Bởi vì sinh mệnh chân chính của một cá nhân là nguyên thần; người mẹ

sinh ra nguyên thần chư vị mới là người mẹ thật sự của chư vị. Chư vị trong lục đạo luân

hồi, mẹ của chư vị là người, không là người, [số ấy] không đếm được. Con cái của bao đời

chư vị hỏi có bao nhiêu; cũng không đếm được. Ai là mẹ chư vị, ai là con chư vị, một khi

hai mắt kia khép lại [tạ thế] thì ai còn nhận ra ai nữa; nghiệp mà chư vị nợ vẫn theo đó mà

hoàn trả. Nhân tại mê trung, không vứt bỏ được những thứ này. Có người không vứt bỏ

được [tâm về] con của họ, nói [nó] tốt ra sao, nó chết rồi; mẹ họ tốt ra sao, cũng chết rồi;

họ thống thiết muốn chết [theo], quả thật bỏ nửa cuộc đời còn lại để theo những người kia.

Chư vị không nghĩ ư, đó chẳng phải đến giày vò chư vị? Dùng hình thức ấy để chư vị

chẳng có ngày nào yên.

Tự tâm sinh ma

103

Người thường có thể không lý giải được: nếu chư vị chấp trước [vào] những thứ ấy,

[thì] chư vị hoàn toàn không tu luyện được; do đó trong Phật giáo không bao hàm những

thứ này. Chư vị nếu muốn tu luyện, thì cái 'tình' của con người cần vứt bỏ. Tất nhiên,

chúng ta tu luyện trong xã hội người thường, [thì] hiếu kính cha mẹ, dạy dỗ con cái đều

cần phải [làm]; tại các hoàn cảnh đều đối xử tốt với người khác, lấy Thiện đãi người,

huống là thân nhân chư vị. Đối với ai cũng vậy, đối với cha mẹ, đối với con cái đều tốt, ở

đâu cũng cân nhắc đến người khác; cái tâm ấy không phải là tự tư, mà là tâm từ thiện, là từ

bi. 'Tình' là việc của người thường; người thường là vì 'tình' mà sống.

Nhiều người giữ mình không tốt, tạo thành khó nạn cho tu luyện. Có [người] nói, rằng

Phật nói với họ những gì. Phàm là nói với chư vị, rằng hôm nay có nạn, sẽ xuất hiện sự

kiện gì, chư vị cần tránh nó ra sao. Hoặc giả ai nói với chư vị giải nhất hôm nay số hiệu

bao nhiêu, bảo chư vị đi lấy. Ngoại trừ [trường hợp] có nguy hiểm đến sinh mệnh bảo chư

vị tránh như thế nào, còn hễ là bảo chư vị đắc những điều tốt ở xã hội người thường thì

đều là ma. Chư vị ở nơi người thường đắc những thứ tốt, không vượt qua được một nạn,

thì chư vị không đề cao lên được. Chư vị ở nơi người thường hàng ngày an nhàn thoải

mái, thì chư vị tu làm sao? Nghiệp lực của chư vị chuyển hoá thế nào? Ở đâu có được

hoàn cảnh để đề cao tâm tính chư vị và chuyển hoá nghiệp lực của chư vị? Mọi người nhất

định phải nhớ lấy điểm này. Con ma ấy cũng khen tụng chư vị, nói chư vị thật cao biết

mấy, nói chư vị là Đại Phật cao biết mấy, [là] Đại Đạo cao biết mấy, thấy rằng chư vị thật

xuất sắc; đó toàn là giả. [Là] người tu luyện lên cao tầng một cách chân chính, các chủng

tâm của chư vị đều phải vứt bỏ; khi gặp vấn đề này, mọi người nhất định phải cảnh giác!

Khi chúng ta luyện công thiên mục khai [mở]. Thiên mục khai [mở] có chỗ khó tu của

thiên mục khai mở, thiên mục không khai mở có chỗ khó tu của thiên mục không khai mở;

đều không dễ tu luyện. Thiên mục khai mở xong, khi các chủng tín tức can nhiễu đến chư

vị, chư vị sẽ thật sự khó mà giữ mình được vững. Ở không gian khác, đâu đâu cũng long

lanh như châu ngọc, đẹp đẽ phi thường, tốt đẹp phi thường; cái gì cũng có thể động tâm.

Một khi động tâm thì có thể chư vị đã nhận can nhiễu, công của chư vị đã bị loạn; thông

thường là như vậy. Do đó [với] người tự tâm sinh ma, khi giữ mình không được vững, thì

sẽ xuất hiện tình huống như thế này. Nói thí dụ, một cá nhân sinh ra một niệm đầu bất

chính, thì rất nguy hiểm. Có một hôm, vị này khai thiên mục, vị ấy nhìn thấy rất rõ ràng.

Vị ấy nghĩ: 'Tại điểm luyện công này, chỉ thiên mục của mình là khai mở tốt thế, mình có

lẽ không là người bình thường thì phải? Mình có thể học Pháp Luân Đại Pháp của Sư phụ

Lý Hồng Chí, mình có thể học tốt đến như thế, mình trội hơn hẳn những người khác, mình

có thể không phải người bình thường đâu'. Riêng suy nghĩ này đã là không đúng rồi. Vị

này nghĩ: 'Có thể mình là một vị Phật, à, mình thử tự coi mình xem'. Vị này vừa nhìn một

cái liền thấy mình là Phật. Tại sao như vậy? Bởi vì hết thảy vật chất nằm trong phạm vi

của trường không gian quanh thân thể của vị ấy, đều thuận theo niệm đầu của vị ấy mà

diễn hoá, cũng gọi là 'tuỳ tâm nhi hoá'.

Những thứ đối ứng đến từ vũ trụ, đều biến hoá thuận theo niệm đầu của vị này. Bởi vì

[những gì] trong phạm vi trường không gian của vị ấy đều quy về vị ấy quản; bóng hình

cũng là tồn tại vật chất, [nên] cũng lại như thế. Vị này nghĩ: 'Mình là Phật rồi, có thể mình

đang mặc là y phục của Phật'. Như vậy vị này nhìn thấy y phục mình đang mặc chính là y

phục của Phật. 'Ái chà, mình đúng là Phật rồi,' lấy làm cao hứng ghê lắm. 'Mình có thể

không phải là một tiểu Phật đâu,' nhìn một cái, bản thân lại là một Đại Phật. 'Có khi mình

cao hơn cả Lý Hồng Chí!' Coi thử, 'Ái chà, mình thật sự cao hơn Lý Hồng Chí'. Cũng có

người từ tai nghe thấy, con ma ấy liền can nhiễu vị này, nói: 'Ngài còn cao hơn cả Lý

Hồng Chí, Ngài cao hơn Lý Hồng Chí biết bao nhiêu là bao nhiêu'. Vị này cũng tin. Chư

vị chẳng nghĩ chư vị sau này tu sao đây, chư vị đã từng tu chưa, ai dạy chư vị tu? Chân

Tự tâm sinh ma

104

Phật hạ xuống đây hành sự đều phải tu lại, công nguyên lai1 không được cấp, chỉ bất quá

hiện giờ tu nhanh hơn. Như thế, một khi cá nhân ấy xuất hiện vấn đề này rồi, thì vị ấy rất

khó tự vực lên được, tâm ấy lập tức khởi lên. Khởi lên rồi, vị ấy điều gì cũng dám nói: 'Ta

chính là Phật rồi, các ngươi khỏi cần học theo người khác; ta chính là Phật rồi, ta bảo các

ngươi làm thế này thế kia.' Vị ấy trở thành như thế.

Tại Trường Xuân chẳng phải chúng ta cũng có người như vậy? Ban đầu là cá nhân rất

được, nhưng sau lại trở thành sự việc như thế. Anh ta [cho rằng mình] là Phật, cuối cùng

thì anh ta cao hơn mọi người; chính là người không giữ mình được vững, khởi tâm chấp

trước tạo thành như vậy. Tại sao xuất hiện hiện tượng này? Trong Phật giáo giảng: bất kể

chư vị nhìn thấy gì, chư vị chớ quan tâm chúng, đều là ma huyễn, chư vị chỉ quan tâm tự

mình nhập định tu lên. Vì sao họ không để chư vị nhìn, không để chư vị chấp trước vào

những thứ ấy? Họ sợ xuất hiện vấn đề này. Trong tu luyện Phật giáo không có phương

pháp tăng cường tu luyện, trong kinh thư cũng không có chỉ đạo chư vị thoát khỏi điều ấy

như thế nào. Thích Ca Mâu Ni đương thời không giảng Pháp này; vì để tránh vấn đề tự

tâm sinh ma, tuỳ tâm nhi hoá, Ông nói hết thảy những cảnh tượng nhìn thấy trong khi tu

luyện đều là ma huyễn. Do vậy một khi có tâm chấp trước, thì liền sản sinh ma huyễn này,

[và] người ta rất khó thoát khỏi nó. Nếu xử lý không khéo thì cá nhân ấy sẽ kết thúc thôi,

đã nhập ma rồi. Bởi vì vị ấy nói rằng tự mình đã là Phật, vị ấy đã nhập ma rồi; rốt cuộc có

thể chiêu mời phụ thể hoặc những sự việc khác; vị ấy đã triệt để kết thúc rồi. Tâm tính của

vị ấy đã biến thành xấu rồi, triệt để hạ xuống rồi; những người loại này có rất nhiều. Hiện

nay ở lớp này có những người cảm thấy tự mình khá lắm, thái độ nói chuyện khác

[thường]. Bản thân mình vốn là gì, thì ngay tại Phật giáo cũng là điều rất kỵ huý [không

nói đến]. Điều tôi vừa giảng là một tình huống nữa [của ma can nhiễu], đó gọi là 'tự tâm

sinh ma', cũng gọi là 'tuỳ tâm nhi hoá'. Tại Bắc Kinh có những học viên loại này, còn có

một số nơi khác cũng xuất hiện; hơn nữa can nhiễu rất lớn đến những người tu luyện.

Có người hỏi tôi: 'Bạch Sư phụ, tại sao thầy không thanh lý những điều này?' Mọi

người thử nghĩ xem, nếu như chúng tôi thanh lý toàn bộ những chướng ngại trên con

đường tu luyện cho chư vị, thì chư vị tu làm sao? Chính là tại tình huống có ma can nhiễu

này mới có thể thể hiện được chư vị có thể tu được hay không, chư vị có thể thật sự ngộ

Đạo được hay không, chư vị có thể bị can nhiễu không, có thể kiên định vào pháp môn

này không. Sóng lớn cuốn cát đi-tu luyện chính là điều như vậy-còn lại mới là vàng

thật sự. [Nếu] chư vị không có hình thức can nhiễu này, [thì] tôi nói rằng người ta tu luyện

quá dễ dàng; tôi đang thấy rằng chư vị tu được quá dễ dàng. Những Đại Giác Giả ở cao

tầng kia thấy vậy trong tâm càng bất bình: 'Ông làm gì đó vậy? Ông độ nhân thế này ư?

Trên con đường không có chướng ngại nào cả, hễ tu là đến; đó là tu à? Càng tu càng thoải

mái, can nhiễu nào cũng không có; như thế có được không?' Chính là vấn đề này, tôi cũng

đang cân nhắc vấn đề này. Vào thời kỳ đầu, tôi đã xử lý rất nhiều ma như thế. [Nếu] cứ

mãi tiếp tục như vậy, [thì] tôi nghĩ rằng cũng không đúng. Người ta cũng nói với tôi: 'Ông

để họ tu được cũng dễ dàng quá. Bản thân người ta chỉ có một chút nạn, giữa người với

người có không mấy sự việc, còn có rất nhiều tâm vẫn chưa thể vứt bỏ được! Trong khi

mê hoặc [họ] có thể nhận thức bản thân Đại Pháp của ông được hay không vẫn còn là một

vấn đề!' Có vấn đề như thế; do vậy sẽ có can nhiễu, sẽ có khảo nghiệm. [Điều] vừa giảng

là một hình thức của ma. Thật sự độ một cá nhân rất khó; nhưng huỷ [hoại] một cá nhân

lại cực kỳ dễ dàng. Hễ tâm của chư vị bất chính, liền lập tức kết thúc ngay.

1công nguyên lai: hiểu là cái công mà ông Phật thật (Chân Phật) đã có được từ trước khi giáng trần.Tự tâm sinh ma

105

Chủ ý thức phải mạnh

Vì những điều bất hảo con người đã làm từ đời này qua đời khác, mà tạo thành tai nạn

cho người ta, tạo thành trở lực nghiệp lực cho người tu luyện; do đó có tồn tại sinh lão

bệnh tử. Đó là những nghiệp lực thông thường. Còn có một loại nghiệp lực lớn mạnh nữa,

ảnh hưởng rất lớn đến người tu luyện, gọi là 'nghiệp tư tưởng'. Con người ta sống cần

phải suy nghĩ. Bởi vì con người mê ở chốn người thường, nên trong tư tưởng hay sản sinh

những ý niệm theo danh, lợi, sắc, nóng giận, v.v.; dần dần sẽ tạo thành một loại nghiệp lực

tư tưởng rất lớn mạnh. Bởi vì ở không gian khác hết thảy đều có sinh mệnh, nghiệp cũng

như thế. Khi một người muốn tu luyện chính Pháp, thì cần phải tiêu nghiệp. Tiêu nghiệp

chính là tiêu diệt, chuyển hoá nghiệp ấy. Tất nhiên nghiệp lực không chịu, nên người ta sẽ

có nạn, có trở lực. Tuy nhiên nghiệp lực tư tưởng là can nhiễu trực tiếp đến đại não con

người, từ đó ở trong tư tưởng có những [lời lăng] mạ Sư phụ, [lăng] mạ Đại Pháp, nghĩ ra

những tà niệm và những lời [lăng] mạ người ta. Thế là, có những người tu luyện không

hiểu đó là chuyện gì, lại còn tưởng rằng bản thân mình nghĩ thế. Cũng có người tưởng

rằng đó là phụ thể; nhưng nó không phải là phụ thể, mà là nghiệp tư tưởng phản ánh lên

đại não của con người mà tạo thành như vậy. Có người chủ ý thức không mạnh, bèn thuận

theo nghiệp tư tưởng làm điều xấu; người này vậy là kết thúc, rớt xuống rồi. Nhưng đại đa

số người ta có thể lấy tư tưởng chủ quan rất mạnh (chủ ý thức mạnh) để bài trừ nó, phản

đối nó. Như thế, minh chứng rằng cá nhân ấy có thể độ được, có thể phân biệt rõ tốt xấu,

cũng chính là ngộ tính tốt; Pháp thân của tôi sẽ giúp đỡ họ tiêu trừ đại bộ phận loại nghiệp

tư tưởng này. Tình huống này tương đối hay gặp. Một khi xuất hiện, chính là để xem bản

thân có thể chiến thắng tư tưởng xấu đó không. Ai có thể kiên định, thì nghiệp có thể tiêu.

Tâm nhất định phải chính

Tâm không chính là gì? Đó là [người mà] họ cứ mãi không tự coi mình là người luyện

công. Người luyện công trong khi tu luyện sẽ gặp các nạn; khi nạn ấy đến có thể thể hiện

là khi xích mích giữa người và người, sẽ xuất hiện những sự tình đấu tranh lục đục, v.v.;

ảnh hưởng trực tiếp đến những thứ trên tâm tính của chư vị; phương diện này tương đối

nhiều. Còn gặp những gì nữa? Thân thể chúng ta đột nhiên cảm thấy không thoải mái; bởi

vì hoàn [trả] nghiệp, nó sẽ thể hiện tại các phương diện khác nhau. Đến một thời kỳ nhất

định còn làm cho chư vị [thấy] thật không thật, giả không giả; làm cho chư vị cảm giác cái

công ấy không biết tồn tại không, có thể tu được không, rốt cuộc có thể tu luyện đến đích

không, có Phật hay không; thật có giả có. Tương lai còn làm chư vị xuất hiện tình huống

ấy, làm chư vị tạo thành [cảm] giác sai như thế, làm chư vị cảm giác như chúng hệt như

không tồn tại, đều là giả hết, chính là để xem chư vị có thể kiên định hay không. Chư vị

nói rằng chư vị cần phải kiên định không lay động, với tâm như thế, đến lúc ấy chư vị thật

sự có thể kiên định không lay động, thì chư vị tự nhiên làm được tốt, bởi vì tâm tính chư vị

đã đề cao lên. Nhưng hiện nay chư vị bất ổn như thế, nếu hiện nay cấp cho chư vị ma nạn

ấy, chư vị sẽ hoàn toàn không ngộ, hoàn toàn không thể tu. [Về] các loại phương diện đều

có khả năng xuất hiện ma nạn.

Trong quá trình tu luyện, người ta phải tu luyện lên theo cách như thế. Do đó chúng ta

có những người hễ thân thể họ đâu đó không thoải mái, họ liền cho rằng bản thân có bệnh.

Họ cứ mãi không thể tự coi mình là người luyện công; [khi] gặp tình huống này, họ cũng

tự coi là mắc bệnh; tại sao lại gặp nhiều chuyện phiền phức thế? [Tôi] nói với chư vị rằng,

đã giúp chư vị tiêu [trừ] rất nhiều rồi, những phiền phức ấy của chư vị không [còn] là mấy.

Nếu không tiêu [trừ] giúp chư vị, thì [khi] chư vị gặp những phiền phức ấy có thể hết

mệnh lìa đời rồi, cũng có thể nằm luôn đó không dậy nổi. Do đó chư vị gặp chút phiền

phức, chư vị thấy khó chịu; ở đâu có được sự thoải mái kia chứ? Lấy thí dụ, hồi tôi giảng

bài ở Trường Xuân, có một cá nhân căn cơ rất tốt, quả là một khối nguyên liệu [tốt], tôi

Tâm nhất định phải chính

106

cũng để mắt đến anh này. Bèn để nạn của anh ta hơi lớn hơn một chút, để anh ta hoàn trả

nhanh hơn, để anh ta khai công, tôi chuẩn bị làm như vậy. Rồi một hôm anh ta đột nhiên

mắc triệu chứng hệt như bị nghẽn mạch máu não, trượt ngã xuống đó, cảm thấy không cử

động được nữa, hệt như tứ chi không còn linh nữa; đưa đến bệnh viện cấp cứu. Sau đó anh

ta có thể trở dậy [khỏi giường bệnh]. Mọi người nghĩ xem, bị nghẽn mạch máu não làm

sao có thể ra khỏi [giường] nhanh đến thế kia chứ, tay chân đều cử động được? [Vậy mà]

anh ta quay lại bảo rằng học Pháp Luân Đại Pháp, đã làm anh ta sai lệch như thế. Anh ta

không thử nghĩ, hỏi nghẽn mạch máu não sao khỏi nhanh vậy? Nếu hôm ấy anh ta không

học Pháp Luân Đại Pháp, thì một khi trượt ngã xuống, có khi chết luôn ở đó, hoặc vĩnh

viễn không dậy nữa, thực sự bị nghẽn mạch máu não.

[Có thể] nói con người khó độ như vậy đó, đã vì anh ta làm [giúp] bao nhiêu, vậy mà

anh ta đã không ngộ mà còn nói thế. Có học viên lâu năm nói: 'Thưa Sư phụ, con sao mà

thấy chỗ nào cũng khó chịu lắm, đến bệnh viện tiêm cũng không khỏi, uống thuốc cũng

không khỏi'. Họ còn nói được với tôi như thế! Tất nhiên nó không khỏi. Nó cũng không

phải là bệnh, khỏi sao được? Chư vị kiểm tra đi, không có mầm bệnh, chư vị chỉ thấy khó

chịu thôi. Chúng ta còn có học viên đến bệnh viện làm cong mấy cái kim tiêm, cuối cùng

ống thuốc cũng phụt ra ngoài, không có vào [thân thể]. Anh ta hiểu ra: 'Ái chà, mình là

người luyện công kia mà, mình không tiêm nữa'. [Lúc ấy] anh ta mới nghĩ ra là không nên

đi tiêm. Do vậy khi chúng ta gặp những ma nạn ấy, nhất định phải hết sức chú ý vấn đề

này. Có người tưởng rằng tôi không cho phép họ đến bệnh viện khám [bệnh], bèn nghĩ:

'Sư phụ không cho mình đến bệnh viện khám, [thì] mình tìm khí công sư để khám'. Họ

vẫn cho đó là bệnh, họ tìm khí công sư để khám. Biết tìm khí công sư chân [chính] ở đâu?

Nếu là giả thì lúc đó chư vị hỏng rồi.

Chúng ta nói, những khí công sư ấy thật có giả có, hỏi chư vị phân biệt rõ được ở

đâu? Rất nhiều khí công sư đều là tự phong. Tôi đã trải qua trắc định, tôi có trong tay tư

liệu trắc định của khoa nghiên [cứu] bộ môn đối với tôi. Có rất nhiều khí công sư là giả, là

tự phong, chính là để lừa đảo. Những khí công sư giả ấy cũng có thể khám bệnh. Vì sao có

thể khám bệnh? Họ có phụ thể, không có phụ thể thì họ lừa người sao được! Phụ thể ấy

chúng cũng có thể phát công, cũng có thể trị bệnh; chúng cũng là một loại tồn tại năng

lượng, ước chế người thường hết sức dễ dàng. Tuy nhiên [như] tôi đã giảng, nếu phụ thể

ấy mà trị bệnh, thì phát lên thân chư vị những gì? Ở [mức] cực vi quan đều là hình tượng

của phụ thể ấy, phát lên thân chư vị rồi, chư vị nói xem làm thế nào đây? Mời Thần đến

thì dễ mời Thần đi thì khó. [Với] người thường thì chúng tôi không nói, họ chỉ muốn làm

người thường, họ chỉ mong nghĩ được thoải mái nhất thời. Tuy nhiên chư vị là người

luyện công, chẳng phải chư vị muốn liên tục tịnh hoá thân thể? Những thứ ấy làm bậy lên

thân chư vị rồi, hỏi đến thời nào chư vị có thể bài xuất chúng đi? Ngoài ra chúng còn có

năng lượng nhất định. Có người nghĩ: 'Pháp Luân kia sao có thể để chúng phát vào được

nhỉ? Sư phụ chẳng phải có Pháp thân bảo hộ chúng mình cơ mà?' Trong vũ trụ này của

chúng ta có một [Pháp] lý: điều bản thân chư vị cầu thì không ai quản, điều bản thân chư

vị mong cũng không ai quản. Pháp thân của tôi sẽ ngăn trở chư vị, điểm hoá cho chư vị,

[nhưng] hễ thấy chư vị cứ thế mãi, thì cũng không quản chư vị nữa; cớ chi cưỡng bức

người ta tu luyện được? Không thể cưỡng chế chư vị tu, bức bách chư vị tu. Cần dựa vào

bản thân chư vị mà thật sự đề cao, chư vị không muốn đề cao thì không ai còn cách nào

cả. Lý cũng giảng cho chư vị rồi, Pháp cũng giảng cho chư vị rồi; bản thân chư vị còn

không muốn đề cao, thì chư vị trách ai đây? Điều bản thân chư vị muốn, Pháp Luân cũng

không quản, mà Pháp thân của tôi cũng không quản, đảm bảo là như vậy. Còn có người

đến trường của khí công sư khác nghe trình bày, về nhà rất khó chịu; ấy là đương nhiên.

Tại sao Pháp thân [của tôi] không phòng [hộ] gì cho chư vị? Chư vị đến đó làm gì, chư vị

đến nghe, chẳng phải chư vị đến để cầu? Chư vị không để [nó] rót vào tai, thì nó sao có

Tâm nhất định phải chính

107

thể lọt vào [thân chư vị]? Có người đã làm biến hình Pháp Luân của mình. Tôi nói với chư

vị, cái Pháp Luân ấy còn giá trị hơn cả sinh mệnh chư vị; Nó là một loại sinh mệnh cao

cấp; không thể tuỳ tiện huỷ hoại Nó. Hiện nay khí công sư giả rất nhiều, nhiều [người] có

danh tiếng. Tôi đã nói với một vị lãnh đạo ở Hội Nghiên cứu Khoa học Khí công Trung

Quốc; tôi nói rằng cổ đại đã xuất hiện Đát Kỷ làm loạn triều đình, con cáo ấy làm dữ lắm;

[nhưng] nó không tệ hại bằng khí công sư giả hiện nay, chính là làm loạn toàn quốc; hỏi

bao nhiêu người chịu nạn? Chư vị thấy rằng bề ngoài như thể tốt lắm, hỏi bao nhiêu người

mang trên thân thể những thứ ấy? Họ phát [ra] là cấp lên [thân] chư vị, quả thực là quá

ngang ngược; do vậy người thường từ bên ngoài khó mà thấy cho được.

Có người có thể nghĩ: 'Hôm nay đến tham gia nghe giảng khí công, nghe xong bài

của [Sư phụ] Lý Hồng Chí giảng, [thấy] khí công vốn dĩ quả thật rộng lớn tinh thâm! Sau

này có khí công sư khác giảng tôi sẽ lại đến nghe'. Tôi nói rằng chư vị nhất định chớ có

đến, [nếu] nghe thì những điều không tốt sẽ rót từ tai chư vị mà vào. Độ một người rất

khó, cải biến tư tưởng của chư vị rất khó, điều chỉnh thân thể chư vị cũng rất khó. Khí

công sư giả rất nhiều; [ngay cả] khí công sư chính truyền chân chính, hỏi khí công sư ấy

có làm tịnh được không? Có những con động vật rất hung dữ, những thứ ấy không gắn lên

họ được, nhưng họ cũng không tống khứ chúng đi được. Họ không có năng lực thách thức

những thứ ấy trên một diện rộng, nhất là học viên của họ; họ phát công ở kia, lẫn lộn đủ

những thứ ấy vào trong đó. Bản thân họ thật sự rất chính, nhưng học viên của họ không

chính, mang theo các chủng phụ thể, cái gì cũng có.

Nếu chư vị thật sự tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thì chư vị chớ đến [đó] nghe. Tất

nhiên [nếu] chư vị không muốn tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, mà cái gì cũng muốn luyện,

thì chư vị cứ đi. Tôi cũng không quản chư vị, chư vị cũng không là đệ tử Pháp Luân Đại

Pháp, nếu có vấn đề gì chư vị cũng chớ nói là vì luyện Pháp Luân Đại Pháp. Chư vị chiểu

theo tiêu chuẩn tâm tính mà làm, chiểu theo Đại Pháp mà tu luyện, như thế mới thật sự là

người của Pháp Luân Đại Pháp. Có người hỏi: có thể tiếp xúc với người luyện khí công

khác không? Tôi nói với chư vị: họ là luyện khí công, còn chư vị là tu luyện Đại Pháp; từ

lớp học này trở đi, thì cách biệt về tầng sẽ không biết là xa đến nhường nào; Pháp Luân

này là thứ mà người của bao nhiêu [niên] đại luyện mới thành hình, [nó] có uy lực lớn

mạnh. Tất nhiên nếu chư vị tiếp xúc, có thể bảo trì vững không nhận và cũng không cần gì

của họ, mà chỉ là bạn bè thông thường, thì không thành vấn đề. Nhưng nếu trên thân người

kia thật sự có những thứ ấy thì rất không tốt; tốt nhất là không tiếp xúc. Nói về vợ chồng,

nếu có luyện công khác, tôi nghĩ rằng cũng không thành vấn đề. Tuy nhiên có một điểm,

bởi vì chư vị là luyện chính Pháp, một người luyện công, người khác có lợi ích. [Nếu] họ

luyện oai môn tà đạo, trên thân họ có thể có những thứ oai môn tà đạo; [thì] vì sự an toàn

của chư vị, cũng cần thanh lý cho họ. Mọi thứ ở không gian khác đều được thanh lý cho

chư vị, hoàn cảnh nhà chư vị cũng được thanh lý. Không thanh lý hoàn cảnh, các thứ các

loại can nhiễu chư vị, hỏi chư vị luyện công ra sao đây?

Tuy nhiên có một tình huống mà Pháp thân của tôi không thể thanh lý giúp. Tôi có

một học viên, một hôm thấy Pháp thân của tôi đến, làm ông ta vui sướng quá: 'Pháp thân

của Sư phụ đến đây này, kính mời Sư phụ vào nhà'. Pháp thân của tôi nói: 'Phòng này của

con loạn quá, nhiều thứ quá'. [Pháp thân] liền rời đi. Nói chung, [nếu] các linh thể ở

không gian khác nhiều quá, thì Pháp thân của tôi sẽ thanh lý giúp. Tuy nhiên phòng của

ông này đầy những sách khí công loạn lung tung cả. Ông ta hiểu ra, bèn thu dọn, cái thì

đốt đi, cái thì bán đi; sau đó Pháp thân của tôi lại quay lại. Đó là những gì mà học viên ấy

kể với tôi.

Còn có người đi cầu người ta toán quái. Có người hỏi tôi rằng: 'Thưa Sư phụ, con

luyện Pháp Luân Đại Pháp rồi, đối với «Chu Dịch» hoặc những thứ toán mệnh con thấy

thích thú ghê lắm, con còn có thể dùng [chúng] không?' [Tôi] nói thế này, nếu chư vị có

Tâm nhất định phải chính

108

mang năng lượng nhất định, thì lời chư vị nói ra sẽ phát huy tác dụng. Một chuyện không

phải thế này, nhưng [chư vị] lại cứ nói với người ta thành chuyện như thế, như vậy chư vị

có thể đã phạm điều xấu. Một người thường hết sức yếu nhược, những tín tức tồn tại ở họ

đều không ổn định, rất có thể phát sinh biến đổi này khác. Chư vị mở miệng nói với người

ta rồi, có thể cái nạn ấy liền tồn tại. Chẳng hạn họ có nghiệp lực rất lớn, họ cần phải hoàn

trả; [nhưng] chư vị cứ nói mãi rằng họ có việc tốt; hỏi không hoàn trả nghiệp lực có được

không? Chẳng phải chư vị đang hại người? Có người không vứt bỏ được, cứ chấp trước

vào những thứ ấy, cứ như là họ có bản sự lắm; đó chẳng phải chấp trước là gì? Hơn nữa

dẫu chư vị thật sự biết [thiên cơ], thì đã là một người luyện công giữ [gìn] tâm tính, cũng

không thể tuỳ tiện lấy thiên cơ tiết lộ cho người thường; đó chính là đạo lý. Lấy «Chu

Dịch» mà suy như thế nào? Dù sao cũng có một số điều [trong đó] đã không còn là điều

chân thực nữa; suy đi tính lại, thật có giả có; xã hội người thường được phép có thứ toán

quái như vậy tồn tại. Còn chư vị là người thật sự có công; tôi nói rằng người luyện công

chân chính thì cần phải lấy tiêu chuẩn cao mà yêu cầu bản thân mình. Tuy nhiên có vị tìm

người ta toán quái cho mình, nói: 'Ông hãy toán quái, xem xem tôi sẽ ra sao, công này

luyện sẽ thế nào? Hoặc tôi sẽ có nạn nào hay không.' Họ tìm người để bói những thứ ấy.

Nạn ấy nếu để chư vị bói ra được, hỏi chư vị đề cao làm sao đây? [Với] người luyện công

thì đời của họ đã thay đổi rồi; tướng tay, tướng mặt, coi giờ sinh, cũng như những thứ

mang trên thân thể như tín tức đều khác rồi, đã thay đổi rồi. Khi chư vị tìm đến họ để toán

quái, chư vị sẽ tin họ; nếu không thì chư vị [xem] bói làm gì? Điều họ nói là những gì ở bề

ngoài, những điều nói ra là những điều trong quá khứ của chư vị; tuy nhiên trên thực chất

đã có thay đổi. Như thế mọi người thử nghĩ xem, chư vị tìm họ [xem] bói rồi, chư vị sẽ

nghe phải không, sẽ tin phải không? Như vậy sẽ tạo thành gánh nặng cho tinh thần của

chư vị có phải không? Gánh nặng tạo thành rồi, trong tâm chư vị sẽ nghĩ đến nó; có phải là

chấp trước hay không? Như vậy loại bỏ chấp trước này đi thế nào đây? Đó chẳng phải là

nạn do con người tăng thêm? Tâm chấp trước sinh ra ấy chẳng phải cần phải chịu khổ

thêm nữa thì mới có thể dứt bỏ đi? Mỗi một quan, mỗi một nạn đều có tồn tại vấn đề tu lên

trên hoặc rớt lại xuống. Nguyên đã khó, lại có thêm cái nạn mà người thêm vào, thì vượt

qua sao đây? Vì điều này mà chư vị sẽ phải gặp nạn, chuyện phiền phức. Con đường [đời]

sau khi đã thay đổi của chư vị là không cho phép người khác nhìn thấy. Nếu người khác

nhìn thấy rồi, liền có thể nói hết cho chư vị rằng chư vị đến bước nào sẽ có nạn gì, [nếu

thế] chư vị còn tu gì đây? Do đó hoàn toàn không cho thấy. Ai ở pháp môn khác cũng

không được thấy; các đệ tử đồng môn đều không được thấy; ai nói cũng không trúng. Bởi

vì một đời ấy đã thay đổi rồi, là một đời tu luyện.

Có người hỏi tôi: 'Sách trong tôn giáo khác, cũng như sách khí công có thể xem

không?' Chúng ta giảng, rằng sách trong tôn giáo, nhất là sách của Phật giáo, đều bảo

người ta tu luyện tâm tính như thế nào. Chúng ta cũng là Phật gia, có thể nói là không

thành vấn đề. Nhưng có một điều, nhiều kinh sách có những điều đã bị sai lệch trong quá

trình phiên dịch, lại còn [bị] thêm vào đó rất nhiều giải thích kinh sách, [đó] cũng là đứng

tại các tầng khác nhau mà giải thích, mà tuỳ tiện định nghĩa; đó chính là loạn Pháp. Những

người giải thích loạn cả kinh sách ấy cách quá xa cảnh giới của Phật, hoàn toàn không biết

được hàm nghĩa chân chính trong đó; do vậy vấn đề [họ] nhận thức là khác rồi. Chư vị

muốn đọc hiểu rõ nó, cũng không hề dễ dàng; bản thân chư vị không ngộ rõ ra được.

Nhưng [nếu] chư vị nói: 'Chúng tôi thấy rất thích kinh sách [Phật giáo]'. Nếu chư vị cứ

học loanh quanh trong những kinh sách ấy, thì chính là đang tu luyện trong pháp môn ấy,

bởi vì kinh sách cũng là có công và Pháp ở trong đó hợp lại; hễ học thì là đã học vào môn

ấy rồi, có vấn đề như thế. Nếu chư vị đào sâu vào đó, chiểu theo đó mà tu, thì có thể chư

vị đã đi theo pháp môn ấy, không còn là pháp môn chúng tôi nữa. Tu luyện xưa nay đều

Tâm nhất định phải chính

109

nói 'bất nhị pháp môn', nếu chư vị chân tu một môn, thì chư vị chỉ xem kinh [sách] của

môn ấy.

Còn nói về sách khí công, [nếu] chư vị muốn tu thì chớ có đọc, nhất là những sách

hiện nay, đừng xem. Còn về những [cuốn] như «Hoàng Đế Nội Kinh», «Tính Mệnh Khuê

Chỉ», hoặc «Đạo Tạng» thì cũng như thế; tuy rằng chúng không có những điều xấu, nhưng

trong đó có tồn tại các loại tín tức ở các tầng. Bản thân chúng là các phương pháp tu

luyện, hễ xem là cấp thêm cho chư vị, can nhiễu đến chư vị. Chư vị thấy rằng câu kia là

đúng, tốt thôi, nó lập tức tiến [nhập] vào. Liền tiến [nhập] vào công của chư vị; tuy rằng

nó không phải là thứ xấu, [nhưng] đột nhiên cấp cho chư vị một chút gì lạ nào đó, chư vị

thử nói còn luyện sao đây? Chẳng phải sẽ xuất hiện vấn đề? Những linh kiện điện tử trong

cái TV này của chúng ta, nếu chư vị cho thêm vào đó một linh kiện lạ khác, chư vị thử nói

cái TV này sẽ ra sao? Sẽ lập tức hỏng ngay; chính là đạo lý này. Hơn nữa hiện nay trong

những sách khí công thì rất nhiều là giả, mang theo các loại tín tức. Trong chúng ta có một

học viên vừa dở sách khí công thì một con rắn lớn từ trong đó nhảy phốc ra. Tất nhiên tôi

không có ý định nói chi tiết. Điều tôi vừa giảng là việc những người luyện công chúng ta

vì bản thân không thể đối đãi với bản thân mình một cách đúng đắn, [nên] tạo thành những

chuyện phiền phức ấy, cũng chính là phiền phức do tâm bất chính chiêu mời đến. Chúng

tôi giảng cho mọi người có chỗ tốt, để mọi người biết [cần] làm thế nào, phân biệt chúng

ra sao, sao cho tương lai không xuất hiện vấn đề. Chư vị chớ cho rằng những lời tôi vừa

giảng là không [nghiêm] trọng; mọi người phải hết sức chú ý, thông thường xuất hiện vấn

đề chính ở điểm này, thông thường vấn đề xuất hiện chính ở chỗ này. Tu luyện là cực kỳ

gian khổ, là nghiêm túc phi thường; chư vị hơi không chú ý là có thể [bị] rớt xuống ngay,

huỷ [hoại] chỉ trong một sớm; do vậy tâm nhất định phải chính.

Khí công võ thuật

Ngoại trừ công pháp tu nội ra, còn có 'khí công võ thuật'. Khi bàn về khí công võ

thuật, tôi cũng cần nhấn mạnh một vấn đề, hiện nay trong giới tu luyện có nhiều thuyết về

khí công.

Bây giờ đã xuất hiện những thứ như 'khí công mỹ thuật', 'khí công âm nhạc', 'khí

công thư pháp', 'khí công vũ đạo', cái gì cũng có; [chúng] đều là khí công? Tôi thấy lạ

lắm. Tôi nói chúng là 'khí công làm loạn'; không chỉ là 'khí công làm loạn', mà quả thực

là 'chà đạp khí công'. Căn cứ lý luận [của họ] là gì? Nói rằng khi vẽ, hát, nhảy múa, hay

viết chữ, thì tiến nhập vào một trạng thái mơ mơ tỉnh tỉnh, gọi là 'khí công thái'; đó là khí

công ư? Không thể nhận thức vấn đề như vậy được. Chẳng phải tôi nói đó là 'chà đạp khí

công' là gì? Khí công là một loại học vấn rộng lớn uyên thâm về tu luyện [thân] thể con

người. A, cứ mơ mơ tỉnh tỉnh là khí công rồi? Vậy chúng ta mơ mơ tỉnh tỉnh rồi vào nhà

vệ sinh thì tính sao? Chẳng phải là chà đạp khí công là gì? Tôi nói đó chính là 'chà đạp khí

công'. Hội Sức Khoẻ Đông Phương năm kia, [tôi] thấy [khí] công thư pháp nào đó. Cái gì

gọi là khí công thư pháp? Tôi bèn đến xem khí công thư pháp ấy ra sao; ông này cầm bút

viết chữ; viết chữ xong, liền dùng tay phát khí đến từng chữ; phát xuất ra đều là khí đen.

Trong đầu chỉ toàn là tiền và danh [vọng], chư vị thử nói có thể có công không? Khí cũng

sẽ không phải khí tốt. Treo lên là bán rất đắt, mà người nước ngoài đều tới mua của ông.

Tôi nói rằng ai mua về nhà rồi sẽ xúi quẩy. Cái khí đen ấy có thể tốt sao được? [Tôi] thấy

mặt của ông này đen lắm, ông ta nhìn gì cũng ra tiền, chỉ nghĩ đến tiền; hỏi có thể có

công? Trên danh thiếp ông này có ghi cả đống danh [hiệu], nào là 'Khí công Thư pháp

Quốc tế' v.v. Tôi hỏi cái thứ mánh lới ấy có được tính là khí công hay không?

Mọi người thử nghĩ, trong những người [học] xong lớp này của tôi, 80%-90% chúng

ta sẽ không chỉ hết bệnh, mà chư vị còn đắc công, công chân chính. Những thứ mang trên

thân chư vị đã là siêu thường rồi; [nếu] tự bản thân chư vị luyện, [thì] cả một đời chư vị

Khí công võ thuật

110

cũng không thể luyện xuất lai ra được [những thứ ấy]. Một người còn trẻ từ bây giờ mà bắt

đầu luyện, thì cả một đời cũng không luyện xuất lai được những thứ mà tôi đã cấp cho chư

vị, mà vẫn cần một minh sư chân chính [để chỉ] dạy chư vị. Chúng tôi những người bao

nhiêu thế hệ mới hình thành được Pháp Luân và những cơ chế này; những thứ ấy lập tức

gắn cấp cho chư vị rồi. Do đó tôi nói với mọi người, chớ nên vì dễ được mà dễ mất. Nó

cực kỳ trân quý, không thể dùng giá trị để đo lường được đâu. Chúng ta sau lớp học này,

những gì chư vị mang theo là công chân chính, là vật chất cao năng lượng. Chư vị về nhà

cũng lấy bút viết mấy chữ, chữ dù đẹp hay xấu, [đều] có công! Do đó chúng ta sau lớp học

này trở đi, phải chăng ai ai cũng có thêm một chữ "sư" vào, đều là 'khí công sư thư pháp'?

Tôi nói rằng không thể nhận thức như thế được. Vì là người có công chân chính, chư vị

không [cần] dùng ý đặc biệt để phát [công], chư vị chạm qua cái gì thì đều lưu lại năng

lượng, đều lấp lánh ánh quang.

Tôi còn xem một cuốn tạp chí, đăng thông tin về việc mở lớp khí công thư pháp. Tôi

dở ra một chút, xem xem họ dạy thế nào. Trong đó viết thế này: trước tiên điều tức, hô

hấp, sau đó ngồi đả toạ ý tưởng [đặt tại] khí đan điền; đả toạ mười lăm phút cho đến nửa

giờ đồng hồ, ý tưởng nâng khí đan điền lên dẫn nhập vào cánh tay, lấy bút chấm vào mực

[nho], lại vận khí tiếp vào đầu bút. Ý niệm đến đó rồi, thì bắt đầu viết chữ. Chẳng phải đó

là lừa người? A, đề khí vào đâu thì gọi là khí công đó phải không? Thế thì chúng ta khi ăn

cơm, ngồi đả toạ một lúc, cầm đũa lên, vận khí vào đầu đũa ăn cơm, vậy bèn gọi là 'khí

công ăn cơm', phải vậy không? Đồ ăn cũng là năng lượng; chuyện này nói như vậy đấy.

Tôi nói rằng chính là 'chà đạp khí công'; họ coi khí công quá thiển cận; vậy nên không thể

nhận thức như thế được.

Tuy nhiên khí công võ thuật đã có thể được xem là một môn khí công độc lập. Vì

sao? Nó có quá trình truyền thừa mấy nghìn năm, nó có một bộ hoàn chỉnh về lý luận tu

luyện cũng như một bộ hoàn chỉnh về phương pháp tu luyện; do đó nó có thể được tính là

một bộ hoàn chỉnh. Tuy như vậy, nhưng khí công võ thuật cũng là điều ở tầng thấp nhất

trong công pháp tu nội [như] của chúng ta. Ngạnh khí công chính là một loại viên năng

lượng vật chất, chỉ có tác dụng trong đánh nhau. Lấy ví dụ này cho mọi người; tại Bắc

Kinh có một học viên, sau khi lên lớp [học] Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi, thì không

thể [dùng] tay ấn vào cái gì hết. [Anh ta] đến cửa hàng mua xe trẻ em, dùng tay thử độ bền

chắc, thì vừa ấn một cái, "păng" [một cái] khung xe gẫy ngay; anh ta lấy làm lạ lắm. Về

nhà ngồi ghế dựa, anh này không thể dùng tay mà ấn; dùng tay mà ấn xuống ghế thì

"păng" một cái gẫy ghế ngay. Anh ta hỏi tôi đó là sao. Tôi không giảng cho anh ta, tôi e

rằng anh ta phát sinh tâm chấp trước. Tôi nói: 'đó đều là trạng thái bình thường, tuỳ kỳ tự

nhiên, không cần quan tâm đến nó, đều là điều tốt'. [Nếu] công năng ấy mà dùng tốt, thì

hòn đá kia chỉ dùng tay nắn một cái là bở vụn ngay. Chẳng phải ngạnh khí công là gì? Tuy

nhiên anh này chưa hề luyện ngạnh khí công. Trong công pháp tu nội thông thường các

công năng này đều xuất [hiện], tuy nhiên vì tâm tính người [học] chưa giữ được vững, do

đó thông thường công năng xuất ra đều không cấp chư vị dùng. Nhất là khi tu luyện tại

tầng thấp, tâm tính người ta chưa đề cao lên, nên những công năng xuất ra ở tầng thấp này,

hoàn toàn đều không được cấp. Dần dần sau này khi chư vị nâng cao tâm tính lên rồi, thì

những thứ ấy không có tác dụng gì nữa, nên cũng không được xuất lai nữa.

Cụ thể về luyện khí công võ thuật là thế nào? Luyện khí công võ thuật họ giảng vận

khí. Tuy nhiên ban đầu chưa có vận được cái khí ấy, bảo chư vị nghĩ đến vận khí là vận

được ngay [hay sao], họ còn chưa vận [khí] được. Làm thế nào đây? Họ cần luyện tay của

mình, hai bên sườn, hoặc đùi, chân, cẳng tay cánh tay, đầu cũng cần luyện. Luyện thế nào?

Có người dùng tay đánh vào cây, dùng chưởng đánh vào cây. Có người dùng tay vỗ vào

phiến đá, 'păng-păng' vỗ vào đó. Chư vị [có thể] nói là xương mà dội vào đó thì phải đau

ghê lắm, chỉ dùng kình [lực] hơi quá chút xíu là chảy máu ngay. Nhưng khí ấy vẫn chưa

Khí công võ thuật

111

vận được. Làm sao đây? Họ bắt đầu vung tay, sao cho máu chảy ngược ra; bắp tay, bàn

tay sẽ phồng lên. Thực tế là chúng phồng lên, sau đó họ dùng tay đánh vào [phiến] đá một

cái, xương đã được đệm lót rồi, không trực tiếp chạm vào đá nữa, cũng không đau như

trước nữa. Cùng theo việc họ luyện công liên tục, sư phụ sẽ dạy họ; dần dần họ sẽ vận

được khí. Tuy nhiên chỉ vận khí thôi thì chưa được; khi đánh nhau thật thì người ta đâu có

đợi chư vị. Đương nhiên người ta khi có thể vận khí thì đã có thể chịu được đòn, lấy một

cây gậy rất dày mà đánh lên cũng có thể không thấy đau; họ vận khí xong có thể phồng

lên. Tuy nhiên khí là thứ nguyên thuỷ nhất ban đầu; thuận theo thời gian họ không ngừng

luyện, [thì] khí này sẽ chuyển hoá lên thành vật chất cao năng lượng. Khi nó đã chuyển

hoá thành vật chất cao năng lượng rồi, sẽ dần dần hình thành một loại cục năng lượng có

mật độ rất lớn. Nhưng loại cục năng lượng này có linh tính, do đó nó cũng là một cục công

năng, [nó] chính là một loại cục công năng. Nhưng loại công năng này có thể chuyên dùng

để đánh, đỡ đòn; [nhưng] dùng nó trị bệnh thì không được. Bởi vì vật chất cao năng lượng

này ở tại không gian khác, nó không di chuyển ở không gian này của chúng ta, do đó thời

gian của nó nhanh hơn của chư vị rất nhiều. Khi chư vị muốn đánh người khác, không còn

dùng đến vận khí nữa, không cần nghĩ tưởng nữa, [mà] công ấy đã đến chỗ đó ngay rồi.

Người khác đánh chư vị, khi chư vị muốn chống đỡ, thì công ấy cũng đã đến đó rồi. Bất

kể là chư vị xuất thủ nhanh đến đâu, nó còn nhanh hơn chư vị; khái niệm thời gian của hai

bên là khác nhau. [Nếu] luyện khí công võ thuật, [thì] có thể luyện xuất được những thứ

như là 'thiết sa chưởng', 'chu sa chưởng', 'kim cương thối', 'la hán cước'; đó là những

bản sự của người thường. Người thường khi đã trải qua rèn luyện rồi thì có thể đạt được

đến mức ấy.

Sự khác biệt lớn nhất giữa khí công võ thuật và công pháp tu nội là: khí công võ thuật

yêu cầu luyện trong vận động, do đó khí chạy dưới da. Vì luyện trong vận động, nên

không thể nhập tĩnh, khí không nhập đan điền; khí chạy dưới da, khí thoát qua cơ bắp, do

đó không thể luyện mệnh, cũng không thể tu luyện xuất ra được những công phu cao

thâm. Công pháp tu nội của chúng ta yêu cầu luyện trong tĩnh. Công pháp thông thường

giảng khí nhập đan điền, khí nhập bụng dưới, chú trọng tu luyện trong tĩnh, chú trọng

chuyển hoá bản thể, có thể tu mệnh, có thể tu luyện đến tầng cao hơn.

Mọi người có thể đã nghe đến những công phu như thế; trong tiểu thuyết cũng viết về

những thứ như 'kim chung trạo', 'thiết bố sam', 'bách bộ xuyên dương'. Còn 'khinh công'

nữa, có người đi lại trên cao; có người thậm chí có thể độn nhập sang không gian khác.

Các công phu này có hay không? Có, điểm này là khẳng định; tuy nhiên không có trong

người thường. Ai đã thật sự luyện xuất được những công phu này, thì không thể lấy chúng

ra hiển thị được. Bởi vì họ không chỉ đơn thuần luyện võ thuật, mà đã hoàn toàn siêu xuất

khỏi người thường rồi; như thế những người này cần phải chiểu theo công pháp tu nội mà

tu. Họ phải giảng tâm tính, đề cao tâm tính của mình; họ coi những thứ lợi ích vật chất kia

thật nhẹ nhàng. Tuy rằng họ đã tu xuất ra được những loại công phu ấy, nhưng từ đó trở đi

họ không thể tuỳ tiện sử dụng ở chốn người thường nữa; khi không có người nhìn thấy

[thì] tự mình làm một chút thì được. Chư vị thấy viết trong những tiểu thuyết kia, rằng các

nhân vật vì [sơ] đồ kiếm [thuật], vì [muốn] lấy báu vật, vì đàn bà, mà giết mà đánh; bản sự

của ai cũng rất to lớn, đi lại như Thần. Mọi người thử nghĩ xem, người đã thật sự có những

công phu này, họ chẳng phải tu nội mà tu xuất lai được hay sao? Họ [coi] trọng tâm tính

mới tu xuất lai được, đối với danh lợi và các thứ dục vọng thì [họ] đã xem nhẹ từ lâu; họ

có thể đi giết người không? Họ có thể coi trọng tiền tài đến thế không? Hoàn toàn không

thể như vậy được; đó chỉ là thổi phồng trong nghệ thuật thôi. Con người truy cầu những

kích thích tâm lý, cái gì thoả mãn điều ấy thì [đọc]. Các tác giả cũng nắm chắc đặc điểm

này, thể nào cũng [viết] cho chư vị thấy thoả [mãn], thấy cao hứng; họ gắng sức viết cho

chư vị. Viết ra càng huyền [hoặc] chư vị càng thích đọc; đó chỉ là thổi phồng trong nghệ

Khí công võ thuật

112

thuật thôi. Ai thật sự có những công phu này đều không hành xử như thế, đặc biệt lại càng

không thể lấy ra biểu diễn.

Tâm lý hiển thị

Có nhiều học viên trong chúng ta, vì tu luyện ở nơi người thường, nên có nhiều tâm

chưa vứt bỏ; có nhiều tâm đã trở thành 'tự nhiên' rồi, bản thân họ không nhận ra được

nữa. Tâm lý hiển thị này ở đâu cũng thể hiện ra; khi làm điều tốt cũng có thể thể hiện ra

tâm lý hiển thị. Bình thường thì vì danh [tiếng] cho bản thân, vì để được lợi hơn một chút,

[mà] phô diễn, [mà] hiển thị: 'Tôi có khả năng, là người mạnh hơn'. Chúng ta cũng có tình

huống này: luyện có phần hơn, thiên mục xem có phần rõ hơn, động tác trông đẹp mắt

hơn; cũng có hiển thị trong đó.

Có người nói: 'Tôi đã nghe thấy Sư phụ Lý Hồng Chí nói điều nào đó'; mọi người

liền tụm lại nghe; người ấy ở đó giảng nói, dùng lý giải của bản thân để thêm thắt lưu

truyền những tin đồn. Mục đích làm gì vậy? Cũng là để hiển thị bản thân. Còn có người

lưu truyền những tin đồn như vậy, người nọ truyền người kia, ở đó giảng nói mà lấy làm

thích thú lắm, như thể là họ linh thông những tin đồn ấy lắm. [Như thể là] chúng ta có rất

nhiều học viên không hiểu rõ như họ, người khác không biết nhiều như họ; họ đã thành 'tự

nhiên' rồi, có thể không tự nhận ra được nữa. Trong tiềm ý thức, họ đã có tâm lý hiển thị

ấy; nếu không thì truyền những tin đồn kia để làm gì? Còn có người truyền rằng Sư phụ

đến một lúc nào đó sẽ 'hồi sơn'. Tôi không phải từ núi đến, hỏi tôi hồi về núi nào đây?

Còn có người nói rằng Sư phụ vào ngày hôm ấy đã giảng những điều gì đó cho ai, rằng tôi

đối xử đặc biệt với ai như thế nào đó. Truyền những thứ ấy hỏi có gì tốt? Chẳng có điểm

gì tốt ở đó cả; mà trái lại chúng tôi thấy được một loại tâm chấp trước, một loại tâm lý

hiển thị.

Còn có người tìm tôi xin chữ ký; mục đích là gì? Cũng là cách thức của người

thường: xin chữ ký, lưu kỷ niệm. Chư vị nếu không [thực] tu, thì tôi cho chư vị chữ ký

cũng không có tác dụng gì. [Trong] sách của tôi chữ nào cũng là hình tượng của tôi và

Pháp Luân, mỗi câu đều do tôi giảng; chư vị còn cần chữ ký nào nữa đây? Có người nghĩ:

'Có chữ ký rồi, tín tức của Sư phụ sẽ bảo hộ mình'. [Họ] vẫn giảng về tín tức; chúng tôi

không giảng tín tức. Cuốn sách này vốn đã không thể dùng giá trị mà đo lường. Chư vị

còn cầu gì nữa đây? Chúng đều là những điều phản ánh từ cái tâm ấy. Còn có người quan

sát những học viên thân cận tôi, quan sát lời nói cử chỉ của những vị ấy xong, liền theo

[đó] mà học; điều tốt hay xấu họ không có [phân biệt] rõ. Kỳ thực bất kể chúng tôi [đối

xử] với ai thế nào đi nữa, cũng chỉ có một Pháp này; chỉ cần tuân theo Pháp này mà làm,

đó mới là tiêu chuẩn chân chính. Những người thân cận bên tôi không hề được đối xử đặc

biệt gì, cũng như mọi người thôi; họ chỉ là những nhân viên công tác của Hội Nghiên Cứu;

[chư vị] chớ khởi cái tâm ấy. Thông thường khi chúng ta dấy khởi cái tâm ấy, [thì] chư vị

vô ý đã khởi tác dụng phá hoại Đại Pháp. Những điều [đồn đại] giật gân mà chư vị tạo ra,

thậm chí có thể làm nảy sinh mâu thuẫn, và thường gây tâm chấp trước cho học viên, cũng

mong đến gần Sư phụ để nghe được thêm đôi chút, v.v.; những sự việc như thế đó không

phải đều là vấn đề này hay sao?

Tâm lý hiển thị này còn dễ dẫn đến điều gì? Thời gian truyền công của tôi đã hai năm

rồi; trong những học viên lâu năm tu luyện Pháp Luân Đại Pháp chúng ta, có một số người

có thể khai công rất nhanh; có một lớp người sẽ tiến nhập vào trạng thái tiệm ngộ, đột

nhiên tiến nhập vào tiệm ngộ. Tại sao lúc này họ không xuất những công năng ấy? Là vì

tôi lập tức đẩy chư vị lên đến cao như thế, các tâm người thường của chư vị [vẫn] chưa bỏ

đi thì không thể được. Tất nhiên tâm tính của chư vị đã nâng lên rất cao, nhưng vẫn còn

nhiều tâm chấp trước chưa từ bỏ, do đó không thể để chư vị xuất ra những công năng ấy

được. Khi mà chư vị vượt qua được giai đoạn ấy, sau khi ổn định lại, [thì] lập tức đẩy chư

Tâm lý hiển thị

113

vị lên đến trạng thái tiệm ngộ. Trong trạng thái tiệm ngộ này, thiên mục của chư vị sẽ khai

mở ở rất cao, chư vị sẽ xuất rất nhiều công năng. Ở đây tôi nói với mọi người rằng, khi tu

luyện chân chính, thì vừa bắt đầu vào là đã xuất hiện rất nhiều công năng; chư vị đã tiến

nhập đến tầng cao như thế rồi, do đó công năng rất nhiều. Gần đây chúng ta có nhiều

người có thể đã xuất hiện trạng thái này. Còn có một số người, họ tu không cao, những thứ

họ mang trên thân và lực nhẫn nại của bản thân họ kết hợp lại là cố định; do đó có một số

người [ngay] tại tầng rất thấp [đã] khai công khai ngộ rồi; ngộ triệt để; sẽ xuất hiện những

người như thế.

Tôi giảng rõ vấn đề này cho chư vị, chính là để nói với chư vị rằng, nếu mà những

người như thế xuất hiện, chư vị nhất định không thể coi họ như những Giác Giả xuất sắc.

Trong tu luyện đây là một vấn đề rất nghiêm túc; chỉ có tuân theo Đại Pháp này mà hành

động mới là đúng. Chư vị không được [phép vì] thấy người ta [có] công năng, thần thông,

nhìn thấy một số điều, rồi sau đó theo người ta, nghe theo người ta. Chư vị rồi sẽ làm hại

họ, họ sẽ sinh tâm hoan hỷ, cuối cùng những gì mà họ có sẽ bị mất hết, đóng lại hết; rốt

cuộc [họ] sẽ bị rớt xuống. [Người] đã khai công cũng [có thể] bị rớt; người đã khai ngộ rồi

nếu giữ [mình] không vững cũng sẽ rớt xuống. Ông Phật kia nếu không giữ được tốt cũng

rớt xuống, huống là chư vị vốn là người luyện công ở trong người thường! Do vậy bất kể

là đã xuất được bao nhiêu công năng, công năng lớn đến mấy, thần thông hiển được lớn

đến mấy, thì chư vị nhất định phải giữ cho vững. Gần đây chúng tôi có người đang ngồi ở

kia liền [biến] mất, sau một lúc lại xuất hiện; những thần thông lớn hơn cũng đều sẽ xuất

hiện. Trong tương lai chư vị cần làm thế nào? Là học viên và đệ tử của chúng tôi, tương

lai sự việc ấy nếu chư vị xuất ra cũng vậy, người khác xuất ra cũng vậy, chư vị không

được sùng bái họ và đi cầu những thứ ấy. Hễ tâm chư vị biến đổi, thì lập tức là hết rồi, chư

vị đã rớt xuống rồi; có khi chư vị còn cao hơn họ, chỉ là chưa xuất thần thông thôi. Ít nhất

thì về vấn đề này chư vị đã bị rớt rồi; do đó mọi người nhất định phải chú ý vấn đề này.

Chúng tôi xếp chuyện này vào vị trí rất trọng yếu; bởi vì sẽ xuất hiện sự việc này rất

nhanh; hễ xuất hiện, chư vị mà không giữ mình được vững thì không được.

Người tu luyện đã xuất hiện công, đã khai công, hoặc thật sự đã khai ngộ, cũng không

thể tự coi mình là thế này thế nọ được; những điều mà họ thấy, là những điều thấy được tại

tầng của họ. Bởi vì tu luyện đã đến bước ấy, cũng là ngộ tính của họ đã đạt đến bước ấy,

tiêu chuẩn tâm tính của họ đạt đến bước ấy, trí huệ của họ cũng là đạt đến bước ấy. Do đó

[đối với] những điều ở tầng cao hơn, họ có thể không tin. Chính là vì họ không tin, nên

mới tạo thành việc là họ cho rằng những gì bản thân mình nhìn thấy là tuyệt đối [đúng

đắn], cho rằng chính là như thế. Nhưng nó còn sai khác nhiều, bởi vì tầng của họ chỉ ở đó

thôi.

Có một số bộ phận [học viên] cần khai công ở trong tầng ấy; có tu cao lên nữa cũng

không tu lên được, do đó chỉ có thể khai công khai ngộ tại tầng đó thôi. Những người tu

luyện xuất lai sau này của chúng ta, sẽ có [người] khai ngộ tại tiểu đạo thế gian, có [người]

khai ngộ tại các tầng khác nhau, [và] có [người] khai ngộ tại đắc chính quả. Khai ngộ tại

đắc chính quả mới là tối cao, tại các tầng khác nhau đều có thể nhìn thấy và cũng có thể

hiển hiện xuất lai. Ngay [những người] tại tầng thấp nhất tiểu đạo thế gian khai công khai

ngộ, cũng có thể thấy được một số không gian, một số Giác Giả, cũng có thể câu thông với

họ. Lúc ấy chư vị không nên cảm thấy tự hài lòng quá, [vì] theo tiểu đạo thể gian, tại tầng

thấp mà khai công thì không đắc được chính quả; điều này là khẳng định. Vậy cần làm

sao? Họ chỉ có thể bảo trì ở trong tầng ấy; sau này [đối với] tu luyện lên tầng cao hơn,

[thì] đó là chuyện về sau. Đã tu cao đến đó mà không khai công thì để làm gì? Dẫu rằng

chư vị cứ tu hướng lên trên như thế này, nhưng tu không lên được; do đó mới khai công,

[vì] đã tu đến đầu đỉnh rồi; sẽ xuất hiện rất nhiều người như vậy. Bất kể là xuất hiện tình

huống gì, [chư vị] nhất định phải giữ vững tâm tính; chỉ có tuân theo Đại Pháp mà thực thi

Tâm lý hiển thị

114

mới là thật sự đúng đắn. Công năng của chư vị cũng vậy, sự khai công của chư vị cũng

vậy, đều là trong khi tu Đại Pháp chư vị mới đắc được [như thế]. Nếu như chư vị xếp Đại

Pháp vào vị trí thứ yếu, [và] xếp thần thông của chư vị vào vị trí trọng yếu; hoặc là người

đã khai ngộ bèn cho rằng nhận thức của bản thân mình như thế này như thế kia là đúng,

thậm chí cho rằng bản thân mình thật xuất sắc, vượt trên cả Đại Pháp, [thì] tôi nói rằng

chư vị đã bắt đầu rớt xuống phía dưới, đã nguy hiểm, sẽ càng ngày càng có vấn đề. Lúc ấy

chư vị có thể thật sự gặp rắc rối, tu lại như không; xử lý không tốt sẽ bị rớt xuống, tu đã về

không rồi.

Tôi còn nói với chư vị rằng: nội dung cuốn sách này là bài giảng Pháp tại một số lớp

hợp lại. Đều là [điều] mà tôi giảng, từng câu đều là tôi giảng ra, đều là từ băng thâu âm lấy

từng chữ từng chữ mà ra, lấy từng chữ từng chữ sao chép ra, đều là do các đệ tử, học viên

của tôi đã giúp tôi sao lục lại, sau đó tôi chỉnh lý từng lượt từng lượt. Đều là Pháp của tôi,

những điều tôi giảng chính là Pháp này.

Tâm lý hiển thị

115

Bài giảng thứ bẩy

Vấn đề sát sinh

Vấn đề sát sinh rất mẫn cảm; đối với người luyện công mà nói, yêu cầu của chúng tôi

rất nghiêm khắc: người luyện công không được sát sinh. Bất kể là Phật gia, Đạo gia, Kỳ

Môn công pháp, cũng bất kể là môn nào phái nào, chỉ cần là tu luyện chính Pháp, thì đều

coi [vấn đề] này rất tuyệt đối; đều không được sát sinh; điểm này là khẳng định. Bởi vì

vấn đề xuất hiện sau khi sát sinh là quá to lớn, [nên] chúng tôi cần nói kỹ lưỡng cho mọi

người. 'Sát sinh', trong Phật giáo nguyên thuỷ, là chủ yếu nói về 'giết người', đó là

nghiêm trọng nhất. Về sau này, [giết] những sinh mệnh lớn, súc vật lớn hoặc những sinh

mệnh có phần tương đối lớn, đều được xem là rất quan trọng. Vì sao giới tu luyện luôn

luôn coi vấn đề 'sát sinh' là nghiêm trọng đến như thế? Quá khứ trong Phật giáo có thuyết

rằng, những [sinh mệnh] lẽ ra không phải chết nhưng bị giết chết, sẽ thành cô hồn dã quỷ.

Quá khứ giảng 'siêu độ', chính là chỉ về bộ phận những người này. Không cấp siêu độ

[cho họ], thì những sinh mệnh ấy sẽ không ăn không uống, [sống] trong một hoàn cảnh rất

cực khổ; đó là điều trước đây giảng trong Phật giáo.

Chúng tôi [đã] giảng, khi một cá nhân làm một điều gì xấu nhắm vào một cá nhân

khác, thì họ phải cấp cho người ta khá nhiều đức để bồi thường; ấy là chúng tôi chỉ những

điều thông thường như chiếm hữu thứ gì đó của người khác. Nhưng nếu bất ngờ làm kết

thúc một sinh mệnh-động vật cũng vậy, [hay] sinh vật khác cũng vậy-thì nó sẽ tạo

thành một nghiệp lực khá to lớn. 'Sát sinh' trong quá khứ chủ yếu nói về giết người;

nghiệp tạo thành khá lớn. Tuy nhiên giết thể sinh mệnh bình thường khác cũng không phải

là nhẹ; [cũng] trực tiếp sản sinh ra nghiệp lực rất lớn. Đặc biệt là người tu luyện, trong quá

trình tu luyện, tại các tầng khác nhau [đã] thiết lập cho chư vị một chút nạn; đó đều là

nghiệp lực của bản thân chư vị, là nạn của bản thân chư vị; giúp chư vị bày xếp tại các

tầng khác nhau để chư vị đề cao. Chư vị chỉ cần đề cao tâm tính, thì có thể vượt qua được.

Nhưng nếu đột nhiên thêm nghiệp lực lớn như thế lên đó, thì chư vị vượt qua sao đây?

Dựa vào tâm tính của chư vị, chư vị hoàn toàn không có cách vượt qua; nên có thể làm

chư vị hoàn toàn không thể tu luyện được nữa.

Chúng tôi đã phát hiện, rằng khi một cá nhân giáng sinh, thì ở trong một phạm vi nhất

định trong không gian của vũ trụ này có rất nhiều những 'cá nhân ấy' đồng thời giáng

sinh, cũng giống như cá nhân kia, cùng mang một tên, những việc họ làm là đại đồng tiểu

dị; do đó cũng được tính là bộ phận của toàn bộ chỉnh thể cá nhân ấy. Khía cạnh này động

chạm đến một vấn đề: nếu như một thể sinh mệnh (các thể sinh mệnh của các động vật lớn

cũng thế), mà đột nhiên bị chết, nhưng cá nhân ấy ở các không gian khác đều chưa hề đi

hết tiến trình sinh mệnh đã được đặc định từ đầu, vẫn còn có rất nhiều năm cần phải sống.

Như vậy cá nhân bị chết ấy sẽ rơi vào hoàn cảnh không nơi tá túc, [phải] phiêu đãng trong

không gian vũ trụ. Quá khứ có giảng cô hồn dã quỷ, không ăn không uống, rất khổ; cũng

có thể là như vậy. Tuy nhiên chúng tôi thật sự nhìn thấy rằng cá nhân ấy [sống] trong một

hoàn cảnh rất đáng sợ: chính là họ phải liên tục đợi mãi, đợi cho đến khi tất cả những cá

nhân ở các không gian khác đi hết tiến trình sinh mệnh, thì mới có thể tìm được nơi tá túc

cho mình. Thời gian càng lâu, thì cá nhân ấy chịu khổ càng nhiều. Cái khổ mà cá nhân ấy

chịu càng nhiều, thì nghiệp lực do thống khổ của cá nhân ấy tạo thành cũng liên tục cấp

thêm lên thân của kẻ sát sinh; chư vị nghĩ xem chư vị sẽ tăng thêm biết bao nhiêu nghiệp

lực? Chúng tôi thông qua công năng mà nhìn thấy được như thế.

Chúng tôi còn thấy một tình huống: vào lúc một cá nhân giáng sinh, thì ở trong một

không gian đặc định đều có hình thức tồn tại của một đời của cá nhân ấy; nghĩa là, sinh

Vấn đề sát sinh

116

mệnh của cá nhân này [khi] đến một [lúc] nào đó, [sẽ] cần phải làm gì đó, thì ở đấy đã có

hết rồi. Hỏi ai an bài một đời cho cá nhân ấy? Quá hiển nhiên, chính là một sinh mệnh cao

cấp hơn đã làm điều này. Nói thí dụ, chúng ta ở trong xã hội người thường, sau khi họ sinh

ra, họ sẽ thuộc về gia đình ấy, thuộc về trường học ấy, lớn lên sẽ thuộc về đơn vị [công

tác] ấy, thông qua công tác của mình và xã hội sẽ có được những liên hệ về rất nhiều

phương diện; tức là bố cục của chỉnh thể xã hội đều được bố trí như thế cả. Tuy nhiên vì

sinh mệnh này đột nhiên chết đi, không còn theo sự an bài đặc định từ ban đầu, mà xảy ra

thay đổi. Như vậy [đối với] người mà đã làm loạn ấy, thì sinh mệnh cao cấp kia không tha

thứ cho họ được. Mọi người thử nghĩ xem, làm người luyện công, chúng ta muốn tu luyện

lên trên cao tầng, nhưng các sinh mệnh trên cao tầng cũng không tha thứ, vậy chư vị còn

có thể tu luyện được không? Có những sư phụ không cao tầng bằng sinh mệnh cao cấp

vốn đã an bài sự tình ấy, do đó sư phụ của họ cũng gặp tai hoạ, cũng bị đánh hạ xuống.

Mọi người thử nghĩ xem, đó có còn là một vấn đề bình thường không? Do đó một khi làm

điều [sát sinh] này thì sẽ rất khó tu luyện.

Trong các học viên Pháp Luân Đại Pháp, có thể có những người đã tham gia chiến

đấu trong những niên đại chiến tranh. Chiến tranh ấy là trạng thái do toàn bộ đại biến hoá

của thiên tượng đưa đến; chư vị bất quá chỉ là một phần tử trong trạng thái như thế. Biến

hoá của thiên tượng mà ở [xã hội] bên dưới nếu không có người [hành] động [theo], thì

cũng không thể đưa đến trạng thái như thế ở xã hội người thường, và cũng không gọi là

biến hoá của thiên tượng được. Những sự tình như thế là tuỳ thuận theo đại biến hoá mà

biến hoá, những việc ấy không thể hoàn toàn tính là do bản thân chư vị được. Chúng tôi

giảng ở đây là những việc làm xấu vì những mưu đồ cho cá nhân, hoặc để thoả mãn lợi ích

cá nhân, hoặc vì những điều gì của bản thân bị ảnh hưởng mà mang đến nghiệp lực. Còn

phàm đã liên quan đến toàn bộ đại biến hoá của không gian, biến hoá trên hình thế rộng

lớn ngoài xã hội, thì đều không thuộc về vấn đề của chư vị.

Sát sinh sẽ tạo thành nghiệp lực rất lớn. Có người nghĩ: 'Không được sát sinh, vậy tôi

làm cơm ở nhà, nếu tôi không sát sinh, thì người nhà tôi ăn gì?' Tôi không quan tâm đến

vấn đề cụ thể ấy; tôi giảng Pháp cho người luyện công, chứ không phải giảng một cách tuỳ

tiện cho người thường cần sống như thế nào. Vấn đề cụ thể nên thực hiện ra sao, cần phải

dùng Đại Pháp mà cân nhắc; chư vị hiểu được làm thế nào là tốt, thì chư vị làm như thế.

Người thường muốn làm gì thì họ làm nấy; đó là những chuyện nơi người thường; ai ai

cũng đều chân tu là điều không thể. Nhưng đã là người luyện công, thì cần phải [dùng]

tiêu chuẩn cao mà yêu cầu; do vậy ở đây là điều kiện đề xuất cho người luyện công.

Không phải chỉ có người [hay] động vật, mà cả thực vật cũng có sinh mệnh; ở trong

không gian khác bất kể vật chất nào cũng đều thể hiện xuất lai ra sinh mệnh. Khi thiên

mục của chư vị khai mở đến tầng Pháp nhãn, [thì] chư vị sẽ phát hiện rằng mọi thứ như

đá, tường đều có thể nói chuyện với chư vị, gọi chào chư vị. Có thể có người nghĩ: 'Vậy

lương thực, rau mà chúng ta ăn đều có sinh mệnh; ở nhà còn có nhặng xanh, muỗi thì làm

thế nào?' Mùa hè bị [muỗi] đốt rất khó chịu, nhìn thấy nó đốt [cũng] không được đập; thấy

nhặng xanh đậu vào làm bẩn đồ ăn, cũng không được đánh. Tôi nói với mọi người: chúng

ta không được tuỳ ý vô cớ sát hại sinh linh. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể làm 'kẻ

quân tử' cẩn thận những điều nhỏ nhặt, mắt chỉ nhìn những việc nhỏ bé, đi đường cứ sợ

dẫm chết kiến, [nên] phải vừa đi vừa nhảy. Tôi nói rằng chư vị sống thế mệt mỏi lắm, đó

cũng chẳng phải chấp trước là gì? Chư vị vừa đi vừa nhảy, không dẫm chết kiến, nhưng có

nhiều vi sinh vật, chư vị cũng dẫm chết rồi. Tại vi quan còn có rất nhiều thể sinh mệnh

nhỏ hơn nữa, còn có vi khuẩn và vi trùng, có thể chư vị cũng dẫm chết chúng không ít;

như vậy [có lẽ] chúng ta đừng sống nữa. Chúng ta không phải làm người như thế, [như

thế] không cách nào tu luyện được. Phải nhìn đến những chuyện lớn, cần tu luyện một

cách đường đường chính chính.

Vấn đề sát sinh

117

Con người chúng ta sống thì có quyền lợi duy trì sự sinh hoạt của con người, do đó

hoàn cảnh sinh hoạt cũng phải thích ứng với yêu cầu sinh sống của con người. Chúng ta

không thể cố ý làm hại các sinh linh; nhưng chúng ta cũng không thể câu nệ thái quá đến

những sự việc nhỏ bé kia. Ví như rau và lương thực đều có sinh mệnh, chúng ta cũng

không thể vì chúng có sinh mệnh mà không ăn không uống; như thế còn luyện công gì

nữa? Cần phải xét rộng. Ví như khi chư vị đang đi trên đường, thì kiến, côn trùng chạy

vào dưới chân, và bị dẫm chết; như thế có thể chúng cần phải chết, bởi vì chư vị không cố

ý làm hại chúng. Trong giới sinh vật hoặc trong các vi sinh vật khác cũng nói về vấn đề

cân bằng sinh thái; nhiều quá thì cũng là thái quá; do đó chúng tôi giảng tu luyện một cách

đường đường chính chính. Ở nhà có nhặng xanh, muỗi, chúng ta suỵt đuổi chúng, lắp rèm

chắn không cho chúng vào. Tuy nhiên có lúc suỵt đuổi không đi, thì đập chết là đập chết

thôi. [Tại] không gian mà con người ở, nếu chúng đốt người ta làm hại người ta thì đương

nhiên cần xua đuổi chúng đi; đuổi không đi, thì không thể coi chúng ở đó đốt người ta [mà

mặc kệ]. Chư vị là người luyện công không có e sợ, [vốn] đã có lực đề kháng; [nhưng]

người nhà chư vị không luyện công, [mà] là người thường, còn vấn đề bệnh truyền nhiễm;

cũng không thể nhìn [chúng] đốt lên mặt đứa bé mà [vẫn] mặc kệ.

Tôi lấy một ví dụ cho chư vị, có một câu chuyện trong những năm đầu của Thích Ca

Mâu Ni. Một hôm, Thích Ca Mâu Ni cần tắm, ở trong rừng rậm ấy Ông yêu cầu đệ tử của

mình dọn sạch bồn tắm. Vị đệ tử của Ông đến coi, thấy trong bồn tắm bám đầy côn trùng;

nếu dọn sạch bồn tắm sẽ giết chết những côn trùng ấy. Đệ tử quay lại nói với Thích Ca

Mâu Ni rằng bồn tắm bám đầy côn trùng. Thích Ca Mâu Ni không nhìn vị đệ tử này, nói

một câu: 'Con hãy đi dọn sạch bồn tắm'. Vị đệ tử này đến chỗ bồn tắm thấy rằng không

biết hạ thủ ra sao; hễ [dọn] thì côn trùng phải chết; vị này loanh quanh một vòng rồi lại

quay lại hỏi Thích Ca Mâu Ni: 'Bạch Sư tôn, bồn tắm bám đầy côn trùng; nếu [dọn sạch]

sẽ làm côn trùng kia chết mất'. Thích Ca Mâu Ni [đưa mắt] nhìn vị ấy và nói: 'Điều ta bảo

con là hãy đi dọn sạch bồn tắm'. Vị đệ tử này giật mình tỉnh ngộ, lập tức dọn sạch bồn

tắm. Trong [câu chuyện] này đã nói rõ một vấn đề: không thể [chỉ] vì có côn trùng, mà

chúng ta không tắm; cũng không thể [chỉ] vì có muỗi, mà chúng ta phải đi nơi khác tìm

chỗ ở; không thể [chỉ] vì lương thực cũng có sinh mệnh, rau có sinh mệnh, mà chúng ta

liền thít cổ lại không ăn không uống chi nữa. Không thể như thế được; chúng ta cần cân

bằng quan hệ này cho đúng, tu luyện một cách đường đường chính chính; chúng ta không

cố ý làm hại các sinh mệnh là được rồi. Cũng vậy, con người cần có không gian sinh hoạt

và điều kiện sinh tồn của con người, cũng cần duy hộ [điều đó]; con người cũng cần duy

trì sự sống và sinh hoạt bình thường.

Trong quá khứ có một số khí công sư giả giảng: 'Mùng một, mười lăm [âm lịch] thì

có thể sát sinh'. Có người còn giảng: 'Có thể giết những [con vật] hai chân', cứ như thể

loài hai chân không phải là sinh linh vậy. Sát sinh vào mùng một, mười lăm mà không tính

là sát sinh, thì phải chăng là đào đất? Có những khí công sư giả, mà từ lời nói hành vi của

họ đã có thể phân biệt ra ngay; [điều] họ nói là gì, [điều] họ truy cầu là gì; phàm là khí

công sư mà có những ngôn luận như thế thì thường là phụ thể. Chư vị [hãy] xem khí công

sư có phụ thể là cáo đang ăn thịt gà ra sao, đúng là ăn nuốt ngốn ngấu, cũng chẳng buồn

nhả xương ra nữa.

Sát sinh không chỉ tạo thành nghiệp lực to lớn, mà còn liên quan đến vấn đề tâm từ bi.

Người tu luyện chúng ta chẳng phải cần có tâm từ bi? Khi tâm từ bi của chúng ta xuất

hiện, có thể thấy rằng chúng sinh đều khổ, thấy ai cũng khổ; sẽ xuất hiện vấn đề này.

Vấn đề ăn thịt

Ăn thịt cũng là một vấn đề rất mẫn cảm, tuy nhiên ăn thịt không phải là sát sinh. Chư

vị học Pháp một thời gian lâu rồi, [nhưng] chúng tôi không hề yêu cầu mọi người không

Vấn đề ăn thịt

118

ăn thịt. Có rất nhiều khí công sư khi mà chư vị vừa nhập học, liền bảo chư vị rằng: 'Bắt

đầu từ bây giờ sẽ không được ăn thịt nữa'. Chư vị có thể nghĩ: 'Đột nhiên không được ăn

thịt, tư tưởng cũng chưa được chuẩn bị. Hôm nay ở nhà có thể có gà hầm, cá rán, dậy mùi

thơm phức nhưng lại không được ăn'. Tu luyện trong tôn giáo cũng như thế, [họ] cưỡng

chế không cho ăn [thịt]. Công [pháp] thông thường của Phật gia, một số công [pháp] của

Đạo gia cũng giảng như thế: không được ăn [thịt]. Chúng tôi tại đây không yêu cầu chư vị

làm thế; tuy nhiên chúng tôi cũng giảng về nó. Vậy chúng tôi giảng thế nào? Bởi vì công

pháp của chúng tôi là công pháp 'Pháp luyện người'. Công pháp Pháp luyện người [này],

chính là một số trạng thái sẽ từ công, từ Pháp thể hiện ra. Trong quá trình tu luyện các

tầng khác nhau sẽ thể hiện ra các trạng thái khác nhau. Như vậy sẽ có hôm, hoặc ngay

hôm nay sau khi tôi giảng bài xong sẽ có người tiến nhập vào trạng thái như thế này:

không thể ăn thịt được; ngửi thấy rất hôi tanh, ăn vào liền thấy buồn nôn. Không phải vì

người ta khống chế chư vị hoặc chư vị tự khống chế bản thân là không được ăn, mà [nó]

xuất phát ra từ nội tâm; đến tầng ấy, từ trong công phản ánh ra nên không thể ăn được;

thậm chí nếu chư vị thật sự nuốt vào rồi, thì sẽ thật sự nôn ra.

Những học viên lâu năm của chúng ta đều đã biết, tu luyện Pháp Luân Đại Pháp sẽ

xuất hiện trạng thái ấy, tại các tầng khác nhau sẽ phản ánh các trạng thái khác nhau. Dục

vọng [ăn thịt] của một số học viên tương đối lớn, tâm ăn thịt rất mạnh, thường hay ăn

nhiều thịt. Đến lúc mọi người đều thấy thịt tanh hôi, [thì] họ vẫn thấy không tanh, vẫn có

thể ăn được. Để họ vứt bỏ cái tâm này, thì làm sao đây? Họ ăn thịt vào liền bị đau bụng,

không ăn [thịt] thì không đau; sẽ xuất hiện trạng thái này, nghĩa là không được ăn [thịt]

nữa. Vậy phải chăng môn này của chúng tôi từ đó trở đi là không còn dính dáng gì đến thịt

nữa? Không phải thế. Hỏi đối xử với vấn đề này như thế nào? Không thể ăn [thịt] thực sự

xuất ra tự nội tâm rằng không thể ăn. Mục đích là gì? Tu luyện trong chùa cưỡng chế chư

vị không cho ăn [thịt] và sự phản ánh không thể ăn [thịt] của chúng ta, đều là để vứt bỏ

dục vọng và tâm chấp trước của con người đối với thịt.

Có người hễ bưng bát cơm lên mà không có thịt, thì quả thực nuốt cơm không trôi;

đây là dục vọng của người thường. Một buổi sáng sớm [khi] tôi đi qua con đường chỗ

cổng sau công viên Thắng Lợi tại Trường Xuân. Có ba người từ phía cổng sau nói chuyện

ầm ỹ đi ra, trong đó một người nói: 'Luyện công gì rồi không cho ăn thịt nữa? Tôi thà

sống ít đi mười năm mà được ăn thịt còn hơn!' Dục vọng này quả là mạnh mẽ. Mọi người

thử nghĩ xem, dục vọng ấy có nên tống khứ không? Rõ là cần phải tống khứ rồi. Người ta

trong quá trình tu luyện cần phải tống khứ các loại dục vọng, tâm chấp trước của con

người. Nói thẳng ra, nếu cái tâm ăn thịt mà không vứt bỏ đi, thì đó chẳng phải là tâm chấp

trước chưa bỏ được là gì? Liệu có thể tu viên mãn không? Do vậy miễn là tâm chấp trước,

thì cần phải tống khứ đi. Tuy nhiên không phải từ đó trở đi vĩnh viễn không ăn [thịt] nữa;

không cho chư vị ăn thịt tự bản thân nó không phải là mục đích; mục đích là không cho

chư vị có tâm chấp trước này. Nếu trong giai đoạn thời gian không ăn được thịt, chư vị vứt

bỏ được tâm chấp trước ấy, thì sau đó lại có thể ăn thịt, ngửi cũng không thấy tanh hôi. Ăn

vào cũng không thấy khó ăn, đến lúc ấy chư vị cứ ăn thôi, không sao.

Đến khi chư vị có thể ăn [thịt trở lại], tâm chấp trước của chư vị đã mất đi rồi, tâm

dục vọng đối với thịt cũng đã mất rồi. Tuy nhiên sẽ phát sinh một biến đổi to lớn: sau đó

ăn thịt không thấy thơm nữa; [nếu] ở nhà làm [món thịt] thì cùng ăn, ở nhà không làm

[món thịt] thì cũng không nghĩ đến; ăn vào cũng không thấy có hương vị gì; sẽ xuất hiện

trạng thái này. Tuy vậy tu luyện nơi người thường rất phức tạp, nếu ở nhà vẫn mãi cứ làm

món thịt, sau một thời gian lâu rồi, chư vị ăn vào lại cảm thấy rất có hương vị; sau đó lại

lặp lại, trong toàn bộ quá trình tu luyện, sẽ xuất hiện lặp lại nhiều lần. Đột nhiên chư vị lại

không ăn được [thịt]; không ăn được thì không ăn nữa, thật sự không ăn được, ăn vào liền

Vấn đề ăn thịt

119

muốn nôn; hãy đợi đến khi chư vị có thể ăn được, 'tuỳ kỳ tự nhiên'. Ăn thịt hay không ăn

thịt tự bản thân nó không phải là mục đích; vứt bỏ tâm chấp trước mới là chỗ then chốt.

Môn Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi tiến bộ tương đối nhanh; chỉ cần chư vị đề

cao tâm tính, thì đột phá từng tầng đều rất nhanh. Có người nguyên ban đầu đối với thịt

không chấp trước thái quá, có [thịt ăn] hay không cũng không thành vấn đề. Kiểu người

này qua một hai tuần liền vượt qua, liền vứt bỏ được cái tâm ấy. Có người duy trì đến một

tháng, hai tháng, ba tháng, có thể tới nửa năm; ngoài tình huống cực kỳ đặc thù ra thì

không quá một năm rồi cũng có thể ăn. Bởi vì thịt đã là một bộ phận chủ yếu trong những

đồ ăn của con người. Tuy nhiên [người] chuyên tu trong nhà chùa không được ăn thịt.

Chúng ta giảng một chút về nhận thức [vấn đề] ăn thịt trong Phật giáo. Phật giáo

nguyên thuỷ lúc đương sơ không có giới cấm ăn thịt. Đương thời khi Thích Ca Mâu Ni

dẫn dắt các đồ đệ tu khổ [hạnh] trong rừng rậm, thì hoàn toàn không có giới luật cấm thịt.

Tại sao không có? Bởi vì vào thời Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp hơn 2500 năm trước, xã

hội nhân loại rất lạc hậu; có nhiều vùng đất có nông nghiệp, có nhiều vùng đất chưa có

nông nghiệp, diện tích đất canh tác rất ít, chỗ nào cũng là rừng rậm. Ngũ cốc rất khan

hiếm, rất ít ỏi. Con người vừa mới thoát thai từ xã hội nguyên thuỷ, sống chủ yếu bằng săn

bắt, có rất nhiều vùng đất còn sống chủ yếu bằng ăn thịt. Để vứt bỏ [ở] mức tối đa các tâm

chấp trước của con người, Thích Ca Mâu Ni đã không cho [đồ đệ] tiếp xúc với bất kể

những thứ gì như tài, vật; [Ông] dẫn dắt các đệ tử đi xin ăn, đi hoá duyên. Người ta cấp

cho gì thì ăn nấy; là người tu luyện thì cũng không thể lựa chọn đồ ăn; trong đồ ăn được

cấp có thể có thịt.

Tại Phật giáo nguyên thuỷ còn có thuyết pháp về 'giới huân'. Giới huân chính là từ

Phật giáo nguyên thuỷ, tuy nhiên hiện tại lại nói rằng ăn thịt là thuộc về huân. Kỳ thực

thời ấy huân không phải nói về thịt, [mà] là chỉ nói về những thứ như hành, gừng, tỏi. Vì

sao coi chúng là 'huân'? Hiện nay có nhiều tăng nhân không thuyết minh [điều này] được

rõ, bởi vì có nhiều người trong số họ không giảng thực tu, [và] cũng không biết được

nhiều điều. Điều Thích Ca Mâu Ni truyền gọi là "Giới Định Huệ". Giới là giới [cấm] hết

thảy những dục vọng của người thường; Định là nói về người tu luyện hoàn toàn ở trong

thiền định, trong đả toạ mà tu luyện, cần hoàn toàn nhập định. Hết thảy những thứ can

nhiễu làm cho không thể nhập định, không thể tu luyện đều được coi là những can nhiễu

nghiêm trọng; ai mà ăn hành, gừng, tỏi đều có mùi rất mạnh. Thời bấy giờ các tăng nhân ở

trong rừng rậm, sơn động, cứ bẩy hoặc tám vị [ngồi] thành một vòng; ngồi đả toạ thành

từng vòng từng vòng. Nếu như ai ăn thứ đó, thì sẽ sinh ra mùi vị có kích thích rất mạnh,

làm ảnh hưởng đến đả toạ, ảnh hưởng đến người khác nhập định, can nhiễu nghiêm trọng

đến luyện công của người ta. Do vậy đã có giới luật ấy, coi những thứ ấy là 'huân', không

cho phép ăn chúng. Rất nhiều thể sinh mệnh tu luyện xuất ra ở trên thân thể người [tu] đều

thấy khó chịu cái mùi vị nặng nề ấy. Hành, gừng, tỏi đều có thể kích thích người ta phát

sinh dục vọng; ăn nhiều cũng gây nghiện; do đó chúng bị coi là huân.

Quá khứ có rất nhiều tăng nhân sau khi tu luyện đến tầng rất cao, lọt vào trạng thái

khai công hoặc bán khai công, [họ] cũng biết rằng giới luật kia trong quá trình tu luyện

cũng không có nghĩa gì. Nếu sau khi có thể vứt bỏ cái tâm ấy rồi, thì những thứ vật chất

kia tự bản thân nó không có tác dụng gì; còn điều thật sự can nhiễu đến người ta chính là

cái tâm ấy. Do đó các cao tăng trong quá khứ cũng thấy rằng vấn đề người ta ăn thịt không

phải là vấn đề then chốt nào hết; vấn đề then chốt là có thể vứt bỏ cái tâm kia hay không;

[nếu] không có tâm chấp trước thì ăn gì cho đầy bao tử cũng được. Bởi vì trong chùa đã tu

luyện như thế từ xưa đến nay, rất nhiều người đã quen như thế. Hơn nữa nó cũng không

còn đơn thuần là vấn đề giới luật, mà đã thành một chế độ ghi rõ trong các chùa: hoàn toàn

không được ăn [thịt]; người ta đã quen với tu như thế rồi. Chúng ta nói về hoà thượng Tế

Công; trong các tác phẩm nghệ thuật [ông] được [người ta] làm cho rất nổi [tiếng]; hoà

Vấn đề ăn thịt

120

thượng phải cấm thịt, nhưng ông lại ăn thịt, [điều ấy] làm ông trở nên rất khác thường.

Thực ra sau khi Tế Công bị trục xuất khỏi chùa Linh Ẩn, thì đồ ăn đương nhiên trở thành

vấn đề rất chủ yếu của ông, cuộc sống trở nên nguy khốn. Để lấp cho đầy bao tử, ông kiếm

được gì liền ăn nấy, chỉ cần nạp đầy bao tử là được rồi; không có chấp trước vào bất kể đồ

ăn nào, thì không sao cả. Khi tu luyện đến đó, ông đã hiểu rõ đạo lý này; thực ra Tế Công

cũng bất quá ăn thịt đôi lần thôi. Hễ nói hoà thượng ăn thịt, các nhà viết văn liền thấy

hứng thú lắm; đề tài nào càng giật gân, thì càng làm cho người ta muốn xem; các tác phẩm

văn nghệ là nguyên lấy từ cuộc sống và thổi phồng cuộc sống lên, rồi đưa ra tuyên truyền.

Thực ra điều thật sự cần vứt bỏ là các tâm chấp trước; [còn] để lấp cho đầy bao tử thì ăn gì

cũng không thành vấn đề.

Tại Đông Nam Á hoặc tại phía nam nước ta, Quảng Tây và Quảng Đông, có một số

cư sỹ khi nói chuyện, họ không nói là 'tu Phật', như thể là danh từ 'tu Phật' lỗi thời quá;

họ nói là họ ăn trai tịnh, ăn chay; ngụ ý tức là 'ăn chay tu Phật'. Họ coi việc tu Phật thành

điều đơn giản như thế. Ăn chay có thể tu Phật chăng? Như mọi người đã biết, đó chỉ là

một chấp trước, dục vọng của người thường, chỉ là một cái tâm, chỉ vứt bỏ được một cái

tâm. Còn phải bỏ tâm tật đố, tâm tranh đấu, tâm hoan hỷ, tâm hiển thị, các loại tâm; tâm

người ta rất nhiều, tất cả các tâm, các loại dục vọng, đều phải vứt bỏ, thì mới có thể đạt

đến tu luyện viên mãn. Còn chỉ vứt bỏ được cái tâm 'ăn thịt', thì có thể tu Phật là sao?

Cách nói này không đúng.

Con người trong vấn đề ăn thì không chỉ là ăn thịt; chấp trước đối với bất kể đồ ăn

nào cũng là không được; những thứ khác cũng như thế. Có người nói 'tôi rất thích ăn thứ

này'; đó cũng là dục vọng; người tu luyện sau khi đến một trình độ nhất định, sẽ không có

cái tâm ấy nữa. Đương nhiên Pháp chúng tôi giảng là rất cao, là kết hợp [từ] các tầng mà

giảng; [chư vị] không thể lập tức đạt đến điểm này được. Giả sử chư vị muốn ăn một thứ

nào đó, thì khi tu luyện đã thật sự đến lúc phải bỏ cái tâm ấy, thì chư vị sẽ không thể ăn

[nó] nữa; chư vị ăn vào sẽ thấy chẳng đúng vị nữa, có khi chẳng ra vị gì. Hồi tôi còn đi

làm ở đơn vị [công tác], nhà ăn của đơn vị cứ thua lỗ mãi, sau đó phải đóng cửa. Đóng cửa

rồi thì anh chị em phải mang cơm đi. Sáng sớm làm cơm, rồi vội vội vàng vàng đi làm rất

nhọc sức. Đôi lúc [tôi] mua hai cái bánh bao, một miếng đậu phụ chấm tương. Về lý mà

xét thì đó là món rất thanh đạm cũng khả dĩ; [nhưng] cứ ăn thế mãi cũng không được,

cũng cần vứt bỏ cái tâm ấy. Chư vị vừa nhìn thấy món đậu phụ, liền cảm thấy buồn nôn;

nếu ăn nữa cũng không ăn được; cũng e rằng chư vị sẽ sản sinh tâm chấp trước. Tuy nhiên

đó là phải sau khi tu luyện đến một trình độ nhất định; lúc mới bắt đầu sẽ không như thế.

Phật gia không giảng uống rượu, chư vị thấy ông Phật nào mang theo bình rượu

không? Không. Tôi nói rằng không thể ăn thịt; sau khi ở nơi người thường vứt bỏ tâm

chấp trước ấy rồi, thì tương lai ăn [thịt] trở lại không thành vấn đề. Tuy nhiên đã giới

[cấm] rượu rồi là sau đó không được uống nữa. Trên thân người luyện công chẳng phải có

công? Công các loại hình thái, có những công năng hiển hiện trên bề mặt thân thể chư vị,

đều là thuần tịnh. Hễ chư vị uống rượu, thì "vù" một cái [chúng] lập tức đều rời khỏi thân

thể; ngay trong nháy mắt chư vị chẳng còn gì nữa; ai cũng sợ cái mùi vị này. Nếu chư vị

nhiễm thói quen ấy thì rất gay; uống rượu vào là loạn tính. Vì sao có một số [người] tu

luyện Đại Đạo phải uống rượu? Vì họ không tu luyện chủ nguyên thần, [rượu] là để đánh

mê chủ nguyên thần.

Có người quý rượu như [sinh] mệnh vậy, có người chỉ thích có rượu, có người uống

đến mức bị đầu độc trong rượu, không có rượu thì thậm chí chẳng thể nâng nổi bát cơm,

không uống không [chịu] được. Người luyện công chúng ta không nên như thế. Uống rượu

khẳng định là gây nghiện, nó là dục vọng chà xát, kích thích lên thần kinh gây nghiện của

người ta; càng uống nghiện càng nặng. Làm người luyện công, chúng ta thử nghĩ xem, tâm

chấp trước ấy có nên vứt bỏ đi không? Tâm ấy cũng cần phải bỏ. Có người nghĩ: 'Không

Vấn đề ăn thịt

121

được đâu, tôi phải đón tiếp tiễn đưa [khách]', hoặc 'Tôi chuyên trách liên hệ công tác

[giao dịch] bên ngoài, không uống rượu thì không làm tốt công việc được'. Tôi nói rằng

không như vậy; khi bàn công việc kinh doanh, nhất là bàn việc kinh doanh với người nước

ngoài; chư vị gọi đồ uống, người này gọi nước khoáng, người kia gọi bia. Không ai ép chư

vị uống [rượu]; chư vị tự chọn tự uống, uống bao nhiêu thì uống; nhất là trong những

người trí thức, lại càng không có chuyện ấy; thông thường là như vậy.

Hút thuốc cũng là chấp trước, có người nói rằng hút thuốc có thể làm tinh thần tỉnh

táo; tôi nói rằng đó là tự dối mình dối người. Có người làm việc đến lúc mệt hoặc giả viết

sách đến lúc mệt mỏi, bèn muốn nghỉ một lát hút điếu thuốc; họ liền cảm thấy rằng hút

thuốc xong thì tinh thần lại tỉnh táo lại. Thực ra không phải vậy, lý do là vì họ đã nghỉ một

lúc. Tư tưởng của người ta có thể tạo thành một cảm giác sai, còn gây ra một ảo giác. Như

vậy về sau thực sự hình thành quan niệm [như thế], hình thành cảm giác sai [như thế]; chư

vị cảm thấy dường như hút thuốc làm tinh thần tỉnh táo lên; [thực ra] hoàn toàn không

phải, nó không có tác dụng. Đối với thân thể con người thì hút thuốc không có chút gì tốt

cả; một cá nhân hút thuốc một thời gian lâu, đến lúc bác sỹ giải phẫu thân thể người ấy, thì

thấy khí quản đều là đen, trong phổi đều đã thành đen.

Những người luyện công chúng ta chẳng phải giảng tịnh hoá thân thể? Chẳng phải

liên tục tịnh hoá thân thể, liên tục phát triển hướng lên cao tầng. Vậy mà chư vị lại rước

những thứ ấy vào trong thân thể, chẳng phải chư vị [làm] ngược hẳn với chúng tôi? Ngoài

ra nó còn là một loại dục vọng rất mạnh mẽ. Có người cũng biết rằng nó không tốt, nhưng

không cai hẳn được. Thực ra tôi nói với mọi người rằng [vì] họ chưa có một tư tưởng thích

đáng chỉ đạo [cho việc này]; nên họ muốn bỏ nó như vậy không dễ. Làm người tu luyện,

từ nay chư vị hãy coi đó là một tâm chấp trước và bỏ nó đi, [rồi] chư vị thử xem có thể cai

hẳn được không. Tôi khuyên mọi người, rằng ai thật sự muốn tu luyện [thì] từ nay trở đi

[hãy] cai hẳn thuốc lá, bảo đảm chư vị có thể cai hẳn được. Tại trường [năng lượng] của

lớp học tập này không có ai nghĩ đến hút thuốc; nếu chư vị muốn cai, đảm bảo chư vị có

thể cai; chư vị hễ cầm [điếu] thuốc hút trở lại [thì] sẽ không thấy đúng mùi vị nữa. Chư vị

đọc sách đọc bài giảng này, cũng sẽ có tác dụng ấy. Tất nhiên nếu chư vị không muốn tu

luyện, thì chúng tôi cũng không quản; làm một người tu luyện, tôi nghĩ rằng chư vị cũng

nên cai bỏ nó đi. Tôi từng lấy ví dụ này: chư vị thấy có ông Phật, ông Đạo ngồi ngậm điếu

thuốc lá không? Đâu có chuyện ấy? Làm người tu luyện, mục tiêu của chư vị là gì? Chẳng

phải chư vị cần cai hẳn nó ư? Do đó tôi giảng rằng chư vị muốn tu luyện, thì chư vị phải

cai hẳn nó đi; nó làm hại thân thể chư vị, hơn nữa lại là một thứ dục vọng, hoàn toàn trái

ngược với yêu cầu của những người tu luyện chúng ta.

Tâm tật đố

Khi giảng Pháp tôi thường hay giảng vấn đề tâm tật đố. Vì sao? Bởi vì tâm tật đố biểu

hiện cực kỳ mạnh mẽ ở Trung Quốc, mạnh mẽ đến mức đã trở thành tự nhiên, bản thân

không cảm giác thấy. Tại sao người Trung Quốc có tâm tật đố mạnh mẽ đến như vậy? Nó

có căn nguyên [của nó]. Người Trung Quốc trong quá khứ chịu ảnh hưởng của Nho giáo

rất sâu sắc, tính cách rất hướng nội; nóng giận không biểu hiện ra, cao hứng cũng không

biểu hiện ra; [họ] giảng hàm dưỡng, giảng Nhẫn. Bởi vì đã thành tập quán là như vậy, do

đó toàn bộ dân tộc chúng ta đều hình thành tính cách rất hướng nội. Tất nhiên nó có chỗ

tốt, không để lộ tài năng bên trong. Nhưng cũng tồn tại những điều dở, có thể mang đến

những trạng thái không tốt. Đặc biệt đã đến thời kỳ mạt Pháp, thì bộ phận không tốt ấy lại

biểu hiện nổi cộm hơn nữa, cũng có thể làm cho người ta tăng trưởng tâm tật đố. Ai có

điều tốt mà biểu lộ ra, thì người khác lập tức [ganh tỵ] tật đố đến mức khó chịu; ở trong

đơn vị [công tác] hoặc ngoài đơn vị mà được thưởng, hay được điều gì tốt thì về không

dám nói năng gì, [e rằng] người khác biết sẽ thấy bất bình trong tâm. Người tây phương

Tâm tật đố

122

gọi đó là 'tật đố đông phương', cũng gọi là 'tật đố châu Á'. Toàn bộ vùng châu Á đều chịu

ảnh hưởng của Nho giáo tương đối sâu sắc, ít nhiều là như thế; còn riêng Trung Quốc

chúng ta thì biểu hiện rất mạnh mẽ.

Điều này có quan hệ đến chủ nghĩa bình quân tuyệt đối mà chúng ta thực thi trước

đây; 'dù sao trời sập thì mọi người đều chết; có gì tốt thì mọi người chia đều nhau; lương

tăng mấy phần trăm thì mỗi người đều có phần'. Tư tưởng này xem ra thật là đúng, ai ai

cũng như nhau. Kỳ thực làm sao mà như nhau được? Công tác thực thi là khác nhau, mức

độ chức vụ trách nhiệm cũng khác nhau. Vũ trụ này của chúng ta còn một [Pháp] lý, gọi là

'bất thất bất đắc, đắc tựu đắc thất'. Trong người thường còn giảng 'không làm không

được, làm nhiều được nhiều, làm ít được ít', phó xuất nhiều, thì nên được nhiều. Trước

đây thực thi chủ nghĩa bình quân tuyệt đối, giảng rằng dẫu cá nhân nào thì sinh ra là đều

như nhau, hậu thiên [mới] cải biến người ta. Tôi nói rằng thuyết ấy quá tuyệt đối; cái gì

quá tuyệt đối thì không còn đúng nữa. Cớ sao người ta sinh ra có nam có nữ? Lớn lên

trông khác nhau? Có người sinh ra đã có bệnh, dị dạng; [người ta khi sinh đã] khác nhau.

Chúng tôi từ trên cao tầng mà nhìn, [thấy rằng] tại không gian khác [đã] tồn tại một đời

người sắp đặt ở đó; hỏi có thể như nhau không? Cứ muốn rằng bình quân, [nhưng] trong

đời của họ không có [thứ ấy], thì bình quân sao đây? [Người ta là] khác nhau.

Người ở các nước phương tây có tính cách tương đối hướng ngoại; cao hứng có thể

nhận thấy, nóng giận cũng có thể nhận thấy. Họ có chỗ tốt của họ, nhưng cũng có chỗ dở

của họ, không thể nhẫn nại. Hai loại quan niệm tính cách khác nhau, thực thi sự việc sẽ

sinh ra hiệu quả khác nhau. Người Trung Quốc nếu được lãnh đạo biểu dương, hoặc cấp

cho chư vị thứ tốt nào đó, thì người khác sẽ bất bình trong tâm. Nếu được thưởng nhiều

hơn, thì bản thân [họ] len lén cất ngay vào túi, không thể để người khác biết. Hiện nay làm

người gương mẫu trong lao động không dễ: 'Anh là lao động gương mẫu thì anh làm được

rồi; anh phải đến sớm về muộn, những việc ấy anh làm đi; anh làm được tốt, còn chúng tôi

không được', giễu cợt châm chọc [như thế]; làm người tốt không dễ.

Nếu ở nước ngoài thì sẽ khác biệt rõ ràng. Thủ trưởng thấy vị này hôm nay làm việc

tốt, thưởng cho vị ấy nhiều hơn. Vị ấy sẽ vô cùng thích thú ở ngay trước mặt mọi người

mà đếm từng tờ tiền một: 'A, hôm nay thủ trưởng cho tôi nhiều tiền chưa này', [vị ấy]

mừng rỡ đếm từng tờ bảo cho mọi người, vị ấy cũng không có hậu quả gì. Còn nếu ở

Trung Quốc, nếu có người được thưởng, thì cả lãnh đạo cũng bảo chư vị cất ngay đi, chớ

để người khác trông thấy. Ở nước ngoài, một đứa trẻ được 100 điểm ở trường, nó sướng

quá vừa chạy vừa la lớn: 'Hôm nay con được 100 điểm, hôm nay con được 100 điểm!'

Một mạch từ trường chạy về nhà. Hàng xóm sẽ mở cửa nói: 'Này Tom, giỏi đấy, thằng bé

giỏi đấy!' Người kia sẽ mở cửa sổ nói: 'Này Jack, cháu khá lắm!' Nếu điều này xảy ra ở

Trung Quốc thì quả là hỏng hẳn: 'Con được 100 điểm, con được 100 điểm!' đứa trẻ từ

trường chạy về nhà, thì cửa nhà [hàng xóm] chưa mở, trong nhà [người ta] đã nguyền rủa

rồi: 'Có gì là ghê gớm thế, được 100 điểm? Sĩ diện! Ai chưa từng được 100 điểm kia chứ!'

Hai loại quan niệm bất đồng sẽ dẫn đến những hiệu quả khác nhau. Nó có thể dẫn đến tâm

tật đố: người khác nếu [có điều gì] tốt, thì thay vì cảm thấy mừng cho họ, người ta lại thấy

bất bình trong tâm. Nó sẽ xuất hiện vấn đề này.

Chủ nghĩa bình quân tuyệt đối thực thi mấy năm trước đây, quả thực đã làm loạn bậy

quan niệm tư tưởng con người. Lấy thí dụ cụ thể thế này. Một cá nhân tại đơn vị [công

tác], anh ta thấy rằng người khác đều không bằng mình, anh ta làm gì cũng được tốt, nhận

rằng [mình] thật xuất sắc. Anh ta tự nhủ: 'Để mình làm giám đốc hay tổng giám đốc nhà

máy, mình cũng làm tốt; chức vụ cao hơn thế mình cũng có thể làm; mình có thể làm bộ

trưởng cũng được'. Lãnh đạo cũng có thể nói rằng anh này rất khá, làm gì cũng tốt. Các

bạn đồng sự cũng có thể nói, rằng anh ta rất giỏi, biết việc, có tài năng. Tuy nhiên ngay

trong tổ [công tác] hoặc cùng phòng của anh này có một cá nhân, làm gì cũng không

Tâm tật đố

123

thành, làm gì cũng không nên. Rồi một hôm, cá nhân không có năng lực kia lại được đề

bạt làm cán bộ, chứ không phải anh ta, hơn nữa lại làm lãnh đạo của chính anh ta. Anh này

thấy rất bất bình trong tâm, gặp cả trên cả dưới để trình bày, thấy rất căm phẫn bất bình,

[ghen tức] tật đố rất khó chịu.

Tôi giảng [Pháp] lý này cho mọi người, [Pháp] lý mà người thường không thể nhận

thức ra được: chư vị thấy rằng mình làm gì cũng được, [nhưng] mệnh của chư vị không có

[nó]; anh ta làm gì cũng không nên, [nhưng] mệnh của anh ta có [nó], nên anh ta sẽ làm

lãnh đạo. Bất kể người thường suy nghĩ thế nào, đó chỉ là cách nghĩ của người thường.

Với sinh mệnh trên tầng cao hơn mà xét, rằng sự phát triển của xã hội nhân loại, chẳng

qua chỉ là sự phát triển chiểu theo quy luật phát triển đặc định mà thôi; do đó [về việc]

người ta trong đời làm gì, họ có thể không an bài cho chư vị chiểu theo bản sự của chư vị.

Trong Phật giáo giảng 'nghiệp lực luân báo': họ chiểu theo nghiệp lực của chư vị mà an

bài cho chư vị; bản sự của chư vị có lớn đến mấy, [nhưng] chư vị không có đức, thì có thể

cả đời chư vị chẳng có gì. Chư vị thấy rằng vị kia làm gì cũng không nên, [nhưng] đức của

vị ấy lớn, [thì] vị ấy làm đại quan, phát đại tài. Người thường không nhìn thấy điểm này,

họ cứ cho rằng bản thân họ cần phải làm chính những gì bản thân cần làm. Do vậy họ một

đời tranh đấu ngược xuôi; cái tâm ấy bị tổn thương rất lớn, cảm thấy thật khổ, thật mệt,

luôn bất bình trong tâm. Ăn không ngon, ngủ không yên, tâm ý nguội lạnh như tro tàn; khi

về già, làm cho thân của mình thật tàn tạ, các thứ bệnh tật xuất hiện.

Như vậy những người tu luyện chúng ta lại càng không nên thế; những người tu luyện

chúng ta giảng 'tuỳ kỳ tự nhiên'; cái gì của chư vị thì sẽ không mất, cái gì không của chư

vị thì chư vị [dù có] tranh [giành] cũng không được. Tất nhiên cũng không tuyệt đối. Nếu

tuyệt đối đến vậy, thì không tồn tại vấn đề con người làm điều xấu, vậy nghĩa là nó cũng

còn tồn tại một số nhân tố bất ổn định. Tuy nhiên chúng ta là người luyện công, thì về lý là

do Pháp thân của Sư phụ quản; người khác có muốn lấy thứ gì của chư vị thì cũng không

lấy được. Do đó chúng ta giảng 'tuỳ kỳ tự nhiên'; có lúc chư vị thấy rằng thứ ấy là [của]

chư vị, người ta cũng nói với chư vị rằng thứ ấy là [của] chư vị; kỳ thực nó không phải

[của] chư vị. Chư vị có thể cho rằng đó là của mình, [nhưng] rốt cuộc nó lại không phải

của chư vị; qua đó thấy được rằng đối với sự việc này chư vị có thể vứt bỏ được không;

vứt bỏ không được thì chính là tâm chấp trước; chính là dùng cách này để chư vị vứt bỏ

tâm [chấp trước] vào lợi ích ấy; chính là vấn đề này. Bởi vì người thường không ngộ được

[Pháp] lý này, nên với lợi ích trước mắt mà tranh mà đấu.

Tâm tật đố phản ánh tại cõi người thường quả là rất ghê gớm, tại giới tu luyện xưa

nay cũng phản ánh khá nổi cộm. Giữa các công phái không chịu phục nhau; 'công của ông

tốt, công của họ tốt', bàn luận chỗ hay chỗ dở đều có cả; tôi thấy rằng đó đều cùng ở tầng

chữa bệnh khoẻ người thôi. Các [công phái] đấu với nhau đại đa số đều là những công

loạn bậy do phụ thể mang đến, [họ] cũng không giảng tâm tính. Có người luyện công

luyện đến trên 20 năm vẫn chưa xuất hiện công năng, người khác vừa luyện liền xuất hiện

công năng; tâm lý vị kia liền thấy bất bình: 'Tôi luyện công trên 20 năm rồi, tôi vẫn chưa

xuất công năng; anh ta xuất công năng, anh ta xuất công năng nào vậy?' Trong tâm vị ấy

bị thương tổn: 'Anh ta bị phụ thể rồi, tẩu hoả nhập ma rồi!' [Khi] khí công sư mở lớp

[giảng bài], có vị kia ngồi đó không phục: 'A, khí công sư nào vậy, tôi chẳng buồn nghe

mấy thứ đồ của ông ta'. Có thể là khí công sư thật sự giảng không hay bằng vị kia, nhưng

điều khí công sư ấy giảng là những điều trong môn của bản thân ông ta. Còn vị kia thì cái

gì cũng học, có cả chồng chứng chỉ tốt nghiệp, có khí công sư nào mở lớp [giảng] vị ấy

cũng đến tham dự, vị này quả thực biết rất nhiều, còn biết nhiều hơn cả khí công sư kia.

Nhưng nào có tác dụng gì? Đều là thứ chữa bệnh khoẻ người thôi, vị này càng trang bị ôm

đồm nhiều thứ, thì tín tức lại càng loạn, càng phức tạp, càng không tu được, đều đã loạn

lung tung hỏng cả. Tu luyện chân chính giảng chuyên nhất, không xuất hiện thiên sai nào

Tâm tật đố

124

hết. Người tu Đạo chân chính cũng có phản ánh [vấn đề tâm tật đố] này, đối với nhau

không phục; [nếu] tâm tranh đấu không bỏ, cũng dễ sinh ra tâm tật đố.

Chúng ta nói về truyện «Phong Thần diễn nghĩa», trong đó có ông Thân Công Báo

thấy rằng Khương Tử Nha vừa già vừa không có bản sự gì; tuy nhiên Nguyên Thuỷ Thiên

Tôn lại cho Khương Tử Nha [được đi] phong Thần. Trong tâm Thân Công Báo thấy bất

bình: 'Để ông ấy phong Thần là sao? Các vị thấy tôi Thân Công Báo này thật lợi hại, đầu

của tôi cắt rơi xuống rồi lại đặt lên được, tại sao không để tôi phong Thần?' Ông ta tật đố

quá không chịu được, cứ mãi theo loạn phá Khương Tử Nha.

Thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật giáo nguyên thuỷ có giảng công năng, hiện nay trong

Phật giáo không có ai dám giảng công năng nữa. Nếu chư vị giảng công năng, họ sẽ nói

chư vị tẩu hoả nhập ma. Công năng là cái gì vậy? Họ hoàn toàn không thừa nhận. Vì sao?

Hoà thượng hiện nay hoàn toàn không biết đó là gì. Thích Ca Mâu Ni có mười đại đệ tử,

[trong đó] Mục Kiền Liên được Ông nói là đệ nhất về thần thông. Thích Ca Mâu Ni cũng

có các nữ đệ tử, trong đó một người tên là Liên Hoa Sắc, cũng là thần thông đệ nhất. Phật

giáo truyền nhập vào Trung Quốc cũng lại như thế, trong lịch sử có nhiều cao tăng, khi

Đạt Ma đến Trung Quốc là bằng một cọng lau vượt sông. Tuy nhiên khi lịch sử phát triển

thì thần thông càng ngày càng bị bài xích. Nguyên nhân chủ yếu là những vị như đại hoà

thượng, hoà thượng trụ trì, phương trượng trong chùa không nhất định là những người đại

căn cơ; dẫu họ làm phương trượng, làm đại hoà thượng, nhưng đó chẳng qua chỉ là chức vị

ở nơi người thường, họ cũng là người còn đang trong tu luyện; họ bất quá chỉ là [người tu]

chuyên nghiệp thôi. Chư vị [tu] ở nhà là nghiệp dư. Tu thành được hay không là tuỳ vào

cái tâm này mà tu, đều như nhau, kém một chút là không được. Tuy nhiên tiểu hoà thượng

làm cơm ở nhà bếp lại không nhất định là người tiểu căn cơ. Tiểu hoà thượng ấy càng chịu

khổ thì càng dễ khai công, còn đại hoà thượng kia càng hưởng thụ càng khó khai công, bởi

vì [ở đây] có vấn đề chuyển hoá nghiệp lực. Tiểu hoà thượng thường xuyên vừa khổ vừa

nhọc, hoàn nghiệp sẽ nhanh, nên khai ngộ mau chóng; có lẽ đến một hôm vị này lập tức

khai công. Hễ khai công, khai ngộ hoặc giả bán khai ngộ, thì thần thông xuất lai; các hoà

thượng trong chùa đều đến hỏi vị này, mọi người đều bội phục vị này. Tuy nhiên trụ trì

không chịu nổi: 'Tôi còn là trụ trì nữa không, khai ngộ là cái chi vậy? Anh ta bị tẩu hoả

nhập ma rồi, trục xuất anh ta đi thôi'. Và đuổi [anh ta] khỏi chùa. Dần dần trong Phật giáo

ở vùng đất người Hán chúng ta không còn ai dám bàn về công năng. Chư vị thấy Tế Công

với bản sự lớn thế, chuyển gỗ từ núi Nga Mi, từ trong giếng ném từng khúc từng khúc lên

trên, nhưng rốt cuộc vẫn bị trục xuất khỏi chùa Linh Ẩn1.

Vấn đề tâm tật đố rất nghiêm trọng, bởi vì nó liên quan trực tiếp đến vấn đề chúng ta

có thể tu viên mãn được hay không. Nếu tâm tật đố không dứt bỏ, thì hết thảy các tâm

người ta tu luyện được đều biến thành yếu nhược. Có một quy định, rằng trong tu luyện

nếu người ta không vứt bỏ được tâm tật đố thì không đắc chính quả, tuyệt đối không đắc

chính quả. Trước đây có thể chư vị đã nghe thuyết rằng Phật A Di Đà giảng về việc mang

theo nghiệp khi vãng sinh; [nhưng] nếu tâm tật đố không bỏ thì không được. Nếu phương

diện khác còn kém chút ít, mang theo đôi chút nghiệp vãng sinh, rồi tu tiếp, điều ấy có thể

được, nhưng nếu tâm tật đố không bỏ thì tuyệt đối không thể. Hôm nay tôi giảng [điều

này] với những người luyện công, chư vị chớ có chấp mê bất ngộ như thế; nếu chư vị

muốn đạt mục đích tu luyện lên cao tầng, thì tâm tật đố nhất định phải vứt bỏ. Do vậy

chúng tôi giảng riêng về phần này như vậy.

1Núi Nga Mi cách xa khoảng một nghìn dặm tính đến chùa Linh Ẩn, nơi có cái giếng được kể đến.Tâm tật đố

125

Vấn đề trị bệnh

Bàn về trị bệnh, [tôi] không dạy chư vị trị bệnh. Các đệ tử chân tu của Pháp Luân Đại

Pháp không ai được trị bệnh cho người ta; hễ chư vị trị bệnh, thì tất cả những gì của Pháp

Luân Đại Pháp mang trên thân chư vị đều sẽ bị Pháp thân của tôi thu hồi toàn bộ. Vì sao

coi vấn đề này nghiêm trọng như vậy? Bởi vì đó là một hiện tượng phá hoại Đại Pháp.

Không chỉ làm tổn hại đến thân thể của bản thân chư vị; có người một khi đã khám bệnh là

muốn thế mãi, gặp ai cũng muốn lôi vào coi bệnh cho người ta, [để] hiển thị bản thân; đó

chẳng phải là tâm chấp trước là gì? Ảnh hưởng nghiêm trọng đến tu luyện của mọi người.

Có rất nhiều khí công sư giả nắm bắt được tâm lý của người thường, rằng sau khi học

khí công liền muốn coi bệnh cho người, nên [họ] dạy chư vị những điều ấy. Nói rằng phát

khí có thể trị bệnh, nói vậy chẳng phải là nói đùa? Chư vị là khí, họ cũng là khí, chư vị

phát khí là có thể trị bệnh cho người ta sao? Có khi khí của người ta lại trị cho chư vị cũng

nên! Giữa khí với nhau không có tác dụng chế ước. Khi tu luyện tại cao tầng người ta [có

thể] xuất công, [thứ] phát xuất ra là vật chất cao năng lượng, nó thực sự có thể trị bệnh, có

thể ước chế bệnh, có thể có tác dụng ức chế; nhưng vẫn không thể trừ tận gốc. Do đó [để]

thật sự có thể trị bệnh, phải có công năng mới có thể trị bệnh triệt để. Mỗi một loại bệnh

đều có một loại công năng trị liệu nhắm vào bệnh ấy; chỉ riêng về các công năng trị bệnh,

tôi nói rằng có trên nghìn loại, có bao nhiêu bệnh thì có bấy nhiêu công năng để trị. Nếu

không có công năng ấy, thì tay chư vị có xuất chiêu gì cũng vô dụng.

Mấy năm gần đây một số người đã gây bao hỗn loạn trong giới tu luyện. Những khí

công sư xuất hiện để thật sự chữa bệnh khoẻ người, những khí công sư khai thuỷ mở con

đường ấy, [trong số họ] hỏi nào có ai dạy người ta đi trị bệnh? [Họ] đều chỉ giúp chư vị

chữa bệnh hoặc dạy chư vị tu luyện thế này thế kia, rèn luyện thân thể như thế này thế kia,

dạy chư vị một bộ công pháp, sau đó chư vị thông qua việc tự mình rèn luyện mà khỏi

bệnh. Về sau các khí công sư giả xuất hiện làm thành ô yên chướng khí, hễ ai muốn trị

bệnh đều chiêu mời phụ thể, nhất định là như vậy. Tại hoàn cảnh thời ấy cũng có một số

khí công sư khám bệnh, đó là để phối hợp với thiên tượng lúc bấy giờ. Tuy nhiên đó

không phải là kỹ năng của người thường, không thể duy trì mãi như thế, đó là thiên tượng

biến hoá vào thời ấy mà thành như vậy, đó là sản phẩm của thời ấy. Về sau [những người]

chuyên môn dạy người ta đi trị bệnh, đã làm loạn cả lên. Một người thường [sau] ba ngày,

năm ngày liền có thể trị bệnh là sao? Có người nói: 'Tôi có thể trị bệnh này, bệnh kia'. Tôi

nói với chư vị, rằng phàm là như thế đều có mang theo phụ thể, chư vị có biết đằng sau

lưng chư vị có gì nằm ở đó không? Chư vị có phụ thể, mà bản thân chư vị không cảm

thấy, chư vị không biết, chư vị lại cho là tốt lắm, cho rằng bản thân mình có bản sự.

Các khí công sư chân chính phải trải qua bao nhiêu năm khổ tu, mới có thể đạt được

mục đích ấy. Khi chư vị trị bệnh cho người ta, chư vị thử nghĩ xem mình đã có chủng

công năng lớn mạnh để tiêu trừ nghiệp lực cho người ta hay không? Chư vị đã được chân

truyền chưa? Chư vị [sau] ba ngày, hai hôm liền có thể trị bệnh là sao? Chư vị với bàn tay

của người thường có thể trị bệnh là sao? Nhưng những khí công sư giả kia, họ nắm trúng

nhược điểm của chư vị, nắm trúng tâm chấp trước của con người: chư vị chẳng phải mong

cầu trị bệnh là gì? Tốt thôi, họ bèn mở lớp dạy trị bệnh, chuyên dạy chư vị các thủ pháp trị

liệu. Nào là khí châm, nào là phép chiếu quang, bài [khí], bổ [khí], nào là điểm huyệt, nào

là phép chộp bắt, rất nhiều thứ với mục đích chính là kiếm tiền của chư vị.

Chúng ta hãy nói về [cách] chộp bắt. Tình huống mà chúng tôi nhìn thấy là như thế

này: con người vì sao có bệnh? Nguyên nhân căn bản làm cho người ta có bệnh hoặc bất

hạnh [chính] là nghiệp lực, trường nghiệp lực vật chất màu đen. Nó là thứ thuộc về tính

âm, thuộc về những thứ không tốt. Còn những con linh thể bất hảo kia, cũng là thứ có tính

âm, đều là thuộc [loại màu] đen, do vậy chúng có thể gắn vào; hoàn cảnh đó thích hợp với

chúng. Chúng là nguyên nhân căn bản làm người ta trở thành có bệnh, đó là căn nguyên

Vấn đề trị bệnh

126

chủ yếu nhất của bệnh. Tất nhiên còn có hai hình thức [khác] nữa: một là tiểu linh thể rất

nhỏ rất nhỏ nhưng mật độ rất lớn, như một cục nghiệp lực; còn nữa là thứ giống như cái

ống dẫn đến, loại này ít gặp, đều là do tổ tiên ở trên tích tụ lại; cũng có tình huống như thế.

Chúng tôi hãy giảng [tình huống] phổ biến nhất; người ta mọc khối u chỗ này, phát

viêm chỗ kia, có gai xương ở chỗ nào đó, v.v., nơi không gian khác thì có một con linh thể

nằm chính tại chỗ đó, có một con linh thể tại không gian rất thâm sâu. Khí công sư bình

thường không thấy được [linh thể ấy], công năng đặc dị bình thường không thấy được, chỉ

có thể thấy rằng thân thể có khí đen. Tại chỗ nào có khí đen, thì chỗ đó có bệnh, nói như

thế là đúng. Nhưng khí đen không phải là nguyên nhân căn bản tạo thành bệnh, mà là vì ở

trong một không gian thâm sâu hơn có con linh thể kia, [chính] là nó phát xuất ra cái

trường. Do vậy có người nói nào là bài [khí], nào là tiết [khí]. Chư vị cứ bài [khí] đi!

Không mấy chốc nó lại sản sinh ra, có [con] có lực rất mạnh, vừa bài [khí] ra [nó] lại kéo

trở lại, bản thân nó có thể thu hồi lại, làm cho việc trị [bệnh] như thế không được.

Theo công năng đặc dị mà xét, thì chỗ ấy có khí đen, xác nhận là có khí bệnh; Trung

Y xét thì chính là chỗ ấy các mạch không thông, khí huyết không thông, mạch ứ tắc; Tây

Y xét thì chính là chỗ ấy có hiện tượng như lở loét, mọc u, gai xương, hoặc phát viêm; nó

phản ánh đến không gian này với hình thức như thế. Sau khi chư vị gỡ bỏ [linh thể] ấy đi

rồi, thì chư vị phát hiện rằng trên thân thể ở bên [không gian] này chẳng còn [bị] gì nữa.

Những gì là lệch đĩa đệm thắt lưng, gai xương, thì sau khi chư vị gỡ bỏ [linh thể] đó

xuống, lấy trường kia ra xong, chư vị sẽ thấy lập tức khỏi [bệnh]. Chư vị thử chụp lại X-

quang, thì không còn thấy gai xương nào nữa; nguyên nhân căn bản là do [linh thể] kia

khởi tác dụng.

Có người nói rằng [sau] ba hôm có thể trị bệnh, năm ngày có thể trị bệnh, dạy chư vị

phép chộp bắt. Chư vị chộp cho tôi xem! Con người là yếu kém nhất, còn linh thể kia quả

là rất lợi hại. Nó khống chế đại não chư vị, điều khiển chư vị quay vòng vòng như trò

chơi, còn dễ dàng lấy đi sinh mệnh của chư vị. Chư vị nói chư vị chộp nó, chộp thế nào

đây? Bàn tay người thường của chư vị không động đến nó được, chư vị tại đó khua loạn

lên, nó cũng không quan tâm, nó đang ở sau lưng cười chư vị: chộp loạn cả lên, sao khôi

hài vậy; nếu chư vị thật sự động đến nó được, thì nó lập tức làm tay chư vị bị thương; vết

thương thực sự đấy! Quá khứ tôi có gặp một số người, hai tay không bị sao, kiểm tra thế

nào cũng không thấy thân thể có bệnh, hai tay không có bệnh, nhưng không dơ tay lên

được, cứ rủ xuống như thế này; tôi từng gặp bệnh nhân như thế. [Thân] thể tại không gian

khác bị thương rồi, đã thật sự bị tàn phế rồi. Cái [thân] thể ấy của chư vị mà bị thương, thì

chẳng đúng tàn phế là gì? Có người hỏi tôi: 'Thưa Sư phụ, con có thể luyện công được

không? Con đã bị [phẫu thuật] tuyệt dục rồi' hoặc 'đã bị cắt bỏ gì đó rồi'. Tôi nói rằng

điều đó không ảnh hưởng, cái [thân] thể ở không gian khác của chư vị không bị [phẫu]

thuật, mà luyện công là cái [thân] thể ấy khởi tác dụng. Do vậy tôi mới nói, chư vị chộp

nó, [nhưng] chư vị không động đến nó được, [thì] nó cũng không quan tâm đến chư vị;

chư vị [mà] động đến nó, có thể nó làm tay chư vị bị thương.

Để ủng hộ hoạt động khí công có quy mô lớn của quốc gia, tôi đưa một số đệ tử tham

gia Hội Sức Khoẻ Đông Phương tại Bắc Kinh. Tại hai lần hội chúng tôi đều nổi bật nhất.

Lần hội thứ nhất, Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi được vinh dự là 'Minh Tinh công phái';

vào hội lần thứ hai người [đến] đông quá không biết làm thế nào. Tại gian khác không có

mấy người, còn tại gian chúng tôi thì mọi người đứng chật khắp chung quanh. Xếp thành

ba hàng, từ sớm hàng thứ nhất là đăng ký hết cho buổi sáng, hàng thứ hai đợi cho đăng ký

buổi chiều, còn một hàng nữa đợi xin chữ ký của tôi. Chúng ta không trị bệnh, vì sao lại

thực hiện điều ấy? Bởi vì đây là ủng hộ hoạt động khí công quy mô lớn của quốc gia, cống

hiến cho sự nghiệp ấy, do đó chúng tôi đã tham gia.

Vấn đề trị bệnh

127

Tôi lấy công của mình phân cho các đệ tử đi theo tôi, mỗi người một phần, đều là cục

năng lượng hợp thành từ trên một trăm chủng công năng. Đều lấy tay của họ [niêm] phong

lại, chính là như thế, có tay vẫn bị cắn, cắn đến giộp cả lên, chảy cả máu, điều ấy vẫn hay

xảy ra. Thứ [linh thể] ấy lợi hại đến vậy, chư vị nghĩ rằng chư vị dám động đến nó bằng

tay người thường của chư vị ư? Hơn nữa chư vị không động đến nó được, không có chủng

công năng ấy thì không làm gì được. Vì tại một không gian khác [khi] chư vị muốn làm gì,

hễ não chư vị nghĩ một cái nó liền biết, chư vị muốn chộp nó, nó đã chạy từ lâu. Đợi đến

lúc bệnh nhân ra khỏi cửa, nó lập tức lại gắn vào, bệnh lại tái phát. Muốn động thủ trị

[được] nó thì phải có chủng công năng ấy, vươn tay ra là "pắc" [một cái] định nó tại đó

luôn. Sau khi định vững lại rồi, chúng ta còn có một chủng công năng, quá khứ gọi là

'nhiếp hồn đại pháp', chủng công năng này còn lợi hại hơn, có thể lấy [toàn bộ] chỉnh thể

nguyên thần của người ta lôi hết ra, cá nhân kia lập tức bất động. Công năng này có tính

nhắm thẳng, và chúng ta nhắm thẳng vào thứ [linh thể] ấy mà chộp. Như mọi người đã

biết, trong tay Phật Như Lai cầm chiếc bát, chiếu lên một cái, chư vị thấy rằng Tôn Ngộ

Không lớn như thế, lập tức biến thành một điểm nhỏ. Công năng ấy khởi tác dụng như thế.

Bất kể linh thể ấy lớn đến mấy, bất kể linh thể to nhỏ thế nào, lập tức bị chộp cứng trong

tay, liền biến thành rất nhỏ.

Ngoài ra, nếu lấy tay vươn vào trong nhục thể của bệnh nhân, rồi chộp lấy ra, dẫu làm

được, cũng không được [phép]. Như thế sẽ làm loạn tư duy của con người tại xã hội người

thường; hoàn toàn không cho làm thế. Họ đưa vào trong là cánh tay tại không gian khác.

Giả thuyết người kia có bệnh ở tim, khi cánh tay này chuyển về phía của tim để chộp, thì

cánh tay tại không gian khác sẽ đưa vào. Chỉ trong nháy mắt rất mau lẹ đã chộp vững

xong rồi, tay bên ngoài của chư vị chộp bắt xong, hai tay lại hợp nhất lại, nó đã nằm trong

tay rồi. Nó rất lợi hại, có lúc động đậy trong tay, dùi vào [tay], có lúc cắn, có lúc còn kêu

thét. Chư vị thấy [nó] rất bé [khi] ở trong tay, nhưng thả ra khỏi tay liền biến thành rất lớn.

Điều này không phải ai cũng dám động đến, không có công năng ấy thì hoàn toàn không

động đến được, hoàn toàn không đơn giản như chúng ta vẫn tưởng tượng.

Đương nhiên trong tương lai hình thức trị bệnh bằng khí công này cũng có thể được

[phép] tồn tại; trong quá khứ nó vẫn luôn tồn tại. Nhưng phải có điều kiện, cá nhân ấy phải

là người tu luyện, trong quá trình tu luyện họ xuất phát từ tâm từ bi, họ làm điều ấy giúp

một số lượng ít những người tốt thì được. Nhưng họ không thể giúp người ta triệt để tiêu

trừ nghiệp, uy đức của họ không đủ; do vậy [khó] nạn vẫn còn, chỉ có bệnh cụ thể kia là

khỏi thôi. Một khí công sư nhỏ bé bình thường không phải là người đã đắc Đạo, họ chỉ có

thể giúp người ta trì hoãn về sau; cũng có thể chuyển hoá, cũng có thể chuyển hoá thành

tai nạn khác. Tuy nhiên bản thân họ không biết được quá trình trì hoãn về sau [ra sao]; nếu

[người] tu luyện công pháp ấy là phó ý thức, thì phó ý thức của họ đã làm [điều ấy]. Có

những người tu luyện của một số công pháp dường như có danh [tiếng] rất lớn, có rất

nhiều đại khí công sư có danh tiếng hiển hách nhưng không hề có công; công [của họ] đều

có trên thân của phó nguyên thần. Nghĩa là, trong quá trình tu luyện cho phép làm như

vậy, bởi vì có một số người cứ duy trì ở tầng ấy, hễ luyện là đến mấy chục năm, mấy chục

năm vẫn chưa ra khỏi tầng ấy, do đó họ suốt đời vẫn mãi đi coi bệnh coi bệnh cho người

ta. Bởi vì họ đang ở tại tầng ấy, thì cũng cho phép họ làm như vậy. Các đệ tử tu luyện

Pháp Luân Đại Pháp tuyệt đối không được phép đi coi bệnh [cho người khác]. Đọc cho

người bệnh cuốn sách này, nếu như người bệnh có thể tiếp thu, thì có thể trị bệnh, tuy

nhiên hiệu quả đối với những người có nghiệp lực to nhỏ khác nhau là khác nhau.

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công

Chúng tôi giảng một chút về vấn đề quan hệ giữa trị bệnh tại bệnh viện và trị bệnh

bằng khí công. Một số bác sỹ Tây Y không thừa nhận khí công, có thể nói là đa số. Họ nói

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công

128

kiểu như: 'Nếu như khí công có thể trị bệnh thì cần đến bệnh viện chúng tôi làm gì nữa?

Các vị thay thế bệnh viện của chúng tôi đi thôi! Khí công các vị chạm tay vào là có thể trị

khỏi bệnh, lại không cần tiêm, uống thuốc, nhập viện; thay thế bệnh viện chúng tôi chẳng

quá tốt hay sao?' Nói như thế rất không có đạo lý, rất không hợp lý. Có người không liễu

giải được khí công; thực ra, coi bệnh bằng khí công không thể như các phương pháp trị

liệu nơi người thường được, nó không phải là kỹ năng nơi người thường, nó là điều siêu

thường. Điều siêu thường như thế nếu can nhiễu đến xã hội người thường trên diện rộng,

hỏi có thể được phép không? Phật [có] bản sự rất lớn, một vị Phật huơ tay một cái, bệnh

của toàn nhân loại sẽ không tồn tại. Tại sao ông không làm thế? Hơn nữa lại có nhiều Phật

đến như vậy, tại sao họ không phát tâm từ bi làm chư vị khỏi bệnh? Bởi vì xã hội người

thường chính là như thế, sinh lão bệnh tử chính ở trạng thái như thế, đều có quan hệ nhân

duyên, đều là nghiệp lực luân báo; những gì chư vị mắc nợ [đều] phải hoàn [trả].

Nếu như chư vị chữa khỏi cho họ, thì cũng tương đương với phá hoại [Pháp] lý này;

có thể làm điều xấu mà không cần hoàn [trả]; vậy có được chăng? Người trong [khi] tu

luyện xuất tâm từ bi, khi chư vị chưa có lực lượng đủ mạnh để giải quyết triệt để vấn đề

ấy, thì cho phép chư vị coi bệnh, vì chư vị xuất tâm từ bi rồi, cho phép làm như thế. Tuy

nhiên nếu chư vị thật sự có thể giải quyết vấn đề ấy, thì giải quyết trên diện rộng là không

được. Đó là chư vị phá hoại trạng thái xã hội người thường một cách nghiêm trọng, nên

không thể được. Do đó khí công thay thế bệnh viện của người thường là [điều] hoàn toàn

không được; nó là Pháp ở nơi siêu thường.

Nếu như tại Trung Quốc lập nên các bệnh viện khí công, ví như cho phép làm như

thế, rằng các đại khí công sư đều xuất lai để làm, chư vị thử coi sẽ ra sao? Không cho phép

làm như vậy, bởi vì phải duy hộ trạng thái của xã hội người thường. Nếu như dựng lập các

bệnh viện khí công, phòng điều trị khí công, trung tâm sức khoẻ, thắng địa liệu dưỡng

bằng khí công, thì một khi lập nên, thì [khả năng] trị bệnh của các khí công sư sẽ sụt

xuống ngay, hiệu quả trị bệnh lập tức sẽ không được [tốt] nữa. Vì sao? Vì họ đang làm

những [sự việc] ở nơi người thường, thì cũng phải cao như Pháp ở cõi người thường, hoà

[hợp] với trạng thái của người thường tại tầng ấy, hiệu quả trị bệnh của họ cũng giống như

[hiệu quả trị bệnh] của bệnh viện. Do đó trị bệnh sẽ không được [tốt] nữa, họ cũng sẽ phải

giảng trị bệnh cần một số liệu trình; thông thường là như vậy.

Dẫu khí công thành lập bệnh viện cũng vậy, không lập bệnh viện cũng vậy, thì việc

khí công có thể trị bệnh là một điểm không ai phủ nhận được. Khí công phổ biến trong xã

hội trong một thời gian lâu ngần ấy, có bao nhiêu người thông qua luyện công đã thực sự

đạt được mục đích chữa bệnh khoẻ người. Dẫu là họ được khí công sư trì hoãn bệnh lại về

sau cũng vậy, làm thế nào cũng vậy, dù sao thì bệnh kia bây giờ đã khỏi; tức là việc khí

công có thể trị bệnh là điều không ai phủ nhận được. Đa số những [người] tìm đến khí

công sư để coi bệnh, đều được xem là bệnh nan y, đã từng đến bệnh viện chữa không khỏi,

nên đến gặp khí công sư thử vận may, kết quả đã chữa khỏi. Những [ai] đã được chữa khỏi

tại bệnh viện thì không tìm đến khí công sư, nhất là vào giai đoạn ban đầu, người ta đều

nhận thức như thế cả; như vậy khí công là có thể khám bệnh. Nó bất quá chỉ không thể

thực hiện giống như những sự việc khác nơi xã hội người thường. Can thiệp trên diện rộng

là tuyệt đối không được phép; trên diện hẹp hoặc không có ảnh hưởng to lớn gì, âm thầm

lặng lẽ mà thực hiện thì được; nhưng cũng không được chữa triệt để khỏi bệnh, điều này là

khẳng định. Tự mình dùng khí công rèn luyện chữa bệnh là tốt nhất.

Có khí công sư giảng: bệnh viện chữa bệnh không được, hiệu quả trị liệu của bệnh

viện hiện nay thế này thế kia. Chúng ta nói như thế nào? Tất nhiên nó có nguyên nhân

nhiều mặt. Tôi thấy rằng chủ yếu nhất là [do] chuẩn mực đạo đức của con người thấp kém,

đã tạo thành các loại bệnh kỳ quái, bệnh viện chữa không khỏi, dùng thuốc cũng không

xong; thuốc giả cũng nhiều; đều là vì xã hội nhân loại đã bại hoại đến mức độ như thế.

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công

129

Mỗi người cũng đừng oán người khác, ai ai cũng đều có góp sóng thành bão ở trong đó,

vậy nên người nào tu luyện cũng phải gặp khổ nạn.

Có những bệnh mà bệnh viện kiểm tra không ra, nhưng xác thực là có bệnh. Có

những người kiểm tra là có bệnh, nhưng không biết tên gọi [bệnh] đó là gì, là bệnh chưa

từng gặp, bệnh viện gọi chung [đó là] "bệnh hiện đại". Hỏi bệnh viện có thể chữa bệnh

không? Tất nhiên là có. Nếu bệnh viện không thể trị bệnh, thì hỏi tại sao người ta lại tin,

tại sao lại đến đó để chữa bệnh. Bệnh viện vẫn có thể trị bệnh, chỉ có điều cách trị liệu của

nó là tại tầng của người thường, còn bệnh kia lại là [điều] siêu thường, có những bệnh rất

nặng. Do đó bệnh viện giảng rằng trị bệnh cần trị sớm, nặng quá họ cũng không trị được;

[dùng] nhiều thuốc quá thì người ta [ngộ] độc. Chuẩn mực của bệnh viện hiện nay là

ngang với chuẩn mực của khoa học kỹ thuật của chúng ta, đều ở tại tầng của người

thường, do đó nó chỉ có hiệu [quả trị] liệu như vậy thôi. Có một vấn đề cần nói rõ, trị bệnh

bằng khí công thông thường và trị bệnh tại bệnh viện, đều là đưa cái nạn nguyên nhân tạo

thành bệnh trì hoãn lại về sau, trì hoãn về nửa đời sau này hoặc về sau, hoàn toàn không

động đến nghiệp lực.

Chúng tôi lại giảng một chút về Trung Y. Trị bệnh của Trung Y rất gần với trị bệnh

của khí công. Tại Trung Quốc cổ đại, các bác sỹ Trung Y nói chung đều có công năng đặc

dị, các đại y học gia như Tôn Tư Mạc, Hoa Đà, Lý Thời Trân, Biển Thước, v.v. đều có

công năng đặc dị, trong sách y học đều có chép lại. Tuy nhiên hiện nay những điều tinh

hoa ấy thường hay bị phê phán; kế thừa của Trung Y [hiện nay] bất quá chỉ là một chút

dược phương, hoặc giả một số dò dẫm kinh nghiệm. Trung Y thời Trung Quốc cổ đại rất

phát triển, trình độ phát triển vượt siêu xuất so với y học hiện nay. Có người nghĩ, y học

hiện nay phát triển lắm, làm [quét ảnh] CT là có thể nhìn thấy nội bộ bên trong thân thể

người ta, làm siêu âm, chụp hình, chụp X-quang, các thiết bị hiện đại rất là tiên tiến; theo

tôi nhìn nhận thì như vậy cũng không được [bằng] y học thời Trung Quốc cổ đại.

Hoa Đà thấy trong não của Tào Tháo có khối u, cần mở não để làm thủ thuật bỏ khối

u. Tào Tháo nghe vậy liền tưởng rằng Hoa Đà muốn lấy đầu của mình, [nên] bắt Hoa Đà

giam lại, kết quả Hoa Đà chết trong nhà ngục. Khi Tào Tháo mắc bệnh, nghĩ đến Hoa Đà,

tìm đến Hoa Đà, thì Hoa Đà đã chết rồi. Sau đó Tào Tháo thật sự mắc bệnh ấy mà chết. Vì

sao Hoa Đà biết? Ông ta đã nhìn thấy, đó là công năng đặc dị của con người chúng ta, các

y học gia trong quá khứ đều có trang bị bản sự ấy. Sau khi khai thiên mục, thì từ một mặt

có thể đồng thời thấy được thân thể người ta từ bốn mặt; từ mặt trước có thể thấy mặt sau,

mặt trái, mặt phải; còn có thể thấy từng lớp cắt của mỗi tầng; còn có thể thấu qua không

gian này mà thấy được nguyên nhân căn bản của bệnh là gì. Phương pháp của y học hiện

đại có thể đạt được như vậy không? Còn cách xa lắm, [phải] thêm một nghìn năm nữa!

[Quét ảnh] CT, siêu âm, X-quang cũng có thể nhìn được bộ phận bên trong của thân thể

người, nhưng đồ cơ khí đó to lắm, và thứ to lớn thế cũng không dễ mang theo [người],

không có điện không [dùng] được. Còn thiên mục này là mang đâu theo đó, không cần

nguồn [điện], làm sao sánh được!

Có người giảng rằng thuốc hiện đại như thế này như thế kia. Tôi nói rằng không hẳn

thế, thảo dược của Trung Quốc cổ đại thật sự có thể 'thuốc vào là bệnh hết'. Có rất nhiều

điều đã thất truyền; có rất nhiều điều không thất truyền, đang lưu truyền trong dân gian.

Vào thời giảng bài tại Tề Tề Cáp Nhĩ tôi có nhìn thấy một người dựng quầy ngoài phố để

nhổ răng cho người ta. Nhìn qua là thấy vị này đến từ phương nam, không ăn mặc theo

kiểu người vùng Đông Bắc. Ai đến cũng không từ, ai đến vị ấy cũng nhổ, răng nhổ được

xếp thành một đống thế này. Vị này nhổ răng không phải là mục đích, mà mục đích là bán

thuốc của mình. Thuốc ấy bốc lên lớp khí vàng rất đặc. Khi nhổ răng, bèn mở nắp lọ thuốc

nước ra, ở ngoài má hướng vào chỗ răng sâu, bảo người ta hít chút khí thuốc màu vàng;

nước thuốc coi như không vơi đi chút nào, lại đậy nắp lại. Rút trong túi ra một que diêm,

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công

130

vừa nói về thuốc của mình, vị ấy vừa lấy que diêm để khều răng, cái răng liền rời ra, cũng

không đau, chỉ có một tý máu, cũng không chảy máu. Mọi người thử nghĩ xem, nếu dùng

lực hơi mạnh là que diêm gẫy ngay, vậy mà vị này lại dùng que diêm khêu một cái là nhổ

được răng.

Tôi nói rằng Trung Quốc có một số điều đang lưu truyền tại dân gian, mà khí cụ chính

xác của tây y không sánh được; thử xem hiệu quả ai tốt hơn, que diêm của vị ấy khêu một

cái là được ngay. Tây y nhổ răng trước hết phải tiêm thuốc tê, tiêm chỗ này, tiêm chỗ kia,

châm kim đau lắm; đợi thuốc tê có tác dụng, rồi lấy kìm để nhổ. Nhổ cả nửa ngày không

khéo chân răng gẫy [còn lại ở trong]. Bèn lấy búa lấy đục để tróc ra, đập làm cho đau đớn

kinh khiếp, rồi lại dùng khí cụ chính xác để khoan cho chư vị. Có người bị khoan đau quá

chỉ muốn nhảy dựng lên, chảy rất nhiều máu, nhổ ra một búng máu. Chư vị nói xem ai tốt

hơn? Chư vị nói xem ai tiên tiến hơn? Chúng ta không thể chỉ coi công cụ bề ngoài, mà

cần coi hiệu quả thực tế. Trung Y thời Trung Quốc cổ đại rất phát triển, Tây Y hiện đại

còn phải trải qua bao nhiêu năm nữa mới theo được.

Khoa học của Trung Quốc cổ đại khác với khoa học hiện nay mà chúng ta học từ

phương tây, nó đi theo một con đường khác, có thể đưa đến trạng thái khác. Do đó không

thể dùng phương pháp nhận thức của chúng ta hiện nay để nhận thức khoa học kỹ thuật

của Trung Quốc cổ đại, bởi vì khoa học Trung Quốc cổ đại là nhắm thẳng vào [thân] thể

người, sinh mệnh, vũ trụ; nhắm trực tiếp vào những điều ấy mà nghiên cứu, do đó [nó] đi

theo một con đường khác. Thời ấy người đi học, đều phải chú trọng đả toạ, khi ngồi cũng

giảng [phải] có tư thế; khi cầm bút viết cũng giảng [phải] vận khí hô hấp; các ngành các

nghề đều giảng [phải] tịnh tâm, điều tức; toàn bộ xã hội đều đặt trong trạng thái như thế.

Có người nói: 'Chiểu theo khoa học của Trung Quốc cổ đại mà tiến, thì hỏi có xe hơi,

xe lửa ngày nay không? Hỏi có thể có hiện đại hoá hôm nay không?' Tôi nói rằng chư vị

không thể đứng tại hoàn cảnh này mà nhận thức một trạng thái khác; [trong] quan niệm tư

tưởng của chư vị cần phải có cách mạng mới được. Không có TV, [thì] ngay phía trước

đầu bản thân mình đã mang theo, muốn coi gì liền thấy nấy, cũng có tồn tại công năng.

Không có xe hơi, xe lửa, [thì] người ngồi đó có thể phiêu [đãng bay] lên, thang máy cũng

không cần. Nó sẽ dẫn đến trạng thái phát triển khác của xã hội, không nhất định phải cuộc

hạn vào cái khung này. Đĩa bay của người hành tinh khác đi lại thần tốc, biến lớn thu nhỏ.

Họ đi theo một con đường phát triển còn khác hơn nữa, là một loại phương pháp khoa học

khác.

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công

131

Bài giảng thứ tám

Tịch cốc

Một số người đề cập đến vấn đề tịch cốc. Hiện tượng tịch cốc có tồn tại; không chỉ có

trong giới tu luyện, trong toàn thể xã hội nhân loại chúng ta cũng có không ít người xuất

hiện tình huống này. Có người không ăn không uống trong mấy năm [liền], hoặc mười

mấy năm [liền], nhưng vẫn sống tốt. Có người nói tịch cốc là thể hiện của một tầng nào

đó; có người nói tịch cốc là biểu hiện của thân thể tịnh hoá; cũng có người nói tịch cốc là

quá trình tu luyện tại cao tầng.

Thực ra đều không phải. Vậy hỏi đó là điều gì? Trên thực tế tịch cốc chính là một

phương pháp tu luyện đặc thù mà chúng ta sử dụng trong [một số] hoàn cảnh đặc định.

Vào hoàn cảnh đặc định nào thì sử dụng đến nó? Vào thời Trung Quốc cổ đại, nhất là

trước khi thành lập tôn giáo, có rất nhiều người tu luyện họ đều sử dụng phương pháp mật

tu, tu luyện đơn độc; đi vào núi sâu hoặc chui vào hang động trong núi mà tu, tách ly xa

khỏi nơi con người quần tụ sinh sống. Một khi làm như vậy sẽ động chạm đến vấn đề

nguồn cấp lương thực. Nếu như họ không sử dụng phương pháp tịch cốc, thì hoàn toàn tu

luyện không được, sẽ chết đói chết khát ở đó. Khi tôi từ Trùng Khánh đến Vũ Hán giảng

Pháp, ngồi thuyền xuôi dòng Trường Giang về phía đông, thì thấy hai bên bờ Tam Hiệp có

một số động đá ở lưng chừng núi, nhiều vùng núi danh tiếng cũng có những [hang động]

như thế. Người tu luyện trong quá khứ sau khi dùng dây để trèo vào trong, liền cắt đứt dây

đi, [rồi] tu luyện ở trong động; [nếu] không tu luyện xuất lai, thì sẽ chết ở trong đó. Không

có nước, không có lương thực, họ đã sử dụng phương pháp tu luyện đặc thù ấy ở trong

chính hoàn cảnh cực kỳ đặc thù này.

Có nhiều công pháp đã trải qua quá trình truyền thừa như vậy, do đó nó có tịch cốc;

có nhiều công pháp không có tịch cốc; các công pháp được truyền xuất ra nơi xã hội

chúng ta hiện nay đa số là không có điều này. Chúng tôi giảng rằng luyện công phải

chuyên nhất, chư vị không thể mong muốn theo cách con người như thế nào liền làm nấy.

Chư vị cho rằng nó rất tốt, chư vị cũng muốn tịch cốc; hỏi chư vị tịch cốc làm gì? Có

người cho rằng [nó] rất tốt, [nên] hiếu kỳ, hoặc cho rằng bản thân mình công phu cao rồi,

có thể hiển thị này khác; các chủng tâm thái của người ta đều có [cả]. Ngay cả khi dùng

phương pháp ấy tu luyện, thì cũng phải tiêu hao năng lượng của tự thân để bổ sung cho

thân thể, do vậy cái được chẳng bõ cho cái mất. Như mọi người đã biết, nhất là sau khi

thành lập tôn giáo, khi chư vị trong chùa ngồi thiền, bế quan, đều có người cung cấp cho

chư vị trà và thức ăn, [nên] không động chạm đến vấn đề này. Nhất là chúng ta tu luyện

trong xã hội người thường, chư vị hoàn toàn không cần phải dùng đến phương pháp này;

hơn nữa pháp môn chư vị nếu không có [nó] thì chư vị không thể [tập luyện nó mà] loạn.

Nếu chư vị thật sự muốn tịch cốc, chư vị cứ thử tu. Theo tôi được biết, thông thường khi

sư phụ truyền công lên cao tầng, nếu thật sự đưa người lên, [và] tại pháp môn của ông có

tịch cốc, thì có thể xuất hiện hiện tượng ấy, nhưng ông không thể phổ cập [rộng rãi], thông

thường đều mang đồ đệ đi mật tu, tu đơn độc.

Hiện nay cũng có các khí công sư dạy người ta tịch cốc. Tịch cốc được không? Rốt

cuộc không tịch được; hỏi ai tịch được nào? Tôi thấy không ít [người] phải nhập viện,

không ít người xuất hiện nguy hiểm đến sinh mệnh. Vậy tại sao xuất hiện tình huống ấy?

Hiện tượng tịch cốc phải chăng không có? Có. Nhưng có một điểm: trạng thái này của xã

hội người thường chúng ta, không ai được phép tự dưng phá hoại, không cho phép phá

hoại. Không nói trên toàn quốc bao nhiêu người luyện công không ăn không uống, chỉ nói

riêng nơi Trường Xuân này ai ai cũng không ăn không uống, tôi nói vậy thì giản tiện quá

Tịch cốc

132

rồi! Khỏi phải vội vàng làm cơm nữa. Nông dân làm ruộng vất vả khó nhọc là thế, giờ

[không ai] cần ăn nữa, rất giản tiện; cứ làm việc mãi, khỏi phải ăn. Như vậy có được

không? Đó còn là xã hội nhân loại không? Khẳng định là không được, không cho phép sự

việc như thế can nhiễu đến xã hội người thường trên diện rộng.

Khi một số khí công sư truyền tịch cốc, xuất hiện rất nhiều nguy hiểm. Có người chấp

trước vào truy cầu tịch cốc, nhưng cái tâm kia của họ chưa hề bỏ, còn rất nhiều tâm của

người thường chưa hề vứt bỏ, khi thấy đồ ăn ngon nhưng không được ăn liền thèm quá,

cái tâm ấy của họ hễ khởi lên là không ổn rồi. Họ thấy rất sốt ruột phải ăn gì đó, dục vọng

thăng lên liền phải ăn, không ăn cảm thấy đói. Nhưng ăn vào phải nôn ra, không ăn vào

được; điều này tạo thành tinh thần căng thẳng, sợ hãi ghê lắm. Rất nhiều người đã vào

bệnh viện, thực sự đã có rất nhiều người gặp nguy hiểm đến sinh mệnh. Cũng có người

tìm đến tôi nhờ tôi xử lý những ca loạn bậy ấy; tôi không muốn quản sự việc này. Có

những khí công sư rất hồ đồ, không ai muốn theo [xử lý] những sự loạn bậy cho họ.

Hơn nữa, chư vị tịch cốc mà gặp vấn đề, thì chẳng phải là vì tự chư vị cầu? Chúng tôi

giảng rằng hiện tượng ấy tồn tại, nhưng nó không phải là trạng thái nào đó xuất hiện ở cao

tầng, cũng không phải là phản ánh đặc thù gì, nó chẳng qua chỉ là một phương thức tu

luyện được dùng trong một tình huống đặc thù, nhưng không thể phổ cập nó được. Có

không ít người truy cầu tịch cốc, lại còn gọi nó thành tịch cốc thế này thế khác, 'bán tịch

cốc', cũng phân thành đẳng cấp v.v. Có người nói rằng họ [chỉ cần] uống nước, có người

nói [chỉ cần] ăn hoa quả; đó đều là tịch cốc giả. Sau một thời gian lâu, đảm bảo sẽ không

còn được nữa. Người chân chính tu luyện; một khi vào sơn động, [thì] không ăn không

uống, đó là tịch cốc chân chính.

Trộm khí

Nói về trộm khí, có người biến sắc như nói đến cọp vậy, sợ quá không dám luyện

công. Nhiều vị vì giới tu luyện có người truyền nhiều thuyết như tẩu hoả nhập ma, trộm

khí, v.v. mà làm cho người ta không dám luyện công, không dám tiếp xúc với khí công.

Nếu như không có những thuyết ấy, có thể sẽ có nhiều người luyện công hơn nữa. Cũng

có một số khí công sư tâm tính bất hảo, chuyên môn dạy những thứ ấy, làm cho giới tu

luyện ô yên chướng khí; thực ra không đáng sợ như họ nói đâu. Chúng ta giảng khí chỉ là

khí, dẫu cho chư vị có nói thành 'hỗn nguyên khí', khí này khí nọ [đi nữa]. Hễ thân thể

người ta có khí, thì cá nhân ấy vẫn ở trong tầng chữa bệnh khoẻ người, cho nên chưa được

tính là người luyện công. Người ta chỉ cần có khí, thì minh chứng rằng cá nhân ấy chưa

đạt được đến thân thể tịnh hoá cao độ, đó chính là vẫn còn khí bệnh, điều này là khẳng

định. Người trộm khí cũng ở trong tầng khí ấy thôi; chúng ta là người luyện công nào có ai

cần cái khí dơ bẩn ấy? Người không luyện công khí của thân thể họ rất dơ, luyện công rồi

có thể trong sáng ra. Chỗ có bệnh có thể hiển lộ ra một cục vật chất màu đen có mật độ rất

cao. Luyện tiếp dần dần, đến khi thật sự đạt đến chữa bệnh khoẻ người, khí sẽ dần dần

chuyển sang màu vàng. Luyện tiếp sẽ thật sự chữa bệnh khoẻ người, cũng không còn khí

nữa, tức là tiến nhập sang trạng thái 'nãi bạch thể'.

Như vậy cũng nói có khí là có bệnh. Chúng ta là người luyện công, luyện công ai còn

muốn khí làm gì? Bản thân tự mình cần tịnh hoá, cớ chi còn muốn khí dơ bẩn kia chứ!

Khẳng định là không cần. Người muốn khí cũng là ở trong tầng khí, ở tầng khí họ không

phân biệt được đâu là khí tốt, đâu là khí xấu, họ không có bản sự ấy. Còn khối chân khí ở

đan điền nơi thân thể chư vị thì họ không động đến được; chỗ nguyên khí ấy phải là người

có công phu cao mới có thể động đến được. [Còn] khí dơ bẩn kia trong thân thể, thì để họ

trộm lấy; có gì là quan trọng đâu. Khi tôi luyện công nếu muốn quán khí, chỉ cần nghĩ một

chút, một lúc bụng này sẽ đầy ngay.

Trộm khí

133

Đạo gia giảng thiên tự trang, Phật gia giảng ôm khí quán đỉnh; trong vũ trụ có [toàn

là] khí, chư vị có thể suốt ngày quán vào trong. Huyệt lao cung khai mở, huyệt bách hội đả

khai, chư vị quán vào trong, ý đặt đan điền, tay [bưng] khí vào trong, một lúc sẽ đầy thôi.

Chư vị dẫu có quán đầy đến mấy cũng có tác dụng gì đâu? Có người khi luyện khí luyện

rất nhiều, cảm thấy ngón tay trướng lên, thân thể trướng lên. Người khác đến bên, cảm

nhận thấy chung quanh [vị ấy] có một trường. 'Ái chà, bạn luyện công luyện tốt thật đấy'.

Tôi nói rằng chẳng là gì cả, hỏi công ở đâu? Vẫn là luyện khí thôi, khí nhiều đến mấy

cũng không thay thế được công. Mục đích luyện khí là lấy khí tốt bên ngoài giao hoán với

khí bên trong thân thể, là để tịnh hoá thân thể; hỏi giữ khí ấy để làm gì? Chư vị tại tầng ấy,

[khi] chưa có thay đổi về bản chất, [thì] nó cũng không phải là công. Chư vị trộm được

bao nhiêu đi nữa, chư vị bất quá chỉ là cái bao khí to; hỏi có tác dụng gì? Nó chưa chuyển

hoá hướng đến vật chất cao năng lượng. Do đó chư vị sợ gì, họ thật sự [muốn] trộm thì [để

họ] trộm.

Mọi người thử nghĩ coi, thân thể chư vị có khí là có bệnh. Như thế khi trộm khí,

chẳng phải cũng trộm luôn cả khí bệnh của chư vị có phải không? Họ hoàn toàn không

phân biệt được điều ấy, bởi vì người muốn khí cũng ở tại tầng khí này [thôi], họ chưa có

bản sự gì cả. Người có công sẽ không muốn khí, điều ấy là khẳng định. Không tin thì

chúng ta làm thí nghiệm, [nếu họ] thật sự muốn trộm khí thì chư vị đứng ở kia cho họ

trộm, một mặt chư vị nghĩ rằng đang quán khí vũ trụ vào trong, còn họ ở đằng sau trộm

khí. Chư vị sẽ thấy thật là tốt, thay cho chư vị [làm] tăng nhanh tịnh hoá thân thể, chư vị

đỡ khỏi phải xung quán xung quán. Bởi vì tâm mà họ xuất phát là xấu, muốn trộm lấy

những thứ của người khác, dẫu rằng là [trộm lấy] thứ không tốt, họ cũng đã phạm phải

việc tổn đức; do đó họ phải cấp đức cho chư vị. Nó hình thành một thứ đối lưu, một phía

lấy khí của chư vị, một phía cấp đức cho chư vị. Cá nhân lấy trộm khí ấy không hiểu biết;

nếu họ biết thế thì họ đã không dám làm!

Phàm là người trộm khí, sắc mặt đều xanh, đều là như vậy. Đến công viên luyện công,

rất nhiều người đều là để [bài trừ khí] bệnh, bệnh nào cũng có. Người ta khi trị bệnh, là

phải bài xuất ra; nhưng người trộm khí ngay cả bài xuất ra cũng không, mà lại [rước vào]

thân, khí bệnh nào cũng có; ngay cả trong thân thể cũng tối đen như mực. Họ cứ tổn đức

mãi, bên ngoài của họ cũng đen, trường nghiệp lực thật to lớn, đức tổn mất nhiều rồi, thì

bên trong bên ngoài cũng đen. Người trộm khí nếu biết rằng bản thân mình đã thay đổi

như thế, đang cấp đức cho người ta, đang làm công việc thật dại khờ như thế, thì họ đã

không làm như vậy.

Có người nói rất huyền [bí] về khí: 'Ông ở Mỹ, tôi phát khí ông có thể tiếp được; ông

đợi ở ngoài bức tường, tôi phát khí ông sẽ tiếp được'. Có người rất mẫn cảm, hễ phát khí

liền tiếp được ngay. Tuy nhiên khí ấy không truyền trong không gian này, nó dẫn ở không

gian khác; tại không gian khác kia ở đó không có bức tường. Vì sao có khí công sư ở chỗ

đất bằng phẳng phát khí, chư vị lại không cảm giác thấy gì? Ở không gian khác ấy có chỗ

gián cách; do vậy khí không có lực xuyên thấu to lớn như chúng ta giảng.

[Điều] thật sự có tác dụng cũng chỉ là công. Người luyện công khi có thể phát xuất

công, thì họ đã không còn khí nữa; phát xuất ra một loại vật chất cao năng lượng; dùng

thiên mục mà nhìn thì thấy là một loại ánh sáng. Phát đến thân của người khác, có một

cảm giác nóng bừng, trực tiếp có thể ước chế người thường. Tuy nhiên điều đó vẫn không

đạt đến mục đích trị bệnh hoàn toàn; chỉ phát huy tác dụng ức chế. Muốn thật sự trị bệnh

thì phải có công năng tồn tại; mỗi chủng bệnh có một chủng công năng tương ứng nhắm

vào. Ở mức cực vi quan, từng vi lạp của công, đều có hình tượng giống với cá nhân chư

vị. Chúng có khả năng nhận thức được người ta, đều có linh tính, là vật chất cao năng

lượng; người khác dẫu có trộm lấy đi, thì chúng liệu có thể ở lại đó hay không? Chúng sẽ

không ở đó, cũng không đặt lên được, [chúng] không phải là thứ của bản thân người ấy.

Trộm khí

134

Phàm là người luyện công chân chính, thì ai sau khi đã xuất hiện công đều có sư phụ quản;

sư phụ ở đó thấy chư vị đang làm gì; lấy những thứ của người ta, thì sư phụ của họ cũng

không chấp nhận.

Thu khí

'Trộm khí' và 'thu khí' không phải là những vấn đề mà chúng tôi phải giải quyết cho

chư vị khi truyền công tại cao tầng. [Mà] là vì tôi còn có một mục đích như thế này: khôi

phục danh tiếng của tu luyện, làm một số điều tốt, mà giảng rõ ra một số hiện tượng bất

lương; trước đây không có ai giảng. Nếu mọi người chúng ta đều biết về nó, thì những

người kia không thể mãi làm điều xấu nữa; một số người hễ [nói] đến những chân tướng

bất minh trong khí công là biến sắc cứ như thể là nói về cọp dữ vậy.

Khí vũ trụ thật là [nhiều], có người giảng khí thiên dương, khí địa âm. Chư vị cũng là

các phần tử trong vũ trụ, chư vị cứ thu [khí vũ trụ] đi. Tuy nhiên có người không thu khí

vũ trụ, họ chuyên môn dạy người ta thu khí của cây; còn tổng kết ra kinh nghiệm: khí cây

dương màu trắng, khí cây tùng màu vàng, rồi thu như thế nào, thu vào thời gian nào. Cũng

có người nói: 'Trước nhà tôi có cái cây, tôi đã thu khí của nó làm nó chết rồi'. Bản sự ấy

được tính là gì đây? Đó chẳng phải làm điều xấu là gì? Như mọi người đã biết, chúng ta tu

luyện chân chính, [chúng ta] chú trọng các tín tức có tính lương [thiện], chú trọng đến việc

đồng hoá với đặc tính vũ trụ; chư vị chẳng phải nói về vấn đề Thiện là gì? Đồng hoá với

đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ, phải chú trọng Thiện. Chư vị cứ làm điều xấu liệu

có thể tăng công hay không? Có thể hết bệnh không? Chẳng phải hoàn toàn tương phản

với người tu luyện chúng ta là gì? Đó cũng là sát sinh làm điều xấu! Có lẽ cũng có người

nói: 'Thầy càng giảng càng huyền [hoặc], giết động vật là sát sinh, mà giết thực vật cũng

là sát sinh'. Thực ra đúng như vậy đấy, trong Phật giáo giảng lục đạo luân hồi; trong lục

đạo luân hồi chư vị có thể biến thành thực vật; trong Phật giáo [giảng] như thế. Tại đây

chúng tôi không giảng như vậy. Nhưng chúng tôi nói với mọi người, cây cũng là sinh

mệnh; không chỉ là sinh mệnh, mà còn có hoạt động tư duy rất cao.

Ví dụ: có một vị ở Mỹ chuyên làm các nghiên cứu điện tử, dạy người ta dùng máy dò

nói dối. Một hôm vị này có hứng khởi bèn tức thời nối hai cực của máy dò nói dối lên một

cây ngưu thiệt lan hoa, rồi tưới nước vào chỗ gốc cây hoa, sau đó vị này phát hiện rằng bút

điện tử của máy dò nói dối lập tức vẽ một đường cong. Đường cong ấy chính là tương

đồng với loại đường cong mà đại não của người ta trong một thời gian ngắn hưng phấn,

cao hứng mà sinh ra. Lúc đó vị này sửng sốt, thực vật có cảm tình là sao! Vị ấy dường như

muốn chạy ra đường cái mà hô lớn: 'thực vật cũng có cảm tình'. Khởi phát từ sự việc đó,

vị ấy mau chóng triển khai nghiên cứu theo phương diện này, đã làm rất nhiều thực

nghiệm.

Có một lần, vị này đặt hai cái cây với nhau, rồi bảo học sinh của mình dẫm đạp một

cái cây trước mặt cái cây kia, dẫm đạp cho chết đi. Sau đó đưa cái cây kia vào phòng, nối

vào máy dò nói dối; rồi bảo năm em học sinh lần lượt đi từ ngoài vào. Bốn em học sinh

đầu đi vào, không có phản ứng gì cả. Đến khi học sinh thứ năm vốn đã dẫm đạp cây nọ

bước vào, thì [em này] còn chưa kịp tiến đến, bút điện tử đã lập tức vẽ nên một đường

cong; khi người ta sợ hãi mới có thể vẽ xuất ra đường cong như thế. Vị này kinh ngạc quá!

Sự việc ấy đã minh chứng một vấn đề rất lớn: chúng ta xưa nay vẫn nhìn nhận rằng con

người là sinh mệnh cao cấp, con người có khả năng cảm quan, có thể nhận thức phân biệt,

có đại não, có thể phân tích. Còn thực vật cớ chi [có thể] nhận thức phân biệt được, nó

không có giác quan kia mà? Trong quá khứ ai mà nói rằng thực vật có cảm quan, có tư

duy, có cảm tình, có thể nhận thức được con người, thì người ta bèn nói là mê tín. Mà

không chỉ có vậy, về một số phương diện [thực vật] dường như còn vượt trội hơn cả con

người chúng ta hôm nay.

Thu khí

135

Có một hôm vị kia nối máy dò nói dối vào một cái cây, sau đó vị ấy nghĩ: 'Làm thí

nghiệm nào đây nhỉ? Mình đốt thử cái lá của nó xem, xem xem có phản ứng nào nhé'. Vị

ấy vừa suy nghĩ như vậy, chưa có đốt, mà bút điện tử đã mau chóng vẽ ra một đường

cong, chính là khi con người kêu cứu mạng mới có thể vẽ ra đường cong như vậy. Công

năng siêu cảm loại này, quá khứ gọi là tha tâm thông, là một tiềm năng, bản năng của con

người; tuy nhiên nhân loại ngày nay đều đã thoái hoá, chư vị cần phải tu luyện từ đầu,

phản bổn quy chân, phản hồi về bản tính tiên thiên của chư vị, thì chư vị mới có thể có

được nó. Vậy mà [thực vật] đã có rồi, chư vị nghĩ gì nó liền biết, nghe vậy thật là huyền

[hoặc], nhưng đó là những thí nghiệm khoa học hết sức thực tại. Vị này đã làm các thí

nghiệm, còn có công năng dao khống từ cự ly xa. Luận văn của vị ấy sau khi công bố ra,

toàn thế giới rất chấn động.

Các nhà nghiên cứu thực vật tại các quốc gia đều đang triển khai nghiên cứu theo

phương diện này, ở nước ta cũng có làm; điều ấy đã không còn là thứ gì mê tín nữa. Hôm

rồi tôi đã giảng một câu, rằng những gì phát sinh, phát minh và phát hiện nơi nhân loại

chúng ta hôm nay đã đủ để cải biến sách giáo khoa hiện nay của chúng ta rồi. Nhưng do

ảnh hưởng của quan niệm truyền thống, người ta không muốn thừa nhận nó, và cũng chưa

có ai chỉnh lý một cách có hệ thống những điều ấy.

Ở một công viên ở [tỉnh] Đông Bắc, tôi thấy một đám cây tùng đã chết gục. Không

biết được một số người kia luyện là luyện thứ gì, lăn lộn khắp đất, lăn lộn xong rồi, chân

thu [khí] thế này, tay thu [khí] thế kia, và sau một thời gian không lâu đám cây tùng ấy

vàng [úa] rồi chết cả. Chư vị đang làm việc tốt hay xấu đây? Đứng tại góc độ người luyện

công chúng ta mà xét, ấy là sát sinh. Chư vị là người luyện công thì chư vị cần phải làm

người tốt, dần dần đồng hoá với đặc tính vũ trụ, bỏ những thứ không tốt của mình. Còn

nếu đứng tại góc độ người thường mà xét, [đó] cũng không phải làm việc tốt, mà là phá

hoại của công, phá hoại cây xanh, phá hoại cân bằng sinh thái; đứng tại góc độ nào mà

giảng cũng thấy không phải việc tốt. Khí trong vũ trụ thật là [nhiều], chư vị cứ thu thôi có

sao đâu. Có người có năng lượng rất lớn, sau khi luyện đến một tầng nhất định, thì thật sự

huơ tay một cái là khí của cả một vùng thực vật lớn lập tức thu được ngay. Nhưng bất quá

chỉ là khí, thu nhiều đến mấy thì đã sao? Có người đến công viên không làm điều gì khác,

họ nói: 'Tôi không cần luyện công, tôi vừa đi vừa thu [khí] là được rồi, tôi luyện thế là

xong rồi. Đắc khí là được rồi.' Họ tưởng rằng khí là công. Người ta đến gần vị này, cảm

thấy thân thể vị ấy ơn ớn lạnh. Khí thực vật ấy chẳng phải âm tính là gì? Người luyện

công giảng âm dương cân bằng; thân thể vị ấy toàn là mùi dầu cây tùng, mà vẫn tưởng

rằng bản thân mình luyện tốt ghê lắm.

Ai luyện công thì đắc công

Vấn đề 'ai luyện công ai đắc công'1 là một vấn đề cực kỳ then chốt. [Khi] người khác

hỏi tôi rằng Pháp Luân Đại Pháp có chỗ nào hay, tôi nói rằng Pháp Luân Đại Pháp có thể

đạt được 'công luyện người', thu ngắn thời gian luyện công; có thể giải quyết vấn đề

không có thời gian luyện công, nhưng vẫn được luyện công một cách trường kỳ. Đồng

thời chúng ta cũng là công pháp tính mệnh song tu chân chính, sự biến hoá thân thể vật

chất này của chúng ta sẽ rất to lớn. Pháp Luân Đại Pháp còn có một chỗ tốt lớn nhất, trước

đây tôi chưa từng giảng, chỉ có hôm nay tôi mới giảng xuất lai. Bởi vì nó liên quan đến

vấn đề rất to lớn trong lịch sử xa xưa, cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến giới tu luyện;

trong lịch sử từ xưa đến nay chưa có ai dám chỉ ra, và cũng không cho phép họ chỉ ra;

nhưng tôi không thể không giảng [điều này].

Có đệ tử nói: 'Mỗi lời của Đại Sư Lý Hồng Chí đều là thiên cơ, là tiết lộ thiên cơ'.

Tuy nhiên chúng tôi thật sự đưa người lên cao tầng, chính là độ nhân. Phải chịu trách

1Thuỳ luyện công thuỳ đắc công: (i) ai luyện công ai đắc công; (ii) ai luyện công người ấy đắc công.Ai luyện công thì đắc công

136

nhiệm đối với mọi người, có thể gánh chịu trách nhiệm ấy, do đó không phải là tiết lộ

thiên cơ. Còn không chịu trách nhiệm mà nói thuyết tuỳ tiện thì chính là tiết lộ thiên cơ.

Hôm nay chúng tôi nói ra vấn đề này: chính là vấn đề ai luyện công ai đắc công. Theo tôi

thấy thì tất cả các công pháp hiện nay, bao gồm cả [công pháp] Phật gia, Đạo gia và Kỳ

Môn công pháp từ lịch sử đến nay đều tu luyện phó nguyên thần (phó ý thức) của người

ta, đều là phó nguyên thần đắc công. Chúng tôi ở đây giảng về chủ nguyên thần, chính là

tư duy của bản thân mình, tự mình nếu biết rõ mình đang suy nghĩ gì, thực hiện gì, đó

chính là bản thân mình thực sự. Còn phó nguyên thần làm những gì thì chư vị hoàn toàn

không hay biết. Tuy nó và chư vị đồng thời xuất sinh, gọi bằng cùng một tên, làm chủ một

thân thể, lớn lên cùng dạng như nhau; nhưng nói một cách chặt chẽ thì nó không phải chư

vị.

Trong vũ trụ có [Pháp] lý: rằng ai mất thì được, ai luyện công thì đắc công. Các công

pháp trong lịch sử đều dạy người ta khi luyện công phải mơ mơ tỉnh tỉnh, không suy nghĩ

gì hết, sau đó nhập định thâm sâu, định đến mức rốt cuộc bản thân mình không còn biết gì

nữa. Có người đả toạ ba giờ đồng hồ tựa như trong nháy mắt; người khác còn khâm phục

định lực của họ. Thực ra họ đã luyện hay chưa luyện? Bản thân họ hoàn toàn không biết.

Đặc biệt công pháp Đạo gia giảng: 'thức thần tử nguyên thần sinh'. 'Thức thần' mà họ nói

chính là 'chủ nguyên thần' mà chúng ta đề cập đến; còn 'nguyên thần' mà họ nói chính là

cái mà chúng ta gọi là 'phó nguyên thần'.[Nếu] 'thức thần' thật của chư vị mà chết, thì

chư vị thực sự đã chết rồi, chủ nguyên thần thật sự không còn nữa. Có người luyện công

pháp khác nói với tôi: 'Thưa Thầy, khi con luyện công, con không nhận ra ai ở nhà con

nữa'. Còn có người nói với tôi: 'Con không giống như người ta luyện công thức khuya dậy

sớm, con về nhà ngả lưng một cái, bản thân con liền xuất ra luyện công; con nằm đó xem

con xuất ra luyện công'. Tôi thấy rằng như thế thật đáng buồn; nhưng cũng không đáng

buồn!

Vì sao người ta độ phó nguyên thần? Lã Động Tân có câu: 'Ta thà độ động vật còn

hơn độ nhân'. Thực ra con người rất khó ngộ; bởi vì người thường chịu nhận chỗ mê của

xã hội người thường, khi lợi ích hiện thực trước mắt liền không vứt bỏ cái tâm ấy được.

Chư vị không tin [ư]; có người nghe xong bài giảng ra khỏi lễ đường, liền biến thành

người thường; ai gây [sự] với họ, đụng phải họ, họ liền không chịu. Qua một giai đoạn

thời gian, hoàn toàn không còn coi bản thân mình là người luyện công nữa. Rất nhiều

người tu Đạo trong lịch sử đều thấy rõ điểm này; con người rất khó độ, chính vì chủ

nguyên thần của con người mê quá rồi. Có người ngộ tính tốt, [nói] một chút là thấu

[hiểu]. Một số người có giảng thế nào họ cũng không tin, họ cho rằng chư vị nói phóng

đại. Chúng tôi bảo họ tu luyện tâm tính như thế, nhưng họ hễ đến chốn người thường liền

muốn sao làm vậy. Họ cho rằng những lợi ích rất thiết thực, động chạm đến được, đạt

được nơi người thường mới là lợi ích thiết thực, còn phải đắc những thứ ấy. Pháp mà Sư

phụ giảng, nghe thì thấy có đạo lý, nhưng không thực hiện nổi. Chủ nguyên thần con

người khó độ nhất, nhưng phó nguyên thần có thể thấy cảnh tượng không gian khác. Nên

người ta nghĩ: 'Ta hà tất phải độ chủ nguyên thần của ngươi, [phó nguyên thần] cũng là

ngươi, ta độ nó cũng vậy phải không? Đều là ngươi mà, ai đắc mà chả là đắc, đều là ngươi

đắc'.

Tôi giảng phương pháp tu luyện cụ thể của họ. Ai có công năng dao thị, có thể thấy

một cảnh tượng như thế này: chư vị hễ đả toạ, chư vị liền thấy rằng vào đúng tích tắc chư

vị định lại được, thì "vèo" một cái từ trong thân thể chư vị xuất ra một chư vị khác giống

hệt chư vị. Tuy nhiên chư vị phân biệt được đâu là tự ngã? [Chính là] đang ngồi ở đây

thôi. Chư vị thấy rằng sau khi nó xuất ra, sư phụ liền đưa nó đi tu luyện tại một không gian

mà sư phụ diễn hoá ra; cũng có thể là hình thức xã hội quá khứ, cũng có thể là hình thức

xã hội hiện tại, cũng có thể là hình thức xã hội không gian khác; [sư phụ] dạy nó luyện

Ai luyện công thì đắc công

137

công; nó chịu khổ không ít, mỗi ngày một, hai giờ đồng hồ. Người ta luyện công xong

quay trở về, thì chư vị cũng liền xuất định; đó là [những ai] có thể nhìn thấy được.

Nếu [chư vị] không nhìn thấy [được gì] thì càng đáng buồn hơn, chả biết gì cả; mơ

mơ màng màng trong hai giờ đồng hồ rồi xuất định. Có người ngủ, ngủ liền một mạch hai

ba tiếng đồng hồ; họ tính rằng như thế là luyện công xong; hoàn toàn giao cấp cho người

ta. Đó là hoàn thành có tính gián tiếp, mỗi ngày [xếp bằng] đả toạ lâu ngần ấy. Còn có

[loại] hoàn thành trong một lần; có thể mọi người đều đã nghe Đạt Ma quay mặt vào vách

9 năm; trong quá khứ có nhiều tăng nhân ngồi liền mấy thập kỷ; lịch sử có chép lâu nhất

hơn 90 năm; còn có [vị] lâu hơn, bụi bám dày trên mắt, cỏ mọc khắp thân, mà vẫn còn

ngồi tại nơi ấy. Đạo gia cũng giảng điều này, đặc biệt là một số Kỳ Môn công pháp giảng

ngủ, ngủ một mạch liền mấy chục năm mới xuất định, không tỉnh. Tuy nhiên ai luyện đây?

Phó nguyên thần của họ đã xuất ra và luyện, nếu như họ có thể thấy thì liền nhìn thấy sư

phụ mang theo phó nguyên thần đi luyện. Phó nguyên thần cũng nợ nghiệp lực rất lớn, sư

phụ không có bản sự tiêu trừ chỗ nghiệp lực ấy. Do đó bảo nó rằng: ngươi ở đây luyện

công cho tốt, ta đi nơi khác một chuyến, rồi sau sẽ quay lại, ngươi hãy đợi ta.

Sư phụ biết rõ chuyện gì sẽ xảy đến, [nhưng] cũng phải làm vậy. Kết quả là ma đến

doạ nạt nó, hoá thành mỹ nữ dẫn dụ nó, chuyện gì cũng có. Nhưng rồi thấy rằng nó thật sự

không động tâm, bởi vì phó nguyên thần tương đối dễ tu hơn, nó có thể biết được chân

tướng. Con ma ấy nóng mắt liền muốn giết nó, để giải hận báo thù, đã thật sự giết nó, lập

tức món nợ hoàn trả xong. Bị giết xong phó nguyên thần liền phiêu đãng bay ra, như một

làn khói xuất ra. Rồi chuyển sinh, thác sinh vào một gia đình bần cùng. Từ bé đã chịu khổ;

đến khi lớn đến lúc có thể hiểu biết được sự việc thì sư phụ đến; tất nhiên nó không nhận

ra. Sư phụ dùng công năng khai mở phần tư duy tồn trữ trong nó, lập tức [nó nhớ] nghĩ ra

ngay: chẳng đúng sư phụ là gì? Sư phụ nói với nó: hiện giờ tốt rồi, có thể luyện rồi. Như

vậy trải qua bao nhiêu năm, sư phụ đem những điều này khác truyền lại cho nó.

Truyền xong sư phụ lại bảo nó: ngươi còn rất nhiều tâm chấp trước cần phải bỏ, ngươi

hãy trở ra đi vân du. 'Vân du' rất khổ, bước đi ngoài xã hội, phải xin ăn, gặp các loại

người, giễu cợt nó, nhục mạ nó, khinh nhờn nó, các sự tình đủ loại đều sẽ gặp phải. Nó coi

bản thân là người luyện công, dàn xếp tốt quan hệ với người ta, giữ vững tâm tính, không

ngừng đề cao tâm tính, những dụ dỗ từ các loại lợi ích nơi người thường đều không làm nó

động tâm; trải qua bao nhiêu năm vân du nó quay trở lại. Sư phụ nói: ngươi đã đắc Đạo

rồi, viên mãn rồi. Nếu không còn việc gì, thì ngươi trở về chuẩn bị rời đi; nếu còn việc gì,

thì ngươi hãy hoàn tất sự việc ấy nơi người thường đi. Như vậy sau bao nhiêu năm, phó ý

thức đã trở về; nó vừa trở về, thì bên này chủ nguyên thần cũng liền xuất định, chủ ý thức

tỉnh ngủ.

Tuy nhiên họ xác thực chưa hề tu luyện, phó nguyên thần của người ta đã tu luyện, do

đó phó nguyên thần đắc công. Tuy nhiên chủ nguyên thần cũng khổ, dù sao thì toàn bộ

[tuổi] thanh xuân của họ đã ngồi ở nơi ấy rồi, thời gian người thường đã qua đi rồi. Vậy

giải quyết sao đây? Họ cảm thấy rằng khi xuất định thì công mà mình luyện đã đến, đã có

công năng rồi, họ muốn trị bệnh, muốn làm gì liền có thể làm nấy, phó nguyên thần sẽ làm

họ thoả mãn. Bởi vì rốt cuộc thì họ là chủ nguyên thần, chủ nguyên thần làm chủ thân thể,

là [người] quyết định. Hơn nữa ở bên này họ đã ngồi đây, một đời đã trôi qua rồi. Đến khi

trăm tuổi [lâm chung] thì phó nguyên thần rời đi, [đường] ai nấy đi. Theo Phật giáo giảng,

họ vẫn phải nhập lục đạo [luân hồi]. Bởi vì trong thân của họ đã tu xuất một Đại Giác Giả,

nên họ đã tích được đại đức, vậy sẽ sao đây? Có thể vào đời tiếp họ sẽ làm quan lớn, phát

tài lớn. Cũng chỉ có thể như vậy thôi, đó chẳng phải tu mà như không ư?

Sự việc này chúng tôi giảng xuất ra, cũng là phải mất bao nhiêu phí tổn mới được

đồng ý giảng. Tôi đã chỉ ra chỗ mê từ thiên cổ, bí mật trong những bí mật tuyệt đối không

thể giảng, chỉ ra căn bản của các loại phương pháp tu luyện trong tu luyện lịch sử. Chẳng

Ai luyện công thì đắc công

138

phải tôi đã giảng rằng [nó] liên quan đến lịch sử uyên nguyên rất thâm sâu hay sao? Chính

là nguyên nhân ấy. Chư vị thử nghĩ, hỏi gia nào, môn nào mà không tu luyện như thế? Bản

thân chư vị tu tới tu lui mà chư vị không có công, chư vị chẳng đáng buồn lắm ư! Nhưng

biết oán ai đây? Con người mê đến mức như thế, không ngộ, điểm hoá thế nào cũng không

được. Nói cao thì nghe thấy huyền [hoặc] quá, nói thấp thì ngộ không lên được. Tôi đã

thuyết [giảng] thế này, mà còn có người bảo tôi trị bệnh cho họ, tôi thật sự không biết nói

sao. Chúng tôi giảng tu luyện, tu luyện lên cao tầng thì [tôi] mới có thể quản.

Pháp môn này của chúng tôi là chủ ý thức đắc công; vậy nói là chủ ý thức đắc công

liền được chủ ý thức đắc công? Ai cho phép? Không phải thế, nó cần phải có điều kiện

tiên quyết. Như mọi người đã biết, pháp môn này của chúng tôi không tránh né xã hội

người thường [rồi mới] đi tu luyện, không tránh, không trốn tránh mâu thuẫn; ngay trong

hoàn cảnh người thường phức tạp này, chư vị tỉnh táo rõ ràng, hết sức minh bạch chịu thiệt

thòi tại các vấn đề lợi ích vật chất; khi bị người khác lấy mất lợi ích thiết thân, chư vị

không giống như người ta mà tranh mà đấu; trong các can nhiễu tâm tính, chư vị chịu thiệt

thòi; trong hoàn cảnh gian khổ như thế chư vị 'ma luyện' ý chí của mình, đề cao tâm tính

của mình; khi có ảnh hưởng của các tư tưởng bất hảo của người thường, chư vị có thể siêu

thoát xuất lai.

Mọi người thử nghĩ xem, [người] chịu khổ một cách minh bạch chẳng đúng là chư vị,

[người] phó xuất chẳng đúng là chủ nguyên thần của chư vị, khi mất đi những thứ tại

người thường, chẳng phải chư vị chịu mất một cách minh bạch đúng không? Công ấy nên

để chư vị được, ai mất thì được. Do đó đây chính là nguyên nhân vì sao pháp môn này của

chúng ta, không hề thoát ly hoàn cảnh phức tạp này nơi người thường để thực hành tu

luyện. Vì sao chúng ta phải tu luyện trong mâu thuẫn người thường? Bởi vì chúng ta muốn

bản thân mình đắc công. Các đệ tử chuyên tu tu luyện tại các chùa trong tương lai cũng

phải vân du nơi người thường.

Một số người nói: các công pháp hiện nay cũng luyện tại người thường thì sao?

Nhưng đó chỉ là phổ cập chữa bệnh khoẻ người thôi; tu luyện lên cao tầng một cách chân

chính thì ngoài việc đơn truyền ra không có ai truyền công khai hết. [Ai] thật sự đưa đồ đệ

[lên cao tầng], đã đưa đồ đệ đi rồi, truyền dạy riêng mà thôi. Trong bao nhiêu năm, ai

giảng những thứ ấy cho quần chúng trên diện rộng? Không ai giảng cả. Pháp môn chúng

tôi giảng như vậy, bởi vì chúng ta chính là tu luyện như thế, chính là đắc công như thế.

Đồng thời không chỉ hàng nghìn hàng vạn thứ [cần] được cấp trong môn này của chúng

tôi, đã cấp toàn bộ cho chủ nguyên thần của chư vị, thật sự để bản thân chư vị đắc công.

Tôi nói rằng tôi đã làm điều mà người xưa từ trước đến nay chưa từng làm, đã mở cánh

cửa [rộng] lớn nhất. Những lời này của tôi có người nghe và hiểu rõ, những điều tôi giảng

thật sự không huyền [hoặc] chút nào. Cá nhân tôi có thói quen, nếu tôi có một trượng, [thì]

tôi chỉ nói một thước, mà chư vị đã cho rằng tôi thổi phồng lên quá. Thực ra đó mới chỉ

nói một chút đó thôi; vì sự chênh lệch quá lớn về tầng nên Đại Pháp cao thâm hơn nữa tôi

không thể giảng chút gì cho chư vị.

Pháp môn này của chúng tôi tu luyện đúng là như thế, để chính bản thân chư vị thật

sự đắc công; đây là lần đầu tiên từ khi khai thiên tịch địa; chư vị có thể tra lại trong lịch

sử. [Nó] rất tốt là bản thân chư vị đắc công, nhưng cũng rất khó khăn. Tại hoàn cảnh phức

tạp nơi người thường, trong ma sát giữa người với người, chư vị có thể thực sự vượt lên,

ấy là điều khó khăn nhất. Khó là khó ở chỗ chư vị chịu thiệt thòi một cách minh bạch rõ

ràng nơi lợi ích người thường, với lợi ích thiết thân [bày] trước mắt, chư vị có bất động

tâm hay không; khi đấu tranh lục đục giữa người với người, chư vị có bất động tâm hay

không; khi bạn bè thân quyến gặp chuyện thống khổ, chư vị có bất động tâm hay không,

chư vị nhìn nhận sự việc như thế nào đây; làm người luyện công khó khăn như vậy đấy!

Có một người nói với tôi: 'Thưa Sư phụ, làm người tốt nơi người thường là được rồi, ai tu

Ai luyện công thì đắc công

139

nổi lên trên được chứ?' Tôi nghe thấy thật thương tâm! Và không nói gì với vị ấy cả. Tâm

tính các dạng đều có, họ có thể ngộ cao đến đâu thì ngộ cao đến đó; ai ngộ ra thì người ấy

đắc được.

Lão Tử đã nói: 'Đạo, khả Đạo, phi thường Đạo'. Như thế [cái gì] có nhiều đầy đất

nhặt lên là tu thành ngay, thì nó không trân quý. Pháp môn này của chúng tôi cho phép

chư vị đắc công trong mâu thuẫn; do đó chúng ta phải phù hợp tối đa với người thường,

còn về vật chất cũng không thật sự để chư vị mất mát gì cả. Tuy nhiên trong hoàn cảnh vật

chất ấy chư vị phải đề cao tâm tính. Thuận tiện cũng là thuận tiện ở chỗ này, pháp môn

chúng tôi là thuận tiện nhất, có thể tu luyện nơi người thường, không cần xuất gia. Và khó

nhất cũng chính là khó ở chỗ này, tu luyện trong hoàn cảnh người thường phức tạp nhất.

Nhưng [điểm] tốt nhất chính là tốt ở chỗ này, bởi vì nó cho phép [chính] bản thân chư vị

đắc công; đây là điểm then chốt bậc nhất nơi pháp môn này của chúng ta, hôm nay tôi đã

giảng rõ cho mọi người. Tất nhiên, [khi] chủ nguyên thần đắc công, [thì] phó nguyên thần

cũng đắc công; tại sao? Hết thảy các tín tức, hết thảy các linh thể của thân thể chư vị và

các tế bào của chư vị đều tăng công, thì tất nhiên [phó nguyên thần] cũng tăng công. Tuy

nhiên lúc nào nó cũng không cao bằng chư vị; chư vị là Chủ, nó là hộ Pháp.

Giảng đến đây, tôi còn muốn nói một câu. Trong giới tu luyện chúng ta có không ít

người như thế này: luôn luôn mong muốn tu luyện lên cao tầng. Đi khắp nơi cầu Pháp,

tiêu tốn không ít tiền, núi nam bể bắc đều đã tới, đi tìm danh sư mà không gặp. Có danh

tiếng không nhất định là có minh bạch. Kết quả phí công chu du các nơi, mệt thân tốn tiền,

không đắc được gì cả. Công pháp tốt như thế này, hôm nay chúng tôi đã cấp cho chư vị,

chúng tôi đã bưng đến tận nơi cho chư vị, đặt đến cổng nhà cho chư vị. Chính là để xem

chư vị có thể tu được hay không, có thể hành được hay không. Nếu chư vị có thể [thực]

hành được, thì chư vị tu; còn nếu chư vị không hành được, nếu chư vị không tu được, thì

từ giờ trở đi chư vị chớ nghĩ đến tu luyện nữa. Ngoại trừ ma lừa đảo chư vị ra sẽ không ai

dạy chư vị nữa; từ nay trở đi chư vị đừng tu nữa. Nếu tôi không độ được chư vị, thì không

ai độ chư vị được đâu. Thực ra hiện nay muốn tìm sư phụ chính Pháp chân chính để dạy

chư vị, còn khó hơn lên trời; hoàn toàn không còn ai quản nữa. Vào thời kỳ mạt Pháp, tại

tầng rất cao đang ở trong mạt kiếp, càng không thể quản người thường được nữa. Đây là

pháp môn thuận tiện nhất rồi, hơn nữa tu luyện trực tiếp chiểu theo đặc tính vũ trụ, tu

nhanh nhất tắt nhất rồi, trực chỉ nhân tâm.

Chu thiên

Trong Đạo gia giảng đại chu thiên tiểu chu thiên; chúng tôi sẽ giảng một chút chu

thiên là gì. Chu thiên mà chúng ta bình thường nói đến là nối vòng hai mạch nhâm đốc

[mà thành], chu thiên ấy chỉ là chu thiên vỏ ngoài nông cạn, không đáng kể gì cả, chỉ là

thứ chữa bệnh khoẻ người thôi; gọi là tiểu chu thiên. Còn một loại chu thiên nữa, không

gọi là tiểu chu thiên cũng không gọi là đại chu thiên, [nó] là hình thức chu thiên tu luyện

trong thiền định. Nó từ trong thân thể, từ nê hoàn chạy quanh một vòng rồi đi xuống, ở

trong thân thể cho đến đan điền chuyển quanh một vòng rồi đi lên; tuần hoàn nội tại; đó là

chu thiên chân chính tu luyện khi thiền định. Sau khi chu thiên loại này hình thành rồi

cũng sẽ hình thành một dòng năng lượng rất mạnh mẽ, sau đó 'nhất mạch đới bách mạch',

làm cho các mạch khác đều khai mở theo. Đạo gia giảng chu thiên, Phật giáo không giảng

chu thiên. Phật giáo giảng điều gì? Khi Thích Ca Mâu Ni truyền bộ Pháp của mình đã

không giảng công, không hề giảng công; tuy nhiên công Pháp của Ông cũng có hình thức

diễn hoá [trong] tu luyện. Mạch trong Phật giáo chạy theo hướng nào? Bắt đầu từ huyệt

bách hội bên trên thông thấu, sau đó phát triển từ đỉnh đầu xuống thân thể theo hình xoáy

ốc, rốt cuộc cũng là thông qua hình thức ấy làm cho trăm mạch khai mở theo.

Chu thiên

140

'Trung mạch' trong Mật tông cũng có mục đích ấy. Có người nói rằng không có trung

mạch; vậy tại sao Mật tông có thể tu luyện xuất ra trung mạch? Thực ra tất cả các mạch

trên thân thể gộp hết cả lại, có trên vạn mạch, tương tự như huyết quản ngang dọc nối vào

nhau; còn có nhiều hơn cả huyết quản. Các chỗ trống của nội tạng không có huyết quản,

nhưng [vẫn] có mạch. Từ đỉnh đầu cho đến các vị trí trong thân thể cũng có các mạch lạc1

ngang dọc giao nhau, tiếp nối tất cả chúng gộp lại, ban đầu có thể là không thẳng, liên kết

lại đả thông. Sau đó dần dần nới rộng ra, dần dần hình thành một mạch thẳng. Lấy mạch

ấy làm cái trục tự [xoay] chuyển, kéo theo một số bánh xe trong ý niệm xoay chuyển theo

chiều ngang; mục đích cũng là làm tất cả các mạch trong thân thể kéo theo khai mở toàn

bộ.

Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp chúng ta tránh hình thức 'nhất mạch đới bách mạch'

ấy; ngay lập tức yêu cầu trăm mạch đồng thời khai mở, trăm mạch đồng thời vận chuyển.

Chúng ta ngay lập tức đứng tại tầng rất cao luyện [công], tránh những thứ tại [tầng] rất

thấp. [Nếu theo cách] nhất mạch đới bách mạch, chư vị nếu muốn khai mở tất cả, thì có

người luyện cả một đời vẫn còn khó đạt; có người phải tu luyện cả mấy chục năm, rất khó

khăn. Trong rất nhiều công pháp giảng rằng một đời vẫn chưa tu thành được, có nhiều

người tu luyện trong các Đại Pháp cao thâm có thể kéo dài thọ mệnh; chẳng phải họ giảng

tu mệnh là gì? Có thể kéo dài thọ mệnh mà tu luyện, tu liên tục thời gian rất lâu dài.

Về cơ bản tiểu chu thiên chỉ là chữa bệnh khoẻ người, còn đại chu thiên chính là

luyện công, đã là tu luyện chân chính rồi. Đại chu thiên mà Đạo gia nói đến không mạnh

mẽ như của chúng ta, trăm mạch toàn bộ đánh thông hết. Của họ là một số mạch vận

chuyển, ba mạch âm ba mạch dương nơi tay, dưới chân, hai bắp chân đến đầu [tóc], chạy

khắp thân thể một lượt, vậy được tính là vòng tuần hoàn đại chu thiên. Hễ đại chu thiên

bắt đầu [chuyển] là luyện công thật sự rồi đó, do vậy một số khí công sư không truyền

[dạy] đại chu thiên; điều họ truyền chỉ là những điều chữa bệnh khoẻ người thôi. Một số

người cũng giảng về đại chu thiên, nhưng họ không cài gì cho chư vị, chư vị tự mình

không đánh thông ra được. Không cài gì cả, bản thân dựa vào ý niệm muốn khai mở, nói

sao dễ vậy! Chỉ giống như tập thể thao, liệu có thể khai mở được không? Tu tại tự kỷ,

công tại sư phụ, những "cơ chế" nội tại cấp hết rồi cài cho chư vị thì mới có thể có tác

dụng như vậy.

Xưa nay Đạo gia vẫn coi thân thể con người là tiểu vũ trụ, họ cho rằng vũ trụ bên

ngoài lớn ngần nào, thì bên trong lớn ngần ấy, bên ngoài như thế nào, thì bên trong như

thế ấy. Điều này giảng ra thật khó tin quá, không dễ mà lý giải cho được. Vũ trụ này to lớn

nhường ấy, đem so sánh với thân thể người là sao? Chúng tôi giảng đạo lý này: vật lý học

chúng ta hiện nay nghiên cứu các thành phần vật chất, từ phân tử, nguyên tử, điện tử,

proton, quark cho đến neutrino; nhưng [kích thước] xuống đến dưới nữa thì thế nào?

[Mới] đến đó mà kính hiển vi đã không thấy được rồi, xuống nữa cho đến vi lạp nhỏ nhất

là gì? Không biết. Thực ra một chút xíu mà vật lý học hiện nay chúng ta hiểu biết được

còn xa lắm lắm mới đến được vi lạp nhỏ nhất của vũ trụ. Lúc con người không mang tròng

mắt thịt này, thì con mắt của người ta nhìn mọi thứ có thể có tác dụng phóng đại, có thể

thấy được [mức] vi quan. Tầng càng cao, thì nhìn thấy được vi quan càng lớn hơn.

Thích Ca Mâu Ni tại tầng ấy, Ông đã giảng học thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tức

là trong hệ Ngân Hà này, cũng tồn tại những người có sắc thân giống như nhân loại chúng

ta. [Ông] còn giảng học thuyết rằng một hạt cát cũng bao hàm tam thiên đại thiên thế giới,

[điều ấy] phù hợp với nhận thức của vật lý học chúng ta hiện nay. Hình thức chuyển động

của điện tử xoay quanh hạt nhân nguyên tử và trái đất chuyển động xoay quanh mặt trời có

gì khác nhau? Do đó Thích Ca Mâu Ni đã giảng, rằng tại mức vi quan, trong một hạt cát

có tam thiên đại thiên thế giới, nó cũng tương tự như một vũ trụ này, trong đó có sinh

1Nói chung về các đường mạch-kinh-lạc trong thân thể.Chu thiên

141

mệnh có vật chất. Nếu như đó là lời chân thật, mọi người thử nghĩ xem thế giới bên trong

hạt cát ấy lại có hạt cát nữa phải không, như thế hạt cát ở bên trong hạt cát ấy lại cũng có

tam thiên đại thiên thế giới có phải không? Như vậy thế giới bên trong hạt cát ở bên trong

hạt cát ấy cũng lại có hạt cát nữa phải không? Cứ truy mãi xuống như thế thì vô cùng vô

tận. Do đó Thích Ca Mâu Ni đạt đến tầng Như Lai như vậy, Ông đã giảng một câu như thế

này: "Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội". Đại, không thấy được biên của vũ trụ; tiểu, không

thấy được vật chất bản nguyên nhỏ bé nhất rốt ráo là gì.

Có khí công sư giảng: trong lỗ chân lông có thành phố, trong đó có xe lửa, xe hơi

đang chạy. Nghe vậy huyền [hoặc] lắm; tuy nhiên chúng ta đứng tại góc độ khoa học mà

thực sự lý giải, mà nghiên cứu, thì phát hiện rằng nói như thế không có gì là huyền [hoặc]

cả. Hôm rồi khi tôi giảng khai [mở] thiên mục, có rất nhiều người khai mở thiên mục rồi

thấy cảnh tượng thế này: họ phát hiện rằng cứ chạy mãi trong đường thông trong trán của

mình, như thể là chạy mãi không đến đầu [bên kia]. Mỗi ngày luyện công đều chạy ra theo

con đường lớn ấy, hai bên có non có nước, khi chạy còn qua những thành phố, còn thấy rất

nhiều rất nhiều người, họ thấy rằng đó là ảo giác. Đó là chuyện gì vậy? Nhìn thấy rất rõ

ràng, không phải ảo giác. Tôi giảng rằng tại mức vi quan nếu thân thể con người thực sự to

lớn đến thế, thì đó không phải là ảo giác. Bởi vì Đạo gia luyện công xưa nay vẫn nhìn

nhận rằng thân thể con người là một tiểu vũ trụ, nếu như đúng nó là một vũ trụ, thì từ thể

tùng quả cho đến trán không chỉ là mười vạn tám nghìn dặm; chư vị [vẫn] chạy mãi ra, rất

xa vậy.

Nếu như trong quá trình tu luyện đánh thông toàn bộ đại chu thiên xong, thì sẽ dẫn

đến cho người tu luyện một loại công năng; công năng gì? Mọi người đã biết, đại chu

thiên cũng được gọi là 'tý ngọ chu thiên', cũng được gọi là 'càn khôn vận chuyển', cũng

được gọi là 'hà xa vận chuyển'. Tại một tầng rất nông, sự vận chuyển của đại chu thiên

hình thành một dòng năng lượng, nó sẽ dần dần gia tăng mật độ và chuyển hoá hướng lên

tầng cao hơn, sẽ trở thành vành đai năng lượng có mật độ rất cao. Đai năng lượng này nó

vận chuyển, trong quá trình vận chuyển, chúng tôi tại một tầng cực nông dùng thiên mục

mà nhìn, thì phát hiện rằng nó có thể hoán vị khí ở bên trong thân thể: khí ở tim chạy sang

ruột, khí ở gan chạy sang dạ dày ... nếu như có thể thấy thì ở mức vi quan nó đang vận

chuyển những thứ rất to lớn; nếu như đưa đai năng lượng ấy ra ngoài [thân] thể thì đó

chính là công năng 'ban vận'. Người có công rất mạnh thì có thể vận chuyển những thứ rất

lớn, tức là 'đại ban vận'. Người có công rất yếu có thể vận chuyển những thứ rất nhỏ, tức

là 'tiểu ban vận'. Đây là hình thức của 'ban vận công' và sự hình thành của nó.

Đại chu thiên [liên hệ] trực tiếp đến luyện công, do đó sẽ dẫn đến các trạng thái khác

nhau và hình thức của công [khác nhau]; nó cũng đưa đến cho chúng ta một trạng thái rất

đặc thù. Trạng thái gì? Mọi người có thể đã [xem] trong các cuốn cổ thư như «Thần tiên

truyện» hoặc «Đan Kinh», «Đạo tạng», «Tính mệnh khuê chỉ» đều thấy viết về một câu là

"bạch nhật phi thăng", tức là ban ngày sáng tỏ người kia bay lên. Thực ra tôi nói với mọi

người, hễ đại chu thiên [khai] thông một cái là cá nhân ấy có thể [bay] lên không trung,

đơn giản vậy thôi. Có người nghĩ: luyện công bao nhiêu năm như thế, số người thông đại

chu thiên không phải ít. Tôi nói rằng cũng không có gì là lạ nếu có hàng vạn người đã đạt

đến trình độ ấy, bởi vì đại chu thiên [khai thông] rốt cuộc cũng chỉ là bước đầu trong luyện

công mà thôi.

Như thế tại sao không thấy những vị ấy phiêu [đãng bay] lên? Không thấy họ trên

không trung? Trạng thái của xã hội người thường không thể bị phá hoại, không thể tuỳ

tiện phá hoại hoặc cải biến hình thức trạng thái xã hội người thường; con người cứ lơ lửng

hết ở trên không có được không? Đó có còn là xã hội người thường không? Đó là mặt chủ

yếu; một mặt khác, con người trong xã hội người thường không phải vì để làm người, mà

vì để phản bổn quy chân, do đó còn có vấn đề ngộ tính. Họ thấy có nhiều người rõ ràng

Chu thiên

142

thực sự có thể bay lên, thì họ cũng đi tu, tức là không tồn tại vấn đề ngộ tính nữa. Do vậy

nếu chư vị tu hành [được như thế] rồi, cũng không thể tuỳ tiện để người ta thấy, không

được phép thị hiện cho người ta thấy, người ta còn phải tu. Do đó đại chu thiên thông rồi,

chỉ cần đầu ngón tay, đầu ngón chân hoặc chỗ nào đó của chư vị bị khoá lại, thì chư vị

không bay lên được.

Thông thường khi chúng ta sắp thông đại chu thiên, sẽ xuất hiện một trạng thái này,

có người khi ngồi đả toạ thân thể cứ ngả về phía trước. Đó là vì phía lưng thông được tốt,

[phía] lưng rất nhẹ nhàng, phía trước cảm thấy nặng; có người ngả về sau, chính là phía

lưng thì nặng, phía trước thì nhẹ. Nếu như chư vị thật sự thông tốt được toàn bộ rồi, như

thế chư vị sẽ xóc cất lên, cảm thấy như tự mình có thể nâng [người] lên, có cảm giác rời

khỏi mặt đất. Một khi thật sự có thể [bay] lên, thì sẽ không cho phép chư vị [bay] lên; tuy

nhiên cũng không tuyệt đối. Xuất [hiện] công năng [thường] ở hai đầu, trẻ em không có

chấp trước, người già, nhất là các cụ bà không có tâm chấp trước, dễ xuất hiện công năng,

dễ bảo trì. Nam giới, đặc biệt là nam thanh niên, đến khi họ có công năng, họ không tránh

được tâm lý hiển thị; đồng thời họ có thể lấy đó làm một thứ công cụ cạnh tranh nơi người

thường. Không cho phép tồn tại như thế. Luyện xuất được rồi thì cũng phải khoá kín nó

lại. Khoá kín một chỗ nào đó, thì người ấy không bay lên được. Nói vậy cũng không tuyệt

đối là không cho phép chư vị xuất hiện trạng thái ấy, có thể cho phép chư vị thử một chút,

có một số người có thể bảo trì [trạng thái] như vậy.

Lớp học tại các nơi đều có tình huống như thế. Hồi tôi dạy lớp ở Sơn Đông, trong các

học viên ở Tế Nam, các học viên ở Bắc Kinh cũng có; có vị nói: 'Bạch Sư phụ, con thế

nào ấy, đi đường cứ như thể rời khỏi mặt đất, nằm ngủ ở nhà cũng bay lên, ngay cả chăn

đắp cũng bay lên, cứ bay lên như khí cầu vậy'. Hồi tôi dạy lớp ở Quý Dương, có một học

viên cao tuổi tại Quý Châu, một cụ bà, ở nhà bà có hai chiếc giường, mỗi bên tường một

chiếc. Bà ngồi đả toạ trên giường, rồi cụ bà thấy tự mình bay bổng lên, bà mở to mắt thấy

rằng [mình] đã bay sang chiếc giường kia; cụ bà liền nghĩ: 'Mình phải trở lại chứ', liền

bay trở lại.

Có một học viên ở Thanh Đảo, giờ nghỉ trưa trong phòng không có ai, ông ngồi trên

giường đả toạ, ông vừa đả toạ liền bay lên, bay lên xóc rất ghê, lên cao một mét. Lên cao

rồi lại rớt xuống, nẩy lên nẩy xuống tưng tưng, làm cả chăn đắp cũng rớt xuống đất. Vừa

có phần hưng phấn, vừa có phần sợ hãi, rung xóc lên xuống trong suốt cả buổi trưa. Cuối

cùng chuông công sở đổ, [ông] nghĩ: 'Không thể để người ta thấy được, như thế để làm gì,

lập tức dừng lại thôi'. Thế là thôi. Đó là tại sao những người già có thể giữ [tâm tính] được

vững vàng. Nếu là thanh niên, tới khi có tiếng chuông công sở: 'Đến đây [cả] đi, tôi bay

lên đây này'. Đây là chỗ mà ai không dễ dàng giữ vững tâm hiển thị của mình: 'Coi tôi

luyện công tốt chưa, tôi có thể bay lên được'. Một khi họ hiển thị thì sẽ mất, không cho

phép tồn tại như vậy. Sự việc như thế rất nhiều, học viên ở các nơi đều có [hiện tượng

này].

Chúng ta cần lập tức trăm mạch đều khai [thông]. Mới đến hôm nay thì 80 đến 90%

trong chúng ta bây giờ đã đạt trạng thái thân [thể] nhẹ nhàng, không có bệnh. Đồng thời

chúng tôi đã giảng: ở trên lớp này không chỉ đẩy chư vị lên trạng thái như vậy, để thân thể

chư vị hoàn toàn tịnh hoá, mà còn cài vào trong thân thể chư vị rất nhiều thứ, sao cho từ

sau buổi học này chư vị có thể xuất công, như thế tương đương với việc tôi nâng chư vị

lên và đưa về phía trước. Tôi đã liên tục giảng Pháp cho chư vị, tâm tính của chư vị đã liên

tục phát sinh cải biến. Chúng ta có khá nhiều người sau khi ra khỏi giảng đường, chư vị sẽ

cảm thấy như một người khác, đảm bảo rằng thế giới quan của chư vị sẽ có chuyển biến,

chư vị biết được tương lai chư vị sẽ làm người như thế nào, không còn mơ hồ nữa; đảm

bảo là như vậy, do đó tâm tính của chúng ta sẽ lên theo [kịp].

Chu thiên

143

Bàn về đại chu thiên, tuy rằng không cho phép chư vị phiêu [đãng bay] lên, nhưng

chư vị sẽ cảm thấy thân nhẹ nhàng, như đi trên gió vậy. Trước đây đi mấy bước là mệt,

hiện nay đi [bộ] xa mấy cũng cảm thấy rất nhẹ nhàng, đạp xe đạp cảm thấy như có người

đẩy, leo bậc thang cao mấy cũng không mệt; đảm bảo sẽ như vậy. [Ai] đọc sách này tự tu

cũng có thể đạt đến trạng thái đáng có được giống như thế. Cá nhân tôi có thể không nói

những gì tôi không muốn nói, nhưng lời mà tôi nói ra phải là lời chân thật. Đặc biệt trong

tình huống như thế này, trong khi tôi giảng Pháp nếu mà tôi không nói lời chân thật, ngồi

ở đây nói những lời huyền thoại, ở đây không thể không tuỳ tiện loạn giảng, thì tôi chính

là đang truyền tà pháp. Tôi thực thi công việc này cũng không hề dễ dàng gì, trong vũ trụ

đều đang theo dõi, chư vị mà đi sai lệch là không được.

Người bình thường biết đến chu thiên như vậy là hết; thực ra như vậy vẫn chưa [đủ].

Muốn đạt đến thân thể được vật chất cao năng lượng hoàn toàn thay thế và chuyển hoá

mau lẹ nhất [có thể], còn có một vận chuyển có hướng với hình thức chu thiên, kéo theo

tất cả các mạch của thân thể chư vị vận chuyển theo hướng; nó gọi là 'mão dậu chu thiên';

có thể có một số rất ít người biết đến. Trong sách cũng có lúc đề cập đến danh từ này,

nhưng không ai giảng đến nó cả, không nói cho chư vị [biết]. Đều chỉ loanh quanh nơi lý

luận; [vì] đây là bí mật của những bí mật. Tại đây chúng tôi nói rõ hết cho chư vị: có thể

bắt đầu từ huyệt bách hội (cũng có thể xuất phát từ huyệt hội âm), chạy dọc theo chỗ giao

giới của hai mặt âm dương, qua biên của tai đi xuống, rồi theo vai đi xuống. Chạy men

theo từng ngón tay từng kẽ ngón tay. Sau đó chạy theo một bên thân thể, đi xuống bàn

chân, rồi lên trên háng. Rồi lại xuống phía bên kia, lại xuống đến [bàn] chân, lên theo phía

bên thân thể. Chạy men theo từng ngón tay từng ngón tay, đi trọn một vòng là quay về đến

đỉnh đầu; đó là mão dậu chu thiên. Người ta có thể viết cả một cuốn sách, tôi chỉ nói mấy

lời ấy là đủ. Tôi cho rằng nó không có gì đáng kể là thiên cơ nào cả, nhưng người khác có

thể cho rằng nó là rất trân quý, hoàn toàn không giảng; là đồ đệ chân truyền mới giảng về

mão dậu chu thiên. Tuy rằng tôi đã giảng rõ ra, nhưng không ai được dùng ý niệm dẫn đạo

và khống chế để luyện, chư vị mà luyện thì không còn [thuộc về] Pháp Luân Đại Pháp của

chúng tôi nữa. Tu luyện lên cao tầng một cách chân chính là vô vi, không có hoạt động ý

niệm nào hết; toàn bộ đã cấp hết cho chư vị [những gì] hình thành cả rồi. Chúng đều tự

động hình thành, những cơ [chế] nội tại ấy đang diễn luyện chư vị; đến thời thì chúng sẽ tự

chuyển. Một hôm khi chư vị luyện công sẽ lắc đầu; nếu đầu lắc sang bên này, thì nó

chuyển thế này; nếu đầu lắc sang bên kia, thì là chuyển thế kia; cần chuyển cả hai bên.

Đại chu thiên, tiểu chu thiên thông rồi, thì khi ngồi đả toạ sẽ gật đầu; đó là hiện tượng

năng lượng thông qua. 'Pháp Luân chu thiên pháp' mà chúng ta luyện cũng giống như thế,

chúng ta sẽ luyện như thế; thực ra khi chư vị không luyện nó [vẫn] tự chuyển. Bình

thường vĩnh viễn [vận] chuyển mãi; lúc chư vị luyện là để gia cường những [khí] cơ ấy.

Chúng tôi vẫn giảng 'Pháp luyện người' phải không? Chư vị [sẽ] phát hiện rằng lúc bình

thường thì chu thiên ấy vẫn liên tục tuần hoàn; [lúc] chư vị không luyện, thì khí cơ được

gắn ở bên ngoài, tức là một tầng các mạch lớn bên ngoài đang kéo thân thể chư vị luyện

theo, đều là tự động. Nó cũng [vận] chuyển ngược lại, [vận] chuyển cả hai chiều xuôi

ngược, vào mọi thời khắc đều đang thông mạch cho chư vị.

Như vậy mục đích thông chu thiên là gì? Bản thân việc thông chu thiên không phải là

mục đích luyện công. Chư vị thông chu thiên rồi, tôi nói vẫn không là gì cả. Vẫn còn tu

tiếp nữa; mục đích là thông qua hình thức chu thiên 'nhất mạch đới bách mạch', để làm

cho các mạch của thân thể, tất cả các mạch toàn bộ khai [mở]. Chúng ta đã đang làm công

việc ấy rồi. Luyện tiếp nữa, có người khi đại chu thiên đang chạy liền phát hiện rằng,

mạch luyện được rất rộng, giống như đầu ngón tay, bên trong rất rộng. Bởi vì năng lượng

cũng rất mạnh mẽ, nên dòng năng lượng sau khi hình thành rồi cũng sẽ rất rộng, nó cũng

rất sáng. Như thế vẫn chưa gì đáng kể; hỏi [cần] luyện đến mức độ nào? Cần làm cho bách

Chu thiên

144

mạch của thân thể người ta dần dần rộng ra, năng lượng càng ngày càng mạnh, trở nên

càng ngày càng sáng. Cuối cùng làm cho hơn vạn mạch liên [kết] thành một khối, đạt đến

một cảnh giới không mạch không huyệt, toàn bộ thân thể liên [kết] lại thành một khối; ấy

là khi đã đạt được mục đích cuối cùng của việc thông mạch. Mục đích của nó là làm cho

toàn bộ thân thể được chuyển hoá [thành] vật chất cao năng lượng.

Khi luyện đến bước này, thân thể người ta cơ bản đã được chuyển hoá [thành] vật

chất cao năng lượng; tức là luyện lên đến tầng tối cao trong tu luyện thế gian pháp, nhục

thân của [thân] thể người ta đã tu luyện đến đỉnh điểm nhất rồi. Khi đã đến bước này, cũng

sẽ đưa đến cho họ một trạng thái; trạng thái nào vậy? Công của họ đã xuất ra vô cùng

phong phú. Tất cả các công năng đặc dị (tiềm năng) của người ta [khi] tu luyện thân thể

người thường, tức là trong quá trình tu luyện thế gian pháp, tất cả mọi thứ đều xuất lai; tuy

nhiên [khi] tu [luyện] trong người thường thì đại bộ phận đều bị khoá lại. Ngoài ra công

trụ của họ đã vươn lên rất cao, hết thảy các hình thức của công, đều đã được công mạnh

mẽ gia trì đến mức rất mạnh. Nhưng chúng chỉ có tác dụng tại không gian hiện hữu này

của chúng ta, chứ không thể ước chế các không gian khác, bởi vì chúng chỉ là công năng

được luyện ra từ nhục thể người thường chúng ta. Tuy nhiên [chúng] đã rất phong phú. Tại

các hình thức tồn tại của thân thể ở trong từng không gian, [ở] những không gian khác

nhau, đều đã có biến đổi khá to lớn. Những thứ được mang theo thân thể, những thứ tại

mỗi tầng được mang theo thân thể đều đã rất phong phú, trông cũng rất ghê gớm. Có

người khắp thân thể đều là những con mắt, các lỗ chân lông ở khắp thân [thể] đều là con

mắt, trong phạm vi khắp cả trường không gian của vị ấy đều có con mắt. Vì đây là công

[pháp] Phật gia, nên có người khắp thân thể đầy những hình tượng Bồ Tát, Phật. Các hình

thái các loại công đều đã đạt đến mức độ cực kỳ phong phú; ngoài ra còn có rất nhiều các

sinh mệnh thể đã hiển hiện xuất lai.

Khi [đạt] đến bước này, thì nó còn xuất hiện một trạng thái, gọi là "tam hoa tụ đỉnh".

Đây là một trạng thái hết sức [rõ ràng] minh hiển, hết sức dễ thấy; người có thiên mục ở

tầng không cao cũng có thể nhìn thấy được. Trên đầu có ba đoá hoa, [trong ấy] một đoá là

hoa sen, nhưng không phải là hoa sen trong không gian vật chất này của chúng ta1; còn có

hai đoá [hoa] nữa cũng là hoa ở không gian khác, mỹ diệu khôn cùng. Ba đoá hoa luân

phiên [xoay] chuyển trên đỉnh đầu, [xoay] chuyển xuôi, [xoay] chuyển ngược; ba đoá hoa

cũng tự [xoay] chuyển. Mỗi đoá hoa có một cột trụ, to bằng đường kính của hoa. Ba chiếc

cột trụ lớn ấy thông thẳng lên đỉnh trời, nhưng đó không phải là công trụ; chúng có hình

thức như thế; huyền diệu phi thường; [khi] bản thân chư vị nhìn thấy cũng sẽ giật mình

kinh sợ. Lúc tu luyện đến bước này, thân thể rất trắng rất tịnh, da dẻ cũng rất mềm. Khi đã

đến bước này, thì cũng là đã đến hình thức cao nhất trong tu luyện thế gian pháp. Nhưng

đây chưa phải đỉnh điểm, còn cần tu tiếp nữa, cần tiến tiếp lên nữa.

Tiến tiếp lên nữa, là tiến nhập vào tầng quá độ giữa thế gian pháp và xuất thế gian

pháp, gọi là trạng thái 'tịnh bạch thể' (cũng gọi là 'tinh bạch thể'). Bởi vì thân thể tu luyện

đến hình thức cao nhất trong thế gian pháp, cũng bất quá chỉ là nhục thân đã chuyển hoá

đến hình thức cao nhất. Khi thật sự tiến nhập vào hình thức ấy, thì toàn bộ thân thể đã

hoàn toàn được cấu thành từ vật chất cao năng lượng rồi. Vì sao gọi là tịnh bạch thể? Là vì

nó đã đạt đến thuần tịnh cao độ ở mức tuyệt đối rồi. Dùng thiên mục mà nhìn, thì toàn bộ

thân thể là trong suốt, giống như pha lê trong suốt, nhìn vào không thấy gì cả; sẽ thể hiện

ra trạng thái như thế; nói thẳng ra, nó đã là Phật thể rồi. Bởi vì thân thể cấu thành từ vật

chất cao năng lượng ấy đã khác với thân thể bản thể của chúng ta. Khi đến bước này, thì

hết thảy những công năng và những thứ thuật loại đã xuất hiện trên thân thể sẽ lập tức phải

toàn bộ vứt bỏ xuống, gỡ chúng xuống cho vào một không gian rất thâm sâu; [chúng]

1Liên hoa, hà hoa: đều dịch là hoa sen. Chữ liên [莲] là để chỉ bông sen trong tam hoa tụ đỉnh; còn chữ hà [荷] là hoa

sen bình thường.

Chu thiên

145

không còn [tác] dụng gì nữa, từ đó trở đi là vô dụng. Chỉ bất quá vào một hôm nào đó sau

này khi chư vị đã tu thành đắc Đạo rồi, chư vị quay đầu xem xem quá trình tu luyện của

mình, bèn lấy chúng ra xem xem một chút. Lúc này chỉ có hai thứ tồn tại: công trụ vẫn

còn, nguyên anh tu luyện được cũng đã trở nên rất lớn. Tuy nhiên hai thứ ấy đều ở một

không gian rất thâm sâu, người bình thường thiên mục không cao sẽ không nhìn thấy

được, họ chỉ thấy được thân thể cá nhân ấy là một [thân] thể trong suốt.

Bởi vì trạng thái tịnh bạch thể là tầng quá độ, khi tu luyện tiếp nữa, thì thật sự đã tiến

nhập sang tu luyện xuất thế gian pháp, cũng gọi là 'tu luyện Phật thể'. Toàn bộ thân thể là

do công cấu thành; khi ấy tâm tính người ta đã ổn định rồi. Bắt đầu tu luyện lại từ đầu,

công năng bắt đầu xuất hiện lại từ đầu; cũng không gọi là công năng nữa, [mà] gọi là

"Phật Pháp thần thông", chúng ước chế tất cả các không gian, uy lực vô tỷ. Tương lai

thuận theo việc bản thân chư vị không ngừng tu luyện, thì [về] những thứ ở tầng cao hơn

nữa, tự [chư vị] sẽ biết được tu luyện như thế nào và hình thức tồn tại của tu luyện.

Tâm hoan hỷ

[Chúng ta] nói về vấn đề này, đó cũng thuộc về 'tâm hoan hỷ'. Rất nhiều người đã trải

qua luyện công lâu [năm], cũng có người chưa từng luyện công, nhưng họ đang tìm kiếm

những chân lý và ý nghĩa nhân sinh vốn đã truy cầu cả một đời của mình. Đến khi học

Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi, họ liền lập tức hiểu rõ ra rất nhiều vấn đề mà cả đời họ

mong muốn biết rõ nhưng lại không giải được. Tuy nhiên cùng với sự thăng hoa tư tưởng

của họ, thì tâm tình của họ cũng vô cùng kích động; điểm này là khẳng định. Tôi hiểu

rằng, những ai tu luyện chân chính sẽ biết sức nặng của nó, họ sẽ biết trân quý [nó].

Nhưng thường hay xuất hiện vấn đề như thế này: vì sự cao hứng của con người, nảy sinh

ra tâm hoan hỷ không cần thiết, cho nên họ có biểu hiện thất thường trên hình thức trong

những giao tiếp giữa người với người nơi xã hội người thường, trong hoàn cảnh xã hội

người thường; tôi nói rằng như thế là không được.

Phần lớn [người học] bộ công pháp này của chúng ta là tu luyện trong xã hội người

thường, chư vị không được làm cho mình thoát ly khỏi xã hội người thường; chư vị cần tu

luyện một cách rõ ràng minh bạch. Quan hệ giữa người với người vẫn bình thường; tất

nhiên tâm tính rất cao, tâm thái rất chính, đề cao tâm tính bản thân, đề cao tầng của mình,

không làm chuyện xấu [chỉ] làm điều tốt; chỉ có biểu hiện như thế. Có người biểu hiện như

thể là tinh thần không bình thường, như thể đã coi chán cõi hồng trần rồi, lời nói ra người

ta không lý giải nổi. Người ta nói, 'Ông này học Pháp Luân Đại Pháp rồi là thành vậy ư?

Tựa như mắc bệnh tâm thần ấy'. Thực ra không phải, mà là họ quá kích động thôi, không

lý trí, không theo cái lý thông thường. Mọi người thử nghĩ xem, chư vị làm thế cũng

không đúng, chư vị đã lại quay sang cực đoan mất rồi; cũng là tâm chấp trước. Chư vị cần

vứt bỏ nó, sinh hoạt và tu luyện một cách bình thường như mọi người. Ở nơi người

thường, [nếu] mọi người đều cho rằng chư vị thần hồn điên đảo, mọi người đều không

nhìn nhận chư vị như bình thường, tránh xa chư vị, không ai cung cấp cho chư vị cơ hội đề

cao tâm tính, không ai coi chư vị như người bình thường, thì tôi nói như vậy không được!

Do đó mọi người nhất định phải chú ý vấn đề này, chư vị nhất định phải giữ bản thân mình

cho đúng đắn.

Công pháp của chúng ta không giống các công pháp bình thường khác, vốn mơ mơ

màng màng, nửa mơ nửa tỉnh, thần hồn điên đảo. Công pháp chúng ta yêu cầu chư vị tu

luyện bản thân mình một cách tỉnh táo minh bạch. Có người cứ nói: 'Thưa Sư phụ, con cứ

nhắm mắt lại là lắc động'. Tôi nói rằng không phải thế, chư vị đã hình thành thói quen vứt

bỏ chủ ý thức của mình, hễ chư vị nhắm mắt liền buông lơi chủ ý thức của mình, đã mất

rồi; chư vị đã hình thành thói quen như thế mất rồi. Chư vị ngồi đây tại sao không lắc

động? Chư vị vẫn bảo trì trạng thái mở mắt, hơi hơi nhắm khẽ mắt lại thì hỏi chư vị có lắc

Tâm hoan hỷ

146

động không? Tuyệt đối không. Chư vị cho rằng luyện khí công là phải như thế, chư vị đã

hình thành khái niệm như thế, hễ nhắm mắt lại liền mất, chẳng còn biết đã đến đâu nữa.

Chúng tôi giảng rằng chủ ý thức của chư vị nhất định phải thanh tỉnh, bởi vì bộ công pháp

này là tu luyện bản thân chư vị, chư vị cần đề cao một cách tỉnh táo minh bạch. Chúng ta

cũng có tĩnh công, bộ công pháp ấy chúng ta luyện như thế nào? Chúng tôi yêu cầu mọi

người, chư vị dẫu có [nhập] định thâm sâu đến mấy cũng phải biết rằng bản thân mình

đang luyện công ở đó, tuyệt đối không cho phép tiến nhập vào trạng thái không còn biết gì

cả. Như vậy cụ thể sẽ xuất hiện trạng thái nào? Sẽ xuất hiện là lúc ngồi ở đó, cảm giác bản

thân mình mỹ diệu hệt như đang ngồi trong vỏ trứng gà, cảm giác thoải mái phi thường,

biết rằng mình đang luyện công tại đó, cảm giác toàn thân bất động. Đó là điều công pháp

này của chúng ta nhất định sẽ xuất hiện. Còn một trạng thái nữa: ngồi tới ngồi lui phát

hiện chân [biến] mất, không biết rõ chân đã đi đâu mất, thân thể cũng [biến] mất, cánh tay

cũng [biến] mất, bàn tay cũng [biến] mất, chỉ còn mỗi cái đầu não. Luyện tiếp nữa thì thấy

đầu não cũng [biến] mất, chỉ còn [mỗi] tư duy của bản thân, một chút ý niệm biết rằng bản

thân đang luyện công nơi ấy. Nếu chúng ta đạt đến mức độ ấy là đủ rồi. Vì sao? Người ta

luyện công trong trạng thái ấy thì thân thể đạt đến trạng thái diễn hoá đầy đủ nhất, trạng

thái tốt đẹp nhất, do đó chúng tôi yêu cầu chư vị nhập tĩnh vào trạng thái ấy. Nhưng chư vị

không được ngủ [hay] mê mờ đi mất; như thế có thể những thứ tốt sẽ để người khác luyện

mất.

Tất cả những người luyện công chúng ta phải hết sức chú ý không được biểu hiện quá

thất thường ở nơi người thường. Chư vị khởi tác dụng không tốt ở nơi người thường,

người ta liền nói rằng, học Pháp Luân Đại Pháp rồi đều thành ra như thế cả; vậy cũng

tương đương với phá hoại danh dự Pháp Luân Đại Pháp; phải nhất định chú ý việc này.

Tại các phương diện khác và quá trình tu luyện cũng phải chú ý không được sinh tâm hoan

hỷ; loại tâm này rất dễ bị ma lợi dụng.

Tu khẩu

Về 'tu khẩu', tôn giáo quá khứ cũng giảng. Tuy nhiên tu khẩu mà họ nói đến đặt trọng

điểm vào những người tu luyện chuyên nghiệp-tăng nhân và đạo sỹ-[họ] ngậm miệng

không nói. Vì là người tu luyện chuyên nghiệp, mục đích là vứt bỏ [ở] mức độ lớn hơn các

tâm chấp trước của con người; họ cho rằng người ta một khi động niệm liền là nghiệp.

Trong tôn giáo [người ta] phân nghiệp thành hai loại nghiệp thiện và nghiệp ác; dẫu là

nghiệp thiện cũng vậy, nghiệp ác cũng vậy, dùng cái 'không' của Phật gia, cái 'vô' của

Đạo gia mà xét thì đều không nên làm; do vậy họ nói: 'Tôi không làm gì cả'. Vì không

thấy được quan hệ nhân duyên của sự vật, rằng sự việc kia rốt ráo là việc tốt hay việc xấu,

còn có quan hệ nhân duyên ở đó. Người tu luyện bình thường chưa [được] cao tầng đến

chỗ ấy, không thấy được điều này; do đó họ lo sợ rằng bề mặt là việc tốt, nhưng thực hiện

rồi có khi lại là việc xấu. Vậy nên họ gắng sức giảng 'vô vi', họ không làm gì cả; như thế

họ tránh được việc tạo nghiệp thêm nữa. Bởi vì tạo nghiệp sẽ phải tiêu nghiệp, phải chịu

khổ. Ví như người tu luyện chúng ta, đã định rõ là đến một bước nào đó sẽ khai công, chư

vị đưa vào đó những thứ không cần thiết, nó đều sẽ thành khó nạn cho toàn thể việc tu

luyện; do đó họ giảng vô vi.

Tu khẩu được giảng trong Phật gia, ấy là, con người ta [lúc] nói đều do ý thức tư

tưởng của mình chi phối; như vậy ý thức tư tưởng kia chính là 'hữu vi'. Nếu bản thân ý

thức tư tưởng người ta vừa động niệm, nói một [lời] nào đó, làm một [điều] nào đó, chi

phối giác quan hay tứ chi của con người, thì có thể là chấp trước nơi người thường. Ví như

chư vị nói, [khi có] mâu thuẫn giữa người với người: 'anh tốt đấy, nó không tốt, anh tu

luyện được tốt đấy, còn nó tu luyện không có tốt', bản thân những thứ ấy chính là mâu

thuẫn. Chúng ta chỉ nói bình thường thôi: 'tôi nên làm việc này hay việc nọ, hiện nay việc

Tu khẩu

147

này nên thực hiện như thế này hay như thế kia', nhưng cũng có thể vô ý làm tổn thương ai

đó. Bởi vì mâu thuẫn giữa người với người rất là phức tạp; có thể vô ý tạo nghiệp. Thế là,

họ giảng rằng tuyệt đối ngậm miệng không nói năng gì nữa. Quá khứ trong tôn giáo vẫn

luôn luôn coi việc 'tu khẩu' rất [quan] trọng; đó là điều giảng trong tôn giáo.

Người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp chúng ta tuyệt đại đa số là tu luyện trong người

thường (trừ những đệ tử tu luyện chuyên nghiệp), như vậy không thể tránh khỏi [cuộc

sống] sinh hoạt bình thường nơi xã hội người thường và giao tiếp ngoài xã hội. Ai cũng có

công tác nào đó, hơn nữa cũng cần làm công tác cho tốt; có người thực hiện công tác của

mình chính là thông qua việc thuyết nói; như vậy có phải là mâu thuẫn không? Cũng

không mâu thuẫn. Không mâu thuẫn ở chỗ nào? 'Tu khẩu' mà chúng ta giảng, khác hẳn

với [tu khẩu] mà họ [giảng]. Vì pháp môn khác nhau, nên yêu cầu cũng khác nhau. Chúng

ta mở miệng nói, đều [cần] chiểu theo tâm tính của người luyện công mà nói, không nói

những lộng ngữ thị phi, không nói những lời bất hảo. Là người tu luyện cần chiểu theo

tiêu chuẩn của Pháp mà nhận định bản thân mình, [lời] nào nên nói [lời] nào không. [Lời]

nào nên nói, dùng Pháp nhận định thấy phù hợp với tiêu chuẩn tâm tính người luyện công

thì không thành vấn đề; vả lại chúng ta còn phải giảng Pháp, tuyên truyền Pháp, do đó

không nói nữa cũng không được. Chúng ta giảng tu khẩu, ấy là những danh lợi chưa vứt

bỏ được nơi người thường và những gì không liên quan gì đến công tác thực tế ngoài xã

hội của người tu luyện; hoặc chuyện phiếm vô dụng giữa các đệ tử đồng môn; hoặc muốn

hiển thị xuất phát từ tâm chấp trước; hoặc những điều nghe ngoài đường hay tin đồn lưu

truyền; hoặc một số việc ngoài xã hội hễ đàm luận đến liền thấy hưng phấn, thích nói [về

chúng]; tôi nghĩ rằng chúng đều là tâm chấp trước của người thường. Tại những phương

diện này tôi cho rằng chúng ta cần tu cái miệng ấy lại, đây là 'tu khẩu' mà chúng tôi giảng.

Các tăng nhân trong quá khứ coi việc này rất [quan] trọng, bởi vì hễ động niệm là họ đang

tạo nghiệp. Do đó họ giảng "thân khẩu ý". 'Tu thân' mà họ giảng ấy, chính là không làm

điều xấu. 'Tu khẩu' chính là không nói. 'Tu ý' chính là luôn cả nghĩ thì cũng không nghĩ

nữa. Yêu cầu những việc này của người tu luyện chuyên nghiệp trong các chùa quá khứ rất

nghiêm khắc. Chúng ta chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính của người tu luyện để yêu cầu bản

thân mình, dàn xếp cho tốt những gì nên nói những gì không nên nói là được rồi.

Tu khẩu

148

Bài giảng thứ chín

Khí công và thể dục

Ở tầng bình thường, người ta dễ nhìn nhận rằng khí công có quan hệ trực tiếp với rèn

luyện thể dục. Tất nhiên ở tầng thấp mà giảng, từ phương diện chữa bệnh khoẻ người mà

xét, thì khí công và rèn luyện thể dục là đều cùng mục đích. Tuy nhiên phương pháp rèn

luyện cụ thể của nó, phương tiện [nó] sử dụng là khác hẳn với thể dục. Muốn rèn luyện thể

dục để đạt [được] thân thể người khoẻ mạnh, thì cần tăng cường lượng vận động của con

người, tăng cường huấn luyện thân thể của con người; còn tu luyện khí công lại hoàn toàn

trái lại, không yêu cầu người ta [cử] động, nếu có [cử] động thì cũng là 'hoãn mạn viên',

thậm chí còn bất động, tĩnh chỉ. Điều ấy khác hẳn so với hình thức rèn luyện thể dục. Còn

nếu từ tầng cao mà xét, thì khí công không chỉ là chữa bệnh khoẻ người, nó có những thứ

ở tầng cao hơn, có nội hàm thâm sâu hơn. Khí công không phải [chỉ] là một đôi điều ở

tầng người thường, nó là siêu thường; hơn nữa tại các tầng khác nhau nó đều có hiển hiện

khác nhau; nó là những gì vượt rất xa người thường.

Xét theo bản chất [phương pháp] rèn luyện, chúng khác nhau rất nhiều. Vận động

viên cần phải tăng cường vận động, nhất là các vận động viên hiện nay, để thân thể thích

ứng cho được với mức độ cạnh tranh hiện đại, để đạt được tiêu chuẩn như thế, họ cần phải

làm sao cho thân thể luôn luôn ở trạng thái tốt nhất. Để đạt mục tiêu ấy, cần tăng cường

vận động, sao cho thân thể người ta có được tuần hoàn máu đầy đủ nhất, từ đó tăng cường

năng lực [tân trần] đại tạ, làm cho thân thể luôn luôn bảo trì ở trạng thái hướng lên. Tại

sao cần tăng cường năng lực [tân trần] đại tạ? Bởi vì thân thể vận động viên cần phải luôn

luôn thể hiện ra trạng thái hướng lên tốt nhất cho cạnh tranh. Thân thể người ta do vô số tế

bào tổ hợp tạo thành; những tế bào ấy đều có một quá trình: tế bào mới phân tách có sinh

mệnh [sống] rất mạnh mẽ, thể hiện ra [sự] phát triển lên trên. Khi đạt đến hạn độ cực

[điểm] rồi, thì nó không thể tiếp tục phát triển [lên trên] được nữa, chỉ có thể giáng hạ

xuống, một mạch cho đến cực điểm, rồi sẽ lại có tế bào mới thay thế nó. Chẳng hạn, lấy ví

dụ mười hai giờ đồng hồ [trong] một ngày; từ lúc 6 giờ sáng tế bào [mới được] phân tách

ra, liên tục thể hiện ra [trạng thái] hướng lên, hướng lên, đến 8, 9 giờ, cho đến 10 giờ vẫn

là thời kỳ còn rất tốt. Cho đến lúc 12 giờ, nó không lên tiếp được nữa, chỉ có thể rớt

xuống. Đến lúc ấy tế bào vẫn còn một nửa lực sống, chính nửa lực sinh mệnh ấy là không

thích hợp với trạng thái cạnh tranh của vận động viên.

Vậy làm sao đây? Họ cần tăng cường huấn luyện, gia tăng tuần hoàn máu, sau đó các

tế bào mới được sinh ra thay thế tế bào cũ; họ [chọn] đi con đường ấy. Nghĩa là, quá trình

toàn bộ của tế bào chưa đi hết, mới đi hết một nửa tiến trình sinh mệnh thôi, thì chúng đã

bị bài tiết rồi; do vậy thân thể vẫn bảo trì được trạng thái cường tráng, hướng lên trên. Tuy

nhiên tế bào của con người không thể phân tách vô hạn [lần] được như thế, số lần tế bào

phân tách là có giới hạn. Chẳng hạn trong một đời người có thể phân tách một trăm lần;

thực ra còn hơn cả trăm vạn lần. Ví như tế bào của người ta bình thường phân tách 100 lần

[và họ] có thể sống 100 tuổi, nhưng hiện nay tế bào chỉ sống có một nửa đời của nó, do

vậy họ chỉ có thể sống được 50 tuổi thôi. Nhưng chúng ta không thấy vận động viên nào

có vấn đề nghiêm trọng cả; bởi vì các vận động viên hiện nay chưa đến 30 tuổi đã bị đào

thải; nhất là mức độ cạnh tranh bây giờ rất cao, số lượng vận động viên bị đào thải cũng

lớn; do đó họ khôi phục trở lại cuộc sống sinh hoạt bình thường, nhìn bề ngoài không thấy

họ chịu ảnh hưởng gì. Từ lý luận mà xét thực chất là như vậy, có thể làm cho thân thể của

họ bảo trì một cơ thể khoẻ mạnh, nhưng lại rút ngắn sinh mệnh của họ lại. Từ bên ngoài

mà nhìn, thì vận động viên mười mấy tuổi sẽ trông như hai mấy tuổi; vận động viên hai

Khí công và thể dục

149

mấy tuổi sẽ trông như ba mấy tuổi. Thông thường các vận động viên làm cho người ta [có]

cảm giác lớn sớm và trông già hơn tuổi; có lợi có hại; nhìn nhận một cách biện chứng;

thực ra là [họ] chọn con đường ấy.

Tu luyện khí công trái ngược hẳn với rèn luyện thể dục; về động tác không yêu cầu

vận động mạnh mẽ, nếu có động tác cũng là 'hoãn mạn viên', chậm rãi vô cùng, thậm chí

bất động, tĩnh chỉ hẳn lại. Như mọi người đã biết phương pháp thiền định, tĩnh chỉ hẳn lại,

tốc độ nhịp tim cũng chậm lại, tuần hoàn máu cũng như hết thảy mọi thứ đều giảm xuống

chậm lại. Ấn Độ có rất nhiều thầy yoga, có thể ngồi toạ trong nước hàng mấy ngày liền,

chôn xuống đất mấy ngày liền, hoàn toàn làm cho bản thân họ tĩnh chỉ hẳn lại, thậm chí cả

nhịp tim cũng được khống chế vững chắc. Chẳng hạn tế bào người ta một ngày phân tách

một lần, thì những người tu luyện ấy làm cho tế bào thân thể người ta hai ngày phân tách

một lần, một tuần phân tách một lần, nửa tháng phân tách một lần, thậm chí thời gian lâu

hơn nữa, như thế họ đã kéo dài sinh mệnh của họ. Đây là công pháp chỉ tu tính không tu

mệnh, nó cũng có thể đạt đến điểm này, cũng có thể kéo dài sinh mệnh bản thân. Có người

nghĩ: sinh mệnh của người ta, đời của người ta chẳng phải đã định [trước] rồi ư? [Ai]

không tu mệnh thì làm sao sống [lâu hơn] được? Đúng thế, vì tầng của người tu luyện đã

đột phá tam giới nên [mới] có thể kéo dài [sinh mệnh] được, nhưng từ bề ngoài mà nhìn

thì trông già cỗi phi thường.

Công pháp tu mệnh thật sự, cần liên tục đưa vật chất cao năng lượng đã thâu thập

được tồn trữ vào tế bào của thân thể người ta; khi liên tục gia tăng mật độ, thì cũng dần

dần ức chế vững tế bào người thường, dần dần thay thế tế bào người thường. Đến lúc ấy

liền phát sinh biến hoá về chất, cá nhân ấy sẽ mãi thanh xuân. Tất nhiên quá trình tu luyện

là một quá trình rất chậm, phải phó xuất rất lớn. Nhọc cái gân cốt, khổ cái tâm chí, không

dễ dàng chút nào. Ở trong va chạm giữa người với người thì tâm ấy có thể bất động hay

không? Trước những lợi ích thiết thân của cá nhân thì cái tâm ấy có bất động hay không?

Những sự việc ấy làm được rất khó; do đó không phải muốn đạt được mục đích ấy liền có

thể đạt được đâu. Tâm tính của người ta, đức của người ta đều cần phải tu lên trên mới có

thể đạt được mục đích như vậy.

Xưa nay rất nhiều người coi khí công lẫn lộn cùng với rèn luyện thể dục thông

thường, thực ra sự khác biệt rất to lớn, là một việc hoàn toàn khác hẳn. Chỉ khi luyện khí

tại tầng thấp nhất, [chỉ] chú trọng chữa bệnh khoẻ người, để đạt một thân thể khoẻ mạnh,

thì mục đích ở tầng thấp nhất [đối] với rèn luyện thể dục là cùng một tính. Nhưng lên đến

tầng cao, thì hoàn toàn là việc khác. Tịnh hoá thân thể trong khí công cũng có mục đích,

còn phải dùng [Pháp] lý siêu thường để yêu cầu người luyện công, không thể dùng [đạo]

lý của người thường để yêu cầu. Rèn luyện thể dục chỉ là việc của người thường.

Ý niệm

Bàn về ý niệm, cũng chính là hoạt động tư duy của tư tưởng con người chúng ta. Giới

tu luyện nhìn nhận ý niệm con người trong hoạt động tư duy đại não như thế nào? Xét các

hình thức khác nhau của tư duy (ý niệm) con người ra sao? Thể hiện ra như thế nào? Y

học hiện đại nghiên cứu đại não con người vẫn còn rất nhiều vấn đề nan giải, bởi vì nó

không dễ như những thứ bề mặt thân thể chúng ta. Tại tầng thâm sâu, ở các tầng khác

nhau đều có hình thức khác nhau. Tuy nhiên cũng không giống như một số khí công sư

giảng. Một số khí công sư bản thân họ không biết điều ấy là gì, họ nói không rõ ràng. Họ

cho rằng đại não của bản thân mình hễ động [niệm], hễ sản sinh ý niệm liền có thể thực

hiện sự việc, nên họ nói rằng tư tưởng của họ thực hiện, ý niệm của họ thực hiện; kỳ thực

hoàn toàn không phải là ý niệm của họ thực hiện.

Trước hết chúng ta giảng về [nguồn] nguyên lai của tư duy con người. Trung Quốc cổ

đại có một cách nói: "tâm tưởng". Tại sao lại nói 'tim suy nghĩ'? Khoa học Trung Quốc cổ

Ý niệm

150

đại đã vô cùng phát triển, bởi vì họ nghiên cứu trực tiếp nhắm thẳng vào những điều như

thân thể người, sinh mệnh và vũ trụ. Có người thực sự cảm giác thấy 'tim' đang suy nghĩ

vấn đề, nhưng có người cảm thấy như đại não suy nghĩ vấn đề. Vì sao xuất hiện tình

huống ấy? Họ giảng 'tâm tưởng' cũng rất có đạo lý, bởi vì chúng tôi thấy nguyên thần của

người thường rất bé, tín tức chân chính phát xuất ra trong đại não người không phải là bản

thân đại não người ta phát huy tác dụng, không phải bản thân đại não phát xuất ra, mà là

nguyên thần của người ta phát xuất ra. Nguyên thần con người không chỉ lưu trú tại nê

hoàn cung. Nê hoàn cung mà Đạo gia nói đến chính là thể tùng quả mà Y học hiện đại

chúng ta vẫn nhìn nhận. Nếu nguyên thần ở nê hoàn cung, thì chúng ta thực sự cảm thấy

như đại não đang suy xét vấn đề, đang phát xuất ra tín tức; nếu như nó ở tim, thì thực sự

cảm thấy tim đang suy xét vấn đề.

[Thân] thể người là một tiểu vũ trụ, rất nhiều thể sinh mệnh của người luyện công đều

có khả năng có tác dụng hoán vị. Nếu nguyên thần có sự hoán vị, [và] nó chạy vào bụng,

thì sẽ thực sự cảm thấy như bụng đang suy nghĩ vấn đề; nếu nguyên thần chạy sang bắp

chân hay gót chân, thì sẽ cảm thấy như bắp chân hay gót chân đang suy xét vấn đề, đảm

bảo là như vậy; nghe vậy rất huyền [hoặc]. Khi chư vị tu luyện tại tầng không cao quá,

chư vị sẽ cảm nhận thấy tồn tại hiện tượng này. Thân thể người ta nếu không có nguyên

thần của mình, không có tính khí tính cách, đặc tính, không có những thứ ấy, thì chính là

một tảng thịt; nó không thể là một con người hoàn chỉnh, có mang theo cá tính tự ngã độc

lập. Như vậy đại não của con người khởi tác dụng gì? Nếu yêu cầu tôi giảng, thì đại não

con người với hình thức trong không gian vật chất này của chúng ta, nó chỉ là một [nhà

máy] công xưởng gia công. Tín tức thật sự là do nguyên thần phát xuất ra; nhưng thứ mà

nó phát xuất ra không phải là ngôn ngữ; nó phát xuất ra một chủng tín tức vũ trụ, đại biểu

cho một ý nghĩa nào đó. Đại não của chúng ta sau khi tiếp thụ chỉ lệnh ấy, liền biến đổi nó

thành ngôn ngữ hiện nay, hình thức biểu đạt như thế. Chúng ta thông qua tư thế tay, ánh

mắt, hay các động tác đủ loại để biểu đạt nó ra; đại não là có tác dụng ấy. [Còn] chỉ lệnh

chân chính, tư duy thật sự là do nguyên thần của con người phát xuất ra. Người ta thường

vẫn tưởng rằng đây là tác dụng độc lập trực tiếp của đại não; thực ra có những lúc nguyên

thần ngụ tại tim, có người thực sự cảm thấy rằng tâm đang suy nghĩ.

Hiện nay những vị nghiên cứu thân thể người cho rằng, đại não phát xuất ra một thứ

có hình thức tương tự như sóng điện; thực chất nó phát xuất ra cái gì thì chúng tôi không

giảng trước, tuy nhiên họ đã thừa nhận rằng đó là một loại vật chất tồn tại; như vậy đây

không phải là mê tín. Những gì phát xuất ra ấy có tác dụng như thế nào? Có khí công sư

giảng: 'Tôi dùng ý niệm để ban vận, dùng ý niệm khai [mở] thiên mục cho các vị, dùng ý

niệm trị bệnh cho các vị v.v.' Thực ra có những khí công sư không hiểu biết rằng bản thân

họ có những công năng gì, cũng không [biết] rành mạch rõ ràng. Họ chỉ biết rằng họ muốn

làm gì thì nghĩ là được rồi. Kỳ thực khi ý niệm của họ hoạt động, thì công năng tiếp nhận

khống chế từ ý niệm [của] đại não, đã thực hiện những việc cụ thể dưới sự chỉ huy của ý

niệm; còn bản thân ý niệm của họ không có khả năng làm gì cả. Khi một người luyện công

làm một việc cụ thể nào đó, thì ấy là công năng của họ khởi tác dụng.

Công năng là tiềm năng của thân thể người, tuỳ theo sự phát triển của xã hội chúng ta,

tư duy của đại não con người càng ngày càng trở nên phức tạp, càng ngày càng coi trọng

'hiện thực', càng ngày càng trở nên ỷ lại vào công cụ hiện đại hoá; như vậy, bản năng con

người càng ngày càng thoái hoá. Đạo gia giảng phản bổn quy chân, trong quá trình tu

luyện, chư vị phải 'chân', cuối cùng phản bổn quy chân, quay trở về bản tính nguyên thuỷ

của chư vị, rồi chư vị mới có thể hiển lộ những bản năng ấy của chư vị. Cái mà chúng ta

hiện nay gọi là công năng đặc dị, thực ra chính là bản năng của người ta. Xã hội nhân loại

dường như đang tiến bộ, nhưng kỳ thực là thoái lùi, càng ngày càng rời xa đặc tính vũ trụ

chúng ta. Hôm rồi tôi giảng Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược, [người ta] không lý giải

Ý niệm

151

được ý nghĩa đó là gì. Ông thấy rằng tiến lên lại chính là thụt lùi, con người càng ngày

càng rời xa đặc tính vũ trụ. Trong quá trình diễn hoá của vũ trụ, nhất là hiện nay từ khi

tiến nhập vào trào lưu kinh tế hàng hoá mạnh mẽ ấy, rất nhiều người đạo đức đã trở nên

bại hoại, càng ngày càng xa rời đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ; những người ở cõi

người thường trong trào lưu ấy cũng trôi theo mà không cảm nhận được mức độ đạo đức

bại hoại đến đâu; do vậy có người còn cho rằng như thế là tốt; chỉ ai có tâm tính tu luyện

lên trên rồi sau đó ngoảnh lại nhìn, mới có thể nhận ra rằng đạo đức của nhân loại đã bại

hoại đến mức độ đáng sợ như thế nào.

Có khí công sư giảng: 'Tôi khai phát công năng cho các vị'. Khai phát công năng nào

đây? Công năng của họ nếu không có năng lượng thì không dùng được, [chúng] chưa xuất

lai thì chư vị có thể khai phát cho xuất lai được không? Công năng của người kia chưa

được năng lượng gia trì cho thành hình thì chư vị có thể khai phát cho chúng xuất lai được

không? Hoàn toàn không được. Cái mà họ nói là 'khai phát công năng', chẳng qua chỉ là

lập ra liên hệ giữa công năng đã thành hình của chư vị với đại não của chư vị, chịu nhận

sự chỉ huy của ý niệm chư vị mà khởi tác dụng; thế là được tính là 'khai phát công năng';

thực ra họ chưa hề khai phát công năng nào hết, chỉ làm chút việc ấy mà thôi.

Đối với người luyện công mà xét, thì ý niệm chỉ huy công năng người ta để thực hiện

các việc; còn đối với người thường mà xét, thì ý niệm chỉ huy tứ chi, các giác quan để làm

các việc; tương tự như phòng sản xuất của nhà máy: ban giám đốc ra các chỉ lệnh, và cụ

thể [là do] các bộ phận chức năng thực hiện công việc. Cũng giống như bộ phận chỉ huy

trong quân đội: tư lệnh ra các mệnh lệnh chỉ huy toàn bộ quân đội hoàn thành nhiệm vụ.

Khi tôi đi các nơi mở lớp [giảng bài] thường hay đàm luận về vấn đề này với những lãnh

đạo hội nghiên cứu khí công vùng sở tại. Họ sửng sốt lắm: 'Chúng tôi vẫn luôn nghiên cứu

rằng tư duy con người có năng lượng tiềm tàng và ý thức tiềm tàng thật to lớn'. Thực ra

không phải vậy, họ từ đầu đã trệch rồi. Chúng tôi nói rằng khoa học về [thân] thể người,

cần có sự thay đổi lớn về tư duy [quan niệm] của người ta, chứ không thể dùng phương

pháp suy lý và phương pháp nhận thức vấn đề của người thường để nhận thức những điều

siêu thường như vậy được.

Nói về ý niệm, còn có một số hình thức ý niệm. Ví như có người nói về tiềm ý thức,

hạ ý thức, linh cảm, giấc mộng, v.v. Nói về giấc mộng, không có khí công sư nào muốn

giải thích về nó. Bởi vì lúc chư vị giáng sinh, thì trong rất nhiều không gian vũ trụ đều có

một chư vị đồng thời giáng sinh, cùng với chư vị trở thành một thể hoàn chỉnh, đều có mối

liên hệ tương hỗ, đều có quan hệ liên đới về tư duy. Ngoài ra chư vị còn có chủ nguyên

thần, phó nguyên thần, còn có hình tượng của các loại thể sinh mệnh khác tồn tại trong

[thân] thể; mỗi tế bào, lục phủ ngũ tạng đều là tín tức hình tượng của chư vị với hình thức

tồn tại ở không gian khác; do đó vô cùng phức tạp. Khi chư vị mê ngủ lúc thì thế này lúc

lại thế khác, rốt cuộc là từ đâu đến? Trong Y học, [người ta] nói rằng có [xảy ra] sự biến

đổi ở vỏ não của chúng ta. Ấy là biểu hiện phản ánh tại hình thức vật chất là như vậy, thực

ra là nó đã chịu tác dụng của tín tức từ không gian khác. Do vậy khi chư vị ở trong giấc

mộng mà chư vị cảm thấy mơ mơ màng màng, thì nó không có quan hệ gì với chư vị, chư

vị cũng không cần quan tâm đến nó. Có một loại giấc mộng có quan hệ trực tiếp với chư

vị, với loại giấc mộng này chúng ta không thể gọi đó là giấc mộng được. Chủ ý thức của

chư vị, nó cũng chính là chủ nguyên thần, ở trong giấc mộng mộng thấy gặp thân quyến;

hoặc cảm thấy một sự việc hết sức xác thực; đã thấy gì đó hoặc thực hiện việc nào đó. Ấy

chính là chủ nguyên thần của chư vị thật sự ở một không gian khác đã thực thi một việc

nào đó, gặp một chuyện gì đó, cũng thực thi rồi, ý thức rõ ràng, chân thực; sự việc kia thực

sự có tồn tại, chẳng qua [nó] ở trong một không gian vật chất khác, thực thi tại một thời-

không khác. Liệu chư vị có thể gọi đó là giấc mộng được không? Không được. Thân thể

Ý niệm

152

của chư vị ở phía bên này đúng là đang nằm ngủ tại nơi đây, nên cũng đành gọi nó là giấc

mộng vậy; chỉ có loại giấc mộng ấy là có quan hệ trực tiếp với chư vị.

Nói về những thứ như linh cảm, hạ ý thức, tiềm ý thức của người ta, tôi nói rằng

những danh từ ấy không phải do các nhà khoa học đưa ra, mà là các danh từ do nhà văn

đưa ra dựa vào trạng thái tập quán quen dùng nơi người thường; chúng không có tính khoa

học. 'Tiềm ý thức' mà người ta nói đến rốt cuộc là gì? Rất khó nói rõ ràng, rất chung

chung, bởi vì các chủng tín tức quá phức tạp, [nó] giống như một chút ký ức mờ nhạt nào

đó. Còn như điều mà họ gọi là 'hạ ý thức', thì chúng tôi có thể giải thích rõ. Căn cứ theo

định nghĩa về trạng thái hạ ý thức: thông thường khi nói về một người lúc đang mơ mơ

màng màng mà làm một điều gì đó, thì thường người ta nói rằng vị ấy thực hiện một cách

'hạ ý thức', không phải 'hữu ý' thực hiện. Hạ ý thức ấy chính là điều mà chúng ta gọi là

'phó ý thức'. Bởi vì sau khi chủ ý thức lơi lỏng ra, khi không còn khống chế đại não, mơ

mơ màng màng giống như ngủ vậy, hoặc là khi đang trong giấc mộng, ở trong trạng thái

vô ý thức thì dễ bị phó ý thức, cũng chính là phó nguyên thần làm chủ. Vào lúc ấy phó ý

thức có thể thực hiện một số sự việc; tức là bản thân chư vị đang trong trạng thái mơ mơ

màng màng mà thực hiện một [số sự việc]. Tuy nhiên, thông thường những sự việc được

thực hiện ấy không dễ mà thực hiện không tốt, bởi vì phó ý thức ở không gian khác có thể

thấy được bản chất của sự vật, không thụ nhận chỗ mê của xã hội người thường. Do đó

những sự việc được làm, đến lúc tỉnh lại rồi xét: 'Việc này sao mà thực hiện dở quá, lúc

mình tỉnh táo minh bạch đã không làm thế'. Nhưng hiện nay chư vị nói là không tốt, đợi

mươi hôm hay nửa tháng sau xét lại: 'Ái chà, việc ấy thực hiện sao tuyệt vời đến vậy! Lúc

ấy sao mà mình làm được thế không biết?' Vấn đề này thường hay xuất hiện. Bởi vì phó ý

thức không quan tâm rằng lúc ấy sự việc có tác dụng gì, mà đến tương lai mới có tác dụng

tốt đẹp. Cũng có những việc [sẽ] không có kết quả gì, chính là lúc ấy đã có tác dụng [rồi];

tuy nhiên sự việc được phó ý thức thực thi vào lúc ấy hết sức tốt đẹp.

Còn có một hình thức nữa, thông thường chúng ta có những người căn cơ rất tốt, dễ

chịu nhận sự khống chế của sinh mệnh cao cấp để thực hiện một số công việc. Tất nhiên

đó là chuyện khác, ở đây chúng ta không giảng, chủ yếu là giảng về loại ý thức đến từ tự

thân con người chúng ta.

Còn nói về 'linh cảm', nó cũng là danh từ do các nhà văn đưa ra. Những người bình

thường nhìn nhận như thế này: 'linh cảm chính là tri thức tích luỹ trong đời của người ta,

và trong một tích tắc nó vụt loé lên xuất ra'. Tôi nói rằng nếu chiểu theo chủ nghĩa duy vật

mà xét, thì tri thức tích luỹ trong đời của con người ấy, nếu tri thức tích luỹ càng nhiều,

đại não của con người càng dùng nhiều thì càng linh hoạt. Đến khi sử dụng nó lẽ ra phải

tuôn trào như nguồn [nước]; vậy không thể nói là vấn đề linh cảm được. Hễ linh cảm thực

sự xuất hiện, hoặc khi mà linh cảm đến, thì nó không phải trạng thái ấy. Thông thường là

khi người ta sử dụng đại não, liên tục sử dụng, cho đến lúc cảm thấy như tri thức khô kiệt

rồi, hệt như là không còn dùng được nữa; viết bài văn đến chỗ đó là không có hạ bút [viết

tiếp] được nữa; sáng tác một bài hát đến chỗ đó là không có nghĩ thêm được nữa; làm

nghiên cứu khoa học đến chỗ đó là không có làm tiếp được nữa. Thông thường lúc ấy mệt

mỏi lắm không chịu được, đầu thuốc lá vứt đầy mặt đất, bí bách đau đầu, mà không nghĩ

được gì. Rốt cuộc linh cảm đến trong trạng thái nào? Chẳng hạn lúc mệt quá bèn nghĩ:

"Mặc kệ nó, nghỉ một lát". Bởi vì chủ ý thức càng khống chế vững chắc đại não, thì sinh

mệnh khác càng không sáp nhập vào được. Hễ họ vừa nghỉ ngơi một cái, tư tưởng của họ

vừa buông lơi một cái, không nghĩ đến nó nữa, thì đúng trong lúc vô ý ấy liền suy nghĩ ra

được, từ trong đại não liền nghĩ ra. Linh cảm đều đến như vậy.

Vậy hỏi tại sao lúc ấy linh cảm đến? Bởi vì lúc đại não con người đang được chủ ý

thức khống chế, càng dùng đại não nhiều thì nó khống chế càng chặt, phó ý thức càng

không tiến nhập vào được. Khi họ suy nghĩ đến mức nhức đầu, suy nghĩ đến lúc cảm thấy

Ý niệm

153

khó chịu, thì phó ý thức ấy cũng là một bộ phận của thân thể, cùng từ thai mẹ đồng thời

giáng sinh mà ra, nó cũng làm chủ một bộ phận thân thể, nó cũng rất khó chịu; khi [họ]

nhức đầu, nó cũng đau nhức không chịu được. Nhưng khi chủ ý thức vừa buông lơi ra, phó

ý thức liền đưa những gì nó biết phản ánh lên đại não, bởi vì lúc ở không gian khác nó có

thể nhìn thấy bản chất sự vật, như vậy liền làm [tiếp] được, viết [tiếp] được, sáng tác ra

được.

Có người nói: 'Vậy thì chúng ta sẽ vận dụng phó ý thức'. Giống như có người vừa

viết mấy chữ [đưa tôi]: 'Làm thế nào nắm được liên hệ với phó ý thức?' Chư vị không liên

hệ được, bởi vì chư vị là người mới bắt đầu luyện công thôi, là người chưa có bản sự gì cả;

chư vị cũng đừng liên hệ, mục đích chắc chắn là chấp trước. Có người nghĩ: 'Chúng ta vận

dụng phó ý thức để sáng tạo ra những giá trị [vật chất] cho chúng ta, đưa xã hội nhân loại

phát triển; thế có được không?' Không được! Tại sao? Bởi vì những sự việc mà phó ý thức

biết được cũng rất có hạn. Không gian phức tạp nhường ấy, tầng thứ nhiều như thế, kết

cấu của vũ trụ này hết sức phức tạp, mà nó cũng chỉ có thể biết được những gì trong không

gian sở tại của nó thôi; những gì vượt ra ngoài không gian sở tại của nó, thì nó cũng không

biết. Ngoài ra còn có rất nhiều không gian ngang dọc khác nhau; sự phát triển của nhân

loại phải do sinh mệnh cao cấp tại tầng rất cao mới có thể khống chế được, [nó] đang được

tiến hành chiểu theo quy luật phát triển.

Xã hội nhân loại chúng ta đang phát triển chiểu theo quy luật lịch sử; chư vị nghĩ rằng

phát triển thế này, đạt mục tiêu thế kia; tuy nhiên sinh mệnh cao cấp kia lại không nghĩ

thế. Con người cổ đại ấy, họ có nghĩ đến máy bay, tầu hoả, xe đạp của ngày hôm nay

không? Tôi nói rằng không nhất định là không nghĩ đến. Là vì lịch sử chưa phát triển đến

quá trình ấy, họ cũng chưa sáng tạo ra. Trên bề mặt theo nhận thức lý luận truyền thống

của người thường chúng ta [mà xét], từ góc độ của tri thức hiện hữu của nhân loại mà xét,

thì là vì khoa học nhân loại chưa đạt đến trình độ ấy, nên chưa sáng tạo ra được. Thực ra

khoa học nhân loại dẫu phát triển như thế nào đi nữa, thì cũng đang chiểu theo an bài

trong lịch sử mà phát triển thôi; chư vị vì [theo nỗ lực của] con người mà muốn đạt được

mục đích nào đó, thì cũng không đạt được. Tất nhiên cũng có người có phó ý thức dễ khởi

tác dụng; có tác giả nói: 'Một ngày tôi có thể viết hàng vạn chữ, không mệt mỏi chút nào;

muốn viết thật mau liền viết được ngay; người khác đọc sách cũng thấy [viết] hay lắm'.

Tại sao như vậy? Bởi vì đó là kết quả sự chung sức giữa chủ ý thức và phó ý thức của họ;

phó ý thức của họ cũng có thể phát huy phân nửa tác dụng. Tuy nhiên không phải [ai

cũng] đều như vậy. Tuyệt đại đa số phó ý thức đều không quan tâm; chư vị muốn họ thực

hiện công việc, có khi trái lại còn tệ hơn, kết quả trái lại.

Tâm thanh tịnh

Có nhiều người [khi] luyện công không nhập tĩnh được, đến khắp nơi tìm hỏi khí

công sư: 'Thưa thầy, tại sao con luyện công không nhập tĩnh được, hễ nhập tĩnh liền suy

nghĩ đủ thứ, tư tưởng hỗn loạn'. Đúng là sông biển quay lộn, cái gì cũng xuất hiện, chư vị

hoàn toàn không nhập tĩnh được. Vì sao không tĩnh lại được? Có người không hiểu, [họ]

cho rằng có bí quyết nào đó; họ bèn tìm đến danh sư: 'Xin dạy con chiêu thuật cao siêu, để

con tĩnh lại được'. Theo tôi thấy, đó là hướng ngoại mà cầu. Nếu chư vị muốn đề cao bản

thân, thì chư vị phải hướng nội mà tìm, đặt công phu vào cái tâm ấy. Chư vị mới có thể

thật sự đề cao lên trên. Khi ngồi đả toạ chư vị mới có thể tĩnh lại được; có thể tĩnh lại được

chính là công; định lực thâm sâu ngần nào [cũng] là thể hiện của tầng.

Người thường có thể tự nhiên tĩnh lại được không? Hoàn toàn không tĩnh lại được, trừ

những người có căn cơ rất tốt. Cũng nói, nguyên nhân căn bản làm người ta không tĩnh lại

được, không phải là vấn đề thủ pháp, không phải vì có tuyệt chiêu nào đó, mà là vì tư

tưởng của chư vị, cái tâm của chư vị không tịnh. Chư vị ở nơi xã hội người thường, ở

Tâm thanh tịnh

154

trong mâu thuẫn giữa người với người, chỉ vì lợi ích cá nhân, thất tình lục dục cũng như

các chủng chấp trước dục vọng, chư vị đấu tranh với người ta, những thứ ấy chư vị chưa

vứt bỏ được, chưa có thể coi nhẹ chúng được, vậy mà chư vị muốn tĩnh lại ngay, nói sao

dễ vậy? Có người khi luyện công nói: 'Tôi không tin, tôi tĩnh được ngay thôi, không nghĩ

loạn nữa'. Vừa nói dứt, liền đảo lộn trở lại; cái tâm ấy của chư vị bất tịnh, do đó chư vị

không tĩnh lại được.

Có thể có người không đồng ý với quan điểm của tôi: 'Chẳng phải có khí công sư dạy

người ta sử dụng các thủ pháp nào đó hay sao? Có thể đặt tâm vào một thứ, quán tưởng,

đặt ý đan điền, nhìn vào trong nơi đan điền, hoặc niệm Phật, v.v.' Đó là một loại phương

pháp, tuy nhiên nó không chỉ là phương pháp, nó là thể hiện của công phu. Công phu ấy

có quan hệ trực tiếp với tâm tính tu luyện được của chúng ta, [với] sự đề cao tầng của

chúng ta; nó cũng không phải là một phương pháp được sử dụng chuyên nhất để cho tĩnh

lại. Nếu không tin chư vị hãy thử đi, khi các chủng dục vọng và tâm thái chấp trước quá

cường thịnh, chưa vứt bỏ được gì cả, chư vị thử xem chư vị có thể tĩnh lại được không. Có

người nói 'niệm Phật hiệu' là được đấy; niệm Phật hiệu hỏi chư vị có thể đạt đến nhập tĩnh

được không? Có người nói: 'Pháp môn của Phật A Di Đà dễ luyện, niệm Phật hiệu là được

rồi.' Chư vị đã thử niệm chưa? Tôi nói rằng đó cũng là công phu; chư vị nói dễ, còn tôi

nói không dễ; không có pháp môn nào dễ dàng cả.

Như mọi người đã biết Thích Ca Mâu Ni giảng "định"; hỏi trước khi "định" thì Ông

giảng gì? Ông giảng "giới", giới cấm hẳn hết thảy các dục vọng, thèm muốn, không còn gì

nữa, rồi mới định lại được. Đạo lý là vậy phải không? Vả lại "định" cũng là công phu, chư

vị không thể lập tức đạt đến mức độ 'giới' tất cả ngay được; thuận theo việc hết thảy

những thứ bất hảo dần dần bị giới cấm, thì định lực cũng đi từ nông cạn đến thâm sâu.

Niệm Phật hiệu thì người ta phải niệm một cách nhất tâm bất loạn, trong tâm không suy

nghĩ gì cả, niệm đến mức các bộ phận khác trong đại não đều tê liệt, không còn biết gì

nữa, một niệm thay vạn niệm; từng chữ từng chữ "A Di Đà Phật" đều có thể hiển hiện

trước mắt. Đó chẳng phải công phu là gì? Lập tức có đạt được vậy không? Không đạt

được; chưa đạt được thế thì khẳng định là chưa nhập tĩnh được; nếu không tin thì chư vị

hãy thử đi. Ngoài miệng niệm hết lượt này lượt khác, nhưng trong tâm thì cái gì cũng nghĩ

đến: 'Tại sao lãnh đạo đơn vị công tác chỗ mình không coi trọng mình nhỉ, thưởng tháng

này sao ít quá vậy'. Càng nghĩ càng bực mình, bực không chịu được, miệng vẫn còn đang

niệm Phật hiệu; chư vị nói xem như thế luyện công được không? Đó chẳng phải vấn đề

công phu hay sao? Đó chẳng phải vấn đề bản thân chư vị tâm bất tịnh hay sao? Có người

khai thiên mục rồi, có thể nhìn vào đan điền. Bởi vì đan tích tụ lại ở nơi bụng dưới của

người ta, vật chất năng lượng ấy càng thuần thì càng sáng, càng bất thuần thì càng tối,

càng đen. Nhìn vào đan điền hỏi có thể nhập tĩnh không? Không nhập tĩnh được, không

phải do bản thân phương pháp; then chốt là ở tư tưởng và ý niệm của người ta không

thanh tịnh. Chư vị nhìn vào đan điền, thấy cái đan ấy sáng tinh anh rất đẹp, một lúc cái đan

ấy biến hoá, biến thành căn hộ. "Phòng này để con trai lấy vợ rồi sẽ dùng, phòng này để

cho con gái, hai vợ chồng mình là ở phòng này, ở giữa là phòng khách, tuyệt quá! Căn hộ

này có thể cấp cho mình không? Mình phải nghĩ ra cách nào để có thôi, làm thế nào đây?"

Con người cứ chấp trước vào những thứ ấy, chư vị nói xem thế có tĩnh lại được không?

Người ta nói: 'Ta đến xã hội người thường, giống như đến khách sạn, tá túc vài ngày, rồi

vội rời đi'. Một số người cứ lưu luyến nơi này mãi, quên cả nhà của bản thân mình.

Tu luyện chân chính, cần phải hướng tâm mà tu, hướng nội mà tu, hướng nội mà tìm,

chứ không hướng ngoại mà tìm. Có pháp môn giảng rằng 'Phật tại tâm trung', cũng có đạo

lý. Có người lý giải câu này không đúng, nói rằng Phật ở trong tim, cứ như thể bản thân họ

đã là Phật rồi, cứ như thể trong quả tim đã có ông Phật rồi. Họ lý giải như thế, vậy chẳng

phải sai hay sao? Lý giải vậy sao được. Ý nghĩa chính là chư vị phải hướng tâm mà tu, thì

Tâm thanh tịnh

155

chư vị mới có thể tu thành; đạo lý chính là ở chỗ ấy. Trong thân chư vị hỏi ở đâu có ông

Phật? Chư vị phải tu thì mới tu thành được.

Nguyên nhân chư vị chưa tĩnh lại được, là vì tư tưởng của chư vị chưa phải là

'không', chư vị chưa có tầng cao đến thế; như vậy [nhập tĩnh] từ nông cạn vào thâm sâu

có quan hệ tương phụ tương thành với việc đề cao tầng. Chư vị vứt bỏ tâm chấp trước,

tầng chư vị mới nâng lên, thì định lực của chư vị cũng thâm sâu hơn. [Nếu] chư vị muốn

thông qua thủ pháp hay phương pháp nào đó mà [nhập] tĩnh, thì tôi nói rằng ấy đều là

hướng ngoại mà cầu. Mà 'luyện công thiên sai', 'lệch sang tà đạo', chính là để nói về

người hướng ngoại mà cầu. Nhất là trong Phật giáo, nếu chư vị hướng ngoại mà cầu, thì

họ nói chư vị 'đi sang ma đạo'. Còn tu luyện chân chính phải tu cái tâm ấy; chỉ khi chư vị

đề cao tâm tính, thì tâm chư vị mới có thể đạt được vô vi thanh tịnh; chỉ khi chư vị đề cao

tâm tính, thì mới đồng hoá với đặc tính vũ trụ chúng ta; vứt bỏ các chủng dục vọng, tâm

chấp trước và những thứ bất hảo của con người, thì chư vị mới bài xuất khỏi thân thể chư

vị những thứ không tốt, chư vị mới có thể nổi lên trên. Không chịu ước chế của đặc tính

vũ trụ nữa, thì loại vật chất đức của chư vị mới có thể chuyển hoá thành công, nó chẳng

phải tương phụ tương thành là gì? Đây chính là đạo lý!

Ấy là nguyên nhân chủ quan vì bản thân không đạt được yêu cầu về tiêu chuẩn người

tu luyện nên mới không tĩnh lại được. Hiện nay về mặt khách quan cũng tồn tại một tình

huống này, đang can nhiễu nghiêm trọng làm chư vị không tu luyện lên cao tầng được,

ảnh hưởng nghiêm trọng đến những người luyện công. Như mọi người đã biết, thuận theo

[trào lưu] khai mở cải cách, năng động kinh tế, thì chính sách cũng nới rộng. Có nhiều

khoa học kỹ thuật mới cũng được tiến nhập vào, mức sống người ta cũng nâng cao, người

thường ai cũng cho rằng thế là tốt. Tuy nhiên cần xét theo cả hai mặt, [cần] nhìn nhận một

cách biện chứng; những thứ bất hảo cũng thuận theo sự khai mở mà tiến nhập vào, đủ thứ

đủ loại. Trong tác phẩm văn hoá nếu không có chỗ viết về tình dục, thì dường như cuốn

sách đó không bán được, bởi vì phải xét đến vấn đề số lượng [sản phẩm] tiêu thụ; trên

truyền hình hay điện ảnh nếu thiếu mấy cảnh chăn gối, thì dường như [chương trình]

truyền hình điện ảnh ấy sẽ không có người xem, vì phải xét đến vấn đề tỷ lệ khán giả; còn

trong tác phẩm mỹ thuật, thì không ai biết nổi rằng đó là nghệ thuật chân chính hay là một

cái gì đó; nền nghệ thuật dân tộc cổ xưa của Trung Quốc chúng ta vốn không hề có những

thứ ấy. Mà truyền thống dân tộc Trung Hoa của chúng ta cũng không phải là do ai phát

minh, ai sáng tác ra cả. Khi giảng về văn hoá tiền sử tôi đã nói rồi, hết thảy mọi thứ đều có

căn nguyên của nó. Chuẩn mực đạo đức của nhân loại đã méo mó hẳn rồi, đã thay đổi rồi;

tiêu chuẩn nhận định tốt và xấu đều đã thay đổi rồi; ấy là việc tại cõi người thường; còn

tiêu chuẩn đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ là tiêu chuẩn duy nhất nhận định người tốt

và xấu, nó không thể thay đổi. Là người luyện công, chư vị nếu muốn nhảy xuất ra, thì chư

vị phải dùng tiêu chuẩn ấy mà nhận định, chư vị không được dùng tiêu chuẩn của người

thường mà nhận định; do đó về khách quan cũng tồn tại can nhiễu như thế. Mà không chỉ

có vậy, điều gì cũng đã thay đổi rồi, nào là đồng tính luyến ái, giải phóng tình dục, hút hít

ma tuý, đủ thứ loạn bậy đều đã xuất hiện.

Ngày nay xã hội nhân loại đã phát triển đến bước này, mọi người thử nghĩ xem, phát

triển tiếp như thế nữa sẽ ra sao? Có cho phép nó tồn tại mãi như vậy hay không? Người

không trị thì trời trị. Mỗi khi phát sinh kiếp nạn thì nhân loại đều ở trong trạng thái như

thế. Qua nhiều khoá học rồi, tôi chưa bàn về vấn đề đại kiếp nạn của nhân loại. Tôn giáo

cũng giảng về nó, rất nhiều người cũng giảng về đề tài nóng bỏng ấy. Tôi đặt vấn đề này

ra cho mọi người, mọi người thử nghĩ xem: tại xã hội người thường chúng ta, chuẩn mực

đạo đức con người đã thay đổi đến mức như thế! Mức độ căng thẳng giữa người với người

đã đến mức độ như thế! Chư vị có nghĩ rằng nó chẳng phải đã đến hoàn cảnh cực kỳ nguy

hiểm hay sao? Do đó những hoàn cảnh tồn tại khách quan ấy, cũng đang can nhiễu nghiêm

Tâm thanh tịnh

156

trọng đến những người luyện công chúng ta đang tu luyện lên cao tầng. Tranh ảnh khoả

thân bày ngay ở đằng kia, treo ngay chỗ đại lộ, hễ ngẩng đầu lên liền nhìn thấy.

Lão Tử từng giảng câu: 'Thượng sỹ văn đạo, cần nhi hành chi'. Kẻ sỹ bậc thượng

được nghe Đạo, [hiểu ra] đắc chính Pháp không hề dễ dàng gì, hôm nay không tu thì đợi

bao giờ nữa? Hoàn cảnh phức tạp, tôi nghĩ rằng trái lại lại là điều hay; càng phức tạp thì

càng có khả năng xuất hiện cao nhân; nếu từ nơi đây mà vọt trội lên được thì mới tu được

chắc chắn nhất.

Người nào có thể thật sự hạ quyết tâm tu luyện, tôi nói rằng trái lại [hoàn cảnh này]

lại là điều tốt. Nếu không có mâu thuẫn nảy sinh, không tạo ra cơ hội đề cao tâm tính cho

chư vị, thì chư vị không lên được. Chư vị tốt tôi cũng tốt, hỏi tu luyện làm sao? Là một

người tu luyện bình thường, thuộc hạng "trung sỹ văn Đạo", luyện cũng được chẳng luyện

cũng xong, kiểu người như thế rồi có lẽ sẽ không thành. Có người ngồi đây nghe Sư phụ

giảng thấy rất có đạo lý, [nhưng] quay về xã hội người thường, lại [thấy] lợi ích hiện thực

mới là thực tại. Đúng là thực tại ghê lắm, không chỉ chư vị, có rất nhiều triệu phú và

những người giàu có bên tây phương, đến khi trăm tuổi [lâm chung] họ liền thấy họ chẳng

còn gì; những của cải vật chất khi sinh không mang theo đến, khi tử không mang theo đi,

rất [trống rỗng] hư không. Vậy công kia vì lẽ gì mà trân quý như thế? Bởi vì nó trực tiếp

đeo bên thân nguyên thần của chư vị, khi sinh mang theo đến, khi tử mang theo đi. Chúng

tôi giảng nguyên thần bất diệt, điều ấy cũng không phải mê tín. Khi những tế bào của

chúng ta trút ra rồi, thì những thành phần phần tử nhỏ bé hơn tồn tại ở không gian vật chất

khác không hề diệt mất, nó chỉ trút khỏi cái xác kia mà thôi.

Điều tôi vừa giảng đều thuộc về vấn đề tâm tính của con người. Thích Ca Mâu Ni đã

giảng câu này, Đạt Ma cũng giảng thế: 'Vùng Trung Quốc đông thổ ấy là nơi xuất ra

những kẻ sỹ đại đức'. Trong lịch sử Trung Quốc chúng ta có rất nhiều tăng nhân, có nhiều

người Trung Quốc rất tự hào. Ý nghĩa [câu trên] là có thể tu lên cao công, do vậy có nhiều

vị cao hứng lắm, tự mình vinh hạnh lắm: 'Chẳng phải người Trung Quốc chúng ta, ở vùng

đất Trung Quốc xuất hiện những người đại căn khí, xuất hiện những kẻ sỹ đại đức'. Thực

ra rất nhiều người không hiểu rõ ý nghĩa trong câu ấy; vì sao tại vùng đất Trung Quốc có

thể xuất hiện những kẻ sỹ đại đức, tại sao có thể xuất được cao công? Rất nhiều người

không biết được hàm nghĩa chân chính của những lời mà người tại cao tầng giảng thuyết,

cũng không biết được cảnh giới cũng như trạng thái tư tưởng của người tại cao tầng tại

cảnh giới cao đang ở. Tất nhiên chúng tôi giảng rồi, [nay] không nói về ý nghĩa của nó là

gì; [mà] mọi người nghĩ xem, chỉ có ở chỗ quần thể con người phức tạp đến thế, ở hoàn

cảnh phức tạp nhất mới có thể tu lên cao công; là có ý như thế.

Căn cơ

Căn cơ được quyết định theo lượng nhiều ít của chất đức mà người ta mang theo thân

thể ở một không gian khác. Đức ít, vật chất màu đen nhiều, thì trường nghiệp lực lớn, như

thế là thuộc loại căn cơ không tốt; đức nhiều, vật chất màu trắng nhiều, thì trường nghiệp

lực nhỏ, như thế là thuộc loại căn cơ tốt. Hai loại vật chất là vật chất màu trắng và vật chất

màu đen của người ta có thể chuyển hoá tương hỗ với nhau; chuyển hoá thế nào? Làm

điều tốt sẽ sinh ra vật chất màu trắng; vật chất màu trắng là khi chịu khổ, chịu đựng điều

thống khổ rồi, [hay] làm điều tốt rồi mà được. Còn vật chất màu đen là khi làm điều xấu,

làm điều bất hảo mà sinh ra; nó là nghiệp lực. Nó có một quá trình chuyển hoá như vậy;

đồng thời nó còn có quan hệ mang theo. Bởi vì nó trực tiếp đi theo nguyên thần, [nó]

không phải là thứ chỉ thuộc về một đời, mà đã được tích luỹ từ những niên đại rất xa xưa.

Do đó mới giảng 'tích nghiệp', 'tích đức', ngoài ra tổ tiên cũng có thể tích lại cho đời sau.

Có những lúc tôi nhớ rằng người xưa Trung Quốc hoặc người già hay nói: 'tổ tiên tích

đức' hoặc 'tích đức', 'khuyết đức'; những lời ấy hết sức đúng đắn, đúng đắn phi thường.

Căn cơ

157

Căn cơ tốt hay xấu có thể quyết định ngộ tính cá nhân ấy là tốt hay dở. Người căn cơ

không tốt có thể làm cho ngộ tính người ta trở nên rất kém. Vì sao? Vì người có căn cơ tốt

có nhiều vật chất màu trắng; vật chất màu trắng ấy dung hiệp với vũ trụ của chúng ta,

dung hiệp với đặc tính Chân Thiện Nhẫn, không có phân cách. Vậy nên đặc tính vũ trụ

phản ánh trực tiếp lên thân thể của chư vị, trực tiếp câu thông với thân thể của chư vị. Còn

chủng vật chất màu đen là tương phản hẳn lại, là khi làm điều xấu mà nhận phải, [nó] trái

ngược với đặc tính của vũ trụ của chúng ta; do vậy phát sinh một sự cách ly giữa chủng

vật chất màu đen ấy với đặc tính vũ trụ của chúng ta. Khi chủng vật chất màu đen ấy có

nhiều, thì nó hình thành một trường bao quanh thân thể con người lại, bao con người vào

trong. Mà trường này càng lớn, thì mật độ của nó càng lớn, càng dày, nên làm cho ngộ

tính của cá nhân càng không tốt. Bởi vì họ không thể tiếp thu chủng đặc tính Chân Thiện

Nhẫn của vũ trụ; cũng là vì họ đã làm điều xấu mới sinh ra vật chất màu đen như thế.

Thông thường những người này đã như thế lại càng không tin vào tu luyện; ngộ tính càng

không tốt, thì càng tiếp thụ trở ngại của nghiệp lực; chịu khổ càng nhiều, thì lại càng

không tin, nếu [họ] tu luyện thì càng khó khăn.

Người có nhiều vật chất màu trắng tu luyện sẽ dễ dàng hơn; bởi vì trong quá trình tu

luyện họ chỉ cần đồng hoá với đặc tính vũ trụ, tâm tính của họ có thể đề cao lên trên, thì

chất đức của họ sẽ trực tiếp diễn hoá [trở] thành công. Còn người có nhiều vật chất màu

đen, thì giống như sản xuất ra sản phẩm ở nhà máy vậy, phải thêm một thủ tục nữa; người

ta đã [có vật] liệu sẵn sàng rồi, còn họ mới [có nguyên] liệu thô, cần phải gia công thêm

một lượt nữa, phải qua một quá trình ấy. Do vậy trước tiên họ phải chịu khổ, để hạ bỏ

nghiệp lực của họ, chuyển thành vật chất màu trắng; sau khi hình thành chất đức ấy rồi

mới có thể tăng công lên cao. Tuy nhiên loại người này bản thân họ ngộ tính không tốt,

chư vị bảo họ chịu thêm chút khổ nữa, thì họ càng không tin, càng không chịu được; do đó

người có nhiều vật chất màu đen khó tu luyện. Đạo gia hoặc các pháp môn đơn truyền

trong quá khứ đều giảng rằng sư phụ tìm chọn đồ đệ, chứ không phải đồ đệ tìm sư phụ,

cũng là để xem những thứ mang theo nhiều [hay] ít trên thân thể [đồ đệ] mà quyết định.

Căn cơ quyết định ngộ tính của người ta, tuy nhiên cũng không tuyệt đối. Có người

căn cơ rất dở, nhưng hoàn cảnh gia đình rất tốt, rất nhiều người đều luyện công, cũng có

một số người là cư sỹ trong tôn giáo, rất tin vào những chuyện tu luyện. Trong hoàn cảnh

như thế, cũng có thể làm cho họ trở nên tin tưởng hơn, ngộ tính trở nên tốt; do vậy nó

không tuyệt đối. Cũng có người căn cơ rất tốt, nhưng thường hay chịu nhận sự giáo dục tri

thức nhỏ bé của xã hội hiện hữu này, nhất là phương pháp giáo dục tư tưởng tuyệt đối hoá

ở mấy năm trước đây, làm cho tư tưởng con người ta trở nên vô cùng chật hẹp, hết thảy

những gì vượt khỏi phạm vi mà họ đã biết thì họ đều không chịu tin, nên cũng có thể làm

cho ngộ tính của họ chịu can nhiễu nghiêm trọng.

Lấy một thí dụ, khi tôi mở lớp giảng dạy, ngày thứ hai giảng khai [mở] thiên mục. Có

một vị căn cơ rất tốt, nên lập tức mở thiên mục cho vị ấy tại tầng rất cao, vị này nhìn thấy

được rất nhiều cảnh tượng mà người khác không nhìn thấy. Vị ấy nói với mọi người: 'Ái

chà, tôi thấy toàn bộ trường truyền Pháp đều có Pháp Luân giăng như hoa tuyết rơi lên

thân thể của mọi người; tôi thấy chân thể của Sư phụ Lý Hồng Chí như thế này thế này, tôi

nhìn thấy vòng hào quang của Sư phụ Lý Hồng Chí, thấy được Pháp Luân là như thế như

thế, có bao nhiêu Pháp thân. Thấy tại các tầng khác nhau đều có Sư phụ Lý Hồng Chí

đang giảng Pháp, Pháp Luân đang điều chỉnh thân thể cho học viên như thế nào. Còn thấy

rằng khi Sư phụ giảng bài thì từng tầng từng tầng tại các tầng khác nhau đều có công thân

của Sư phụ đang giảng; ngoài ra còn thấy các thiên nữ trải hoa, v.v.' Vị ấy đều nhìn thấy

được những điều mỹ diệu như thế, điều ấy nói lên rằng căn cơ của cá nhân này rất khá. Vị

ấy nói tới nói lui, cuối cùng nói một câu: 'Tôi không tin những điều này'. Có rất nhiều

điều đã được khoa học hiện hữu này chứng thực rồi, có rất nhiều điều có thể lý giải từ

Căn cơ

158

khoa học hiện hữu này, có nhiều điều mà chúng ta cũng luận [giải] được rồi. Bởi vì chỗ

nhận thức của khí công thật sự vượt trên nhận thức của khoa học; điều này là khẳng định.

Như vậy có thể thấy rằng căn cơ không hoàn toàn ước chế ngộ tính.

Ngộ

"Ngộ" là gì? Danh từ "ngộ" xuất phát ban đầu trong tôn giáo. Trong Phật giáo là nói

về việc người tu luyện lý giải đối với Phật Pháp thế nào, ngộ trên nhận thức và ngộ cuối

cùng, là ý nói về 'huệ ngộ'. Tuy nhiên hiện nay đã đưa vào ứng dụng ở người thường, nói

rằng cá nhân ấy rất thông minh, biết được trong tâm của lãnh đạo đang nghĩ gì, lập tức có

thể lĩnh hội được ngay, khi lãnh đạo có mặt liền có thể làm vừa lòng. Người ta giảng rằng

như thế là ngộ tính tốt; [họ] thường lý giải như vậy. Tuy nhiên [khi] chư vị vượt qua tầng

của người thường, đến tầng cao hơn một chút, thì chư vị liền phát hiện rằng, [đạo] lý ở chỗ

nhận thức của người thường, thông thường là sai. 'Ngộ' mà chúng tôi nói đến hoàn toàn

không phải là cái 'ngộ' ấy. Ngộ tính của kẻ khôn khéo quá trái lại là không tốt; bởi vì kẻ

thông minh thái quá sẽ thực hiện hời hợt bề mặt, lấy lòng lãnh đạo vừa ý thượng cấp.

Công việc thật sự chẳng phải để người khác làm hay sao? Như vậy họ sẽ mắc nợ những

thứ của người khác; bởi vì họ khôn, họ sẽ biết lấy lòng người, họ có thể được nhiều thứ

tốt, người khác do vậy sẽ phải nhận nhiều thứ xấu; bởi vì họ khôn, nên họ cũng không thể

chịu thiệt, họ không dễ chịu thiệt, và người khác phải chịu thiệt. Họ ngày càng coi trọng

những lợi ích thực tiễn nhỏ nhoi ấy, như vậy bụng dạ của họ ngày càng hẹp hòi, họ ngày

càng cho rằng lợi ích vật chất có được ở nơi người thường mới là những thứ không thể

buông bỏ được, họ cũng nhận rằng bản thân họ coi trọng hiện thực, họ cũng không chịu

thiệt thòi.

Có người còn ngưỡng mộ [kẻ ấy]! Tôi nói với chư vị rằng, chớ có ngưỡng mộ họ.

Chư vị đâu biết rằng họ sống mệt mỏi ra sao, họ ăn không ngon ngủ không yên, trong mơ

cũng lo lợi ích của mình bị tổn thất. Đối với lợi ích cá nhân, họ cứ dùi mãi vào sừng bò,

chư vị nói xem họ sống vậy có mệt mỏi không; cả một đời họ cứ sống vì điều đó. Chúng ta

nói rằng khi gặp mâu thuẫn trước mặt, lùi một bước biển rộng trời trong, đảm bảo sẽ là

một cảnh tượng khác. Nhưng loại người kia sẽ không chịu lùi, họ sống một cách mệt mỏi

nhất, chư vị không được học theo họ. Trong giới tu luyện giảng rằng: những người này là

mê nhất, chỉ vì lợi ích vật chất mà đã hoàn toàn mê tại cõi người thường. Bảo họ thủ đức

ư, không dễ đâu! [Nếu] chư vị bảo họ luyện công, họ có thể không tin: 'Luyện công sao?

Người luyện công các vị đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu. Người ta bắt nạt các vị thật tệ

hại mà trong tâm các vị không được đối xử với người ta như thế, mà trái lại phải cảm tạ

người ta. Các vị đều là A-Q mất rồi! Ai ai cũng bị tâm thần hết cả!' Người như thế, họ

không cách nào lý giải được tu luyện. Họ nói rằng chư vị thật khó hiểu lắm lắm, họ bảo

chư vị mới là ngốc. Chư vị nói xem hoá độ họ có khó không?

'Ngộ' mà chúng tôi nói không phải là cái 'ngộ' ấy. Chính cái mà họ nói là 'ngốc' về

lợi ích vật chất của chúng ta; 'ngộ' mà chúng tôi giảng là cái 'ngộ' ấy. Tất nhiên, không

phải là ngốc thật, chúng ta chỉ là coi nhẹ vấn đề lợi ích thiết thân thôi, còn tại các phương

diện khác, thì chúng ta đều rất sáng suốt. Các công trình khoa học nghiên cứu mà chúng ta

làm, lãnh đạo giao nhiệm vụ nào, hoàn thành công tác nào, chúng ta đều tỉnh táo minh

bạch làm cho thật tốt. Nhưng chính ở điểm lợi ích cá nhân của bản thân chúng ta, [hoặc]

khi gặp mâu thuẫn giữa người với người, [thì] chúng ta coi [chúng] rất nhẹ. Ai nói chư vị

là ngốc? Không ai nói chư vị ngốc cả; đảm bảo là như vậy.

Chúng ta hãy nói về kẻ ngốc trong những kẻ ngốc; cái lý ở trên cao tầng đều phản đảo

lại. Một kẻ ngốc kia ở nơi người thường không thể làm điều xấu gì lớn, không thể đấu

tranh chỉ vì lợi ích cá nhân, không cầu danh, và vị ấy không tổn đức. Nhưng người khác

lại cấp đức cho vị ấy; đánh vị ấy, [nhục] mạ vị ấy đều là cấp đức cho vị ấy; mà chủng vật

Ngộ

159

chất này cực kỳ trân quý. Trong vũ trụ này của chúng ta có [Pháp] lý thế này: bất thất giả

bất đắc, đắc tựu đắc thất. Người ta nhìn thấy kẻ đại ngốc, ai đều lăng mạ: 'Mi là đồ ngốc'.

Thuận theo lời [nhục] mạ tuôn ra từ cái mồm kia, thì một khối đức đã bay sang. Chư vị

chiếm tiện nghi nên thuộc về bên được, như vậy chư vị phải mất. Đi qua đá cho vị ấy một

cước: 'Đồ đại ngốc nhà mi'. Tốt thôi, một khối đức lại bay sang. Ai nạt dối vị ấy, ai đá vị

ấy, vị ấy cũng đều khoan khoái: 'Các ngươi cứ đến đi, thế nào cũng cấp đức cho ta mà, ta

không đẩy ra chút nào hết đâu!' Như vậy nếu chiểu theo [Pháp] lý tại cao tầng, thì mọi

người nghĩ xem, hỏi ai khôn? Chẳng phải vị ấy khôn là gì? Vị ấy là khôn nhất. Vị ấy

không rơi rớt chút đức nào hết, còn chư vị cấp đức cho vị ấy, vị ấy cũng không đẩy trở lại

một chút nào, đều nhận hết, nhận một cách rất khoan khoái. Đời này ngốc đời sau không

ngốc, nguyên thần không ngốc. Trong tôn giáo giảng rằng, người kia nếu nhiều đức, thì

đời sau làm quan lớn, phát tài lớn, đều dùng đức mà giao hoán.

Chúng tôi giảng, đức có thể trực tiếp diễn hoá [trở] thành công. Chư vị tu cao được

đến đâu, chẳng phải chính là đức kia diễn hoá mà thành? Nó trực tiếp có thể diễn hoá [trở]

thành công. Quyết định tầng của người ta cao thấp ra sao, công lực lớn nhỏ thế nào, chẳng

phải chính là do chủng vật chất ấy diễn hoá mà thành? Chư vị nói xem nó có trân quý

không? Nó quả là mang theo đến khi sinh, mang theo đi khi chết. Trong Phật giáo giảng

rằng chư vị tu luyện cao đến đâu, đó là quả vị của chư vị. Chư vị phó xuất nhiều đến đâu,

thì sẽ đắc được nhiều đến đó; đấy chính là đạo lý. Trong tôn giáo giảng rằng, có đức mà

đến đời sau thì sẽ làm quan lớn, phát tài lớn. Ít đức thì có xin ăn cũng không được [ai cho],

bởi vì không có đức giao hoán; bất thất bất đắc! Không một chút đức, thì sẽ hình thần toàn

diệt, sẽ chết thật sự.

Quá khứ có một khí công sư, khi mới xuất sơn có tầng khá cao; khí công sư này về

sau đã rớt ở nơi danh lợi. Sư phụ anh ta đã mang phó nguyên thần của anh ta đi, bởi vì anh

ta cũng thuộc về [môn] tu luyện phó nguyên thần. Khi còn phó nguyên thần tại đó, thì [anh

ta] chịu sự khống chế của phó nguyên thần. Lấy một ví dụ; một hôm đơn vị [công tác]

phân nhà, lãnh đạo nói: 'Ai thiếu nhà ở hãy qua đây, trình bày hoàn cảnh, nói xem cá nhân

cần nhà ở như thế nào'. Mỗi người đều nói về mình, riêng anh kia không nói gì cả. Cuối

cùng lãnh đạo xét qua liền thấy rằng anh này khó khăn hơn mọi người khác, cần cấp nhà

cho anh ta. Người khác nói: 'Không được, nhà ấy không thể cấp cho anh ta, cần cấp cho

tôi, tôi cần căn hộ như thế như thế'. Anh ta nói: 'Thế thì ông lấy đi'. Nếu người thường

xét, thì cá nhân kia thật ngốc. Có người biết rằng anh ta là người luyện công, bèn hỏi anh

ta: 'Người luyện công các anh không muốn gì cả; hỏi anh muốn gì?' Anh ta nói: 'Điều

người khác không muốn, tôi muốn'. Thực ra anh ta không ngốc chút nào hết, rất tinh

minh. Chính về mặt lợi ích thiết thân của cá nhân, thì đối đãi như vậy; anh ta giảng tuỳ kỳ

tự nhiên. Người kia lại hỏi: 'Hiện nay có gì mà người ta không muốn?' Anh ta nói: 'Cái

cục đá bị đá đi đá lại trên mặt đất kia là không ai cần cả; vậy tôi nhặt cục đá ấy'. Người

thường thấy vậy thật không thể hiểu nổi; người thường không thể lý giải được người luyện

công, không cách nào lý giải được; cảnh giới tư tưởng khác nhau quá xa, cách biệt về tầng

quá to lớn. Tất nhiên anh ta sẽ không nhặt cục đá ấy đâu, anh ta nói ra [Pháp] lý mà người

thường không ngộ ra được: 'Tôi không cầu những thứ của người thường'. Hãy nói về cục

đá ấy; mọi người đều biết trong kinh Phật viết: [ở] thế giới Cực Lạc cây cũng là vàng, đất

cũng là vàng, chim cũng là vàng, hoa cũng là vàng, nhà cũng là vàng, ngay cả Phật thể

cũng lấp lánh ánh vàng kim. Đến đó sẽ không tìm đâu được một cục đá; nghe nói tiền để

tiêu ở đó chính là đá; anh ta rồi sẽ không mang được cục đá lên trên đó đâu, nhưng anh ta

đã nói lên được một [Pháp] lý mà người thường không lý giải được. Người luyện công thật

sự giảng rằng: những cái mà người thường vẫn truy cầu thì chúng tôi không truy cầu; thứ

mà người thường có thì chúng tôi cũng không quan tâm; nhưng thứ mà chúng tôi có thì

người thường có muốn cũng không được.

Ngộ

160

Thực ra, 'ngộ' mà chúng tôi vừa giảng, nó vẫn còn thuộc về loại 'ngộ' trong quá trình

tu luyện, nó hoàn toàn tương phản với cái 'ngộ' ở nơi người thường. 'Ngộ' chân chính của

chúng ta, chính là nói về Pháp mà sư phụ giảng trong quá trình chúng ta luyện công, Đạo

mà sư phụ trong Đạo gia giảng, trước những ma nạn bản thân gặp phải trong quá trình tu

luyện, thì có thể ngộ được rằng bản thân là người tu luyện hay không, có thể lý giải [theo

Pháp] hay không, có thể tiếp thụ [Pháp] hay không, trong quá trình tu luyện có thể chiểu

theo Pháp mà hành xử hay không. Có người có làm thế nào mà giảng họ cũng không tin,

vẫn [chỉ tin vào] những lợi ích thiết thực nơi người thường. Họ vẫn ôm giữ những quan

niệm cố hữu mà không bỏ, làm cho [họ] không thể tin [vào Pháp]. Có người muốn trị

bệnh, ở đây tôi giảng khí công hoàn toàn không phải dùng để trị bệnh, tư tưởng của họ liền

cảm thấy phản đối, từ đó không tin vào những điều giảng sau đó nữa.

Có người không nâng ngộ tính lên được; có người lấy cuốn sách này của tôi mà tuỳ

tiện vẽ vẽ vạch vạch vào đó. Những ai đã khai [mở] thiên mục trong chúng ta đều thấy

rằng, cuốn sách này nhìn là thấy ngũ quang thập sắc, lấp lánh ánh vàng kim, mỗi chữ đều

là hình tượng Pháp thân của tôi. Nếu tôi nói lời giả thì chính là lừa đảo mọi người; đường

vẽ kia từ bút của chư vị là đen thui, chư vị dám tuỳ tiện vẽ lên đó là sao? Chúng tôi đang

làm gì tại nơi đây? Chẳng phải đưa chư vị tu lên trên là gì? Có những sự việc chư vị cũng

cần suy nghĩ một chút; cuốn sách này có thể chỉ đạo chư vị tu luyện; chư vị có nghĩ rằng

nó trân quý hay không? Chư vị bái Phật có thể làm cho chư vị tu luyện chân chính không?

Chư vị rất thành kính, chẳng dám chạm khẽ vào tượng Phật, hàng ngày đốt hương cho

tượng; vậy mà chư vị dám làm hư hại Đại Pháp vốn thật sự có thể chỉ đạo chư vị tu luyện.

Giảng về vấn đề ngộ tính của con người, đây mới chỉ là trong quá trình tu luyện, với

những điều nào đó hay Pháp nào đó xuất hiện tại các tầng hoặc trong những gì sư phụ

giảng, thì chư vị lý giải chúng đến mức độ nào. Tuy nhiên vẫn chưa phải là 'ngộ căn bản'

mà chúng tôi nói đến; 'ngộ căn bản' chúng tôi nói đến chính là trong những năm tháng

cuộc đời của họ, từ khi bắt đầu tu luyện, không ngừng thăng hoa lên trên, không ngừng

vứt bỏ các tâm chấp trước các chủng dục vọng của con người, công cũng không ngừng

tăng trưởng lên trên, cuối cùng đã liên tục đi cho đến bước cuối cùng con đường tu luyện

của mình. Toàn bộ chủng vật chất đức cũng đã diễn hoá [trở] thành công, con đường tu

luyện mà sư phụ an bài cho cũng đã đi đến đầu chót rồi; tại đúng tích tắc ấy, nổ "păng"

một cái là mở tung các khoá. Thiên mục đạt đến điểm cao nhất trong tầng sở tại của họ,

thấy được chân tướng trong các không gian trong tầng sở tại của họ, hình thức tồn tại của

các thể sinh mệnh của các thời-không, hình thức tồn tại của vật chất trong các thời-không,

nhìn thấy được chân lý trong vũ trụ chúng ta. Thần thông đại hiển, đều có thể câu thông

với các loại thể sinh mệnh. Đến bước đó thì chẳng phải đã là Đại Giác Giả là gì? Người đã

tu luyện giác ngộ rồi đúng không? Phiên [dịch] sang tiếng Ấn Độ cổ thì chính là Phật

{Buddha}.

Ngộ mà chúng tôi giảng ấy, ngộ căn bản ấy vẫn thuộc về hình thức 'đốn ngộ'. 'Đốn

ngộ' tức là trong những năm tháng cuộc đời thì họ bị khoá, không biết công của mình cao

đến đâu, không biết hình thái mà công mình luyện được là gì, hoàn toàn không có phản

ứng gì, thậm chí các tế bào của thân thể bản thân mình đều bị khoá, công luyện xuất ra

được đều bị khoá; liên tục tu luyện cho đến bước cuối cùng rồi mới được mở tung ra. Đây

phải là người đại căn khí mới có thể làm vậy, tu luyện rất khổ. Bắt đầu từ chỗ làm con

người tốt [rồi tu] lên, một mực đề cao tâm tính bản thân mình, một mực chịu khổ, một

mực tu lên trên, một mực yêu cầu đề cao tâm tính, nhưng lại không thấy được công của

bản thân mình. Loại người này tu khó khăn nhất, đây phải là người đại căn khí; tu biết bao

nhiêu năm, mà không biết được gì.

Còn một loại nữa gọi là 'tiệm ngộ'. Ngay từ đầu có rất nhiều người đều cảm thấy

Pháp Luân đang xoay chuyển, đồng thời tôi cũng giúp mọi người khai [mở] thiên mục. Có

Ngộ

161

người vì nguyên nhân này khác, sẽ từ chỗ nhìn không thấy cho đến chỗ nhìn thấy được, từ

chỗ nhìn không rõ cho đến chỗ nhìn được rõ, từ chỗ không dùng được đến chỗ sử dụng

được, không ngừng đề cao tầng. Thuận theo việc tâm tính chư vị đề cao lên và tâm chấp

trước vứt bỏ đi, các chủng công năng đều xuất ra ngoài. Sự diễn biến của toàn bộ quá trình

tu luyện, quá trình chuyển hoá thân thể đều xảy ra những biến đổi trong trạng thái mà bản

thân chư vị có thể thấy hoặc cảm nhận được. Cứ như thế mà cho đến bước cuối cùng, hoàn

toàn nhận thức được chân lý của vũ trụ, tầng đã đạt đến đỉnh điểm cao nhất mà chư vị nên

phải tu luyện đến được. Sự biến hoá của bản thể, gia trì của công năng đều đã đạt đến một

mức độ nhất định, dần dần cũng đạt mục đích ấy. Điều này thuộc về tiệm ngộ. Phương

pháp tu luyện theo loại tiệm ngộ cũng không dễ dàng gì, đã có công năng rồi, có những

người tâm chấp trước chưa vứt bỏ, nên rất dễ hiển thị, nên dễ phạm phải điều xấu. Như

vậy chư vị sẽ mất công, chư vị sẽ tu mà như không, cuối cùng sẽ huỷ [hoại]. Có người có

thể nhìn, có thể thấy sự thể hiện của các chủng sinh mệnh tại các tầng khác nhau, họ có thể

bảo chư vị làm điều này điều nọ, họ có thể bảo chư vị luyện những thứ của họ, thu chư vị

làm đồ đệ, nhưng bản thân họ lại không thể [giúp] chư vị đắc chính quả, bởi vì họ cũng

không đắc chính quả.

Ngoài ra, người ở cao tầng đều là Thần, biến thành rất to lớn, thần thông đại hiển, hễ

tâm bất chính, chư vị liền đi theo họ phải không? Một khi chư vị đi theo họ, thì đã tu lại

như không. Dẫu họ là Phật thật, là Đạo thật, thì chư vị cũng phải tu luyện lại từ đầu.

Người ở biết bao nhiêu tầng trời, đó chẳng phải Thần Tiên là gì? Chỉ có tu luyện đến tầng

cực cao, sau khi đạt được mục đích rồi, thì mới có thể hoàn toàn nhảy vượt ra. Tuy nhiên,

trước mắt một con người bình thường thì Thần Tiên ấy thực sự hiển thị vừa cao vừa lớn,

bản sự cũng rất to lớn; nhưng có thể họ chưa hề đắc chính quả. Khi chịu can nhiễu của các

chủng tín tức, trong các cảnh tượng dụ dỗ mê hoặc, chư vị có thể bất động tâm được hay

không? Vậy mới nói khai mở thiên mục tu cũng khó, giữ vững tâm tính càng khó hơn. Tuy

nhiên rất nhiều người trong chúng ta sẽ giữa chừng được đả khai công năng cho chư vị,

tiến nhập vào trạng thái tiệm ngộ. Thiên mục của ai cũng được khai [mở], rất nhiều người

có công năng [nhưng] không cho phép chư vị được xuất ra. Khi tâm tính chư vị dần dần đề

cao đến một tầng nhất định, khi tâm thái ổn định và có thể giữ vững bản thân, thì sẽ lập

tức khai nổ cho chư vị. Đến tầng ấy sẽ cho phép chư vị xuất hiện trạng thái tiệm ngộ; lúc

đó đã dễ dàng giữ vững bản thân rồi, các chủng công năng đều đã xuất hiện rồi, bản thân

tu lên trên, cho đến cuối cùng hoàn toàn khai [mở]. Đến giữa chừng quá trình tu luyện sẽ

cho phép chư vị xuất hiện [công năng], chúng ta có rất nhiều người thuộc loại này; do đó

mọi người đừng sốt ruột [mong] nhìn thấy được.

Có thể mọi người đã nghe qua thuyết Thiền tông cũng giảng về phân biệt 'đốn' và

'tiệm'. Lục tổ Huệ Năng của Thiền tông giảng đốn ngộ, Thần Tú ở Bắc Phái giảng tiệm

ngộ. Tại lịch sử giữa hai vị này đã phát sinh cuộc tranh luận rất lâu dài trong Phật học,

tranh luận tới lui mãi. Tôi nói rằng thật vô nghĩa; tại sao? Bởi vì [ngộ mà] họ nói chẳng

qua là về nhận thức đối với [Pháp] lý trong quá trình tu luyện. Về [Pháp] lý ấy, có người

lập tức nhận thức ra ngay; có người ngộ ra, nhận thức ra một cách từ từ. Ngộ thế nào là

không được? Lập tức nhận thức ra thì tốt hơn, ngộ ra một cách từ từ thì cũng được; chẳng

phải cùng là ngộ? Đều là ngộ cả thôi; do đó không [ai] sai cả.

Người đại căn khí

Thế nào là người đại căn khí? Người đại căn khí có chỗ khác biệt với [người có] căn

cơ tốt hay dở. Người đại căn khí kia vô cùng khó tìm; đều phải trải qua một thời kỳ lịch sử

rất lâu dài, mới có thể xuất sinh một người [như vậy]. Tất nhiên người đại căn khí trước

tiên cần phải có đức rất lớn, trường của chủng vật chất màu trắng ấy rất to lớn; điểm này là

Người đại căn khí

162

khẳng định. Đồng thời họ phải có thể chịu cái khổ trong những cái khổ, còn phải có tâm

Đại Nhẫn, còn phải có thể xả, còn phải có thể thủ đức, còn phải có ngộ tính tốt, v.v.

Thế nào là 'cái khổ trong những cái khổ'? Trong Phật giáo nhận thức rằng làm người

là khổ; hễ chư vị làm người, thì phải chịu khổ. Nó cho rằng sinh mệnh của tất cả các

không gian đều không có cái thân thể người thường này của chúng ta, nên sẽ không mắc

bệnh, cũng không tồn tại vấn đề sinh lão bệnh tử, nên cũng không tồn tại loại thống khổ

như thế. Người tại không gian khác có thể phiêu [đãng bay] lên, không có [trọng lượng]

nặng nhẹ, mỹ diệu phi thường. Người thường chính là vì có cái thân thể này, nên xuất hiện

một vấn đề: lạnh không chịu được, nóng không chịu được, khát không chịu được, đói

không chịu được, mệt không chịu được, lại còn có sinh lão bệnh tử; thế nào thì chư vị

cũng không thể thoải mái.

Tôi đã từng xem một tờ báo đăng rằng khi có địa chấn ở Đường Sơn, đã có rất nhiều

người tử vong trong trận động đất ấy; nhưng có một số người được cứu sống lại. Một cuộc

điều tra xã hội đặc biệt đã được thực hiện dành cho bộ phận những người này: hỏi xem họ

có cảm giác gì khi ở trong trạng thái tử vong? Nhưng bất ngờ là những người đó đều nói

về một tình huống đặc thù, hơn nữa đều giống nhau; chính là khi người ta vào đúng tích

tắc đang chết ấy không có cảm giác sợ hãi, mà hoàn toàn trái lại đột nhiên cảm thấy một

loại cảm [giác] giải thoát, có một loại cảm [giác] hưng phấn tiềm tại; có người cảm thấy

lập tức không còn sự câu thúc của thân thể nữa, nhẹ nhàng phiêu đãng bay lên một cách

rất tuyệt đẹp, còn nhìn thấy được thân thể của mình; có người còn thấy được các thể sinh

mệnh ở không gian khác; có người còn đến các địa phương nào đó. Tất cả mọi người đều

nói rằng vào đúng tích tắc ấy cảm giác thấy một loại cảm giác hưng phấn giải thoát tiềm

tại, không có cảm giác thống khổ. Nghĩa là chúng ta có nhục thân của con người chính là

khổ; tuy nhiên mọi người đều từ thai mẹ mà ra như thế cả, nên cũng không biết [thế là]

khổ.

Tôi nói rằng con người phải chịu khổ trong những cái khổ. Hôm rồi tôi đã nói, khái

niệm không gian thời-không ở nhân loại và của thời-không lớn hơn khác là khác nhau; ở

đây một thời thần của chúng ta là hai giờ đồng hồ, thì lại là một năm ở không gian của họ.

Nếu cá nhân kia ở hoàn cảnh khổ thế này mà luyện công, thì thật khá lắm; nếu cá nhân kia

có tâm cầu Đạo, mong muốn tu luyện, thì cá nhân ấy quả thật xuất sắc. Khổ đến như thế

mà vị ấy vẫn chưa rơi mất bản tính của mình, vị ấy vẫn còn muốn tu luyện quay trở về. Vì

sao có thể giúp đỡ người tu luyện một cách vô điều kiện? Chính là như vậy đó. Nếu cá

nhân kia ở trong không gian người thường ngồi đả toạ một đêm, người ta hễ nhìn thấy,

liền nói rằng cá nhân ấy quả thực là xuất sắc, anh ta đã ngồi ở nơi ấy sáu năm rồi. Bởi vì

một thời thần của chúng ta là một năm ở nơi đó. [Không gian của] nhân loại chúng ta là

một không gian cực kỳ đặc thù.

Thế nào là chịu khổ trong những cái khổ? Lấy thí dụ; cá nhân kia một hôm đi làm.

Đơn vị [công tác] làm ăn không khá, tình cảnh người làm việc xao lãng mãi là không

được; đơn vị cần cải cách, nhận [nhân viên] hợp đồng; các nhân viên dư ra đều [bị] sa thải.

Cá nhân ấy nằm trong số đó, đột nhiên bị mất miếng cơm. Cảm thấy thế nào? Không còn

chỗ khác để kiếm tiền nữa, vậy sống sao bây giờ? Không còn kỹ năng khác nữa nên đành

buồn bã trở về nhà. Vừa về đến nhà, cụ già ở nhà ngã bệnh rất nặng, bèn vội vội vàng

vàng đưa đến bệnh viện; thật cũng không hề dễ gì mà vay được tiền nhập viện. Rồi quay

về nhà chuẩn bị đồ cho cụ già; vừa mới về nhà, thì thầy giáo ở trường đến bảo: 'Con ông

đánh người ta ghê lắm, ông lập tức đến coi đi'. Xử lý việc đó xong rồi trở về nhà, vừa ngồi

xuống điện thoại liền reo: 'Vợ ông ngoại tình rồi'. Tất nhiên mọi người không gặp phải sự

việc như vậy. Một người bình thường không chịu nổi nỗi khổ ấy, liền nghĩ: 'Sống nữa làm

gì, kiếm cái dây treo lên cho rồi, khỏi sống nữa! Một cái là xong hết!' Tôi nói rằng con

người phải chịu khổ trong những cái khổ; tất nhiên không phải nhất định đều là dưới hình

Người đại căn khí

163

thức ấy. Khi lục đục đấu đá giữa người với người, ma sát về tâm tính, trong khi tranh đoạt

về lợi ích cá nhân thì nó cũng không kém điều đó đâu. Có bao nhiêu người chỉ vì một khẩu

khí mà sống, chịu không nổi liền treo lên mà chết. Do đó chúng ta phải ở trong hoàn cảnh

phức tạp như vậy mà tu luyện, cần chịu khổ trong những cái khổ; đồng thời còn phải có

tâm Đại Nhẫn.

Thế nào là tâm Đại Nhẫn? Đã làm người luyện công thì trước hết phải làm được 'đả

bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu', phải Nhẫn. Nếu không, thì chư vị là người luyện công

[loại] gì vậy? Có người nói: 'Nhẫn đến như thế khó làm lắm, tính tôi vốn nóng nảy'. Nóng

tính thì phải sửa; người luyện công nhất định phải Nhẫn. Có người khi quản giáo con cái

cũng nóng giận, nổi cơn tam bành; khi quản giáo con cái thì chư vị đừng làm thế, chư vị

không được thật sự nóng giận; chư vị cần giáo dục con cái một cách có lý trí, như thế mới

có thể thật sự giáo dục chúng được tốt. Việc nhỏ không nhịn được, đã vội nóng, mà lại

muốn tăng công là sao. Có người nói: 'Đi ngoài đường, bị người ta đá một cước, nhưng

không ai biết mình là ai, thì cũng có thể Nhẫn được'. Tôi nói rằng vậy không đủ; trong

tương lai có khi đang ở trước mặt người mà chư vị không muốn mất mặt nhất thì chư vị bị

người ta tát cho hai cái, không cất đầu lên nổi; chư vị đối đãi vấn đề ấy như thế nào, xem

chư vị có thể Nhẫn được hay không. Nếu chư vị có thể Nhẫn được vững, nhưng trong tâm

vẫn không dứt bỏ, thì như thế vẫn chưa được. Như mọi người đã biết, [khi đã] đạt đến tầng

La Hán, [thì] gặp sự việc gì cũng không để trong tâm, hết thảy những sự việc nơi người

thường đều hoàn toàn không để tâm, đều là vui vẻ thoải mái; chịu thiệt thòi lớn đến mấy,

vẫn cứ vui vẻ thoải mái. [Nếu] thật sự có thể làm được vậy, thì chư vị đã đạt đến quả vị sơ

cấp của La Hán.

Có người nói: 'Nhẫn kia phải đến mức độ ấy thì người thường sẽ nói chúng ta quá

nhu nhược, quá dễ bị bắt nạt'. Tôi nói rằng, đó không phải là nhu nhược. Mọi người thử

nghĩ xem, những người cao tuổi và người có văn hoá ở nơi người thường cũng giảng về

hàm dưỡng như thế, không so đo với người khác. Huống nữa là người luyện công? Như

vậy đâu phải là nhu nhược? Tôi nói đó là thể hiện của tâm Đại Nhẫn, là thể hiện của ý chí

kiên cường; chỉ người luyện công mới có thể có tâm Đại Nhẫn như vậy. Có câu rằng:

'Thất phu bị nhục, tuốt kiếm tương đấu'. [Đạo lý ấy] là đương nhiên đối với người

thường: ông [nhục] mạ tôi thì tôi [nhục] mạ ông, ông đánh tôi thì tôi đánh ông. Như thế

chính là người thường rồi, có thể nói họ là người luyện công hay không? Là một người

luyện công, nếu chư vị không có ý chí kiên cường, nếu chư vị không khống chế được bản

thân, thì chư vị không thể làm được việc này.

Mọi người đều biết [Trung Quốc] cổ đại có Hàn Tín, kể rằng Hàn Tín rất có bản lĩnh,

là đại tướng quân của Lưu Bang, là bậc lương đống của quốc gia. Vì sao có thể có năng

lực lớn vậy? Kể rằng Hàn Tín từ tấm bé đã khác người bình thường. Có điển cố về chuyện

Hàn Tín chịu nhục chui háng. Thời thiếu niên Hàn Tín luyện võ; người luyện võ đều

khoác bảo kiếm. Một hôm đi ngoài đường, có một kẻ vô lại tay chống nạnh chặn đường

anh ta và nói: 'Ngươi khoác kiếm làm gì? Ngươi dám sát nhân không? Ngươi dám sát

nhân thì hãy chặt đầu ta đi'. [Kẻ vô lại] vừa nói vừa vươn cổ ra. Hàn Tín nghĩ: 'Mình chặt

đầu hắn làm gì?' Vào thời ấy nếu chặt đầu người ta sẽ bị báo quan đền mạng, hỏi có thể

tuỳ tiện sát nhân không? Kẻ kia thấy Hàn Tín không dám giết, bèn nói: 'Ngươi không dám

giết ta, vậy ngươi chui háng ta'. Hàn Tín thật sự đã chui qua háng của kẻ kia. Điều đó đã

chứng tỏ rằng Hàn Tín có tâm Đại Nhẫn thật phi thường. Ông ta không giống như người

bình thường khác, vậy nên ông mới làm được những việc to lớn. 'Con người tranh hơn

nhau khẩu khí', ấy là câu nói của người thường. Nếu sống là vì chút khẩu khí, mọi người

thử nghĩ xem sống như thế có mệt mỏi không? Có khổ sở không? Có đáng vậy không?

Hàn Tín dù sao thì cũng chỉ là người thường, chúng ta là người tu luyện, chúng ta còn phải

hơn cả ông ta nữa. Mục tiêu của chúng ta là đạt đến tầng siêu xuất khỏi người thường,

Người đại căn khí

164

hướng đến tầng cao hơn mà tiến đến. Việc như [Hàn Tín] thì chúng ta không gặp, [nhưng]

người tu luyện tại người thường khi chịu khuất nhục, khi chịu tủi nhục, cũng không nhất

định là thua kém. Ma sát tâm tính giữa người với người, tôi nói rằng cũng không kém sự

việc trên, có [việc] còn hơn cả như thế, cũng rất khó khăn.

Đồng thời người tu luyện còn phải 'xả', xả bỏ các chủng chấp trước các chủng dục

vọng của người thường. Không thể làm xong ngay một lúc được, chúng ta có thể từ từ mà

làm. Hôm nay chư vị lập tức làm được thế, thì hôm nay chư vị chính là Phật. Tu luyện cần

từ từ mà làm, nhưng chư vị không được buông lơi. Chư vị nói: 'Sư phụ giảng rồi, tu luyện

cần từ từ mà làm, vậy nên từ từ mà làm'. Không thể như thế được! Chư vị phải yêu cầu

một cách nghiêm khắc, tu luyện Phật Pháp yêu cầu chư vị dũng mãnh tinh tấn.

Còn phải thủ đức, phải giữ tâm tính, không thể làm bừa. Chư vị không được tuỳ tiện

muốn làm gì liền làm nấy, chư vị phải có thể giữ vững tâm tính của mình. Mọi người

thường nghe câu như thế này trong người thường: tích đức làm việc tốt. [Nhưng] người

luyện công không giảng tích đức, chúng ta giảng 'thủ đức'. Tại sao giảng thủ đức? Bởi vì

chúng tôi thấy được tình huống như thế này: tích đức là điều giảng nơi người thường, họ

cần tích đức, hành Thiện, đời sau [sống] tốt. Nhưng chúng ta tại đây không có vấn đề này;

nếu chư vị tu thành tức là đắc Đạo xong, thì không còn đời sau nữa. Tại đây chúng ta

giảng thủ đức; còn có một tầng ý nghĩa nữa, tức là, hai chủng vật chất mà chúng ta đem

theo bên thân thể kia không phải là do một đời tích luỹ mà thành, chúng đã từ niên đại xa

xưa di lưu lại. Chư vị đi xe khắp thành phố, cũng không nhất định gặp được việc tốt mà

làm. Hàng ngày chư vị làm thế, cũng không nhất định gặp.

Còn có một tầng ý nghĩa nữa, [nếu] để chư vị tích đức, chư vị coi thấy việc kia là việc

tốt, nhưng [hễ] chư vị thực hiện, có khi lại hoá ra là việc xấu; khi mà chư vị coi việc này là

xấu mà chư vị lại quản [nó], có khi lại hoá ra là việc tốt. Tại sao? Bởi vì chư vị không nhìn

thấy được quan hệ nhân duyên ở trong đó. Pháp luật quản những việc nơi người thường,

như thế không thành vấn đề. Làm người luyện công đã là siêu thường rồi, chư vị đã là

người siêu thường rồi, nên phải dùng [Pháp] lý siêu thường để yêu cầu chư vị, chứ không

thể dùng [đạo] lý nơi người thường để nhận định. Chư vị không biết được quan hệ nhân

duyên của một sự việc, nên chư vị dễ sai sót nếu thực hiện việc đó. Do đó chúng tôi giảng

'vô vi', chư vị không thể muốn làm gì liền làm nấy. Có người nói: 'Tôi [chỉ] muốn xử lý

những kẻ xấu'. Tôi nói rằng người này mà làm cảnh sát là được đấy. Tuy nhiên chúng ta

cũng không thể không làm gì khi gặp chuyện sát nhân phóng hoả. Tôi giảng cho mọi

người: giữa người với người mà phát sinh mâu thuẫn, vị kia đá người ta một cước, vị này

đấm người ta một quyền, thì có thể là trước đây người kia nợ vị ấy, nay hai người tính sổ

[với nhau]. Nếu chư vị xử lý vào, thì giữa họ không kết được, phải đợi đến sau này làm

lại. Tức là chư vị không thấy được quan hệ nhân duyên, dễ làm điều xấu, từ đó tổn đức.

Người thường quản sự việc của người thường thì không hề gì, họ dùng [đạo] lý của

người thường mà nhận định. Chư vị phải dùng [Pháp] lý siêu thường mà nhận định;

[nhưng nếu] chư vị thấy [việc] sát nhân phóng hoả mà không quản thì đó lại là vấn đề tâm

tính; nếu không thì thể hiện là người tốt sao được? Sát nhân phóng hoả mà chư vị cũng

chẳng quản, thì hỏi chư vị quản việc gì nữa đây? Tuy nhiên có một điểm: những việc ấy

không có chút quan hệ nào đến người tu luyện chúng ta. Không nhất định là đã an bài cho

chư vị như thế, không nhất định để chư vị gặp. Chúng ta giảng thủ đức là để chư vị tránh

phạm điều xấu; có khi chư vị vừa mới làm chút gì đó, như thế đã là làm điều xấu rồi, như

thế chư vị phải thất đức. Hễ chư vị thất đức, thì hỏi chư vị đề cao lên trên thế nào đây?

Làm thế nào đạt đến mục tiêu cuối cùng của chư vị? Tại đây có vấn đề như thế. Ngoài việc

đó ra, còn phải có ngộ tính tốt, căn cơ tốt có thể có ngộ tính tốt, ảnh hưởng của hoàn cảnh

cũng có tác dụng.

Người đại căn khí

165

Chúng tôi cũng giảng, nếu ai ai trong chúng ta cũng đều hướng nội mà tu, ai ai cũng

tìm trong tâm tính của bản thân mình cho ra nguyên nhân ở tự mình đã không làm tốt, để

lần sau làm cho tốt, khi thực thi đều nghĩ đến người khác. Như thế xã hội nhân loại sẽ biến

đổi thành tốt, đạo đức cũng thăng hoa trở lại, văn hoá tinh thần cũng tốt lên, tình trạng trị

an cũng tốt, có khi cũng chẳng còn cảnh sát nữa. Không cần ai quản, [mà] ai ai cũng đều

tự quản, hướng tâm của bản thân mà tìm; chư vị thấy thế có tốt không. Như mọi người đã

biết pháp luật ngày nay đang dần dần kiện toàn, dần dần hoàn thiện, nhưng có người vì sao

vẫn làm điều xấu? Có pháp [luật] mà không [tuân] theo là sao? Chính là vì chư vị không

quản được tâm của họ; lúc không nhìn thấy, họ vẫn làm điều xấu. Nếu như ai ai cũng đều

hướng vào nội tâm mà tu, thì hiển nhiên sẽ khác hẳn. Cũng không cần chư vị chống đối lại

những điều bất bình nữa.

Pháp chỉ có thể giảng đến tầng này thôi, cao hơn nữa thì cần dựa vào bản thân chư vị

tu rồi mới đắc. Có người hỏi các vấn đề càng ngày càng cụ thể; [nếu] các vấn đề sinh hoạt

[cụ thể] ra làm sao cũng để tôi giải đáp, thì bản thân chư vị tu luyện gì nữa! Chư vị phải tự

mình mà tu, tự mình mà ngộ; nếu tôi giảng hết cả ra rồi, thì chư vị tu gì nữa. Điều tốt là

Đại Pháp đã truyền xuất ra rồi, chư vị có thể chiểu theo Đại Pháp mà làm.

* * * * * * * * *

Tôi nghĩ rằng thời tôi truyền Pháp nói chung sắp kết thúc, do đó [tôi] muốn lưu lại cho

mọi người những điều chân chính, thuận tiện cho mọi người trong khi tu luyện từ nay trở

về sau, đều có Pháp chỉ đạo mọi người. Trong toàn bộ quá trình truyền Pháp, tôi cũng chịu

trách nhiệm đối với mọi người, đồng thời cũng chịu trách nhiệm đối với xã hội; trên thực

tế tôi cũng thực thi dựa trên nguyên tắc đó; còn như việc thực thi ấy hay dở thế nào thì tôi

không giảng nói, đã tự có công luận. Nguyện vọng của tôi là đưa Đại Pháp này truyền xuất

ra, để cho chúng ta có nhiều người hơn nữa thu được lợi ích, làm cho những người thật sự

muốn tu luyện sẽ theo Pháp mà tu luyện lên trên. Đồng thời trong quá trình truyền Pháp,

chúng tôi cũng giảng đạo lý làm người; cũng mong rằng chư vị từ sau khi học lớp này trở

đi, nếu như không phải là người có thể chiểu theo Đại Pháp mà tu luyện, thì ít nhất cũng

có thể làm người tốt; như vậy cũng có lợi ích đối với xã hội chúng ta. Thực ra chư vị đã

làm người tốt rồi, từ nay trở đi, chư vị cũng có thể làm người tốt.

Trong quá trình truyền Pháp cũng có những chỗ không thuận lợi, can nhiễu đủ mọi

phương diện cũng rất lớn. Nhờ đơn vị chủ quản và giới lãnh đạo các cấp đã góp sức hỗ trợ

cũng như nỗ lực của các nhân viên công tác, lớp học của chúng ta đã viên mãn rất tốt đẹp.

Tại lớp, những điều tôi giảng đều là những điều chỉ đạo mọi người tu luyện lên trên

cao tầng; trong giảng Pháp tại quá khứ đều không có ai giảng những điều ấy. Những điều

tôi giảng đã minh [bạch] phi thường, kết hợp với khoa học hiện đại và nhân thể học hiện

đại mà giảng, hơn nữa điều giảng có tầng rất cao. Chủ yếu là vì mọi người, để cho mọi

người sau này có thể đắc Pháp một cách chân chính, tu luyện lên trên; ấy là xuất phát điểm

của tôi. Trong quá trình tôi truyền Pháp truyền công có rất nhiều người cho rằng Pháp này

tốt lắm nhưng thực hiện lại khó quá. Thực ra tôi thấy rằng khó hay không khó; đối với một

người nào đó mà xét, một cá nhân hết sức phổ thông, vốn không muốn tu luyện, thì vị ấy

sẽ thấy tu luyện quả thực là khó quá, không thể nghĩ bàn, không [thể] tu thành. Họ là

người thường, họ không muốn tu luyện, thì họ sẽ thấy rất khó. Lão tử giảng: "Thượng sỹ

văn Đạo, cần nhi hành chi; trung sỹ văn Đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sỹ văn Đạo, đại

tiếu chi; bất tiếu bất túc dĩ vi Đạo." [Đối với] người tu luyện chân chính, tôi nói rằng [nó]

rất dễ, [nó] không phải là cái gì đó cao quá không với tới được. Thực ra có rất nhiều học

viên lâu năm ngồi tại đây và học viên lâu năm không có mặt ở đây đã tu luyện lên đến

tầng rất cao rồi. Tôi không giảng cho chư vị điều ấy vì e rằng chư vị sẽ sản sinh tâm chấp

Người đại căn khí

166

trước, [sản sinh] nhân tố thấy khoan khoái tự mãn cá nhân v.v, sẽ ảnh hưởng đến sự tăng

trưởng công lực của chư vị. Làm người tu luyện chân chính có quyết tâm, họ có thể Nhẫn

được vững chắc; với các chủng lợi ích trước mắt họ có thể vứt bỏ các tâm chấp trước, có

thể coi chúng rất nhẹ, chỉ [những ai] có thể làm được như thế thì mới thấy không khó.

Người nào mà nói là khó, thì chính là vì họ không vứt bỏ được những thứ ấy. Bản thân

công pháp tu luyện không hề khó, bản thân việc đề cao tầng cũng không khó gì hết, mà

chính là tâm con người không vứt xuống được, nên họ mới nói là khó. Bởi vì đang trong

lợi ích hiện thực thì rất khó vứt bỏ nó được, lợi ích kia đang ở đó, chư vị nói xem cái tâm

ấy vứt bỏ như thế nào đây? Họ thấy rằng khó, trên thực tế chính là khó ở chỗ này. Khi

phát sinh mâu thuẫn giữa người với người, chúng ta không Nhẫn được cái khẩu khí kia,

thậm chí còn không thể đối đãi với bản thân mình như là người tu luyện; [thế thì] tôi nói

rằng không được. Thời tôi tu luyện trong quá khứ, có rất nhiều cao nhân đã giảng cho tôi

câu này, họ nói: "Nan Nhẫn năng Nhẫn, nan hành năng hành". Thực ra đúng là như vậy.

Nếu không ngại gì thì khi về nhà chư vị hãy thử đi. Khi gặp khó khăn kiếp nạn, hoặc khi

vượt quan, chư vị hãy thử xem: khó Nhẫn, chư vị hãy cứ Nhẫn xem sao; thấy thật khó làm,

nói là khó làm, chư vị cứ làm xem cuối cùng có làm được chăng. Nếu chư vị có thể thật sự

thực hiện được như vậy, thì chư vị sẽ phát hiện rằng 'liễu ám hoa minh hựu nhất thôn'!

Bởi vì tôi giảng đã nhiều rồi, giảng nhiều quá chư vị khó nhớ hết được. Điểm yêu cầu

chủ yếu mà tôi đề xuất là: mong rằng mọi người từ nay trở đi trong quá trình tu luyện, hãy

thật sự coi mình là người luyện công, tiếp tục tu luyện một cách chân chính. Tôi mong

rằng các học viên mới và cũ đều có thể tu luyện trong Đại Pháp, đều có thể công thành

viên mãn! Mong rằng mọi người về nhà hãy tranh thủ thời gian để thực tu.

* * * * * * * * *

.........

Cuốn «Chuyển Pháp Luân» không đẹp đẽ về văn chương bề mặt, thậm chí không phù

hợp với ngữ pháp hiện đại. Tuy nhiên, nếu tôi dùng ngữ pháp hiện đại để chỉnh lý cuốn

[sách] Đại Pháp này, thì sẽ xuất hiện một vấn đề nghiêm trọng: quy phạm kết cấu của

ngôn ngữ văn chương [dẫu] chau chuốt, nhưng sẽ không có nội hàm cao hơn và sâu hơn.

Bởi vì việc sử dụng từ vựng quy phạm hiện đại hoàn toàn không cách nào biểu đạt được

chỉ đạo của Đại Pháp tại các tầng khác nhau ở cao hơn và biểu hiện của Pháp tại mỗi từng

tầng, cũng như [không thể] dẫn đến diễn hoá [về] bản thể và công của học viên cùng các

loại biến hoá về thực chất trong đề cao [tầng].

.........

Lý Hồng Chí

5 tháng Giêng, 1996

Người đại căn khí

167

Phụ lục - Tra cứu từ ngữ

Tất cả các chú thích trong sách này đều viết theo hiểu biết và tìm tòi chủ quan của người dịch không

phải chính văn, đương nhiên không phải là Pháp, chỉ có tác dụng tham khảo. Người dịch thực hiện công

việc dịch thuật này với tiêu chuẩn "bảo lưu" văn gốc của Sư phụ ở mức tối đa có thể được. Tiêu chuẩn

"văn dịch lưu loát" được xem là thứ yếu. Do vậy văn dịch đọc lên nghe giống "Hán Việt" hơn là "thuần

Việt".

Liệt kê trong phụ lục này chủ yếu là các từ ngữ mà người dịch đã bảo lưu Hán văn, tức là không

dịch sang từ ngữ thuần Việt mà vẫn dùng trực tiếp từ ngữ Hán Việt. Có hai loại chính.

Thứ nhất, các thuật ngữ hay các từ ngữ hay dùng để diễn đạt các khái niệm trong giới tu luyện

nói chung và trong bổn môn Pháp Luân Đại Pháp nói riêng. Ví dụ: nguyên anh, huyền quan, công thân,

thủ ấn, chu thiên. Người dịch nghĩ rằng các từ này không nên dịch mà nên dùng trực tiếp từ ngữ Hán

Việt thì tốt hơn. Tại đây người dịch chỉ cố gắng diễn giải các từ theo chữ nghĩa bề mặt mà không can

thiệp vào hàm nghĩa thâm sâu. Xin đọc giả vui lòng thông qua học Pháp tu luyện, giao lưu tâm đắc thể

hội mà ngộ.

Thứ hai, các từ hoặc các cụm từ khó dịch cho hết nhẽ, thường là các từ liên quan chặt chẽ đến

văn hoá Trung Quốc hoặc gắn chặt vào cấu trúc ngôn ngữ tiếng Hán, do vậy trong từ vựng thuần Việt

không có từ ngữ tương đương, hoặc nếu dịch ra thì khó truyền đạt được sức mạnh ngôn ngữ. Ví dụ: vật

cực tất phản, đả bất hoàn thủ mạ bất hoàn khẩu, nan nhẫn năng nhẫn nan hành năng hành, tu tại tự kỷ

công tại sư phụ. Tại đây người dịch chỉ diễn giải ngắn gọn đủ để hiểu đại khái. Mục đích là để đọc giả

người Việt vượt qua được khoảng cách do văn hoá và ngôn ngữ khác biệt gây nên.

Đối với các tên riêng vốn có nguồn gốc là tiếng nước ngoài, không phải tiếng Hán, người dịch

tuân theo cách dịch đã phổ cập. Có chỗ dùng từ tiếng Hán, ví dụ: Pháp, Anh, Mỹ. Có chỗ dùng tiếng

Anh hoặc từ gốc, ví dụ: Darwin, Afghanistan, Galileo, neutron, neutrino. Tuy nhiên riêng với các từ

ngữ có gốc tiếng Phạn (Sanskrit) thì người dịch giữ nguyên từ ngữ của tiếng Hán. Lý do là tuy các từ

ấy gốc Phạn, nhưng đã được người Hán dùng lâu rồi, một số từ cũng có sắc thái nghĩa mới khác với gốc

Phạn, hơn nữa người Việt đã quen với các từ tiếng Hán này; ví dụ: Thích Ca Mâu Ni, A Di Đà, niết

bàn.

Trong khi dịch không tránh khỏi phải chèn những từ của tiếng Việt vào cho đủ câu đủ ý và có

thể đọc tụng thành tiếng, ví dụ: rằng thì là mà nó tôi... Các chữ chèn ấy được đặt trong ngoặc vuông [].

Cũng có phần chèn trong dấu ngặc nhọn {} ấy là do người dịch tự thêm vào như các chú thích. Mục

đích của việc dùng các dấu ngoặc vuông [] và ngoặc nhọn {} là để người đọc hiểu rằng đó là do người

dịch thêm vào theo chỗ hiểu của bản thân, không chắc hẳn đó là ý của Sư phụ. Cũng vậy, các dấu nháy

do người dịch chèn vào là các dấu nháy đơn '' để khỏi lẫn với các dấu nháy kép "" ở nguyên tác. Sư

phụ thường đặt câu dài, tại đây người dịch cũng bảo lưu câu dài, nhưng dùng thêm dấu chấm phẩy (;)

để tách thành các câu con cho phù hợp với cú pháp tiếng Việt.

Đây là kinh văn Phật gia, tất nhiên hàm nghĩa uyên thâm huyền diệu, người dịch lượng sức hạn

hẹp, chắc chắn còn nhiều sai sót; kính mong các bằng hữu đồng tu góp sức chỉnh lý.

A-Q

: tên nhân vật 'ngu ngốc' trong tiểu thuyết

A-

Q chính truyện

của Trung Quốc.

ái nhân

: vợ|chồng, người yêu; trong sách này

thường để chỉ vợ|chồng.

an đỉnh thiết lư, thái dược luyện đan

: đặt đỉnh

lập lò (

,

), gom thuốc luyện đan.

án ma

: xoa bóp.

anh hài

:

anh

→ đứa bé sơ sinh;

hài

→ đứa trẻ nít.

anh hùng

: người giỏi giang xuất chúng mẫu mực.

bách bộ xuyên dương

: cách trăm bộ xuyên qua

[lá] cây dương [liễu].

bách hội

: huyệt trên đỉnh đầu, căn từ hai lỗ tai

thẳng lên. Khi ngồi đả toạ, đây là điểm cao nhất.

bách mạch

: trăm mạch; nói khái quát tất cả các

mạch trong thân thể, con số thực tế vượt trên 100

rất nhiều.

bạch nhật phi thăng

:

bạch

→ trắng,

nhật

→ mặt

trời,

phi thăng

→ bay lên.

ban vận

: [công năng] vận chuyển, vận chuyển vật

thể;

ban

→ dời, dọn đi;

vận

→ vận chuyển.

bán khai công

: khai công một nửa, một phần.

bán khai ngộ

: khai ngộ một nửa, một phần.

bản lai

: nguyên lai ban đầu là như thế.

bản nguyên

: bản lai nguyên gốc ban đầu.

bản sự

: khả năng, năng lực.

bản thể

: thân thể nguyên bản ban đầu; thân thể đầy

đủ, gồm cả ở không gian này và các không gian

khác.

Phụ lục

bát tiên

: tám vị tiên, tám ông Đạo trong truyền

thuyết lịch sử Trung Hoa.

bất khả tư nghị

: không thể nghĩ bàn; (điều) khó

tin, (điều) phi thường không thể nghĩ bàn.

bất nhị pháp môn

: không [tu] hai pháp môn, chỉ

chuyên nhất vào một pháp môn thôi.

bất thất bất đắc

: không mất [thì] không được.

bất thất giả bất đắc

: ai không mất thì không

được, hễ không mất thì không được.

bất thất giả bất đắc, đắc tựu đắc thất:

kẻ không

mất thì không được, được ắt phải mất.

bất thuần

: không thuần khiết, không thuần tịnh.

bế quan

: đóng cửa; người luyện công một số công

phái khác có hình thức bế quan luyện công trong

một thời gian dài, khi ấy họ không tiếp xúc với bất

kể ai trừ một hai người thân cận.

bệnh độc

: (i) cái độc của bệnh; (ii) virus.

bích hoạ

: tranh trên vách.

cách tường khán vật

: [công năng] nhìn được vật

thể cách qua bức tường.

càn khôn

: càn khôn vũ trụ.

cao hứng

: hài lòng, vừa ý.

cát tường như ý

: điềm lành như ý.

căn cơ

: cái gốc cái cơ sở, cơ sở điều kiện ban đầu

của người tu luyện (hiểu theo chữ nghĩa).

câu thông

: liên lạc, liên thông, làm cho hai bên

thông nhau.

chân

: theo ngu ý của người dịch có một nghĩa

chung như trong các từ

chân thể

(thân thể thật),

chân Phật

(ông Phật thật),

chân Đạo

(Đạo thật),

chân tu

(tu thật),

chân niệm

(niệm thật của mình).

chân thể

: thân thể chân thật.

Chân Thiện Nhẫn

:

chân

→ chân thực, chân

thành, chân chính, chân lý;

thiện

→ lương thiện,

hiền lành, từ bi;

nhẫn

→ nhẫn nại, nhẫn nhịn (diễn

đại khái theo chữ nghĩa).

chân tướng

: thực chất, sự thật, cái phản ánh đúng

thực chất sự thật; trái nghĩa với

giả tướng

.chỉ lệnh: lệnh chỉ huy, chỉ thị.chính niệm: niệm chân chính.chu sa chưởng: bàn tay [son] chu sa.chu thiên: thiên → trời; chu hoặc châu → chỉ cái

gì khép kín hoặc ở khắp cả; ví dụ

chu trình

(trình

khép kín),

châu thân

(khắp người).

chủ nguyên thần

: nguyên thần chủ.

chủ thông đạo

: đường thông chính.

chủ ý thức

: ý thức chủ.

chủng tử

: hạt giống; cũng có nghĩa bóng, chỉ

những cái gì gieo mầm rồi sau này phát triển lên.

chuyên nhất

: chỉ chuyên về một thứ; tu luyện chỉ

một công phái, không tạp lẫn mà loạn tu.

chuyên tu

: người tu luyện chuyên nghiệp, tức là

những người theo hình thức tu luyện chuyên

nghiệp: họ lập tức cắt đứt mọi quan hệ xã hội để

chuyên tâm vào tu luyện. Ví dụ: hoà thượng.

chuyển sinh

: chuyển sinh vào nơi nào đó, tái sinh,

giáng sinh, đầu thai.

cô hồn dã quỷ

: hồn cô độc quỷ hoang dã không

nhà.

cố sự

: chuyện cổ.

công

: (i) năng lượng luyện được; (ii) phương pháp

để luyện năng lượng ấy.

công lý, công pháp

: theo tập quán truyền dạy khí

công, có phần lý thuyết, gọi là

công lý

, và có phần

thực hành, gọi là

công pháp

.công thân: thân làm bằng công.da và lông: (bì mao) chỉ là cái vỏ ngoài hời hợt

chứ không phải là cái ruột tinh thâm cốt tuỷ.

danh lợi tình

: chấp trước vào danh lợi và tình; nói

khái quát các chấp trước và dục vọng người

thường.

danh sơn đại xuyên

: núi danh tiếng và sông rộng

lớn.

dao khống

: [công năng] khống chế từ xa, điều

khiển từ xa;

dao

hoặc

diêu

→ từ xa,

khống

khống chế.

dao thị

: [công năng] nhìn xa;

dao

hoặc

diêu

→ từ

xa.

dặm

: một đơn vị đo chiều dài thời xưa, khoảng

500m. Nói 'mười vạn tám nghìn dặm' là chỉ một

quãng đường rất dài.

diễn hoá

: chuyển hoá liên tục, diễn biến, tiến hoá.

du Thần tản Tiên

: [loại] Thần Tiên du ngoạn, tản

đi các nơi không cố định.

dục vọng

: các ham muốn nói chung, ví dụ: ăn thịt,

uống rượu, hút thuốc, v.v.

dùi sừng bò

: một lối nói của người Hoa, ngụ ý

rằng chui vào ngõ cụt.

Toàn ngưu giác tiêm

→ dùi

mũi sừng bò|trâu.

dung hiệp

溶 洽

):

dung

→ hoà tan (bộ thuỷ);

hiệp

→ thuận hoà, hợp nhau;

dung hiệp

ngụ ý là đã

hoà tan hoà hợp hẳn như tan trong nước. Lưu ý:

chữ

dung

có mấy chữ khác nhau với nghĩa cũng

khác nhau.

dung hợp

熔合

):

dung

→ nóng chảy (bộ hoả);

hợp

→ tập hợp lại, tổng lại;

dung hợp

là ngụ ý

nóng tan thành một, hợp nhất lại.

duy hộ

: duy trì bảo hộ.

duy tâm

,

mê tín

: những người theo chủ thuyết duy

vật tin rằng không có Thần Phật, và họ gọi những

gì mà người có đức tin vào Thần Phật tin vào hoặc

nhận thức được là

duy tâm

mê tín

.

Duy tâm

theo

chữ mà luận nghĩa là ám chỉ rằng đó là những thứ

Phụ lục

chỉ có trong tư duy thôi, chứ không thật.

Mê tín

được những người duy vật dùng như một cái nhãn

để công kích và bài xích những người có đức tin

vào Thần Phật.

duyên

: liên hệ có ý nghĩa theo nghĩa rộng, không

phải theo nghĩa hẹp chỉ là duyên vợ chồng; ví như

duyên giữa thầy và trò, duyên giữa cha mẹ và con

cái, duyên giữa bạn bè thân quyến, duyên tu Đạo,

v.v.

dữ nhân vi Thiện

: lấy Thiện đãi người.

dược phương

: phương thuốc, bài thuốc.

đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu

: bị đánh

không đấm trả, bị nhục mạ không nói lại.

đả toạ

: ngồi, ngồi luyện công và|hoặc nhập định.

Đại Cách mạng Văn Hoá

: một giai đoạn trong

lịch sử Trung Quốc, từ 1966 đến 1976.

đại biểu

: đại diện cho, biểu hiện cho, thể hiện cho.

đại đồng tiểu dị

: phần lớn là giống, chỉ khác phần

nhỏ; nói chung là như nhau, chỉ khác tiểu tiết.

đại đức

: nhiều chất đức, đức lớn; người có nhiều

đức được gọi là 'bậc đại đức'.

đan

hoặc

đơn

: cục|khối vật chất cao năng lượng

tích tụ từ không gian khác.

đan điền

hoặc

đơn điền

: 'ruộng đan' nằm ở chỗ

bụng dưới;

điền

→ ruộng.

đản trung

hoặc

đởn trung

hoặc

chiên trung

:

huyệt vị nằm tại vị trí giữa ngực, lấy điểm giữa

đoạn nối hai đầu vú. Đối với nữ, cần căn ngang

điểm xương sườn thứ tư gắn vào xương ức.

Đạo gia

: nhà Đạo, khái quát các công pháp tu Đạo.

Đạo giáo

: tôn giáo mà người ta coi như bắt nguồn

từ Lão Tử.

Đạo, khả Đạo, phi thường Đạo

: Gọi là Đạo cũng

được, nhưng là Đạo phi thường; con đường ấy có

thể đi nhưng là con đường phi thường; (câu của

Lão Tử).

đắc tựu đắc thất

: được thì phải mất.

đề cao

: nâng cao lên trên.

địa thượng Phật

: Phật trên mặt đất.

địa thượng Đạo

: Đạo trên mặt đất.

điểm hoá

: gợi ý cho người ta bằng các cách khác

nhau, như báo mộng, thông qua người khác nói,

làm xảy ra một sự việc như làm trượt ngã, v.v.

điều tức

: điều-hoà|điều-khiển hơi thở.

định công

: [công năng] bắt định, không cử động.

độ kỷ độ nhân

: tự cứu độ mình và cứu độ con

người.

độ nhân

: cứu độ con người.

đốn ngộ

: ngộ tức thời, trái với

tiệm ngộ

là ngộ dần

dần (hiểu trên chữ nghĩa).

đông thổ

: vùng đất phía đông; người Ấn Độ gọi

vùng đất Trung Quốc là vùng

đông thổ

.đồng: đồng nhân dân tệ Trung Quốc {yuan-nguyên}. Vào năm 2001, 1 nhân dân tệ đổi được

1800 đồng Việt Nam, hoặc 0,12 US dollar. Lương

tháng một người lao động trung bình ở thành thị

Trung Quốc là 400-600 nhân dân tệ.

động công

: luyện công trạng thái động, có động

tác.

đơn truyền

: [công pháp] chỉ truyền dạy cho một

người.

đường đường chính chính

: (một cách) đàng

hoàng, phóng khoáng.

giả tướng

: hình tướng giả, không thực chất; trái

với

chân tướng

hoặc

chân tượng

là cái thực chất,

hiện tượng thật, cái phản ánh đúng sự thật.

giai tầng

: giai cấp, đẳng cấp.

giới huân

: giới cấm đồ ăn mặn.

hạ ý thức

: vô thức.

hảo hoại xuất tự nhất niệm

: tốt xấu xuất tự một

niệm.

hậu thiên

: những gì sau mới có là

hậu thiên

; trái

nghĩa với

tiên thiên

là thứ vốn có ban đầu.

hình thần toàn diệt

: hình thể và nguyên thần đều

bị diệt

hoá công

: [công năng] hoá thành nước.

hoãn mạn viên

:

hoãn

→ từ tốn,

mạn

→ chậm rãi,

viên

→ tròn trịa.

hồ hoàng bạch liễu

: cáo chồn quỷ rắn.

Hồ hoàng

bạch liễu

là bốn chữ đầu của bốn từ có nghĩa là cáo

chồn quỷ rắn (hồ ly, hoàng thử lang, bạch quỷ, liễu

xà), nên tạm dịch trên nghĩa bề mặt là như vậy.

Bản thân từ

hồ hoàng bạch liễu

có nghĩa khái quát

hơn.

hội âm

: huyệt vị nằm ở điểm giữa đoạn nối từ gốc

bộ phận sinh dục đến hậu môn, tức là ứng với đáy

xương chậu. Khi ngồi đả toạ đây là điểm thấp nhất

của vòng nhâm đốc.

hồng trần

: cõi người, trần thế nhơ nhuốc, ấy là so

với thiên quốc thanh tịnh;

trần

→ bụi.

hợp cốc

: huyệt vị trên mu bàn tay, gần chỗ gốc

ngón cái và ngón trỏ.

huân

: đồ ăn mặn.

huyền quan

: cửa bí mật.

huyền quan hoán vị

:

huyền quan

→ cửa bí mật,

hoán vị

→ trao đổi vị trí.

huyền quan nhất khiếu

:

huyền quan

→ cửa bí

mật,

nhất khiếu

→ một khiếu, một huyệt.

huyền quan quy vị

:

huyền quan

→ cửa bí mật,

quy vị

→ quy về vị trí ban đầu.

huyền quan thiết vị

:

huyền quan

→ cửa bí mật,

thiết vị

→ đặt vị trí.

Phụ lục

huyễn tượng

: hình tượng, hình ảnh hư huyễn,

không thật.

huyết quản

: mạch máu.

hữu sở cầu

hoặc

hữu cầu

: có chỗ truy cầu, mong

cầu.

hữu tâm luyện công, vô tâm đắc công

: người

luyện công chỉ chú tâm vào luyện công mà chẳng

để tâm vào đắc công.

hữu vi

: trái với

vô vi

.

khai công

: khai [mở] công, công năng.

khai ngộ

: khai [mở] ngộ, trí huệ hiểu biết.

khai quang

: khai [mở] ánh sáng, thỉnh mời Pháp

thân.

khai thiên mục

: khai [mở] thiên mục.

khai thiên tịch địa

: khai trời mở đất.

khí bào

: bọt bóng khí.

khí công thái

: [trạng] thái khí công.

khí cơ

: cơ chế khí.

khinh công

: công phu làm người ta nhẹ;

khinh

nhẹ.

khổ kỳ tâm chí

: khổ cái tâm chí, những cái khổ

thuộc về tinh thần.

không môn

: cửa 'không'; cách nói bên Phật gia,

cũng như Đạo gia nói

vô môn

, tức là cửa 'vô'.

kiếp

: (i) kalpa (tiếng Phạn), chỉ thời gian rất lâu,

cho một chu kỳ diễn hoá của vũ trụ; (ii) kiếp nạn,

nạn lớn.

kim chung trạo

: bọc chuông vàng.

kim cương

:

kim

→ vàng, kim loại;

cương

hoặc

cang

→ cứng rắn;

kim cương

hoặc

kim cang

có thể

để nói về

hộ pháp

trong nhà Phật hoặc có nghĩa

nào đó mà không nhất thiết là chất kim cương

(diamond).

kim cương thối

: chân kim cương.

kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội

: thật lớn không

ngoài, thật nhỏ không trong. Đây là trích dẫn câu

của Phật Thích Ca Mâu Ni.

Kỳ Môn công pháp

: công pháp Kỳ Môn;

kỳ môn

→ cửa kỳ lạ, cửa đặc biệt.

La Hán cước

: bàn chân La Hán.

lao cung

: một huyệt vị ở giữa lòng bàn tay.

lao kỳ cân cốt

: nhọc cái gân cốt, những cái khổ

thuộc về thể xác.

lạp tử

: hạt; chỉ các hạt cấu thành nên vật chất ở các

mức khác nhau.

liễu ám hoa minh hựu nhất thôn

: qua rặng liễu

tối vườn hoa sáng là lại đến một thôn trang.

liễu giải

: hiểu, hiểu cặn kẽ, lý giải được thấu đáo.

linh cảm

: cảm hứng, ý nghĩ hay chợt đến, linh

cảm.

Lôi Phong

: tên một cá nhân gương mẫu ở Trung

Quốc hồi thập kỷ 1960.

luận thuật

: nghĩa giải, diễn giải.

lương đống

: trụ cột, rường cột (của nước nhà).

ma huyễn

: những thứ huyễn hoặc do ma, ma tính

gây ra (diễn trên chữ nghĩa);

huyễn

→ huyễn hoặc,

ảo giác.

ma luyện

魔 炼

): rèn luyện, tu luyện trong ma

nạn (diễn trên chữ nghĩa);

ma

ma

trong từ

ma

tính

,

ma quỷ

.

ma nạn

魔难

): khó nạn do ma gây ra, khó nạn

mang tính ma tính (diễn trên chữ nghĩa).

ma sắc

: sắc ma, ma sắc dục.

mạt chược

: tên một trò chơi cổ truyền Trung

Quốc, 4 người chơi.

mạt kiếp

: giới tu luyện tin rằng vũ trụ diễn hoá

theo các thời kỳ, các giai đoạn;

mạt kiếp

là giai

đoạn cuối.

mật tu

: tu bí mật (diễn trên chữ nghĩa).

mệnh môn

: huyệt vị nằm ở giữa đoạn các đốt

xương thắt lưng, giữa đốt xương thắt lưng số 2 và

số 3.

minh bạch

: hiểu biết rõ, tỉnh táo mạch lạc.

mô đỉnh

: sờ, chạm vào đỉnh đầu.

mô phạm

: mẫu mực làm gương cho mọi người.

mỹ diệu

:

mỹ

→ đẹp;

diệu

→ kỳ diệu.

nãi bạch thể

: thân sữa trắng.

nam nữ song tu

: nam và nữ hai người cùng tu

luyện (diễn trên chữ nghĩa).

nan nhẫn năng nhẫn, nan hành năng hành

:

nhẫn cả những điều khó mà nhẫn cho được, làm

những điều khó mà làm cho được; nhẫn được điều

phi thường, làm được việc phi thường.

năng lượng tản xạ

: năng lượng toả ra các phía, toả

ra xung quanh.

nê hoàn

,

nê hoàn cung

: thuật ngữ bên Đạo gia chỉ

một nơi ở trong thân thể; trùng với vị trí thể tùng

quả.

ngạ quỷ

: quỷ đói;

ngạ

→ đói.

ngạnh khí công

: môn khí công võ thuật luyện các

công phu về cương ngạnh, công phá.

nghi tâm

: tâm nghi ngờ; tên một tâm chấp trước.

nghiệp lực luân báo

: nghiệp lực xoay báo lại.

ngọc chẩm

: một huyệt vị ở phần sau sọ não;

chẩm

là cái điểm gối đầu khi nằm.

ngũ quang thập sắc

: năm ánh sáng mười màu sắc.

ngũ thông

: năm thông.

nguyên anh

:

nguyên

→ chỉ cái gì đầu tiên, thứ

nhất;

anh

→ đứa bé sơ sinh.

nguyên thần ly thể

: nguyên thần thoát ly khỏi

thân thể, rời khỏi thân thể.

Phụ lục

iv

người đại căn khí

:

căn

→ gốc,

khí

→ khí cụ, đồ

đựng; theo ngu ý của người dịch, chữ

căn

ở đây là

nói tắt của từ

căn cơ

.

ngưu thiệt lan hoa

: tên một loại [phong] lan

(orchid).

nhân tại mê trung

: con người sống ở trong mê.

nhân thân nan đắc

: thân người khó được.

nhâm đốc

: tên hai mạch chạy dưới da, một mạch

phía trước dọc giữa thân, một mạch phía sau dọc

giữa thân.

nhất chính áp bách tà

: một [điều] chính trấn áp

cả trăm [điều] tà, một [niệm] chính trấn áp cả trăm

[thế lực] tà ác.

nhất mạch đới bách mạch

: một mạch kéo theo cả

trăm mạch.

nhất phàm phong thuận

: thuận buồn xuôi gió,

cách nói của người Hoa, nghĩa là trôi chảy không

sự cố gì.

nhiếp hồn

: [công năng] bắt nguyên thần.

Nho giáo

: giáo lý nhà Nho, Khổng giáo.

nhục thân

: thân [thể] xác thịt.

nhục thể

: [thân] thể xác thịt.

nội hàm

: nội dung, hàm nghĩa, cái chứa đựng ở

bên trong; trái với

biểu diện

là cái vỏ, bề mặt

ngoài.

nội ngoại kiêm tu

: kiêm tu cả nội và ngoại, kiêm

cả hai thứ, cả ngoại công và nội công.

oai môn tà đạo

: cửa lệch đường tà.

ô yên chướng khí

: khói đen khí nặng, lam yên

chướng khí.

phản bổn quy chân

: quay về cội nguồn, quy về

'chân' (diễn trên chữ nghĩa);

phản

→ quay trở lại.

phản tu

: tu ngược;

phản

→ phản lại, ngược lại.

Phật gia

: nhà Phật, khái quát các công pháp tu

Phật.

Phật giáo

: tôn giáo bắt nguồn từ tổ tôn là Phật

Thích Ca Mâu Ni.

Phật quang

: ánh sáng của Phật.

Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh

: ánh

sáng Phật chiếu rọi rộng khắp, lễ nghĩa tròn đầy

sáng tỏ.

Phật tại tâm trung

: Phật ở trong tâm, Phật tại

tâm.

Phật thể

: [thân] thể Phật.

Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương

thế giới

: một khi Phật tính xuất hiện, thế giới mười

phương chấn động.

Phật vô xứ bất tại

: Phật không chỗ nào không có,

có mặt khắp nơi.

phi thiên

: thiên thần bay, tiên nữ bay lượn.

phó nguyên thần

: nguyên thần phụ.

phó thông đạo

: đường thông phụ.

phó xuất

: chi trả phí tổn, trả nợ, chịu đựng cho.

phó ý thức

: ý thức phụ.

phong tăng tảo Tần

: điển cố một tăng nhân ở

chùa Linh Ẩn dùng chiếc chổi mà ông đang quét

sân để tống khứ Tần Cối ra khỏi chùa.

Tảo

là quét

bằng chổi. Tần Cối là tể tướng, một đại gian thần

thời Nam Tống.

Phong tăng

→ hoà thượng điên.

phong thuỷ

: phép xem địa lý của Trung Quốc.

phổ độ chúng sinh

: cứu độ chúng sinh trên diện

rộng. Đây là câu lưu truyền trong Phật gia.

phụ thể

: thể sinh mệnh bám thêm vào;

phụ

thêm vào, bám vào, gắn vào.

phức nhãn

: mắt phức hợp.

quan

: cửa, cửa ải. Chữ

quan

này có thể có một số

nghĩa bóng tuỳ ngữ cảnh, thường có nghĩa là khảo

nghiệm, thử thách.

Quá quan

nghĩa là vượt qua

khảo nghiệm, thử thách. Một số huyệt-vị, khiếu

cũng được gọi là

quan

, ví dụ: huyệt mệnh môn,

ngọc chẩm.

quán đỉnh

: tưới vào đầu (diễn trên chữ nghĩa).

Quán

nghĩa là tưới vào,

đỉnh

ngụ ý là đỉnh đầu.

quản

: coi sóc có trách nhiệm; cai quản, quản lý.

sắc ma

: ma sắc, ma sắc dục.

sắc thân

: thân thể mà người ta nhìn thấy được.

Theo cách nói bên Phật giáo, những gì các giác

quan tiếp cận được thì được gọi chung là

thanh

sắc

.

sinh lão bệnh tử

:

sinh

→ sinh ra,

lão

→ già đi,

bệnh

→ chịu bệnh,

tử

→ chết đi.

sơn căn

: huyệt vị nằm giữa hai lông mày.

sung mãn

: đầy khắp, đầy đủ.

sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân

: sư

phụ dẫn vào cổng, còn tu hành là chuyện của cá

nhân người tu luyện.

tá công

: mượn công;

→ vay mượn.

tà môn oai đạo

: cửa tà đường lệch, chỉ những

công pháp tà vạy lưu truyền ở thế gian;

oai

→ bất

chính.

tam hoa tụ đỉnh

: ba bông hoa tụ trên đỉnh đầu.

tam thiên đại thiên thế giới

: ba nghìn nghìn-thế-

giới lớn. Đây là cụm từ vốn lưu truyền trong Phật

giáo.

tải thể

: [công năng hoặc gì đó làm] thể truyền tải.

tâm đắc thể hội

: điều mà tâm hiểu được hoặc bản

thể lĩnh hội; điều mình đã trải qua; kinh nghiệm.

tâm hoan hỷ

: tâm lý vui mừng [thái quá]; đây là

tên một chấp trước.

tâm lĩnh thần hội

: dùng tâm mà lĩnh hội.

tâm lý hiển thị

hoặc

tâm hiển thị

: tâm lý phô

trương hiển thị; đây là tên một chấp trước.

Phụ lục

v

tâm tật đố

: tâm đố kỵ, ganh tỵ, ganh ghét; đây là

tên một chấp trước.

tâm thái

: [trạng] thái tâm.

tâm tranh đấu

: tâm ganh đua, cạnh tranh, tranh

đấu; đây là tên một chấp trước.

tầng, tầng thứ

: theo ngu ý người dịch, cả hai từ

này được dùng với cùng nghĩa như nhau; trong bản

dịch này thường được dịch chung là

tầng

.tân trần đại tạ: đổi cũ thay mới, cũ mới thay

nhau.

tẩu đan đạo

: dẫn đạo, dẫn đan.

tha tâm thông

: [công năng] biết được suy nghĩ

người khác;

tha tâm

là tâm của người khác.

thái dương

: (i) huyệt vị ở hai bên, từ đuôi mắt

dịch về sau 1 thốn; (ii) mặt trời.

tham ngộ

: thực hành mà ngộ. Chữ

tham

có trong

từ

tham gia

, và trong cụm từ

tham thiền nhập định

.thanh lý: làm sạch, làm trong sạch, bỏ những thứ

ô uế.

thân thụ

: truyền thụ trực tiếp từ thầy.

thần thông đại hiển:

thần thông hiển thị rất lớn.

thập ác bất xá

: mười tội ác không thể tha.

thập phương thế giới

: thế giới mười phương.

thất phu

: người dân thường.

thất tình lục dục

: bẩy thứ tình cảm sáu thứ ham

muốn, chỉ những tình cảm ham muốn nói chung.

thấu thị nhân thể

: [công năng] nhìn được bên

trong thân thể người.

thế nhân

: con người thế giới, con người thế gian.

thể

: chữ này có nhiều nghĩa; theo người dịch có

một nghĩa chung trong các từ:

nhân thể

,

Phật thể

,

Thiên thể

,

vật thể

,

phụ thể

,

bản thể

,

tải thể

,

sinh

mệnh thể

,

nãi bạch thể

,

tịnh bạch thể

, v.v. Trường

hợp ấy, người dịch bảo lưu tiếng Hán; ngoại lệ:

nhân thể

→ [thân] thể người,

sinh mệnh thể

→ thể

sinh mệnh.

thể hệ

: hệ các thể, hệ thống.

thể nghiệm

: tự mình chứng nghiệm được.

thể tùng quả

: cơ quan hình quả cây-tùng|cây-

thông ở trong đại não; tuyến yên trong não; theo

Tây Y thì vị trí này ở vùng giao tiếp với hai bán

cầu đại não, tiểu não, và tuỷ sống đi lên.

thị hiện

: làm [biểu thị] ra cho người ta thấy.

thiên cơ

: bí mật của trời.

thiên địa

: thiên địa trời đất.

thiên định

: [điều] do ông trời định ra.

Thiên lý

: đạo lý của ông trời.

thiên môn tiểu đạo

: cửa lệch đường nhỏ, chỉ

những công pháp nhỏ bé lưu truyền ở thế gian,

không phải danh môn chính phái.

thiên quốc

: nước ở trên trời.

thiên sai

: lệch lạc, sai lệch.

thiên tự trang

: đứng theo hình chữ 'thiên' (

天).thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo: thiện có báo

ứng thiện, ác có báo ứng ác.

thiết bố sam

: áo giáp sắt.

thiết sa chưởng

: bàn tay sắt-cát.

thỉnh Thần dung dị tống Thần nan

: mời Thần

đến thì dễ, mời Thần đi thì khó.

thôi nã, suy nã

: nắn khớp.

thốn

: tấc. (i) nói tắt của từ

Anh thốn

→ tấc Anh,

tức là inch, ≈ 2,54cm; ngoài nghĩa hiện đại ngày

nay ra nó còn có nghĩa: (ii) đơn vị chiều dài ngày

xưa, bằng 1/10 thước, ≈ 3,3cm. (iii) nói tắt của từ

đồng thân thốn

; một đơn vi đo trong Đông Y

thường dùng khi mô tả vị trí các huyệt, nó được lấy

theo số đo sinh học của thân thể đương sự, nên mới

gọi là

đồng thân

; có một số cách xác định; một

cách thông dụng là lấy chiều rộng ngón tay cái chỗ

rộng nhất.

Thốn

này không có giá trị cố định, trung

bình là 2~2,2cm.

thời thần

: một giờ, tính theo cách chia giờ cổ

truyền, một ngày có 12 giờ: Tý Sửu Dần Mão ...

Hợi. Bắt đầu là giờ Tý từ 23

h

đêm đến 1

h

sáng. Một

thời thần dài bằng 2 giờ đồng hồ hiện nay.

thu công

: tức là thu công kết thúc buổi tập; các

công pháp khác thường như vậy; còn trong Pháp

Luân Đại Pháp thì không thể và không được thu

công như thế, vì Pháp Luân thường chuyển không

dừng.

thủ ấn

: bắt ấn, bắt quyết bằng tay.

thủ đức

: giữ gìn đức;

thủ

→ giữ gìn, coi sóc, chăm

nom, phòng thủ.

thủ pháp

: động tác tay, bài động tác.

thư pháp

: phép viết chữ Hán.

thường chuyển

: liên tục chuyển động, liên tục

xoay chuyển, không dừng; cái gì vĩnh viễn là

thường

, không vĩnh viễn là

vô thường

.thượng sư: thầy ở bên trên, thầy ở cõi trên.thượng sỹ văn Đạo, cần nhi hành chi; trung sỹ

văn Đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sỹ văn Đạo,

đại tiếu chi; bất tiếu bất túc dĩ vi Đạo

: kẻ sỹ bậc

thượng mà nghe được Đạo liền chuyên cần thực

hành; kẻ sỹ bậc trung mà nghe Đạo thì cái còn cái

mất; loại người bậc hạ mà nghe Đạo liền phá ra

cười, không cười thì chưa đủ là Đạo; đây là câu

của Lão Tử. Từ

thượng sỹ

hay

hạ sỹ

trong giới tu

luyện cũng là từ câu này mà ra.

tích cổ

: di tích cổ, di vật cổ.

tích đức

: tích lũy đức, thâu tập đức.

tiềm ý thức

: tiềm thức.

tiệm ngộ

: ngộ dần dần, trái với

đốn ngộ

là ngộ tức

thời (hiểu trên chữ nghĩa).

Phụ lục

vi

tiên thiên

: cái gì nguyên từ nguyên sơ ban đầu xa

xưa thì gọi là tiên thiên. Từ trái nghĩa là

hậu thiên

.tiếp cốt: nối xương.

tiểu bào

: bọt bóng nhỏ.

tín tức

: một dạng năng lượng, thông tin có thể

truyền sang người khác.

tinh bạch thể

: thân tinh trắng; tên khác của

tịnh

bạch thể

; chữ

tinh

này ở trong từ

tinh khiết

,

tinh

thể

.

tinh hệ

: hệ các tinh cầu, thiên hà.

tính bản thiện

: nguyên ban đầu là thiện tính, bản

chất là thiện.

tính mệnh song tu

: vừa tu tính vừa luyện mệnh.

tĩnh chỉ

: yên tĩnh bất động.

tĩnh công

: luyện công trạng thái tĩnh, ví dụ: thiền

định.

tịnh bạch thể

: thân tịnh trắng.

toán mệnh

: bói số mệnh.

toán quái

: bói quẻ.

toàn cơ

hoặc

tuyền cơ

: cơ [chế] xoay chuyển.

trạm trang

: luyện công ở tư thế đứng.

trân quý

: quý giá lắm.

triển hiện

: thể hiện ra, thi triển.

Trung Y

: Y học Trung Hoa; người Việt Nam ta

gọi là 'Đông Y'.

truyền thừa

hoặc

thừa truyền

: truyền tiếp kế

thừa từ đời này sang đời khác, thầy truyền thừa cho

đồ đệ qua các thế hệ.

trực chỉ nhân tâm

: nhắm thẳng vào tâm con

người.

trượng

: đơn vị đo ngày xưa, ≈ 330cm, bằng 10

thước.

tu khẩu

:

tu

ở trong từ tu luyện,

khẩu

→ miệng.

tu tại tự kỷ, công tại sư phụ

: tu ở bản thân, công

ở sư phụ; tu là ở nỗ lực bản thân người tu luyện,

còn diễn hoá công được thực hiện nhờ sư phụ.

túc mệnh thông

: [công năng] thông suốt số mệnh

trước đây-hiểu trên chữ nghĩa là như vậy,

túc

mệnh

→ sinh mệnh trước đây. Tuy nhiên 'công

năng túc mệnh thông' có nghĩa rộng hơn, như được

chỉ rõ trong sách.

tùng tân tái xuất

: tái xuất lại mới.

tuỳ cơ nhi hành

: thuận theo cơ [chế] mà thực

hành, thuận theo [khí] cơ mà vận động.

tuỳ kỳ tự nhiên

: [sống] thuận theo tự nhiên.

tuỳ tâm nhi hoá

: tuỳ theo tâm mà biến hoá.

tư tâm

hoặc

tự tư

: tâm ích kỷ, tên một chấp trước.

tứ chi vô lực

: hai chân hai tay không có lực, rất

yếu.

tự ngã

hoặc

ngã

: cái 'tôi';

ngã

→ tôi.

tự tâm sinh ma

: tự trong tâm [của mình] sinh ma.

tương phụ tương thành

: giúp đỡ phụ trợ lẫn

nhau, [sinh] thành ra nhau.

ức kiếp

: chữ

ức

có nghĩa là 100 triệu {10

8

}; tuy

nhiên trong tiếng Hán cổ,

ức

là 10 vạn {10

5

}.

vạn

: chữ vạn ( ).

vãng hồi tu

: tu quay trở về.

văn hoá tinh thần

: đây là từ hay dùng trong Trung

Quốc hiện đại, nghĩa là nền văn hoá nâng cao giá

trị tinh thần đạo đức con người; ngụ ý đối lập với

văn hoá vật chất

là thứ chạy theo giá trị vật chất

bạc tiền.

văn vật

: vật [cổ] văn hoá.

vật cực tất phản

: vật đến cùng cực thì phản lại, sự

việc đến cùng tột thì đảo lại, âm dương đảo lại.

vi lạp

: vi hạt. Từ này được dùng để chỉ các hạt cấu

thành nên vật chất ở các mức vi quan khác nhau, ví

dụ: phân tử, nguyên tử, quark, neutrino, ...

vi quan

: quan-sát|quan-cảnh ở mức|tầng vi mô; đối

lập với

hoành quan

hoặc

hồng quan

.viên dung (

圆容

):

viên

→ tròn,

dung

→ dung nạp

nội dung bao hàm, chứa đựng.

viên minh

:

viên

→ tròn đầy,

minh

→ sáng tỏ.

viên mãn

:

viên

→ tròn,

mãn

→ đầy khắp.

vô ác bất tố

: [những kẻ] không điều ác nào mà

không làm.

vô biên vô tế

: không biên giới không giới hạn.

vô sở bất bao, vô sở di lậu

: không gì là không bao

hàm, không gì bị bỏ sót.

vô sở cầu

hoặc

vô cầu

: không chỗ truy cầu, không

mong cầu.

vô tỷ

: không [gì] sánh được, không thể so sánh.

vô vi

: không chủ ý, không mong nghĩ, không hành

động, không mong cầu (từ này rất khó diễn nghĩa);

trái với nó là

hữu vi

.

vô xứ bất đan điền

: không đâu là không phải đan

điền, đan điền khắp nơi; đây là điều sai lầm được

lưu truyền trong một số công phái.

vu giáo

: lên đồng, thầy mo.

vũ đạo

: múa, nhảy múa.

xích

: thước, đơn vị đo chiều dài ngày xưa, ≈ 33cm,

bằng 10 tấc (thốn).

xích độ

: cái thước, còn có nghĩa là hình thức thể

hiện của tâm tính cao đến đâu.

xuất lai

: xuất hiện, từ chỗ không có mà thành có là

xuất lai, từ chỗ chưa được mà được là xuất lai.

xuất sơn

: (i) ra khỏi núi; (ii) ra công chúng, ra

[truyền giảng] ngoài công chúng. Trong sách này

thường dùng theo nghĩa (ii).

Phụ lục

vii

xung quán

: người dịch nghĩ rằng từ 'xung quán'

trong sách là nói về động tác của bài tập công số 3:

Quán thông lưỡng cực Pháp

.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro