Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chuyện hay-Lenghiabk05

Ông tai heo

Ê tụi bây, chuẩn bị bàn ông tai heo lại kìa!

Mấy nhân viên phục vụ quán nhậu bình dân chạy lăng xăng. Đứa dọn bàn, đứa kéo ghế để chào đón ông tai heo – khách quen của quán.

Ông tai heo đã trên 60, cơ thể nhìn qua cũng chưa đến nỗi bèo nhèo lắm, có lẽ do ông thường xuyên sáng sáng tập đi bộ trong công viên Tao Đàn – “vừa đi vừa nhìn mấy bà giá cho đỡ vã với vợ nhà”.

Ông thường đến quán này để lai rai cùng với mấy ông bạn trong CLB hưu trí. Đôi khi – “không có ai kêu tôi đó” – ông thường ngồi đối ẩm với mấy chai bia mà ngẫm lại thế thái nhân tình khi rời chức giám đốc để… về hưu.

Nhìn kỹ lại coi, à cái lỗ tai của ông cũng bình thường như mọi người, thậm chí tai ông còn nhỏ như tai chuột, chứ đâu có giống như nhân vật Trư Bát Giới với hai cái vành tai phẩy phẩy như quạt nan. Vậy thì tại sao nhân viên phục vụ lại gọi ông là “ông tai heo” hè?

Nguyên cớ là vầy: Quán ăn này dù là bình dân chăng nữa – nhưng vẫn có nhiều thức ăn lạ và khá đắt. (Có ngon không thì chưa biết). Thế mà, dù có đi với khách sộp đi nữa, ông chỉ gọi duy nhất món:

- Ê… cho qua dĩa lỗ tai heo ngâm giấm nghe.

Dù cho bạn bè gọi món gì, ông vẫn trung thành với món lỗ tai heo ngâm giấm. Lâu lâu đổi món, vì ăn lỗ tai heo ngâm giấm hoài cũng ngán, nên ông gọi:

- Cho qua lỗ tai heo phá lấu nghe…

- Dạ, món đó không có bố già ơi…

- Vậy thì tiếp tục… ngâm giấm.

Rút kinh nghiệm, lần sau trở lại quán, ông ghé Tân Định mua lỗ tai heo phá lấu của một xe bánh mì trên lề đường Trần Quốc Toản. Ông nói với chủ quán: “Ai bảo quán không bán món này, mất sở hụi ráng chịu”…

Thực ra, ông chỉ là tín đồ của bia và lỗ tai heo từ ngày ông về hưu mà thôi. Trước kia, ông thường được lính tráng của công ty chiêu đãi ở những nhà hàng đặc sản rắn, rùa, cua (đinh), gái… với rượu Blue xanh, Blue vàng…

Trên bàn là thức ăn đầy tú hụ, bên cạnh tả phù, hữu bật (hai người ngồi hai bên) là những đệ tử cật ruột… Người ta nói “rượu vào lời ra” rất đúng. Khi rượu tràn sóng sánh, rơi vào mồm vào mũi thì người ta bắt đầu nói. Nhưng tả phù, hữu bật, tay rót rượu, còn miệng thì cứ thì thầm vào tai của ông. Nào ông là người tài giỏi, được làm việc với ông là một may mắn lớn… Em xin được một đời cúc cung tận tụy phục vụ thủ trưởng… Anh coi chừng thằng X nó đang tìm cách lật anh đó. Nó thường lên cơ quan Bộ gặp ông A để nói xấu anh… Dạ, anh nói thì em nghe… Những người ngồi trong bàn nhậu thường rót vào lỗ tai ông những lời đại loại như vậy. Tỉ lệ đúng sai như thế nào không biết, nhưng những kẻ thầm thì vào lỗ tai ông đều được ông cất nhắc. Và có kẻ đã thế vào ghế của ông khi ông cất bước về hưu.

Những người hay tâm sự với thủ trưởng trong bàn nhậu, được gọi là những kẻ “nhai lỗ tai”.

oOo

Ông đã bị nhai lỗ tai! Về hưu không còn ai nhai lỗ tai ông nữa, nên khi nhậu ông thấy thiêu thiếu cái gì đó. Té ra, chuyện bị người khác nhai lỗ tai khi tại chức là một phần ắt có và đủ của bàn nhậu. Nhưng bây giờ không còn ai nhai lỗ tai ông, nên ông nhai lỗ tai heo để giải tỏa nỗi niềm ẩn ức. Và  rồi từ đó, ông ăn lỗ tai (nhưng mà là lỗ tai heo) không ngại ngần, để rồi từ đó xơi lỗ tai heo thêm nhiều hơn… Có bữa, nếu có đối tác, – những bà bạn ở lứa tuổi U.50 – ông ngẫu hứng xơi đến ba, bốn đĩa lỗ tai heo để chứng tỏ mình vẫn còn… sung sức, đầy hưng phấn (không cần thuốc trợ lực) để nhai lỗ tai.

Rọ Rạy

Để dĩa hàu sống ước chừng khoảng 20con,  cao tú hụ trên bàn, Đại Văn Mỗ, tay vỗ bụng, nháy mắt nói với mọi người đang ngồi cùng chung bàn:

-          Mấy ông biết không, ăn hàu sống thì khỏi cần uống Viagra. Người ta nói hàu sống là “vị chúa tể của tình yêu”…

Mọi người ngồi chung bàn tiệc với Mỗ, có cả Điện viên Không Không Thấy (ĐV K.K.Thấy) đều trố mắt, vễnh tai ngồi nghe Mỗ – bây giờ đã trở thành nhà hàu – sống – học thuyết trình về giá trị của con hàu:

-          Trong con hàu có chất kẽm có khả năng kích thích cho hormon sinh dục nam tăng lên nên ăn hàu rất sung. Vừa nói, tay Mỗ vừa lấy chanh nặn vào con hàu, sau đó trét mù tạt vào, đưa lên miệng cạp một cái. Nhìn cái bản mặt ông ta trông rất ư là… “phồn thực”.

Lấy khăn chùi mép, ông Mỗ quay sang cô gái xinh đẹp, chân dài ngồi bên cạnh:

-          Phụ nữ cũng ăn hàu được… ăn đi… Đại bổ đấy nhá… hà hà… K.K.Thấy Đại Văn Mỗ đi vào buổi tiệc cũng với cô gái chân dài tới nách này ngay từ đầu. Và qua những cái nhìn, cử chỉ giữa hai người với nhau, K.K.Thấy biết quan hệ giữa họ như thế nào với nhau. Bởi vậy, K.K.Thấy không lạ lùng gì khi Mỗ ăn quá nhiều hàu sống và cổ vũ mọi người cùng ăn. Thấy K.K.Thấy đang soi mình quá kỹ, Đại Văn Mỗ nháy mắt, nói với chàng điệp viên:

-          Ông gầy quá, mần vài con hàu cho sung đi… Lâu lâu ông mới có dịp ăn ở những nơi sang trọng này mà không tận dụng thì quá uổng… Tôi ăn hàu hoài nên biết tác dụng của nó…

Điệp viên Không Không Thấy nói chậm rãi, buồn rầu như cái mặt lưỡi cày chán chê của anh ta:

-          Bụng dạ tui yếu lắm, sợ ăn vào chịu hổng nổi. Bụng tôi đâu bằng bụng của ông. Bụng của ông còn chứa nổi sắt thép, ximăng, gạch đá… nói gì ba con hàu sống lẻ tẻ…

Nghe Không Không Thấy nói vậy, Mỗ hơi nhột, bèn cầm lấy con hàu sống quay qua nói với mỹ nhân – mặc dù người đẹp đang nhai miếng thịt bò nghe chóp chép:

-          Em biết không, con hàu là dân “xăng pha nhớt” đó nghen…

Cô gái trợn tròn mắt một cách rất là nai… già:

-          Hả… hả…

Mỗ phấn khởi vì vốn hiểu biết của mình về lĩnh vực hàu:

-          Giai đoạn đầu con hàu có tuyến sinh dục mang tinh trùng và giai đoạn sau lại chuyển sang tuyến sinh dục mang trứng…

Quay sang nói với K.K.Thấy:

-          Ông biết tại sao tôi chỉ ăn hàu nhỏ không mà không thèm ăn hàu bự…?

-          Chắc ông để dành cho sếp hoặc hàu nhỏ phù hợp với các cô gái nhỏ nhắn, bồ nhí còn hàu bự thì phù hợp với những phụ nữ phì nhiêu cỡ như… K.K.Thấy bỏ lững.

-          Tôi luôn ăn hàu nhỏ, bởi vì con hàu nhỏ nằm ở giai đoạn đực. Ăn hàu đừng ham ăn hàu lớn nhé…

Mỗ ra hiệu cho cô gái đứng lên, rời bàn tiệc. Khi đi ngang qua ĐV K.K.Thấy, Mỗ ghé tai nói nhỏ:

-          Nói thiệt, tôi tội nghiệp cho ông. Sống không biết tận hưởng thú vui với người đẹp. Đêm nay, ăn hàu sống, tôi sẽ rọ rạy suốt đêm…

***

Trời xui đất khiến hai người đàn ông không thích nhau và là đối tượng để soi lẫn nhau thế mà lại gặp nhau trong một buổi đi nghỉ xa TP do một công ty chứng khoán mời.

Còn buồn hơn nữa là phòng hai người ở cạnh nhau. Một phòng có hai người đang sung sức vui vẻ tràn đầy chờ giờ phút lâm trận mạc. Một phòng có người thân xác gầy còm, rệu rã, ưu tư vì thế sự tréo ngoe. Thêm cái buồn nữa là khách sạn này tiêu chuẩn cỡ nhà khách… thời bao cấp vì cuối năm các khách sạn cao cấp đều dành cho du khách nước ngoài. Trong các khách sạn loại này thì người phòng này có thể nghe thấy tiếng động bên phòng bên kia…

Lạ nhà, khó ngủ, ĐV K.K.Thấy nằm trằn trọc, loay hoay lăn qua trở lại. Một lát sau, K.K.Thấy nghe tiếng toa-lét phòng bên có tiếng nước chảy ào ào! Vừa chợp mắt, mơ màng nghĩ đến bà xã già nua thì K.K.Thấy lại nghe tiếng nước chảy bên toa-lét phòng của Đ.V.Mỗ. Bực mình vì mất giấc ngủ, K.K.Thấy mở đèn đọc sách nghiệp vụ và lại nghe tiếng nước từ phía bên kia “chiến tuyến”. Từ đó, đến sáng, trong giấc ngủ chập chờn, K.K.Thấy nghe tiếng nước dội của toa-lét phòng bên đâu khoảng gần chục lần K.K.Thấy chép miệng, nói như một nhân vật trong truyện tiếu lâm Việt Nam:

-          Nó làm gì mà làm lắm thế.

Và thầm nghĩ:

-          Đúng là hàu sống hay thật. Lần này trước khi về nhau gặp bà xã, mình cũng ráng kiếm tiền “quất” vài con. Chắc bà vợ mình khen hết biết… Nhiều khi bả còn cho tiền mình để ăn thêm.

***

Hai người xuống phòng ăn khách sạn sớm nhất lại cũng là Mỗ và K.K.Thấy.

Cả hai đều có bộ dạng mất ngủ như nhau nhưng vì hai lý do khác nhau: một “rọ rạy” và một không được rọ rạy mà chỉ nghe người khác rọ rạy. Tuy nhiên, bộ dạng của Mỗ trông như con ma trong phim kinh dị. Mặt mày chỏm lơ, mắt thụt vào thâm quầng… Dáng đi như dân đang lên cơn ghiền. K.K.Thấy liền khen:

-          Tôi phục ông sát đất. Đúng là ông rọ rạy cả đêm.

Mỗ nói không ra hơi:

-          Rọ rạy, rọ rạy chạy vô toa-lét vì… Phục vụ ơi, ở đây có tiệm thuốc tây không, mua dùm tôi mấy viên thuốc trị tiêu chảy cấp… Ờ mà dưới này toa-lét nằm ở đâu vậy?!

Hành trình tìm… chó

Có những người trên đời khoái ăn miếng dồi chó đến nỗi nói câu nghe… rất mất vệ sinh: “miếng dồi chó giắt kẽ răng 3 ngày vẫn còn thơm”.

Thôi, đó là chuyện của họ. Ở đây chỉ nói về vấn đề thuộc “phạm trù” kinh tế: cung và cầu. Có người ăn thịt chó, nên từ đó cũng đẻ ra những lò mổ chó (tất nhiên là lậu). Lò mổ thì nhiều mà chó thì cạn nguồn, nên mới có bọn chuyên đi bắt trộm chó, mà ta gọi là cẩu tặc. Có cẩu tặc nên mới có chuyện hành trình đi tìm… chó.

oOo

“Nhà em có một con chó. Nó tên là Luki…”, thằng con tôi mở đầu bài văn về chó như vậy, nghĩa là nó rất thương con chó. Con tôi thương chó, tất nhiên là tôi phải… nuôi chó cho nó chơi.

Thế rồi có một buổi chiều buồn. Đó là khi con chó biến mất như bị bốc hơi. Thằng con tôi bỏ cơm, tối nằm khóc thút thít vì nhớ chó. Còn tôi, tôi cũng buồn, vì bây giờ mỗi tối đi nhậu về không còn ai vẫy đuôi mừng rỡ, bởi vì nó là kẻ độc nhất mừng rỡ khi tôi về nhà mỗi tối (do thỉnh thoảng tôi cũng có cho nó ăn chè!). Thế là hành trình tìm chó bắt đầu…

Trước hết, tôi chạy ra khu chợ chó ở dưới chân cầu Mống (góc ngã ba Nam Kỳ Khởi nghĩa và Bến Chương Dương – TP.HCM). Đây là một khu chợ chó lộ thiên với vài con chó còi cọc, ghẻ lở, cột vào gốc cây hoặc đang nằm le lưỡi trong chuồng. Không thấy bóng dáng con chó yêu đâu, tôi liền chạy vào khu bán chó có vẻ chuyên nghiệp tại đường Lê Hồng Phong (Quận 10). Tại khu chợ chó này, chó được bày bán trong những căn hộ đàng hoàng chứ không phải lộ thiên, chịu mưa chịu nắng như khu cầu Mống. Thứ nữa, chó ở đây thuộc dạng tương đối cao cấp với những chủng loài Bắc Kinh Fox, chi-hua-hua,… được nuôi nấng, vỗ béo bằng thức ăn “chuyên ngành cho chó”… Đi qua, đi lại 2 – 3 vòng, chẳng thấy chó đâu đành tiu nghỉu đi về.

Ngồi “tám” với thằng bạn về nỗi buồn mất chó, tôi được nó “hiến dâng” một địa chỉ khá rùng rợn là đi tìm các lò mổ chó trên khu ngã ba Ông Tạ. Nó còn hăm: “nếu mầy không tìm lẹ lên, biết đâu bữa nào đi ăn thịt chó, mày ăn nhằm thịt chó của mày đó!”. Tôi liền tức tốc chạy đến khu bán thịt chó ngã ba Ông Tạ (góc Phạm Văn Hai và Cách Mạng Tháng 8). Dọc lề đường Phạm Văn Hai là những xe đẩy, những mẹt bán thịt chó đã thui, luộc sẵn, hoặc nếu khách cần, có cả thịt chó sống mang về để khách tự chế biến. Nhìn những tảng thịt đùi bóng nhẫy, lòng tôi tự mong rằng đó không phải là thịt của con Luki nhà mình.

Thấy tôi đứng xớ rớ, một anh thanh niên mặt mày khá bặm trợn tiến lại, hỏi: “Anh mua gì?”. Tôi gãi đầu: “… Tôi mất một con chó, định lại tìm thử, nếu nó còn sống, tôi xin chuộc lại…”.

Tay thanh niên nói liền:

- Em sẽ dẫn anh đi vô mấy cái lò mổ ở đây. Anh cho em xin 30.000 đồng. Nếu tìm được chó thì anh cho em 1 trăm nữa. OK?

Tôi đồng ý liền. Thế là anh ta dẫn tôi đi vào những đường hẻm ngõ ngách của khu lò mổ này. Nói lò cho oai, chứ thật ra là những căn nhà nhỏ được dùng để hóa kiếp cho chó phục vụ cho người. Tôi ghé vài lò mổ, đứng nhìn những con chó có cặp mắt buồn thiu, trong những căn nhà hôi hám… bụng dạ tôi thề rằng nhất định sẽ không bao giờ ăn thịt chó nữa.

Đi khoảng chừng chục cái lò, nhìn ngắm chừng vài chục con chó, nhưng chẳng thấy chú khuyển nhà mình đâu. Tôi quay qua hỏi tay dẫn mối:

- Không có con chó của tôi ở đây. Có khi nào nó bị mần chưa?

- Mới bị bắt hôm qua, chắc chưa bị mần đâu. Hay là mình ra cầu Kiệu… Anh cho thằng em xin thêm 10 ngàn nữa, em dẫn anh ra mối ở cầu Kiệu…

Cầu Kiệu là một địa danh cũng nổi tiếng như ngã ba Ông Tạ, nhưng ở đây chỉ bán lác đác vài con chó sống như cảnh chợ chiều, nhưng những tay bắt chó lẫn chuộc chó mà không biết địa danh này thì chưa “xứng danh anh hùng…”.

Anh bạn dắt mối có lẽ thuộc loại người quen mặt ở khu cầu Kiệu này, nên vừa thấy mặt anh ta, đã có người chạy lại chào hỏi. Sau khi nghe anh ta giới thiệu, một người phụ nữ hỏi tôi: “Anh cho tui biết  chó anh màu gì, có điểm gì để nhận ra nó không?”. Sau khi nghe tôi kể một số thông số và “đặc điểm nhận dạng” của nó, người phụ nữ bèn móc túi lấy ra cái điện thoại cầm tay và “alô…” một lát. “Có phải chó anh bị chặt một khúc đuôi không?”. Tôi mừng rỡ: “Đúng… đúng…”. “Bây giờ nó bị bắt ở tận quận 7 lận! Nếu anh muốn chuộc, giá là 2 triệu rưỡi. Anh đưa tiền trước cho tui, nếu mang về không đúng thì tui trả tiền lại…”.

Thấy tôi ngần ngừ, anh dắt mối bảo: “Anh yên tâm. Tụi tui đầy đủ uy tín người Tiều trong nghề chuộc chó! Anh mà không ứng trước thì không tìm lại chó được đâu!”.

Tôi nghĩ mình cũng phải liều chứ biết sao, vả lại tôi nghĩ rằng khi họ sống và đặt đường dây tìm chó ở đây thì họ không thể lừa mình được. Thế là tôi đưa cho người phụ nữ đúng số tiền chuộc.

Người phụ nữ đi khoảng chừng 1 tiếng sau đó quay lại, phía sau xe là một cái bao biết… động đậy. Vừa ngừng xe, bà ta tháo bao ra. Và thiên thần thổ địa ơi… tôi không thể nhìn ra con Luki của mình nữa, mặc dù rất là mừng. Ngay cả con chó cũng cà lết, cà lết đi về phía tôi như một con chó tàn tật, chắc là nó đã bị chích điện hay uống loại thuốc gì đó để cho quên hết… quá khứ chăng?

Khỏi phải nói là biết tôi vui cỡ nào khi chở chó ra về, sau khi chi đầy đủ các khoản. Thôi biết sao được, hi sinh cho niềm vui của con vậy. Về nhà, bạn bè tôi gọi điện thoại đến hỏi, và sau khi biết tôi đã tìm được chó, tụi nó liền nói: “Thôi đi nhậu ăn mừng đi. Ghé khu Thị Nghè làm chầu thịt chó nhé…”.

Bạn đời

Thỉnh thoảng khi đến quán bia bình dân tôi thường gặp ông Khương ở đó. Lúc nào trước mặt ông cũng là một chai bia, một đĩa đậu hủ chiên chấm mắm tôm và một đĩa đậu phộng.

Ông thường ngồi một mình, không bạn nhậu, không ồn ào.

Ông chậm rãi uống bia, ngồi nhàn tản như một nhà hiền triết. Tôi được biết, mỗi chiều, sau giờ làm việc, ông có thói quen đến đây uống chai bia và ngồi trầm tư. Không biết chuyện uống bia của ông là do sự nghiện hay là cái đạo. Nhưng khi ngồi cùng bàn với tôi, ông cũng nói chuyện cởi mở và đầy hiểu biết.

Sau mỗi lần nhậu như thế, tôi thường đề nghị đưa ông về nhà bằng xe của tôi vì tôi biết ông không đi xe đến quán nhậu. Mỗi lần như thế ông đều lắc đầu từ chối và cười nói ông tự về được rồi. Hơn chừng năm lần như thế, tôi có cảm giác là sau cuộc nhậu, ông Khương có một điểm hẹn thứ hai – mà điểm hẹn này chắc chắn liên quan đến phụ nữ. Mà với cương vị của ông, một cán bộ tuyên huấn, không thể tiết lộ cho bất cứ người nào biết được.

Tôi rắp tâm khám phá bí mật của ông. Tôi làm việc này không phải vì sự căm ghét tính đạo mạo của ông mà là muốn khám phá bí mật của một người bạn mình hằng kính trọng.

Thói đời có nhiều người mình đặc hết lòng tin, cho đến khi mình ngờ ngợ một cái gì về họ, mình muốn tìm cho ra lẽ để đối chiếu vào lòng tin của mình. Tôi cũng ở vào trường hợp như vậy. Tối đó, tôi đậu xe Honda ở góc đường chờ sẵn.

Quả tình đúng y như tôi đoán, khoảng hơn 7g tối một chút là ông Khương rời quán nhậu. Khi ông Khương vừa ra khỏi quán nhậu thì đúng lúc ấy một chiếc xích lô đạp đã đậu sẵn đó chạy rề rề tới. Ông Khương không nói, không rằng leo lên xe ngửa người dựa vào nệm rất thoải mái. Vì tôi đi xe chầm chậm phía sau, nên tôi không rõ cách nói chuyện của ông Khương với bác tài xích lô như thế nào nhưng có lẽ là rôm rả lắm.

Tôi thấy hình như ông Khương móc thuốc lá mời bác tài nữa. Bây giờ tôi mới phát hiện ra đây là chiếc xe mà ông Khương đi thường xuyên. Chiếc xích lô đi chậm rãi, không có gì gấp rút lắm làm tôi đến sốt cả ruột.

Với cách xe chạy này không có dấu hiệu nào để chứng tỏ là ông Khương sẽ đến điểm bí mật thứ hai. Và quả đúng như vậy, sau một hồi chạy vòng vo tam quốc, xe ngừng lại trước nhà ông Khương. Tôi thấy ông Khương xuống, móc túi, trả tiền xe.

Hai người chào nhau. Ông Khương bước vào cổng nhà, chiếc xích lô tiếp tục chạy còn tôi thì đứng ngẩn người thắc mắc. Tôi không tin rằng ông bị xích lô chỉ vì… muốn đi xích lô.

Vài ba hôm, tôi trở lại làm thám tử lần nữa. Đợi trước cửa quán và đi theo xe xích lô đến tận nhà ông Khương. Bốn lần đều y như một. Sự đúng đắn một cách đều đặn này của ông Khương làm một kẻ đa nghi như tôi cũng nản lòng.

Sau đó, tôi phải đi công tác xa một thời gian dài theo sự điều động của cơ quan. Thoạt đầu, tôi tưởng đi chừng vài tuần là về, ai dè đợt công tác kéo dài hơn mấy tháng. Việc này lại đẻ ra việc khác liên tu bất tận làm tôi quên bẵng đi cả những chuyện trên Sài Gòn.

Bất chợt, một buổi sáng tôi nhận được cú điện thoại đường dài của Minh báo rằng tôi phải về Sài Gòn gấp để đưa đám tang ông Khương. Tôi nói gần như hét lên trong điện thoại: “Cái gì, ông Khương nào?”, “Ông Khương tuyên huấn!”.

Tôi lặng người đi và trong đầu tôi lại hiện ra hình ảnh ông Khương đi xích lô đạp. Có một điều kỳ lạ không giải thích được là hai hình ảnh ấy cứ quyện chặt với nhau.

Đó là điều bí mật của ông Khương mà tôi định bụng khi nào gặp ông, tôi sẽ hỏi cho ra lẽ. Nhưng còn cách nào. Xích lô thì cả chục, cả trăm ngàn người, còn ông Khương thì chỉ có một. Có những cái xấu của con người được nhân ra gấp trăm, gấp ngàn khi họ còn sống, còn cái tốt của con người sẽ chon vùi vĩnh viễn theo cái chết của họ.

Nói về cái xấu của người khác thì dễ hơn là nói về cái tốt, nhất là khi họ đã mất rồi. Ai ở không mà đi tìm cái tốt lúc còn sống của người đã chết để thanh minh cho họ.

Tôi thu xếp nhanh để về Sài Gòn đưa đám ma ông Khương. Dầu sao, tôi cũng đỡ áy náy là đã thắp được trước quan tài của ông ba nén hương và uống với ông một chung rượu chia tay.

Rồi ai cũng vào chỗ vĩnh hằng ấy mà thôi. Con người sinh ra để rồi đi đến cõi ấy mà! Trong suốt quá trình sinh ra để đi đến chỗ vĩnh hằng ấy, con người đã luẩn quẩn trong những cái vòng danh lợi và sự đau khổ. Trong đoàn người đi theo xe tang đó, tôi nhận thấy có rất nhiều cán bộ chính quyền.

Quá nhiều vòng hoa tang, có thể chất đầy trên khoảng mười bốn chiếc xích lô đạp. Tôi thường có tật nhẩm đếm vòng hoa tang để định vị trí cho sự quan trọng của nhân vật chính trong một đám tang. Nhân vật chính này có thể là người đã chết và rất nhiều khi chính lại là người còn sống. Ủa, nhưng mà mười lăm chiếc xe chứ! Đúng, có một chiếc xích lô đạp, cuối hàng, không có một vòng hoa nào.

Linh tính báo cho tôi biết đó là chiếc xích lô nào rồi. Chiếc xích lô của ông Khương! Tôi không thể bỏ được tính tò mò của mình – dù cho ông Khương đã mất, một cái tò mò bệnh hoạn – lui lại phía sau cùng để gặp bác tài chiếc xích lô đạp của ông Khương.

Trước mặt tôi là một gương mặt sạm nắng, nhưng cặp mắt và vầng trán của bác xích lô khiến tôi phải tự hỏi có phải đây là một bác tài xích lô thật sự không? Tôi gật đầu chào ông tài xích lô và ông gật đầu chào lại.

Tôi đột ngột hỏi: “Bác là bạn ông Khương?”. “Dạ không, tôi đâu dám có được một người bạn như ổng”. “Hàng đêm bác chở ông ấy đi mà?”. “Dạ đúng”. “Nhưng hình như ông Khương rất thích đi xe của bác?”.

Bác tài cười, một nụ cười rất buồn. “Dạ ông Khương dặn cứ đúng bảy giờ tối lại quán đó đưa ổng về nhà”. “Chỉ vậy thôi sao?”. Tôi chợt thấy giọt nước mắt chợt ứa ra trên cặp mắt của bác xích lô già.

“Dạ, chỉ vậy. Nhưng tôi nói chuyện với ông ấy thoải mái lắm, về cuộc đời, về chuyện xã hội… Ông ấy luôn luôn hỏi tôi cái này cái kia…

Tôi nhớ lần đầu ông ấy đi xe của tôi, ổng chỉ hỏi bâng quơ: “Ông là người Sài Gòn, ông có biết cái cây cổ thụ ỏ đằng sau dinh đốc lý không?”. Tôi nói: “Biết chứ, nhưng hôm qua người ta đốn nó rồi. Để chuẩn bị xây một cái khách sạn gì đó”. “Ủa, ông cũng biết chuyện đó nữa à?”. “Dạ, tôi là người Sài Gòn từ nhỏ tới lớn, cái gì liên quan tới nói, tôi đều quan tâm hết. Dĩ nhiên, có cái cũng đâu có biết…”.

Sau đó, ông ấy kêu tôi bằng học giả xích lô – ông ấy giỡn chơi mà. Cứ mỗi tối, hai thằng tôi – xin lỗi – ông ấy leo lên xe, tôi đạp và nói chuyện.

Ông ấy cũng tinh thông chữ Hán lắm. Tôi thấy ông ấy có vẻ là một cán bộ, lại có vẻ là người có học, nhưng ông ấy quá tốt, quá hiền và quá dễ thương. Ông ấy còn gọi tôi là bạn đời ơi nữa… Bữa nay đi đám ma, tôi khớp quá. Toàn là những ông bà lớn không, tôi đi không hợp.

Nếu tôi biết ổng cỡ này chắc tôi chỉ ở nhà thắp ba nén hương quá. Đám ma, đôi lúc nó cũng phân biệt thành phần ông à”.

Lúc ấy, không hiểu sao, tôi chợt nói: – Tối nay, đúng bảy giờ, ông đạp xích lô đến quán chờ tôi nhé…

Chai bao

Thứ hai, 23.08.2010, 03:10pm (GMT+7)

Chợ của phường đặt tại một vị trí khá lý tưởng. Nói như vậy là vì nó chẳng đụng đến các phường khác và cái chính là thuận lợi cho việc mua bán của người dân.

Đó là khu đất ở cuối phường về phía Tây chẳng giáp giới gì với các khu khác. Bởi vì, xế bên hông chợ cách một con đường khá rộng có thể hai làn xe xuôi ngược vào chợ ra chợ là cái xóm nhỏ cũng thuộc phường, vỏn vẹn chỉ có bốn hộ nằm lọt thỏm giữa các bãi cỏ mọc cao lút đầu người và những bờ tre gai có lẽ có từ xa xưa khi ở nơi đây chưa thành đô thị. Hết cái xóm này là con đường cái lớn rải nhựa có tên tuổi hẳn hoi của thành phố rồi. Cách đây khoảng vài mươi năm, toàn bộ cái phường này vốn là những ngọn đồi dùng làm bãi tha ma phần lớn là mồ vô chủ. Người ta đã san ủi các đồi ấy thành mặt bằng, bốc các hài cốt còn có thể bốc được dời đi nơi khác. Và, lẽ dĩ nhiên, phố xá dần dần mọc lên, dân cư dần dần đông đúc, chợ búa dần dần được thiết lập.

Trước mặt chợ cách độ vài ba chục mét là một khu chung cư khá lớn. Nhà bốn tầng, gồm tất cả năm nhà đánh số từ A đến E, mỗi nhà ba hoặc bốn đơn nguyên, quay mặt ra con đường cái lớn có tên tuổi đàng hoàng nói trên. Xế bên phải khu chung cư là vạt đất khá rộng còn chưa có nhà cửa gì; nghe nói sắp tới sẽ xây dựng một siêu thị lớn nhỏ gì đó của thành phố. Trong lúc chờ đợi, phần đất này là bãi đỗ của các xe tải chuyên chở các loại da bò, da trâu kể cả chân cẳng móng giò lòng ruột của chúng từ các nơi đâu như ở phía Nam chở ra, để phân phối cho các quầy hàng trong chợ và cả ngoài chợ. Vì vậy, mùi hôi thối của chúng phải nói là đậm đặc, nhất là mỗi khi các xe ấy phải chờ đợi vì ế hàng, làm mọi người đi ngang qua không ai là không bịt mũi bịt miệng. Dân trong phường ngoài phường, đặc biệt là khu chung cư ở gần, kêu trời kêu đất, kể cả chửi bới, to tiếng xô xát với cánh lái xe không quen biết; cuối cùng là kêu lên chính quyền phường và thành phố, kêu mãi, kêu riết hơn một năm sau thì kết quả. Các xe tải thủ phạm của vụ ô nhiễm môi trường này biến mất. May quá!

Nhưng, khoảng hơn một tuần sau, cái nơi từng hôi thối nọ bỗng biến thành chỗ phức tạp mới, có điều giờ đây nó không hôi thối nữa nhưng cũng chẳng thơm tho gì. Đó là sự mọc lên một cơ sở thu gom chai bao từ các nơi trong thành phố đổ về. Đầu tiên, người ta thấy một tấm biển, vài bốn tấm vải bạt căng lên như lều tạm che mưa trú nắng. Tấm biển bằng gỗ hình chữ nhật đề: “Huyền Bôn - Chuyên thu mua bao chai, giấy báo cũ, đồ vụn sắt, nhựa, nhôm... Giám đốc: Lê Thị Huyền Bồn”. Cứ như biển của một công ty vậy!

Bà “giám đốc” áo quần lòe loẹt như phường tuồng, chính xác bao nhiêu tuổi không biết nhưng nom cũng còn trẻ, khoảng ngoài bốn mươi, trắng trẻo, hơi đẫy, má đầy đặn, đôi mắt dài cứ liếc ngang liếc dọc, còn đôi môi dày vừa phải thì tô son đỏ chót cười cười nói nói luôn mồm làm cho chúng không ngừng mấp ma mấp máy như chớp đông.

Bọn trai choai choai rỗi việc trong phường, cùng với đám xích lô, ba gác, xe ôm... thường mắt la mày lét bình phẩm, đoán định, phán xét, vân vân...

- Mụ ni ở mô mới đến vậy?

- Nghe nói mô trong thành nội. Mụ móc được mấy cha trên phường, đấu thầu được khoảnh đất nớ.

- Chao! Người trong phường chẳng ai biết mà đấu; để người ở mô đến phỗng mất, tiếc của!

Đám xích lô ba gác xe ôm thì chẳng quan tâm đến việc đó, họ quan tâm đến cái khác; vả việc xuất hiện một cơ sở thu gom như vậy ở đây chỉ có lợi cho họ. Họ là người chuyên chở thuê, đằng nào thì việc chở các vật dụng sau khi đã phân loại đến các cơ sở tái chế khác, bà Bồn phải nhờ đến họ. Nhưng không vì thế mà họ không bình luận vẩn vơ, phán xét linh tinh cho vui miệng sướng đời.

- Ôi trời! Đàn bà tên gì lại trùng vần với cái ấy!

- A ha hả! Nom cái bản mặt mụ nớ thiệt xứng với cái tên. Dâm dật lồ lộ ra, chẳng cần giấu giếm ai!

- Ừa, ông nói đúng với tôi nghĩ.

- Mi nghĩ răng?

- Tau nghĩ nhìn cái vẻ dâm bôn của mụ tau chỉ muốn đ... vào cái mặt ấy!

Tiếng cười rộ lên, khoái chí.

Khách đến nhập đồ bao chai cho Bồn toàn là nữ giới, các cô các chị có, đứng tuổi có. Họ đều gọi bà chủ là chị xưng bằng em. Duy nhất chỉ có một cô trẻ nhất trong bọn là gọi bằng cô, nhưng lại gọi anh chồng Bồn cũng có mặt ở đó bằng anh. Anh ta làm người chất xếp đồ đạc mua được sau khi đã tự mình phân loại ra, thành gò thành đống xong phủ vải nhựa ni-lông lên đợi các mối cho xe đến lấy hoặc thuê xích lô ba gác xe bò chở đi đến nơi nhà máy hoặc các cơ sở tái chế. Anh chồng này trẻ hơn vợ ít nhất là năm sáu tuổi, dáng người thanh mảnh như một sinh viên. Chị vợ hò hô, sai bảo anh chồng như người làm công nhưng mặt mày rạng rỡ, môi mồm lại nhấp nháy cười cười, đung đưa hai mắt như ngầm bảo: “Anh làm nhanh lên rồi về sớm, nhà lúc này vắng bọn trẻ đi học hết; chúng mình sẽ hú hí với nhau ban ngày một cái thử coi, thích lắm chứ nhỉ!”.

Bồn ngồi trên một chiếc ghế nhựa thấp có chỗ dựa lưng, trước mặt là một dãy cân có đến bốn năm chiếc, cái lớn cái nhỏ chẳng đều nhau. Nhỏ nhẹ thì cân giấy loại, bao ni lông, các tông, bì xác rắn. Vừa vừa thì sắt vụn, các vòng dây thép gai cũ, cuốc xẻng mòn vẹt, to nữa thì các máy móc hỏng bỏ, quạt trần, ti vi cũ vân vân...

Giá cả được ghi trên giấy khổ lớn dán vào một tấm biển khác bằng gỗ ép cũng lấy từ trong đám báo chai ấy ra: giấy báo loại ngàn ba/kí, bìa các tông ngàn tám, nhựa hai ngàn mốt, sắt vụn ba ngàn rưỡi... Người nhập cư đến, tháo dỡ đồ đạc ra khỏi xe đạp, bắc lên cân từng loại một. Bà chủ ngồi, mắt liếc cân, ghi vào sổ tay, bấm máy tính bỏ túi, xướng lên số cân số tiền rồi thò tay vào trong người móc ra cái ví giả da màu nâu cháy ở đâu trong bụng dưới, đếm tiền giao cho người nhập hàng. Hết người này đến người khác. Bà chủ cứ luôn tay, luôn mắt, luôn mồm. Còn anh chồng trẻ thì trái lại, im lặng chẳng nhìn ai cả, quăng lia lịa, bồm bộp, lanh canh, xủng xoảng... các đồ vật vào các đống các gò của mình, thứ trước mặt, thứ sau lưng, thứ bên phải, bên trái. Động tác của anh ta hao hao như một vận động viên môn thể thao bi sắt, khi ngồi xuống khi đứng lên, ngồi chân co chân duỗi để lấy đà, đứng khom lưng, thẳng gối, dạng chân, chụm gót... thành thục và nhẹ nhàng như đang đùa chơi một mình chứ không phải đang làm việc.

*

Cô gái trẻ nhất trong đám người đến nhập hàng cho Bồn với chiếc xe đạp chất đầy đồ đạc linh tinh bà giằng cả bố lên, to đùng như chiếc xe thồ loại lớn, đạp tới. Bãi hàng đã vắng tanh người; cô là người cuối cùng trong ngày. Bây giờ mới hơn năm giờ chiều. Tháng mười chưa cười đã tối, trời hôm nay không mưa không nắng, mây dày nên khá âm u. Cô gái đạp chầm chậm xem bộ chẳng vội vã gì; một vì chưa có kinh nghiệm mấy, hai bởi chiếc xe đạp to đùng như quá tải với sức vóc của cô. Bà chủ thoáng thấy đã hối thúc:

- Mau lên, mau lên chút, bé! Trời tối sập đến nơi rồi đó. Năm phút nữa chị về thôi! Mau mau!

- Ôi trời, thế à thế à? Đây rồi, đây rồi, em dỡ một tí là xong. Cô cân đi, đây đây...!

Cô gái gạt chân chống xe, mở, rút các dây chằng buộc. Đồ đạc các thứ đổ xòa ra bốn bên một vạt dễ đến ba bốn mét vuông đất. Lộ ra chiếc xe không, đó là chiếc Queen còn khá mới, loại các nữ sinh ở thành phố này thường dùng đi học.

Bồn liếc nhìn người nhìn xe của cô gái, trong lúc vẫn vừa cân, vừa ghi sổ cộng tiền.

- Em mới đến lần đầu à? Ở mô đến? Ai giới thiệu? Tên em là chi?

- Dạ thưa cô em tên Như. Phải có người giới thiệu à cô? Em ở ngay khu chung cư đây thôi cô à, A2. Mấy mẹ con em vừa chuyển đến có nửa tháng, san được căn hộ cũ mà cô. Thú thật với cô, em mới làm chuyến này là chuyến đầu tiên, mong cô thông cảm cho!

- A à, phải có giới thiệu giới thiếc hẳn hoi chớ! Nhưng thôi, em ở nhà A2 đằng nớ thì khỏi. Này tiền đây, cầm lấy!

- Dạ dạ, em xin cô!

Bà chủ trẻ nghe thấy thích lỗ tai, mặt mày mắt môi cứ nở cả ra. Con bé xưng hô như đang ở trường ở lớp học hay ở cơ quan doanh nghiệp. Mình là cô giáo thì không phải rồi, nhưng là giám đốc thì có chi là không được? Giám đốc cơ sở thu gom chai bao của cá nhân mình. Mình cũng là chủ chứ đâu phải là khách. Bây giờ đâu đâu có thiếu giám đốc! Có nơi chỉ ba mống cũng có trưởng, phó đàng hoàng cơ mà! Huống hồ ở đây ta có dưới tay hàng chục chị em, mấy chục chứ lại! Rồi rồi...! Vậy mà ông xã ta cứ rầy la, bắt ta phải dẹp bỏ ngay cái biển đề tên kia đi. Bồn này cũng là một cơ sở, một công ty chứ bộ. Rồi, rồi...!

Bồn cao giọng với anh chồng đang rửa tay chân xòe xòe ở vòi nước công cộng đằng kia:

- Anh ơi, về được chưa? Đậy điệm xong cả rồi, tối nay trời có mưa cũng kệ hắn, muốn mưa to mưa nhỏ chi cũng được!

Làm như chị ta là người đã khuân vác, bốc xếp, phân loại rồi che chấn đắp đậy các đống các gò hàng không bằng! Hai vợ chồng đèo nhau vút đi...

Trên khoảnh đất bừa bộn rác rưởi chỉ còn lại cô gái trẻ lúc nãy. Cô đứng tần ngần bên gốc cây phượng hoa vàng đã hết mùa hoa, chỉ còn lá rơi lác đác, xào xạc. Cô cầm nạm tiền chẵn có lẻ có xếp lại cho gọn, đếm, tính toán trong đầu. Thế là hôm nay, đầu tiên, lãi được ba chục ngàn. Một ngày từ tám giờ sáng đến năm giờ chiều, ba chục đâu có ít. Mỗi tháng ba mươi ngày. Ba ba là chín, ngót một triệu, cũng đủ cho ba mẹ con. Trong thời gian chờ đi xin việc, như thế này cũng tốt rồi, còn hơn ngồi chơi không có đồng nào. Cô chợt chạnh lòng, cứ ngẩn ra, nghĩ đến phận mình. Tốt nghiệp tú tài xong cô đi trung cấp kế toán do ngành giao thông vận tải mở. Không có tiền thi tiếp học tiếp vì đồng lương hưu của mẹ quá còm cõi, cô đành đi làm để giúp mẹ nuôi em trai ăn học. Cái nghề chai bao này tuy nhếch nhác vất vả một chút nhưng chả phải xin xỏ ai, chiều lụy ai, bán mua đàng hoàng, thanh sạch. Sáng sáng, sau khi lo cho mẹ cho em, dọn dẹp quét tước xong, cô lót dạ bằng bát cơm rang với xì dầu, khi có thì đập thêm vào quả trứng khi không thì thôi; rồi với chiếc xe đạp mà cô đã đi học suốt từ cấp hai đến cấp ba, cô đạp đi khắp hang cùng ngõ hẻm trong thành phố.

- Ai nhôm nhựa ve chai bao bì bán hông... ông... ông...! Ai nhôm nhựa bao bì...

Thường thường đã có giá; mỗi cân giấy loại, báo cũ lời được một trăm, cạc tông bao bì, giấy dày giấy in ảnh hai trăm, đồ nhựa ba bốn trăm, sắt vụn năm sáu trăm... Đôi khi gặp nhà giàu có, họ quăng ra sân đủ các thứ bát nháo linh tinh, họ cho không, mình dọn đi cho sạch sẽ là họ mừng. Lại có lúc gặp nơi xây nhà mới, thôi thì bao bì xi măng, sắt thép đầu thừa đuôi thẹo tha hồ, cái người ta bán rẻ cái cho. Những lúc ấy có khi ngày lời cả trăm ngàn “lương bằng thạc sĩ tiến sĩ” - dân chai bao có chị đùa như vậy. Thế là sáng hôm sau trước khi ra đường phố cất giọng rao “Ai dép nhựa bao bì...!” dám ăn lót bụng một bát bánh canh năm ngàn có cả một cục thịt băm gọi là thịt cua vằm với hai quả trứng cút!

Trước đó, Như nhập hàng ở nơi khác, tận dưới chợ An Cựu xa xôi. Từ ngày dời đến ở khu chung cư phường này, cô phát hiện ra cơ sở thu gom Huyền Bôn cách nhà cô chỉ vài ba trăm mét. Thế là đi dông đi dài “Ai nhôm nhựa sắt vụn bao bì... bán hôô... ôô... ôô..! suốt ngày; trên đường về nhà chiều tối là bán gọn, tiện lợi vô cùng. Cô chợt nhớ tới hôm đi ngang qua đây nghe được mấy lời kháo chuyện của mấy bác xích lô ba gác. Cô vụt mỉm cười, hai má hồng lên, tay che mặt xấu hổ. Mấy bác mấy chú ấy phẩm bình về bà chủ mới của cô, tục thì tục thật nhưng qua dăm bảy phút vừa rồi, cô có dịp nhìn kỹ bà, khuôn mặt, rồi đôi mắt đôi môi của bà... cô công nhận là họ chẳng sai. Bà ta quả có một cái gì đó lồ lộ như muốn phơi bày điều mà bà khao khát không thể đáp ứng đầy đủ, thỏa mãn; như mời mọc, khêu gợi mọi người đàn ông, bất kể họ là ai, già hay trẻ... Thôi, cho qua chuyện này, kệ bà ta, nghĩ đến làm chi cho mệt! Rồi bỗng như nhớ lại ngày đầu tiên cô bước vào nghề. Đi qua các phố, các phường xa lạ, cô cứ đạp thong thả, nhìn ngó nhà cửa hai bên đường, chưa dám cất tiếng rao, mặc dù cô đã nhẩm thuộc lòng trong bụng. Ngày đó, cô đi xe không về cũng xe không, và tất nhiên không được đồng xu nào. Vượt qua cái khó ban đầu chẳng phải dễ. Song cô lại nghĩ, đây đâu phải là việc khó khăn gì, chẳng qua do mình ngượng ngập không dám thôi; mình mua bán chứ có phải ăn trộm ăn cắp gì của ai mà sợ! Cô nhìn quanh. Đằng kia cũng có vài ba chị vài ba cô đang đạp xe đèo bao bì, giấy lộn, ghế nhựa hỏng, hộp đựng mì ăn liền... đó thôi; người ta đàng hoàng như thế, tiếng rao lanh lảnh như thế, có làm sao đâu! Họ đang ở xa cô và chẳng biết cô là ai, mọi người khác cũng vậy thôi! Cô hít một hơi dài, rồi coi như đang tập thể dục, nghỉ ra chơi hò reo ở lớp học hồi nào, cô vuột cái câu nằm lòng khi quyết định đi làm để giúp đỡ mẹ:

- Ai nhôm nhựa chai bao bán khôông... ôông... ôông? Giọng cô cao hơn hẳn thường ngày một bậc, nghe như hát mà lại không phải là hát làm cô cũng ngạc nhiên thay cho chính mình. Ủa, thì ra nó cũng bình thường như bao tiếng rao của những người khác. Nếu không rao, ai biết đấy là đâu, ai biết cô là người chai bao để gọi cô vào mà bán?

Có tiếng trả lời ồm ồm phát ra ở nhà bên trái:

- Vào đây! Vào đây!

Cô mỉm một nụ cười không cho ai cả mà cho bản thân mình, vòng xe vào cổng sau khi tiếng kít kít hơi nặng mở ra của hai cánh cửa cao to bằng sắt vừa dứt. Tự dưng, cô thấy tự tin hoàn toàn. Như cách đây năm ngoái một ngày cô ngồi vào bàn thi tốt nghiệp kế toán bậc trung cấp. Đầu óc cô lại như một cuộn phim lướt qua bao nhiêu là sự việc, dồn dập có, chậm rãi có, đặc biệt có, thông thường cũng có. Mẹ cô nói: “Cái số mình nó vậy, chẳng bao giờ gặp may! Phải chấp nhận thôi! Có ai mà cưỡng lại được số phận?” Cha cô và người anh trai đầu đã chết trong cùng một năm, với những lý do hết sức lạ lùng như không thể nào hiểu được. Một hôm ông đi làm về, khỏe mạnh và tươi vui như một chàng thanh niên. Ông kể: gặp được ông bạn cố tri từ cái hồi đi bộ đội cụ Hồ sau Mậu Thân. Hai thằng kéo nhau vào quán thịt chó, gọi một bát rựa mận và hai chai Huda. Chỉ có thế mà hôm sau, ông kêu đau đâu bên trong tì vị, không đi làm được. Chở ông lên bệnh viện trong tình trạng gần tuần ông bỏ ăn, đổ cái gì vào mồm ông cũng ụa ra, kể cả nước đun sôi để nguội. Người ta khám đi khám lại nhiều lần, chụp cả phim cắt lớp bên trong người ông. Cuối cùng, họ kêt luận là ung thư gan giai đoạn cuối; tùy gia đình muốn để ông lại viện thì để, muốn đưa về nhà thì đưa; ông không thể nào qua khỏi được! Về nhà được năm ngày thì ông vĩnh viễn ra đi. Vậy là ông, từ bé đến giờ chỉ ốm một lần rồi mất! Người anh trai đầu của cô vốn bị tàng tàng xưa nay, nhưng chỉ tàng tàng trong nhà; anh chẳng đi đâu cả, chẳng có bệnh hoạn gì cả kể cả đau đầu sổ mũi. Một hôm anh ốm, tưởng là cúm sơ sơ, uống vài viên thuốc sẽ khỏi. Vậy mà, cũng như cha, chở anh lên bệnh viện ngày trước truyền đạm, ngày sau anh đã xỉu dần, xỉu dần rồi đi luôn.

Đó là những ngày sau khi cô vừa đậu trung cấp kế toán. Ở cái thành phố này, người ta bảo trình độ trung cấp chỉ như lao động tạp vụ, chẳng ăn thua gì, chẳng cơ quan nào, công ty nào chấp nhận đơn xin việc của cô cả. Chạy đến mòn gót chân một năm, đợi dài ruột dài lòng thêm một năm nữa, hồ sơ xin việc nếu lưu trữ lại được dễ đã gần đầy một rương gỗ. Bà con lối xóm biết tình cảnh của cô, họ nói: “Mình vác cái đơn xin việc với hai bàn tay trắng thì có đến mồng thất! Phải có phong bì phong bao càng dày, càng nhanh, càng tốt”. Ôi chao ôi, việc đó đối với gia đình cô thì xin vái! Kiếm đủ cơm đút vào ba miệng ăn đã hết hơi rồi, có đâu mà phong bì phong biếc! Ở khu chung cư mới của cô, có cụ ông Bạch vốn là cựu chiến binh thời chống Pháp, làm đến chức trưởng ty giáo dục những năm 70 trước, nay đã hơn 90 tuổi vẫn khoẻ tinh tường. Cụ nói: “Thời buổi giờ là thời buổi “nhất tiền nhị thế, tam quyền tứ nghệ” để vận vào chuyện đi xin việc làm của hàng con cháu cụ giờ đây. Đồng tiền đi trước hết, chẳng “oong-đơ” chi cả; thứ mới đến thế, quan trên áp đặt quan dưới, quan dưới áp đặt quan dưới nữa, cứ thế mà làm; quyền hành trong việc này xếp thứ ba, nghĩa là có chức mới vực được bà con nội ngoại, họ hàng quen biết, bạn bè... Chót bẹt mới tính đến nghề nghiệp chuyên môn, dù là cử nhân, tiến sĩ đi nữa cũng vậy!”.

Không thể đi tỉnh khác, thành phố khác xa xôi, không thể bỏ mẹ và em trai út đang học lớp mười ở nhà một mình, càng không thể ăn bám mẹ với đồng lương hưu ít ỏi, cô tặc lưỡi: “Mình chẳng có phong bao thì chai bao vậy!” Cô bỗng phì cười với ý nghĩ đến bất chợt như một tia chớp loé. Hồi còn đi học, bạn bè ở lớp thường đặt tên cho cô là “Mệ Hài” để nói về năng khiếu hay hài hước chơi chữ của cô. Cô thưa với mẹ. Mẹ thở dài một cái, chẳng lắc đầu cũng chẳng gật. Thế là cô “vào nghề” từ đó.

Bạn trai của cô, người cùng quê, anh đã tốt nghiệp đại học kiến trúc, đang công tác cho một công ty ở Đà Nẵng, là người mà cô ngại ngùng nhất khi rụt rè báo cho anh biết tin này bằng chiếc điện thoại di động VT 3162 mà anh đã mua bốn trăm rưỡi ngàn mới tặng cô. Không ngờ, anh nhắn lại: “Đó là một việc làm lương thiện. Nhất trí. Hoan hô quan điểm “mệ hài” của anh!” Tưởng là anh phản đối hay ít nhất là không bằng lòng, chẳng vui vẻ gì, hóa ra... Cô thở hắt dài một cái như mẹ. Khác với mẹ là cô mỉm cười sau tiếng thở dài đó. “Của anh à?” Sao vội thế? Cô tự trả lời trong bụng: “Ừa.. à... còn vội chi nữa mà vội, mình năm nay đã hăm sáu rồi! Ối anh ơi...” Cô thầm cám ơn người yêu đã hiểu thấu hoàn cảnh của cô, lòng cô. Bất giác, cô rao nho nhỏ: “Ai nhôm nhựa bao bì bán hôông...”

*

Chiều.

Như lấy làm lạ khi đạp chiếc xe kềnh càng tổ bố về đến bãi nhập chỉ thấy mỗi anh chồng mà không thấy bà vợ có cái bản mặt lồ lộ sự dâm bôn nơi môi mắt. Chỉ thấy một dãy cân đĩa cái nhỏ cái lớn quen thuộc. Anh chủ đang bận thu xếp hàng hóa đằng sau một đống bao chai lớn ló đầu ra, nói:

- Cô cứ tự cân các thứ đi. Có cuốn sổ và bút bi đặt trên ghế đó. Cô ghi vào hộ tôi. Chốc tôi ra sẽ trả tiền.

- Cô Bồn hôm nay đi đâu hả anh?

- Đi ăn cưới con một bà bạn của cô ấy. Suất bốn rưỡi chiều mà!

- À vậy. Nhưng anh ra cân cho em chứ? Chủ nhập lại tin người nhập sao? Thôi anh cứ làm cho xong đó em chờ.

- Được rồi! Ai chứ cô thì tôi tin, cứ cân đi, tính tiền. Tôi bận tíu đây mà… Họ vừa làm phần của họ vừa đối thoại.

- Vì sao anh tin em?

- Vì… tôi có tài xem tướng số!

- Tướng số?

- Đúng. Nhìn qua, tôi biết cô là người trung thực, rất xa lạ với sự giả dối, huống hồ là gian dối, cân một mà hô lên một rưỡi hoặc hai!

- Mới nhìn qua đã biết. Anh tài giỏi vậy à?

- Vâng. Chẳng dám nói mình tài giỏi nhưng tôi biết cô như vậy. Tôi còn biết cô chẳng phải là dân chuyên nghề chai bao như các chị em bạn hàng ở đây. Cô là sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm hoặc tương tự như vậy. Đúng không?

- Ủa, anh căn cứ vào đâu?

- Vào cái chuỗi hạt bằng than đá đen tuyền cô đeo trên cổ và cái “mô bai” trong túi áo cô!

- Anh dòm cả vào túi áo của em à? - cô gái hơi giật mình, bất giác thò tay vào túi áo, sờ lên sau cổ, rồi nhìn xuống nhìn lên trên thân thể mình.

- Tôi đâu phải loại người tò mò thô lỗ hoặc thiếu tế nhị đến mức như thế! Tự cô nói lên đấy chứ!

- Em nói hồi nào? Anh đừng có… điêu!

- Cô xem kìa. Các đường hằn lên trong túi áo vải mỏng của cô hình chữ nhật bằng hai chiếc bao diêm xếp tiếp nhau đấy thôi. Không chiếc điện thoại di động thì là cái gì? Còn chuỗi hạt, các cô sinh viên con nhà giàu có không bao giờ đeo loại than đá rất rẻ nhưng đẹp tuyệt, được gọt giũa bằng tay này. Các cô ấy chỉ thấy đẹp sang ở loại ngọc trai dổm hoặc hạt nhựa giả đá quí dổm thôi!

Cô gái dùng bàn tay phải vợt cái túi áo của mình lên xem, cười:

- Em xin lỗi đã nói anh điêu! Giờ anh em mình làm quen với nhau nghe. Em là Như. Còn anh?

- Tôi là Bảo. Nếu cả họ đầy đủ thì Phan Trần Bảo.

- Anh Bảo xem hộ em cái này là cái gì. Em đoán chắc là một cái máy gì đó, chẳng biết có phải không?

Nói rồi Như lôi từ trong túi xách đeo vai ra một vật vuông vắn hình chữ nhật dày khoảng nửa gang tay to bằng hộp bánh qui, vỏ ngoài của nó bằng sắt sơn đen đã méo mó sứt sẹo, các chữ ghi trên đó đều đã mòn sờn chữ còn chữ mất.

Bảo cầm lên xem. Khá nặng, dễ gần 2 ký. Anh chà chà ngón tay lên các chữ, lật xuôi lật ngược cái vật bốn góc vuông vắn, săm soi ngang dọc, ấn ấn vặn vặn các nút một hồi xong cũng nói một hồi:

- Đây là cái máy biến thế điện loại bỏ túi của Mỹ. Đã lâu lắm rồi giờ - chẳng ai thấy đâu, dùng đâu nữa. Nhưng nó rất tốt, nếu như chưa bị cháy bị hỏng. Nhà cô có vật dụng gì dùng điện 110 hay dưới nữa không, hả. Có à. Có chiếc quạt cũ à. Thế thì hay. Cô cứ mang về dùng thử, xem nó có chạy không. này nhé! Hai cái nút, nút bên phải là điện 220 nút trái là điện 110, cứ thế mà ấn vào. Còn cái núm dưới này là dưới 110, cứ vặn theo ngược chiều kim đồng hồ một nấc giảm đi 10 vôn, 2 nấc giảm đi 20 vôn, vân vân, cho đến nấc cuối cùng.

- Thế ư, tốt quá. Để em đem về thử. Dùng được không nói làm chi, không được mai em mang đến cân sắt vụn cho anh, nhé!

- Ừ. Cô nhặt được cái này ở đâu? Hay là mua?

- Không phải mua, anh ạ. Có cái nhà ông nớ trong đại nội, nghe đâu làm to lắm. Họ dọn nhà dọn cửa làm chi đó, quăng vào đống rác trong các túi xác rắn một đống, để trước cổng. Em đi ngang, họ kêu tới, nói cho, bảo em dọn hết đi cho họ. Em làm ngay!

- À à, các đại gia thường có mới nới cũ ấy mà. Thế là nó còn tốt, dùng được đấy. Loại này nó bền lắm tuy đã méo mó, sứt mẻ lung tung bên ngoài.

- Dạ dạ. Thôi chào anh em về kẻo mẹ em mong.

Người con gái quay đi với chiếc xe đạp bây giờ đã nhẹ thênh, tấm lưng thon thả với mái tóc dài ngoe nguẩy cái đuôi đằng sau. Bảo không khỏi không nhìn theo, nghĩ bụng: Rõ là một cô nữ sinh đi học về! Còn cô gái vừa đi vừa băn khoăn. Chao, anh ấy có vẻ rành cả máy móc đồ điện. Hình như trước đây, anh ấy cũng có học hành tử tế. Chưa biết chừng là cử nhân, kỹ sư … thất nghiệp cũng nên…

*

Bà chủ cơ sở thu gom bao chai đi ăn cưới về vừa lúc đèn đường bật lên sáng rực. Dưới ánh sáng, đôi má của Bồn càng thêm phinh phính, hồng hào như của gái một con, giá như những nếp nhăn hai bên đuôi mắt lặn đi mất tăm. Bù vào đó là đôi môi vừa được bồi dưỡng chất béo và những ly bia trong tiệc cưới mỡ màng hẳn, bầu bậu thêm, nét son không mấy đắt tiền được tô vào khá đậm trên đó trước lúc đi dự tiệc vẫn còn khá y nguyên, mặc dù Bồn đã dùng nó bập vào ly cụng lên cụng xuống không dưới mười lần trăm phần trăm cùng các vị khách mời khác giới trong buổi tiệc. Bởi vậy, nom chúng càng hấp dẫn, càng mời gọi. Trước lúc về nhà, Bồn phóng xe máy qua chỗ làm, liếc qua liếc lại, vừa lúc người chồng trẻ đã ngồi lên yên của mình, rồ máy.

- Về rồi à? Tiệc cưới có đông không?

- Đông lắm. Có đến năm chục bàn, hơn, hơn…! Đại to! Gớm, cái mụ bạn em, tủm tà tủm tỉm vậy mà quen biết nhiều vị quan chức, đại gia trong thành phố ghê! À, hôm nay có chuyện chi không anh?

- Chuyện chi là chuyện chi? Sao lại hỏi như rứa? Bao chai thì ngày nào, buổi nào mà chẳng chai bao!

- Sao với trăng gì. Đây biết cả rồi nghe. Tai mắt xung quanh cả phường này là của đây cả đó - Bồn cười hiêng hiếc nhìn chồng, chừng như bảo: Thôi chuyện này nói sau, cũng có thể xí xóa, giờ ta hãy nghĩ đến chuyện của hai chúng mình - Thôi về đi anh, về còn ăn uống, dọn dẹp đôi chút nhà cửa rồi đi ngủ sớm. Cả ngày hôm nay anh và em đều mệt lắm rồi! Chao ơi, được mời đi dự tiệc ăn uống mà cũng bã cả người!

- Chưa về! - người chồng tắt máy xe - chuyện chi đã biết, nói mau nghe coi!

- Thôi mà cưng! Vợ chồng mình về đi! Về…

- Không thôi! Chuyện chi hai năm rõ mười, có nói mới về; có nói rõ việc ni mới làm được việc khác!

Người vợ dường như “huyết áp hạ xuống” một phút. Lại cười cười, mấp máy, liếc liêng:

- Ờ thì em nói. Nhưng em chả tin đâu anh nghe, họ xầm xì kệ cha họ. Cái con bé chai bao gì mới đến nhập hàng cho mình tuần trước ý mà. Họ bảo nó thân thiết với anh lắm, phải không?

- Xì, tưởng chi! Nó còn đó, mai lại tới nhập hàng, ba mặt một lời, bà cứ để mà coi! Bộ bà tưởng nó thèm bập vào tôi à? Hoặc là tôi trổ hết tài nghệ để cuốn lôi nó ư? Người ta đàng hoàng tử tế chứ có phải tầm bậy tầm bạ như bà ấy à?

Huyết áp chị vợ lại tăng lên như cũ, có phần hơn chút. Vì hối hả cuống cuồng sợ anh chồng mất hứng. Vì cái hồi xuân có phần cao độ, hơn người của ả.

- Thôi thôi mà anh! Em nói rồi mà! Anh là của em mà!...

Hai chiếc xe máy song song về; họ im lặng không nói thêm gì nữa. Mỗi người đuổi theo một ý nghĩ. Chị vợ thì như tất cả để chuẩn bị cho sự sung sướng, ta sẽ bày ra mẹo mới, mới toanh. Chị ta phóng như điên lên trước. Anh chồng đi sau vài mét, ngao ngán lắc lắc nhẹ mái đầu. Chẳng biết đêm nào ngày nào bà xã ta mới bớt được cái thói hư ăn, hàm hồ như mèo động đực đây?...

Trăng ở phố nhạt hoét như nước ốc quên bỏ muối vắt chanh.

Ông lão bán điếu

Thứ hai, 21.09.2009, 01:20pm (GMT+7)

                Kể cũng lạ, giữa đất Hà Nội, bây giờ, người ta đua nhau xài đồ ngoại; điếu thuốc cũng có nhiều thuốc ngoại, thậm chí cả hê-rô-in... Thế nhưng, cái điếu cày dân dã ngàn xưa, vẫn khiêm nhường hiện diện và đĩnh đạc rít lên những chuỗi âm thanh ròn tanh tách.

Cái anh điếu cày, chẳng cần bảng hiệu, chẳng cần quảng cáo gì sất, thế mà...

*

                Từ ngày có sự sụp đổ ở Liên Xô, chiều nào cũng vậy, tôi từ nhà khách Nguyễn Quyền tản bộ sang bên kia hồ Thiền Quang, để mua báo Tin tức buổi chiều. Và bao giờ tôi cũng vòng qua chỗ ông lão bán điếu. Ông ngồi dưới gốc si non. Rễ si bị dùng làm đòn kê băm mòn, bằng chằn chặn. Ông bảo, ngày trước, ông đã phải đổ đất bảo vệ rễ, nuôi rễ. Nhưng mưa gió mòn đi, thôi thì cứ mặc nó vậy, sần sùi, gân guốc và tồn tại như ông, vậy giữa cái đất phồn hoa này. Ông còn kể, mấy ông Tây thích chụp ảnh chỗ này lắm. Thế mới lạ. Chỗ này linh lắm, nên ông mới hành nghề.

Ông lão ơi, tối hôm nọ, tôi đi xem diễn chèo ở câu lạc bộ thể nghiệm Nguyễn Đình Chiểu, về qua đây, nhớ ông lão bán điếu, tôi ngó qua. Bỗng giật mình sửng sốt, vì thấy một cô gái bán thuốc lá đêm vội vàng thả váy, còn một thanh niên cởi trần... Bởi vậy, đất này không chỉ linh như ông tưởng đâu, mà còn phồn thực nữa, ông ạ. - Tôi nghĩ thầm như vậy.

                Ông lão tuổi cỡ lục tuần, thân hình vạm vỡ, nhưng cái miệng nhỏ thó như đồng xu. Khi ông lấy dao trích khoét lỗ tra nõ điếu, thì cái miệng của ông càng chúm lại như đang thổi bùi nhùi. Xung quanh ông bày la liệt các loại điếu. Những cái điếu tre màu xanh nhũn nhặn, cái xanh nhợt, cái xanh thẫm, lại có cái màu vàng ươm, cái nõ nhôm, cái nõ gỗ, cái mới khoét lỗ, có cái mới chỉ là một đoạn tre đang phác thảo một ý tưởng-Điếu. Có cái to như bắp tay vẽ rồng, vẽ phượng, có cái  nhỏ như ngón tay, giống như điếu của cánh lái trâu hay ngoắc vào sau ba-lô để rong ruổi đường trường. Nhưng đa phần là những cái cỡ thau tháu. Tất cả đều thẳng hàng ngay lối. Nom chúng giống như một giàn cối hạng nhẹ. Thế mà trong bao tải dựng bên gốc si, còn ních căng những ống điếu phác thảo.

                - Ông làm thế này thu nhập có khá không? - Tôi lân la hỏi ông.

                - Cũng đủ kiếm vài cân gạo.

                Tôi lập tức mở tờ Tin tức buổi chiều, tìm mục giá cả thị trường: "Tính đến 10 giờ sáng hôm nay, tại Hà Nội, giá vàng và đô-la Mỹ tiếp tục tăng. Vàng bán ra 467 000 đ/chỉ. Đô-la Mỹ bán ra 10 800 đ/USD. Gạo quê ngon   2 150 đ/kg... "

                - Một cái điếu giá bao nhiêu, ông?

                - Cũng tuỳ, cái vài nghìn đồng, cái chín trăm đồng, có khi vài ba trăm cũng bán. Có khi phải hạ giá, để hút tiền mặt về càng nhanh càng tốt.

                Ôi chao, thị trường sao mà có sức cuốn hút dữ vậy. Một ông lão bán điếu với mấy khúc tre bày ra, cũng bị cuốn vào cái vòng luân chuyển của đồng tiền: hút tiền mặt về càng nhanh càng tốt!

                Một anh chàng phóng xe cúp, rà sát vỉa hè dừng lại, ghếch một chân lên và hỏi mua một cái điếu cỡ thau tháu.

                - Nghìn hai đấy. Kêu lắm. Hiếm lắm. Quý đấy.

                Anh chàng xe cúp lừ lừ nhìn cái giàn "hoả lực" của ông, thấy hàng dãy: mi-ni điếu, tiểu điếu, trung điếu và đại điếu. Anh ta ngoắc tay ra hiệu ông cho hút thử một cái, rồi lắc Ông lập tức tuôn ra hàng tràng:

                - Mai nhé, ngày mai có cái tốt hơn, hiếm lắm, quý lắm.

                Đoạn, ông với tay rút ở trong bao tải ra một khúc tre phác thảo. Rồi, ông vớ lấy cái lưỡi cưa-loại cưa sắt và cắt miệng điếu. Rồi, ông cầm chàng thoăn thoắt khoét miệng điếu. Rồi, ông nhấc đục tròn và dùi đục gỗ nghiến để đục lỗ tra nõ điếu. Rồi, ông lắp nõ vào khít khìn khịt. Rồi, ông với cái can nước, rót vào một tý tẹo, rít tanh tách. Tiện tay, ông  móc gói thuốc lào nhỏ xíu trong túi áo. Những ngón tay vàng khè, vê vê  điếu thuốc tra vào nõ điếu, thong thả đánh diêm, châm lửa, rít một hồi. Ông ngửa cổ lên đám cành si, rễ si la đà, lim dim con mắt, nhè nhẹ phả khói; rồi hít một hơi gió hồ tanh tanh nồng nồng tỏ vẻ khoan khoái và mãn nguyện lắm. Chắc ông sống ở đây lâu đã quen, tôi là dân tỉnh lẻ về Hà Nội, ngửi hơi mấy cái hồ mà cứ ghê ghê thế nào ấy, khó chịu mà vẫn phải ngửi, thậm chí còn ngồi hóng mát cho ra vẻ thư nhàn.

                Một chị cưỡi xe đạp có thồ đôi sọt to, ghé vầo hỏi mua cái điếu loại 2000 đồng. Chị chỉ vào cái điếu có màu xanh nhũn nhặn, ông lão bảo:

                - ấy, không được con ạ, loại này phải giành cho chánh, phó lý. Ba nghìn hai cơ. Ông bớt cho hai trăm, đúng ba nghìn.

                Chị xe thồ cứ đòi mua loại 2000 đồng. Chị phân bua là ông hàng xóm chỉ gửi chị đúng ngần ấy tiền.

                - Con mua cho chồng con chứ gì? Đây, loại hai nghìn đồng, ông chỉ lấy đúng nghìn tám, còn cho con hai trăm. ừ, mà nghìn bảy cũng được. Thế là cho con ba trăm. Cẩn thận đấy, kẻo kẻ gian nó móc mất điếu.

                Ông quay sang phân trần với mấy anh bán phong lan, mấy chị bán gỗ lũa, mấy bà bán đá nhũ, vòng mây:

                - Con này giỏi lắm. Nó buôn chuối đấy. Có hôm mưa gió, mình vội xếp đồ hàng về Phương Liệt, cách có mấy cây số mà đã lo. Thế mà nó về tận Thường Tín đấy nhé. Cách mấy chục cây số, còn phải qua đò nữa chứ. Con này giỏi lắm.

                Mấy đứa bé đi bới rác, tay cầm cái móc sắt cong cong, thúng đội trên đầu, nghe tiếng ông oang oang, chúng dừng lại. Ông bất giác chun mũi. Bỗng có hai cậu choai choai, vác hai khẩu súng bắn nước, ngồi sán lại bên ông, vừa xem ông làm điếu, vừa nói chuyện với nhau:

                - Tao vừa bị con mụ Vân phạt, vì đi muộn và thiếu sách.

                Ông dừng tay hỏi:

                - Vân nào?

                - Cô giáo chủ nhiệm lớp chúng cháu ấy mà?

                - Ông ngày xưa tôn sư trọng đạo lắm, thế mà bây giờ phải làm điếu kiếm sống. Thế mà chúng mày bây giờ... Xéo ngay!

                - Anh ạ. - Ông quay sang trò chuyện với tôi. - Cái "nhân chủng học" bây giờ là phức tạp lắm. - (Có lẽ ông muốn nói về cái nhân, cái đức). - Tôi đã "xác xuất" lắm rồi. - (có lẽ ông muốn nói là đã từng trải lắm)...

                Bỗng có tiếng còi xe cảnh sát rú lên. Xe cảnh sát đang đuổi theo một cái xe du lịch và áp nó vào sát lề đường Công viên Lê-Nin. Dòng người ùn lại. Nào là những ô-tô, xe máy, xe đạp, xích-lô... tất cả xôn xao, nhễ nhại, ngay bên cạnh ông lão. Thế mà ông chỉ ngó nhìn qua, rồi lại tỷ mẩn công việc.

                - Cái nghề này không giàu, nhưng không sợ đói. Ngày nào cũng có tí tiền, nhưng mưa gió là gay to. Phải tích luỹ. Vốn cũng có dăm ba trăm đến một triệu, nhưng toàn là bán thành phẩm, không ăn được, chỉ hút. Ngày trước phải đi mua, nhưng bây giờ "vệ tinh" nó mang đến. - (Chắc là mấy anh buôn bè). - Có khi mình mua chịu trả dần. Nghề nào cũng vậy, phải có chín thì mới có tín, mà có tín thì mới tồn được anh ạ. Cái điếu của ta thì anh sang cũng như anh hèn, lúc vui cũng như lúc buồn đều phải cần đến.

*

                Bây giờ, qua đây không thấy ông đâu. Cây si cao lớn, đám rễ si ông từng dùng làm đòn kê vẫn bằng chằn chặn, nhưng đã mọc rêu và đầy nước giải của người đời đêm hôm qua. ấy vậy mà có ai đó còn cắm mấy nén nhang, lên cái đám rễ si ấy.

Bất giác, tôi nhìn thấy trên màn hình ti-vi của cái quán cà-phê ở góc đường, đang có chương trình thông báo giá cả thị trường: giá vàng bán ra tăng, giá đô-la bán ra tăng, giá gạo tăng, giá điếu thì vẫn không thấy. Lạ thật. Nhưng trong quán, vẫn vẳng tiếng điếu cày, rít lên ròn tanh tách

Cơm mới

Thứ năm, 05.02.2009, 12:07am (GMT+7)

        Bữa tiệc sắp tàn- Thức ăn ê hề bừa ra cùng chai lọ. Nói dại, có phải không sợ những căn bệnh chết người, có thể lấy lại của vứt đi này mà hầm lên,, hổ lốn làm một nồi súp to tướng, với bánh mỳ thì ăn thật ngon. Hoặc lại rượu- Theo chân lý của gã nát rượu. Uống say, sáng mai ngủ dậy mà váng đầu, nếu ăn canh lá khoai, uống nước chanh thật là đại ngu, mà phải học cách leo núi và xuống núi. Uống cho tít lên đỉnh núi, thì phải trượt từ đỉnh xuống cho nó hạ thấp cái đỉnh của tối qua.

          Lại nói mâm tiệc ê hề…Chỉ háo hức lúc đầu. Khi rượu vào lưng lửng, các cục rựa mận, xương hầm mà thịt mọc sâu như rễ vào các thớ, vì họ hay lịch sự mà không tiện dùng tay không biết, nên xếp vào một cái đĩa lúc đầu vào tiệc đặt bát cho lịch sự. Còn may đấy có gã, cai thói của tập thể làm bẩn nhiều càng tốt. Ví dụ hút thuốc lá có gạt tàn, nhưng cứ vẩy xuống đất, sinh ra cái quán thì phải phục vụ, phải quét dọn chứ, hưởng lương không làm à. Xương xẩu, giấy lau tay ném xuống gầm bàn, khăn lau bàn lau tay cho nó sướng. Rồi chúng nó phải lo mà giặt chứ. Bọn nó còn hấp lại, đóng giấy bóng cho lần sau dùng mà... Mượn rượu ngà ngà còn là khối chuyện. Cái đầu cá to bằng nắm đấm của nhà vô địch quyền Anh thế mà mút mát rồi để lại, trông tiếc dứt ruột nhưng không ai dám có lòng khuyên ai. Lịch sự thật và lịch sự giả. Giả thử, tôi mà lấy cái túi giấy bóng gói lại và nói đùa rằng để tôi đưa về hầm với món tàu khoai môn ngon tuyệt, chưa chắc đã có người tin. Và thậm chí chỉ là đùa thôi, nhưng tin ấy sẽ loang nhanh còn hơn tin trên truyền hình báo có một vụ xìcăngđan. Từ thời thượng cổ, không có phương tiện truyền thông đại chúng người ta đã sử dụng sự tuyên truyền miệng để diệt nhau, để làm "chính trị" theo cái cách cổ điển rồi.

          Cái đầu gà, trách "tên đao phủ", có lẽ làm vội vàng mà không chặt ra làm ba, để to quá chừng, cho vào miệng che mất mũi, ai dám ăn. Vả lại, hãy coi chưng cái răng, còn phải giữ gìn lâu dài mà phục vụ việc ăn nói chứ lỵ. Thành ra, vẫn còn nguyên đai nguyên kiện, da bọc ngoài chờm ra, ứa chất mỡ; cái lưỡi vẫn thè ra khỏi miệng như thể ca sĩ có lưỡi dài đang lè ra khỏi miệng làm duyên. Chết tiệt cái anh đầu bếp không có thời giờ mà chặt bổ đôi mỏ đi, nhìn cái đầu mới hiếu thắng làm sao…Không nhớ ai đã xơi cái đầu gà này, lại còn vô trách nhiệm thế không biết, dùng làm cái nút cắm trên chai Taigơ trông mới khôi hài.

          Cái món cua bể, đặc sản; vâng là đặc sản của vùng biển, là cái đáng tin cậy mà. Nhưng có kẻ, ngồi cạnh tôi là dân ăn sành hay sao mà bảo nên ăn ghẹ, mới là đồ bể thật, chứ ăn cua này, chắc là nuôi công nghiệp. Thế là có sự tranh luận nhỏ về thứ nuôi công nghiệp và tự nhiên. Từ cua mà sang ngao, ốc sò cá hơn cả chai rượu vốt ca Hà Nội. Nhưng cái đó phải đợi một dịp khác thôi. Một chuyên đề khác vậy. Tôi đã nói cùng anh là một sự trao đổi nho nhỏ đại loại như Sêmina, chứ không diễn đàn, đao to búa lớn và biểu quyết đâu. Do vậy mà cua cũng nằm trong tình trạng là có vẻ không được mặn mà. Ví dụ như các khu công nghiệp của nước nhà là cua chẳng hạn, hấp dẫn đấy nhưng không có khả năng đánh bắt từ xa (xa bờ) đành nuôi bằng cám, bằng cả cá…mà chưa nói cái anh làm thức ăn cho cua không giữ được chữ tín nữa kia…Thành ra cua lại có vẻ thừa. Có thể do cái cuộc trao đổi kia, hoặc là bụng còn sạch ăn các món dễ trước. Ví dụ như nạm, tái thơm phức không mất công rửa tay mà cũng đành vội vàng đi tàu nhanh kẻo bị cụng, xin mời trăm phần trăm có mà mới vào tiệc đã lên dỉnh núi… Nhìn cái mớ càng cua mà tiếc ngẩn ngơ. Đã thế nhà bếp lại đưa cái kẹp rất là nhiêu khê. Người không quen dùng kẹp khó xoay xở lắm. Mạnh thì nát hết cả thịt cua, mà nhẹ thì không vỡ được. Có phải ý của tôi, cứ dùng khúc gỗ đè cái bàn ăn mà đập, ý ai đó chứ không phải ý của tôi. Tôi nhớ mà nói ra đây. Cua cũng thừa, ta  nghĩ đến cái lý của ai kia là sai tuốt. Nào, con người tại sao lại khôn hơn các loài vật. Ví anh ta được ăn các thức ăn có chọn lọc. Cứ để tự nhiên thì xem có mà thành khỉ. Lại tiếc cái mớ cua trên bàn. Lại nhớ cái thời nắng chang chang ra đồng mò cua. Mẹ, chị và hàng xóm đánh cỏ vơ, mà vớ được cua là cho vào cạp quần. Có người còn bị cua bò vào bộ hạ cắp. Tôi thì không bị nhưng rõ ràng là anh Giáo đi thuỷ lợi kể lại cho cả làng nghe, ai cũng cười và lấy làm thán phục.

                                                            &

          -Cơm chứ! Dù gì thì cũng phải cho vào bụng chút ngũ cốc, đêm về lại đói. Ai đó nói câu này cứ như là một sáng kiến vậy. Thật ra, đến phút này không nhận ra những người cùng mâm của mình nữa rồi. Mặt mày đỏ phừng phừng, nói to, lời nói ra cả tai, tai nọ đẩy  tai kia, không rõ của ai nói nữa. Mặc dù cái đĩa xào miến với các thứ lòng thập cẩm đã ai đụng đũa vào đâu. Nhưng cách lý giải của bạn cùng mâm thì có nhiều thứ lòng xào chung thật tuyệt cú mèo, vào đến đâu biết đến đấy. Nhưng mà dư vị thật đặc biệt. Độ dai thì giống nhau, nhưng ngọt bùi bùi cay đắng- hà ra thơm phức. Cái anh khổ qua nhồi thịt cũng là đọc đáo, người nào  đó bảo như một bài thơ tứ tuyệt, thật điêu hết chỗ nói. Có mà như thơ hai câu thì có. Sật! Sật lại Phật-Phầm-Phập…Một ngườu khác chen vào, chắc là họ sành điệu về thơ, hoặc làm một bình luận viên bóng đá của tỉnh nhà. Nhưng mà món bánh mỳ đã anh nào ăn chưa. Bánh mỳ của lò này có tầm cỡ toàn quốc nữa đấy. Xôi nữa, xôi gấc, đồ cho cỡ khách đông thế này phải là nồi to, nuôi quân của tiểu đoàn. Người ta bảo, đến mâm tiệc thì biết được tư tưởng hoặc là văn hoá nghề nghiệp là phải nhẽ. Người hay dự tiệc nói, cái khẩu khí có khác. Cái anh hôm qua đói veo bụng, bây giờ được thưởng thức cứ là hay chê ỏng chê ẹo, sau một vài đường bừa.

          Cái món cơm đưa ra thì tiếng ào ào của bữa tiệc còn hơn chợ. Không ai nghe được lời của ai. Tiếng dô, tiếng leng keng và cả tiếng vỡ giọng của một vài nơi, một vài chỗ; có lẽ chạm vào lòng tự trọng, hoặc coi thường nhau, lúc thường thì chưa có dịp bộc lộ, phải chờ cái dịp tiệc tùng, có vỡ bát, rơi đũa cũng không ai trách cứ. Nhưng suy cho hết thì tôi cũng thuộc loại kém cỏi. Cả đời có được gọi ăn mà chưa bao giờ được Ngự Yến. Thằng cháu đi làm thợ mộc quanh năm gõ đùi côm cốp vào gỗ mà dám ăn yến rồi đấy. Nó bảo không cần học, có bằng cấp làm gì. Có bằng cấp, có giỏi mà người ta không cắt cử thì mất công học. Làm thợ giỏi vẫn hơn. Họ nghĩ cho mình, cứ đường lối mà xẻ. Anh tốt cho cái mọng nó vào ngàm vào đố, anh tồi cho nó hụt đi, sẵn keo dính vào, ăn uống dư thừa một ngày nào đó sẽ long mộng. Chắc là hắn nói điêu thôi. Xem bộ nó đi đường bào, đủng đỉnh thì biết, ngọt và điệu đàng lắm. Cứ mỗi nhát lại nháy cái mép thì hết chỗ chê.Phải là người yêu nghề lắm mới có cảm xúc chuyển động đến cơ mặt, mũi, miệng như vậy. Nó bảo, một bát con yến xào, chả biết yến thật hay bỡn, nước lỏng bỏng, bổ béo đâu không thấy, mất đứt một tháng thợ. Khổ nữa là cái bụng không quen chứa chất bổ nên suốt đêmTào Tháo đuổi. Phục cho vua chúa ngày xưa, ngày nào cũng yến ẩm mà chịu nổi.

          Họ kháo nhau cơm này đặc biệt lắm. Cơm niêu chỉ là một loại điêu toa thôi. Nấu cả nồi to, tấp vào hun đấy. Lúc tiệc tối mắt, ai xem họ nấu đâu. Cơm này, gạo ngon nhưng không phải gạo chín, mà còn xanh.Nó thơm lừng. Cho vào miệng có cả hương vị của cánh đồng làng quê. Chuyện con cua con ốc, con chó con mèo, con rắn con rết, ngày xưa hiếm thực phẩm mà vẫn bị coi thường. Bây giờ đủ loại doạ dẫm của toàn cầu hoá, hiện đại hoá rồi. Mỹ và các nước thuộc các loại rồng Châu á. Nhưng sợ thực phẩm và thải công nghiệp. Ăn các loại nuôi công nghiệp, sợ vào bụng có gien lạ. Nhưng các khu công nghiệp lại yêu tha thiết. Chả hiểu đài A,B,C, hay anh nào nói nữa. Cái ông A là cái người được thể, chắc là có chức vụ hay đi ngoại quốc nên bình phẩm các loại rượu xem bề đáo để. Tay B kia, có phải làm tổng biên tập gì đó không nhỉ? Chịu thôi. Bây giờ nhìn mặt các thượng đế ơn trời đều béo tốt, Bệnh béo phì theo thống kê đã xâm thực đến nước mình. Còn C là cái anh quái nào mà cười sang vậy. Tiếng cười giống nhà thơ Đ, nhà báo Q…Chuyện cơm đặc biệt được đưa ra bàn. Thật rồi, xới cho mỗi nhà một chút, của quí không nên ăn nhiều. Lại bị say xỉn thành ra, cơm chưa vào tới miệng đẫ lên men.

                                                            &

          Tôi được người bạn hiền cho lên xe ngựa chở về nhà. Thật sung sướng biết bao khi ta say mà được nằm trên vó ngựa. Tiếng lốp cốp của vó câu làm cho buồn da diết. Cái buồn chắp vào cái buồn muôn thuở của cố nhân.

          Vợ đánh thức dậy thì chiều đã tàn. Một ánh nắng còn đọng trên tường nhà ai. Tiếng hót của con chim trong lồng sao mà phiêu lãng, vì lâu ngày bị giam cầm mà nhớ rừng xanh đến da diết. Tiếng sáo ống của nhà ai vặn ti vi to quá để dụ cho con trẻ ăn, nghe mà như nghiêng cả cánh đồng vào tận căn phòng ngủ. Lại tiếng của nghệ sỹ hài nào làm giả tiếng rống của bò gọi con? Giật mình nhớ lại bát cơm và còn dở…Hạt cơm xanh. Màu xanh không hề nhuộm thuốc.

          Trong mơ hồ tôi cắp chiếc rá đã sứt cạp đi trên cánh đồng làng. Lúa thời ấy giống má còn chưa chọn lọc như bây giờ. Mạnh nhà nào chọn được giống lúa gì thì cấy giống lúa ấy. Nơi thì chín, nơi còn xanh, nơi thì còn đương ngập đồng. Lại chưa lên hợp tác cấp cao. Chưa dùng máy ủi, chưa bờ liền bờ, thửa liền thửa, còn cả bậc thang mảnh cao mảnh thấp; nhìn xa như chiếc áo ấm nhiều màu.

          Năm đó, làng đói. Nhà còn lúa ăn đến giáp vụ ít lắm. Mấy chị gái đã theo người về nhà chồng. Anh tôi yếu đuối, không được như người ta để bôn ba đi ngược Mường. Đói lắm, nhà có bát ăn bát để chuẩn bị lau chùi bàn thờ, vào mùa gặt. Vác thúng đi vay khắp mà không nhà nào có dư để đỡ đần lúc giáp hạt. Mẹ bảo, đi theo mẹ ra đồng gặt lúa. Tôi hỏi mẹ: - Lúa nhà mình đã chín đâu mà gặt. Mẹ cười, không hiểu vì thương con hay thẹn với ông trời mà nước mắt rơi lã chã. Ta ăn cơm mới con ạ!- Tôi thấy sống mũi mình cay cay, lẽo đẽo theo mẹ đón từng bông lúa đã ngậm đồng. Mẹ ăn bớt của thần nông một ít lúa. Com xem, hôm nay ta có cơm mới. Để cả nhén lúa còn ngậm đồng (mẹ bảo lúa chắc xanh), luộc lên bắt hạt lúa phải chín. Tuốt ra, cho vào chảo rang lên. Bây giờ thì tôi đã cảm được hương thơm dịu ngọt của hạt lúa.

         Chập chiều, cũng mâm cũng bát đũa và hương khói. Mẹ khấn khứa. Tôi cũng không hiểu được mẹ khấn điều gì. Nhưng trong hương khói tôi cảm thấy rùng mình trong sự linh thiêng. Dường như các cô hồn lẩn quất đâu đây. Chắc đói kém mà lang thang không chịu làm ăn, muốn quấy rầy những kẻ nghèo hèn, không hiểu cái thơm tho, các ngài đã toạ hưởng hết chưa. Nhưng đến lúc ngồi vào mâm tôi cảm được sự ấm no đang lan truyền khắp cơ thể cô đơn và thơ dại. Mùi vị béo thơm ấy vào đến đâu, tôi cảm được người mình như khác đi, bay bổng. Tôi và các anh tôi ăn. Đói nên ăn không nhìn ai. Tôi không nhận ra dòng nước mắt tràn ra trên khuôn mặt dăn deo của mẹ. Cái nét mặt ấy, tận khi đã thành lão rồi, mỗi lúc sờ lên mặt mình, lại thấy nét mặt của mẹ lẩn quất đâu đây.

                                                         &

          Tỉnh dậy, thì chiều đã muộn. Tôi nhớ có hai ba hũ rượu thuốc ngâm đã kỹ. Màu ngọt lừ như mật ong. Tôi muốn lấy lại cảm giác và dư vị của bát cơm mẹ mình nấu. Cái nhựa của gạo bắt cho chín. Chín đến ba lần. Ôi! Con người. Những cái của quá khứ, dùng để cứu sống nhau qua đói khát, lại thành đặc sản của lúc tiệc tùng. Cũng có thể, tôi là gã lẩn thẩn, cái óc bé không hình dung nổi sự vận hành của loài người. Thế thật. Nhưng dư vị của cánh đồng khi đưa vào miệng thì không mất. Cứ ngân nga mãi không thôi…

Dị bản

Thứ sáu, 19.09.2008, 09:33am (GMT+7)

Chúng tôi đánh chén. Quả xôm thật. Có chai bia Tiger (té ra chiếc cặp da căng phồng chứa toàn bia với bánh đa!). Vào cuộc người nọ, người kia đều hăng hái cả. Giữa hai người hiện đại cô Quỳ đã phải tạm dẹp những cảm xúc cổ điển hay cô muốn tranh thủ bổ dưỡng cho em tôi bằng thứ prôtit thượng thặng? Đang say sưa chợt monsieur Tớp ngớ mặt. “Này cháu, thế mày đã nói với mẹ việc hôm nọ chưa?”. “Thưa chú đã!”. Tôi nhai tiếp miếng dồi, nuốt. “Thế mẹ bảo sao?”. Tôi chợt nhận ra trên cái mặt rất phủi của monsieur Tớp một nét thơ ngây nào đó. “Cháu nói trước rồi còn gì. Chả ăn thua”. Tôi gắp một miếng chả chó bỏ bát ông chú. Gắp miếng nữa bỏ miệng. “Mẹ cháu giờ chỉ quan tâm công việc của mình…”. Nhai. Nuốt. Uống. Uống tiếp một hơi nữa. Chợt cảm thấy bất ổn tôi vội vàng chêm ngay: “Với lại, ngay sự lang thang quán cánh rồi túm năm tụm ba tá lả cùng mấy ông hàng xóm hưu trí của bố cháu, mẹ làm sao “tiêu hoá” nổi”. Đã đọc và ghi xong xêri năm tờ đol, chìa cuốn sổ cho tôi, không quên liếc xéo đồng hồ đeo tay, chị cười nhã nhặn: “Mình mới nhận được điện báo, có một đoàn của Australia xin gặp, mai họ vào thành phồ Hồ Chí Minh, đành hẹn làm việc vào 5 giờ chiều nay”. Lại tiếp “Mình để lại hai chiếc đôn này và một máy điện thoại tặng các bạn để lấy may.  Tiền điện thoại tháng này, hễ có hoá đơn, bạn cho biết, cháu nó sẽ tới thanh toán”. Chị rút ví đưa tôi một tấm danh thiếp in rất đẹp. Tôi viết tháu mấy chữ biên nhận, ký xoẹt vào trang sổ. “Cảm ơn hai nhã ý đầu của chị, cái thứ ba thì thôi. Giờ mới đầu tháng, chị sẽ chỉ phải thanh toán những số điện thoại đường dài đã gọi. Bọn em cũng có lúc phải phôn đi tỉnh nọ tỉnh kia nên ngay bây giờ em sẽ nói bưu điện nối lại đường dài cho số máy này”. Qua lớp phấn không hề mỏng tôi vẫn thấy làn da thật đối diện chợt căng lên. Rồi là một nụ cười cố làm ra tự nhiên. Nhưng bên ngoài đã vang lên một hồi còi ôtô…

Người đàn bà đi. Tôi chốt cửa. Làm ngay một cuộc du ngoạn trong ngôi nhà đã của mình. Ngó xong các trống trơn tôi dừng lại bên chiếc máy điện thoại quay số đen sì. Chẳng rõ do đâu tôi lại quay đúng số máy vừa biết, để kiểm tra giá trị sử dụng của các “đồ cổ” này chăng?

-  A lô, ai đấy?

Chả ai cả! - Tôi thầm nghĩ, buông máy. Giọng khàn khàn của cô con gái chủ nhà cũ qua máy móc thành léo nhéo nghe đến hay. Hình dung vẻ nhăn nhó khi dập máy của cô gái có đôi gò má dài đơn độc trên một gương mặt “tất thảy” đều tròn, kể từ chiếc mũi đến đôi mắt sang sáng, hiêng hiếng và lơ đễnh, tôi thấy thu thú. Rồi cũng vì cô tôi bất giác nghĩ tới việc leo lên sân thượng.

*

*   *

Sân thượng có vô số các chậu hoa, cây cảnh tôi từng biết giờ trống huếch. Chỉ giàn tigôn chưa đến mùa hoa và căn lều gỗ nhật lai – chốn cư ngụ của cô gái khinh khỉnh mà lơ đễnh – còn đó. Ngôi  nhà một tầng có tới ba buồng, nhưng cô con một lại ngự trên tầng thượng. “Quỷ quái và lãng tử đấy chứ!” – Tôi nhớ đã nghĩ thế trong lần đến xem nhà đầu tiên. Căn lều có thể di chuyển, sàn gỗ, không ghế, không giường. Bên trên tấm nệm ngổn ngang gối, sách, ngài Hêminghuê đáng mến nom như một cao bồi miền tây ngự trong một bức ảnh khổ lớn. Cũng qua cánh cửa ra vào, qua một cửa sổ không chấn song, tôi bấy giờ, còn thấy một bàn gỗ thấp màu trám đen, một cái mũi tròn tròn, cuốn tự điển to tướng dày cộp đang mở, thấy cô  gái đang ngồi – theo kiểu người Việt – xung quanh la liệt sách, báo, tạp chí. Giờ thì cửa ra vào lẫn cửa sổ đều đóng, trên sân thượng trống hoang, bên giàn hoa không hoa, căn lều đứng đó đơn độc, buồn buồn thế nào, nó gợi tôi nhớ tới đôi gò má dài dài của cô gái…

Tôi đẩy cửa bước vào. Giống sân thượng trong gian lều trống hoang vẫn còn lại một vật, chiếc bàn gỗ. Mở toang cánh cửa sổ, ngồi xuống chỗ cô gái vẫn ngồi, tôi (tiện tay hay tò mò vốn dĩ?) kéo ngăn kéo bàn. Ra nó có chứ không rỗng! Một cuốn vở kẻ li loại vở học trò, và “Vùng băng tuyết” của Kawabata. Tôi mở cuốn vở, chữ tròn, thẳng, gợi cảm, nhật ký!…

*

*    *

Lại mùa đông, mùa chung thân của viêm phế quản và kháng sinh. Mở mắt đã thấy một ngày xám xịt, nặng chì. Qua khuôn kính bằng hai cuốn vở cả đến bầu trời cũng chật chội, bần tiện. Được tý ấm áp của chăn bù lại thì tiếng mẹ đã réo lên giật dội: “Sao sáng nào mày cũng phải để mẹ gọi thế, Dương? Đi học nhớ mặc áo cho đủ ấm, đêm về nằm thở rít lên thì đừng có trách mẹ quá tay!” Mẹ lúc nào cũng tự hào con dòng cháu giống nhưng nói năng thì thế đấy, thô lỗ đến kinh hồn táng đởm. Mới bảnh mắt đã nện chân thình thịch trên đầu…

Sáng nay thế nào nhỉ? Đến bệnh viện hay “bùng”? Nhưng “bùng” thì đi đâu? Lại rủ Chung lang thang Hồ Tây? Nhưng nếu sáng nay nó vẫn dận bò cả “cây” và mang lại đôi môi màu hoa dâm bụt Tàu bữa qua? Nếu nói được với nó thay đổi này là cực xuẩn?

Mở tủ. Thì áo ấm. Mà biết khoác lên người cái gì đây? Không lẽ mặc áo đại hàn vào một ngày nhiệt độ thấp nhất là mười bốn? Mẹ tỏ ra rất thần tình trong việc hoá tất những áo len đan cho tôi thành của mình.  Cũng hay, lần nào đan áo cho tôi mẹ cũng thăm dò nguyện vọng, rồi hý hoáy vài ngày mẹ đã lại “xong ngay” một biến hình không tiêu hoá nổi. Được cái, khoác chúng lên người mẹ, nom đều khá. Về khoản áo iếc nhà này chỉ dì út hiểu tôi. Nhìn cái áo len của “bả” mà phát thèm. Có điều cả nịnh niếc lẫn khích bác madame này đều … coi khinh.  Chủ kiến mang nặng tinh thần ki bo thường được biểu hiện bằng một lặng thinh kèm cái nheo mắt láu lỉnh, hoặc cả tràng cười giòn tan.

Đường Cổ Ngư hun hút những cây móng bò. Thi thoảng mới có một ôtô hay xe máy vụt qua. Chung vẫn mặc nguyên  “cây bò”, đôi môi còn dày thêm vài li cái màu hoa hồng lợt!… Sáng nay ví nó khá dày. Cho tôi uống nước dừa, xơi no bánh ngọt, cô bạn “thiết” còn trả tiền cho chiếc bình gốm tuyệt đẹp tôi khoái. Chiếc bình giờ nằm thu lu ở góc gác xép, buồn như tôi. Kết thúc ngày đầu đông bằng chiếc bình ba mươi ngàn đồng cũng gọi là được đi.

Nhìn chiếc bình bất giác nghĩ lại: vì sao Chung đủ kiên nhẫn lẵng nhẵng theo tôi suốt sáu năm trời? Năm học đầu tôi ngờ nó cần mẹ chứ không phải mình, nay đã khác, giống tôi nó đâu khoái cái nghề “từ mẫu” thiên hạ? Tôi thì vì mẹ muốn. Nó chẳng qua cho có thời sinh viên, một mảnh bằng đại học. Với ông bác ruột hết ý và một thềm lục địa lẫn ngoài khơi té ra chả đến nỗi nào của Tổ quốc nó muốn bán dầu thu vé ở đâu chả được? Nếu không vớ được nó những năm học qua tôi sẽ ra sao? Chung học xoàng nhưng đầu không hề ngu tôi nói đâu nó hiểu đấy, mồm mép sắc lém, nếu thấy cần nói “cứt” thì cứ “cứt” mà tương, thích ngồi xuống đâu chỉ cần tụt dép hạ mông, xong. Không gì tởm bằng thói “em chã” của lũ con gái.

Lang thang chán hai đứa về nhà tôi nằm nghe Sandra. Đang ngả ngốn trên đivăng thì madame về. Cách đây vài năm bắt gặp cảnh này tại phòng khách trang nhã của mình, mẹ ắt cho ngay một chính kiến chí ít cũng hầm hầm mặt biểu lộ một thái độ, mẹ ghét Chung ngay lần va đầu bởi thẩm mỹ nhố nhăng hết ý của nó. Còn giờ, chỉ hai phút sau cái nhíu mày mẹ đã khanh khách cười bởi những vuốt ve ngắm nghía… Con ranh, Chung cứ một hai thề bộ váy hàng len mẹ mặc hẳn  phải thửa tận Sàn Gòn trong khi tuần trước chính nó cùng tôi đã lựa mua cho mẹ ở phố hàng si đa cao cấp Thợ Nhuộm. Giá tôi có được những hồn nhiên cả tin của mẹ? Vấn đề “thế hệ” hay “nòi giống” đây? Tuốt lượt các bà cô ông chú ngoại tôi khi mãn nguyện đều cười xả phanh vậy…

*

*    *

Lang thang thế nào tôi lại đang trên đường tới nhà dì út: cô Quỳ. Họ ngoại đến hay, dì là dì, cậu là cậu, chứ sao lại cô với chú? Tán gẫu với bà cô này cũng được chuyện nhí nhố, không có vấn đề tư chất, nỗ lực, sự nghiệp, yêu đương rồi chống chếnh. Chấp hết cả gia phong lẫn dòng dõi ra trường làm kỹ sư tại một viện nghiên cứu được năm năm cô Quỳ bỏ quách. Dùng số tiền “về một cục” sắm luôn một máy chữ. Từ “lương” cô chuyển sang sống bằng “tape”. Gõ máy đến độ “tới hạn” cô dừng chơi giải lao bằng một truyện vụ án. Là đệ tử của Kawabata nhưng cô lại khoái lang bạt trong thế giới người giết như bỡn của Agatha. Không chỉ “khuynh đảo các giá trị cổ điển” bằng một máy chữ, sau hai năm làm nhân dân vĩ đại cô Quỳ có ngay một ông chồng không phải cưới: monsieur Tớp. “Tên với tuổi!” – Tôi nhớ mẹ đã gằn giọng hầm hầm nói thế trước khi quẹt thỏi son E vào môi dưới đang bĩu ra của mình. Đã sống bằng tape lại còn monsieur Tớp! Cả họ ngán ngẩm lặng lẽ cho cô… rơi. Cô Quỳ buồn không? Chịu. Mỗi lần gặp nhau cô vẫn tiếp tôi bằng vô số các chuyện nhí nhố chết cười nhặt được từ đám “thượng đế” của cô. Nếu vừa xong một dịp xả hơi bằng giết chóc, cô lại khoái trá tương ra một tin, đại loại: “Này Béo, cô vừa cho một cô nàng giống in cháu nuốt trọn tá kim băng. Chết ra chết nhé!”. Nhờ monsieur “thượng đế” đã xuất hiện với một truyện vụ án dài kỳ chữ viết nát vụn, gạch xóa tứ tung. Chẳng ào ào liếc xéo mổ ngón được, phải bỏ thời gian ra đọc văn bản trước khi gõ, phát hiện ra nội dung trí tưởng tượng bị kích thích cô tôi bèn “mó máy” vào. Nhờ sự “mó máy” này vị thế monsieur Tớp tức khắc được xác định lại trong làng truyện dài kỳ in báo.

Khỏi nói Tớp tiên sinh đã thán phục ra sao trước năng khiếu giết người của cô Quỳ. Còn đường tình nhiều nẻo thế, băng qua các tử thi họ đã đến với nhau. Còn tôi? Liệu rồi đời có giành cho tôi lấy một thằng? Loanh quanh trong đám bác sĩ non chả ra khôn chả ra ngu mấy nỗi thành bà cô?…

“Béo hả? Vào đi, cửa không khoá đâu”. Tôi  vào. Cô Quỳ đang ngồi trên đi vắng bên cạnh lăn lóc mấy cuốn sách. “Sao bữa nay cô Xài sang thời gian thế?”. Tôi cầm lên cuốn “Vùng băng tuyết”. “Mổ mãi cũng chán. Đọc cũng chán nốt…” - Cô lửng khửng đáp. Ngó tôi lật lật lạng lạng các trang các khúc cuối sách, cô tiếp: “Chưa đọc hả? Tí cầm về. Cuốn này hay nhưng buồn”. “Thì Kawabata có khi nào vui. Cô sao vậy? Cãi nhau chú Tớp à?”. Im lặng. Cô chợt thu mình hơn trong cử chỉ cuốn chặt thêm cái chăn quanh mình. Rồi rầu rầu: “Béo này, cô sắp có con”. “Tuyệt!”. Tôi đặt cuốn sách xuống đivăng. “Tuyệt hả?”. Rầu rầu cô hỏi lại. Cười buồn. “Sao? Cô định làm lãnh tụ phong trào sinh đẻ kế hoạch hả?”. “Vớ vẩn. Nhưng em nó sẽ phải là …”. Thở dài. “Là con ngoài giá thú. Cháu có nói tuyệt nữa thôi?”. Quả cũng là một vấn đề. Tôi gãi mũi thở khì. “Chú Tớp nói sao?”. “Nói có cách. Phong bì cho người làm giấy khai sinh chẳng hạn”. “Thế, xong rồi còn gì?”. “Ừ, xong”. Cô Quỳ cười buồn, càng thu mình lại hơn. “Nhưng cô thấy thương em quá…”. “Cô cổ điển bỏ xừ!”. “Cổ điển …? Mày chả vừa gãi mũi đấy thôi? Tao chúa ghét thói động viên rởm”. Lặng ngắt. Đang chết khiếp cảnh phải nhìn bà cô rơi vào trầm tư mặc tưởng thì monsieur Tớp hiện ra như một ông Bụt với tiếng la thất thanh: “Mở cửa. Mở cửa cho anh với!”.

Tôi ra. “Mày đấy, hở cháu?” Ôm khư khư bằng cả ngực lẫn hai tay nào cặp da, túi nilông cái lớn cái nhỏ, ông chú hờ bước vào. Thả tất xuống bàn ngay trước mặt cô Quỳ, monsieur cười toét: “Của em đây. Thịt chó Nhật Tân các món. Bún. Ớt”. Ngó sang tôi hớn hở. “Cô cháu lên đúng lúc ghê. Đánh chén là cứ phải có người nọ người kia mới xôm”.

Chúng tôi đánh chén. Quả xôm thật. Có chai bia Tiger (té ra chiếc cặp da căng phồng chứa toàn bia với bánh đa!). Vào cuộc người nọ, người kia đều hăng hái cả. Giữa hai người hiện đại cô Quỳ đã phải tạm dẹp những cảm xúc cổ điển hay cô muốn tranh thủ bổ dưỡng cho em tôi bằng thứ prôtit thượng thặng? Đang say sưa chợt monsieur Tớp ngớ mặt. “Này cháu, thế mày đã nói với mẹ việc hôm nọ chưa?”. “Thưa chú đã!”. Tôi nhai tiếp miếng dồi, nuốt. “Thế mẹ bảo sao?”. Tôi chợt nhận ra trên cái mặt rất phủi của monsieur Tớp một nét thơ ngây nào đó. “Cháu nói trước rồi còn gì. Chả ăn thua”. Tôi gắp một miếng chả chó bỏ bát ông chú. Gắp miếng nữa bỏ miệng. “Mẹ cháu giờ chỉ quan tâm công việc của mình…”. Nhai. Nuốt. Uống. Uống tiếp một hơi nữa. Chợt cảm thấy bất ổn tôi vội vàng chêm ngay: “Với lại, ngay sự lang thang quán cánh rồi túm năm tụm ba tá lả cùng mấy ông hàng xóm hưu trí của bố cháu, mẹ làm sao “tiêu hoá” nổi”. “Nhưng mẹ cũng đâu có nói?”. “Mày nói rõ hơn chú nghe nào?”. Làm lơ trước miếng chả chó trong bát, giọng monsieur đầy vẻ nghiêm trọng. “Thì cháu nói tuốt tuột những gì cô chú đã … đề nghị. Nghe rồi mẹ cho luôn một câu: “Cô Cúc không cần chồng! Xong, đứng dậy đi luôn”. “Vậy bỏ nhau à?” monsieur Tớp chau mày. Im lặng. Đôi đũa đang vươn về phía đĩa chả chó của cô Quỳ chợt thu lại. Đôi mắt cô chợt xa vắng thế nào. Lâu sau cô tần ngần: “Tội nghiệp con Hoa. Mẹ, chị cả, không can thiệp, chả còn ai…”. Tôi lảng: “Cho qua đi cô. Họ đều khôn ngoan cả. Đã quyết thế hẳn có lý. Mà giữa hai người có yêu iếc gì đâu”. “Chỉ nói bừa!” – Cô Quỳ nhăn nhó. “Bừa gì ạ?”. Tôi cãi. “Chú Tớp không rõ, chứ cô, nhớ quá còn gì? Cô Cúc đang cần chồng gặp ngay một ông đang “mót” vợ, thế là ào vào nhau, cưới xin, con cái”. “Thôi đi, cô ớn cái giọng “biết tuốt” của mày lắm!”. Cô Quỳ bật gắt. Thương hại bà cô đang mang trong bụng đứa con ngoài giá thú, dốc tuột chỗ bia trong cốc vào họng, tôi đổi giọng: “Thì cháu sai, cô chú đã yêu nhau, nhưng cứ phải nhốt mãi một chuồng cháu thấy cũng kinh bỏ xừ!”.

Hai con người không… bị nhốt chung một chuồng chừng nghĩ lại. Bữa ăn lại tiếp với phong độ… gần trước. Khi tôi cáo biệt cô Quỳ dúi vào tay cuốn “Vùng băng tuyết”. “Tặng, hay cho mượn đây?”- Tôi hỏi. “Tặng”. Cô Quỳ nheo mắt cười ranh mãnh. Thịt chó Nhật Tân hẳn đã khiến cô bình tâm. Đời sống thuộc về chúng, hồn nhiên, có thực, an bài. Đăm chiêu, nổi loạn mà làm gì, cô thân yêu

Tôi về. Bố mẹ đang nằm xem phim, chân mẹ gác lên chân bố. Ra “nhốt mãi một chuồng” chưa hẳn đã  “kinh bỏ xừ”. Tôi thay đồ. Mẩu “Ôsin” còn lại đã hết. Nhấc chân khỏi bố mẹ hỏi: “Cơm chưa, con?” Mở to mắt - một đôi mắt được tất tật những người thân quen xác nhận: đẹp, mẹ chờ câu trả lời. Cũng lạ, năm mươi hai tuổi, lòng mắt mẹ vẫn không hề đục, nó rất sáng và… long lanh. Cửa sổ tâm hồn thế hệ đẹp có khác! - Tôi nghĩ nhanh. Cười hiền: “Con cầm tinh lợn, vốn chỉ sống để ăn mà mẹ”. “Thôi đi, cô!” Mẹ lườm yêu. “Ăn cơm nhà Chung, à?” Tôi gật. Rồi leo lên gác xép luồn vào chăn. Dáng ngồi thu lu của cô Quỳ bất giác hiển hiện. Đứa em ngoại thứ bảy, nó còn bé tý teo thế?... Lúc này tôi thấy thương nó lạ, nhưng mai mốt? Lâu rồi tôi sợ mình, cả lang thang phố xá cũng chỉ còn là thói quen. Bố dẫu sao còn sướng cao đàm khoát luận với lũ học trò và các đàn em, sướng những được, thua của các ván “tá lả”! Nhưng đam mê như mẹ rốt lại là gì nào? Hai mươi tuổi tôi mới có dịp gặp “mối tình đầu” của mẹ, đi đứng nhún nha nhún nhảy, nói liên chi hồ điệp… thần tượng suốt một thời con gái của mẹ, và hào quang xem ra còn chưa tắt? Tôi không nghi ngờ năng lực mổ thây của ông bác sĩ pháp y nhưng việc thùng bia này tới giờ vẫn đặt ảnh mẹ trên bàn làm việc thì… mẹ lại cả tin và AIDS mất rồi. Bị bỏ rơi vẫn khăng khăng nghĩ người ta vì yêu mới thôi mình. Mà liệu người cả tin và AIDS là mẹ hay tôi đây? Sao không nghĩ “huyền thoại” về ông công tử Bạc Liêu hai chân mọc không đều cũng chỉ là một thứ siêu mỹ phẩm được mẹ dùng để đôn giá trị thật của mình? Còn công việc madame lẵng nhẵng theo đuổi, tháp Eiffel của lòng tự hào mẹ, nó là gì nào? Giáo sư giờ tám vạ. Và nó cũng là một thứ ốc bươu vàng mà người ta chưa kịp thấy ra đấy thôi. Các công trình nghiên cứu? Làm việc, phòng thí nghiệm đói đến tong con chó, con chuột thì “nghiên” với “cứu” nỗi gì, hở trời!

Mà thôi ngủ. Cái tuyệt vời nhất của mùa đông là ngủ.

*

*    *

Nghe mẹ nói cô Cúc, chú Vận đã ly dị xong, nhà xẻ nửa, cô đi cửa chính, chú đi cửa nách. Chắc vì cái cửa nách mà sinh chuyện, nhà xây thế, chia đôi là rất dễ. Riêng con Hoa cô Cúc nuôi. Có mỗi đứa con chia thế nào? Hôm nay ngày đầu tiên con Hoa xa bố? Chắc thế mẹ nó mới đưa xuống bác chơi, chứ bình thường cứ ôm lưng mẹ vù xe máy từ lớp học kiểu này tới lớp học kiểu nọ nó đã đủ hết tinh thời gian. Tôi về, nó đang chơi trò chị em với con gấu bông, mẹ đang kể cô Cúc nghe về các món bánh ngon mà rẻ bèo của đất Quy Nhơn.

“Chị đi tắm biển được nhiều không?”. “Không”. Mẹ cười tươi phô hàm răng đáng thèm của thế hệ chưa biết đến tetracylin (răng lũ tôi thì đến tởm!). “Các chị cùng đoàn rủ rê suốt nhưng chị chả đi, xong họp nằm nhà đọc tài liệu. Họ bảo mình lười. Nào phải. Con người chị nó thế, chả thích gì ngoài làm việc…” Thế còn mỹ phẩm, áo váy, Angelique và bây giờ là “Ôsin”?

Tôi bẹo tai con Hoa. “Chào chị Dương đi chứ!” Con bé kêu “ối” ngoái đầu cười toét rồi tiếp tục cái trò đút sữa chua cho em gấu. Nhìn nó tôi chợt nhớ đến Bống. Nó đã hai tháng. Hai tháng mà vẫn chưa được đăng ký làm người. Cô Quỳ nói với cả họ, không loại trừ tôi, rằng chưa chọn xong tên cho Bống. Tôi biết tỏng, việc đút lót để được đàng hoàng làm bố Bống monsieur Tớp thừa năng lực, nhưng tiền chỉ khiến việc thuận hơn, còn theo thể thức cô Quỳ vẫn phải làm một đơn trình bày hoàn cảnh, nào khó khăn, muộn chồng, nào nhu cầu con cái của người đàn bà, vân vân và vân vân. Nấn ná kéo dài thời gian đối mặt với sự thật đây. Đã chọn cho mình một lối đi, tưởng dứt khoát thế vẫn lằng nhằng. Và cô Quỳ thân yêu khi chạm phải những dích dắc lề thói cũng chẳng thoát khỏi trì níu của một “tư duy nòi giống”!

Nếu Con người bé tẹo còn chưa rụng hết lông cáy biết được tình thế bấp bệnh thực thực giả giả của nó khi ra đời?

Chi hồ giả dã. Chào các em, chị Dương ngủ đây!

*

*     *

Chơi mãi “tá lả” chừng đã ngán vớ được một sự kiện bố tức khắc tha lôi nó đi hết chỗ nọ rồi chỗ kia. Điên thật. Hai mươi tiếng sau khi tôi tuyên bố nhận bằng tốt nghiệp xong sẽ vào Nha Trang làm bác sĩ, rồi viết văn, cả cái họ ngoại con dòng cháu giống rách việc đã tới tấp gọi điện, kẻ mắng mỏ tôi điên, kẻ ân cần bảo ban rằng muốn viết văn thì ở quái đâu chả viết được cứ gì phải Long An long ủng cho tội thân tội đời, rằng cách Sài Gòn một tẹo đấy nhưng nó tỉnh lẻ, nhà quê lắm… Đúng là bố, tôi nói Nha Trang thì monsieur nghe ra Long An? Lại cả cô Quỳ, con hai tháng rưỡi tuổi còn chưa được khai sinh làm người, cũng lên tiếng mới hay chứ! “Cháu chơi mẹ quả này hơi bị đắng đấy. Thôi thương lấy bà ấy”. Quả đắng? Vậy quả đắng tôi phải xơi ai tính hộ? Ngu ngốc. Để làm con mẹ, tôi đã mất tới sáu năm còn gì? Toan cúp máy tiết kiệm tiền hộ bà cô thì đã lại ha há rồi lào phào: “mộng thành Sagan hả? Viết hay. In một cuốn thu bộn tiền. Tự do. Chơi. AIDS rồi Béo ơi!”.

Nếu không vì tiếng AIDS trong câu cuối tôi hẳn đủ lộn tiết để ngoáy đểu bà dì vài lời. Từ khi bệnh dịch thế kỷ xuất hiện madame này bớt được tiếng Việt hai từ lãng mạn và không tưởng.

*

*    *

Sáng chủ nhật. Lại một buổi sáng! Bố mẹ vừa đi khỏi Chung đã hiện ra tay xách túi quýt Tàu. “Chén đi mày”. Hai đứa hai góc đi vắng nằm ngả ngốn bóc quýt, sơi. Tôi bật dàn compact. Bóc đến quả quýt thứ ba, Chung bỗng hô hố cười. “Dương ơi, mày đành chào thua bà già, diễn tiếp vai con ngoan trò giỏi, học thi nội trú hả?” Tôi nhăn nhó vì tràng cười đểu. Phớt lờ thái độ tôi, Chung nhét lia lịa các múi quýt vào các miệng đầy những răng mòn vẹt, đen nhẻm. Nhem nhép nhai nó cho hay: Hai phần ba các thằng lớp tôi đã liên doanh với nhau đi buôn tân dược. Còn các con, đứa nào đã nơi chốn chỉ việc ôm eo các chàng bát phố đứa nào đang mọc râu rút ngay hoạt động vào bí mật, nghĩa là lần mò đến các lớp tin rồi quản trị kinh doanh, nếu không chộp được “cơ may”, cũng có thêm những kiến thức kiểu … “một tý” hy vọng lẻn được vào “một công ty nào đó”. Đang liến láu nó chit im bặt. Rồi văng ra: “Mày cho lũ BeeGees câm miệng tao nhờ. Nghe chúng hát cứ phải nghĩ đến mấy thằng epicence. Tởm!” BeeGees vừa câm miệng nó đã nhoẻn cười. “Hôm qua tao lĩnh lương. Một trăm ngàn lẻ lẻ”. “Rồi sao?” Tôi chợt ngờ ngợ. “Tính rủ mày đi đặc sản cơm niêu, vừa ra tới cổng viện đã gặp ngay hai thằng nạn nhân xoạc cẳng ngồi trên “Win chờ”. “Rồi sao?”. “Không thoát nổi, đành thế chúng vào chỗ mày, chứ sao! Tao đang lên cơn ăn mà…” Đang hô hố cười Chung chợt lặng ngắt, thủng thẳng: “Ba suất cơm niêu, một đĩa thịt lợn ta nhưng gọi là rừng, chín bằng lò điện nhưng gọi là nướng, hai chai tiger hết veo một trăm ngàn lẻ lẻ. Bữa nay tao tới cảm ơn mẹ mày thôi không tới Viện nữa.  Làm bác sĩ cả tháng chỉ đủ vui vài tiếng?... thôi đành đi “bán dầu” vậy. Mày nhét Bống bồng ơi vào đi, tao muốn nghe con ngu này ca cho đỡ sầu”.

*

*    *

Sinh nhật. Sáu giờ sáng tôi đã dắt xe lẻn cửa sau đi. Không chuồn sớm lại phải đụng Chung. Chẳng còn nhu cầu huyên thiên, các bình choé cũng chán nốt, biết dùng mày vào việc gì nữa? Cảm phiền, good bye, nghe Chung!

Hồ Tây. Lại những cây móng bò! Tôi muốn ứa nước mắt vì mặt nước xa rộng, vì những cây móng bò quạnh hiu, những ngày sống này lãng mạn quả đồng nghĩa với AIDS, mà có thật lãng mạn hay cái gì đang trong tôi đây?

Chẳng biết đi đâu cho hết ngày đành lại nghé cô Quỳ. Cô đang ngồi đóng đinh trên ghế, hai tay thi nhau múa, nói với tôi vài câu mà không hề ngoảnh lại. Tôi chọc cho lanh canh mấy cái vòng xanh đỏ để Bống cười. Đưa ngón tay cho nó túm. Vẫn thấy chán qúa là chán. Đành nằm lăn, thế vào các chỗ đã nguội hơi ông chú hờ.  Rồi cô Quỳ cũng ngừng tay. Lảo đảo rời bàn, cô tới nằm xoài ra giường một cách tôi và con Bống. “Sao bữa nay cô gõ sớm thế?” “Cho kịp hẹn”. Cô thở phù phù. Vạch ti cho Bống bú. “Đời lắm chuyện ngộ. Cái cô đang “gõ” là một luận văn phó tiến sĩ. Khi giở ra mới hay của một đồng nghiệp cũ, cùng nhóm “nghiên cứu”. Cái thằng… gọi theo cách bọn cháu bây giờ là … là gì nhỉ? À phải, nạn nhân. Ông nạn nhân này đã hy sinh vẻ sang trọng của một văn bản đánh bằng máy vi tính, in laser để dạy cho cô một bài học”. Cô lại thở phì. “Nó thế nào?” Tôi xoay nghiêng ngó cô. “Hai trăm tape, ba bản”. Cô ngáp. Tôi hiểu quốc gia mình lại thêm một “phờ tờ sờ” có để mà có.

“Lên đây, mẹ biết không?” “Biết thì sao cô?” “Ờ, thì cũng hỏi thế. Cho có chuyện mà…” Cô cười ranh mãnh. Rồi im. Rồi thủng thẳng. “Những ngày này mày nên tránh xa cô, kẻo mẹ lại nổi điên. Sau mày trật khỏi đường ray, bà ấy sẽ cho tạo có dự phần. Cô chả ngán gì nhưng nói dại mồm, thế nào con Bống cũng có lúc cần tới bác, bấy giờ… phiền”. “Ra thế!” Tôi cười nhạt thếch. Giây lâu chợt buột hỏi: “Mẹ cháu trước thế nào nhỉ?” “Mày hỏi trước là vì bây giờ thôi. Nói gọn và toẹt nhé?” “Vâng, gọn và toẹt”. Đôi mắt đang nhìn tôi bỗng nghiêm trang, thoáng buồn. “Một người ý thức về bản thân rất ghê, chết nỗi lại không ý thức hết. Đinh ninh luôn khách quan trước mọi sự mà kỳ tình không phải. Đã không khách quan, sức chứa, khả năng lường xa trộng rộng tất hạn hẹp, nhầm lẫn trong các nước đời là thường. Có điều vào tuổi mẹ, mẹ sẽ chẳng sao nữa đâu, người “lãnh đủ” những nhập nhằng, mập mờ trong tư duy bà sẽ chính là mày. Nhưng có ai chọn được bố mẹ?”

Lang thang trọn một ngày. Trên đường về tôi ghé chợ mua cho mẹ một chân váy nghiêm, trăm hai mươi ngàn, mẹ đang cần một chân váy đen để mặc với chiếc áo màu xanh cỏ… Tôi muốn chuộc lỗi chăng? Nhưng lỗi gì? Xét đoán người sinh thành nuôi dưỡng mình cũng là một trong các quyền của tôi chứ. Cuộc đời tôi, tương lai nó, đã và đâu phải do một tôi định liệu?

Tính mua cho con Hoa con khủng long nhồi bông nhưng mười lăm ngàn thì… chịu thôi, quá đắt. Nghe nói con Hoa sắp có bố mới, mẹ mới! Khi đã có kinh nghiệm trong trường tình người ta có thể đánh nhanh thắng nhanh thế đấy.

*

*    *

Goodbye kỳ thi nội trú, mảnh bằng master những lo toan trù liệu luôn mang nặng tinh thần ấn định và can thiệp. Goodbye các mơ ước của mẹ cho tôi! Hồ sơ của tôi đã được bệnh viện B chấp nhận. Hai ngày nữa mẹ sẽ bay sang Mỹ còn tôi vào Nha Trang. Trong đó khi tôi lĩnh xong tháng lương đầu thì ngoài này mẹ mới hạ cánh. Mỗi hành động hoàn hảo đều có sự khoái lạc đi kèm, Gide, câu thơ ông thật chính xác, nó đẹp vẻ đẹp của một công thức toán học. Hai ngày nữa tôi sẽ tới được nơi con người tôi ngưỡng mộ từng sống. Chào Yersin!  Tin rằng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết về ông, Con người lạ thường, đẹp đến LÃNG MẠN của một thế kỷ còn chưa biết thế nào là AIDS.

*

*    *

Đọc xong những dòng trên tôi bật dậy nhét cuốn vở vào xắc. Lúc bước vội xuống cây cầu  thang lộ thiên tôi còn hứng tình ca một câu chả rõ đúng, sai, thuộc bài hát nào. “Rồi mai sáng tinh mơ, đánh chiếc xe bò đen tôi đến tận nơi đón cô em về… về…?” Vậy là đã có cái truyện ngắn trót hẹn với một tờ báo, thế mà chiều nay tôi còn nằm ườn chán mớ đời mình…!

Bốn ngày sau. Tôi đang rọc bản báo mới ghé lấy ở toà soạn báo nọ thì chuông điện thoại réo lên.

- Chào cô, cháu là Dương.

Giọng nói léo nhéo nghe quen quen, chắc đứa bạn nào đó của con gái tôi, đang bận tâm vào cái truyện chưa được đọc, tôi nói nhanh để cúp máy.

- Ừ, chào Dương, Ninh đi học tiếng Anh chưa về.

- Cháu không phải bạn con gái cô đâu…

Giọng nói léo nhéo lúc này mang rõ vẻ giễu cợt.

- Thế cháu là ai?

- Là Dương, con gái chủ cũ ngôi nhà cô vừa mua.

- Ừ, Dương… có chuyện gì thế?

- Cháu vừa được đọc truyện ngắn “Chào Yersin!”…

Tiếp theo là một tiếng cười nho nhỏ. Rồi im lặng.

- Cháu … gọi từ đâu vậy?

Tôi nghe tiếng mình cất lên gượng gạo, rời rạc.

- Không phải từ Nha Trang.Điện thoại đường dài ai mà dám cười rồi im lặng chờ lâu thế, cô. Cảm ơn cô đã cho không cháu cái tên truyện, “Chào Yersin!”, cháu thấy thích nó. Truyện không bị cắt câu nào, in ra lại không một lỗi chính tả, tuyệt. Nhưng có một nhầm lẫn tai hại quá, cô phải giúp cháu nói toà soạn đính chính ngay thôi, tên cháu là Nguyễn Vũ Dương – chứ không phải Dạ Từ.

- Cháu định nói gì? – Tôi sẵng giọng.

- Nói tác giả “Chào Yersin!” là Nguyễn  Vũ Dương. Cô đang cầm bản thảo gốc nhưng còn có máy phô tô copy Toshiba nữa mà… Nếu số tới báo không cho in đính chính cháu tin sẽ có ngay một vụ án văn chương cỡ thế kỷ đấy, cô!

Cái hạn phục binh tháng này đe tôi suốt quá trình mua nhà ra giờ mới hiện hình! Tôi chán ngán cúp máy. Rồi lại chán ngán nhấc lên. Con ranh này thừa võ chơi tôi đến cùng nếu điều nó muốn không được thực hiện…

- Chào cô!

Ranh con, cái giọng léo nhéo giờ đĩnh đạc chủ động đến lộn tiết.

-  Tuần tới báo sẽ có lời đính chính – Tôi nói nhanh rồi cúp máy.

Tới ngày báo ra tôi sai Ninh ra chợ mua một bản. Đọc hết dòng đính chính do chính tay mình viết, tôi nhét nó cùng bản của số báo trước và trăm rưởi ngàn nhuận bút vào một phong bì lớn sai con cầm tới cái địa chỉ ghi trong tấm danh thiếp tôi còn giữ. Ninh về, nói nó đã trao cho bố chị Dương, nói bác ấy chỉ nhận chả hỏi han hay cảm ơn gì. Tối đó tôi có ý chờ phôn của Dương mà không thấy. Các ngày sau cũng vậy. Hay nó đã đi Nha Trang? Và việc sập bẫy tôi rất hoàn hảo không ngoài hoạch định của con bé: xuất hiện nhanh một cái tên để bắt đầu nghiệp văn?

Một ngày rỗi việc bị câu thúc bởi nỗi tò mò tôi lần đến nhà người dì đánh máy của Dương – Linh cảm mách tôi người này có thật dẫu hiển nhiên cái nó viết trong cuốn vở không hề là nhật ký.

Và trong căn phòng khá lộn xộn tôi đã được người đàn bà có đôi gò má giống hệt Dương tiếp, được thấy con bé  Bống (?) rất phởn, hai chân cứ nện thình thịch xuống giường.

Thấy linh cảm đã đúng, để đỡ phải “vào chuyện” tôi rút từ xắc ra hai bản báo đặt trước chủ nhà.

- Tôi có biết việc này! – người đàn bà nhìn hai bản báo khẽ thở ra.

- Chị tên Quỳ?

- Tôi là Quỳnh, cũng như con tôi là Nhí chứ không phải Bống.

- Giờ Dương đang ở đâu? Từ hôm gửi báo và nhuận bút cho nó tôi có ý chờ phôn mà không thấy.

- Nó đang ở Úc, làm sao phôn cho chị được?

- Ở Úc?

- Vâng. Nó đã thi đỗ một đợt tuyển đào tạo sau đại học của họ. Đi hai hay ba năm gì đó để lấy bằng thạc sĩ… - Quỳnh cười buồn.

Thế việc này? – Tôi trỏ tay vào hai bản báo.

- Nó muốn chứng tỏ với bà chị tôi rằng nếu muốn nó sẽ làm được cái mình định. Một cách phản kháng có bài bản… - Người đàn bà khẽ nhướng mày – Mà cũng là tôi đoán thế chứ với nó thực tế đã ra sao, sẽ ra sao, có hoạ trời mới biết nổi. Nhưng chị đừng nghĩ xấu về nó. Con bé cũng chả sung sướng gì với cái mớ thông thái khá hỗn tạp trong đầu. Nói thật tôi rất phấp phỏng cho nó. Đi Úc, làm thạc sĩ, tưởng rất ổn đấy nhưng kỳ tình là bấp bênh, bấp bênh lắm. Bên đó nó sẽ sống ra sao? Có trở về nữa không? Riêng chị tôi lại đã kịp yên tâm với cái đường ray của bà ấy. Lạ thế!

TỰ DO

Buổi chiều hôm ấy, bà chủ vừa gãi đỏ cả hai bàn chân vừa kêu: "Rõ khổ lắm! Nhiều muỗi quá thế này này!". Ông chủ lập tức gọi thằng xe lên.

- Mày bận những công việc gì mà ba bốn tháng nay mày để cái vườn hoa cứ rậm như cái rừng ấy thôi! Rõ đốn quá đi mất!

- Bẩm con không thấy ông bà bảo gì cả... Đã có hôm con toan lấy kéo ra sửa thì cô Thư lại mắng, bảo cứ để rậm thế cho đẹp!

- Cô ấy là trẻ con... cô ấy còn biết gì nữa! Sáng sớm mai thì tao cho mày nghỉ ở nhà mà sửa sang lại cái vườn!

- Bẩm vâng.

Ông chủ vừa nói vừa đi ra hiên.

Ông nhìn ra vườn lại kêu:

- Thế kia, chả trách được lắm muỗi! Mày cứ việc phạt cả đi cho tao một lượt, không tiếc cái gì cả. Hoa hồng, râm bụt, rào găng, mày cứ cắt phăng đi một nửa. Còn lá sả thì mỗi khóm mày nhổ bớt một nửa đi. Khi tao nói nhổ, nghĩa là lấy cuốc mà đánh, chứ đừng nhổ thật, đứt tay, chết!.

° ° °

Sáng sớm hôm sau, khi thằng xe một tay vác cuốc, một tay xách cái kéo khổng lồ ra vườn, thì nó gặp cô Thư đã vác chiếc ghế con ra định cùng ngồi dưới gốc cam. Lúc ấy, ông chủ và bà chủ đều chưa dậy.

Thằng xe bèn nạt nộ con gái chủ nhà như những đầy tớ biết tự trọng khác, những khi vắng mặt chủ nhà:

- Đi vào! Đem ghế vào! Bảnh mắt ra đã ra vườn làm gì cho vướng người ta!

Thư, cô bé mới 12 tuổi, không những không giận thằng xe, lại chỉ mỉm cười một cách ngây thơ, trỏ tay lên một cành cây vải, nói giọng khẩn khoản:

- Anh xe! Anh bắt con chuồn chuồn kia cho tôi đi nhé!

Thằng xe vứt cuốc và kéo xuống đất, ngơ ngác tìm con vật trong đám lá xanh. Khi thấy rồi, nó rón rén tiến đến chỗ ấy, từ từ đưa tay ra... nhưng con chuồn chuồn vụt bay đi một cách ranh mãnh như là nhờ có người muốn bắt mình thì mới bay vậy. Đâm ra bực mình, thằng xe lại gắt với cô con gái chủ vô tội:

- Đi vào cho người ta sửa vườn.

Cô Thư phụng phịu gần khóc:

- Không, tôi không cho anh sửa vườn, nào nào!

- Này, khóc thì tôi mách cậu cho đấy! Cậu bảo thế chứ tôi tự nhiên muốn sửa làm gì!

Cô Thư đến đây khóc thật. Những hạt nước mắt từ từ chảy ra long lanh như hạt trai. Giọng cô bé nức nở như của một người đau đớn về một nỗi buồn tê tái. Động tâm, thằng xe tức khắc phải đổi giọng:

- Thôi, chị Thư nín đi nào! Nín đi rồi tôi bắt cho một con cào cào có nhiều áo tân thời y như của mợ, áo tím, áo đỏ, áo xanh! Thế cơ! Nín đi cho ngoan nhé!

Lời hứa ấy có một sức mạnh đủ khiến cô bé không những nín bặt mà lại còn bắt đầu cười gượng nữa.

Thằng xe bèn nhìn cái vườn hoa một lượt xem nên bắt đầu làm từ chỗ nào. Những cây lá sả đã mọc rậm rạp và cao như những cây lau và nhảy bừa bãi ngoài cái trật tự của những luống. Những cành hồng lều nghều vươn cành ra tứ phía như chỉ rình cào xước cổ những khách thăm vườn để họ nhớ rằng hoa hồng nào cũng có gai. Những cỏ tóc tiên mọc hỗn loạn làm cho những bờ cỏ không còn có vẻ gì là tóc tiên nữa. Những cây dâm bụt thì để hoa rụng xuống đất úa ra ngả thành màu nâu, nhớp nháp như những vũng bùn lầy. Chung quanh vườn, cái rào găng um tùm và bề bộn như một tụm găng vô chủ sống tự do trong rừng sâu. Nhất là nó lại che tịt mít cả: khách đi ngoài đường không tài nào trông thấy cái biệt thự xinh đẹp ở bên trong nữa!

Trước nhất, đứa đầy tớ sửa cái hàng rào.

Cô Thư chờ đợi mãi, đã vào nhà ăn quà sáng và quên khuấy mất con cào cào có những bộ áo tân thời như của mợ.

° ° °

Vào lúc nắng từ trên đỉnh đầu chiếu thẳng xuống, thằng xe, trong khi cắt một cành găng rồi lẳng xuống bãi cỏ, nghe thấy một hồi tiếng chim non kêu: "Chích chích chích chích!...". Nó dừng tay nhìn rồi vội từ trên cái thang gập nhảy bổ xuống, vồ lấy con chim lúc ấy đương sã hai cánh trên một đám cỏ hoa. Nó sướng như một đứa trẻ thơ, vội chạy vào nhà, gọi to:

- Chị Thư ơi! Tôi bắt chim cho đây này!

Từ mấy đứa trẻ cho đến ông chủ và bà chủ, cả một gia đình lúc ấy sướng bằng trúng số độc đắc. Người ta bỏ lửng bữa cơm. Người ta xúm quanh thằng xe để nhìn con chim bị nắm trong một bàn tay thô bạo đương thất thanh kêu như muốn nói: "Chết chết chết chết!".

Ông chủ nói to như tuyên bố một sự phát minh:

- à! Chim chào mào đây mà!

Thằng xe để con chim xuống đất rồi đứng khoanh tay như một nhà binh vừa mới có chiến công.

Quả vậy, đó là một con chào mào. Hai cánh nó đã đủ lông tuy trước ngực thì sợi tơ trắng chưa đủ che kín mảng thịt đỏ hỏn; đằng sau thì cái bọng vẫn còn nặng nề, to tướng, cái mỏ hình chữ V có hai màu vàng dầy dặn ở hai bên. Tuy vậy, một rúm lông trên đỉnh đầu đã nhu nhú mọc lên như một cái mào sổi. Bà chủ bĩu mồm nói:

- Thế mà bảo là chào mào! Nó là con chim chìa vôi!

Thằng xe đáp ngay:

- Bẩm, chào mào hay chìa vôi cũng là nó!

Con chim non ngơ ngác nhìn quanh một cách sợ hãi; hai cánh vẫy vẫy như muốn bay, nó vẫn kêu, nhưng lần này kêu khác lần trước... Tri huy! Tri huy! Tri huy!... Nó như muốn nói "chí nguy!" để kêu gọi bố mẹ. Rồi bất kỳ, nó bay bổng đánh vụt một cái qua đầu cô Thư, thẳng ra lối cửa ở mái hiên. Cả nhà giật mình hồi hộp... Nhưng con chim chưa đủ tư cách ấy chỉ bay đến bức tường con ở hàng hiên để đập ngực vào đấy, rồi rơi xuống đất một cách đáng thương hại. Cô Thư chạy lon ton ra để vồ... Con chim lại cất cánh bay, và lần này lái ra được vườn hoa để sa xuống một gốc cam. Phải thằng xe chạy ra mới vồ nổi. "Chích chích chích chích!", trong cái bàn tay thô bạo, con chim lại giẫy giụa kêu thất thanh. Giữa lúc ấy, trên cành cam ở đỉnh đầu thằng xe cũng có chim kêu choáng lên:

- Hồ hồ ri íu! Hồ hồ ri íu!...

Kể về ngôn ngữ của "loài hai chân không lông vũ" thì cái câu nói của loài có lông vũ ấy nó na ná cái hình thanh của một câu văng tục vậy. Và hai con chim ở trên cành chính là bố mẹ con chim con.

Trông thấy con bố và con mẹ, thằng xe tinh nghịch giơ con con ra. Hai con kia liệng bay xuống gần bàn tay nó như muốn tìm cách đánh tháo cho con, hai cánh tuy đập đập nhưng toàn thân ở nguyên một chỗ giữa không khí, như những lúc loài chim bói cá đứng ngắm cá trên mặt ao trước khi văng mình xuống nước. Sau khi biết thật là không có cách nào, hai con bố mẹ mới lại bay lên đậu ở cành cao. Hồ hồ ri íu! Hồ hồ ri íu!... Đồ... đồ láo! Đồ láo!

Ông chủ nhìn vợ, hỏi:

- Ghê không? Gớm chưa?

Bà vợ đáp:

- ấy tình mẫu tử của loài chim mà cũng đến như vậy.

Ông chủ lại bảo xe:

- Chim non rơi thế này, ắt phải rơi cả tổ. Mày ra xem chỗ ấy có còn cái gì nữa không. Tao chắc còn con nữa, vì bao giờ loài chim cũng nở từng đôi một.

Đứa đầy tớ ra tìm kiếm trên bãi cỏ gần hàng rào. Một lát sau nó đem vào một cái tổ chim, với một chú chim non lại còn non hơn con trước, bé hơn, chưa biết kêu.

° ° °

Cả nhà đều ngạc nhiên. Con chim trước lồng lộn lên muốn bay đi như thế, mà vừa bị đặt vào tổ, đã nằm ngay xuống cạnh "đứa em" - hoặc "đứa vợ", vì loài chim không sợ loạn luân như loài người - một cách vô tư lự, rồi, sau cùng, nhắm ngay mắt lại. Nó ngủ! Nó tưởng cái tổ của nó lúc ấy vẫn như ở trên cành cây. Thư đưa tay đập khẽ vào vành tổ, tức thì cả hai con vươn cổ lên để há mỏ ra như hai cái phễu.

Hai cái cổ mảnh dẻ lúc ấy lại bị phô ra đỏ hỏn, trông như có thể đứt rất dễ, giữa hai làn lông măng còn tơ. Ông chủ lại nói to:

- A! Nó đói! Đi bắt cho nó vài con châu chấu! Bắt những con non ấy!

Thằng xe lại chạy ra vườn. Hai con chim mất tổ lúc ấy ngơ ngác vì cảnh gia đình tan nát, cứ bay lại đậu gần mái hiên, chuyền từ cành ổi sang cây cam, từ cây cam sang cây chanh. Hồ hồ ri íu! Hồ hồ ri íu! Đồ láo! Trên đầu có cái mũ chào mào giống như hình cái chìa vôi, dưới đuôi có một đám lông đỏ màu hoa lựu, đeo cái can đảm trắng xoá ở trước ngực, hai con chim vẫn luôn mồm chửi rủa những người đã phá tổ và cướp con của chúng. Nó cũng đau đớn đến bậc hóa ra táo tợn như loài người.

Thằng xe đem vào mấy con châu chấu. Ông chủ bóp bẹp đầu con bọ, ngắt càng của nó rồi đập vào vành tổ cho hai con chào mào vươn cổ lên. Ông mớm mồi cho hai con chim non mãi đến lúc chúng ăn no. Thư rất sung sướng khi thấy bố cũng nuôi chim cho mình.

Bữa ấy, hai người nhớn đã sống lại một khoảnh khắc của tuổi trẻ.

Nhưng mà, trò đời thế, sau cùng thì cái gì người ta cũng có thể chán được.

Cho nên lúc chiều, khi Thư vào phòng yêu cầu bố ra cho chim ăn, ông bố bèn lấy dây gai buộc cái tổ chim rồi treo lủng lẳng dưới cành một cây ổi, ở vườn hoa. Ông bảo con gái:

- Để thế cho con bố, con mẹ nó mớm cho con chúng nó.

° ° °

Từ lúc cái tổ chim được treo ở cây ổi, vườn hoa bắt đầu có một quang cảnh hoạt động, tới tấp... Đôi chào mào bay đi, bay về, rộn rịp, săn sóc hai đứa con. Mỗi lần bay ở đâu xa về, một con (ý chừng là con vợ, vì bé nhỏ hơn con kia) - lại có ở mỏ hoặc một con chuồn chuồn, hoặc một con sâu xanh, hoặc một con bọ gì đó. Còn chồng thường đứng đề phòng loài người để báo những hiệu lệnh riêng cho con vợ, những khi con vợ mạo hiểm đến chỗ cái tổ để mớm mồi cho hai con.

Lần đầu, chúng nó còn e sợ, bay liệng quanh cái tổ như nghi hoặc loài người cạm bẫy gì chúng. Mấy cái dây gai lòng thòng chung quanh nút buộc dưới tổ cũng đủ làm cho đôi chim ấy, trong nửa giờ đồng hồ, chỉ dám mon men chung quanh chứ không dám quyết định đến đậu vào vành tổ để mớm cho con. Mỗi khi con vợ sắp sà vào cái tổ rơm, con chồng lại chuyền hết cành này sang cành nọ, cứ đập cánh vù vù kêu luôn mồm: Hồ hồ ri íu!... Nào! Nào! Khéo! Nào khéo!... Và, những khi nghe thấy tiếng bố mẹ, hai con con lại vươn cao cái cổ đỏ hỏn và nhỏ như sợi sắp đứt, há hốc mỏ, cũng kêu gào... Chiết chiết chiết chiết!

Lúc ấy, cô Thư ngồi nghiêm chỉnh trên ghế dưới hàng hiên chăm chú nhìn sự vật, không bỏ qua một cử chỉ nào của loài chim. Thằng xe thì, sau khi sửa xong cái rào găng, đã hỏi tội đến những đống lá sả. Ông bố, bà mẹ, thỉnh thoảng từ bên trong ra hiên xem chim. Hôn con gái một cái, rồi lại vào.

Bỗng Thư reo lên:

- A a! Con mẹ nó đã mớm!

Quả vậy, con chim mẹ đã liều chết đậu vào cái tổ mớm mồi cho con. Thấy bình yên như thường, nó nhìn chung quanh tổ một lượt như một người đi xa, lúc về nhà cần phải xem xét nhà cửa và đồ đạc. Sau cùng, nó mổ một viên gì trăng trắng ở tổ, móc lên, ngửa cổ nuốt... Cô Thư hỏi thằng xe thì nó đáp:

- Nó dọn cứt cho con nó đấy!

- Chỉ dối!

Thư nguẩy đầu nói thế, vì không tin.

Hai con chim, trên cây, lại vụt bay đi kiếm mồi. Năm phút sau, cả hai cùng về, có mỗi con một con sâu ở mỏ.

Hồ hồ riu! Nào, nào, khéo!

Đến lúc trời tối sậm, hai con bố mẹ đậu yên một chỗ cao chót vót ở ngọn cây xoan, giữa vườn hoa.

° ° °

Sáng sớm hôm sau, thằng xe lại buộc cái tổ chim ra cành cây ổi. Nó kêu:

- Mới có một đêm mà lông lá nó đã xù ra rồi! Chóng quá đi mất!

Vì lẽ thằng xe lại còn đi chợ, nấu cơm, giặt quần áo, làm những việc vặt khác, nên hôm ấy, Thư ngồi một mình xem chim, không có người nói chuyện với. Ông bố và bà mẹ cũng chẳng còn sốt sắng săn sóc đến cái tổ chim như hôm qua. Tuy nhiên, Thư cũng được một ngày sung sướng. Cô bé vẫn có thể ngồi cả ngày nhìn ra vườn, hoặc trốn vào một góc tường những khi thấy chim e ngại đến gần tổ, hoặc nhô ra nhìn, những khi hai con chim con vừa được mớm xong. Cô bé không thấy chán tí nào cả.

Ông bố chạy ra hỏi con:

- Thế nào? Nó có mớm không?

Thư quay lại, nghẹo cổ, cười và đáp:

- Bốn con sâu rồi cơ, ba ạ!

- Thế à!

Bà mẹ cũng chạy ra. Thư đòi:

- Mẹ ơi, mẹ mua cho con cái lồng chim đi mẹ! Mua để nhốt nó lại!

Bà mẹ khất lần:

- ừ, mai rồi mẹ đi mua.

Lúc ấy, hai con chim bố mẹ lại bay đến tổ, lần lượt mớm mồi cho con. Tuy đã dạn người lắm rồi, chúng cũng vẫn còn dặn nhau: "Nào, nào, khéo! Nào khéo!". Trông thấy cái tình của loài chim sâu xa đến thế, nồng nàn đến thế, bố mẹ Thư nhìn nhau, đắm đuối, hôn trộm nhau sau lưng con. Người vợ nói:

- Giời sinh ra tài thật, nhỉ cậu nhỉ?

Người chồng gật gù cái đầu, đáp một câu vô vị:

- Chính thế.

Giữa lúc ấy, tiếng chim kêu bỗng líu la líu tíu khiến cho mọi người vội quay nhìn ra. Con chồng thì cứ bay liệng từ cành này sang cành khác, mỏ vẫn ngậm một con châu chấu mà vẫn hót được: "Hồ hồ ri íu!... Nào, nào khéo!" Còn con chim vợ thì lại thay đổi ngôn ngữ bằng cách nói: "Tri huy tri huy tri huy!" Nó cứ đập đập hai cánh bay nhảy ở một cành cây giáp với cái tổ nhưng không đậu hẳn vào vành tổ. Nghe thấy tiếng mẹ, hai con con lại há hốc mỏ, vươn cổ rõ cao. Nhưng mẹ chúng cứ bay đến gần chúng mà vỗ cánh, múa may và hót bằng đủ các thứ giọng. Con bố cũng bay quanh, ra ý đề phòng bọn người. Trên cây ổi, đó là hai chấm đỏ, lập lòe đâm bông như hoa lựu về mùa hạ của Nguyễn Du. Hai con con kêu thế nào, con mẹ cũng không vào mớm.

Bọn người đứng dưới hiên đương ngạc nhiên về cái cử động khác thường ấy, thì chợt, vù một cái, một con chim non đã bỏ tổ bay theo mẹ. Nó bay lên đậu ở một ngọn cao ngất ngưởng. Hai con bố và mẹ hát khúc ca khải hoàn của loài chào mào những lúc tự do ngửa cổ hót trước gió: "Thích tinh nào! Thích tinh nào! Huých tô rô! Huých tô rô!" Rồi chúng dìu dắt đứa con cho nó bay chuyền từng đoạn ngắn một cho đến lúc lên được ngọn cây xoan!

- Giời ơi! Nó bay! Nó bay mất!

Kêu xong, ông bố chạy vội ra cởi dây gai, đem cái tổ chim vào nhà. Trong tổ vẫn còn lại con kia, chưa đủ sức bay theo bố mẹ.

° ° °

Mấy hôm sau, con chim non vô phúc kia bị nhốt vào một cái lồng son. Thằng xe đã phải suốt ngày bắt châu chấu. Cô Thư cứ việc lấy cái que xiên vào con bọ để đưa qua nan lồng. Nằm nguyên một chỗ trong tổ, con chim hưởng sự săn sóc của cô bé cũng như của ông bố nó. Cái mào trên đầu nó nhô cao lên. Ngực nó đã kín. Cái bọng dưới đuôi nó dần dần bé đi. Sau ba ngày, nó cũng đã nghiễm nhiên trông ra mẽ lắm, đã đến cái thời kỳ "kiếm lấy mà ăn" vậy.

Nó bắt đầu mổ được, và nhảy nhót bậu vào những nan lồng.

Nhưng đồng thời, hai con bố mẹ và con con ở ngoài vườn cũng cứ ngày ngày đến khiêu khích nó, xui giục nó kiếm cách mau xổ lồng tháo cũi mà ra. Nghe thấy những tiếng "Hồ ríu! Huých tô rô!..." con chim trong lồng cũng đập cánh ngửa cổ hót đáp:

- Tri huy tri huy tri huy!

Ngây thơ, cô Thư lại đem lồng chim ra treo ở cây ổi. Ba con chim bên ngoài tức khắc bay quanh cái lồng, ca hát véo von... Con chim ở bên trong lồng lộn lên, rúc mỏ qua cái nan lồng, như điên, như cuồng, nhưng cô bé ngây thơ lại tưởng nó nhảy nhót gì vui vẻ.

Trong lồng có một nửa quả chuối tiêu và một cóng nước lã. Dần dần, con chim bỏ cả uống, quên cả ăn. Nó hóa ra gầy còm. Nhưng cái sự ấy người ta không để ý đến.

Cô bé Thư cứ sáng sớm lại xách lồng ra treo vào cành ổi, để đến chiều lại cất vào dưới mái hiên.

Ông bố, bà mẹ, cũng đôi khi nhìn đến cái lồng để không có một cảm tưởng nào cả.

Thằng xe có bổn phận sáng nào cũng thay cóng nước lã, và bỏ vào cái lồng một mẩu chuối, sau khi lôi mẩu chuối cũ đã xám xịt ở trong lồng ra. Nó không để ý xem rằng mẩu chuối bị ít hay nhiều vết mổ. Nhưng lần nào thấy người, con chim non cũng bay loạn xạ cả lồng.

Thế rồi, một hôm con chim chào mào non tuyệt thực, và chết, giữa những câu ca hát quyến rũ của bố mẹ nó và chồng nó

Tết ăn mày!

1 giờ đêm. Đứng trên bao lan một nhà, nhìn xuống con đường Khâm Thiên, ta thấy một mối cảm giác khó tả. Phố xá vắng vẻ một cách đáng buồn. Mặt đường nhựa, bị một lớp bùn cát lấp, bảo cho mọi người biết một cách hãi hùng rằng xuân sắp đến.

Khi nghĩ rằng muốn sửa soạn nghinh xuân thì người ta phải lo trăm công nghìn việc để được lòng ông chủ nợ, được lòng gia đình, được lòng tổ tiên, được lòng cả kẻ tôi tớ trong nhà nữa, thì người ta phải giật mình đánh thót một cái, và nghĩ đến cuộc hành lạc vô nghĩa ấy để tự hỏi:“Có thể như thế được chăng?”.

Trong những trường hợp ấy kẻ lãng mạn cũng thoáng nghĩ đến cái phận sự sống một đời ích kỷ và hiền lành của kẻ trưởng giả, và những anh tầm thường cũng trở nên thi sĩ. Cho nên người ta buồn vì ngoài phố chỉ còn mấy tiếng rao rời rạc của mụ hàng nem, buồn vì mấy cái xe tay mui buông kín mít cứ ở nguyên một chỗ để chổng đít ra đường!

Bên trong, khách làng chơi đã lộ sự mệt nhọc. Chiếu rượu vừa bế mạc xong. Bọn trẻ rủ nhau thành từng cặp một, nằm ngồi ngả nghiêng rải rác khắp gian phòng. Họ nói ái tình. Họ nói lảm nhảm. Và họ văng tục. Vì rằng họ chỉ đến đây thời mới được tự do nói nhảm và văng tục.

Còn bọn già thì nằm quanh khay đèn với mấy cô đào rượu và bà chủ. Những cụ này không văng tục, cũng không nghịch đểu. Họ là bọn hóa điên. Họ nói chuyện đứng đắn, chuyện công việc. Và than ôi! Họ lại lo cả tết nữa! Ấy là lúc ra đi, có người đã mặc cả là đi chơi cho đỡ buồn.

+ + +

Giống người thật là một giống hay khoe. Hôm nay, một tiểu thư thấy, nhà trước cửa, cô kia mới may một bộ áo tân thời. Ba hôm sau, cô này cũng phải may một bộ áo tân thời lại tân thời hơn cả của cô kia. Cho nên thấy một quan viên ngoáp và nói: “Chết chửa, bỏ mẹ thật, 25 tết rồi!” thì cô đào cũng ùa nhau nói chuyện tết. Họ cũng khoe. Họ lại khoe cả những cái “vỡ lọ cổ” nữa. Cái đó cũng không lạ gì mấy vì chưng đối với Cúc Nương, chúng tôi đã vẽ râu, đã bạt râu năm lần bảy lượt, đã có phen có anh phải để râu như râu Trương Phi, và rồi lại cạo được cho nhẵn nhụi như mặt anh Mã Giám Sinh.

Cúc Nương đã nói đến nhân tình thế thái trong những ngày tết.

Ngày tết của cô đầu.

Những khi lên voi.

Và những lúc xuống chó.

Cúc Nương đã nhắc đến những ngày thịnh thời của nghề đàn phách, những ngày mà ả đào còn ở phố Hàng Giấy, Thái Hà ấp. Thời ấy, không phải là ai cũng đi hát được. Một chầu chay điểm một ít lê táo, vài chai sâmbanh của khách làng chơi đem đến, lại không một ai ngủ lại (điều đó can hệ lắm), khách chi cho ít nhất cũng hai chục đồng. Đi hát là một cái vinh dự, vì đi hát thì phải biết đánh trống. Thời ấy người ta đi ả đào thì thấy sung sướng như chàng đa tình đi qua một cửa hiệu tạp hóa, phải lòng mê mệt cô bán hàng mà rồi được phép vào chuyện trò thân mật với người yêu. Cô đầu giữ được nhân phẩm của mình, làng chơi cũng không dám giở những thủ đoạn gậy gạch.

+ + +

23 tháng chạp.

Mua mấy con cá chép nhỏ làm ngựa ông Táo, tiễn ông Táo lên chầu Trời rồi, chị em cũng như những gia đình nền nếp, tấp nập đi giục thợ may, đi mắng thợ kim hoàn, đi sắm cành đào, thủy tiên. Hơn những gia đình trưởng giả, ngoài việc sắm chè, mứt, mọi thứ cao lương mỹ vị, chị em còn xuống Gô Đa ký những giấy “li-ve-rông” rượu sâmbanh từng hòm. Pháo cũng nhiều, vì đốt pháo tức là đốt cho tan nát lưng khách làng chơi. Ông Thổ Công mang những chuyện ấy lên khoe với Trời và không dám tâu nộp những chuyện nhơ bẩn gì khác.

Buổi chiều mồng một, Cúc Nương đã từng thấy những chiếc xe hơi đến đỗ trước nhà mình như trước dinh một bà quan to. Có lẽ người ta đã ký văn tự 30 phân với Tây đen, song những cái ấy, chị em không phải lo hộ. Muốn có tình thì phải có tiền. Hồi đó, ái tình trên cái thị trường son phấn còn bán được bằng giá rất cao. Quan viên thi nhau diện xe hơi đến nhà. Quan viên uống nước chè, cắn vài hạt dưa. Quan viên mở rượu sâmbanh. Quan viên nói bông lơn vài câu. Rồi quan viên phong bao cho ba chục bạc, năm chục, hay gọn một “cái đỉnh”(+). Và, vì lẽ đời nó thế, con gà tức nhau tiếng gáy, quan viên mở hàng như vậy mà lại còn hối hận, còn sợ có thằng khác phong bao oai hơn mình. Hồi đó đi hát cô đào thì sẽ bán nhà. Nhưng mà không mắc bệnh hoa liễu.

Cúc Nương thở dài, chép miệng:

- Cứ tiền pháo khi xưa cũng bằng mấy cái tết bây giờ!

+ + +

Bây giờ Cúc Nương đã đến lúc danh vọng về chiều.

Đó là nạn khủng hoảng. Đó là nạn nhân mãn. Đó là nạn ế chồng. Đó là nạn lãng mạn. Đó là cái nạn nhà đăng xing.

Khách hàng không hỏi mua giọng hát nữa. Làng chơi đã đổi hẳn thị dục. Làng chơi cần cái đẹp, cái mới, cái dễ. Cho nên đáng lẽ cùng với mấy cô em danh ca cũng xong, nay Cúc Nương phải mộ thêm một ít cô tân thời biết uống rượu, biết vấn tóc trần cho đẹp, biết đánh răng cho trắng nõn, biết ca mấy câu Trường tương tư, Văn thiên tường, biết khiêu dâm. Cô đầu “xách đèn” và không biết trò chuyện “đếch gì” cả. Và, thêm vào số ấy, lại phải có độ hai món hàng “chanh cốm” thì mới thật là đầy đủ. Cái số nhân viên trong “sở” đã phải mượn đông đến như thế thì có phải bà chủ không thể lo tết cho người làm nữa không? Ai lo phận người ấy.

- Anh ơi, tết nhất đến nơi, anh nỡ để em xơ xác ra thế này à?

- Anh ơi, anh đã làm gì để tỏ lòng yêu em hay là chưa?

- Việc lo ăn lo mặc cho em là việc của bà chủ chứ?

- Vẫn biết thế, khốn nhưng em không có lắm nhân tình! Nếu em có vài người nhân tình luôn luôn đến hát thì em đã chả phải nhờ anh.

Chị xịu mặt nói thế. Anh, muốn chừng nghe cũng có lý, không nói gì nữa. Chị đưa thêm một mũi kiếm:

- Nếu em giả dối với anh thì em đã chẳng xơ xác như thế này, anh ạ.

- Được rồi, để anh nghĩ đã.

- Anh cứ sắm cho em đi, em sẽ trả sau.

Quan viên hiểu ngầm cái nghĩa chữ ấy lắm. Đêm ấy người ta cho nhau ái tình. Sáng hôm sau, quan hẹn đến 26 xuống hát tất niên sẽ có quà tết một thể. Quan viên lại còn kêu như thế thì càng khỏi phải xông đất đầu năm, lợi hơn. Chị em nghĩ thật, tưởng bở nữa. Ngày một ngày hai, chị em cứ chờ: Hôm nay người ta rao cá ông Táo. Mai người ta vác cành đào nghễu nghện qua đường. Ngày kia, người ta vênh váo ngồi xe với những chậu cúc tướng. Ngày kía, người ta rao lá giong gói bánh chưng. Ngồi thục tay vào lòng dưới ánh đèn măngxông, chờ những khách làng chơi tưởng tượng, chị Lan thấy cái quần nhiễu trắng của mình vẫn là cái quần nối hai lần cạp, cái khăn san vẫn là cái khăn san có ba lỗ thủng bằng ba đồng xu. Vậy mà chị Tình, chị Hiền, chị Mai thì được bà chủ sắm cho nào áo mới giày mới khăn mới. Các chị ấy là cô đầu có “mặt hàng”. Mỗi chị ít ra cũng có một số nhân tình là năm bảy ông.

Ngoáp dài một cái, chị Lan xúc cảm “kể chuyện” một câu:

- Chém cha... cái số... chung ư ư ư tình!

Thật đặc giọng nhà thổ ế.

+ + +

Hai giờ chiều mồng một.

Năm quan viên vào chúc mừng nhặng cả lên, ăn uống choáng cả lên, hôn hít rầm cả lên. Cuộc đời như vậy thật là: vui vẻ, trẻ trung, tân tiến, hoạt động, trào phúng, và xã hội nữa. Một quan hô:

- Đầu năm thiên thủ, chúng mày ơi, phải có sâmbanh cho nó hùng.

Một quan khác:

- Hùng gì? Bà chủ chỉ đốt mừng chúng mình có một ngón tay pháo.

Một quan khác nữa:

- Thế thì chúng ta mỗi thằng chỉ làm một hến sâmbanh thôi.

- Nhưng mà có sâmbanh không? Có không?

Bà chủ dịu dàng:

- Sao lại không? Đối với các anh là làng chơi đi xe hơi xuống xông đất thì chẳng phải đòi chúng tôi cũng phải đè cổ xuống mà mời sâmbanh.

Cả bọn nhao nhao lên:

- Thế thì đè đi! Thế thì đè đi! Còn chờ gì nữa?

Bốp, bốp, nút chai bắn vọt lên trần nhà. Tiếng săng tê ỏm tỏi. Các quan loạng choạng đi ra. Một quan đã bắc ghế lên mắc vào cái đinh ở cửa hai thước tây pháo. Năm quan ra ngoài đường. Cô đầu ở trong nhà cả. Một quan đánh diêm. Quan khác lấy ma-ni-ven vặn máy xe.

Tạch tạch tạch tạch! Pháo cứ nổ ran lên! Khói cứ um cả nhà! Năm quan lên cả xe. Xe chạy.

Trong cơn biến loạn, có người kêu: “Trời ơi! Họ quên không mở hàng! Họ chưa mở hàng!”. Nhưng mà làm thế nào? Cái cửa bằng cái lỗ mũi, tràng pháo lại đương nổ. Khói cứ um lên. Cô đầu tối mắt, ngạt mũi, còn bận bưng mồm ho sù sụ như sặc thuốc lào vậy.

Năm phút sau bà chủ kêu:

- Đồ chó!

Hai chị em bênh nhân tình:

- Không, chắc là các anh ấy quên.

Đến chiều tối, lại một bọn khác. Lại những sự xã giao như lúc hai giờ. Rồi thì, trước khi ra đi, một quan để trên cơi giầu một phong giấy đỏ. Mười phút sau, bà chủ giở ra thấy một tá chinh Bảo Đại. Với một cái thư nữa.

Trong thư, sự tử tế của loài người đã nói:

“Cái giá trị của các chị chỉ đáng có thế. Các chị thử nghĩ lại xem, đã tử tế với chúng ta như thế nào. Nhớ lại xem!”.

Cúc Nương nhớ lại những chầu hát cũ. Một lần , nàng đã nhầm chót để cho hai cô em vào tiếp hai chú Chiệc ở gác trong. Một hôm khác, ba quan ngủ lại, chẳng may có ba cô em lại cùng “đại tang” cả.

+ + +

- Ngày xưa quan viên tìm cô đầu.

- Bây giờ cô đầu hạ mình quá với quan viên.

- Cô đầu không thành cô đầu, quan viên không thành quan viên.

- Nói tóm lại thì quan viên cũng chó mà cô đầu cũng chó!

Cúc Nương nói thế thì một người hỏi đùa:

- Chó ở những lúc ngủ với nhau ấy à?

Tiếng cười rầm một hồi. Rồi Cúc Nương nói:

- Chán bỏ mẹ! Thời buổi này cái gì cũng hỏng! Tết nhất lắm chỉ như đồ ăn mày!

+ + +

Hỡi cô gái giang hồ! Đây là ngày tết. Ngày hôm nay là ngày thiên hạ tưng bừng đón chào xuân mới. Trước ban thờ khói trầm nghi ngút, đèn nến sáng trưng, cô gái ngồi với tráp giầu, sửa soạn chè nước tiếp khách và sẵn sàng đỏ mặt lên nhận những câu chúc đắt chồng, vào dịp xuân sang.

Cô gái giang hồ có biết những cái dĩ vãng tốt đẹp ấy chăng? Hay cô mê mệt vào cuộc truy hoan để chờ khi thấy mặt ta thì lại làm cho ta bồi hồi và giật mình bằng những câu như: “Nay mai anh xuống hát cho một chầu tất niên để em kiếm cái tết nhé!”.

Một cái chết

-Vũ Trọng Phụng-

Bẩy giờ tối.

Hai chúng tôi, cơm chiều xong, vừa định thắng bộ vào dạo chơi loanh quanh mấy phố thì trời bỗng đổ cơn mưa như trút.

Phải bó cẳng ngồi nhà cặm cụi với mấy tờ báo, chúng tôi xem đã uể oải, mắt đã thấy mờ thì cửa vẫn khép chặt, bỗng có người đẩy đánh xầm một cái tung ra.

Giật mình, chúng tôi ngơ ngác nhìn lên thì một ông lão ăn mày vừa lòa vừa cụt chân, người quắt như con mắm nướng, áo tơi, nón lá, chống nạng lê vào.

- Lạy ông, lạy bà... bố thí cho con đồng cơm bát cháo trong lúc khốn cùng...

- Không sẵn! Đi đi!!! Cửa nhà người ta khép thế mà cũng đẩy ra được...

Đã bực mình sẵn, lại thấy ông lão xông xáo quá đáng thế, tôi không chút thương mà gắt rầm lên. Bạn tôi vội xua tay ngăn lại, đứng dậy, ra ân cần để vào tay ông lão một xu. Ông lão cúi rạp xuống đất tạ ơn rồi lủi thủi bước ra, để lại chỗ đứng một vũng nước dây ở cái áo tơi trút xuống. Bạn tôi cài then cửa rồi vào:

- Không bao giờ tôi nỡ đuổi một người ăn mày như anh đã đuổi.

Tôi mỉm cười một cách nhạo báng. Bạn tôi xưa nay vẫn hay giảng đạo đức, thuyết luân lý.

- Anh đừng tưởng chuyện đùa. Những chuyện rất thường mà đối với người ngoài cuộc, lắm khi có ảnh hưởng lại rất sâu xa. Một người ăn mày đến kè nhè bên ngoài. Người trong nhà chạy ra mắng đuổi hắt đi rồi đóng cửa đánh xầm một tiếng. Tưởng chẳng có chuyện gì bình thường hơn thế nữa. Thế mà cũng chỉ vì một chuyện đuổi ăn mày mà chính tôi đây, tôi đã được mục kích một tấn kịch rất đỗi bi thương.

Nói đến đó, bạn tôi ngồi xuống ghế, vớ lấy bao thuốc lá lấy ra một điếu đánh diêm châm, rồi tiếp.

Bên ngoài trời vẫn rả rích mưa to.

- Hồi ấy, cách đây sáu bảy năm trời, phải, sáu bảy năm trời rồi mà câu chuyện xảy ra tôi còn nhớ mồn một như mới hôm qua.

Năm mười sáu tuổi, học lớp nhất trường Hàng Vôi, tôi ở trọ phố Bờ Sông, nhà một thầy cai lấy thuế chợ. Con trai thầy mới lên mười một, học lớp dự bị, ngày ngày bốn buổi đi về có tôi dắt dìu. Tối đến dưới ngọn đèn dầu cũng tôi chỉ bảo.

Gia thế thầy cai tôi không được rõ. Vì có người quen mách giúp nên việc tôi đến trọ nhà thầy là việc ngẫu nhiên. Chỉ biết hôm tôi khuân hòm đến thì, trên chỏm mũ trắng điểm vành băng đen, thằng Hợi - con thầy - đã ngót hai năm trở mẹ.

Thằng Hợi! Tôi nhắc đến tên thì người, tôi cũng nhớ được ngay. .. Anh thử tưởng tượng xem, một thằng bé mới mười một tuổi đầu, mặt mũi sáng sủa, ăn nói lễ phép, đến trường học hành đã chăm chỉ, về nhà việc vặt lại hay làm. Thầy cai rất yêu quý con trai, sợ cảnh dì ghẻ con chồng, chuyện lấy vợ kế thầy không hằng nghĩ đến.

Nhưng xem ý tôi biết, thằng Hợi không yêu bố nó chút nào. Chắc anh cũng chẳng lạ gì, một đứa trẻ, rất ngoan mà không ưa bố, một người bố cũng thương yêu con như trăm nghìn người bố khác, chỉ vì cái nghề mà đến con đẻ rứt ruột nó cũng không yêu.

Anh thử tính xem, cái nghề mà cửa miệng thiên hạ vẫn nói... nó đầy đoạ con người một thời xông pha mưa nắng, chỉ vì bổn phận mà đối với người nghèo hèn, buôn thúng bán mẹt đã bị họ coi như kẻ tử thù.

Mỗi lần thầy cai đi "sơ vít"(1) qua cửa trường Hàng Vôi là lại một phen thằng Hợi khóc. Nó khóc vì nó chẳng đang tâm trông thấy bố nó thẳng cánh đánh đập một bà lão bán bún hay đá túi bụi một thằng bé con cho hòm kẹo đổ xuống đất tung tành, nó khóc vì bạn bè trong trường khinh bỉ nó vô cùng, thường rõ rẹo vào mặt nó mà rằng: "Chúng tao không chơi với mày! Bố mày làm cai lấy vé chợ".

Sau những trận đau lòng ấy, chẳng biết trông cậy vào ai, thằng Hợi chỉ còn ôm đầu lủi thủi lại cầm tay tôi, ngước mắt nhìn lên tỏ ý kêu van, dưới ánh sáng mặt trời xiên qua bóng mấy cây bàng, tôi còn thoảng nhớ cái nét mặt ủ rũ của thằng Hợi, hai hàng nước mắt chạy quanh rơm rớm. Anh, nếu anh có đứng vào địa vị tôi bấy giờ, anh mới rõ được cái cảnh thương tâm ấy.

Thành thử nó coi tôi như một người anh, có lẽ hơn một người anh nữa, vì càng khinh bỉ bố nó bao nhiêu, tôi lại càng ái ngại cho thằng Hợi bấy nhiêu. Nó cũng hiểu lòng tôi thế lắm.

Nhưng có lẽ anh đã nóng ruột rồi, câu chuyện "đuổi ăn mày" anh để tâm, đây, tôi kể đến rồi đây.

Buổi tối hôm ấy, cũng vào độ bảy, tám giờ, cũng về cuối tháng giêng ta như hôm nay, chỉ khác là bây giờ thời tiết dễ chịu mà năm ấy thì rét như cắt.

Cái nhà chênh vênh hứng gió, cửa trông thẳng ra bờ sông, chúng tôi ngồi trong, nghe bên ngoài tiếng gió ào ào, cột nhà chuyển lắc rắc mà những rùng mình.

Phải, cái cảnh tượng đêm hôm ấy trí tôi chẳng quên mất một mảy may: cửa đóng kín im im, ngồi chùm đầu trong một cái chăn bông mà hai hàm răng tôi vẫn thấy chọi nhau lập cập. Thằng Hợi ngồi học cùng bàn với tôi nhưng không biết nó nghĩ vơ vẩn điều gì, mắt nó thường không nhìn đến sách. Thầy cai thì ngồi chễm chệ giữa giường, bên đùi kê một hoả lò than đỏ rực, trên để mấy con mực khô đang sèo sèo, mùi mực nướng pha lẫn mùi rượu ngang thơm nức cả nhà, nghĩ đến mà thèm rỏ dãi.

Chợt có người khẽ gõ vào cửa mấy tiếng rồi đánh "hu?t; một cái như có vật gì rơi xuống đó. Vừa toan bỏ chăn, xỏ chân vào đôi guốc bước ra thì thầy cai giơ tay ngăn lại, cầm khăn ung dung chùi mồm, vuốt lại bộ râu cong đâu đấy rồi mới cau đôi lông mày sâu róm lại, lên tiếng dõng dạc:

- Ai hỏi gì...?

Bên ngoài lại thấy mấy tiếng gõ vào cánh cửa.

Thầy cai lộn tiết, quát:

- Hỏi gì, nói lên!!!

Nhưng gió vẫn ào ào, bạt cả lời thầy muốn nói. Chúng tôi lắng tai nghe, bên ngoài đưa vào một cơn ho lụ khụ, rời rạc như của một người mắc bệnh kinh niên, rồi thấy giọng run run đưa qua hơi thở hổn ha hổn hển:

- Lạy ông lạy bà, ông bà cứu con, vừa đói vừa rét thế này con chết mất...

Chẳng cần nói tất anh cũng hiểu là một người ăn mày. Trong lúc đó túi tôi cũng có sẵn vài xu rúc rích, vừa toan mở cửa cho thì con người vô lương tâm kia đã lên giọng quát tháo ầm ầm:

- Bước ngay! Đi nhà khác! Đây không sẵn...!

Anh tính, người ta đang đuổi thế mà mình lại cho tiền chả hoá ra chửi mát người ta hay sao? Nghĩ thế, tôi đành khoanh tay ngồi nín lặng xem cái tấn kịch ấy nó diễn ra trong ba, bốn phút.

- ối trời ơi! Con lạy ông... ông... không thương, con chết mất!!!

- à... Quân này lại muốn ra gan... Muốn sống thì xéo đi không lại vào bóp sớm.

Bên ngoài, tiếng nói lẫn tiếng khóc:

- ối trời đất ơi! Con chết mất rồi đây, ông có cứu con không...?

.......

Gớm! Đến cái con người tàn nhẫn ấy thì không thể nào kể được. Tôi không ngờ lão ta nỡ đứng phắt dậy, sẵn chậu thau nước lạnh để gần đấy, liền nhắc ngay lên nhằm khe cửa đổ hắt ra đánh "rào" một cái rồi khoanh tay đứng nhìn.

Mỗi phút một xa, mấy tiếng gậy lộc cộc chống vào hè lát gạch, theo sau một tiếng thở dài... trừ ngọn gió ào ào thổi mạnh, bốn bề lại im phăng phắc.

Nét mặt vẫn thản nhiên như không, thầy cai lại ngồi vào mâm, gật gù mãi đến nửa đêm. Nằm trong chăn, thấy khác hẳn mọi khi, thằng Hợi hôm ấy vừa đặt mình đã ngủ say như chết. Nhưng gần về sáng bỗng bàng hoàng tỉnh giấc, tôi thấy nó quay mặt vào tường mà khóc tỉ tê. Tôi nghĩ mà thương nhưng cũng không khuyên giải, biết rằng có nói cũng chỉ gợi thêm một mối thương tâm.

Hôm sau, nhằm ngày thứ năm, phải buổi chữ nho, thằng Hợi ở nhà, còn tôi đi học.

Đến trưa, cắp cặp về, đã thấy nó đứng cửa, mắt đỏ hoe:

- Anh ơi, hãy ra đây mà xem đã...

Rồi chẳng để tôi kịp hỏi, nó đã xốc lấy tay tôi. Đi thẳng ra bãi, trèo qua dải đê, tôi thấy xa xa một đám đông, vừa trẻ con, người lớn. Đến gần lặng nghe họ bàn tán, tôi hiểu ngay tất có chuyện buồn:

- Thôi, thế cũng xong! Chết là may, chết là hết... Nhiều người muốn chết mà chẳng được cơ...!

Lời nói lạnh lùng của một ông lão trên đầu hai thứ tóc, mắt kèm nhèm, quần áo rách như tổ đỉa. Một thằng bé độ sáu tuổi nhăn răng bảo thằng đứng bên cạnh:

- Mày ạ! Trông đầu ông ấy như một quả bóng sanh (cinq).

Rồi mấy người đàn bà cười ồ.

Chẳng để ý đến mấy người họ lấy khuỷu tay đẩy mình, chúng tôi rẽ đám đông ấy, cố len lỏi vào cho được.

Anh ạ, tôi quyết không bao giờ quên được cái cảnh buồn tê buồn tái ấy nó hiện ra trước mắt tôi, lần ấy là lần đầu.

Trời vẫn rét, gió vẫn thổi ào ào.

Trong miệng cái cống tròn bằng xi măng một cái xác ông lão ăn mày nằm còng queo, hai chân co lên bụng, còn hai tay vẫn như ôm lấy bị gậy. Cái nón lá rơi ra một bên, bộ tóc lơ thơ, mấy chòm râu lốm đốm phất phơ bay theo ngọn gió, cái thân da bọc ngoài xương nằm đó cho ruồi bâu nhặng bám phải chăng là người hành khất đêm qua lê đến cửa nhà tôi mà đã bị một chậu nước lạnh đuổi đi...?

Nghĩ thế rồi chẳng nỡ nhìn lâu cảnh ấy, tôi dắt tay thằng Hợi kéo ra chỗ khác. Nào ngờ, nó cũng nghĩ như tôi, rầu rầu nét mặt mà rằng:

- Chính người ăn mày đêm qua rồi, anh ạ.

Lời nói của một đứa trẻ ngây thơ ấy theo sau một tiếng thở dài mới tha thiết làm sao... Một khối óc còn non mà đã thấy cái chân tướng cuộc đời, trong lòng xúc cảm bao mối thương tâm mà chỉ biết phát lộ ra bằng một tiếng thở dài, một tiếng thở dài mà ngụ bao nỗi đắng cay, ý vị...

Tuy chúng tôi không đứng lại xem lúc xe "măng ca" đến xe cái xác ấy đi ra sao mà buổi chiều hôm ấy, như bị một sức mạnh vô hình xô đẩy, lòng tôi bỗng thấy buồn tê tái, bài chẳng muốn học, cơm chẳng muốn ăn. Muốn giải trí, tôi rủ thằng Hợi đi xem chiếu bóng thì nó cười, cái cười giả dối ấy, tôi còn nhớ mãi. Rồi nó hỏi vay tôi năm hào, nói là để mua đền anh em quả bóng mà nó đã nhỡ chân đá vỡ cách đây mấy hôm. Tôi cho vay ngay, nào ngờ chỉ vì chẳng nghĩ xa xôi mà một đời tôi, rồi đây tôi còn phải lắm phen ân hận.

Đi xem về, tôi vừa gặp thằng nhỏ còn xách thùng đi gánh nước. Bấy giờ thấy cai đang giờ "service" thành cũng vắng nhà. Mở cửa bước vào, tôi thấy thằng Hợi đã nằm kín mít trong chăn. Tưởng cũng như mọi khi, thấy rét thì đi ngủ, tôi đến bên giường khẽ lật chăn ra, ý muốn kể lại câu chuyện vừa xem với nó. Anh ơi! Thật một đời tôi, chưa bao giờ tôi phải một phen lo sợ mà cảm động như lúc bấy giờ.

Đây này, anh...! Trái tim tôi đã thấy đập thình thình, chẳng khác gì lúc ấy, lật cái chăn ra, tôi thấy mặt nó xám ngắt, mắt nó nhắm nghiền mà tay nó thì lạnh giá như đồng, một thứ lạnh của những xác chết khiến ta chỉ hơi chạm vào là đủ rùng mình ghê sợ.

Tôi biết ngay là có chuyện, cố nén cái sợ, ôm lấy ngang lưng nó mà lay gọi một hồi, chẳng thấy gì, tôi đưa mắt nhìn ra bàn thì bộ chén để úp đấy thấy lẻ bên ngoài một cái. Tôi vội cầm đến thì còn thấy cặn...

Chao ôi! Cặn dấm thanh thuốc phiện mùi hãy còn sực nức đưa lên.

Không biết sao, lúc bấy giờ tôi đã toan chạy đâm bổ ra ngoài đường kêu cứu mà rồi tôi lại quay vào, ôm lấy cái xác mà kêu, mà gọi một hồi lâu nữa... Mặt mũi nó trắng trẻo, phương phi, trông mà thương, mà tiếc vô cùng, tôi tưởng chừng như ôm vào lòng xác một đứa em.

Rồi không biết tôi nghĩ lẩn thẩn thế nào mà tôi nâng đầu nó dậy, in cặp môi tôi vào trán nó mà hôn... như hôn một người yêu đang ngủ... thì mắt nó bỗng thấy mở hé ra, tôi còn nhớ mãi đến giờ, hai con mắt ấy lờ đờ mà nhìn tôi như người ngái ngủ. Bỗng nó trợn mắt lên, há miệng như muốn nói, cố vùng tay giơ lên như muốn ôm lấy cổ tôi mà toan gọi: anh! anh!...

Thương thay! Thằng Hợi chửa kịp nói được điều gì thì, chừng như thuốc độc đã thấm đến ruột gan nó, nó nhắm mắt giãy mạnh một cái rồi buông xuôi hai tay mà ngặt cổ xuống giường... bọt mép sùi ra...

Chuyện về sau thế nào, tưởng anh đoán lấy cũng hiểu.

Riêng tôi, tôi coi cái ngày hôm ấy như một ngày mà tôi phải để tang, nhân thấy anh đuổi một ông lão ăn mày nên tôi kể chuyện lại anh nghe...

Người có quyền

Đứng ngắm trước gương, anh ta cài khuy cổ áo, vuốt lại hai tà áo nhăn nheo, đội lại cái khăn lượt cũ cho chữ nhân đúng ở giữa trán. Anh ta nhìn vào gương một lần nữa, thấy mình "không ai chê vào đâu được", bèn ung dung ra đi. Chợt nhìn xuống đôi mũi giày Gia Định anh lại hấp tấp quay vào gầm giường cúi tìm đến rỏ mồ hôi tai mới thấy cái bít tất cũ. Anh lau mũi giầy, vui mừng rằng đã không quên một việc có thể rất có hại cho danh dự của anh. Chứ gì! Anh mà lại đi đôi giầy bụi bậm ra phố thì thiên hạ cười chết!

Qua gian nhà cầu, thấy bà mẹ đương ngồi cân tơ, lưng quay vào tường, anh rón rén gót chân như một tên trộm. Anh thở dài sung sướng vì mẹ không biết, không gọi lại hỏi, không căn vặn, để mà, sau cùng, đay nghiến là anh lêu lổng, là ăn hại, và bắt quay trở lại, bỏ khăn, áo ra.

Ra đến cửa hàng, cô Loan, em gái anh, lúc ấy đương có mấy cô bạn, trông thấy anh thì thảy đều ngồi im một cách kính cẩn. Các cô đương bàn chuyện mặc "soóc" để chiều chiều, lên diện ở Hồ Tây... Thấy em gái đương chuyện như pháo ran mà trông thấy mình lại vội im bặt, anh ta vừa ngạc nhiên, vừa sung sướng, không hiểu tại sao bỗng dưng cô em lại sợ mình đến như thế.

Ngoài phố, đèn đã sáng. Một ít giai gái đã bắt đầu đi nghễu nghện hai bên hè, tìm những cái thú ăn chơi của ban đêm. Anh tránh cái hè đông người, bước sang hè bên kia. Anh đi đến phố Cửa Đông, Đường Thành...

+

+ +

Nhưng mà đến chợ Hàng Da, đương đi thẳng, anh bỗng dừng chậm đà chân, rồi tiến thẳng về phía Ngõ Trạm. Anh ta tự hỏi: "Ta có nên đến đấy ngay bây giờ không? Ta lại hai bàn tay không như thế này mà đến chỗ ấy ư?" Thế rồi anh liên miên nghĩ đến bà mẹ ác nghiệt, người anh cả hiện đã là một ông phán, "vinh thân phì gia", thằng em giai hiện đã đỗ tú tài mà chỉ giỏi hát lối Tino Rossi và đi đêm với bọn vũ nữ, cô em gái út rất tân thời, được bà mẹ nuông hết sức mà mãi chẳng "thấy ma nào nó rước"... Bỗng đâu anh oán giận tất cả ngần ấy người... Hôm nay, anh đã là cha một đứa trẻ con! Vợ anh đã đẻ được một đứa con giai kháu khỉnh vậy mà anh phải hai bàn tay không đến nhà hộ sinh! Mà gia đình anh tịnh không ai biết!

Nghĩ đến đấy, anh đứng dừng hẳn lại, rất ngạc nhiên để tự hỏi mình như một người qua đường: "Thế có tức không? " Vì lẽ không ai đáp, anh lại cắm đầu cắm cổ đi, đi mãi, cũng chẳng biết có nên tức hay là không nên tức.

Vợ anh? - à, mà cái đó đã cố nhiên, thế là nó đã là vợ tôi, đứa bé kia là đứa con tôi, thưa các ngài! Đó là một người đàn bà góa chồng rất trẻ, cũng vui vẻ, nhí nhảnh như số đông những người góa chồng khác, mà anh đã gặp trong một cuộc chắn cạ, mà anh đã chim... Đã chim...? Bẩm chính như thế đấy ạ! Nói thế chắc hẳn chẳng ai tin đâu, nhưng mà sự thực ấy là thế. Người xưa nói "Tâm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi" - Phải biết! Hạnh phúc là một thứ quà của sự tình cờ nó thường cũng có khi rơi vào giữa mồm cái thằng đại lãn nằm dưới gốc sung, hay là nó thường rơi vào tay những quân ngu dại. Người xưa cũng đã nói cả rằng: "Ngu phúc xuẩn thọ". Nhưng mà chính anh ta thì, thật tình, anh chẳng biết mình là một người ngu.

Thấy anh mà cũng có nhân tình, có một người hỏi nửa thật nửa bỡn:

- Ô kìa, ông hai! Làm thế nào mà khéo thế, gớm! Cái món ấy kháu đấy nhỉ? Thế đã nước gì chưa?

Đối với một người vô nghề nghiệp thì có một cô nhân tình cũng như là có một chức nghiệp. Anh ta vui vẻ đáp lia lịa:

- Chứ ông tưởng! Cái món ấy nó yêu tôi thì còn oan cái nỗi gì!

Thật vậy. Là vì anh không hiểu rõ cái giá trị của anh. Chỉ biết rằng có một bà mẹ là một cụ cử hẳn hoi, có một ông anh phán sự ngoại ngạch, có một cậu em tú tài, có một cô em gái hết sức "a la mốt" thì là danh giá chán, anh ta chưa hiểu rằng tuy vậy, anh cũng chẳng là "cái quái" gì cả. Nhưng mà thiên hạ lại chẳng ai nhìn anh bằng cái thứ mắt mà anh nhìn anh. Người ta chỉ trông thấy anh là một kẻ "thằng không ra thằng, ông không ra ông", văn dốt, vũ dát, hai mươi bảy tuổi đầu còn ăn bám vào mẹ, cả ngày đi tìm những gia đình nhàn cư vi bất thiện để gạ đánh cờ không ăn tiền hay là chầu rìa tổ tôm. Mà, rõ khổ! Đã thế, thỉnh thoảng lại còn đi nhầm giầy nữa! Trong phố, người hiền lành nhất đời cũng bình phẩm anh là: "Rõ cái anh chàng đến vô vị!". Còn người độc ác thì lại kêu: "Cái thằng ấy có chó lấy!". Cả đến chính bà mẹ của anh nữa cũng không bao giờ nghĩ một cách thận trọng đến việc lấy vợ cho anh. Bà chỉ ngong ngóng xem người nào ế chồng, nhiều tuổi hơn anh hoặc là đã góa chồng rồi, thì mới dám mong không bị từ chối.

+

+ +

Bởi thế cho nên anh... đi chim! Bởi thế, anh phải có nhân tình! Mà có rồi ạ, rồi ạ!

Anh tự nhủ:

- Mẹ ta không muốn cưới vợ cho ta chỉ vì không muốn mất ba trăm bạc. Thì ta sẽ lấy vợ không mất một xu nào! Cho mà xem!

Anh lấy vợ thật: người đàn bà ấy ăn ở với anh non vợ chồng mà già nhân ngãi... Tại sao người ấy lại yêu anh ta nhỉ? Rõ khổ lắm, thì còn ai hiểu được lòng người, nhất lại là lòng người đàn bà. Trong một buổi chắn cạ có sự thân mật, có sự kề đùi kề vế, anh ta vô tình mà cảm được một người đàn bà góa chồng có trong lòng bao nhiêu giây đàn mà đã từ lâu không có tay tiên nào gảy đến. Tức khắc, người ấy yêu anh. Một lần, hai lần, những tưởng giải trí qua loa thôi, không ngờ cái tình bắt đầu phai thì cái nghĩa nó cũng sắp sửa thấm. Nói cho cùng, người đàn bà ấy trót nhỡ mà yêu anh. ấy sự đời là thế: có thứ đàn bà lấy chồng hoặc theo giai y như người ta trót nhỡ đánh vỡ mất một cái chén vậy.

Về phần anh thì anh chẳng tốn kém một đồng xu. Vợ anh tuy cô độc, tuy nghèo, song cũng có một nghề độ thân. Vợ anh bán guốc trên chợ, thuê một căn nhà nhỏ trong ngõ Hàng Hành. Sớm đi tối về, cơm đèn hai bữa. Trong những lúc ái ân, anh đã hứa:

- Mình cứ an tâm. Rồi tiện dịp, tôi nói với bà lão nhà tôi thì mình cũng được về nhà tử tế. Rồi chúng ta xin bà lão trăm bạc làm cái vốn riêng.

Người đàn bà kia gật đầu. Tuy anh chẳng có nghề gì, nhưng cũng "con nhà danh giá". Em ông phán, anh cậu tú, con cụ cử. Bẩm phải ạ, vậy các bà cứ thử nghĩ xem!

Ngót một năm trời, anh đủ sống sung sướng. Tuy ban ngày chỉ đi gạ đánh cờ không tiền hay chầu rìa ván tài bàn, nhưng mà, tối đến, từ 9 giờ đến 11 giờ thì anh lại căn phòng nhỏ với người yêu. Xong cuộc anh về nhà trình diện mẹ, bị đánh chửi là đêm nào cũng đi, như một người con chí hiếu ở thế kỷ hai mươi vậy. Chỉ có một lần là anh phải ngờ vực cái người chung tình có một của anh. Mười giờ đêm hôm ấy, sau khi ốm liệt giường liệt chiếu mất một tuần lễ, bất thình lình anh khỏi, và đến với vợ. Thì vừa lúc anh gặp một ông to béo ăn mặc như một quan hàn, từ buồng vợ đi ra, dáng điệu mỏi mệt, lừ đừ. Anh đã nghi, nói xa xôi, bóng gió, hỏi thật, thì vợ anh thét lên: "Cậu người ta đấy, khỉ ạ!" từ đấy anh không gặp mặt cậu vợ ở nhà vợ nữa, và được yên tâm.

Mãi đến bây giờ, vợ anh đến nhà đẻ, nằm phòng ba chục một tháng.

+

+ +

Anh ta lại từ Ngõ Trạm quay về phố Cửa Đông. Vì anh ta đã nghĩ: "Tuy bây giờ ta không có xu nào trong túi, nhưng mà nay mai hẳn phải có tiền giúp được người yêu... Miễn sao cái khai sinh gửi ra tòa Đốc lý! Thế là quan Đốc lý ngài nhận thực rằng ta là chồng nó, là cha đứa bé. Mà lão có muốn phá cũng không kịp nữa: quan trên nhận thực rồi!".

Sau khi lý luận ngây thơ như thế, anh gõ cửa nhà hộ sinh. Vợ anh trông thấy anh thì sưng mặt lên, không nói gì cả, song anh cho đó là cái oẻ hoẹ, cái khó tính của gái đẻ. Người nữ khán hộ giơ đứa bé con giai ra nói:

- Con giai hẳn hoi! Giống ông như đúc?

Anh nhìn đứa bé, chẳng thấy nó giống mình mấy (vì trẻ mới đẻ đứa nào chả thế) nhưng cũng nói:

- Vâng, nó giống tôi.

Cô khán hộ lại tiếp:

- Đây này: cái tai dầy chính là tai ông, cái nhân trung dài chính là nhân trung ông!

Anh ta gật đầu:

- Cám ơn bà, bẩm chính thế đấy ạ.

Rồi ngồi im như phỗng, hưởng cái sung sướng có vợ, có con. Khi cô khán hộ ra khỏi phòng, anh mới hỏi người yêu:

- Khai sinh cho con chưa thế, hở mợ?

Người yêu của anh, đến đây, ngồi lên, rầu rĩ nói:

- Thôi, tôi cũng không thể dấu anh được nữa, vậy tôi dằn lòng phải nói... Người kia nhất định khai sinh cho nó rồi.

Anh ta lặng hẳn người đi như mó phải dây điện. Vừa thở hồng hộc vừa hỏi:

- Thế nào? Nói gì thế? Người kia là đứa nào? Đứa nào là người kia?

Người vợ chung tình chép miệng làm gọn một câu:

- Cái lão mà anh đã gặp, mà tôi đã nhận là cậu tôi, chứ còn đứa nào!

Anh ta đứng hẳn ngay lên, nắm tay lại. Những người hiền lành hay cục, những kẻ ngu vẫn quen hung hăng. Nhưng người đàn bà ấy điềm tĩnh:

- ấy thế mới phiền chứ!

- Sao mày đã thề với ông?

- Ai bảo anh đi tin thế?

- á à! Gớm nhỉ! Mày nói cái mồm mày cứ gọn thon lỏn đi thôi! Chuyện dễ nghe nhỉ? Ông lại chém cổ... mày đi bây giờ...

Anh ngưng lại để mà ngạc nhiên về cái phũ mồm của mình lần đầu trong đời, anh đã nói nặng người yêu. Nhưng người đàn bà cũng nổi nóng chẳng kém:

- Thôi đi, anh câm đi! Anh ngu lắm? ừ, thử hỏi, trong một năm nay, tôi có tệ bạc gì với anh không, anh có cho tôi được lấy một đồng xu nhỏ nào không? Cái bộ mặt anh mà lại đòi có tiền à! Này tôi bảo thật, cái buồng ba chục một tháng này, tiền lão ấy đấy, cái buồng ba chục đồng ở ngõ Hàng Hành, tiền lão ấy đấy, cơm tôi ăn cũng tiền lão ấy, con sen tôi nuôi cũng tiền lão ấy, anh nghe ra chưa?

Anh ta tái người đi vì cái "lão ấy" sao nó lắm tiền thế! Anh ngồi im lặng nửa giờ để rồi tìm ra được mấy câu này:

- Mặc kệ chứ? ừ thì như thế, nhưng mà hỏi rằng đứa bé này là con nó hay con ông?

- Anh thử nhìn xem? Anh vội tin cô đỡ thế à? ấy là người ta nhầm, người ta nịnh anh. Cái mũi này mà là cái mũi anh à? Cái mồm này mà là cái mồm anh à? Hai con mắt này mà là cái mắt anh à?

Anh ta nhìn lại đứa bé mà người đàn bà giơ ra. Anh chỉ có thể biết đó là một đứa trẻ mới đẻ thôi, chứ giống chỗ nào thì anh không sao biết nổi! Tuy nhiên anh cứ nói bướng:

- Đích thị nó là con ông! Nó giống ông như đúc!

Người đàn bà xua tay:

- Thôi không phải rườm lời! Anh muốn còn tình còn nghĩa thì anh câm đi! Chứ đến luật pháp cũng không có quyền buộc tôi có bổn phận gì với anh cả! Mà người ta nhất định đứng tên trong giấy khai sinh rồi... Vả lại, anh có chắc đấy là con anh không?

Trước một lý luận cứng như thế, anh ta ngồi im như một con cóc. Thật thế, anh không có tiền, chẳng có quyền, cũng không dám tin đứa bé chính là con anh.

Anh đâm nản.

+

+ +

Anh còn ngồi ỳ ra đấy như một người đáng ghét thì người đàn bà nhìn qua cửa sổ một cách sợ hãi, nói:

- Chết chửa kìa! Người ta đến kia rồi! Anh đi đi!

Lúc ấy, ở sân nhà hộ sinh thấy có một người béo lùn - chính người anh đã gặp - hai tay ôm lễ mễ hai đống tướng những: hộp sữa, rượu bổ, lê, táo, khăn mặt bông, bí tất mới.

Tức thì anh ta thấy sợ, sợ như sợ một người cậu bên nhà vợ. Anh đứng lên đi lối cửa sau. Ra ngoài, anh lẩm bẩm: "Được, cứ nuôi cho nhớn! Để đấy! Bao giờ ông có tiền ông mới đi kiện, bắt thử máu cho mà xem!".

Sau cùng, thấy trong túi có hai hào, anh đến một tiệm thuốc phiện để giết cái buồn cũng như số đông những kẻ khổ sở khác.

Buổi chiều xám

Xan bỏ hẳn kính ra, cất vào túi áo trong rồi ngước mắt trông, Xan hơi bàng hoàng vì sự hiện diện đột ngột này. Trên đầu Xan, mây chì càng thấp xuống, và chung quanh Xan, cảnh vật càng thẫm lại. Gió thổi mạnh hơn. Bụi đường cùng lá cây cuộn lên thành tưng đám dày, chạy rào rào và quằn quại như những chim chóc chạy trốn trước cơn bão.

Cái lạnh càng thấy rõ nữa trong cảm giác Xan. Xan rít tiếng khe khẽ:

- Không biết còn rét đến bao giờ hở?

Câu hỏi này làm Xan cúi mặt xuống, không dám nhìn ra xa và nhìn kỹ chung quanh nữa. Từ những thân thể trần truồng, co quắp, những cái dáng đi lẩy bẩy mờ mờ, và những cặp mắt ngơ ngác của những đám người nhan nhản ở hai bên đường và các xó hè, đến những cây cối, nhà cửa và thời may đều âm âm hỏi theo Xan:

- Đến bao giờ nữa hở? Đên bao giờ nữa hở?

Cái không khí u uất về chiều này! Cái cảnh tượng nhợt nhạt của chiếntranh này! Cái hoang mang của sự sống qua những đói rét, tàn phá và chết này! Nghĩ tới đấy, thót cái tim Xam như bị kẹp mạnh, bởi bột cái kìm, vào ngực San như bị ai đứng dận lên. Lại như có từng núi gạo đương đốt cháy ngùn ngùn ở trước mặt Xan. Lại như có từng đống xác chết vây bọc lấy Xan trong đó có cả cha mẹ, anh em, vợ con, và bao nhiêu người quen biết của Xam, mấy tháng trước đây còn vạm vỡ, nhanh nhẹn không thể tưởng tượng được. Và không !... không !... có cả Xan nữa. Xan giờ đây ở nhà in và, nay vẫn còn khét mùi dầu mắt vẫn còn những trang giấy dập thử lấp loáng dưới ánh đèn điện và trong đầu vẫn còn âm ỉ những tiếng máy. Xan - một kẻ trong cái hạng người cũng chỉ có hai bàn tay làm việc mà tiền lương chưa cuối tháng đã hết, gạo trữ không , ruộng cày cấy thì thật hoàn toàn không bao giờ biết đến.

ình... ình... ình... sầm... một cái "cam nhông" lao qua mặt Xan và rồi dưng lại trước một máy nước. Không bóp còi và phóng bừa cho tới cả lúc rẽ vào đám đông, cái xe quái gở nọ chi tí nữa là hất tung Xan đi hoặc đè nát Xan. Ngã dúi vào một cột đèn. Xan, khi đứng lên, không phủi quần áo vội mà chỉ trừng mặt nhìn. Sự căm tức lại chẹn lấy cổ Xan. Đó là cái xe của quân đội Nhật lù lù như một coi voi, bụi bậm bám đầy, với mấy chục lính lố nhố, súng dựng ở trước ngực, tay cầm rung rung như sắp vung lên bắn vào người tao.

Sau một câu chửi hổn hể, Xan đã toan đi, nhưng thấy mấy tên lính phốc xuống đất, sấn vào đẩy dúi những người chực nước mà tranh lấy cái vòi, thì Xan nảy ra một ý nghĩ bèn thôi. Xan muốn với tất cả đâu xót trong lòng chúng kiến một lần nữa sự dã man mà đồng bào Xan phải chịu để xem nó còn tới mức nào trên những kiếp người hiền lành nhẫn nhục này.

Ê ê ê... hô hô hô...

Những tiếng doạ nạt, xua đuổi và cười đùa càng làm cho không khí đặc sệt lại. Chỗ này là một cái chợ chuyên họp về chiều cả các thứ hàng ế với các người làm ăn đầu tắt mặt tối. Bị cái xe cam nhông chắn gần hết lối đi, xe cộ, gồng gánh ứ lại, chen chúc nhau ầm ĩ. Trong khi ấy những kẻ chực nước và rửa ráy đun nấu hễ được dịp ghé vào vòi nước là lại xô đẩy nhau, thùng xích loảng xoảng, chửi bới lộn bậy. Bọn lính vừa phần bị vướng, vừa phần tinh nghịch, lại đẩy lại đạp, lại giơ thùng vùng lên để cùng cười rantrước những trẻ con vỗ tay, reo hò... Xan tưởng đầu óc đến nứt mất.

Xan càng rừng rực cả tâm trí.

Chới vào tai Xan, ở những xe đằng đầu đường kia, lại luôn luôn có những toán lính ngồi lên, nhảy xuống, dậm thình thịch và cười hát hô hô. Cuối cùng, chúng thúc cái nắp mui xe lên. Thế là mấy tên lính nữa lại ùa xuống. Nhưng trút được mấy tên lính xuống xe thì sự đùa nghịch đã bớt. Hơn chục tên lính còn ở trên xe lại dựng súng lăm lăm trong tay. Xan bỗng ngạcnhiên vì nhận ra một tên lính hình thù rất lạ trong số lính im lặng ấy. Hắn - không ! một thứ người ở một rừng núi nào bên Triều Tiên, Trung Quốc hay ở một xứ nào khác thì mới phải chứ người Nhật sao lại thế - hắn cũng lùn, nhưng đó là một lùn dày và bè ra của một thân thể to chắc. Cái mũi hắn đội chỉ vừa dính có chỏm đầu, mà đầu thì tóc xoăn tít mọc trùm cả gáy! Mặt hắn chỉ để nhận thấy có hai con mắt, hai con mắt quăm quắm dưới đám lông mày lấm tấm bạc, hai con mắt rất sáng, rất tợn nhưng không làm người ta sợ - còn thì chỉ thấy râu ria xồm xoàm.

Một con khỉ độc!

"Con khỉ độc" nay lại mặc cái quần thùng thình như cái váy, thắt lưng da trễ ra để hở cái rốn và lông bụng. Nó không lồng xuống đám đông để phá phách mà đứng ngây ra nhìn.

Trời tối gần hết. Chỉ còn một khoảng bằng cái hang nhỏ đỏ bầm ở góc phía tây. Dưới cái ánh sáng thoi thóp này, một ngọn múi tím đục cố ngoi lên giữa lớp sương nhờ nhờ như khói. Bao nhiêu ngọn cây và nóc nhà về phía tây cũng đều như có khói quấn quít. Và từ cái biến khói ấy, tiếng chim gọi nhau, tiếng lá xao động, tiếng gió vi vu thoang thoảng đưa lại hoá thành một thứ tiếng xào xạc heo hút vô cùng.

Cặp mắt nhìn quằm quặm của "con khỉ độc" bỗng chớp chớp. Gian hàng tạp hoã ngay chỗ ô tô đã bật đèn. Từ cái cửa sáng trưng đi ra, một người đàn bà gế một đứa nhỏ cuống quít chỉ trỏ:

- Kìa mợ đã về!... Em nín đi... chóng ngoan... Mợ về kìa.

Đứa bé càng giãy đạp. Nó đòi bế hẳn ra hè để được thấy hắn nếu thật mợ nó về. Người đàn bà bế nó phải chiều theo. Y càng ríu rít nựng nịu nó, vỗ về nó. Cảnh nhộn nhịp và những tiếng ồn ào dần dần quyến rũ đứa bé. Nó không những nín hẳn lại còn cười khanh khách và sà xuống nô với con chị nó đưa tay vẫy vẫy đùa cợt. Người đàn bà bế nó mấy lần phải nhào theo đà đứa bé mà y bế có vẻ nặng lắm.

Không phải vì trời rét nó quấn chăn bông và mặc nhiều áo nên nó làm người đàn bà khó bế. Da dẻ hồng hào, mắt sáng và xếch, môi tươi, cổ tay như bột nặn, đầu đội mũ len hồng bịt kín tai, kiểu mũ tàu bay, đứa bé tự nói rằng nó là một thằng cu khoẻ mạnh lắm. Người đàn bà mỗi khi nâng nó lên hay xốc lại nó thì cả người đều chuyển động. Hai bắp tay béo mẫn của y gân lên, ngực y rung rung nổi căng, mặt y đỏ bừng.

Xan chợt giật mình.

"Con khỉ độc" bỗng quẳng súng lên mặt hòm nước, nhảy bịch xuống đất, xổ đến người đàn bà, hai cánh tay lông lá đưa ra như sắp ôm lấy. Người đàn bà rú lên, quay ngoắt đi. Khủng khiếp vì cái hình thù quái đản ấy, đứa bé cũng choé lên một tiếng rồi nhắm mắt lại, gục mặt xuống vai người bế. Chết rồi. Khốn nạn!... Khốn nạn! Xan mím môi lại, quắc mắt lên, chờ một cảnh đùa nghịch dâm đãng sắp xẩy ra giữa người vú em béo trẻ và "con khỉ độc", mà kẻ sợ đến mất trí là một đứa trẻ ngây thơ đương cười nô hồn nhiên. Khốn nạn! Khốn nạn!... Sự khốn nạn đã đến cùng tột rồi! Đi bắn giết người, đi cướp đất nước, đi bóc lột của cải, vơ vét thóc gạo trong khi mùa màng mất và sự đói kém tàn hại hàng triệu sinh linh chưa đủ lại còn hãm hiếp đàn bà một cách công nhiên nữa. A! Đồng bào xem! hơn hai mươi triệu linh hồn máu mủ với Xan còn phải đợi những điều kiện nào mới vùng dậy, đập tan những thống khổ?

Nhưng không! không phải Xan loá mắt. "Con khỉ độc" đã đến sát người vú em rồi mà cánh tay lông lá của hắn giơ ra chực ôm lấy. Đã thế, thấy người vú em luống cuống chực chạy trốn vào nhà thì hắn lùi lại. Hắn khép bớt một cánh tay, và hắn vừa gật đầu vừa cười rất tươi bằng hai con mắt sáng nhấp nháy:

- Ê ê ê... tý ty ty... tý ty ty...

Lần này, vừa nói hắn vừa tiến sát lại người vú. Một tay hắn níu lấy cánh tay bế em của người vú, một tay hắn vẫy vẫy đứa bé mà hắn ghé hẳn mặt nó vào mặt hắn, vừa nháy nháy mắt, vừa gật đầu, khẩn khoản ra hiệu với đứa bé đừng sợ gì nữa, hãy theo hắn bế ẵm.

Trẻ con và người lớn đã dổ xô đến. Tất cả đều bấm nhau chỉ trỏ "con khỉ độc". Không để người vú trao đứa bé cho mình, "con khỉ độc" ôm giằng lấy nó mà ấp vào người. Hắn vỗ về nó, cười khà khà rồi xốc cao nó lên trên mặt mình nhăn nhó gật đầu, nháy mắt. Thế rồi, sau khi bàn chân bé xíu đi bít tất hồng nhảy nhảy trên cái mặt xồm xoàm nọ thì những tiếng cười nức nở rức lên "Con khỉ độc" lại rít miệng vào trán, vào má đứa bé. Cái tã bông cái kim băng bị tuột. Hai bắp đùi mập mạp của đứa bé lồ lộ tất cả lần da thịt mơn mởn, "Con khỉ độc" liền ngoạm lấy, nhay nhay, suốt từ háng xuống gót, lại từ gót lên háng, sau đó thì rúc vào cái dái quả ớt của đứa bé mà hít lấy hít để.

Như có một ánh sáng khác, một bầu trời khác mở ra trước mắt Xan. Một buổi chiều ở đảo Phù Tang xa nước Xan kia. Ngọn núi Phú Sĩ phơi lơ lửng vừng trán trắng xoá giữa những sương lung linh cuồn cuộn nở. Hoa hạnh đào phơi phới nhợp trời. Một người cha đi làm về ở một xưởng máy mịt mù than bụi hay ở, ở một cánh đồng đất nâu xới, mịn tơi như bột. Quần áo hãy còn nhớp nháp, tay vẫn còn đen thui, y đã ôm chầm lấy con bé trong tay vợ đứng đón ở trước cửa cái nhà gỗ nhỏ. Y cũng đã hôn hít, cũng đã trao tất cả tình thường yêu và lòng hy vọng đời mình váo da thịt của con, cái giọt máu của y sẻ ra... Ba năm, năm năm, mười năm rồi! Hay lâu hơn nữa cũng nên, cái buổi chiều ấy mới trở lại. Mà biết đâu, biết đâu nó lại sẽ không mất hẳn với một con người đã bị chiến tranh lôi đi không còn biết tới đâu không còn biết đến bao giờ, mà cả dân tộc của bọn đi xâm chiếm và dân tộc bị xâm chiếm, đều ê chề, tàn hại.

Xan lạnh tê cả người, Xan thôi không nhìn người lính nọ đưa mắt trông lên tốp lính đứng trên xe. Và hung bạo trên những con mắt một mí và những gương mặt lầm lầm kia không còn nữa. Đó là những bộ mặt phờ phạc, ngây độn dưới ánh chiều hấp hối đã gần lẫn hẳn với bóng tối. Quần áo mầu nước dưa đen xỉn lại vá víu, xốc xếch, nó cũng bẩn thỉu tồi tàn chỉ kém một tí những quần áo rách rưới của những người chung quanh. Sự thiếu thốn khổ sở đã kêu lên cả ở những con người này với những tiếng kêu bị bóp một cách chặt chẽ hơn, quyết liệt hơn, mà nếu kẻ kêu để bọn cầm đầu hay bên ngoài nghe thấy thì cái chết đến ngay lập tức.

Trong giây phút, Xan tưởng đến bao cảnh choáng lộng đã diễn ra làm bao kẻ phải nghẹn ngào khao khát. Những dãy ôtô bóng lộn, những cờ bay phấp phới, những vàng ngọc chói ngời, và những toà nhà sực nức hương hoa của những ngày đại hội, của những dạ tiệc. Tiếng hát, tiếng đàn, tiếng kèn... âm nhạc lúc tưng bừng, lúc lả lướt, lúc loạn xạ, mê tơi đã cất lên át những tiếng rên âm u của đói và chết. Cảnh hoan lạc đã được cực điểm tranghoàng để làm quên một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, quên rằng ngoài mặt trận kia khói và lửa đang ngút trời, từng lớp, từng lớp những người bỗng thành bia thịt, những máy bán chém người không tiếc tay, giày xéo lên xác chết để làm giầu cho một lũ lái súng, khát vàng và máu.

*

* *

Cách buổi chiều ấy không đầy hai tuần, Xan đương coi máy chạy thì nghe được một chuyện sau đây:

"Một đêm kia ở một ga nhỏ trong một hàng cao lâu đã đóng cửa, có một viên võ quan Nhật còn rất trẻ và người lính già vào gọi cà phê. Cả hai uống xong rồi vẫn ngồi thừ trên bàn, chẳng ai nói với ai một lời. Chợt người lính choàng dậy. Y móc ở trong túi áo ra một bức thư một tấm hình và một con búp bê nhỏ. Y đặt tất cả lên bàn, mếu máo nhìn rồi khóc nức nở. Xem bức thư ngắm tấm hình và mâm mê thứ đồ chơi của trẻ nọ, viên quan cũng nước mắt đầm đìa và cũng gục mặt xuống bàn mà mức nở. Đoàng... đoàng... hai tiếng súng vang lên. Mọi người đều kinh hoàng. Người lính rút súng lục của viên quan ra lúc nào không biết ghé vào thái dương mình bóp cò. Viên quan nhanh mắt giằng được súng. Người lính già liền tuột vội lưỡi lê, chạy vụt ra chỗ khác mà tự rạch nát cổ và xỉa be bét vào ngực mình. Lính đóng ở gần đấy đổ đến, thì sau một phát đạn suốt qua thái dương với khẩu súng của chính mình, viên quan trẻ tự bắn, chết gục xuống bên cái thây súng máu của người lính già tuỳ tùng".

Như có một mũi kim chói vào tâm trí Xan. Máy đương rầm rầm dưới tay Xan mà Xan cũng thần mặt ra nhìn. Cái hình thù đầy bè bè và cái bộ mặt râu ria xồm xoàm, mắt quăm quắm của trên lính mà Xan gặp buổi chiều hôm nọ đã tưởng quên đi, giờ lại hiện ra trước mắt Xan. Xan lại thấy hai cánh tay lông lá thú vật ấy giơ ra đón đứa bé bụ bẫm, và cả cái mũi, cái miệng râu ria che kín của hắn cứ rít vào tay, vào trán, vào má, vào đùi, nhất là vào háng, vào dái đứa bé. Xan lại tưởng đến một buổi chiểu xa xôi gần mờ mịt kia mà "con khỉ độc" ấy, một người cha cũng như Xan, đã ôm ấp hôn hít lần cuối cùng rồi dứt ruột ra đi.

Nước mắt Xan không vỡ ra nhưng một cảm giác đau xé ran lên khắp trí tưởng Xan. Xan thở hổn hển và vội nhăn mặt lại vì một câu hỏi:

- Người lính Nhật già kia có phải là "con khỉ độc" không? Hay cả "con khỉ độc" ấy cũng chết rồi, chết vì buổi nhớ, chán nản và đau khổ rổi?

1945

Hắn

Hắn ngước mắt nhìn căn nhà xiêu vẹo mà lắc đầu ngao ngán ,  thầm ước ao có tiền để xây căn nhà mới .. nhưng rồi cũng chỉ là mơ ước mà thôi . Tuy vậy trong căn nhà ọp ẹp đó ,Hắn cùng mẹ và cô em gái vẫn có những tháng ngày hạnh phúc bên nhau , tuy những bữa cơm có đạm bạc , nhưng vẫn ấm áp qua những ánh mắt và rộn rã  nụ cười .

Hai công đất hoa màu và cái nghề làm thuê của hắn cũng đủ nuôi ba miệng ăn không đến nỗi nào thiếu thốn ,ở nhà có cô em gái chăm sóc mấy công hoa màu , nuôi được bầy gà mới nở .

Buổi sáng khi hắn khóac vội cái áo lính cũ mèm đi làm , thì cô em gái cũng bưng thúng khoai ra chợ .. Mẹ hắn chưa đầy 70 nhưng cuộc sống khắc khổ vì lo toan nên già xọm như ngoài 80 ,  còn khỏe mạnh,  hằng ngày Bà ở nhà làm mấy việc linh tinh .. Xem ra thì nhà hắn cũng tạm ổn qua ngày  , hắn lại là đứa con trai có hiếu với Mẹ , không như những đứa trạc tuổi hắn , thôi thì đủ chuyện cafe ,thuốc lá rượu chè ...Hắn siêng năng cần mẫn  hiền lành như cục bột nên mọi người trong cái xóm vắng này cả thảy ai cũng thương .

Giá như không có một ngày  , một cái ngày định mệnh đã thay đổi cuộc đời hắn  .

Sau lần choáng ngợp vì cái sự giàu sang của anh bạn nhà quê xưa , sau vài năm bỏ quê lên phố tìm tương lai , giờ trở về  như một sự đổi đời thật sự .

Với bộ quần áo đắt tiền , xe gắn máy tay ga đời mới  và nhất là khuôn mặt rạng rỡ của một người hạnh phúc , tất cả thứ đó đã làm thay đổi hoàn toàn tư duy của hắn .

Và hắn  quyết định rời bỏ cái làng quê nghèo nàn này để lên thành phố tìm tương lai , với ước mơ vĩ đại là có thật nhiều tiền để lo cho Mẹ và em gái có cuộc sống tốt hơn  nhất là  nhất định sẽ xây lại ngôi nhà thật khang trang cho Mẹ .

Và hắn đã làm thật ... cuộc sống ở thành phố đã lôi cuốn hắn quay cuồng vào nhịp độ hối hả .. Rồi thời gian cứ thế trôi qua , hắn chẳng còn thì giờ để về thăm cái làng quê  có bà Mẹ già và cô em gái mõi mắt chờ trông , quả thật  hắn chẳng có thời gian nào nữa , bây giờ thì hắn có  tiền , một cô vợ  , đứa con gái kháu khỉnh  và nhất là hắn chẳng quên cái ước mơ xây một ngôi nhà thật khang trang cho Mẹ và em gái .

Có nhiều lần em gái hắn nhắn tin cho hắn với nhiều lý do: về  làm giỗ cho ba ,  Mẹ bệnh  ... nhưng lần nào hắn cũng khất đi : “ Nhất định là anh sẽ về xây lại ngôi nhà mình thật đẹp , sẽ lo cho Mẹ và em ,  em cầm ít tiền này lo cho Mẹ hộ anh nhé , khi nào anh có  đủ tiền xây nhà anh sẽ về ...“

Chiều hôm nay  vẫn như mọi buổi chiều .. sau trận nhậu bí tỉ với các chiến hữu với lý do là mới nhận được tiền thưởng cuối năm .. Hắn là đà dắt chiếc gắn máy vừa mua lại ở salon xe cũ , vào nhà  cái hình ảnh đầu tiên là một lá thư nằm giữa bàn kê ngay ngưỡng cửa ra vào , chiều nay vợ con hắn cũng đi liên hoan với bạn bè chưa về .. Hắn làu bàu thầm nghĩ “ lại thư từ của ai đây ??”  Hắn chưa vội xem , tắm rửa cái đã cho thoải mái sau một ngày làm việc mệt nhọc nhất là sau trận bia bọt với chiến hữu  . Những giọt nước mát đã làm cho hắn cảm thấy thật thoải mái và tan biến phần nào cái men bia đang ngư trị trong bụng hắn , khoan thai bước ra phòng khách , hắn chợt nhớ đến lá thư  trên bàn ,chậm rãi hắn cầm  lên xem ..

Mấy chữ  “Gởi Anh Hai  Người gởi : Bé ba “  đập vào mắt hắn  , hắn hơi  lo lắng ,

Vội xé phong thư  ra ... vỏn vẹn có mấy chữ  : “Anh hai về gấp . Mẹ bệnh rất nặng  , em sợ lắm ..”

Hắn ngồi phịch xuống  ghế , đầu  óc hơi chao đảo ....

Trời vừa tờ mờ sáng , hắn đã thức từ lúc nào , nhìn vợ con đang say giấc , hắn chép miệng lắc đầu , chuyện lá thư hắn vẫn không cho vợ biết  vì Hắn  vẫn dấu  Mẹ và em gái chuyện  vợ con  của Hắn .

Thu xếp  vài bộ quần áo nhét vội vào cái balô cũ ngày nào .. Hắn nhẹ nhàng lách qua cửa ra ngoài ....

Ngày cuối năm  đường phố chợt như đông và vui hơn khiến trong lòng Hắn cũng thấy bớt lo lắng một chút .. mãi đến gần xế chiều chiếc xe đò mới từ từ bò vào bến xe thị xã .. Vội vã ,Hắn bước như chạy về Làng , những khung cảnh xa xưa liên tiếp đập vào mắt Hắn ... rồi bao nhiêu ký ức  từ đâu trôi về ồ ạt theo những bước chân .... Trước cửa nhà Hắn sao đông người quá .. linh tính báo cho Hắn là có chuyện không lành ... Hắn bứơc vội vào nhà .. Hắn há hốc mồm .. đôi mắt như mất hồn.. hai chân Hắn như muốn sụm xuống ..

Trên chíếc divang  nhỏ kê ở giữa nhà ,  Mẹ hắn - người ta đã phủ lên thân thể bằng tấm vải màu trắng tóat , có một nải chuối xanh dằn trên bụng  , trên đầu  là bát cơm trắng và mấy nén nhang  đang tỏa khói ...

Hắn  đã hiểu :   .. gục đầu  bên thi thể Mẹ  , sau một ngày đường ngồi trên xe mệt mỏi cộng với nỗi đau quá bất ngờ..hắn  thiếp  đi ....

Trong cơn mơ , hắn thấy Mẹ hắn đang tươi cười đứng trước một ngôi nhà thật khang trang mà hắn vừa xây xong cho Mẹ .

Gã cùi và miếng dừa non

(Trích tập truyện “GÃ CÙI VÀ MIẾNG DỪA NON”)

Cô gái nghiêng người nhìn ra ngoài thành xe, đảo một vòng mắt bao quát cả khu chợ Bà Chiểu. Cô cố tìm trong cái quang cảnh ồn ào trước mặt một chút tươi mát để quên đi hình ảnh lở loét trên thân thể một gã cùi đang đứng sau đuôi xe, gần cô, ngay nơi bục lên xuống. Khí trời buổi trưa oi nồng nóng bức làm cho cô càng thêm khó chịu vì cái mùi tanh tưởi bốc lên từ gã. Cô những muốn bước xuống bỏ đi, nhưng lại tiếc công chờ đợi đã gần một giờ qua. Lại nữa, lộ trình Bà Chiểu-Thủ Đức không có nhiều xe; tìm được một chỗ, lại là chỗ ngoài bìa, cũng không phải dễ. Thông thường, một chiếc xe lam chỉ chở được tối đa tám vị khách trên hai băng ghế dài kê bên trong lòng xe. Vậy mà luôn luôn người ta cố nhét cho đầy mười người, chưa kể hai vị ngồi hai bên bác tài ở phía đàng trước. Cô gái bực bội nghĩ thầm:  “Tham lam cho lắm thì cũng chỉ là một anh tài xế!”

Chiếc áo bà ba màu hoa cà của cô đã bắt đầu thấm mồ hôi ngay trên khoảng lưng có hằn rõ hai sợi giây của cái nịt ngực. Cô đếm thầm số người trên xe. Ba, luôn cả cô là bốn. Phải đợi có thêm tám người khách nữa thì mới mong thoát được cái nợ với gã cùi này.

Tự nãy giờ trong bụng cô đã thấy vô cùng khó chịu. Cô tự nhủ: “Hôm nay đi nhằm ngày kiêng hay sao mà xui quá!” Cô đã cố tình quay đầu sang hướng khác, nhưng cái mùi tanh tưởi của gã như vẫn cứ bao trùm lên cô. Mà quái lạ, sao gã chỉ có ý kèo nài cô mà không phải là với người khác, cô thầm nghĩ. Cô những muốn móc túi thí cho gã vài xu lẻ để rảnh nợ cho rồi; nhưng đã lỡ chối từ từ ban nãy, cô đành chịu im luôn.

Da mặt cô trắng nuốt, mái tóc dài được cột lên ngang gáy. Cô sốt ruột nghĩ đến cái hẹn chiều nay với người yêu. Ban sáng cô đã muốn không đi đòi giùm cho mẹ cô món nợ tận trên Thủ Đức, nhưng thấy vẻ van nài của mẹ, cô lại nhận lời. Bây giờ cô lo ngay ngáy sẽ không về kịp với buổi hẹn. Cô đâm giận cái nhà bà Trung tá đã giật của mẹ cô chiếc nhẫn hột xoàn năm ly để khổ công mẹ con cô cứ đi tới đi lui đòi mãi. Cô định tâm lần này sẽ mắng thẳng vào mặt bà ta mà không cẩn nể nang người lớn kẻ nhỏ gì nữa…

Thế rồi cô nghĩ tới chàng . Đôi mắt cô sáng lên. Chàng là anh của đứa bạn cô, lớn hơn cô 12 tuổi. Ngày xưa khi còn đi học, thỉnh thoảng cô vẫn gặp chàng đến đón em gái mỗi lần về phép. Lúc ấy chàng nhìn cô như với một cô bé xấu xí, nhưng còn cô thì lại mê ngay dáng dấp cao lớn trong bộ đồ phi công màu cam có cái đai súng giắt đầy đạn mà chàng đeo kè kè ngang hông một cách ngang tàng…

Bây giờ chàng đã đổi thay nhiều lắm. Năm năm trong trại cải tạo đã làm cho chàng mất đi hết cái vẻ oai hùng ngày cũ. Nhưng còn giọng nói chàng thì lại ấm áp hơn trước rất nhiều. Tình cảm câm nín thuở thiếu thời trong cô lúc này mới có cơ bộc lộ.

Cô biết mình không ưa Cách mạng bởi vì từ Cách mạng mà đã năm năm qua cha cô bị bắt đi học tập cải tạo. Nhưng cô phải cảm ơn Cách mạng. Cách mạng đã khiến cho chàng thất thế sa cơ để rồi từ đó cái nhìn chàng dịu đi mà nhận ra cô không còn là cô bé tầm thường như thuở ngày xưa.

Bây giờ cô đã lớn, và đẹp. Cô tự biết mình đẹp. Có biết bao nhiêu người đeo đuổi cô. Từ những anh công nhân làm chung hãng dệt cho đến người cán bộ trưởng phòng, rồi luôn cả tên công an khu vực vẫn thường tán tỉnh cợt đùa mỗi lần cô có dịp đến phường xin những giấy tờ, chứng nhận. Ánh mắt cô long lanh vui thú khi nghĩ tới nét mặt nhăn nhó của tên công an một hôm nào cô và chàng đến xin lập hôn thú ở chính ngay văn phòng của hắn ta.

Đột nhiên nghe như có ai khều nhẹ sau đuôi áo, cô rùng mình vặn người khi nhớ ra gã cùi vẫn đứng sau lưng. Cô quay lại nhìn thẳng vào bộ mặt lở loét của gã. Lòng kinh tởm dấy lên, cô bật giọng la:

“Ông này làm gì vậy? Xin xỏ nãy giờ không được, bộ tính truyền vi trùng cùi sang người tôi hay sao?”

Gã cùi há cái miệng méo mó để lộ ra nụ cười ma quái bên dưới chiếc mũi chỉ còn trơ lớp thịt phẳng lì với hai lỗ đen ngòm ghê rợn. Đôi mắt gã trũng sâu, một bên mí trên xếch ngược lên làm phô bày trọn vẹn lòng trắng đục ngầu. Gã nói:

“Thôi mà cô! Tôi tàng tật cùi hủi mới phải đi ăn xin.”

Cô gái không giấu vẻ tức giận:

“Ông xin gì mặc ông, còn cho hay không là quyền của tôi, sao cứ đứng ám tôi cả buổi vậy?”

Trời giấc trưa nắng chang chang. Khu chợ dịu dần đi sinh hoat buôn bán. Các người đàn bà ngồi trước các thúng hàng, thẫn thờ uể oải. Trên bến, những chiếc xe lam nổ máy dòn tan trước khi đâm thẳng hướng Chi Lăng đổ dài theo lộ trình Bà Chiểu – Nguyễn Tri Phương. Từ phía rạp hát Cao Đồng Hưng vang lên một điệu vọng cổ như nhắc nhở khách mộ điệu Cải Lương rằng xuất hát trưa chủ nhật sắp tới giờ trình diễn. Cái nắng cháy da của trời tháng Tư vẫn gay gắt chang chang.

Gã cùi lê chiếc nạng gỗ định quay lưng bỏ đi, nhưng chỉ mới một bước gã đã dừng lại. Trông gã vẫn còn trẻ, độ ba mươi lăm dù rằng sự tàng tật đã biến dạng gã thành một người trọng tuổi hơn trong ánh nhìn thứ nhất. Gã quay về phía cô gái, há miệng định nói câu gì đó, nhưng rồi lại thôi. Gã nghĩ tới thân phận cùi hủi của mình, trí óc đảo nhanh đến những ê chề đã trải qua từ khi khám phá ra mình bị vướng vào chứng nan y ghê rợn ấy. Trong cả họ, không nghe nói có ai mắc bệnh cùi, vậy mà sao đến đời gã, cái nạn này chỉ phủ riêng lên gã? Gã cũng nhớ, khi ấy, 27 tuổi, gã đang là một người lính Nhảy Dù vào sinh ra tử. Một bữa sau trận đánh dữ dội ở Gio Linh, gã thấy mình tỉnh dậy trên giường bệnh viện với một cái chân bi cưa lên tới tận đùi trên. Dẫu vậy, nỗi thất vọng của gã theo điều ấy đã không mạnh cho bằng khi nghe giọng nói chắc nịch của viên y sĩ điều trị tuyên bố rằng đã thấy xuất hiện vi trùng cùi trong máu gã. Sau đó, gã được giải ngũ dễ dàng.

Âm thầm xin vào cư trú trong trại cùi Cái Sắn tức là gã đã quyết tâm trốn tránh tất cả các người thân và một cuộc đời ngang tàng xưa cũ. Ngày qua tháng lại, gã quen dần với nỗi đau khổ tật nguyền để không còn muốn nghĩ ngợi gì hơn.

Thế rồi trại cùi Cái Sắn cũng được “giải phóng” theo gót chân đoàn người chiến thắng. Những bệnh nhân như gã khởi sự lang thang đầu đường xó chợ từ đây. Gã nhập bọn với vài ba gia đình cùi sống lê lết ở khu Ngô Tùng Châu, Võ Tánh. Mỗi sáng, gã được một anh phu xích lô cho quá giang qua chợ Bà Chiểu ăn xin. Gã cũng tự biết thân phận đáng ghê tởm của mình lên luôn luôn chỉ dám ghé ngồi lên cái bục gác chân, dùng hai bàn tay đã rụng đi tám ngón bám lấy càng xe cho khỏi chòng chành dao động. Ngày ngày chung đụng với đủ các giới hành khất ở khu chợ Bà Chiểu, gã cũng nghe chán ngán lắm rồi. Khí chất ngang tàng của một người lính Nhảy Dù thỉnh thoảng vẫn nổi lên làm cho gã khó chịu khi nhìn ra từ giới ăn xin biết bao ngón nghề lừa đảo. Gã muốn thoát ra ngoài cái xã hội ấy, nhưng phải làm sao? Bộ mặt và cái thân thể lở loét đã là một sự kiện rõ ràng đồng hóa gã với đám người mà gã âm thầm chê ghét. Họa chăng chỉ có phép lạ của Thượng Đế mới cứu rỗi được đời gã, gã tự nhủ mình như thế nhiều khi.

Một người đàn bà mập mạp bước lên xe, ghé ngồi xuống cạnh cô gái. Tấm thân đồ sộ của bà đẩy cô nhích sát vào thanh sắt chắn ngang băng ghế ngoài cùng. Khoảng cách giữa cô và gã cùi tưởng như gần hơn chút nữa. Cô sợ hãi nhìn những con ruồi xanh bám chặt vào vết lở trên hai bàn tay gã; màu vàng của mủ pha trộn với màu đỏ của máu làm nên một cái màu nhờn nhợt hường hường.

Cô gái nghe nôn nao trong bụng. Cô chợt nhớ rằng từ sáng đến giờ chưa ăn gì cả. Không kềm được sự kinh tởm, cô nghiêng người chồm đầu ra ngoài thành xe, nhổ xuống đất một bãi nước bọt.

Trên chiếc xe lam, khách đã bắt đầu đầy kín. Không khí oi bức hơn khi trời đứng nắng giữa trưa.

Gã cùi nhìn bãi nước bọt cô gái vừa nhổ, rồi nhìn lên làn da trắng nõn của cái cườm tay đang gác ơ thờ trên thanh sắt. Gã hình dung đến một miếng dừa non nạo ra từ một quả dừa xiêm ngọt lịm được trồng đầy trong làng gã ở vùng Chợ Lách, Bến Tre.

Đã lâu gã không về thăm lại quê xưa. Đã lâu gã gần như quên mất khuôn mặt mẹ gã. Mười lăm năm rồi còn gì! Tám năm bỏ nhà đi lính và bảy năm vướng mắc bệnh cùi. Hẳn mẹ gã nay đã già và chắc bà tin rằng nơi xa xôi, xác gã đã vữa ra thành đất?

Lòng gã thắt lại. Cổ họng khô ráo. Đột nhiên gã thấy như bị vây khốn trong một nỗi thèm thuồng cao độ. Gã nhớ lại ngày nhỏ mỗi lần thấy mẹ hái một quả dừa trên cây xuống, gã đã đứng chực cạnh bên mà nhìn không sót từng cử động của bà. Lớp vỏ xanh bên ngoài được hớt đi gần hết, rồi lướt lưỡi dao phay bén lên chỏm dừa một cách ngọt xớt, bà nghiêng cái tô để hứng cho kỳ hết chất nước ngọt bên trong. Xong –đây mới là phần thích thú nhất của gã — quả dừa được bổ làm hai và bao giờ cũng vậy, gã được mẹ dành cho một nửa.

Đôi mắt gã cùi như bị quáng lên vì ánh nắng; những con ruồi xanh bay vo ve chung quanh các vết lở trên người. Gã nhìn chằm chằm vào lớp da trắng mịn trên cườm tay cô gái. Hình ảnh miếng cơm dừa ngày nhỏ nhởn nhơ trong trí nhớ mông lung.

Gã bước đến gần cô gái, gần sát hơn và bất thần chụp lấy cánh tay cô mà cắn chặt lên làn da trắng nuốt. Một luồng khoái cảm chạy từ trên môi xuống đến tận gót làm cho gã rợn người ngây dại. Gã không còn biết gì khác nữa, không nghe tiếng la thất thanh của cô gái, không nghe tiếng gào to của đám đông chung quanh, cũng không luôn cả tiếng lên cò súng lách cách của tên công an đang trờ tới…

Chẳng một ai dám nhảy vào kéo gã cùi xa lìa cô gái. Những vết lở đầy máu trên người gã làm cho đám đông sợ hãi. Người nầy thúc giục người kia rồi sau cùng ai cũng chỉ đứng yên.

Đôi hàm răng gã cùi vẫn nghiến chặt cái cườm tay trắng nõn. Một giòng máu đỏ rỉ ra, rớt xuống chiếc túi vải màu lam cô gái đang để trên đùi. Mùi máu làm cho gã cùi hăng tiết. Mùi thơm của miếng dừa ngày thơ tan dần trong trí nhớ để thế vào cái mùi tanh tưởi của những lá gan mà gã và đồng đội vẫn thường mổ bụng kẻ địch lôi ra nhai ngấu nghiến sau những trận ác đấu kinh hồn. Chiến trường Gio Linh khét mùi khói súng hiển hiện chập chờn trong óc gã. Gã tự nghĩ, phen này quân ta thắng lớn, thế nào mình cũng được đeo chiếc cánh gà chiên bơ!

Đột nhiên một tiếng nổ lớn như xé không gian vang lên chát chúa. Gã thấy mình lảo đảo; cái miệng há ra làm rơi tuột miếng gan. Một nỗi kinh hồn đau buốt giống như mũi khoan xuyên từ mắt trái ra tới màng tang gã. Gã nẩy người, nho nhỏ kêu lên:

“Tao bị rồi tụi bây ơi!”

Và gã từ từ quỵ xuống.

San Jose, Cali, Dec. 6/1989.

Gã từ tù đáng yêu

Đoàng !

Tiếng nổ đanh, gọn xé màn đêm, phát ra từ khẩu súng săn của lão Đàn, va vào vách núi, dội lại thứ âm thanh tử thần, nghe thật đáng sợ. Chắc mẩm đã hạ được một con mồi lớn, lão Đàn vội lao nhanh về phía bờ suối. Đến nơi, lão vô cùng hoảng hốt, đổ sụp xuống bên người bạn săn đang rẫy rụa trong vũng máu. Trấn tĩnh lại, lão vội cởi phăng cái áo đang mặc xé toang, tìm mọi cách cầm máu cho bạn. Nhưng tất cả những cố gắng của lão đều vô vọng ...

Mặc dù được vợ con của người bạn săn bãi nại, lão Đàn vẫn phải nhận án tù vì tội bất cẩn, giết người không cố ý. Cái chết oan nghiệt, tức tưởi của người bạn săn đã biến lão Đàn thành người khác hẳn. Từ một lão Đàn sởi lởi, cười nói oang oang, xông xáo, xốc vác, hay nói chuyện tiếu lâm, nay lầm lỳ như người câm. Mãn hạn tù, lão mang theo cả căn bệnh mất ngủ về nhà. Vậy mà mỗi khi chợp được mắt, lão lại thình lình choàng tỉnh, hét toáng lên, khiến vợ lão hết hồn, vừa lay gọi vừa hỏi lão, " mình mê thấy cái gì sợ lắm à ?". Nhưng lần nào vợ lão cũng chỉ nhận được câu trả lời cụt lủn : Máu !

Đã gần ở tuổi "tri thiên mệnh", nhưng lão Đàn chưa bao giờ tin vào tướng số. Vốn là anh trai cày làng Cát vùng thượng du, nhưng Đàn lại mê nghề săn bắn. Cha mẹ mất sớm, Đàn được người chú họ xa nuôi từ nhỏ. Nhà ông chú họ này giàu lắm, có đến cả chục mẫu ruộng, nên Đàn trở thành lao động chính. Đàn cao to, khỏe mạnh, lại chăm chỉ, tháo vát, nên rất được lòng ông chú họ. Sau những buổi cày mệt đến bã người, Đàn vẫn say xưa ngồi xem ông chú họ lau chùi mấy khẩu súng săn. Khẩu thì to dài, có đến hai nòng đen sì. Khẩu thì chỉ có một nòng nhỏ và cái nốt ruồi bé xíu. Khẩu thì có cái báng gỗ màu cánh dán bóng lộn, nổi rõ những đường vân... Chú họ của Đàn là tay săn thiện sạ số một của làng Cát. Ông ta đã xách súng vào rừng, thì chẳng mấy khi chịu về không. Khi ruộng đất phải đưa hết vào hợp tác xã, công việc chẳng còn là bao, Đàn được ông chú cho đi săn cùng và nhanh chóng trở thành một thợ săn có hạng...

Đàn nhập ngũ lúc tuổi tròn hai mươi, khi cuộc nội chiến bắt đầu bước vào những năm tháng quyết liệt nhất. Trở thành lính Trường Sơn, với vốn chữ nghĩa chưa hết lớp sáu, nhưng nhờ tài thiện sạ, Đàn được biên chế về tổ săn bắn, chuyên việc cải thiện đời sống, thuộc tiểu đội nuôi quân của một đơn vị cầu đường, rồi lại chuyển về đơn vị hậu cần. Cứ thế, hơn mười năm đằng đẵng, hết ở Trường Sơn lại sang chiến trường K, Đàn vẫn chỉ có một nhiệm vụ là săn bắn.

Đàn xuất ngũ về làng, mang theo cả khẩu súng săn do đơn vị tặng làm kỷ niệm. Ông chú họ đã già không còn đi săn được nữa. Mấy khẩu súng ngày xưa tuy đã cũ, nhưng vẫn được ông chú họ thường xuyên tra dầu mỡ, lau chùi bóng loáng. Đàn trở thành chủ nhân của cả những cây súng này. Đàn lấy vợ. Đó là Mai, cô giáo cấp một, người dưới xuôi lên dạy học ở đây. Mai vừa qua tuổi ba mươi, cái tuổi được xem là đã toan về già rồi, nhưng bù lại, Mai khỏe mạnh, lại đẹp người, đẹp nết. Sau chiến tranh, trai làng Cát lần lượt trở về. Ngoài tuổi xuân, nhiều người còn bỏ lại nơi trận mạc một phần cơ thể. Rất nhiều người muốn đến với Mai, nhưng Mai chỉ chọn Đàn. Có lẽ đó cũng là duyên phận. Đàn và Mai sống với nhau rất hòa thuận trong căn nhà nhỏ đầu làng Cát, do ông chú họ làm cho. Thời gian cứ trôi đi, mà chờ mãi, chờ mãi, ông trời vẫn chưa cho họ có được mụn con. Vợ, chồng đã cứng tuổi, trong nhà không có tiếng trẻ nhỏ cứ thấy trống hoang, lạnh ngắt. Năm năm, rồi mười năm, tốn biết bao nhiêu là tiền thầy, tiền thuốc, Đông Y, Tây Y đủ cả, nhưng chẳng ăn thua gì. Hai người đều buồn nản buông xuôi, nhưng họ lại càng yêu thương nhau hơn. Nếu niềm vui của Mai là những học trò nhỏ, cùng hai buổi lên lớp, thì Đàn lại mê mẩn với những khẩu súng săn. Nhưng những chuyến săn của Đàn cũng thưa dần, vì nhiều khu rừng đã bị người ta phá trụi. Muông thú cũng chỉ còn có ở những khu rừng sâu, muốn săn phải đi xa cả nửa ngày đường. Chúng ngày càng khôn, phát hiện được dấu chân chúng, cũng phải vất vả rình rập nhiều đêm liền, mà nhiều khi vẫn thất bại. Người bạn săn xấu số kia kém Đàn cả chục tuổi, cũng rất mê đi săn. Chưa phải thiện sạ lắm, nhưng tài phát hiện và phán đoán hướng con mồi của anh ta, thì Đàn cũng phải nể. Thấy rồi là anh ta quên hết mọi chuyện, cứ bám theo con mồi như bị thôi miên ... Cái đêm bất hạnh ấy, không ngờ anh ta lại xuất hiện ngay tại nơi con mồi sẽ đến uống nước, do chính anh ta chỉ chỗ để Đàn mai phục...

Chứng mất ngủ hành hạ lão Đàn đến khốn khổ. Bao nhiêu là thuốc, nặng nhẹ đủ cả vẫn không trị nổi. Đêm nay cũng vậy, mãi gần ba giờ sáng lão mới thiếp đi. Nhưng chưa dập cái bã dầu, lão đã ú ớ bật dậy, mồ hôi vã ra. Vợ lão vội lấy khăn lau mặt cho lão, rồi hỏi "lại thấy máu à ?". Lão ngước cặp mắt còn thất sắc nhìn vợ gật đầu : Ừ, máu !

Sau chiến tranh, những người lính còn sống sót trở về đều mang theo chiến công. Vào những ngày lễ, ngày tết, trên ngực họ đỏ rực những tấm huân chương. Đã chiến tranh thì phải chém, giết. Mỗi chiến công của người lính đều nhuộm đỏ máu. Hồi mới lấy nhau, trong khi sửa soạn gắn những tấm huân chương vào bộ quân phục lưu niệm, để chồng đi dự mít tinh, Mai hỏi Đàn " Mình cũng được nhiều huân chương, chẳng thua gì mấy bác trong làng". Đàn trả lời vợ với giọng đầy tự hào :

- Đúng vậy ! Nhưng tớ không giết ai cả.

Thấy vợ ngớ ra, Đàn giải thích thêm :

- Mình biết không, tổ săn của bọn tớ phải lo thực phẩm tươi sống cho cả trăm con người. Công việc nguy hiểm cũng chẳng kém gì bọn đi đánh nhau. Cũng có đứa hy sinh, hay mất chân, mất cẳng vì đụng phải mìn. Có đứa bị thú dữ tấn công, rồi mất tích luôn. Có đứa nằm mai phục chờ thú, bị rắn độc cắn chết cứng, mấy ngày sau mới tìm thấy xác ... Lính đánh nhau theo mùa chiến dịch còn có thời gian nghỉ, chứ bọn tớ phải vào rừng sâu cả bốn mùa. Mùa khô còn đỡ, chứ mùa mưa thì khốn nạn lắm, khổ như chó, vắt nhiều như vãi trấu, bò rào rào ...

Rồi Đàn kể cho Mai nghe, Đàn được lần lượt lên chức tổ phó, tổ trưởng, tiểu đội phó, rồi tiểu đội trưởng như thế nào. Tất cả, đều gắn với những thành tích ghê người của một tay thiện sạ. Họng súng bách phát, bách trúng của Đàn đã trở thành nỗi kinh hoàng của những đàn khỉ, đàn vọoc, những đàn nai, hươu. Những loài thú dữ tợn như hổ, như gấu, kể cả voi nữa cũng chịu chung số phận như thế. Đơn vị của Đàn đóng ở đâu, là các loài thú ở đó đều phải bạt xa. Đàn còn kể, có những con vọoc, con khỉ bị bắn khi đang còn cho con bú, hoặc về mổ ra mới biết đang mang thai. Đàn được suy tôn là chiến sỹ thi đua nhiều năm liền, cũng bởi số lượng thú rừng bị tiểu đội của anh ta bắn hạ. Thì ra là như vậy. Mai nghe mà rùng mình, hỏi lại :

- Sao các anh ác thế ?

- Thì hồi đó nó vậy. Nó đểu thế, biết làm sao được.

Từ rất lâu nay, thấy vợ chồng Mai đều khỏe mạnh mà không có con, người làng Cát đều bảo là do quả báo, vì Đàn là kẻ sát sinh. Đàn chỉ trầm ngâm, không nói gì. Còn Mai, càng ngày càng tin là có sự trừng phạt của ông giời. Mai rất thương chồng, vì tuy ít học, nhưng bản thân Đàn vốn là người hiền lành, chất phác, tốt bụng. Khi Đàn vô ý gây án mạng, tuy không nói ra, nhưng Mai cũng cho là do quả báo. Nhất là sau khi nghe Đàn kể lại cái giấc mơ tái đi, tái lại, khiến Đàn khiếp đảm, la hét , thì Mai càng tin hơn. Đàn kể, đại ý rằng, giữa rừng Trường Sơn trời nắng gắt, Đàn vác súng đi săn. Đàn đi hết rừng này đến rừng khác, mà không gặp được một con thú nào. Cổ họng Đàn cháy khô vì khát. Đi mãi, đi mãi mới thấy một con suối xanh trong chảy trước mặt, Đàn mừng quá chạy đến, lấy tay bụm nước uống, nhưng thấy tanh ngòm, mặn chát, nhìn xuống thì thật vô cùng kinh hãi, đó là cả một dòng suối máu...

*

*  *

Bệnh mất ngủ của lão Đàn ngày càng trầm trọng. Người lão gầy đét, hai mắt trũng sâu. Thầy thuốc bảo, phải chuyển đi ở nơi khác, may ra mới chữa khỏi. Thế là, chẳng phải bàn cãi gì nhiều, vợ chồng lão Đàn liền bán nhà chuyển về bên ngoại dưới xuôi.

Làng Thắm quê Mai chuyên nghề dệt lụa, chỉ cách Hà Nội có mấy chục cây số. Được bà con phía ngoại giúp đỡ, cuộc sống của vợ chồng lão Đàn đã nhanh chóng ổn định. Vợ lão xin nghỉ hưu non, sắm thêm mấy khung dệt nữa, tùng tiệm cũng đủ sống. Sức khỏe lão Đàn đã có dấu hiệu hồi phục. Chứng mất ngủ đã bớt. Những cơn mê sảng, kinh hãi cũng thưa dần. Từ ngày ở tù, lão Đàn đã cố quên đi những khẩu súng săn, niềm đam mê đã theo lão suốt thời trai trẻ, từng mang lại cho đời binh nghiệp của lão những vinh quang. Vả lại, mấy thứ đồ chơi hủy hoại sự sống rất đáng sợ ấy, đã bị tịch thu hết rồi, có nhớ, có tiếc, cũng chả để làm gì. Nhưng, có một thứ mà vợ chồng lão Đàn có muốn quên đi, dùng sự yêu thương nhau, hay lấy công việc để khỏa lấp đi, cũng không được. Đó là sự khao khát được nghe tiếng gọi bố, gọi mẹ. Từ khi về làng Thắm, vào những ngày mồng một, ngày rằm, vợ chồng lão Đàn vẫn cùng nhau đi lễ chùa. Thấy vậy, người làng Thắm xì xào " Vợ chồng nhà Đàn già khú đế, còn đẻ đái thế đ... nào được nữa mà cũng bày đặt ...". Họ đã lầm. Vợ chồng Đàn khấu đầu cửa phật chỉ cốt xin cho lòng dạ được thanh thản. Nhất là với lão Đàn, giờ đã ngót lục tuần rồi, mới thấy thấm thía lời răn của các cụ xưa, " ăn được của rừng, rưng rưng nước mắt". Nhớ hồi mới giải ngũ về, Đàn cứ vô tư, bô bô khoe khoang chiến tích bắn hạ thú rừng với ông chú họ. Nghe xong, tưởng ông chú sẽ tròn mắt thán phục, nhưng mặt ông chú họ của Đàn lại tái nhợt đi và bảo rằng, " Bọn tao đi săn, chỉ là thú chơi. Cả năm mới bắn hạ vài ba con, gọi là có chút hương vị rừng. Chúng mày bắn như vậy khác gì là tận diệt chúng ...". Lúc ấy, Đàn chẳng để ý gì. Còn bây giờ thì lão đã hiểu ra rồi ...

Bà Mai giẫy nảy, khi nghe chồng bàn việc lên trại giam xin một đứa con nuôi sắp mãn hạn tù, trai gái gì cũng được. Bình tĩnh ngồi nghe vợ dùng lý lẽ phản đối quyết liệt xong, lão Đàn mới ôn tồn phân giải :

- Tôi với bà tuổi này rồi, làm sao chăm nổi đứa ẵm ngửa, thời buổi trò chơi điện tử tùm lum như thế, làm sao để mắt được đến đứa choai choai. Còn mấy năm cuối đời, tôi muốn tạ lỗi với giời đất, xin tu tâm, cố gieo lấy được một quả phúc, chả lẽ bà lại không bằng lòng ? Đâu phải cứ ở tù là xấu cả. Tôi ở rồi tôi biết, có nhiều cảnh đời, oan khiên, ngang trái lắm.

Thế rồi vào một buổi trưa, trời nắng chang, sau mấy ngày đến tận trại giam X tìm hiểu về, lão Đàn đã oang oang réo vợ từ ngoài cổng. Lão mừng như người bắt được của, dúi vào tay vợ tập hồ sơ :

- Đây ! Bà đọc đi, đúng là trời cho mình rồi. Thằng này khá lắm. Đọc kỹ hồ sơ xong, nhìn thấy hắn là tôi ưng ngay.

- Thế ông chưa nói chuyện được với nó à ?

- Chưa, tay giám thị bảo phải xem ý nó thế nào đã chứ.

Vốn tính cẩn trọng, bà Mai lật giở từng trang hồ sơ, do lão Đàn xin sao của trại giam mang về. Vừa đọc, bà vừa lấy bút đánh dấu những chỗ cần phải hỏi lại chồng. Sau khi nghe lão Đàn nói rõ từng điểm một, bà Mai cũng mừng ra mặt. Bà nghĩ, chẳng lẽ ông giời cứ bắt tội vợ chồng mình mãi. Rồi bà cũng phấp phỏng chờ ...

*

*  *

Trưởng giám thị trại giam X đã ở tuổi nghỉ hưu. Suốt gần hai mươi năm đảm trách công việc ở đây, ông biết rất rõ lai lịch của Lương Mậu Thân, người bị kết án tử hình lúc chưa đầy hai mươi tuổi, vì can tội vận chuyển chất ma túy...

Trong một ngày hỗn loạn hồi tết Mậu Thân 1968, Cô nhi viện Sài Gòn nhận được một bé trai sơ sinh bị bỏ rơi trên hè phố. Nên người ta mới đặt luôn tên đứa bé như vậy. Còn "Lương", là lương thiện, lương tâm, chứ không phải họ của cậu ta. Biến cố 1975 xảy ra, người Mỹ bỏ chạy. Những đứa trẻ trong Cô nhi viện tan tác hết. Đứa bị mang theo đi di tản. Đứa bỏ trốn. Lương Mậu Thân bị cuốn vào lũ trẻ bụi đời. Nó là đứa trẻ thông minh, khỏe mạnh, gan dạ, dễ bảo, lại đọc thông viết thạo, nhưng cục tính, nên thường được đám đàn anh giao cho việc đưa một thùng hàng, gồm quần áo, đồ trang sức, mỹ phẩm ... từ Sài Gòn ra một thành phố ở miền Trung, rồi lại nhận một gói hàng khác đã được niêm phong kín, từ đó mang về. Khi bị bắt, nó mới biết lâu nay nó bị lừa. Nó không ngờ mình đã vô tình gián tiếp, góp phần hủy hoại đồng loại, bằng thứ chất độc vô cùng tác hại đó. Nhưng pháp luật vẫn là pháp luật, những kẻ như nó phải bị nghiêm trị. Lúc mới bị bắt, nó đã được xem những cuốn phim về hậu quả đáng sợ của chất ma túy. Người và cảnh trong phim đã làm nó nhiều lần bật khóc. Nó bị đưa về trại giam X để chờ thi hành án. Trại X nằm bên bờ một con suối rộng, có cây cầu khỉ bắc qua chỗ thác nước, phía dưới là vực sâu, nước cuồn cuộn chảy, tung bọt trắng xóa. Trong một lần được ra suối tắm, nó đang mê mải nhìn hai tù nhân đang oằn lưng gánh củi qua cầu, thì thật bất ngờ cây cầu gẫy rời ra, cả hai đều rơi xuống vực. Không kịp cởi quần áo, nó lao thẳng xuống từ độ cao hơn mười mét. Cả hai tù nhân đều được nó cứu sống. Còn nó thì bị gãy chân phải. Do có hành động dũng cảm cứu người trong cơn hiểm nghèo này, Lương Mậu Thân được hạ mức án xuống còn chung thân. Thoát chết, Lương Mậu Thân như được sinh ra lần nữa. Nhờ tuổi trẻ và sức khỏe, nó thường xuyên vượt định mức lao động của trại và chăm chỉ theo học các lớp bổ túc văn hóa dành cho tù nhân. Nó rất có năng khiếu về các môn tự nhiên. Hôm được nhận giấy chứng nhận tốt nghiệp trung học bổ túc văn hóa, nó mừng như một đứa trẻ. Có người bạn tù bảo nó "mày chung thân, thì bằng cấp làm đ... gì ". Nó không nói lại, nhưng trong bụng thì vui, vui đến mấy ngày liền...

Tin Lương Mậu Thân bị bắn trọng thương nhanh chóng lan ra khắp trại X. Chuyện xảy ra thật bất ngờ. Chiều ngày một tết dương lịch, cả trại được nghỉ. Sân bóng chuyền huyên náo tiếng hò reo. Một tù nhân phạm tội giết người tìm cách trốn trại. Bị cán bộ trực ban phát hiện truy đuổi, hắn chạy thục mạng về phía hàng cây to, định vượt rào tẩu thoát. Người cán bộ trực ban đuổi kịp, dùng võ thuật quật hắn ngã xuống. Nhưng tên này cũng là tay cao thủ, nên vật lộn chống trả quyết liệt. Nghe tiếng hô, Lương Mậu Thân ngồi đọc sách gần đó chạy đến, thì thấy người cán bộ trực ban và tên trốn tù đã buông nhau ra. Tên trốn tù đã cướp được khẩu súng ngắn của người trực ban. Hắn lên đạn và chĩa thẳng súng vào anh ta bóp cò. Nhanh như cắt, Lương Mậu Thân lao đến chắn giữa hai người. Súng nổ. Thân lăn ra bất động. Rất may, người cán bộ trực ban cũng đã kịp thời đá văng khẩu súng khỏi tay tên trốn tù ...

Thân nhanh chóng được chở đi cấp cứu trong cơn nguy kịch. Viên đạn trúng ngực trái, chỉ cách quả tim chưa đầy một phân. Sau phẫu thuật, đến ngày thứ ba Thân mới tỉnh lại. Khi thấy mấy người bạn tù, và mấy cán bộ trại nước mắt đầm đìa vây quanh, Thân khẽ mỉm cười và nước mắt cũng ứa ra. Cũng lại nhờ sức khỏe và tuổi trẻ, Thân hồi phục khá nhanh. Ai cũng bảo, vậy là thằng Thân có quý nhân phù trợ, lại cao số lắm, có cho vào cối giã nó cũng không chết được. Sau vụ này, Thân được hạ mức án tù xuống còn 10 năm và được xét đặc sá ngay, vì Thân cũng đã thụ án được 6 năm, quá nửa thời gian rồi.

*

*  *

Thấy Thân thập thò ngoài cửa phòng, ông trưởng giám thị liền gọi :

- Thân đấy hả, vào đây.

- Thưa, bác cho gọi cháu ?

- Ừ , đơn xin ở lại làm công nhân của cậu cấp trên đang xét, chắc là được thôi, mà cậu đã nghĩ chín chưa ?

- Thưa, cháu nghĩ kỹ lắm rồi. Cháu không bố mẹ, không quê hương, không thân thích, không nhà cửa, thì cháu còn biết về đâu được.

Ông trưởng giám thị liền thân mật nói với Thân, như nói với con trai :

- Đấy, đấy ! chính cái chỗ tứ cố vô thân ấy mới là chuyện đau đầu đấy. Nhưng mày còn trẻ, lại giỏi giang, có trí, ở lại trại làm mấy việc linh tinh, rồi vợ con vào nữa là thúi chí, uổng lắm con ạ. Cậu trực ban được mày chắn đạn cho, bảo mời mày về, gả em gái cho mày, rồi cho ở rể luôn. Nhưng, bác thấy vẫn không ổn lắm. Hay là mày về dưới xuôi, gần Hà Nội ?

- Thôi, thôi bác ơi ! Cháu có ai quen biết ở dưới đó đâu, lại nghề ngỗng chả có thì sống làm sao, chẳng lẽ lại lang thang, lại ...

Không để Thân nói hết, ông trưởng giám thị mắng át luôn :

- Nghề ở đâu ? Nghề ở hai bàn tay này này. Làm thằng đàn ông là cứ phải thi thố cho hết cái tài, cái chí với thiên hạ, mới không là thằng hèn, con ạ !

Thân không dám nói gì, ngồi im. Ông trưởng giám thị cũng ngồi im. Lát sau, ông nhìn Thân, gật gật đầu rồi hạ giọng :

- Mày đã hai lăm tuổi rồi, sắp "tam thập nhi lập" mà vẫn lêu têu, nhưng có chí và biết tu tỉnh thì không bao giờ là muộn cả. Nghe bác nói đây, có hai vợ chồng già người làng Thắm, cái làng này dệt lụa nổi tiếng lắm. Họ không có con, muốn được nhận mày về làm con nuôi. Họ lên đây từ mấy tuần trước. Trại cũng đã cho người về tận nơi tìm hiểu kỹ và làm việc với địa phương. Nói chung là rất thuận. Bác chỉ muốn điều tốt cho mày, chứ mày đi, cả trại này ai cũng tiếc. Bác cho đây cũng là duyên ông trời định thế. Nếu mày chịu, bác sẽ báo cho vợ chồng người ta .

- Vậy, cháu xin nghe theo bác.

*

*  *

Từ ngày có Thân, vợ chồng lão Đàn như trẻ ra. Chứng mất ngủ của lão Đàn mất hẳn. Cả hai ông, bà đều chăm Thân như đứa con do chính mình đẻ ra. Ngày mới về, Thân thường phải nghe những lời trêu chọc của người làng, nhất là của các cô gái "con nuôi gì mà nhớn tồng ngồng như cây sào, không biết đã bỏ bú chưa nữa ...". Thân mặc kệ, lao vào ôn thi đại học và đậu vào Bách khoa cái phóc, khiến không chỉ bố mẹ nuôi mà cả làng Thắm đều phục lăn. Lão Đàn sướng quá, bàn với vợ xong, liền bảo Thân :

- Anh đã quá tuổi lấy vợ rồi. Có con nhỏ ở xóm bên kháu lắm. Hay là để bọn ta cưới vợ cho anh, kiếm tý cháu bế. Rồi anh muốn đi học đến bao giờ cũng được.

Hiểu ý bố mẹ nuôi, Thân liền thưa :

- Con thích làng Thắm này lắm đấy bố mẹ ạ. Bố chả từng bảo, làm trai phải có bốn việc, lần lượt là, công danh, lấy vợ, làm nhà, song thân khuất núi, là gì. Xin cứ để con từ từ.

Vài tháng đầu mới nhập học, Thân đảo về nhà luôn, nhưng mấy tháng sau về thưa dần rồi mất hút. Bà Mai lo lắng bảo chồng "ông lên xem thằng bé thế nào, có ốm đau gì không mà biệt tăm thế". Lão Đàn lật đật ra thăm con, ở với Thân được nửa ngày. Thấy lão Đàn lộn về ngay, bà Mai mặt tái mét, vội hỏi rối rít :

- Sao, thằng bé ốm , hay xảy ra chuyện gì rồi à ?

- Không ! nó khỏe, chỉ hơi gầy đi thôi. Nó tham lam, vừa học ở Bách Khoa, lại vừa học thêm tiếng Anh và hai cái chuyên ngành gì khác nữa. Nên đến ăn cơm cũng và cả vào mũi ...

- Khổ thân nó quá, ta phải chịu khó nhín, mà gửi thêm tiền cho nó ông ạ.

- Tôi cũng bảo thế, nhưng nó bảo, thay vì thể dục, sáng sớm nào nó cũng đi vác đá lạnh cho các nhà hàng. Tối thứ bảy, tối chủ nhật lại đi làm gia sư cho mấy đứa con nhà giàu. Nó còn bảo, bố về nói với mẹ, nếu gửi thêm tiền lên là con bỏ học luôn đấy.

- Cha bố cái thằng, học một cái là được rồi, còn học thêm mấy cái nữa để làm gì cho khổ thế không biết ?

- Nó bảo, cái nghề dệt có từ ngàn năm nay của làng Thắm quý lắm, hái ra vàng ra bạc đấy. Nó phải lo học được nhiều thứ để về làng mở cái xưởng dệt lụa ...

- Gớm ! Ai bày đặt cho nó lo xa thế . Khó lắm, chứ ông tưởng dễ à ?

- Thì ai bảo dễ. Nhưng thằng này nó lạ lắm. Có khi nó làm được thật đấy bà ạ.

Năm tháng qua đi. Hàng ngày, hai vợ chồng lão Đàn vẫn nhận hàng về dệt gia công cho mấy xưởng dệt trong làng, để có tiền gửi thêm cho Thân. Mấy năm cuối Thân được học bổng. Tiền nhà gửi, Thân vẫn nhận vì sợ bố mẹ nuôi buồn, nhưng anh đã gửi cả vào ngân hàng...

Thân đã hoàn thành việc học hành ở Hà Nội, với thành tích xuất sắc ở tất cả các chuyên ngành : kỹ thuật cơ khí, công nghệ thông tin, đồ họa, thiết kế thời trang, kể cả ngoại ngữ tiếng Anh. Trong vòng có gần sáu năm mà làm được những bấy nhiêu việc, quả là đáng nể. Không kịp sả hơi, Thân lo ngay việc mở doanh nghiệp tư nhân chuyên sản xuất, kinh doanh hàng tơ lụa. Thủ tục thì đơn giản, nhưng khó nhất lại ở chuyện vốn liếng. Hai già, một trẻ bàn đi, tính lại mãi, cuối cùng lão Đàn bảo :

- Thôi thì ta lại dùng cách cũ mèm là bán nhà, vay tiền bà con dòng họ, rồi vay ngân hàng.

Hai từ "cũ mèm" của bố nuôi đã lóe lên trong Thân ý tưởng khác. Anh đóng cửa, ngồi lỳ trong phòng mấy ngày liền, tập trung viết dự án " Bảo tồn và quảng bá sản phẩm lụa cổ truyền làng Thắm". Dự án của anh còn đề cập đến việc chống ô nhiễm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đang là vấn đề thời sự rất bức xúc của làng Thắm hiện nay. Không ngờ, dự án của Thân đã thu hút được ngay sự chú ý của các nhà khoa học, rồi các nhà đầu tư. Người trong giới kinh doanh bảo " ĐaMa-Silk ra đời bằng tư duy kiểu Lương Mậu Thân", khiến lão Đàn khoái chí cười tít mắt. Thân lấy tên bố mẹ nuôi ghép lại thành tên của doanh nghiệp, rồi giải thích với lão Đàn :

- Bố ơi! Nghĩa là, tiền của sẽ nhiều, sinh sôi, nảy nở đông đàn dài lũ, nhưng tất cả đều hướng đến ngày mai, hướng đến tương lai.

Nhờ trời, việc làm ăn của ĐaMa-Silk ngày càng phát đạt. Thời gian đầu, lụa do ĐaMa �Silk sản xuất đẹp thì có đẹp thật, nhưng rất kén khách, bán không chạy. Hàng ngày lướt qua cửa hàng, thấy lèo tèo vài người khách nghiêng ngó một chút rồi lắc đầu kêu đắt, còn Thân thì đi suốt, hết Hà Nội, Hải Phòng lại Sài Gòn, bà Mai lo lắm.

Nhưng lão Đàn vẫn xua tay tỉnh bơ :

- Bà đừng vội lo. Thằng Thân nó tính trước cả rồi. Nó bảo, lụa của mình làm là loại sịn, đúng theo cách cổ truyền, người ít tiền không mó vào được đâu. Kinh doanh mà nhắm vào móc túi thằng nghèo là tàn mạt, sập tiệm liền. Bán chậm, nhưng ngay từ đầu phải khẳng định chất lượng cao cấp của lụa ĐaMa-Silk. Đây sẽ là sản phẩm chính. Sắp tới, thằng Thân sẽ tung ra loại lụa phục vụ giới trung lưu, giới bình dân, giới trẻ và cả những sản phẩm may sẵn từ lụa nữa ...

*

*  *

Cả làng Thắm xôn xao, khi biết Doanh nghiệp tư nhân ĐaMa- Silk đã có một cửa hàng lụa ở làng, lúc nào cũng tấp nập khách vào ra, nay lại đang chuẩn bị khai trương thêm một cửa hàng lụa nữa ngay tại Hà Nội.

Khi biết đó không phải là tin đồn nhảm, giám đốc Hoàng Sấn liền cho gọi người phụ trách kỹ thuật của công ty SanHung- Silk lên, hỏi :

- Các anh đã tìm ra bí quyết của thằng ĐaMa-Silk chưa ? Nó sinh sau, đẻ muộn hơn mình mấy năm trời, mà qua mặt mình cái vèo.

- Dạ ! Bí quyết thì cũng vẫn là công nghệ mới và ...

- Công nghệ thì mình cũng mới kém gì nó. Còn thua nó cái gì nữa, anh cứ nói toạc mẹ nó ra xem nào, ấp úng mãi ...

- Thằng Lương Mậu Thân con lão Đàn, được đào tạo chuyên nghiệp, vừa giỏi kỹ thuật, rất rành đồ họa, lại giỏi cả thiết kế thời trang. Xem ra, ở làng này không thằng nào địch nổi được với thằng ĐaMa-Silk.

- Thế thì đúng là mình thua nó thật rồi còn gì ...

Nói vậy, nhưng giám đốc Sấn vẫn hậm hực lắm. Ngay sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, sản phẩm vải thô, thảm len ế ẩm, khung dệt kiểu cũ phải vứt sọt rác, Hoàng Sấn là người đầu tiên mở công ty tư nhân ở cái làng này. Công ty SanHung-Silk của hắn từng có thời hoàng kim. Lúc ấy, thằng ĐaMa-Silk còn ở nước nam nứ nào. Vậy mà bây giờ ... Sấn lại điện thoại cho người phụ trách kỹ thuật

- Này ! anh cũng tìm ngay cho tôi mấy thằng kỹ sư tay nghề cao như bên ĐaMa-Silk nhé. Nó có cái gì mình có cái ấy. Thế nhé !

*

*  *

Trưởng phòng marketing của ĐaMa-Silk mừng rơn, khi thấy Thân lái chiếc BMW vào sân. Thân xách cặp vào thẳng phòng thị trường :

- Ở nhà có tình hình gì vui không ?

- Dạ, không ! Nhưng có tin này phải báo để anh biết ngay. Mấy tháng nữa Tổng thống Mỹ sẽ dẫn theo một đoàn doanh nhân thăm chính thức Việt Nam.

- Thế à ? Tin quan trọng đấy. Chính xác chứ ?

- Thưa, chính xác !

- Vậy thể nào mấy hôm nữa báo chí cũng sẽ loan tin, người ta cũng sẽ biết hết.

- Hình như bên SanHung- Silk họ cũng biết rồi anh ạ.

- SanHung-Silk hả ? Không phải tự cao, chủ quan, nhưng cách làm ăn của cậu Sấn mình không phục và mình cũng chưa bao giờ coi SanHung-Silk là đối thủ cả.

- Chuyện hắn xỏ lá mình năm ngoái, lẽ ra phải làm rõ, sao anh lại cho qua ?

- Mình chỉ trách mấy cậu KCS của ta thiếu cảnh giác thôi. Quan trọng là ở chỗ, khách hàng người ta đã hiểu rõ, thằng SanHung-Silk sẽ khó mở đường làm ăn. Vậy cần gì mình phải làm lớn chuyện.

Thân lắc đầu, nhớ lại vụ lô hàng lụa cao cấp của mình xuất sang Hồng Công, một số kiện lại bị lẫn vào thứ lụa pha sợi tổng hợp của SanHung-Silk. Nhưng vì nhãn hiệu ĐaMa-Silk được in chìm trên lụa, một kỹ thuật mà SaHung-Silk không làm nổi, trắng đen rõ ràng, nên được khách hàng thông cảm ngay.

- Vậy còn thông tin kia mình chuẩn bị thế nào anh ?

- Mình sẽ trao đổi sau, gọi cậu phụ trách kỹ thuật lên ngay phòng mình nhé. Mà thôi, có lẽ cái này mình phải trực tiếp làm. À này ! cậu tạm thời cho dừng lại ngay việc khai trương cửa hàng tại Hà Nội nhé.

- Sao vậy anh ? Đã chuẩn bị đâu vào đấy cả rồi.

- Cứ nghe mình cho dừng lại đi.

Thân ngồi trầm ngâm, rồi nhìn đồng hồ, đã hơn 11 giờ. Anh gọi điện về nhà :

- Bố ơi! ...

- Bố đây ! anh về đến Hà Nội chưa ? Dưới Hải Phòng có mưa không ? Đang ở văn phòng rồi à, thế thì về nhà ăn cơm, bố mẹ đợi.

- Bố nói với mẹ, con có chút việc, chiều con về. Con cúp máy đây.

Vừa ăn xong suất cơm do người bảo vệ mang lên, Thân lao ngay vào bàn vi tính và ngồi lỳ luôn đến sẩm tối. Nếu không có chuông điện thoại réo liên hồi của mẹ nuôi, chắc là Thân quên luôn cả về nhà ...

Suốt đêm gần như thức trắng với cái laptop, lại mất thêm cả buổi sáng nữa, bây giờ Thân mới thở phào, gọi người phụ trách kỹ thuật lên, đưa cho anh ta cái đĩa CD :

- Đây là hoa văn mới nhất cho lô hàng cao cấp, đặc biệt quan trọng, khoảng 300 mét khổ 90. Công thức sợi và phối màu phải đúng như trong này.

- Số lượng quá ít như vậy, giá thành sẽ rất cao đấy ạ.

- Phải chấp nhận thôi. Không thể làm khác được. Cậu cho triển khai ngay, tớ sẽ trực tiếp kiểm tra lại từng mét một đấy nhé.

Nói vậy cho vui, chứ Thân rất tin anh em. Những vị trí then chốt của ĐaMa-Silk đều do đích thân anh phỏng vấn, tuyển chọn.

Khi báo chí loan tin ngày giờ chính thức chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ cùng phu nhân và đoàn tùy tùng, thì mọi việc Thân chuẩn bị cũng hoàn tất.

Có người ví, thời bao cấp làng Thắm tiều tụy như mụ gái già chờ ngày xuống lỗ, thì bây giờ là một thiếu nữ kiều diễm, đầy sức xuân. Làng Thắm thay da, đổi thịt từng ngày, người đi làm ăn xa, lâu ngày về quê cũng thấy lạ. Làng Thắm có hẳn một khu bán sản phẩm lụa, gồm hai dãy nhà cao tầng khang trang, chẳng thua kém gì Hàng Ngang, Hàng Đào của Hà Nội.

Trưởng phòng mareketing báo cho Thân biết không khí nhộn nhịp, thi nhau chuẩn bị hàng hóa các kiểu, cùng việc sửa sang đèn hoa trang hoàng cửa hàng, của các chủ tiệm lụa làng Thắm. Nghe xong, Thân bảo :

- Ta cũng chỉnh trang lại cho dễ coi. Hình thức cũng rất cần. Còn sản xuất vẫn giữ công suất bình thường như lâu nay thôi. Với đoàn thượng khách Hoa Kỳ, ta phải chọn cách làm thiết thực, hiệu quả, tất nhiên là khó, nếu không muốn nói là hơi phiêu và phải chấp nhận tốn kém . Cụ thề là thế này ...

Anh chàng phụ trách mareketing trạc tuổi Thân, về làm với anh từ những buổi đầu, cũng thông minh, tháo vát, mẫn cán, và cũng không kém phần táo bạo. Vậy mà nghe Thân nói xong, mặt anh ta tái mét, vì lo. Thấy thế, Thân liền nói thêm :

- Có gì đâu mà cậu có vẻ hoang mang thế. Đó là chuyện rất bình thường ở nước người ta. Và, cũng chỉ những sản phẩm cao cấp thứ thiệt, của những doanh nghiệp đầy tự tin, mới đủ lực, đủ gan, dám làm. Mình cũng sẽ tham gia cùng cậu, được chưa.

*

*  *

19 giờ ngày thứ hai của chuyến viếng thăm Việt Nam. Sau tiệc chiêu đãi, phu nhân và con gái Tổng thống Hoa Kỳ còn chưa hết xúc động, bởi sự thân thiện và lòng hiếu khách hiếm có của đất nước và con người Việt Nam, thì nhận được món quà đặt trong hộp gỗ thông, trang trí rất sang trọng, kèm theo một phong thư, do lễ tân của khách sạn chuyển lên, tất nhiên là đã được bộ phận an ninh của Tổng thống soi xét rất kỹ. Thư viết bằng tiếng Anh, rất ngắn gọn :

Con chim câu nhồi thịt

Một cái gì ó lạnh buốt nơi ngực trái. Không, không phảit trái tim lâu nay đã nguội ngắt như cục sắt. Cũng không phải cái ví lép kẹp làm ta rảo bước thật nhanh

mỗi khi qua hàng phử, than ôi. Nó là cuốn sổ lương hưu con mẹ phòng lao động xã hội quẳng vào tay sáng nay, không, nó quẳng vào hồn ta đó, nhói đau

như bị ném một cục đá. Bốn mươi năm cán bộ, tám giờ vàng ngọc từ nay toàn là của ông, thế nhưng cần quái gì cái thứ giàu có xa xỉ ấy nhỉ, cứ bám cơ quan,

làm gì cũng được cốt lĩnh đủ tiền năng suất, tiền ăn trưa chứ chẳng phải vừa xoẳn 60 ngàn, quy ra phở mỗi ngày chỉ đủ ăn một bát chín. Lẽ tất nhiên, tính toán

lý thuyết vậy thôi, có họa điên mới bước châ vào cái máy chém đó. Vài sợi bánh, ba miếng thịt thái mỏng như lá lúa, hai môi nước dùng nhạt như nước rửa bát

vậy mà nó cắt cổ người ta những ba ngàn bạc thì thà để tiền mua mấy gói mì ăn liền lại chả hơn ư? Thôi thôi, nghĩ ngợi gì tẹp nhẹp quá thế, suốt một thời đã

quẩn quanh chuyện con cá, lá rau, giờ hưu rồi, phải tư duy cao siêu một chút chớ. Ông thong thả ngồi dậy. Ngoài cửa sổ mở ra vườn, trên một cành cây, có

chú chim nhìn ông lúc lắc đôi mắt hạt cườm. Lát nữa nó sẽ bay lên, bay lên, bay lê cao, cao mãi tới trời xanh, vượt khỏi mọi cây cò nơi trần thế. Còn ông,

chao ôi, lặn ngụp trong cõi nhân sinh, sáu mươi năm trong đời chưa lần nào cất mình khỏi cái hàng ngày đầy phiền tạo, chưa một lần đi trệch khỏi đường rầy

của những nề nếp người ta qui định cho ông, từ khi ông bước vào guồng máy với bậc khởi điểm nhân viên I và ra khỏi nó mới nhúc nhích vài bậc tới cán sự 3.

Bốn mươi năm lao động tiên tiến, ông quả là một viên chức cần mẫn với ý thức tổ chức cao vượt yêu cầu tới mức chưa bao giờ phát biểu phê bình thủ trưởng

trong các đại hội công nhân viên chức cho dù được khuyến khích nói thẳng nói thật. Tuy nhiên, tất cả những cái đó đều đã qua, đã thuộc về một thời... cóm

róm, bây giờ ông đã là người tự do, chẳng còn lo thủ trưởng nghĩ gì về mình, chẳng còn sự "tam quản", "nhị quản" (quản lý lập trường tư tưởng, quản lý lao

động, quản lý sinh hoạt v.v...). Ôi chà chà, bây giờ ông mới thực là ông, ông phải làm một cái gì đó chứng tỏ mình, một cái gì đó làm ông ngẩng cao đầu, ưỡn

ngực, cất mình vươn cao lên khỏi cái hàng ngày dung tục và tầm thường. Thật kỳ lạ, ông chưa đụng tới bình rượu thuốc uống một chén trước bữa ăn, vậy mà

người đã bừng bừng say, như người trong cõi khác.

- Đâu rồi, ra mà ăn cơm... Từ nay hưu rồi, ngủ lúc nào chả được, cứ nhè ngay bữa ăn.

Vợ ông đó, sau ba mươi năm nâng khăn sửa túi, bà đã kịp tạo cho ông một phản xạ căng thẳng mỗi khi nghe nàng nói. Ngay lập tức mọi ý nghĩ viễn vong

đều bị xóa sạch, ông có mặt ngay tại mâm cơm nhanh nhẹn như người lính được điểm danh, con gái ông reo to:

- Hay quá bố hưu rồi, ở nhà làm cái máy giặt, con đỡ phải sắm.

- Thôi, thôi, để bố cô nấu cho cô hai bữa cơm, vậy cũng gần hết tám tiếng rồi.

- Thì sáng bố dậy sớm, giặt loáng cái là xong ấy mà. Người già ngủ được mấy.

Ông nhìn vợ và nhìn con gái với cái nhìn đầy bí ẩn của con nhân sư trên sa mạc Sahara, rồi ông phá ra cười:

- Yên chí, yên chí, tôi sẽ nấu cả hai bữa cơm, giặt quần áo cho cả nhà, không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền. Ngày xưa đánh Pháp, đánh Mỹ còn

được, huống hồ ba cái việc vặt trong nhà...

Bà vợ trợn mắt:

- Lại say rồi, đã bảo buổi trưa đừng có uống, cứ uống vào là nói phét. ừ thì ông đánh Pháp, đánh Mỹ, nhưng tôi hỏi ông lúc về hưu ông mang được về mấy

cây?

Lại chuyện "cây", "que", lại chuyện duyên số hẩm hiu, làm như chính ông là nguồn gốc mọi khổ đau cay đắng bà ta phải gánh chịu cả đời. Vợ ông quên mất

rằng đã có một thời bà dắt ông đi trong bộ quân phục bốn túi, chân do giày đen, ngực đeo huy hiệu Điện Biên trên khắp phố phường đỏ rực rỡ cờ hoa đó sao?

Chẳng phải do vị trí của ông lúc đó mà bà ta được nhận vào thẳng sở thương nghiệp mà chẳng phải qua một ngày lao động cải tạo giống như các cô gái khác

thời đó sao?

Như mọi khi hẳn ông đã "mũ ni che tai", mặc cho bà đấm bị bông, nhưng hôm nay, ma xui quỹ khiến sao đó, ông đáp lại rằng ừ thì bà xui xẻo vớ phải "thằng

nhà quê", nhưng thử hỏi, nếu không có thằng nhà quê này liệu bà có thoát khoải mục xác trên Tây bắc như chán vạn đức khác vào thời đó chăng? Ông dẫn ra

cô A chết sốt rét trên bản Mèo, cô B mới mười năm đi cuốc đường xương sống gần gẫy làm đôi mới bò được được về, chả ma nào thèm lấy. Càng nói ông

càng hăng khiến cô con gái phải can:

- Thôi thôi, bố đừng nói nữa, bố ăn giò đi, giò Phú Hương đây, ngon lắm.

A... không nhé, đã tới lúc phải coi khinh miếng 5n, cái đã làm ta tranh đua cả một đời. Ông lại hăng lên, chạy tiếp cái đà hùng hồn, trịnh trọng tuyên bố:

- Từ hôm nay, tôi chỉ ăn đúng theo tiêu chuẩn lương hưu của tôi thôi, chẳng ăn lẹm của ai hết. Như món giò Phú Hương này chẳng hạn, không hợp túi tiền

của tôi, từ nay dứt khoát tô không ăn.

Cô con gái cười to:

- Lương hưu của bố chia ra, ngày được hai ngàn, vậy bố chỉ được ăn rau muống luộc chấm nước nắm.

- Cũng được, càng sạch ruột, không chết đâu mà sợ.

Thế là thực sự nổ ra cuộc cách mạng, không ăn nhờ vợ con, từ nay ông sẽ làm chủ gia đình, nói năng dõng dạc, đi đứng đàng hoàng chứ chẳng phải cóm

róm, rụt rè như trước kia nữa. Vợ ông không hiểu được điều đó, bà ta cười nhạt:

- Không ăn càng tốt, cất tủ lạnh chiều đỡ đi chợ.

Được rồi, cứ cất đi, cất ngay vào cái dạ dày càng kín, nhưng từ nay đừng hòng ra rửa bát nhé, ông xác định quyền làm chủ gia đình bằng cách phá lệ dọn dẹp

sau bữa ăn, cắm cái tăm vào miệng, đủng đỉnh tráng ấm pha trà, giở ra tờ báo là thứ mọi ngày ông chỉ sờ tới vào lúc đã xong xuôi mọi ciệc từ rửa bát, lau nhà

tới giặt giũ cả ba chậu quần áo khổng lồ. Thôi nhé, cả đời là, đầy tớ nhân dân, không lẽ hưu rồi lại vẫn làm đầy tớ dù rằng cho vợ con. Không, nhất định từ

nay ông chỉ có làm chủ, chẳng mó máy việc gì, cứ ăn rồi lại nằm, cuồng cẳng thì đi ra dạo phố, thật sướng hơn cả vua. Được vài ngày, ông chợt thấy thời gian

đã dôi ra một cách đáng sợ, tờ báo hàng ngày từ bài xã luận "Kiên quyết đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội" cho tới "Bố cáo thành lập Công ty tư

doanh", đọc đi đọc mãi mới tiêu được hai tiếng đồng hồ, buổi sáng còn dài dằng dặc, ngã lưng một lát buổi trưa, quanh quẩn mãi vẫn chưa tới chiều. Trong

ngày ông ngại nhất hai bữa cơm, bởi lẽ như để chọc tức chềng vợ ông ngày nào cũng mua về khi thì khoanh chả quế vàng rộm khi thì nguyên một con vịt

tiềm thơm phức, óng ánh toàn những mỡ là mỡ. Hóa ra trong việc làm chủ, khó nhất là làm chủ cái ... dạ dày. Trong cả đám lục phủ tạng, nó là đức đòi hỏi

nhiều nhất, ương bướng nhất, chả thế mà lúc ngồi vào mâm, nó cứ bắt đôi mắt ông nhìn hau háu vào đĩa thịt, bát canh cá, mũi ông cứ phải huếch lên mà thu

nhận mùi thơm ngào ngạy từ những mó ăn ngoài túi tiền không bao giờ ông cho phép mình đụng đũa tới, Giữa nó và ông là một cuộc đấu tranh một mất một

còn, chưa xác định được ai thắng ai, mỗi lẩn ông đưa đũa gắp rau, nó cứ lái ông về đĩa thịt. A không nhá, miếng ăn là miềng nhục, thà chết còn hưn, ông cứ

lặng lẽ nhau rau muống, cà muối, dưa chua, toàn những thức ăn nhà Phật cả, miệng đắng ngắt nhưng vẫn làm ra vẻ ngon lành lắm. Vậy nhưng thằng dạ dày

đâu có buông tha ông dễ dàng như thế, nỗi bất mãn dần dần tỏa đi khắp mọi nơi, mắt ông mờ hẳn đi, hai đầu gối lúc nào cũng mỏi nhờ và tệ hại nhất là đêm

đêm rất khó ngủ, bụng cứ réo òng ọc, không làm sao nhắm mắt được.

Một hôm, quá lo lắng cho sức khỏe, ông cầm y bạ đi khám bệnh. Sau khi nghe ngóng, đo đạc đủ thứ trên người, ông bác sĩ tuyên bố: "Bác bị thiếu Ptotit".

Suýt nữa thì ông nổi cáu, người nội địa với nhau không dùng tiếng mẹ đẻ, cứ thích lòe tiếng Tây. Ông bác sĩ phải xin lỗi và nói lại một cách nôm na rằng nó

chính là cái bệnh... thiếu thịt. Láo toét, ông chửi thầm, ngày cưa ở trên rừng mấy tháng liền chẳng có tí thịt nào có thấy bệnh tật gì đâu, rồi các ông sư ở chùa

nữa, quanh năm chẳng có miếng thịt nào mà vẫn béo mập... già đấy thôi. Ông tự an ủi vậy và chiều hôm đó vợ ông đãi bạn bè nhân dịp lên lương, để giữ vững

được lời thề, ông cáo bệnh nằm trong phòng. Rõ thật không may, phòng ông liền ngay với bếp và phòng ăn, cho dù ông có bưng tai bịt mũi thì những mùi

xào nấu, mùi cá nướng, tiếng sao chặt thịt chan chát vẫn cứ vọng tới. Sau cùng bữa ăn cũng bắt đầu, chỉ nghe tiếng kéo ghế, tiếng người nói, mời mọc... ông

cũng đủ hình dung được ra các món ăn ngon lành bầy biện trên bàn. Trước tiên ắt phải có món cua tẩm bột rán là món tủ của vợ ông, rồi đến gà chiên cơ, cá

lóc bỏ lò, bê thui chấm tương gừng và sau cùng, ắt phải có một cái lẩu thập cẩm. Ông cứ nằm tưởng tượng ra cái màu sắc, hình dạng và mùi vị của từng món

vợ ông đãi khách cho tới khi cô con gái gõ cửa và lách người vào, đi tới sờ tay vào trán bố:

- Bố hết sốt rồi, bố ra ngồi với các bác ấy cho vui.

Ông dãy nãy:

- Thôi, thôi, tao mới dứt sốt đang còn mệt lắm, ngôì sao nổi.

- Hay con bưng các món vào đây cho bốn nhé.

Dạ dày của ông như mớn rên lên một tiếng vậy, nhưng không vẫn lắc đầu quầy quầy:

- Thôi, thôi, miệng đang đắng ngắt, ăn uống gì được.

Cô con gái đi rồi, một nỗi tuyệt vọng đau đớn đè nặng trên dạ dày ông. Nó tức giận sôi ùng ục làm ông phải nằm úp sấp, dán bụng xuống giường vũng không

trấn nổi cái cơn cồn cào đang làm đầu óc ông quay cuồng như người đang đi thuyền giữa biển bất ngờ gặp bão. Ông thiếp đi trong cơn đói và lúc choàng tỉnh

dậy trời đã tối, xung quanh yên ắng, tịnh không một tiếng động. Ông vén tay xem đồng hồ, trời đất đã quá nửa đêm, dạ dày lại réo ùng ục, cơn đói đẩy ông

xuống giường, bước ra phòng ngoài và đi tới chiệc tủ lạnh kê trong góc nhà như một người mộng du. Không, không phải là ông đâu, một người nào đó đã chi

phối mọi hành vi của ông, đã bắt ông giơ tay mở tủ lạnh và mắt sáng lên khi thấy trong cái bát to Trung quốc một con chim câu nhồi thịt, mỏ ngậm cọng

hành, chúi xuống nước hầm sen còn vương mấy cọng mộc nhỉ. Ông thaóng nghỉ tới con chim hôm nào nhìn ông lúc lắc đôi mắt hạt cườm rồi vút bay lên trời

cao, hôm đó ông mới nhận sổ lương hưu và mới xảy ra quyết định "chỉ ăn trong mức lương hưu" trong một phút bốc đồng muốn cất mình khỏi cái hàng ngày

đầy phiền tạp. Mới đó thôi mà đã một tháng rồi, một tháng ông bóp mồm bóp miệng để được thực thi cái quyền "làm chủ gia đình" của mình. Nhưng lúc này,

đối diện với bát chim hầm, ông không còn là ông nữa, một người khác đã nhập vào ông, không còn kịp đóng tủ lạnh, cứ đứng thế bốc từng miếng thịt chim.

Chao ôi, cái vị ngọt không bút nào tả nổi của nó xộc thẳng cuống dạ dày, lan đi các mạch máu như một luồng sinh lực đang ào ạt tràn vào cơ thể. Chính là lúc

cơn khoái đang lên tới độ cao nhất, tiếng kẹt cửa làm ông giật nẩy và mọi thứ trên đời bỗng dừng cả lại, ngay cả thời gian dường như cũng không trôi nữa.

Nhẹ nhàng như một con mèo, bà lướt tới trước mặt ông và cất tiếng cười, Ông bỗng lảo đảo như bị trúng gió, hai tay ôm ngực, ông nôn thốc nôn tháo tất cả

món chim câu nhồi thịt vừa rồi ông đã tọng vào dạ dày một cách vội vả. Một cái gì ó lạnh buốt nơi ngực trái. Không, không phảit trái tim lâu nay đã nguội ngắt như cục sắt. Cũng không phải cái ví lép kẹp làm ta rảo bước thật nhanh mỗi khi qua hàng phử, than ôi. Nó là cuốn sổ lương hưu con mẹ phòng lao động xã hội quẳng vào tay sáng nay, không, nó quẳng vào hồn ta đó, nhói đau như bị ném một cục đá. Bốn mươi năm cán bộ, tám giờ vàng ngọc từ nay toàn là của ông, thế nhưng cần quái gì cái thứ giàu có xa xỉ ấy nhỉ, cứ bám cơ quan, làm gì cũng được cốt lĩnh đủ tiền năng suất, tiền ăn trưa chứ chẳng phải vừa xoẳn 60 ngàn, quy ra phở mỗi ngày chỉ đủ ăn một bát chín. Lẽ tất nhiên, tính toán lý thuyết vậy thôi, có họa điên mới bước châ vào cái máy chém đó. Vài sợi bánh, ba miếng thịt thái mỏng như lá lúa, hai môi nước dùng nhạt như nước rửa bát vậy mà nó cắt cổ người ta những ba ngàn bạc thì thà để tiền mua mấy gói mì ăn liền lại chả hơn ư? Thôi thôi, nghĩ ngợi gì tẹp nhẹp quá thế, suốt một thời đã quẩn quanh chuyện con cá, lá rau, giờ hưu rồi, phải tư duy cao siêu một chút chớ. Ông thong thả ngồi dậy. Ngoài cửa sổ mở ra vườn, trên một cành cây, có chú chim nhìn ông lúc lắc đôi mắt hạt cườm. Lát nữa nó sẽ bay lên, bay lên, bay lê cao, cao mãi tới trời xanh, vượt khỏi mọi cây cò nơi trần thế. Còn ông, chao ôi, lặn ngụp trong cõi nhân sinh, sáu mươi năm trong đời chưa lần nào cất mình khỏi cái hàng ngày đầy phiền tạo, chưa một lần đi trệch khỏi đường rầy của những nề nếp người ta qui định cho ông, từ khi ông bước vào guồng máy với bậc khởi điểm nhân viên I và ra khỏi nó mới nhúc nhích vài bậc tới cán sự 3. Bốn mươi năm lao động tiên tiến, ông quả là một viên chức cần mẫn với ý thức tổ chức cao vượt yêu cầu tới mức chưa bao giờ phát biểu phê bình thủ trưởng trong các đại hội công nhân viên chức cho dù được khuyến khích nói thẳng nói thật. Tuy nhiên, tất cả những cái đó đều đã qua, đã thuộc về một thời... cóm róm, bây giờ ông đã là người tự do, chẳng còn lo thủ trưởng nghĩ gì về mình, chẳng còn sự "tam quản", "nhị quản" (quản lý lập trường tư tưởng, quản lý lao động, quản lý sinh hoạt v.v...). Ôi chà chà, bây giờ ông mới thực là ông, ông phải làm một cái gì đó chứng tỏ mình, một cái gì đó làm ông ngẩng cao đầu, ưỡn ngực, cất mình vươn cao lên khỏi cái hàng ngày dung tục và tầm thường. Thật kỳ lạ, ông chưa đụng tới bình rượu thuốc uống một chén trước bữa ăn, vậy mà người đã bừng bừng say, như người trong cõi khác. - Đâu rồi, ra mà ăn cơm... Từ nay hưu rồi, ngủ lúc nào chả được, cứ nhè ngay bữa ăn. Vợ ông đó, sau ba mươi năm nâng khăn sửa túi, bà đã kịp tạo cho ông một phản xạ căng thẳng mỗi khi nghe nàng nói. Ngay lập tức mọi ý nghĩ viễn vong đều bị xóa sạch, ông có mặt ngay tại mâm cơm nhanh nhẹn như người lính được điểm danh, con gái ông reo to: - Hay quá bố hưu rồi, ở nhà làm cái máy giặt, con đỡ phải sắm. - Thôi, thôi, để bố cô nấu cho cô hai bữa cơm, vậy cũng gần hết tám tiếng rồi. - Thì sáng bố dậy sớm, giặt loáng cái là xong ấy mà. Người già ngủ được mấy. Ông nhìn vợ và nhìn con gái với cái nhìn đầy bí ẩn của con nhân sư trên sa mạc Sahara, rồi ông phá ra cười: - Yên chí, yên chí, tôi sẽ nấu cả hai bữa cơm, giặt quần áo cho cả nhà, không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền. Ngày xưa đánh Pháp, đánh Mỹ còn được, huống hồ ba cái việc vặt trong nhà... Bà vợ trợn mắt: - Lại say rồi, đã bảo buổi trưa đừng có uống, cứ uống vào là nói phét. ừ thì ông đánh Pháp, đánh Mỹ, nhưng tôi hỏi ông lúc về hưu ông mang được về mấy cây? Lại chuyện "cây", "que", lại chuyện duyên số hẩm hiu, làm như chính ông là nguồn gốc mọi khổ đau cay đắng bà ta phải gánh chịu cả đời. Vợ ông quên mất rằng đã có một thời bà dắt ông đi trong bộ quân phục bốn túi, chân do giày đen, ngực đeo huy hiệu Điện Biên trên khắp phố phường đỏ rực rỡ cờ hoa đó sao? Chẳng phải do vị trí của ông lúc đó mà bà ta được nhận vào thẳng sở thương nghiệp mà chẳng phải qua một ngày lao động cải tạo giống như các cô gái khác thời đó sao? Như mọi khi hẳn ông đã "mũ ni che tai", mặc cho bà đấm bị bông, nhưng hôm nay, ma xui quỹ khiến sao đó, ông đáp lại rằng ừ thì bà xui xẻo vớ phải "thằng nhà quê", nhưng thử hỏi, nếu không có thằng nhà quê này liệu bà có thoát khoải mục xác trên Tây bắc như chán vạn đức khác vào thời đó chăng? Ông dẫn ra cô A chết sốt rét trên bản Mèo, cô B mới mười năm đi cuốc đường xương sống gần gẫy làm đôi mới bò được được về, chả ma nào thèm lấy. Càng nói ông càng hăng khiến cô con gái phải can: - Thôi thôi, bố đừng nói nữa, bố ăn giò đi, giò Phú Hương đây, ngon lắm. A... không nhé, đã tới lúc phải coi khinh miếng 5n, cái đã làm ta tranh đua cả một đời. Ông lại hăng lên, chạy tiếp cái đà hùng hồn, trịnh trọng tuyên bố: - Từ hôm nay, tôi chỉ ăn đúng theo tiêu chuẩn lương hưu của tôi thôi, chẳng ăn lẹm của ai hết. Như món giò Phú Hương này chẳng hạn, không hợp túi tiền của tôi, từ nay dứt khoát tô không ăn. Cô con gái cười to: - Lương hưu của bố chia ra, ngày được hai ngàn, vậy bố chỉ được ăn rau muống luộc chấm nước nắm. - Cũng được, càng sạch ruột, không chết đâu mà sợ. Thế là thực sự nổ ra cuộc cách mạng, không ăn nhờ vợ con, từ nay ông sẽ làm chủ gia đình, nói năng dõng dạc, đi đứng đàng hoàng chứ chẳng phải cóm róm, rụt rè như trước kia nữa. Vợ ông không hiểu được điều đó, bà ta cười nhạt: - Không ăn càng tốt, cất tủ lạnh chiều đỡ đi chợ. Được rồi, cứ cất đi, cất ngay vào cái dạ dày càng kín, nhưng từ nay đừng hòng ra rửa bát nhé, ông xác định quyền làm chủ gia đình bằng cách phá lệ dọn dẹp sau bữa ăn, cắm cái tăm vào miệng, đủng đỉnh tráng ấm pha trà, giở ra tờ báo là thứ mọi ngày ông chỉ sờ tới vào lúc đã xong xuôi mọi ciệc từ rửa bát, lau nhà tới giặt giũ cả ba chậu quần áo khổng lồ. Thôi nhé, cả đời là, đầy tớ nhân dân, không lẽ hưu rồi lại vẫn làm đầy tớ dù rằng cho vợ con. Không, nhất định từ nay ông chỉ có làm chủ, chẳng mó máy việc gì, cứ ăn rồi lại nằm, cuồng cẳng thì đi ra dạo phố, thật sướng hơn cả vua. Được vài ngày, ông chợt thấy thời gian đã dôi ra một cách đáng sợ, tờ báo hàng ngày từ bài xã luận "Kiên quyết đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội" cho tới "Bố cáo thành lập Công ty tư doanh", đọc đi đọc mãi mới tiêu được hai tiếng đồng hồ, buổi sáng còn dài dằng dặc, ngã lưng một lát buổi trưa, quanh quẩn mãi vẫn chưa tới chiều. Trong ngày ông ngại nhất hai bữa cơm, bởi lẽ như để chọc tức chềng vợ ông ngày nào cũng mua về khi thì khoanh chả quế vàng rộm khi thì nguyên một con vịt tiềm thơm phức, óng ánh toàn những mỡ là mỡ. Hóa ra trong việc làm chủ, khó nhất là làm chủ cái ... dạ dày. Trong cả đám lục phủ tạng, nó là đức đòi hỏi nhiều nhất, ương bướng nhất, chả thế mà lúc ngồi vào mâm, nó cứ bắt đôi mắt ông nhìn hau háu vào đĩa thịt, bát canh cá, mũi ông cứ phải huếch lên mà thu nhận mùi thơm ngào ngạy từ những mó ăn ngoài túi tiền không bao giờ ông cho phép mình đụng đũa tới, Giữa nó và ông là một cuộc đấu tranh một mất một còn, chưa xác định được ai thắng ai, mỗi lẩn ông đưa đũa gắp rau, nó cứ lái ông về đĩa thịt. A không nhá, miếng ăn là miềng nhục, thà chết còn hưn, ông cứ lặng lẽ nhau rau muống, cà muối, dưa chua, toàn những thức ăn nhà Phật cả, miệng đắng ngắt nhưng vẫn làm ra vẻ ngon lành lắm. Vậy nhưng thằng dạ dày đâu có buông tha ông dễ dàng như thế, nỗi bất mãn dần dần tỏa đi khắp mọi nơi, mắt ông mờ hẳn đi, hai đầu gối lúc nào cũng mỏi nhờ và tệ hại nhất là đêm đêm rất khó ngủ, bụng cứ réo òng ọc, không làm sao nhắm mắt được. Một hôm, quá lo lắng cho sức khỏe, ông cầm y bạ đi khám bệnh. Sau khi nghe ngóng, đo đạc đủ thứ trên người, ông bác sĩ tuyên bố: "Bác bị thiếu Ptotit". Suýt nữa thì ông nổi cáu, người nội địa với nhau không dùng tiếng mẹ đẻ, cứ thích lòe tiếng Tây. Ông bác sĩ phải xin lỗi và nói lại một cách nôm na rằng nó chính là cái bệnh... thiếu thịt. Láo toét, ông chửi thầm, ngày cưa ở trên rừng mấy tháng liền chẳng có tí thịt nào có thấy bệnh tật gì đâu, rồi các ông sư ở chùa nữa, quanh năm chẳng có miếng thịt nào mà vẫn béo mập... già đấy thôi. Ông tự an ủi vậy và chiều hôm đó vợ ông đãi bạn bè nhân dịp lên lương, để giữ vững được lời thề, ông cáo bệnh nằm trong phòng. Rõ thật không may, phòng ông liền ngay với bếp và phòng ăn, cho dù ông có bưng tai bịt mũi thì những mùi xào nấu, mùi cá nướng, tiếng sao chặt thịt chan chát vẫn cứ vọng tới. Sau cùng bữa ăn cũng bắt đầu, chỉ nghe tiếng kéo ghế, tiếng người nói, mời mọc... ông cũng đủ hình dung được ra các món ăn ngon lành bầy biện trên bàn. Trước tiên ắt phải có món cua tẩm bột rán là món tủ của vợ ông, rồi đến gà chiên cơ, cá lóc bỏ lò, bê thui chấm tương gừng và sau cùng, ắt phải có một cái lẩu thập cẩm. Ông cứ nằm tưởng tượng ra cái màu sắc, hình dạng và mùi vị của từng món vợ ông đãi khách cho tới khi cô con gái gõ cửa và lách người vào, đi tới sờ tay vào trán bố: - Bố hết sốt rồi, bố ra ngồi với các bác ấy cho vui. Ông dãy nãy: - Thôi, thôi, tao mới dứt sốt đang còn mệt lắm, ngôì sao nổi. - Hay con bưng các món vào đây cho bốn nhé. Dạ dày của ông như mớn rên lên một tiếng vậy, nhưng không vẫn lắc đầu quầy quầy: - Thôi, thôi, miệng đang đắng ngắt, ăn uống gì được. Cô con gái đi rồi, một nỗi tuyệt vọng đau đớn đè nặng trên dạ dày ông. Nó tức giận sôi ùng ục làm ông phải nằm úp sấp, dán bụng xuống giường vũng không trấn nổi cái cơn cồn cào đang làm đầu óc ông quay cuồng như người đang đi thuyền giữa biển bất ngờ gặp bão. Ông thiếp đi trong cơn đói và lúc choàng tỉnh dậy trời đã tối, xung quanh yên ắng, tịnh không một tiếng động. Ông vén tay xem đồng hồ, trời đất đã quá nửa đêm, dạ dày lại réo ùng ục, cơn đói đẩy ông xuống giường, bước ra phòng ngoài và đi tới chiệc tủ lạnh kê trong góc nhà như một người mộng du. Không, không phải là ông đâu, một người nào đó đã chi phối mọi hành vi của ông, đã bắt ông giơ tay mở tủ lạnh và mắt sáng lên khi thấy trong cái bát to Trung quốc một con chim câu nhồi thịt, mỏ ngậm cọng hành, chúi xuống nước hầm sen còn vương mấy cọng mộc nhỉ. Ông thaóng nghỉ tới con chim hôm nào nhìn ông lúc lắc đôi mắt hạt cườm rồi vút bay lên trời cao, hôm đó ông mới nhận sổ lương hưu và mới xảy ra quyết định "chỉ ăn trong mức lương hưu" trong một phút bốc đồng muốn cất mình khỏi cái hàng ngày đầy phiền tạp. Mới đó thôi mà đã một tháng rồi, một tháng ông bóp mồm bóp miệng để được thực thi cái quyền "làm chủ gia đình" của mình. Nhưng lúc này, đối diện với bát chim hầm, ông không còn là ông nữa, một người khác đã nhập vào ông, không còn kịp đóng tủ lạnh, cứ đứng thế bốc từng miếng thịt chim. Chao ôi, cái vị ngọt không bút nào tả nổi của nó xộc thẳng cuống dạ dày, lan đi các mạch máu như một luồng sinh lực đang ào ạt tràn vào cơ thể. Chính là lúc cơn khoái đang lên tới độ cao nhất, tiếng kẹt cửa làm ông giật nẩy và mọi thứ trên đời bỗng dừng cả lại, ngay cả thời gian dường như cũng không trôi nữa. Nhẹ nhàng như một con mèo, bà lướt tới trước mặt ông và cất tiếng cười, Ông bỗng lảo đảo như bị trúng gió, hai tay ôm ngực, ông nôn thốc nôn tháo tất cả món chim câu nhồi thịt vừa rồi ông đã tọng vào dạ dày một cách vội vả.

Con Gà Của Bà Hàng Xóm

Chuyện cuối năm

Buổi sáng mùa xuân, nắng mặt trời phủ xuống, in rõ bên cửa sổ. Tôi nhìn khắp mọi nơi, toàn là màu xanh rậm lá thiên nhiên. Mùi thơm hoa hồng dịu ngọt, mùi cỏ dại ngây ngây. Mùi cây lá xanh tươi muôn thủa. Tôi sung sướng thấy mình có đầy đủ. Một lần nữa, tôi lại ngắm nhìn xung quanh . Cảnh đồi xanh mướt, cảnh khói trắng từ trong mái nhà đang bay ra, cảnh đường chân trời và thôn xóm, tôi càng thấm thía khung trời xinh đẹp êm ả mùa xuân.

Hai bên cỏ dại hoa nhung tím

Chen lẫn trắng vàng khoe nhởn nhơ

Riêng tôi với gió thầm thì hát

Bông lúa cựa mình rung phất phơ …

Nơi đây, không có ai kể chuyện nơi quê tôi, nhưng tôi đã nhìn thấy được hết làng xóm thân thuộc gần xa, đang rộn ràng chuẩn bị đón xuân. Bỗng nhiên tôi nhớ đủ thứ … Nhớ con đường gập ghềnh, lồi lõm của quê hương bên căn nhà sạch sẽ bóng láng, ai vào nhà cũng để giày dép ở ngoài thềm. Nhớ vườn tược quanh nhà bị cây cối lấp che hết. Rau cải cũng như những quả hồng mềm mịn, đang lơ lửng trên cây mà tôi không dám đưa tay sờ vào …

Còn nữa, nhớ con gà xù lông từng chùm, chạy nghiêng ngả dưới những cây mận…Nhớ những cái tát của ông cụ thân sinh tôi trong bộ áo quần màu trắng nhạt, đứng chống nạnh, giọng giận dữ: « Con gái mà ăn mặc « Hippi » đi nhảy nhót vậy hả ! » Bốp ! bốp ! Cảnh này quen rồi, lúc đầu tủi thân tôi khóc thầm . Riết rồi đâm quen, chẳng thèm khóc nữa… Tôi hận « ông già» khó tánh.

Rồi lại nhớ mối tình thơ dại, mê man hẹn hò bên bụi tre um tùm, dưới đêm trăng trong sáng, bị ông hàng xóm nhìn thấy, làm tôi mắc cở muốn chui xuống đất…chết luôn. Kể từ đó, thấp thoáng bóng ông là tôi quẹo sang đường khác, đôi khi vô tình chạm mặt ông, tôi sượng trân, chết điếng, mặt cứng đơ…

Rồi lại nhớ, một ngày của tháng giêng năm …Thấy thằng Cọp bên cạnh nhà tôi đi chợ mua những thứ lặt vặt , tiêu ớt, gừng, tỏi v.v…Tò mò tôi gạn hỏi, té ra thằng Cọp, thằng Xính, thằng Mánh trộm gà của bà Bún ở làng dưới .

Ba thằng hăm he tôi mà hé miệng, ba đứa sẽ…rạch mặt tôi. Ðêm đó ba thằng ôn dịch rủ tôi lên trên sân thượng nhà thằng Cọp coi cắt cổ gà. Thằng Xính mang theo cái bếp bằng lò xo, bình nước và cái nồi để làm thịt con gà mái . Nhổ lông gà thằng Mánh cho vào bao bố cẩn thận, ngày mai đem đi chôn. Ðêm đó tôi chứng kiến con gà bà Bún vào hết trong bụng của ba thằng ôn dịch và cả tôi nữa .

Hôm sau, bà Bún phát hiện mất con gà mái. Uâi trời ! bà chửi cả làng đều nghe. Bà Bún ôm cái rổ trong đó có gạo và mấy đồng tiền, bà đi quanh xóm kêu gào thảm thiết . Mỗi câu chửi như sắp sẵn trong bụng, và một câu chửi là một đồng tiền và nắm gạo tung lên rơi xuống đất .

Qua sáng hôm sau, bà ôm cái rổ đi lên đi xuống, tiếp tục chửi tiếp. Nghe bà Bún chửi, tôi muốn xây xẩm. Chịu không nổi, nên tôi nói dối ba mẹ xin đến nhà bà Ngoại để ông Cậu tôi kèm toán, ba mẹ tưởng tôi siêng học, nên cho đi liền ( nhà Ngoại tôi cách đó khoảng năm cây số ) .

Hai hôm sau, tôi về nhà thì trời ơi …Gia đình nhà tôi và bà Bún vừa xẩy ra một trận ẩu đả tơi bời hoa lá. Bà Bún đi ngang nhà tôi thấy lông gà bên cạnh giếng, bà quả quyết nhà tôi ăn trộm gà bà. Mẹ tôi không chịu được lời vu khống, mà cả nhà tôi cũng không ai chịu được, nên hùng hổ nhảy ra ăn thua đủ với bà. Lúc đầu chỉ có Mẹ tôi gây gỗ với bà Bún, chồng bà Bún bênh vợ nhảy vào. Ba tôi đứng một bên ngứa mắt liền nhảy vô tiếp sức với mẹ tôi. Mấy đứa con bà Bún cũng nhảy vô, đàn em tôi đứng xớ rớ thấy vậy xông vào tiếp chiến ngay.

Chồng bà Bún và ba tôi sừng sộ gầm gừ nhau. Mẹ tôi với bà Bún vật nhau chúi xuống đất, hai tay cào nhau quyết ăn thua đủ. Em trai tôi cùng con trai bà Bún, thoi nhau đến vỡ mặt, bể môi. Con gái lớn bà Bún nắùm tóc em gái tôi vật xuống, em gái tôi ú ớ túm tóc của đối phương kéo giật ngược lại. Tiếng hét, tiếng khóc vang lên tạo thành một âm thanh hỗn độn thật khủng khiếp. Bà con hàng xóm, tròn mắt, nhốn nháo nhìn nhau về vụ bà Bún mất gà, rồi ùa đến đầy sân nhà tôi , họ vội nhảy vào giữa vòng chiến để giải hòa .

Sau trận đánh nhau hai bên . Gia đình nhà tôi ở làng trên.Ž Gia đình bà Bún ở làng dưới tưởng đâu đã êm vì mệt mỏi. Ngờ đâu, hôm sau bà Bún ôm rổ gạo trộn muối đi ngang cổng nhà tôi chưởi nữa. Mặt bà Bún càng dữ dằn, không thấy chút mệt mỏi . Bà trợn mắùt nhìn vào nhà tôi. Ba tôi bắt ghế ngồi trước sân nghênh chiến . Mắt ba tôi nhìn chăm chăm phía trước, như suy nghĩ chuyện gì như gây cấn lắm ! Phải có cách gì chứ không lẽ để bà mất gà cứ nhắm vào nhà mình mà chưởi mãi !

Cả nhà tôi tức lắm ! Tâm trí của tôi cũng bị uất hận nữa…Tôi rất nhiều lần muốn khai thật với ba tôi, nhưng tuổi trẻ ngu dại lại nhớ lời đe dọa của tụi thằng Cọp đòi rạch mặt nên không dám nói. Bà Bún hốt gạo trong rổ, rẩy tung lên con đường vào nhà tôi, bà vừa khóc vừa chửi, rít qua kẽ răng méo xệch :

- Tổ cha, mả mẹ ba đời chúng mày ! Năm hết Tết tới, chúng mày ăn gà nhà tao cho tụi mầy mắc xương ngang cổ, hộc máu chết ba đời nhà bây. Ba đời chúng mày sẽ xui năm cùng tháng tận mạt kiếp…Trời ơi ! con gà mái nhà tao mỗi ngày đẻ trứng, nỡ nào chúng mày ăn tươi nuốt sống…Ôâi quân khốn nạn, chó đẻ...Hu hu hu…

Tôi đứng chết trân trong nhà nhìn ra ngoài cổng, nghe bà Bún chửi mà nghếch mặt ra, và tự hỏi ông Trời, ngày thường bà Bún hiền lành, dễ thương vì mất gà mà bà đã thay đổi, chửi bới bặm trợn thành người hung dữ đến rợn người. Bỗng ba tôi quắc mắt quát :

- Nòi gà mái đẻ lang, không giữ ở nhà để đẻ bậy, mất gà đáng đời. Oan ức nổi gì ? Bà còn lảng vảng nhà tôi, tôi xuỵt chó ra cắn bà bây giờ…

Miệng bà há hốc, định xông vô nhà tôi, nhưng con chó đen đang gầm gừ muốn nhảy ra. Bà Bún phun một bãi nước miếng xuống đất, rồi ngoe nguẩy bỏ đi, miệng không ngớt chửi bới. Tôi chưa nghe ai mà chửi rủa như bà Bún. Nghệ sĩ Hồng Vân trong vở kịch chửi vụ mất gà cũng chưa bằng bà Bún. Giọng Bắc chửi có âm điệu lên bổng xuống trầm, còn dễ nghe. Giọng miền Trung bà Bún lúc rủa xả ầm ỉ nghe muốn nổi da gà, rợn tóc gáy. Tiếng chửi bà như một bài văn tế của Quỉ ai nghe cũng phải giật mình, muốn bệnh theo lời chửi của bà luôn. Tôi có cảm nhận rất rõ về sau này, mỗi lần gặp bà Bún tôi cứ nhăn mặt lại, vì chính bà làm tôi sợ nhất …

Bà Bún đi rồi . Ba tôi lẩm bẩm : Không biết đứa nào trộm gà rồi bỏ lông bên nhà mình ? Hay là lông gà ở đâu bay tới ?

Tôi lặng thinh quay đi, ba tôi gọi giật lại :

- Con Xuân đi đâu đó ?

- Ðâu có đi đâu ba !

- Ði pha cho ba ly trà .

- Dạ .

Rồi ba tôi nhăn mặt :

- Lạ thật ! Nếu ai thù gì mình thì họ bỏ cả đống lông gà, tại sao vài ba cọng ? mà lông gà mà bay sang nhà mình, tụi ăn trộm gà ở gần đâu đây, chứ không không ở đâu xa ? Ba tôi lập luận như vậy, rồi đi qua, đi lại các nhà bên hàng xóm …Cả nhà đi vắng, tôi vội chạy sang nhà thằng Cọp. Thấy thằng Cọp đang ngồi chẻ tre đang rổ bên cửa sổ, tôi đến ngồi bên cạnh hỏi nhỏ :

- Có phải mày bỏ lông gà bên giếng nhà tao ?

Mặt thằng Cọp xìu lơ, sợ sệt nhìn ngược nhìn xuôi :

- Thằng Xính lấy lông còn sót, nên lông bay sang nhà mày ? Mày nhớ đừng hé răng à nghen !

- Ưø ! tôi gật đầu . Rồi hỏi nhỏ :

- Mày có nghe bà Bún chửi không ?

Thằng Cọp gật đầu, rồi đưa tay rờ cổ :

- Nghe bả chửi tao muốn sưng cổ họng luôn.

Tôi run run :

- Cho bỏ cái tính nghịch ngợm của mày đi !

- Ðâu phải mình tao. Tụi thằng Xính, thằng Mánh biến đâu mất rồi …

Tôi ra về. Không ngờ ba tôi đi đâu cũng vừa về, thấy tôi ở trong nhà thằng Cọp đi ra, ông gật gù đầu hai ba cái. Tôi có cảm nhận là ông đã tìm thấy điều gì , và y như rằng … Trời ạ ! Tôi cũng có chút suy nghĩ như ông. Hễ nghi đâu trúng đó. Ba tôi nghi thằng Cọp là đúng ngay ! Tối đó ba tôi gạn hỏi. Tôi chối dài dài . Mẹ tôi ngồi phía sau vẻ mặt âu lo biết tôi sắp được « ăn đòn ». Bà biết ba tôi mà giận lên thì phải biết, ông cho ăn đòn « không đẹp » là không ăn tiền…Biết dùng tâm lý không xong, « ông già » tôi xán hai cái tát nẩy lửa, và quất roi vào mông tôi đau điếng. Mẹ tôi đứng chắn ngang ở giữa không cho ba tôi đánh tiếp . Ba tôi nói : « Coi nó bạo gan tới đâu ? » Tôi hét lên vì đau xoa…mông chạy khóc quanh nhà .

Ba tôi đánh đau quá, tôi khai ra thằng Cọp, thằng Xính thằng Mánh bắt gà nhà bà Bún. Tưởng đâu khai ra nhẹ tội, hoá ra nhận thêm ba roi như đứt ruột, về tội khuya khoắt mà con gái dám tụ năm tụ ba với bọn con trai .

Sau trận đòn của tôi, thằng Xính, thằng Cọp, thằng Mánh cũng bị đòn nhừ tử. Gia đình bà Bún xin lỗi gia đình nhà tôi. Ba mẹ tôi cũng xin lỗi lại việc đánh nhau vừa rồi . Hôm sau cả xóm đều biết thủ phạm trộm gà bà Bún.

Năm nay, năm con Gà, lòng tôi thấy nôn nao. Xin gởi đến quí vị độc giả câu chuyện mất gà của bà hàng xóm năm xưa, và những ngọn roi vọt của ba tôi như nhớ một bài học của thời bé nhỏ ham vui chưa đủ khả năng ý thức. Tưởng đã quên dần theo năm tháng, không cố nhớ mà hiện ra.

Năm Gà kể chuyện Gà, đọc xong bài này, quí vị nào nuôi gà nên coi lại chuồng gà có mất con nào không ?

Kính chúc quí độc giả thương mến có một mùa xuân ấm áp bình an, hạnh phúc và nhiều may mắn hơn năm cũ.

Chó Mèo Hoang

Thà con cọp trên rừng hay đàn cá dưới biển, chúng nó sống như chúng nó sống, cứ tự nhiên, như cỏ nội, hoa đồng. Chúng không cần loài người biết đến, họ có hay không thì chúng cũng chả dính líu gì, có họ mà lại hay hơn! Chứ giống chó, giống mèo, nếu ta không nuôi thì nó biết làm sao? ừ, chúng đi làm gì?

Những chó mèo hoang không thể lại thành chó sói hay mèo rừng. Chúng đành phải thất thơ thất thểu, rách rưới, lang thang. Người ta phải nuôi, có một bổn phận phải nuôi bọn nó, nhưng người ta không nuôi. Vậy thì thôi, ai bắt người ta cho được?

Những con vật ấy đã nhiễm thói ăn cơm với cá, quen tính ở cậy ở nhờ, nương tựa, ỷ lại vào những gia đình, để bắt chước những điều văn minh. Chúng đã qua lại trong nhà cửa, đụng chạm với những bàn ghế, chung chạ với bếp núc. Và không thể tự mình lo đủ, vì đã mất bao nhiêu tài cán trời cho.

Không ai nuôi, bọn nó đi hoang; chúng bơ vơ, cực khổ, chúng đói khát, dơ nhớp, chúng thất nghiệp.

*

* *

A, những con mèo mắt sao, mắt ma, mắt giếng thẳm, bí mật như xứ cổ Ai Cập! Chúng rút mình lại, kêu một tiếng rù rù đâu từ các lỗ chân lông phát ra, lấm chấm nghe như gồm bằng rận nhỏ. Chúng hư thân, mất nết lắm, cái bọn mèo!

Khi Sơn còn học vần quốc ngữ ở nhà, mỗi lúc gần bữa ăn, mẹ Sơn bảo:

- Sơn, đi lấy cơm cho mèo ăn trước, kẻo đến lúc người ta ăn, nó nhảy ngay lên, đứng trên bàn.

Cơm xéo thật rời, chan nước thịt, lại bỏ thêm cá vụn, đựng trong cái chén sắt tây mới tháng trước em Sơn còn bưng ăn. Sơn trông mà bắt thèm đi được. Thế mà con Mun lè cái lưỡi hồng chỉ liếm vài miếng, xơi hết cá rồi thôi. Nó ăn sang! Nó làm bộ! Cho ăn tử tế thì không chịu. Để rồi đi ăn vụng, sướng hơn!

Nó lại còn làm biếng nữa. Trong bốn tháng trời nuôi nó, nó chỉ bắt được có một mẩu chuột tí hon. ấy vậy mà khi xin nó về, mẹ Sơn xách tai nó giơ bổng lên cao thử xem tính nó siêng hay nhác, thì con Mun co mình lại, quắp chân vào, kêu eo éo, ngó sao dễ thương quá! Làm cho cả nhà tưởng nó sẽ siêng.

Sơn cho nó ăn cơm lâu ngày cũng chán. Sơn không chịu nổi công việc ấy nữa. Trước người ta quí nó bao nhiêu, bây giờ nó hư bấy nhiêu. Mặc xác nó! Miễn là giữ gìn các thức ăn, đừng cho nó ăn vụng. Nó muốn đói thì cứ đói, mà muốn no thì bắt chuột lấy mà ăn!

Thế rồi con Mun đi hoang, theo bạn theo bè. Nó đi lúc nào không hay, nhẹ nhẹ bốn chân cao su của nó.

*

* *

Nhưng một sáng sớm cách đó ít lâu, ở đống gỗ đầu hiên, Sơn nghe có cheo chéo những tiếng mèo kêu, nhão ướt và inh ỏi. Thằng Được, một đứa ở nhỏ, kể lại với Sơn, giọng quan hệ bằng chuyện sinh hoàng tử:

- Con mèo bụng to gần sát đất vẫn đến nhà ta; hôm nay đẻ rồi. Năm con! Nó gầy xóp ve, không có sữa nên con nó la nheo nhéo.

Thế có gì hay? Song thằng nhỏ nói giọng rất thầm kín làm cho Sơn tò mò.

Sơn chạy ra xem. Mấy mẹ con ở trong hốc nào, tìm mãi không thấy, chỉ nghe tiếng rên la. Bọn mèo sơ sinh thi nhau réo to, trẻ con khóc không bằng. Sơn thương ngay. Thực lòng Sơn tội nghiệp chúng nó lắm.

Và Sơn liền được dịp che chở: chính trưa hôm ấy con mèo mẹ đến luẩn quẩn dưới bàn ăn cơm. Không biết nghĩ sao nó cứ đụng vào ghế Sơn ngồi. Sơn biết ý, lén bỏ xương cá xuống đất. Cái ấy cấm ngặt. Mẹ Sơn đã dặn: "Đừng bỏ xương xuống, nhớp nhà, và dậm lủng chân". Nhưng con mèo và cả gia đình nó đương đói đây này, quí hóa gì cái xương mà tiếc với nó?

Mẹ Sơn bắt được Sơn bỏ cả nửa con tôm xuống dưới bàn. Bà nhìn theo xuống, thấy con mèo. Bà nói:

- Mày nhịn ăn mà nuôi nó! Làm thế nó quen môi đến hoài, rồi rũ lông vào đồ ăn cho người ta ho lao!

Ăn phải lông mèo thì ho lao! Ghê chưa?

Mẹ Sơn còn giảng với những người khác:

- Không phải vậy là thương chứ. Đồ mèo hoang, chỉ tổ ăn chùng!

Tuy thế, sau bữa ăn trưa, Sơn lén vét một chén cơm cho con mẹ khốn nạn. Sơn lại còn nói mơn nó:

- Ăn đi, ăn mau, về mà cho con mày bú!

Có phải tội nghiệp hay không? Mấy con mèo mới đẻ, nhỏ yếu, khát sữa, rúc miệng nhai nát vú mẹ mà chẳng nước gì. Trách sao bọn nó đừng la. Nghĩa là nó khóc theo tiếng của nó.

*

* *

Tuy mẹ Sơn nói hung hăng, nhưng bà không rầy Sơn tốt bụng của bà nữa. Ngày nào con mèo lạ cũng được no. Bà lại còn vẽ cho Sơn:

- Cho nó vừa vừa, kéo nó bỏ dư, uổng hột ngọc trời. Người ta nói "ăn như mèo ăn ", con lấy chi nhiều cơm vậy?

Rồi thì một hôm - chúng nó vào như mèo chả ai biết mà để ý - toàn chùm mèo con nằm gọn trên cái ghế mây. Chúng lại dỡn nhau, con này nhảy lên con kia, làm dáng, khoe duyên, nằm xuống, đứng lên, ngừng lại, chạy vòng, tưởng đâu nhà của Sơn là nhà của chúng.

Đẹp nhất có con tam thể. Ba màu óng ánh, trắng, đen, vàng. Chao ôi, sao nhỏ nhẻ, mũm mỉm, yếu ớt, dễ thương! Sơn nhịn không được, bồng nó vào tay, vuốt ve, nưng nịu. Chị của Sơn, cô Thư mười hai tuổi, bấy lâu hờ hững, hôm nay lại âu yếm hơn ai. Cô nhỏ bồng lên mà thương, thương lộ rõ nơi bàn tay mơn lông, thương quấn quít nơi hai chân nhảy nhót, thương giòn giã nơi miệng nói, thương, thương!

Mẹ Sơn ban đầu nghìn nghiêm hai chị em:

- "Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì giàu". Bay liệu đấy! Cơm đâu mà nuôi sáu cái miệng chỉ giỏi ăn mày?

Chị Sơn nũng nịu:

- Mẹ ạ "chó vào nhà thì nghèo, mèo vào nhà thì giàu" chứ! Có phải không mẹ! Phải không Sơn, câu tục ngữ xuôi hơn, đúng hơn chứ?

Mẹ tát yêu vào mặt chị. Giỏi thực! Chị Thư học đâu mà nhiều tục ngữ thế? ứng đối như trạng Quỳnh.

Rồi nhà lăng xăng lên vì những tiếng "meo... meo..." của năm sáu con mèo và của hai đứa nhỏ gọi mèo. Cho ăn, tắm rửa, chăm sóc, vuốt lông, dỡn, đùa, nhìn, vui quá!

Một lần mèo chạy vào chỗ cát, mũi còn ướt, nên dính cát đầy. Sơn phủi không hết, đem cào rửa, đến nỗi rách da non, thấy cả thịt hồng, Sơn lẻn vào buồng mẹ, lấy ve dầu tăng dót ra bôi.

Thấy mũi mấy con mèo nhỏ vàng khè, chị của Sơn lè lưỡi xuýt xoa, tưởng như mũi mình đương bị rát. Nhưng Sơn giảng nghĩa cho chị:

- Chị ạ, mèo nó không biết rát như ta đâu.

*

* *

... Lòng sốt sắng nguội dần, nhất là trong lòng con trẻ. Mấy con mèo càng ngày càng khuấy nghịch. Chị Sơn ngồi tập khâu vá, thì chúng tung rối cả cuộn chỉ; Sơn học, thì một con nhảy lên nằm gọn trên vở mới, nhớp tờ giấy trắng tinh. Cho ăn chung thì phải lấy cả cái đĩa to, đĩa ấy bận đơm cơm cho người nhà; cho ăn riêng thì phải bốn năm cái chén; mà bỏ cơm giữa đất, thì phải quét nhà.

Và càng lâu, càng lớn, chúng ăn càng tợn; mà thức ăn chúng lại kén chọn như ông hoàng. Nhà Sơn có giàu, có sang đâu!

Đã mấy lần, Sơn nghe thằng Được cau có. Bởi vì mèo ăn hết cơm, hết cá, hết phần của nó đi. Nó ăn sau nên nhà trên ăn còn thừa món gì, thì mèo đã hưởng trước nó, đến lúc bưng xuống thì bao nhiêu đĩa đã sạch bong. Và, hỡi ôi! Mèo lại còn ăn lẫn của nó nữa! Một hôm, mẹ Sơn cho nó một miếng cá - ngon lắm, cá thu - nó chưa ăn, chạy ra giếng xách nước; trở vào: đau đớn chưa mèo phỗng mất của nó rồi!

Té ra bọn mèo này ăn vụng! Rau nào sâu nấy. Chị Sơn đã bắt đầu nghĩ cách người lớn:

- Đồ con chửa hoang, làm sao mà nên được! Hư là phải. Cái giống mèo hoang...

Thấm thoát qua nửa tháng. Bọn mèo hành hung, rối loạn. Giường nào cũng leo, bàn nào cũng trèo, ghế nào cũng ngồi, không còn thứ bậc chi nữa. Nhỡ mình chúng có bọ chét, có phải lây sang người ta không? - Và ăn vụng cũng không chừa; quen môi chúng càng gian giảo gắt. Lại còn la inh ỏi; ban sáng, ban trưa, ban đêm người ta ngủ, lúc nào cũng mè nheo.

Con mèo mẹ ra gương xấu trước nhất. Phải trị. Đầu tiên, mẹ Sơn bảo đánh, Sơn lấy một cái lạt tre mỏng như cái tăm. Lần thứ hai một cái que lớn hơn. Lần thứ ba, cái cán quạt lửa. Lần thứ tư, con mèo lỳ lợm quá. Sơn phải dùng cả đến cái thước gạch. Thế mà mẹ Sơn còn mắng:

- Mày đánh không thấm da nó! Phải đánh mạnh, đánh chết đi cho chừa!

Sơn đánh không nỡ tay. Sao lại bắt Sơn làm công việc trị mèo ấy? thằng Được liền vội vàng bái lĩnh. Nó thi hành ngay với chiếc guốc, với cây củi. Nó cứ đánh bừa, gặp cái gì trong tay, là nắm lấy mà đánh mèo, không biết nó có thù gì to lớn thế. Sơn xin nó đừng đánh, nó không nghe. Sơn bảo nó đánh nhẹ, nó chỉ cười. Thấy mà đau giùm cho mấy con mèo; thằng nhỏ nhẫn tâm quá! Nhưng mèo hư tột bậc, cứ ăn vụng hoài. Sơn không có lý gì để bênh vực. Chị Sơn đã bỏ chúng, chỉ còn Sơn bịn rịn, - sao lòng Sơn lại yếu hơn lòng đàn bà?

Bây giờ ai đánh mèo, Sơn không dám cản, ai đập guốc nhằm chân mèo, Sơn chỉ nói nhỏ trong miệng: "tội chưa" - Bọn mèo ơi, ngoan lên thử nào! Bay hư hỏng thế này thì xấu hổ cho Sơn, người đã rước bay về; bay làm cho Sơn không thể giữ bay ở lại mà nuôi nấng.

*

* *

... Gió nồm bỗng thổi lên: thả diều sướng biết mấy! Sơn không giữ mấy con mèo nữa, ngày độc ác ấy, mẹ Sơn bảo thằng Được bỏ lũ mèo ở miếng đất hoang tận đầu thành phố, rất xa, cho chúng khỏi tìm cách về. Cách giải thoát này hoàn toàn nhất, không còn kế nào hơn. Còn nhớ thằng Được - thằng nhỏ sao nỡ quên rằng nó cũng tập tàng như rau tập tàng, đẻ ở bên ruộng kia, nếu không đẻ nơi đống gỗ - Thằng Được xách một tay hai cái tai, một tay ba cái; bọn mèo van nỉ, nhưng nó thì cười. Và con mẹ thì nó mượn một đứa nào đó ôm theo. Nó còn thêm:

- Tao vứt đủ cả sáu chúng mày hủ hỉ mẹ con với nhau. Đừng mong về ăn vụng nữa?

Tiếng "ăn vụng" kéo Sơn lại với niềm sắt đá; Sơn phải nhớ sự thật; nhớ bao nhiêu điều hại bọn mèo đã gây ra; dầu Sơn có thương đến đâu, cũng không ôm mấy con mèo lại được.

Ngày nay lớn lên. Sơn không chỉ thương sáu con mèo xấu số đã cùng sống với chàng trong một thời hạn, ghi lại nơi tay chàng một cảm giác mịn màng ve vuốt, lưu lại nơi mắt chàng cái ký ức của những con mắt tinh ma.

Chàng nghĩ đến tất cả những con mèo sống trong lối, lút trong đêm, trùm trong bí mật ghê sợ của một cuộc đời vô định, khác xa những con mèo sang trọng trong những gia đình trưởng giả, nằm chuốt lông trên chiếc gối bông êm ấm, hình bóng loáng như hàng lụa bao ghế hay gạch hoa lát nhà.

Nhiều phen Sơn đứng trên gác trọ, nhìn bao nhiêu nóc nhà chen lấn, lúc nhúc, gập ghềnh. Những nét ngớ ngẩn vì rắn rỏi, những đường gãy hẳn một cách thô bạo, mái bằng phẳng hay trồi lên sũm xuống vì lợp kiểu âm dương, vôi mốc rêu, ngói cũ càng, những màu nâu hay đỏ, những sắc xám hay xanh: tất cả làm nên một cảnh tượng kỳ dị, buồn cười, một cảnh tượng riêng khác.

Sơn nói: đó là thế giới của bọn mèo hoang. Chúng chui trong ống khói đen, nằm trong máng khô nước. Chúng đi nhẹ như sự rụt rè, chúng nhảy mau, chúng lượn nhanh, chúng vọt cao, chúng bổ thấp. Chúng khinh luật thăng bằng, chúng không sợ chiều dưới, và không nể chiều trên. Chúng không thể ngã chúng không thể té. Có phải chúng nó sống trong một cái đời ở trên cuộc đời hay không?

Song chúng tìm đâu ra ăn? Bảo là ăn vụng, thì tiện quá; cái hay, cái khó ở nơi cách ăn vụng. Đánh cắp thế nào? Rình mò ra sao? Chờ ban trưa, đợi ban tối? Nào có dễ gì ăn vụng! Người ta không chịu mất một con tôm to hay một miếng thịt nhỏ mà không báo thù bằng một thanh củi nặng làm gãy xương sườn. Có nhiều đêm, Sơn được gặp hai chấm sáng trong bóng đen, thôi miên, ám ảnh. Có những chiều, Sơn bắt gặp một thoáng mèo vụt qua rồi biến không biết nào nơi đâu. Có những trưa, Sơn trố mắt tha hồ trông những con mèo hoang gầy bẹp như không có bề dày, ngủ phơi dưới nắng.

Dầu đói khát, dầu phải tìm vỏ tôm hay xương cá ở nơi thùng rác, dầu phải đánh cắp những bộ ruột gà người ta vứt đi, dầu khổ sở thế nào, nhưng con mèo hoang vẫn giữ lấy vẻ quý phái – quý phái chứ không trưởng giả. Cách đi đứng, cách nhai nuốt, cách nâng nhẹ những vật thừa thãi đều có duyên của những bà hoàng sẩy ngôi hay những cung nữ hết thời. Chúng bước dè dặt, không muốn dính mình vào đất dơ, chúng có cái đặc tài giữ chân cẳng trơn tru, dù phải dậm qua nhớp nhúa. Và hễ thong thả, chúng liền tỉ mỉ tắm gội. Những cơn đói không bắt chúng lành tính sạch sẽ; tuy là mèo hoang, chúng vẫn còn là mèo.

*

* *

Và họ cũng không chừa cắn nhau, những bà tướng có râu mép. Họ không bỏ hẳn cốt hùm beo của giống giòng. Chân gầy của họ khéo dùng những móng trắng mỏng, nhọn quấn lại, giữ bén và kỹ hơn gươm trong chuôi.

Họ bấu nhau thì ít, gừ nhau thực nhiều. Họ gậm gừ, tiếng khô như khát, tiếng xóp như đói. Những tiếng căm giận, uất ức, đen ngòm, mếu máo như tiếng khóc của đứa hài nhi. Chốc chốc hai tiếng kình địch xoắn lại như quặn lấy nhau, nghe sợn sùng giữa đêm tối.

Tiếng gào của bọn mèo hoang, xui ta tưởng đến những bãi tha ma, những quỷ địa ngục. Ta thường gọi "Mèo ma" những thứ mèo tợ hồ không phải là sự thật, những thứ mèo có lẽ là giả, là yêu tinh. Và ý chừng, tuy ta không nói rõ với trí ta, ta vẫn tin mờ mờ rằng đó là yêu tinh hiện hình giả dạng.

Mèo hoang! Chuyện hồ ly thuở xưa chắc hẳn chỉ là bịa đặt; chỉ có các ngươi, chỉ có bọn mèo hoang mới thực là hồ ly tinh!

*

* *

Bọn mèo hoang tuy thế mà còn sướng. Chúng chẳng sinh ra để sống ngoại hạng, sống ngoài biên là gì. Chúng cao, chúng nhẹ, chúng ở thượng tầng như những nóc lầu chúng xem tợ đất bằng, như những chim sẻ chúng bắt ăn. Chúng có thuật tàng hình, biết làm một xứ riêng, ở đó mà meo, mà gào, mà khóc lên những tiếng hãi hùng cho bọn trẻ con - như Sơn khi còn nhỏ.

Bọn chó hoang mới thực khổ.

Bọn nó trung thành quá nên cứ luẩn quẩn chung quanh người. Bọn nó hiền quá, thật thà quá để người ta đánh một cách dễ dàng, rồi kêu những tiếng đau đớn như bị gãy xương và vỡ trái tim. Gồm bằng những con chó nhà nghèo, chủ đói không có ăn, huống chi là chó. Gồm bằng những mẫu chó đẻ bên bụi cỏ, lọt lòng ra rúc hết vú mẹ không được một chút sữa khô. Gồm bằng những con chó người ta quên nuôi, vì một ngày kia trong nhà bỗng có mười con hoàng anh hay một con vẹt. Gồm bằng những con chó người ta không đem đi, lúc đổi chỗ ở: chúng yêu quá, nương mùi tìm chủ, song đường xa thẳm, hơi đã bay theo gió mấy lần.

Gồm bằng những con chó già. Gồm bằng những con chó đau. Và biết đâu? Gồm bằng những con chó cứng đầu, ghê roi vọt và sợ đọa đày, bằng lòng chết khổ để theo tự do, như chó sói.

*

* *

Ban ngày, chúng đi lang thang, không biết dùng mình làm việc gì. Chúng không phải là loài biếng nhác. Nhưng không có sân, không có nhà mà giữ để sủa cho sướng miệng. Bây giờ chúng dám đâu hùng hổ với người ăn mày! Bởi vì chúng cũng đương đi ăn xin. Nhưng chúng chỉ có đôi con mắt để mà trông thôi, chúng không có lời để mà nói. Chúng chỉ có một bộ xương rất rõ, đếm được từng cái một, không hề che lấy bằng mảnh giẻ nào; nhưng chúng không thể van xin: "lạy ông, lạy bà, nhón tay làm phúc". ồ! lắm phen chúng ngứa miệng quá. Song lẽ nào lại quáu lên giữa đường, ở ngoài trời không; loài người sẽ đánh cho im, và chửi như... chửi chó!

Những con chó nhà vẫn thường đến nhập đàn với chúng. Trong đôi giờ, chúng được quên rằng chúng là "hoang". Cả năm sáu con ngửi lông nhau, liếm mặt nhau. Một con theo đuôi một con, khác chi một người theo chân một người để xin tình ái. Chúng đứng hai con với nhau; sau khi đã mơ lẫn nhau rồi, hai bên ngơ ngẩn hai đường, mỗi đằng nghĩ một ý riêng...

Họ không kể đến xã hội loại người; còn giữa bọn họ với nhau, thì họ không biết mắc cỡ. Họ rất tự nhiên. Bởi thế mới bị người ta đến quăng đá, ném đất cho, khuấy phá làm rầy, phạm vào tự do của họ. Bảo họ vào giữa sa mạc mà yêu nhau hay sao?

Cũng rất nhiều lần cắn nhau dữ tợn, ồn ào. Những con yếu - đó là những con "hoang" - bị nhổ cả từng vạt lông, da sùi trắng hay cháy ứa máu hồng. - Nói hồng cho đẹp vậy thôi chứ máu của loại chó khô khan, đói khát, gầy gò, chỉ có thể bầm tím. Và có lẽ họ không còn máu để chảy nữa kia!

Đó còn lúc khá. Lúc này mới chịu không nổi cho bọn vẩn vơ; tới giờ ăn, những con vật mập mạp, đầy đủ, béo tròn liền bỏ chạy về mừng ông chủ cũng béo tròn, đầy đủ mập mạp, đuôi ngoắt lia lịa, đầu quấn quít vào những ống quần. Chủ đánh cái nhẹ vào mỏ ác, và một đứa nhỏ ngoa mồm lên:

- ấy, thưa cha, con Vàng nó chạy ra chơi với chó hoang, bẩn cả bộ lông rồi!

- Thầy ạ, con Vện nó muốn hư như lũ chó hoang.

- Con Ba Tô! Mày không được chạy rông như chúng nó.

"Chúng nó" thì đương ngơ ngác nhìn theo. Đầu chúng cần được cọ vào một bàn chân; sườn của chúng nhớ một bàn tay ve vuốt. Và nhớ nhất, là cái bụng lép đáng thương, rỗng như những ngày trống không ở dọc đường.

Chao ôi đói, đói, đói không rên được, đói đi không nổi, đói lử cả người, đói... Bọn họ lẩn thẩn lơ thơ, tìm những cái xương không thể rớt xuống tự trên trời, kiếm những miếng cơm mà đất không làm cho mọc lên. Trời ơi, được một cái xương to mà giòn, nhai nghe rào rạo! Ôi chao! Mùi thơm ngào ngạt ở trong bếp nhà kia đưa ra cùng với khói ngon lành! Nếu vào được ở dưới một cái bàn ăn, há hờ những hột cơm rớt xuống! Những cậu bé vụng về và hào phóng, mới tập cầm đũa hay ăn quà đã no, các cậu đi đâu vắng cả? Sao không làm mưa cơm xuống đầy đất, những hột cơm có ướt nước cá, nước thịt, nước tôm! Các cậu rất xa xỉ, các cậu đạp cả chén cơm cho đổ ùa, các cậu há miệng rất hẹp, cố ý vãi cho con chó hai phần thìa cơm. Khi suốt ngày xơi bánh đã quá no, các cậu bưng chén cơm ra hè, mượn con chó của các cậu ăn giùm cho, rồi khoe với mẹ rằng các cậu giỏi lắm. Ôi, những cậu bé hay thương người như vậy, sao các cậu chỉ ở trong nhà!

Ước mơ... Nhớ nhung... Thèm thuồng. Và đói!

Húc mũi vào đống rác. Lè lưỡi trên bụi cỏ. Cào đất lên như những con gà. Con chó hoang cũng vẫn nhớ rằng không có gì trong ấy đâu, rác và cỏ, và cả đất nữa đều bị nó lục soát mấy mươi phen rồi. Nhưng tìm để mà tìm, để an ủi này lừa dối cơn đói mà thôi. Vả lại biết đâu ông trời của loài chó lại không rủ lòng thương mà cho gặp gỡ?

Chiều chiều Sơn đi chơi, thỉnh thoảng gặp một con chó ngẩn ngơ giữa đường vắng, kiếm gì ở dưới đất, mùi dư hay hương thừa, vết không thấy của một miếng thịt hay bóng vô hình của một ngày qua?

Gặp Sơn nhiều lần nên con chó quen người; nó đã đi sau, hít hơi của Sơn một cách ngọt ngào mà Sơn không để ý tới. Rồi một bận, nó cứ theo lỳ lấy Sơn, đuôi phe phẩy. Chắc bấy lâu, nó không được mừng ai, đuôi nó cần được dùng vào tình quyến luyến. Ai bảo rằng tâm hồn nó lại không đồng một cảnh khát khao yêu mến, như cô gái hay chàng trai trong tiểu thuyết tình?

Thú thực rằng Sơn có hơi sợ chó. Đứng xa xem thì được; lại gần, nghe con chó giơ hàm răng, thè lưỡi ướt liếm vào hai chân, Sơn nhột và sợ. Khi nhỏ, học bài "Con chó dại", Sơn ghê rợn và hễ gặp con chó nào đuôi bỏ thõng, mắt ngơ ngác, Sơn liền nghĩ ngay rằng nó cắn chết người. Bây giờ, tuy Sơn biết con chó ấy không dại, nó chỉ "hoang" thôi; Sơn cũng đương còn chút sợ thuở xưa; con vật theo chàng, chàng cuốn chân, vội vàng nạt nó một tiếng lớn. Chàng muốn ù té chạy. Nhưng lại e nó rượt theo cắn chàng.

Cái ấy không cấm chàng hết lòng thương con vật bơ vơ. Sơn thấy con chó buồn. Nó buồn lắm. Không ai thương nó hết,- nó biết đâu rằng Sơn không dám vuốt ve nó. Sơn sợ tuy rằng thương. Nó chỉ cúi gầm đầu xuống. Nó đi thất thểu không lanh lợi. Thỉnh thoảng nó ngẩng lên nhìn cái gì đâu đâu. Rồi nó lại cúi xuống đường, vừa theo mãi lấy Sơn.

Nó buồn lắm. Nó đương buồn, hoặc có cớ, hoặc không cớ. Mà chắc trong hồn loài vật, nỗi buồn mới thực là vô căn, không hiểu bởi vì đâu và cũng không rõ là thế nào.

Con chó kia còn biết dùng buổi chiều của nó để làm gì? Nó không biết. Nó không có thú tiêu khiển nữa. Nó một mình, - à không, nó đi theo Sơn.

Và Sơn thì theo những ý nghĩ rất thương xót, đớn đau. Người ta buồn thì có thể đi chơi, ít nữa người ta cũng tự biết, chứ con chó sau chân Sơn, nó chỉ đương ngơ ngẩn, không hiểu cái gì lạ thế đè nặng nó như một lớp. Nó khó chịu, nó ngơ ngác, nó cầu cứu với Sơn.

Nhưng Sơn không thể bồng nó vào tay, nựng nịu, mơn trớn nó. Sơn thương chứ không mến. Sơn tội nghiệp, nhưng lòng chua xót vô vị của Sơn không giùm cho con chó được tý gì.

Rồi Sơn muốn dứt khoát cái dây tình cờ đến buộc lấy chân Sơn. Sơn đi nhanh để con chó hoang không theo kịp. Bấy giờ con vật bèn chạy lúp xúp, ô hay! Sao nó dính vào Sơn như thế!

Nó còn chạy theo chàng một quãng xa, như ai bắn nó, đuôi ngoắt hoài, mũi không thôi ngửi vào chân Sơn, cách tỏ âu yếm giống hệt của loài người: người ta hít hương da thịt của bàn tay, của cánh tay, của đầu với tóc, với má, với cổ họng có những hốc nhỏ chứa mùi thơm...

Con chó hoang đã đứng dừng, ngực lép thở mau mau, cái lưỡi thè ra một chút. Sơn đi nhanh quá, Sơn cũng không thèm quay lại nhìn nó cơ mà. Nó biết người ta ghét nó, nên phải dừng lại và trông dõi người đi.

Nó đã xin lòng thương. Nó được lòng thương nhiều lắm, ngập cả tâm hồn người đã đành tâm bỏ nó. Nhưng nó không được nghe trên lông những ngón tay chạy dài, những ngón tay lượn ngược. Lấy hai chân, lấy một chân đè lên mình nó mà mơn trớn nó cũng được; nhưng không!

Sơn bước đi, nhưng người ta đau đớn ngoảnh mặt tránh một cách thê thảm. Cũng như lòng Sơn, chân Sơn không thể nào nhẹ được, tuy chàng nhất định không ngoảnh lại, sợ gặp đôi mắt thảm thiết của cái linh hồn đầu đường xó chợ kia. Sơn rùng mình, vì chàng thấy mình đương dẫm lên tình của một con chó rách, dẫm lên trái tim tội nghiệp của một con vật tồi tàn. Và Sơn hoa mắt đi, tưởng chân mình dính xương, máu nát tan như xương máu của một con chó chết chẹt ô tô.

Trần Đăng Khoa nhớ Tết xưa

Gọi "Tết xưa" nghe cứ xa lăng lắc như thời cổ tích. Nhưng không. Đó chỉ là thời còn chế độ bao cấp. Nào đã xa xôi gì mà bảo chuyện xưa! Thời gian thì chưa xa, nhưng sự việc thì đã xa lắm. Xa đến nỗi, nhiều việc bây giờ kể lại, các bạn trẻ khó mà tin được. Họ sẽ lại chép miệng: "Ôi dào, các bố chỉ bịa. Chuyện nhà văn ấy mà!".

Thật oan cho các nhà văn quá. Ông bạn tôi cũng bảo: "Bây giờ thì đến cả ông giời cũng thay đổi, ông ạ. Đấy, ông cứ ngẫm mà xem. Ngày xưa rét cắt da cắt thịt. Mặc đến ba bốn cái áo mà vẫn còn lạnh. Sáng Ba mươi Tết, vợ chồng con cái còn kéo nhau ra đầu hè ngồi sưởi nắng. Bây giờ thì cái rét nó biến đi đâu cả. Chẳng thấy lạnh gì. Ngày Tết, mặc bộ com - lê, hay chỉ khoác cái áo mỏng vẫn bình thường, thậm chí còn thấy nóng sốt nữa. Nhiều anh bây giờ chỉ thèm được rét. Đã Tết vẫn không rét. Mà không rét thì làm sao ra cái Tết. Đến cả ông giời bây giờ cũng đổi tính đổi nết rồi!"

Thực tình, ông giời đâu có tráo trở. Tết nào chả có mưa xuân bay phiêu diêu như khói cùng cái lạnh heo heo. Nhưng những năm xưa, người ta rét vì đói. Đói nên mới thấy rét. Còn bây giờ, nhờ có mấy năm đổi mới mà trông anh nào cũng béo chút chít, cứ chũm trệ như Việt Kiều yêu nước cả.

Ông bạn cùng cơ quan tôi bảo: "Bây giờ, bầu chiến sĩ thi đua, hay cá nhân tiên tiến xuất sắc, cứ thấy anh nào béo là tớ gạch đấy. Vì trông những anh béo cứ thấy có cái gì không được lương thiện". Nhưng rồi rút cuộc, ông bạn tôi vẫn chẳng gạch được ai, vì ngay cả ông bạn cũng ụt ịt như địa chủ được mùa. Đàn ông đã khổ vậy, đàn bà còn "đau đớn" hơn nữa. Đau đớn không phải vì khổ, vì cực, mà chỉ tại... béo quá.

Đàn bà thanh lịch, cánh liễu yếu đào tơ mà đi cứ ù ù như cái cối xay lúa. Nhiều chị, nhiều mợ phải chạy tập thể dục, lại còn đi tiệm thẩm mỹ hút mỡ. Rồi uống bao nhiêu thuốc. Đắp, bó bao của quý, vật lạ lên da thịt mà vẫn chẳng làm sao gày được. Trông ai cũng ụ ị như những con gấu Bắc cực. Thế thì cái rét còn biết len vào đâu? Ngày Tết thấy nực nội là phải. Không rét, lại quay trách ông giời phản bội mình!

Nhiều lúc, tôi cứ lẩn mẩn nghĩ: Không biết cái gì đã làm nên Tết nhỉ? Các cụ bảo: "Đói ngày giỗ cha. No ba hôm Tết". Khiếp chưa? Đến cả ngày giỗ cha mà vẫn còn đói. Cứ như ý các cụ thì chỉ có ba hôm Tết mới được ăn no. Thế nên những cái Tết xưa thường gắn với chuyện ăn uống. Các cụ còn định nghĩa cái Tết rất cụ thể: Tết là "Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ - Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh".

Bây giờ, thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng, những thứ làm nên Tết bày ê hề trong các quán cơm bụi ở vỉa hè. Vì thế mà quanh năm Tết. Cái Tết lại hoá mất thiêng, không còn là nỗi háo hức nữa. Muốn có mâm cỗ Tết, chỉ chạy nhoàng ra phố chừng mươi phút là xong. Ngày xưa, các cụ chuẩn bị Tết kỹ lưỡng lắm. Có bộ quần áo mới nào cũng để dành đến Tết mới mặc. Con lợn nuôi cũng là nuôi để Tết thịt. Và như thế, cái Tết đã được rục rịch chuẩn bị trước đến cả hàng năm trời.

Ở thành phố thì tích phiếu thịt, phiếu đậu dành cho Tết. Ngày thường ăn thế nào xong thôi. Vì thế, dù có lòng rất mến khách, nhưng cứ trông thấy khách là sợ, vì không biết tiếp thế nào cho phải. Tiếp đúng như lòng mình thì có khi cả nhà phải nhịn ăn đến cả một tháng phiếu thực phẩm.

Nhà văn Đỗ Thị Hiền Hoà có một cái truyện thật cảm động. Bà mẹ có khách. Khách là người yêu cũ. Mâm cơm cũng chẳng có gì, chỉ tồng tềnh mỗi một đĩa trứng rán. Bà mẹ đã đe trước cậu con trai ba tuổi từ dưới bếp. Rồi trong suốt bữa ăn, bà dùng mắt "chỉ huy" cậu quý tử. Nhưng khổ nỗi, thằng bé đói, lại rất thèm trứng. Thế là cu cậu quên mất mệnh lệnh của đấng tối cao. Bà mẹ phải xông vào trận. Bà gắp trứng cho khách, rồi giục: "Bác ăn đi. Ăn nhanh lên, kẻo cháu nó hư lắm!". Nghe mà ứa nước mắt.

Nhà văn nổi tiếng Nguyễn Minh Châu cũng có một cái truyện ngắn khá ấn tượng. Trong truyện, có một chi tiết tôi đọc mà rồi không sao quên được. Đó là việc bà mẹ dạy con cách chấm rau muống luộc làm sao cho thật kỹ thuật. Chao ôi! Việc chấm rau muống mà cũng đòi hỏi phải có kỹ thuật sao? Tưởng kỹ thuật chấm thế nào. Hoá ra cũng đơn giản. Bà yêu cầu con phải chấm đứng ngọn rau muống. Vì chấm đứng ngọn rau thì không tốn nước mắm.

Đọc những tác phẩm chân thực về một thời như thế, cô cháu gái tôi lại đâm ngờ vực: “Các bác toàn bịa. Chúng cháu cũng biết nhà văn phải hư cấu. Nhưng hư cấu thế nào cũng phải để cho người ta tin được. Đằng này, truyện các bác toàn bịa. Mà bịa quá đáng. Bịa thế thì đến cả trẻ con chúng nó cũng chẳng tin!”

Tôi còn biết nói sao bây giờ? Thời thế đã thay đổi. Đến cả ông giời còn bị mắng oan nữa là các nhà văn

Mùa đông …năm ấy

Mấy ngày này rét quá, nằm nhiều lại nhớ về ngày xưa…Cái thời bo bo cú mì mà lúc nào cũng đói, nhưng trong cái đói tưởng chừng như không thể gượng dậy ấy vẫn thấy các hoạt động mang tính cách rất, rất…sinh viên cơ điện. Tản mạn vài câu chuyện đời thường của chúng ta ngày ấy, cũng là một dịp ôn cổ tri tân vậy.

1. Những cái dát giường

    Thời sinh viên cơ điện, đói, lúc nào cũng thấy đói, nhất là vào mùa đông lạnh giá cái đói lại càng cồn cào. Buổi tối tầm khoảng 9 đến 10 giờ, khi mà lượng thức ăn ít ỏi của bữa chiều đã tiêu hóa hết thì cái đói bắt đầu ngấm. Thế là nhà nhà đi nấu ăn. Cái gì ăn được thì nấu lên ăn tất. Mì sợi, sắn luộc là hai thứ chủ lực

   Đun nấu nhiều tất phải có dụng cụ đun nấu và nhiên liệu để đun. Trước hết là đun bằng điện. Tối nào cũng vậy, cứ đến giờ đun nấu là bóng điện lại đỏ quạch vì hàng trăm cái maiso sục vào nồi nước. Maiso cũng có nhiều chủng loại, loại dạng chuẩn như mua từ Nga về, loại dây maiso bánở chợ, loại dây sắt dỏm… đặc biệt có một loại mà chắc không ở nơi nào trên thế giới có được là loại maiso được chế tạo bởi hai lưỡi dao lam được ngăn cách bởi một miếng tre nhỏ. Loại này tiêu tốn điện lắm, mỗi lần cắm nó vào ổ điện là ánh sáng của căn nhà đấy vốn đã yếu ớt lại sụp xuống một cách thảm hại. Những cái đầu trước bàn học ngửng lên, rì rầm những tiếng chửi, “mẹ thằng nào lại sục maiso rồi”. Lại phải chờ một lát khi “nó” đun xong, rút ra thì ánh sáng lại bừng lên như lúc trước.

    Nhưng khi điện đã quá yếu rồi thì không thể đun được nữa, hội nào định nấu cũng không thể chờ được đến khi điện khỏe. Không đun được thì nhìn quanh, và thế là tội cho những cái dát giường. Những cái dát giường đã ọp ẹp, nứt gãy vài cái thường bị xử lý đầu tiên. Chúng được các ông chủ giường tỉa tót những thanh yếu, gãy cho vào bếp nấu mì. Những thanh còn lại thì chở đấy, đến khi nào yếu đi một tý rồi cũng bị cho vào bếp nốt. Hồi ấy, dạo qua lớp nào cũng có tình trạng thiếu dát giường hoặc dát không đủ thanh, nhất là vào những năm cuối chuẩn bị ra trường. Thật tang thương cho những cái dát giường đã phải chui vào bếp, thật buồn cho những cái giường chỉ còn trơ khung sắt mà không còn dát giường làm bạn. Khủng hoảng kinh tế đã kéo theo cả khủng hoảng chất đốt …ở trường cơ điện là như thế đấy.

 2. Lê Công Kế  : Lớp tôi có anh chàng Kế người xứ Thanh, hiền lành, chăm học, tuy không giỏi nhưng luôn đạt các môn, hiếm khi thi lại. Nhà xa, gia cảnh ở quê chắc cũng nghèo nên bạn sống thanh đạm, không có gì cải thiện ngoài những suất tiêu chuẩn Nhà trường cho. Vào những vụ mùa đông đói rét, khi vào giờ nấu ăn thêm buổi tối, nhà nhà nổi lửa và nấu nướng thì Kế và một số bạn khác cùng cảnh ngộ chẳng biết làm gì. Các bạn hoặc là ngồi im lặng học bài hoặc là đi sang phòng khác ngồi. Họ cũng có học được đâu và cũng có nói được chuyện gì khi mà bụng cứ réo lên ùng ục mà chẳng có gì cho vào. Nhiều lúc nghĩ cũng ái ngại quá, nhưng cũng chả làm được gì hơn vì mình cũng có nhiều nhặn gì đâu, cũng thi thoảng cuối tuần về HN đánh giậm của gia đình lên một ít mì sợi, rồi cũng chỉ mỗi đứa một vài thìa mì tôm vào cái bụng lép thôi, Cũng có đôi lần mình mời Kế ăn nhưng cũng thi thoảng Kế mới ăn của bọn mình còn thì cũng từ chối khéo. Cho đến bây giờ mình vẫn còn nhớ mãi cảnh Kế ngồi im lặng học bài, bên trong góc phòng mấy thằng sì sụp múc mì sợi ăn soàm soạp vì vừa ăn phải vừa thổi vì nóng quá, ăn khi đã đói mà mì chưa kịp nguội. Kể ra Kế mà đọc những dòng này cũng có thể tự ái mà nổi xung lên, nhưng cũng rất may là hắn chưa bao giờ ló mặt ra trên blog cả.

3. Nấu mì tôm : Lý tưởng nhất là nấu mì tôm ở “xép”. Những căn phòng ở đầu hồi được gọi là xép. Thường được dành cho các anh các bác lớn tuổi, các cán bộ lớp hồi đó. Các xép được tận dụng để nấu ăn một cách triệt để và đều hình thành nên những hội ăn mì ở đó. Hội mì gác xép hồi đó phải kể đến hội mì bác Hưng, bác Bắc Mb, hội mì bác Vạn Ma, dưới thì có hội mì của bác Suất Mc, …Các lớp viên đều nhìn các xép ăn mì một cách kính nể và thèm thuồng. Kính nể là vì các lão thành có dư dả tiền nong để cải thiện, cũng đúng thôi khi mà các bác già có lương, ngoài 18 đồng tiền ăn thì các bác còn dư ra đến mấy chục đồng nữa. Thèm thuồng là vì những lúc đói lòng mà đi ngang qua xép ngửi thấy mùi mì sợi nấu hành mỡ thơm phức thì rỏ cả dãi chứ sao. Vì sao mà các xép lại có cảnh nấu nướng nhộn nhịp vậy, ấy là vì nấu ở xép rất tiện, thứ nhất là kín đáo hơn nấu ở trong phòng ở, hai nữa là có chỗ đổ nước, cứ thằng trên đổ xuống thằng dưới qua chỗ nhà vệ sinh “hờ”. Gọi là nhà vệ sinh hờ là vì 5 năm học ở đó mà nhà vệ sinh hỏng không ai sửa, nên không dùng được, trở thành kho chứa đồ lặt vặt của cánh ở xép. Còn dân nấu mì ở trong phòng, muốn đổ nước phải đổ qua lan can trước nhà xuống sân, thật bất tiện và cũng từ cái sự bất tiện đó mà “cha” Ngọc Thái Mb đã phải bị đuổi học về nhà bóc lịch 1 năm do bê chậu nước bẩn tương xuống đường đúng lúc một em văn công xinh như mộng đi ngang qua.

Nhớ Tết một thời

       Hàng năm cứ đến ngày mồng 7 Tết, bố tôi làm một mâm cổ nhỏ chỉ có cháo hoa và một ít trái cây đơn giản. Mặt ông trang  nghiêm thắp nén hương lên bàn thờ tổ tiên. Năm nào cũng thế, khi tuần hương đã tàn, ông lạy tổ tiên xong và tuyên bố: Hết Tết. Ông chỉ vào tôi rồi bảo:

       - Câu cả (tôi là con trai lớn trong nhà) múc cháo ra để mỗi người ăn một bát

Đó là bát cháo nấu bằng gạo và muối trắng rất loãng, anh em tôi mỗi người phải ăn hết một bát. Tôi biết, dù cuộc đời có đổi thay, kinh tế gia đình ngày càng khấm khá, anh em tôi ai cũng có “bát ăn bát để” nhưng bố tôi, gia đình tôi, thế hệ chúng tôi đều sinh ra từ đói nghèo. Chúng tôi không thể quên cái nghèo. Và bát cháo hoa mà chúng tôi ăn hôm nay đã hồi tưởng về cái Tết nghèo ngày xưa.



     Nhớ lại ngày xưa gia đình tôi sống ở thị trấn, nhưng nghèo lắm!. Cái nghèo như truyền kiếp dai dẳng trong gia đình tôi năm này qua năm khác. Bố mẹ tôi làm nghề giáo viên, lương ba cọc ba đồng. Thời kỳ đó những người làm nghề dạy học là rất bần hàn. Nhiều tháng không có tiền, lương được phát bằng săm, lốp xe đạp. Gia đình tôi đông người, chúng tôi được mọi người hàng xóm gọi là “tàu há mồm”. Hằng ngày, chúng tôi phải ăn cơm độn, bảy phần khoai ba phần cơm, lúc nào được ăn cơm trắng là sung sướng lắm! Và có lẽ đó là Tết của gia đình tôi!. Tôi không thể nào quên, có lần em tôi ốm, mẹ tôi bới tung cả nồi cơm mà không tìm được một bát cơm trắng. Tôi nhìn mẹ nhìn em mà trào dâng nước mắt.

    Đất thị trấn ngày đó bỏ hoang rất nhiều, không phải chật chội như bây giờ. Có chổ đất nào trống đều xin họ thả nhờ khoai lang phòng ngày hết gạo. Mẹ tôi chuẩn bị Tết khi trời chuyển sang thu. Có một khoảng thu nhập nào là bà đều mua vải để may áo quần cho chúng tôi. Lúc thì tấm áo, khi thì cái quần… và cứ thế đến đêm 30 Tết thì 5 anh em tôi đều có áo quần mới. Nhìn các con có áo mới, cười tươi đón xuân là bố mẹ tôi vui vẻ mãn nguyện cho dù quanh năm chịu nhiều vất vả.

       Mỗi lần anh em tôi mặc áo mới, bà cười trong nước mắt: “các con bây giờ sướng hơn ngày xưa nhiều, Tết cái thời của bố mẹ chỉ mặc áo quần nhuộm lại thôi. Hồi ấy, trên bom dưới đạn, sống được là may chứ ai nghĩ đến chuyện Tết”. Bây giờ xã hội đã đổi mới, chiến tranh đã lùi xa, cái Tết dưới hầm tránh máy bay của bố mẹ tôi đã trở thành quá khứ. Nó chỉ còn đọng lại trong tâm trí bố mẹ tôi như một nỗi đau, một kỷ niệm buồn khó phai mờ. Tuổi thơ tôi và các em tôi lại đón Tết trong cảnh nghèo khổ của thời kỳ bao cấp. Ngày đó chúng tôi còn thơ dại nghĩ đến Tết là vui chứ ai biết bố mẹ tôi nẫu gan nẫu ruột vì Tết. Biết lấy gì mua sắm để chúng tôi bằng chị, bằng em?. Cứ mỗi năm khi gió mùa đông bắc se se lạnh là những nếp nhăn trên khuôn mặt mẹ tôi lại xuất hiện. Ngày Tết đang đến gần…

Chao ôi! Tôi lại rùng mình khi nghĩ đến cái thời bao cấp. Đó là thời kỳ nặng nề bao trùm cả gia đình tôi. Nghĩ lại mình thật may mắn khi đã thoát khỏi cái thời kỳ tem phiếu ấy.

       Tôi còn nhớ như in cái cảnh mẹ tôi đứng chờ mua thịt lợn ở cửa hàng thực phẩm. Ngày 28 tết, từ sáng sớm mẹ tôi làm vội bát cơm nguội để nhanh chóng đứng xếp hàng chờ mua thịt. Những cuốn sổ tem phiếu, khẩu phần chất tươicủa những gia đình công nhân viên chức được xếp cao ngất trước mặt cô bán hàng. Hàng xếp dài ngoằng, ai mà được gọi tên vào lấy thịt thì sung sướng trào nước mắt. Một số ít người thậm thụt cửa sau, nhờ vả người trong cửa hàng thì được lấy thịt trước, nhứ không thì phải đứng đợi mói cả đầu gối, chân tê cứng. Nhìn cô bán hàng thực phấm sao mà cao trọng, uy quyền và vênh váo thế!. Người nào được cô nhận là quen biết, nở nụ cười thân thiện là thấy mình hảnh diện lắm. Suốt một ngày đứng đợi mẹ tôi không mua được thịt vì bà không quen biết ai. Chiều 28 tết, cô mậu dịch viên đẩy tấm bảng “Hết Thịt” chắn ngang trước cửa. Mọi người cùng cảnh ngộ như mẹ tôi ngó vào trong, lợn vẫn chọc tiết, cạo lông. Người ta bảo thịt đó dành phần ưu tiên. Mẹ tôi trở về tay không,chờ một ngày mà vẫn không đến lượt mình. Mấy cân thịt là tiêu chuẩn của mình mà đi mua cứ giống như đi xin không hơn không kém. Bỏ thì không được vì không có thịt thì làm sao có Tết được. Còn đi mua thì mẹ tôi cực quá trời. Và thế là ngày 29 Tết mẹ tôi lại phải túc trực ở cửa hang thực phẩm để bằng mọi giá phải mua được thịt. Có thịt mới có Tết. Đứa em út của tôi gần một năm tuổi, tôi bồng mỏi cả tay, hát khàn cả tiếng thế mà không dừng khóc. Nó đang thèm sữa mẹ, còn mẹ tôi thì phải chầu chực để mua thịt lợn. Gần 11h giờ đêm, mẹ tôi mới trở về nhà. Bà sung sướng tươi cười quên cả mệt nhọc vì đã mua được thịt. Năm cân thịt cho cả nhà tôi đón Tết. Nhìn những miếng thịt nhàu nhò vì đã qua tay bao người và sự vất vả của mẹ tôi, mà nước mắt tôi cứ chảy không thể nào cầm được?. Lúc đó tôi chỉ ao ước mình có một con lợn độ 20 cân thôi để mổ thịt cho gia đình tôi đón Tết thoả thê. Năm cân thịt mẹ tôi chia làm nhiều món; chổ này dành để gói bánh chưng,miếng kia ngon mai làm cơm cúng 30 Tết, còn mấy miếng này kho Tàu thành một nồi ăn trong ba ngày Tết. Mẹ tôi bảo: “ Gia đình mình còn đỡ chứ như gia đình chú Hiền dạy cùng trường với bố tôi phải thịt con vện để làm chất tươi ngày Tết vì không mua được thịt, bác Hưng người Nghệ An gói bánh chưng mà không có nhân…”

Bố tôi năm nào cũng gói bánh chưng, dù có thế nào đi chăng nữa ngày 30 tết nhà tôi vẫn sùng sục sôi với hương vị quê hương. Bánh chưng là minh cứng duy nhất để anh em tôi phân biệt giữa ngày Tết và ngày thường khác nhau như thế nào?.

      Chuyện mua gạo, nếp ngày đó cũng vất vả như mẹ tôi mua thịt lợn vậy. Cái tem phiếu đã hành hạ bố mẹ tôi, những người làm công ăn lương khổ sở vô cùng. May nhờ có người học trò củ của bố tôi lên cái chức phó cửa hàng lương thực huyện cho nên bố tôi mua gạo đỡ vất hơn. Thế nhưng, 10 lon gạo nếp thì cũng lộn từ 1 đến 2 lon gạo tẻ. Vẫn may, có còn hơn không.

        Hồi ấy, gạo đối với gia đình tôi là chuyện hệ trọng nhất. Vì cái đói hết gạo luôn rình rập, chờ đón những gia đình đông con. Gia đình tôi tháng nào cũng thiếu gạo, chuyện vác rá khắp làng mượn gạo là việc thường ngày ở xóm nghèo chúng tôi. Bố tôi đi xin xỏ khắp nơi, kiếm được tấm phiếu mua vài yến gạo giá cao, mừng ứa nước mắt. Ra tết không còn chuyện lo đói.

       Đêm 30 Tết, sau mâm cơm đón ông bà chúng tôi quây quần bên nồi bánh chưng. Anh em chúng tôi xúng xính trong những bộ quần áo mới, mặt đỏ bừng trước ánh lữa hồng mà thấy mùa xuân đang đến bên cửa sổ. Không khí gia đình đêm 30 Tết thật là thiêng liêng, trong tâm trí anh em chúng tôi ai cũng có ước mơ của riêng mình nhưng có lẽ chung nhất là bao giờ gia đình tôi mới hết nghèo?.

… Tết năm nay, cuộc sống của gia đình tôi đã có phần đỡ hơn ngày xưa. Mẹ tôi không còn vất vả vì những miếng thịt tem phiếu, bố tôi không còn chạy vạy xin giấy mua gạo giá cao. Anh em chúng tôi đã trưởng thành, mỗi người có một nghề mưu sinh đàng hoàng trong xã hội. Thằng em tôi làm ở miền Nam , thu nhập có phần dư dật, nó bảo, lễ mồng bảy Tết này nó lo, nó sẽ mua rượu ngoại, thịt rừng về làm cho đàng hoàng. Bố tôi quát: “Mày đừng mất dạy! Tao không cần. Tao còn sống thì ngày mồng 7 Tết vẫn là cháo hoa và muối trắng. Và mãi mãi sau này vẫn thế…”. Em tôi đâu biết đây là chút níu kéo còn lại của bố tôi và gia đình tôi về một thời Tết nghèo. Tôi thầm hứa với ông, sau này con vẫn làm cháo và muối trắng thắp hương ngày mồng 7 Tết.

Ai đã từng là sinh viên thời bao cấp đều không thể nào quên cảnh "canh toàn quốc, nước mắm đại dương". Tùy vào mỗi trường Đại học, Trung cấp mà cách ăn uống cũng có khác nhau chút đỉnh, nhưng về cơ bản, tất cả sinh viên đều kham khổ. Sau đây là chuyện bữa ăn tập thể của sinh viên ở một trong những trường Đại học ở Hà nội.

Trong các món ăn, trước hết phải kể đến cơm, vì đây là thành phần cơ bản của bữa ăn. Đầu thập niên 80, sinh viên phải ăn sắn hoặc hạt bo bo độn cơm , sau đó, mà cái cơ số cơm ít ỏi đó thì hỡi ôi cơm nhưng phải ăn loại gạo tồn kho lâu ngày. Loại gạo này bán không ai mua, phát không ai nhận, nên chuyển sang cho giới sinh viên ăn vì đây là loài dễ nuôi nhất trong tất cả các loài. Người ta tưởng ăn loại gạo thiếu chất dinh dưỡng này thì sinh viên sẽ gầy ốm. Nhưng họ đã lầm nhá Càng ăn, sinh viên càng béo..., ấn ngón tay vào da thịt không biết đau, mà để lại một chỗ lõm... Họ đã mắc chứng phù thũng.

Thức ăn thứ hai là thịt lợn,thôi thì lợn sề,lợn ốm,lợn dich,lợn chết …Cứ miễn sao cứ gọi là lợn thì ô sờ kê rồi. Xin đừng tưởng là nó ôi nó thiu nó thối…là được ăn thoải mái đâu nhá,ngày ăn 2 bữa cơm chính(buổi sáng thì ăn bánh mỳ,bo bo,ngô hoặc cơm nguội còn lại từ tối hôm trước)trong đó sẽ có 1 bữa ăn tươi (có thịt)và chỉ được ăn những ngày đi học có nghĩ là từ thứ 2 đến thứ 7 thôi nhá chủ nhật nghỉ học tức là cũng không cần phải ăn tươi làm gì chắc là sợ sinh viên rửng mỡ vì thừa chất dinh dưỡng.Lại nói về ăn tươi (điệp khúc thịt lợn)mỗi người được một miếng thịt mỏng như tờ giấy pô luya,gắp lên vô phúc gặp phải cơn gió cái ối giời ơi…là bay mất luôn,nên lúc ngồi ăn cũng phải tính được hướng gió hoặc cẩn thận hơn là ngồi chỗ kín gió nhé không thì hỏng mất bữa tươi luôn nghe. Các trí thức của loài người có mỗi món ăn đặc sản đeo đẳng suốt 4 - 5 năm Đại học. Món này được sinh viên xem là món cao cấp nhất của bữa ăn nên chỉ vài phút là sạch sành sanh,nói chung là phải nhanh tay nhanh mắt chứ không thì thằng khác gắp mất.Còn thằng nào muốn ăn tự bồi dưỡng chất đạm thì chỉ còn cách nhổ vào cái gọi là bát thịt bãi nước bọt thì sẽ chẳng phải tranh nhau với thằng chó nào nữa.

Tiếp theo là mắm, còn gọi là Nước Mắm đại dương. Xin đừng hiểu nhầm đây loại loại nước mắm nổi tiếng với thương hiệu "Đại dương". Thực ra đây chỉ là nước muối, người ta cho thêm màu vào (nghe đâu là nước cơm cháy,sang hơn tí nữa là nước gạo rang cháy). Cho nên, tuy gọi là mắm cho sang trọng nhưng không phải là mắm.

Món cuối cùng là Canh, còn gọi là Canh toàn quốc. Xin đừng tưởng lầm là sản phẩm nổi tiếng toàn quốc, mà thực ra là "canh toàn nước", chỉ lèo tèo vài cọng rau. Tất nhiên, là loại rau rẻ tiền hoặc không tốn tiền như rau muống, mồng tơi, lá giang, rau dền (khiến nhiều sinh viên chạnh lòng nhớ lúc còn ở nhà cắp rổ đi hớt bèo cho lợn)... Còn về thịt thì có bói cũng không tìm ra miếng nào. Nếu dùng kính hiển vi thì may ra mới phát hiện vài nguyên tố Lipid trôi nổi trong Thái bình dương. Đôi lúc, các sinh viên nhà ta còn bắt gặp trong thau canh những vị khách không mời mà đến như cỏ rác, lá cây, cọng tóc, giẻ rách... Thậm chí có khi còn bắt gặp mấy con sâu to như đầu đũa vẫn ngoe nguẩy do mấy bà nhà bếp mắt cà la tóe cứ nhặt bừa..chắc nghĩ thương sinh viên thiếu chất nên cố ý tăng chất béo, thôi thì vãi cả tè…luôn.

Thực tế thì đời sống Sinh viên thời đó vô hình Đã tạo ra được cái cảm giác không còn phân biệt giữa cái đói & no nữa,kể ra mỗi thời đều có cái hay của nó…

Thời đó xung quanh các trường có rất ít quán xá nên căngtin là nơi ăn uống chính. Hình ảnh của căngtin, mùi vị, âm thanh của xong nồi bát đĩa loảng xoảng Và nỗi nhớ…sắc vì đói bụng .Nó luôn ám ảnh giấc ngủ của sinh viên.Căngtin đã đi vào thơ văn,nhật kí... Và mãi mãi không thể phai mờ trong ký ức của những sinh viên đã đi qua thời bao cấp.

và cho 3 ngày sau

TTC - Ngày đó, đồng lương rất eo hẹp. Kèm theo lương là một số mặt hàng mua theo tiêu chuẩn sổ và tem phiếu: Sổ gạo, sổ phụ tùng xe đạp; phiếu vải, phiếu đường, phiếu thực phẩm như thịt, đậu phụ, trứng, nước mắm, và phiếu chất đốt.

Người đông con được hưởng phụ cấp con, từ đứa con thứ ba trở đi, mỗi đứa được 5 đồng/tháng đến lúc đủ tuổi lao động.

Có vị 7 - 8 đứa con được phụ cấp 5 - 6 suất, khoản tiền cũng kha khá so với lương, người ít con phải ghen tị. Nhưng phụ cấp ấy bõ bèn gì với những cái tàu há mồm? Hàng hóa ngày càng khan hiếm, giá thị trường leo thang, mọi người trông thông báo bán gạo, bán thực phẩm “như trời hạn trông mưa".

Có bài vè về tình cảnh theo thứ hạng lương. Bài vè khá dài, tôi chỉ nhớ từ bậc lương gần gần với mình:

... Tất ta tất tưởi Là bác chín mươi (90 đồng/tháng).

Dở khóc dở cười Là anh sáu chục

Gia đình lục đục Là chị bốn lăm

Rau cháo quanh năm Là o ba sáu

Cái mồm hau háu Là cậu sinh viên.

Hàng tháng, mỗi sinh viên nếu được học bổng toàn phần là 22 đồng, về sau đồng loạt 20 đồng/tháng, đủ tiền ăn ở nhà tập thể, còn vài đồng mua xà phòng, kem đánh răng. Cơm sinh viên độn ngô, độn sắn, hoặc chiếc bánh mì hấp vừa chua, vừa cứng, to bằng... cái nắp chuông xe đạp ăn với “canh toàn quốc”, “nước mắm đại dương” (canh toàn nước, nước mắm là nước muối).

Ăn thế, nên lúc nào cũng hau háu đói. Đợi ngày phát lương sao mà lâu. Có người lĩnh lương xong, cầm tiền lương giơ lên và hát phỏng theo mấy câu trong một ca khúc nổi tiếng: ... "Cho ngày nay, cho ngày mai, và cho... 3 ngày sau!". Vị chi là lương chỉ đủ cho... 5 ngày.

Thực ra, bài vè nói quá lên, câu hát nhại cũng hát quá lên. Dẫu ít cũng phải lo làm thêm bù vào rồi chia ra cho đủ 30 ngày, chứ nếu chi chỉ cho 5 ngày thì sau đó chẳng lẽ treo niêu? Được cái thiếu thốn thế mà vẫn vui. Không vui thì làm sao mà hát lên được như thế!

Chuyện của "sinh vật luật"!

Những ngày đầu.

Cái bỡ ngỡ của việc những ngày đầu đi học ai chẳng có, với tôi nó lại càng lớn hơn khi từ trên “núi” xuống xì phố, nhập học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh. Hồi đó đường xá chưa kẹt xe như bây giờ nhưng cũng là rất đông và nhộn nhịp với cái thằng tôi “tỉnh lẻ”.

Sáng nhập học bên Nguyễn Tất Thành quận 4 xong, được hướng dẫn qua ký túc xá bên  Thủ Đức đăng ký nhận phòng và học ở cơ sở 2 gần ngã tư Bình Triệu. Bắt xe ôm qua ký túc xá, xe chạy đến nơi rồi chẳng thấy ký túc xá đâu, tưởng đi nhầm chỗ, hỏi ra mới biết ký túc xá ở đây. Quái, có thấy gì đâu nhỉ? Thì ra gọi là ký túc xá nhưng chỉ là những dãy nhà cấp 4 xen lẫn nhà dân, thế thì bố ai biết ? lần đầu tiên thấy một cái gọi là ký túc xá như vậy. Chạy vào ban quản lý nhận phòng, còn giường tự chọn, phòng A41 cái phòng có nhiều lịch sử nhất ký túc xá Đại Học Luật Tp. Một phòng trống chưa có sinh viên ở, thế là nghiễm nhiên đến chiều cũng gần đủ 20 mạng  cùng học một khóa được xếp ở chung, đó có thể là cái nguyên nhân dẫn đến sự nghiệp ăn nhậu và nghịch ngợm của chúng tôi sau này.

Lười leo trèo với lại để an toàn nên tôi nhận một cái giường ở tầng dưới, thế mà chiều có mấy anh khóa trên qua hỏi: Thằng nào ngủ ở giường này đó? Mình nói: dạ, em!. Mày toi rùi, cái giường này có ma đó! Nguyên là trước đây cái giường này cùa một anh trước mình bốn khóa, đang đêm học bài bỗng dưng lăn quay “bay về trời”. Từ đấy ai ngủ cái ở đó cũng bị bóng đè, và phải cuốn gói đi chỗ khác nếu muốn yên thân. Nghe thế mình sợ hết hồn mà không thể đổi giường nữa. Nhưng ngoài mặt để thể hiện cái chí khí đàn ông thì vẫn coi như không có gì, với lại ma thì làm sao đáng sợ bằng người? Cứ tưởng mình sẽ không bị sao, nhưng rồi suốt một năm nằm ở đó mình vẫn chẳng thấy cái gì đè cả? khẹc.

Sáng hôm sau, lên trường ở Bình Triệu, chưa thằng nào có phương tiện gì đành bắt xe buýt, ra đến ngã tư Bình Triệu, rẽ phải đi bộ thêm 300 m nữa thì tới! Nghe mấy anh khóa trước nói thế. Bước xuống xe buýt thằng nào cũng dáo dác nhìn về hưóng có trường mà nhìn mãi chẳng thấy cái nhà nào cao tầng như các trường trong phim cả, chỉ thấy một cây thánh giá cao chót vót, không lẽ trường cũng là nhà cấp 4 như ký túc xá? Thôi kệ. Cả bọn cứ thế hò nhau đi, cũng chẳng khác hình ảnh “đông ki ra thành phố” là mấy,đến nơi thấy cái bảng tên trường treo trên một cái nhà như nhà thờ, mà đúng là cái nhà thờ thật, hahaha thế là được học luật dưới “mái nhà thờ”.

Cả bọn kéo nhau vô trường, ngơ ngơ ngáo ngáo không tả được, gặp ai cũng gọi anh chị xưng em mà chằng cần biết lớn hơn hay bằng tuổi mình, chứ không như một số sinh viên thời này (Mấy hôm trước, sau 4 năm ra trường chạy xuống nguyễn tất thành xin cái bảng điểm, trường mới xây to vật vã và hoành tráng, bước lên cầu thang, gặp một em sinh viên non choẹt đang ngối dựa vào tường bấm laptop, mình hỏi: bạn ơi, làm ơn cho mình hỏi phòng đào tạo đi hướng nào?. Em cứ đi thẳng rồi rẽ trái! Em đó trả lời. Quái không lẽ nhìn mình còn trẻ vậy sao, hay tâm hồn của em nó đã quá già?). Băng rôn chào mừng tân sinh viên treo khắp nơi như lễ hội, cả bọn túa nhau đi tìm lớp của mình. Đến lớp, cũng chỉ là phổ biến mấy cái lịch học và phòng học. Cô giáo chủ nhiệm giới thiệu xong, cho cả lớp hơn trăm đứa tự giới thiệu làm quen, cũng chỉ mấy đứa dạn mới lên còn phần nhiều ngồi im thít như mình mà nghe, nói chung chúng nó cũng chỉ giới thiệu tên tuổi nơi sinh…..như kiểu làm bản tự khai với công an thôi, cũng có mấy đứa giới thiệu nhiều hơn như sở thích, tính cách, hay yêu chân thật ghét giả dối……..như kiểu ghi của mục tìm bạn bốn phương trên báo ý, nghe sến không chịu được?. Chiều, trước khi về cũng kịp làm quen với một vài bạn cùng lớp. Bước chân ra cổng, cảm thấy tự hào và phấn chấn, thế là sinh viên rồi nhé, mà lại sinh viên luật nữa chứ! Sau này mới biết nó cũng chẳng oai đến thế!

 Tối, sau khi ních vào bụng dĩa cơm bụi 3.500 đồng cùng vài dĩa cơm thêm miễn phí, 20 mạng phòng chúng tôi bắt đầu họp mặt làm quen tại quán vịt lộn cùng với mấy xị chuối hột (loại uống vào không nhức đầu nhưng… đau toàn thân ý) trước cổng ký túc xá. Cũng chỉ có vài thằng uống, tôi thì tợp 2-3 ly gì đó rồi thôi nhưng cũng coi đây là cuộc nhậu đầu đời của thằng sinh viên, bắt đầu giai đoạn “Bastos vạn tuế, rượu đế muôn năm”.

Chuồng" của chúng tôi!

Sau một ngày cũng hơi mệt với lại đám dân quê chúng tôi quen ngủ sớm hơn gà lên chuồng (gà thật chứ không phải “gà” thành phố đâu nhé, “gà” thành phố ngủ muộn lắm cứ khi còn thức trắng ấy chứ), nên lục đục kéo về phòng sớm chuẩn bị đi ngủ, về đến phòng lóp ngóp đi “lốt ổ”, nói là “lót ổ” chứ cũng chẳng có gì mà lót vì vừa mới đến chưa sắm được cái gì cả. Thằng nào nhanh tay thì còn mua được cái chiếu cái màn, một số thằng thì trải tạm báo vậy, phòng chẳng có quạt, mà cũng chưa thằng nào mua quạt cả, trời Sài Gòn tháng 9 nóng như lò quay heo, muỗi thì bay vo ve từng đàn nhiều hơn cả vãi trấu, (chắc muỗi nó biết bọn tân sinh viên mập mạp nhiều máu nên rủ nhau bay vào phòng này, chứ để mấy tháng nữa mà chích vào thì có mà gãy vòi), nhưng chẳng thằng nào quan tâm như thể mừng vào đại học bọn anh khao chúng mày một bữa no nê.

Đang chuẩn bị đóng cửa thì mấy “bố” trên ban quản lý xuống phổ biến mấy cái nội quy trong KTX, (nghe mấy anh khóa trên gọi “bố” chúng tôi cũng gọi bố theo vì thấy hay hay) cũng chỉ phổ biến vài ý thôi, đại khái là không được làm ồn, mất trật tự, không được về quá 11h đêm, nhậu nhẹt trong phòng, không quan hệ trai gái bất chính (ối trời, chẳng hiểu)…..thằng nào nghe cũng gật đầu lia lịa ra vẻ đồng ý lắm nhưng không biết có thực hiện được không. Nói là ban quản lý KTX cho oai thôi chứ thực ra chẳng có gì ghê gớm cả, chỉ có bố Đ và bố Q thôi, ngoài ra còn có mấy anh sinh viên làm bảo vệ để được miễn tiền KTX. Bố Đ thì suốt ngày đi kiểm tra các phòng, thế là cứ quát cứ mắng suốt ngày, còn bố Q thì chỉ im ỉm chẳng kiểm tra cũng chẳng quát nạt. Sau này mới biết bố Q tuy quát nạt dọa đuổi nhưng thực ra lại rất hiền và thương sinh viên, còn bố Q thì chẳng nói chẳng rằng, anh nào phá, ầm phát là bố đuổi thẳng cổ luôn (đúng là ông bà ta nói chẳng sai “tẩm ngẩm tầm ngầm đấm chết khủng long).

Sáng, một số thằng thì đi học buổi sáng, một số thằng đi học buổi chiều trong đó có tôi, mấy anh em ở nhà hò nhau dọn dẹp phòng ốc, tuy mới gặp nhau chưa kịp nhớ hết tên nhau nhưng anh em chúng tôi ra chiều có vẻ thân thiết và tích cực trong công việc chung. Loáng cái là xong, chúng tôi còn viết lên bức tường ngăn phòng với toilet dòng chữ: “SỐNG, CHIẾN ĐẤU, LAO ĐỘNG VÀ HỌC TẬP VÌ A41” nghe vừa như khẩu hiệu thời học phổ thông nhưng cũng khí thế ngút trời như một doanh trại quân đội, (sau này chúng tôi còn ghi thêm hai khẩu hiệu “ quyết không yêu dành tiền để nhậu” và “sống cô đơn cho gái thèm chơi” hai bên cửa nữa, nhưng thời gian trôi qua nhiều thằng “trọng lõm khinh lồi” nhiều lúc đang ngồi nhậu mà bạn gái gọi cái là vù đi liền chẳng tha thiết, còn nhiều thằng thấy con gái thì cứ muốn rớt cả hàm dưới, đúng là con người cứ thích làm ngược lại với khẩu hiệu nhỉ?) . Sau cái bức tường ngăn ấy là một cái bể chừng 2m3 đựng nước, đối diện cái bể  là một nhà tắm không cửa và hai cái toilet bệ xí bệt phù hợp với mấy thằng nông thôn chúng tôi, chỗ nấu ăn thì cũng gần đấy. Chính cái bể này là nơi chúng tôi tắm “truổng cời” tập thể với nhau, cứ đứng quanh bể mà dội ào ào, ban đầu ngại còn mặc quần đùi, sau quen thì chẳng thằng nào còn bí mật quân sự nữa, súng ống cứ thế là tồng ngồng. Ở KTX chúng tôi được khoán định mức, mỗi người tám ký điện và bốn khối nước, vượt quá phải đóng thêm tiền nhưng hầu như chẳng mấy khi phải đóng, do sinh viên nghèo chỉ có mỗi cái đèn học và quạt thôi, với lại lúc tắm thì cứ ca vang khẩu hiệu “ba xối một xoa” cực kỳ tiết kiệm nước.

Phòng chúng tôi nằm giữa hai phòng khác nữa A40 và A42. A40 nằm bên trái là phòng gồm 20 anh khóa trên, đa số cũng sấp xỉ tuổi chúng tôi, nhưng khóa dưới thì phải gọi khóa trên là anh vì người ta dù gì cũng giỏi luật hơn mình (khẹc) dù có một số anh còn nhỏ tuổi hơn. A42 nằm bên phải là phòng của 10 bạn nữ cùng khóa với chúng tôi(hehehe chẳng biết phúc hay họa nhưng cũng thấy khí thế phết) , trong những kỷ niệm ở KTX chủa chúng tôi có không ít sự kiện liên quan đến phòng này (“Anh hùng khó qua ải mỹ nhân mà”, chúng tôi không phải là anh hùng nên càng khó qua, mà phòng họ còn tự nhận là “thập đại mỹ nhân” nữa chứ, nếu đi thi hoa hậu chắc chắn ít nhất họ cũng được cái giải “Hoa hậu dũng cảm” hehehe).

Phía sau phòng chúng tôi có một khoảng đất trống rộng chừng hơn 2m tiếp giáp với khu vệ sinh của một phòng nữ khác, mới đến chúng tôi chưa biết cái thang tre ở đằng sau dùng để làm gì? Nhưng rồi một ngày kia rồi chúng tôi cũng vỡ lẽ.Đúng là tân sinh viên lúa không chịu được? Thế mới thấy câu “sống lâu nên cáo già” là đúng.

Phải thú thật rằng cái cảm giác của ngày đầu tiên đi học đại học thật là khó tả, vừa hồi hộp như cô dâu mới về nhà chồng, vừa tự hào kiêu hãnh như thể chú rể mới cưới được vợ là hoa hậu hoàn vũ, lại vừa trịnh thượng chỉn chu như kiểu lý trưởng đi ăn cỗ làng….nói chung là lẫn lộn. Chúng tôi chuẩn bị mọi thứ thật công phu từ quần áo giầy dép và đầu tóc, dù mọi thứ gần như là mỹ mãn nhưng vẫn chưa thể nào thoát ra khỏi cái vẻ ngố ngố của một thằng tỉnh lẻ, cái chất quê quê của một đứa con nhà nông trừ những thằng “thành thị nửa mùa”.

Vẫn đến lớp bằng xe của “sở” (sau này có khi hết tiền còn đi bằng xe của “bộ” nữa), cũng chẳng xa mấy chỉ khoảng hơn 3km từ KTX đến trường. Những thằng tân sinh viên bước vào sân “nhà thờ” hôm ấy hầu như chỉ mang hai bộ mặt, nghiêm trọng xen lẫn hồi hộp và cười toe toét xen lẫn ngơ ngơ. Sau này khi học được một thời gian chúng tôi được nghe kể về sự tích ngôi trường mình thế này: “ Nguyên trước đây ngôi trường này là một Fatima của bên công giáo, chuyện kể rằng vào khoảng năm sáu mấy có đoàn rước của giáo phận Sài Gòn, rước Đức Mẹ Thánh Du từ Sài Gòn đến vùng Thủ Dầu Một. Đi ngang khu vực này, bỗng dưng tất cả các xe của đoàn rước bị khựng lại, tắt máy (không phải hết xăng nhé!), và làm thế nào cũng không đi tiếp được (không biết họ đã thử xuống đẩy chưa?). Đức Cha gì đó có mặt trong đoàn rước liền cầu xin và nguyện rằng: “ Xin Đức Mẹ cho hành trình của chúng con được tiếp tục tốt đẹp, sau này chúng con sẽ thành lập một trung tâm sùng kính Đức Mẹ ở vùng này” thế rồi tất cả các xe lại nổ máy lên đường dễ dàng (thiêng quá nhỉ?). Thế là Trung Tâm Fatima Bình Triệu được thành lập từ đó. Sau năm 1975, chính quyền ta bắt được một phần tử phản động tại chính nơi này, sau sự kiện này không biết tại sao Đức Cha gì đó quyết định hiến tặng một nửa Fatima cho chính quyền, và một nửa Fatima này được giao cho khoa Pháp lý Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh làm nơi giảng dạy và kiêm luôn KTX. Một bên là các thầy tu nhà thờ, một bên là các ông dạy và học luật, đa số mang tư tưởng vô thần(khẹc), thế là Đức Cha gì đó xin chính quyền cho xây một Fatima khác gần đó, và  trao luôn nửa còn lại cho khoa Pháp lý tiền thân của Đại học luật TP.HCM bây giờ. Cũng vì thế mà sinh viên học tại cơ sở bình triệu chúng tôi luôn được nghỉ nhiều hơn một ngày do vào ngày 13/10 là ngày dành cho giáo dân vào thăm lại Fatima cũ.” (nghe kể thui nhé, với lại rượu chè nhiều quá đầu nó lú đi nhiều nên có thể không chính xác lắm hehehe).

Đến lớp cũng chỉ có mấy cuốn vở với cây bút thôi, vì chưa biết phải mua loại sách gì mà, sau này khi đã được thầy cô hướng dẫn mua các loại sách rùi thì mới biết đường, nhưng cuốn nào cũng mắc kinh khủng thế là các tiệm photo xung quanh trường photo những cuốn sách đó bán cho sinh viên với giá cực rẻ, đa số chúng tôi chỉ sử dụng những cuốn sách này, ngày đó các thầy cô trong trường mà có sách bị copy luôn ra rả chuyện bản quyền như ve mùa hè, có cô còn đi thu lại mấy cuốn sách phto do mình viết và cấm sinh viên sử dụng (Ác nhỉ! Nhưng nào có cấm được hehehe). Đến giảng đường làm quen thêm với vài bạn nữa, cái chuông reng reng báo giờ vào học khác hẳn tiếng trống thời học sinh, hơn trăm đứa mới nãy nhao nhao, ồn ào hơn chợ vỡ vậy mà ngồi ngay ngắn im phăng phắc, mắt nhìn thẳng dù chưa có thầy cô nào vào (mới đấu thì ngoan thế đấy). Buổi học đầu tiên, các giảng viên dành một ít thời gian cho việc giới thiệu về mình, cũng có người khiêm tốn ngắn gọn, có người thì hơi dài dòng và hơi “nổ” một chút (mấy người này mà té xuống sông không khéo cá chết hết). Kết thúc buổi học chúng tôi đứa nào cũng ngơ ngác chẳng hiểu sao chẳng thấy dạy tí luật nào cả nhỉ? Sau này mới biết là phải qua hơn một năm học đại cư��ng mới vào chuyên ngành.

Nói chung, việc học đại học thì chẳng có gì đặc sắc nếu không muốn nói là hơi chán. Những câu chuyện vui buồn thời sinh viên chủ yếu là ở ngoài là việc học tập. Ở những phần sau tôi xin phép đi vào "chính chuyện" của thời sinh viên với những câu chuyện đặc thù mang tính chất sinh viên mà chúng tôi đã trải qua.

Chuyện phiếm “thập cẩm”

Sau vài ngày khi mọi người cũng đã biết về nhau khá nhiều thì bắt đầu đặt biệt danh cho nhau và gọi nhau bằng tên cộng với biệt danh, chúng tôi có gần một nửa là biệt danh về động vật như : T. Heo, H. Khỉ, H. Cá trê, N. Voi, D. lợn lòi,T.Bò, G.Cò và tôi “Hiệp gà” (tuy không nhiều bằng vườn bách thú nhưng có vẻ cũng hơn thảo cầm viên SG), còn hơn nửa là biệt danh về màu da, vóc dáng và tự dưng đặt vậy chẳng cần nguyên do như: M.Đen, K.Đen, Q.Đen, H.Cận, M.Trắng, T.Lùn, Q.Già, N.Chảnh, T.Đầu đất, N.Quách, N.Nhật Bổn, T.Thiếu tướng (nghe lộn xộn giang hồ ấy nhỉ?). Sau khi mọi thứ đi vào ổn định chúng tôi phân công lịch trực phòng và bỏ phiếu bầu chọn bài hát truyền thống của phòng, cuối cùng bài hát “Chú voi con ở Bản Đôn” của nhạc sĩ Phạm Tuyên được chọn (mà đến nay tôi không nhớ được lý do chọn, chắc do có câu “rất ham ăn với lại ham chơi”), để mỗi khi nhậu và sau này ra trường có gặp lại vẫn cứ hát vang bài này y chang như con nít. Rồi chúng tôi mỗi thằng cũng mua một cái xe đạp cũ giá rẻ để làm phương tiện đi lại, những cái xe xộc xệch và kêu leng keng như tàu điện Hà Nội ngày xưa, một số cái hay tuột xích nên đi xe này là tay lúc nào cũng dính toàn nhớt (những cái xe này nếu đem vứt ra đường thể nào cũng bị phạt do tội xả rác).

Chuyện xe cộ thì coi như là ổn, nhưng chuyện dép guốc thì lại thiếu trầm trọng, có lúc phòng chúng tôi chỉ có 6-7 đôi dép (tính cả dép lào luôn rồi nhé, mà cũng chủ yếu là dép lào), nhiều lúc phải đi cả giầy bata đi học hoặc nghỉ học vì không có dép (lý do chính đáng nhỉ?không lẽ đi chân đất đi học?), có nhiều thằng cất giấu dép rất kín nhưng cũng vẫn cứ bị “mượn”, và rồi chúng tôi cũng nghĩ ra cách khóa dép bằng cái khóa dây để khóa xe đạp nhưng một thời gian ngắn có thằng lại nghĩ ra cách rút quai dép lào nên việc khóa dép cũng không còn hữu dụng (sinh viên thời chúng tôi là vậy có tiền uống cà phê, có tiền ăn nhậu……nhưng không có nổi tiền mua cái quần lót (chứ nói gì đến dép), đến nỗi cái nào cũng cũ và giãn ra to như cái quần soọc)

 Việc học thì chắc các bạn cũng hiểu, tuy có chút bất ngờ và hơi thất vọng nhưng chúng tôi trong học kỳ đầu vẫn đến lớp thường xuyên, về phòng có mấy thằng chăm chỉ còn đọc lại nữa (sau này mấy thằng này hay thi rớt nên cũng còn không chăm chỉ). Việc giải trí của chúng tôi những ngày này chủ yếu là đánh bài ghi điểm để ăn chè hoặc uống cà phê, sau thì biến tướng ra thành đánh bài ăn thuốc lá, ăn mì tôm…., thời gian nào không có tiền thì chuyển thành đánh bài cởi đồ đặc trưng của nam sinh viên (tại không biết nữ có chơi hay không?), thằng nào trước khi chơi cũng cố gắng mặc thật nhiều đồ, cứ mỗi ván về chót là cởi một thứ, nếu cởi hết rồi thì phải ngồi theo từng thế định sẵn, nói chung càng thua càng phải phơi bày mọi thứ ra, một lần có bốn thằng đang chơi bị các bố bắt được phải làm kiểm điểm và bị kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đọc lên loa cho toàn bộ KTX nghe nhưng cái phần nguyên nhân kỷ luật chỉ ghi chung chung là vi phạm nội quy KTX (heheheh không lẽ ghi là do đánh bài cởi đồ). Nói chung thời gian này chúng tôi rất ngoan, chỉ lâu lâu mới nhậu nhẹt một lần nhưng có uống cũng chỉ như thằn lằn uống rượu cúng thôi không hơn.

Phòng hai mươi thằng, mỗi thằng đến từ một vùng miền với những tính cách khác nhau nên việc va chạm, xích mích với nhau là không thể tránh khỏi. Một ngày, thằng N.Quách què đi nhậu say ở đâu về muộn mà mồm cứ lải nhải làm anh em ngủ không được, nói mãi không nghe thế là mấy thằng đè xuống đánh (chỉ là giơ cao đánh khẽ thôi) trong đó Q.Già đánh nhiều nhất, N.Quách què lúc đó mới chịu yên nhưng cũng hẹn lại là sáng mai tỉnh sẽ đánh lại Q.Già, Q.Già thách: Mày mà dậy được lúc năm giờ, tao nằm cho mày đánh thoải mái! Thế là N.Quách què lấy đồng hồ ra hẹn năm giờ để trên đầu rồi đi ngủ mà không quên đặt cái chậu dưới gầm giường để “đá” với “a sê nôn”. Năm giờ sáng, đồng hồ reo báo thức mà N.Quách què có dậy nổi đâu, mà cái giống đồng hồ trung quốc nó đã kêu to mà lại còn kêu mãi không dừng, thế là một số thằng phải dậy để tắt nhưng lại không kiếm thấy cái đồng hồ ở đâu, cả phòng bật đèn khiêng N.Quách què lên tìm trong người, trong chăn, dưới gối… mà vẫn không thấy. Khi tất cả đã tỉnh ngủ hẳn thì mới phát hiện ra cái đồng nằm ngập trong cái chậu “a sê nôn” của nó (đồ trung quốc đúng là ác thật, ngập thế mà vẫn kêu được). Vậy thôi, cũng chỉ những chuyện nhỏ nhặt, chúng tôi cũng chẳng có xích mích gì lớn cả vì tất cả chúng tôi rất đoàn kết và tôn trọng nhau như anh em một nhà.

Thời đó, chúng tôi không có điện thoại di động như bây giờ, mà mới xa nhà nên gia đình vẫn thường xuyên hỏi thăm bằng cách gọi điện đến số máy của Ban quản lý KTX, sau đó Ban quản lý KTX sẽ thông báo lên cái loa phóng thanh là sinh viên tên này phòng này lên Ban quản lý có điện thoại. Câu chuyện cũng chỉ xoay quanh việc ăn ở học hành và kết thúc hầu như lúc nào cũng là câu hỏi “cần tiền không?” từ phía phụ huynh và câu trả lời hầu như lúc nào cũng chỉ là “con còn đầy!” dù trong cho “viêm màng túi đã lâu”. Sau này khi đã quen với nhịp sống SG thì người gọi điện về lại là chúng tôi và kết thúc việc hỏi thăm sức khỏe, tình hình gia đình bao giờ cũng là câu “bố mẹ gửi thêm tiền cho con nhé”  và đại đa số câu trả lời của phụ huynh bao giờ cũng dưới hình thức của một câu hỏi là “ tiêu gì mà nhanh thế con?”. (Đúng là thời thế nhiều lúc quay ngoắt 1800 ).

Điệp khúc “mồm ti”

Sau khi mọi việc đã vào guồng, để tiết kiệm trong việc ăn uống, chúng tôi bắt đầu tự nấu ăn. Phòng 20 thằng nên, nên chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm gần chục thằng vì có một số không tham gia. Ban đầu, chúng tôi góp tiền mua đồ dùng cho nhà bếp và một tháng tiền ăn, mỗi bữa tính sơ sơ hết một thằng hai ngàn, ngày hai bữa là bốn, tháng một trăm hai mươi ngàn (Với số tiền đó bây giờ không đủ tiêu trong một ngày ấy nhỉ?). Rồi chúng tôi phân công từng thằng làm từng “công tác” khác nhau gồm: Ban đi chợ, ban nấu ăn và ban rửa chén (chúng tôi thường gọi vui với nhau đây là b..ng vệ sinh). Bữa cơm của chúng tôi lúc đó chủ đạo là cá vì cá rất rẻ và mì tôm, mì tôm giống một thực phẩm đa năng, có thể làm canh, trộn với trứng để chiên hoặc xào với rau muống. Mới làm thì háo hức, nhưng sau vài tháng cái kế hoạch tự nấu ăn ấy của chúng tôi phá sản một cách nhanh chóng hơn cả thị trường chứng khoàn hiện nay bởi muôn ngàn lý do: đầu bếp nấu giở (thực ra cũng chẳng có thằng nấu biết nấu), khẩu vị khác nhau không thể ăn chung (thằng Quảng Bình ăn cay, thằng Tây Nguyên ăn nhạt, thằng miền biển ăn mặn, thằng miền tây ăn ngọt..), những thành viên lười không chịu thực hiện trách nhiệm của mình(đặc biệt là rửa chén)…….Riêng nhóm tôi thì có một lý do cũng khác rất quan trọng, đó là trưởng nhóm M.Đen hai lần sử dụng “quỹ cơm” của nhóm vào mục đích cá nhân. Cộng với những thiếu thốn, thế là điệp khúc mì tôm của chúng tôi bắt đầu.

Thời đó, mì có rất nhiều loại nhưng chúng tôi chỉ chuộng gấu đỏ và hảo hảo vì chúng vừa rẻ lại vừa dễ ăn. Mỗi thằng chuẩn bị cho mình một cái tô, một cây cắm nước, một thùng mì với giá khoảng ba mươi ngàn ba mươi gói. Sáng điểm tâm bằng một gói mì, trưa “have lunch” bằng 2 gói và tối cũng 2 gói, một thời gian sau thì năng suất có giảm xuống do ngán hoặc do dạ dày teo lại, chỉ tiêu có bữa chỉ còn nửa gói mà thôi. Nên với một thùng mì chúng tôi có thể sống khỏe trong một tuần cùng với muôn ngàn hoạt động do ham vui của những đứa sinh viên năm nhất.

Ban đầu chúng tôi chủ yếu ăn mì gói bằng cách pha với nước nóng, cũng bởi chưa có kinh nghiệm nên cứ bỏ mì vào tô mới đi cắm nước, nước sôi quay lại thì chỉ còn vụn mì trong tô do mỗi thằng đi qua bẻ một miếng đi lại bẻ một miếng, sau này việc pha mì của trúng tôi ngược lại hoàn toàn so với hướng dẫn, chúng tôi bỏ nước sôi vào tô sau đó mới bỏ mì vào nhằm tránh hao mòn.

Có ba cách ăn mì: pha nước, xào hay đơn giản và thổ dân nhất là ăn sống (sau này chúng tôi biết bóp nát và nặn chanh thêm vào để làm mồi nhậu). Tuy vậy chúng tôi vẫn chủ yếu dùng cách pha. Qua thời gian, việc pha mì dần dần cũng phát sinh vấn đề, một số thằng lười (thực ra là đa số hoặc thằng nào chả lười?) pha mì xong không chịu rửa tô mà vứt luôn ngay chổ bể nước gây mất mỹ quan và vệ sinh của phòng, anh em chúng tôi thống nhất cái tô nào hai ngày còn tại vị chưa rửa thì sẽ được chuyển đến cư ngụ trong sọt rác (cái quy định này sau được áp dụng luôn với quần áo ngâm). Một thời gian sau, việc kiếm được một cái tô để pha mì còn khó hơn việc đòi lại tình phí, đôi lúc phải đi mượn. Cái khó ló cái khôn, sau này chúng tôi pha mì mà không cần dùng tô và cũng chẳng phải rửa ráy cái gì sau khi ăn nữa, số là chúng tôi cắt hoặc xé thật khéo léo một đầu gói mì rồi trút nước vào luôn và bẻ thêm 2 đoạn cỏ lau làm đũa, ăn xong quăng vô sọt rác. Khỏe.

Có những lúc túng quẫn chúng tôi mì gói cũng chẳng có mà ăn, việc mượn mì tôm trở thành bình thường, nhiều lúc pha gói mì không dám ăn ngay mà phải đợi nó nở thật to, thật to mới dám ăn để được no bụng. Có dạo sáu thằng mà ăn chung chỉ có hai gói mì, cả bọn đi hái một đống rau muống về xào chung với hai gói mì ấy, xào xong mì trốn sạch vào rau muống nên chỉ còn một màu xanh, thấy vậy có thằng tuế táo đọc câu thơ: “Trên trời có đám mây xanh. Chính giữa rau muống, xung quanh bắc kỳ”. Mình cũng bắc kỳ, thấy hơi tức nhưng kệ. Đói, việc mượn mì cũng dần chuyển qua xin và ăn ké, có nhiều thằng pha mì xong thì phì ngay một bãi nước bọt vào đấy để khỏi thằng nào xin xỏ. Oẹ.

 Ăn mì trường kỳ, chúng tôi nhìn thằng nào cũng gầy nhom trơ xương, ngay cả những thằng nhà có truyền thống mập ba đời. Hồi đó, việc cải thiện cũng chỉ xoay quanh mấy thứ cúng vong ngoài đường của dân hoặc thằng nào đó đi liên hoan ở bất kỳ đâu thì mang theo đồ thừa về. Chuyện kể rằng, H.Khỉ trong một lần đi liên hoan, tan tiệc mà thấy gói bún to chưa ăn hết, dù đã say bét nhè nhưng vẫn nhớ anh em ở phòng đói, bỏ hết sĩ diện, lão xách túi bún đó về. Trên đường về không biết do say, do túi bún nặng hay chạy nhanh không sợ chúng tôi ở nhà chết đói mà lão lọt xuống mương trên đường vào KTX(thời ấy ở đó chưa có cống, mà nước mương SG thì chắc bạn cũng biết, rất đen, sánh và cực nặng mùi), nhưng với tinh thần thà hy sinh tất cả chứ không làm ướt bún, lão té xuống mà tay vẫn giơ túi bún lên trời. Về đến phòng người đen thui, nhưng bún thì vẫn ăn tốt khỏi cần dùng mắm nêm hehehehe.

Chà! chú Hồng (biệt danh Hồng Khỉ) ngày nào ở KTX còn non choẹt, thất tình khóc như con nít hồi đó chú được xem là "người có công với đồng đội", tính tình hiệp nghĩa... Thế mà bây giờ nhìn hoành tránh nhỉ, com lét, thắt cổ ngon lành quá.

Tớ kể ra câu chuyện này chắc cậu sẽ nhận ra mình là ai. Nhớ hồi đó mình với cậu đi làm thêm ở bên Thanh Đa (làm phục vu cho quán ăn), khi dọn bàn thấy trên địa của đôi trai gái an dư để lại 2 con tôm rang me to như "ngón chân cái", lúc đó nếu đổ đi thì phí quá, mà đưa xuống nhà bếp thì nó trở thành của người ta mất. Lúc đó hai thằng có cùng suy nghỉ là phải hành động ngay, H đưa tai chụp lấy một "em" đưa vào miệng nhanh như con rắn an con nhái vậy. Mình cũng chuẫn bị đưa lên miệng thì thấy quản lý tiền lại gần, hồi đó hay đọc Biệt động sài gòn nên học được cách phản ứng nhanh khi tẩu tán tài liệu, thế là mình bỏ " 2 em" vào 2 túy quần nhanh như chớp.

Khổ nổi lúc đó quản lý đứng nhìn, kiểm soát gắt quá, bắt hai thằng đi l���i dọn bàn. Vì đi lại nhiều nên 2 "em" cháy nước ra làm mình bị tát và đau nhức kinh khủng.... về sau kể lại với anh em trong phòng, mọi người châm biếm rằng "thằng nhỏ nó mà có mắt thì 2 con tôm không đến phần mày"... đúng là miếng ăn có lúc là miếng nhục thật. nhưng được cái vui.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: