Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

CHƯƠNG VI -XII

CHƯƠNG VI

BỊ QUỶ NHẬP VÌ BÙA NGẢI

MỘT CÂU CHUYỆN KÌ DỊ

Bây giờ chúng ta hãy rời Pháp để qua Ý và cùng bước sang giữa thế kỷ 20. Chúng ta sẽ gặp một trường hợp rất kì lạ trong miền Plaisance. Về tài liệu, chúng tôi viết theo cuốn sách nhỏ của Alberto Vecchi, nhan đề Intervistacol diavole (Hội kiến với ma quỷ) (Edizioni paoline, Modène, Italie)

Một buổi tối tháng 5.1920, một linh mục dòng Phanxicô, tên Pier-Paolo Veronesi, vừa tới phòng thánh của nhà nguyện tu viện S. Maria di Campagna ở Plaisance, thì có một phụ nữ tới xin cha ban phép lành. Chị muốn cha ban phép lành cho chị ở bàn thờ kính Đức Trinh Nữ Maria. Cha sẵn lòng chiều theo ý chị, nghĩ rằng ý muốn này là do lòng sùng kính Đức Mẹ. Nhưng cha hơi ngạc nhiên khi chị xin được phép nói chuyện với cha ở phòng thánh một chút, gương mặt chị thì in hằn một nỗi buồn kéo dài. Cha nghĩ rằng chị có một nỗi buồn nào đó, một cơn thử thách đau thương nào đó, nên cha không thể từ chối chị một vài phút nói chuyện theo như chị yêu cầu.

Lúc đầu chị nói bằng một giọng nghẹn ngào, nhưng càng nói chị càng tỏ ra tự tin hơn, và thổ lộ hết tâm sự của chị. Chị nói gì vậy?

Vào những khoảng thời gian nào đó, chị cảm thấy có một sức mạnh kì lạ xâm chiếm con người chị, khiến cho chị làm những động tác ngoài ý muốn của chị. Lúc đó chị tự nhiên cảm thấy mình bắt đầu nhảy múa liên tục mấy tiếng đồng hồ, mặc dù chị không muốn làm điều đó, cho tới khi kiệt sức thì chị ngã xuống. Tự nhiên chị thấy mình hát lên những điệu nhạc mà chị chưa hề nghe bao giờ, hoặc chị giảng cho một cử toạ tưởng tượng bằng một thứ ngôn ngữ xa lạ. Thường thường chị cảm thấy có một nhu cầu không thể cưỡng lại được, bắt chị dùng răng cắn xé tất cả những gì rơi vào tay chị. Chị điên cuồng xé hết tất cả quần áo của chồng chị. Nhiều khi chị giống như một con hươu, trước sự kinh hãi của những người trông thấy, chị nhảy từ ghế này sang ghế khác, nhảy cả lên bàn, rồi gầm rú lên, kêu meo meo... đến nỗi người ta tưởng rằng họ đang sống trong một cái chuồng thú dữ. Cuối cùng, chị bỗng nhiên nói được những chuyện ở xa và những chuyện chưa ai biết, mà về sau người ta kiểm chứng lại và thấy đúng. Sau những màn kinh dị như thế tại nhà chị, và khi đã kiệt sức vì mệt mỏi, thân xác chị đen thui và sưng lên trong nhiều ngày, đến nỗi làm cho những người trông thấy phải thương hại.

Điểm cuối cùng là khi chị bị rối loạn như vậy, thì dù cha mẹ chị ở xa, chị cũng biết rằng các ngài cũng cảm thấy khó chịu, y như một ảnh hưởng huyền bí nào đó chuyển từ chị tới các ngài. Chị kết luận:

_ Thưa cha, cha thấy đó, cuộc sống của con trở nên y như hoả ngục. Con có 2 đứa con, nhưng mặc dù vậy, con chỉ nghĩ tới cái chết, và đó là sự giải thoát cho con.

Vị linh mục đã không ngạc nhiên về toàn bộ câu chuyện này. Vì cha đang làm tuyên uý cho một bệnh viện tâm thần, nên cha chỉ kết luận rằng mình đang đối diện với một người đầu óc đang bị bấn loạn. Cha chỉ hỏi một vài câu:

_ Tất cả những chuyện đó có đúng như vậy không?

_ Đúng, rất nhiều nhân chứng có thể xác nhận điều đó.

_ Việc đó kéo dài lâu chưa?

_ Đã được 7 năm rồi.

_ Các y sĩ đã nói gì với chị?

_ Con đã đi hết các bác sĩ mà con biết ở Plaisance rồi! Tất cả đều nói với con bằng những hình thức ít hoặc nhiều rõ ràng, rằng trường hợp của con là một trường hợp cuồng loạn.

Nghe những lời này cha cảm thấy an tâm. Đó chính là những điều cha đã nghĩ. Cha nói:

_ Vậy chị có biết chị bị sao không?

_ Không, bởi vì con cảm thấy rõ ràng rằng con không bị cuồng loạn cũng không bị điên.

_ Rồi sao?

_ Rồi con cảm thấy rằng người ta không thể giúp đỡ gì con được, con cần phải nương tựa vào Chúa. Con đã tới tất cả các nhà thờ của thành phố, bất chấp sự ngại ngùng và nhàm chán, để cầu nguyện và để lãnh nhận các phép lành. Mỗi lần con nhận được một phép lành, con cảm thấy khoẻ hơn được một vài ngày. Nhưng con đã đi tới các nhà thờ thường xuyên tới mức độ người ta cho rằng con bị điên, và con không dám tới nữa. Nhưng xin cha hãy nghe con kể những gì xảy đến cho con:

"Con nghe nói rằng trên các ngọn đồi có một linh mục ban phép lành rất linh nghiệm, linh nghiệm đặc biệt. Con muốn tới đó với ngài. Một Chúa nhật, sau khi ăn trưa, con lên đường, với chồng và nhiều bà con của con, trên một chiếc xe ngựa mà con mượn được của xã S. Giorgio. Con ngựa chạy nước kiệu rất tốt, đã nuốt nhanh những quãng đường dài. Bỗng nhiên nó dừng lại và không chịu đi nữa. Người ta đánh nó đến chảy máu cũng vô ích. Nó đá hậu, làm sút cả yên ra, nhưng không chịu bước tới nữa! Lúc đó, không biết chuyện gì đang xảy đến cho con, con nhảy đại từ trên xa xuống, không để cho những người bên cạnh kịp giữ, và con bắt đầu bay - đó chính là từ thích hợp - bay cao hơn mặt đất nửa mét, băng qua các cánh đồng, cứ thế con lên trên đồi hướng về phía tháp chuông của xứ đạo mà con muốn tới. Các tín hữu đã chầu phép lành ban tối xong, bây giờ đang ra về. Tất cả họ đều thấy con bay lên về phía nhà thờ, vừa tru tréo lên, vừa khua tay múa chân: những con chó sủa lên ầm ĩ, còn gà thì nháo nhác chạy trốn, và con đã đến nơi. Tất cả mọi người đều tránh ra, còn con, hạ thấp đầu xuống, thân dài ra, con bươn qua cửa nhà thờ đang mở hé, và lao tới nằm dưới chân bàn thờ chính, trên bàn thờ có bày một bức tượng thánh Expédit. Cha sở, dẫn đầu đám đông, chạy tới, thấy mọi chuyện xảy ra, ngài ban phép lành cho con. Lúc đó con mới hoàn hồn, và trong nhiều ngày, con cảm thấy khá hơn, khá hơn rất nhiều!".

Tất cả bài diễn văn ấy chỉ làm xác tín thêm những nghi ngờ của cha Pier-Paolo. Cha nói một cách lưỡng lự:

_ Những hiện tượng ấy thật kì dị, phải, thật là kì dị! Rồi cha bảo chị ta:

_ Hãy nghe đây, vì phép lành làm cho chị khoẻ hơn, nên đừng sợ gì cả, cứ tới đây khi nào chị muốn. Nếu không có tôi ở đây, thì luôn luôn có một linh mục bạn của tôi sẵn sàng ban phép lành cho chị.

NHỮNG DẤU CHỈ RÕ RÀNG

Một vài ngày trôi qua, người phụ nữ đó lại tới để lãnh nhận phép lành. Nhưng trong khi cha Pier-Paolo đang ban phép lành cho chị ta, thì chị ta dựa vào một cái cột gần chỗ ca đoàn, bắt đầu kêu hư hử, miệng ngậm lại như một con chó kêu lúc nó mơ màng. Rồi đôi mắt nhắm lại, chị cất tiếng hát một bài ca lạ lùng. Chị hát bằng một giọng say sưa, phong phú, vang dội, khiến cho tất cả trẻ em gần đó chạy lại để nghe. Hát xong, chị bắt đầu nói tiếng lạ, dường như chị đang tranh cãi chống lại một quyền lực vô hình, và lên giọng giận dữ như giọng của một người điên lúc giận dữ tới cực điểm.

Đúng lúc đó, một cha khác đi ngang qua nhà thờ, đó là cha Apollinaire Focaccia. Cha đã quan sát lúc chị ta hát, và lúc chị nguyền rủa bằng tiếng lạ... Đến tối, cha nói với cha Pier-Paolo:

_ Cha có chú ý tới bà ấy không?

_ Có chứ! Chuyện gì vậy?

_ Cha không bị ấn tượng gì à?

_ Thành thật mà nói thì không. Vì tôi làm tuyên uý cho các bà điên, nên tôi quen với những cảnh này rồi!

_ A, nhưng cần phải chú ý! Theo tôi thì bà này đã bị quỷ nhập!

_ Đừng nói quá! Cha Pier-Paolo đáp lại. Không nên chỗ nào cũng đặt ma quỷ vào một cách vô thưởng vô phạt như dân chúng vẫn làm, đang khi vấn đề chỉ là những chuyện có thể giải thích một cách tự nhiên được. Và rồi điều gì hôm nay không giải thích được, thì ngày mai chắc chắn khoa học của con người sẽ giải thích được.

_ Tôi không đồng ý kiến với cha, cha Apollinaire nói. Không phải thế đâu! Cha đã quên rằng bà ta nói được một thứ tiếng lạ đó sao? Rõ ràng là bà ta đang sống trong một thế giới huyền bí, và cái thế giới đó chính là thế giới của ma quỷ!

_ Này cha Apollinaire! Một ngày nào đó, cha hãy đi với tôi vào bệnh viện tâm thần, tôi sẽ chỉ cho cha coi những trường hợp rất hay, mà khoa học chưa thể giải thích được.

_ Tôi sẵn sàng đi, nhưng cha hãy nói cho tôi biết, cha đã gặp một trường hợp nào đại khái giống như trường hợp này chưa?

_ Thực sự là chưa!

_ Vậy chúng ta có quyền chấp nhận như là một giả thuyết, không đi ngược lại khoa học, rằng có thể ma quỷ can thiệp trong trường hợp này. Người phụ nữ này có vẻ rất bình thường. Nhưng trong bà ta có một nhân cách khác với nhân cách của bà ta. Chúng ta đã nghe bà hát. Không có một ca sĩ nào, thậm chí nổi tiếng nhất thế kỷ này, có thể hát hay như vậy. Và phải nói thế nào về những lời chửi rủa dị thường được phát lên bằng một ngôn ngữ còn dị thường hơn nữa? Không, cha không thể khiến tôi bỏ ý nghĩ cho rằng bà ta bị quỷ nhập. Chắc chắn chúng ta không còn ở thời đại trung cổ nữa. Thời đó, chỗ nào người ta cũng thấy có những trò phù thuỷ và những trò ma quỷ. Nhưng chúng ta không được tự hào rằng mình thông thái hơn Phúc Âm, hơn Chúa Giêsu, hơn thánh Phaolô và thánh Phêrô, các ngài đã nói về ma quỷ như một hữu thể có thực. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo dân Êphêsô nói rằng ma quỷ ở trong không khí. Hiện tượng quỷ nhập đã được biết đến từ thời thái cổ. Giáo Hội đã thiết lập chức trừ quỷ không phải để chơi. Theo như các vị thừa sai của Giáo Hội trong những xứ ngoại giáo, thì ma quỷ hoạt động rất mạnh trong những dân tộc còn sống trong bóng tối tăm của ngoại giáo. Chắc chắn nó cũng có thể hoạt động như thế nơi những dân tộc theo đạo Chúa nhưng vẫn có nhiều người từ chối niềm tin vào Phép Rửa...".

Cha Apollinaire còn khai triển tư tưởng của mình lâu nữa. Cha Pier-Paolo dần dần được lay chuyển, nhưng vẫn chưa xác tín. Ngài nói:

_ Thưa cha, tất cả những gì cha vừa nói đều rất đúng. Nhưng tôi không tranh luận về giáo lý, tôi chỉ nói về những sự kiện, tôi nghi rằng bà này thực sự bị quỷ nhập.

GẶP GIÁM MỤC

Sau cuộc tranh luận tối hôm trước, cha Pier-Paolo cảm thấy có phần bối rối, nên sáng hôm sau, cha đã tới gặp Đức Giám Mục của mình là Đức Cha Pellizzari để trình bày chi tiết tất cả những sự kiện mà chúng tôi vừa kể. Sau một lúc suy nghĩ, Đức Cha chỉ nói:

_ Này cha, cha hãy làm phép trừ quỷ cho bà ta!

_ Thưa Đức Cha, linh mục vội vàng trả lời, có cần thiết phải làm điều đó chăng?

_ Cần chứ! Đức Giám Mục không ngần ngại trả lời.

_ Chính con phải trừ quỷ cho bà ta sao?

_ Phải, cha phải làm!

_ Đức Cha có thể trao trách nhiệm cho người khác không?

_ Hoặc cha, hoặc Đức Cha Mosconi (tức Giám Mục phó), nhưng tốt hơn là cha làm, vì cha biết bà ta.

_ Xin Đức Cha thứ lỗi, nếu không lầm thì con nghe nói rằng ma quỷ sẽ chống lại người nào dùng phép trừ quỷ để trừ nó, và sẽ bày ra đủ trò để quấy phá người ấy!

_ Nhưng ai có thể tin được lời của ma quỷ? Cha không biết rằng ma quỷ là cha của mọi sự dối trá sao?

Cuối cùng, cha Pier-Paolo phải vâng theo ý của Đức Cha. Từ toà giám mục trở về, cha cũng hơi lo lắng. Đương đầu với ma quỷ, đối với cha, có vẻ là một cuộc phiêu lưu kinh khủng. Cha là một linh mục rất đạo đức, nhưng có phần nào hơi nhút nhát, sợ phải bước vào một trận chiến trong đó có lẽ cha khó nắm được phần thắng. Nhưng lệnh Đức Giám Mục rất rõ ràng và dứt khoát. Cha tuân phục, cầu nguyện, cha ngủ rất ít, và quyết chí thi hành nhiệm vụ đã được uỷ thác. Ban sáng, cha đi tìm bác sĩ Lupi, giám đốc bệnh viện tâm thần để trình bày cặn kẽ những gì xảy ra, và ông bác sĩ đã bị thu hút bởi câu chuyện của cha, đã xin cha cho phép chứng kiến nghi thức trừ quỷ, và đó cũng chính là điều cha muốn đề nghị với ông.

TRỪ QUỶ LẦN ĐẦU TIÊN

Nghi thức trừ quỷ lần đầu được cử hành ngày 21.5.1920, lúc 2 giờ chiều, trong một căn phòng ở lầu một phía trên nhà nguyện. Chị bị quỷ nhập cùng đi với chồng, mẹ, một người bạn của gia đình, và hai cô gái. Cha Pier-Paolo được một linh mục bạn phụ tá tên là Giustino, có nhiệm vụ ghi lại tất cả những gì sẽ xảy ra, và một người phụ tá nữa là bác sĩ Lupi, giám đốc bệnh viện tâm thần.

Quỳ gối trước một bàn thờ nhỏ, trước tiên hai cha đọc kinh cầu các thánh theo như sách Các phép chỉ dạy. Người phụ nữ bị quỷ nhập ngồi trong một cái ghế bành bằng mây, vươn vai như một con ác thú vừa ngủ dậy. Bỗng nhiên, những lời đầu tiên của nghi thức trừ quỷ vang lên bằng tiếng Latinh:

"Exorcizo te, immundissime spiritus, omne phantasma, omnis legio..."

Nghe những lời này, người phụ nữ bị quỷ nhập dùng hai tay cầm lấy hai đầu bàn chân, nhảy bay lên khỏi mặt đất trông rất là ngoạn mục, rồi chị ta nhào xuống một cách thư thái như một con nai trong một tư thế đứng thẳng ở giữa căn phòng. Thân xác chị hoàn toàn biến đổi: gương mặt của chị trông thật gớm ghiếc. Chị bắt đầu tru tréo những lời nguyền rủa đối với linh mục trừ quỷ bằng một giọng vang như sấm, chẳng có một chút nữ tính nào:

_ Nhưng mi là ai mà dám chiến đấu với ta? Mi không biết rằng ta là Isabo có một đôi cánh dài và những quả đấm rắn chắc sao?

Từ miệng người bị quỷ nhập phát ra một trận chửi rủa như tát nước vào mặt linh mục trừ quỷ.

Bàng hoàng, ngạc nhiên và hầu như bối rối, vị linh mục cảm thấy ở trong tình thế phải im lặng trong giây lát. Nhưng không hiểu làm sao cha lấy lại được can đảm ngay, và cha mạnh dạn nói:

_ Ta, linh mục của Chúa Kitô, ra lệnh cho mi dù mi là ai mặc lòng, nhân danh mầu nhiệm Nhập Thể, nhân danh cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô, vì sự Lên Trời của Ngài, vì việc Ngài trở lại để phán xét chung, ta ra lệnh cho mi phải ở yên, không được làm hại một tạo vật nào của Chúa, hay làm hại một người nào ở đây, và phải vâng lời tất cả những gì ta ra lệnh cho mi!.

Trong khi mọi người đang xúc động, thì cuộc đối thoại sau đây xảy ra:

_ Nhân danh Thiên Chúa, mi là ai?

_ Isabo! Người phụ nữ kêu lên, gương mặt đỏ bừng và đôi mắt sáng rực.

_ Từ Isabo nghĩa là gì?

Thay vì trả lời, người đàn bà tự cắn tay và bàn tay, đồng thời như muốn chụp lấy áo của linh mục trừ quỷ. Nhưng rồi cuối cùng chị cũng nói:

_ Tên này có nghĩa là "bị bùa mê" tới mức không thể cản lại được.

_ Mi có quyền năng gì?

_ Quyền năng mà người ta cho ta!

_ Người ta cho mi những quyền năng nào?

_ Rất nhiều sức mạnh!

_ Mi nhận những sức mạnh đó từ người nào?

_ Từ người biết sai ta đi!

_ Mi nói thứ tiếng Ý nào vậy?

_ Ta không phải là người Ý.

Người phụ nữ hay nói đúng hơn là con quỷ đang chiếm hữu chị rú lên với một vẻ khinh thị, và đồng thời lại phát ra một trận chửi rủa xối xả. Trong thời gian trừ quỷ, những trận chửi rủa như thế còn xảy ra nhiều lần nữa.

_ Mi từ đâu đến? Vị linh mục hỏi không xúc động.

_ Nhưng mi ra lệnh cho ta làm như ta là nô lệ của mi vậy sao?

_ Hãy nói cho ta biết mi từ đâu tới?

_ Không nói!

_ Nhân danh Thiên Chúa, Đấng mà mi biết rất rõ, hãy nói cho ta biết mi từ đâu tới?

Nghe thấy tiếng "Thiên Chúa" người phụ nữ quay mặt đi chỗ khác, như một con bò rừng bị một cái gậy đập vào mõm, chị ta bất động trong giây lát và từ chối trả lời.

Cử toạ ngong ngóng chờ đợi khi đối diện với cái cảnh gây xúc động này.

_ Nhân danh Thiên Chúa, linh mục lại nói, vì Máu Ngài đổ ra, vì cái chết của Ngài, hãy nói cho ta biết mi từ đâu tới?

_ Từ những sa mạc ở xa.

_ Mi tới một mình hay tới với đồng bọn?

_ Ta có đồng bọn của ta.

_ Bao nhiêu?

Sau một lát lần chần tránh né, con quỷ trả lời, và nói những tên nghe dị thường như tên của nó.

_ Tại sao mi lại nhập vào thân xác này? Vị linh mục hỏi.

_ Vì một tình yêu mãnh liệt không được đáp lại.

_ Không được ai đáp lại?

_ Mi đúng là đồ ngu.

_ Hãy trả lời: ai không đáp lại tình yêu này?

_ Thân xác này! Vừa la, người phụ nữ vừa đấm thật mạnh vào ngực mình.

_ Tại sao mi không cùng thân xác này đáp lại tình yêu đó?

Bằng một giọng hãnh diện, cao ngạo, khinh thị, người phụ nữ trả lời:

_ Bởi vì như vậy không phải là chính đáng!

_ Vì thế thân xác này đã trở thành nạn nhân của mi à?

Để đáp lại câu hỏi này của cha Pier-Paolo, người bị quỷ nhập đã thốt ra một giọng cười dễ sợ, miệng vẫn mím lại, đôi môi chu ra như mõm thú vật, khiến cho tất cả những người chứng kiến phải sợ hãi trong giây lát.

_ Mi đã nhập vào thân xác này hồi nào?

Sau khi vặn vẹo người thật lâu nó mới trả lời câu hỏi này:

_ Vào năm 1913, ngày 23.4 lúc 5 giờ chiều.

Những câu hỏi dồn dập của linh mục bắt buộc người phụ nữ phải nói rằng hôm đó, một tinh thần xa lạ đã nhập vào chị theo một miếng bùa do một phù thuỷ luyện bằng một miếng thịt heo ướp muối rưới lên một ly rượu nho trắng.

Trong phần trừ quỷ tiếp theo, vị linh mục hỏi xem có thật con quỷ cũng đã nhập vào những người khác trong gia đình không. Con quỷ trả lời có.

_ Bằng thần giao cách cảm à? Vị linh mục nói.

_ Đồ ngu! Con quỷ trả lời.

Nhưng khi linh mục ra lệnh cho Isabo ra khỏi thân xác nó đang chiếm hữu, thì nó la lên: Không!

_ Hãy xéo đi! Vị linh mục kêu lên.

_ Không bao giờ!

_ Ta ra lệnh cho mi phải xéo đi!

_ Ta không đi: ta là Isabo!

Và trong cơn phẫn nộ khủng khiếp, người bị quỷ nhập gạt những người có mặt ở đó ra, lao về phía linh mục, tay giơ ra, mắt rực lửa, chụp lấy áo cha, xé dây các phép ra làm nhiều mảnh, với những tiếng kêu man rợ.

_ Người ta phải mất 7 ngày mới làm cho ta nhập vào được thân xác này, còn mi muốn làm ta ra khỏi người này chỉ bằng một lần trừ tà thôi sao?

Đây là lúc quyết định! Ông bác sĩ thản nhiên nhìn chòng chọc vào người phụ nữ bị quỷ nhập. Vị linh mục rảy nước thánh trên chị và ban phép lành, thì chị ta vật mình xuống đất, co rúm người và cuộn khúc lại, y như có người đốt cháy chị bằng than hồng.

_ Chừng nào mi mới ra? Linh mục hỏi.

_ Làm sao ra được, con quỷ nói bằng một giọng buồn sâu xa, trong khi mi cố làm cho ta ra khỏi thì những người khác lại cố làm cho ta ở lại.

_ Hãy đi ra! Linh mục kêu lên đồng thời đặt dây các phép lên vai người phụ nữ.

Khi đụng tới dây các phép, chị nhảy lên như một con hoẵng và điên lên vì sợ hãi. Chị ta bèn kêu:

_ Hãy bỏ gánh nặng này ra cho ta! Và chị ta chạy trốn.

_ Dừng lại! Vị linh mục la lên, nhưng chị ta vẫn tiếp tục chạy trốn, đồng thời kêu lên:

_ Hãy bỏ dùm tôi cái gánh nặng này! Hãy bỏ dùm tôi cái gánh nặng này!

Cảnh này còn kéo dài một lúc. Con quỷ tuyên bố rằng nó chỉ đi khi nào mửa ra được cái miếng thịt muối đã làm nên cái bùa này. Người ta đem tới một cái thau để chị mửa ra, nhưng uổng công. Nhiều lần dường như chị ta mửa ra một cái gì đó, nhưng không lần nào mửa ra những thứ đã ăn vào bữa trước. Vị linh mục lại hỏi:

_ Hỡi thần nhơ nhớp! Những lời nào khiến mi cảm thấy đau khổ nhất?

Nhiều lần tìm cách từ chối trả lời, nhưng vì linh mục cứ ép buộc phải nói, nên cuối cùng con quỷ trả lời một cách sợ hãi, giữa sự im lặng của mọi người:

_ Sanctus! Sanctus! Sanctus! (Thánh! Thánh! Thánh!)

Và quả thật, trong những lần trừ quỷ tiếp theo, người ta thấy ba tiếng ấy - mà phụng vụ gọi là Trisagion - có tạo ra một hiệu quả trừ quỷ thực sự.

Trong khi con quỷ nói những lời ấy thì nó cũng xen lẫn vào những tiếng rú khiến cho những người chứng kiến rất sợ hãi. Chính bác sĩ Lupi cũng đứng run rẩy và xanh mặt!

Nghi lễ trừ quỷ lần đầu kéo dài tới tối. Người phụ nữ bị quỷ nhập dường như đã kiệt sức, và cha Pier-Paolo cũng mệt không kém. Cha đã cho con quỷ một mệnh lệnh cuối cùng: không được làm một điều ác nào cho cả người bị quỷ nhập lẫn gia đình người đó. Sau khi hứa như thế, nó nhìn vị linh mục một cách đe doạ và xảo trá, rồi nó nhìn theo những bức tường của căn phòng dường như đang theo dõi một cuộc du ngoạn của các bóng ma vô hình, rồi nó rung động và co thắt người lại, cuối cùng ngừng tất cả mọi biểu hiện của nó. Người phụ nữ dường như ra khỏi một giấc ngủ sâu. Chị xanh xao nhưng bình thường. Chị ta xác nhận rằng chị hết sức mệt, nhưng không còn nhớ gì cả. Màn trừ quỷ này đã chấm dứt.

Cha Apollinaire hỏi cha Pier-Paolo:

_ Này cha Pier-Paolo, kết quả thế nào?

_ Bà này thực sự bị quỷ nhập!

Lần này cha không thể nghi ngờ gì nữa. Nhưng cha cảm thấy sợ hãi vì đối thủ có quyền năng như thế. Cha nói:

_ Thật không thể tin được thần ác lại có thể chống lại những phương thế hành động của chúng ta đối với nó tới mức độ đó!

Cha trở về phòng, hy vọng ngủ được một chút, lúc này cha mới buồn ngủ làm sao!

Người bạn của cha là cha Giustino đã ghi lại tất cả những gì xảy ra. Dựa trên chính bài tốc kí của cha viết đó, mà chúng tôi đã thuật lại tất cả một cách gián tiếp qua Alberto Vecchi.

NHỮNG ĐIỀU NHẬN THẤY

Đáng lẽ chúng tôi phải theo dõi từng bước một cuốn sổ ghi chép tuyệt hảo này để kể lại tất cả các cuộc chiến đấu còn phải trải qua từ ngày 21.5, ngày trừ quỷ đầu tiên, cho tới ngày 23.6, ngày cuối cùng. Trong khoảng thời gian đó có không dưới 13 buổi trừ quỷ. Ở cuối chương chúng tôi sẽ thuật lại lúc người phụ nữ bị quỷ nhập này được giải phóng. Nhưng chúng tôi phải nhấn mạnh những nhận định mà chúng tôi thấy được qua những lần trừ quỷ này.

Trước tiên, trong trường hợp quỷ nhập này, khởi đầu mọi sự là bởi một cái bùa do một tay pháp sư trong xứ luyện ra. Tác động bất lương của những bùa phép thì khó mà tin được. Pháp thuật là một sự kiện. Đó là một sự kiện vẫn còn hiện hành trong các miền quê của chúng ta, cũng như trong các miền quê nước Ý, và đương nhiên ở các xứ khác nữa!

Thật vậy, trong khi trừ quỷ, người ta biết được rằng chỉ trong vùng Plaisance thôi đã có 7 ông thầy pháp.

Thứ hai là qua sự thú nhận của ma quỷ, người ta biết rằng trong pháp thuật, cũng có một cuốn sách các phép của ma quỷ, trong đó có một số công thức ma thuật, được Thiên Chúa cho phép, có quyền năng vận dụng ma quỷ, bắt buộc chúng phải vâng lời nhập vào người này người kia để chiếm hữu. Tại đó có cả một phương diện về thực tế hoả ngục đã bị hiểu biết một cách sai lầm.

Thứ ba, để chống lại những cuộc tấn công của ma quỷ, chúng ta có những phương tiện hữu hiệu, trước hết là sự cầu nguyện, các bí tích, các á bí tích, việc kêu cầu các thiên thần và các thánh, sự phù hộ của Đức Trinh Nữ Maria.

Trong chương sau, chúng ta sẽ thấy quyền năng to tát mà Thiên Chúa đã khấng ban cho Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm. Và qua kinh nghiệm có kiểm chứng trong trường hợp Antoine Gay, chúng ta biết được từ miệng của chính ma quỷ rằng Đức Maria là Mẹ của Thiên đàng, với tất cả sức mạnh của từ ngữ này, và từ ngữ này đã nói lên tất cả.

Cuối cùng, dường như các danh hiệu mà các con quỷ đã mang đều hoàn toàn do tuỳ tiện. Nếu chúng ta tin vào Isabo, thì ít ra trong trường hợp người phụ nữ bị bỏ bùa ở Plaisance này, chính các thầy pháp ở xứ này đã đặt tên cho bảy con quỷ nhập vào chị ta, những tên mà chúng mang có vẻ kỳ cục, quái đản. Ngoài tên Isabo, chúng ta còn biết các tên Erzelaide, Eslender, ...

Và tất cả những con quỷ này đều khác nhau, hơn nữa, dường như chúng không thiện cảm với nhau bao nhiêu.

Điều vẫn còn gây ấn tượng là sự tàn phá và những tác hại của chứng quỷ nhập, nhất là khi chúng đương sôi nổi nơi một người nào. Về điều này, chúng tôi có ghi lại những tâm sự của chồng người phụ nữ bị quỷ nhập ở Plaisance.

NHỮNG THAN VAN CỦA NGƯỜI CHỒNG

Một hôm cha Pier-Paolo đang chuẩn bị một buổi trừ quỷ, còn cha Giustino đang đổ đầy bình nước thánh sắp phải dùng tới, thì chồng của người phụ nữ bị quỷ nhập than thở:

_ Hy vọng công việc này sẽ kết thúc sớm!

_ Tôi hiểu, cha Pier-Paolo trả lời, hẳn nhiên là anh đã phải trải qua những giờ đầy cảm xúc!

_ Những giờ đầy cảm xúc à? Thưa cha, đó là những giờ khủng khiếp. Đúng ra con có thể kể cho cha cả ngàn chuyện, nhưng bây giờ con chỉ có thể đưa ra một vài chuyện thôi: rất nhiều lần vào buổi tối, khi con đi làm về, con thấy trong nhà tối thui, và mọi vật trong nhà đều ngổn ngang. Vợ con thì huýt sáo, kêu meo meo, gầm rống lên, nhảy lên ghế lên bàn, lên bất cứ đồ đạc nào... Những lần khác, con thấy vợ con đang tức giận xé quần áo, vải vóc. Lúc ấy thấy con, vợ con khóc lóc nói với con một cách bực tức: 'Hãy cho tôi những vật để xé, lẹ lên, tôi cần phải xé, phải phá, phải tiêu hủy'. Vừa nói vợ con vừa nhe răng, giơ móng vuốt ra một cách dữ tợn!

_ Nếu như vậy, cha Pier-Paolo ngắt lời, thì quần áo anh chắc chắn còn rất ít!

_ Không còn gì cả! Vợ con đã xé tất cả! Cách đây không lâu, con chỉ còn 2 chiếc sơ mi, một cái đang mặc, một cái đang gửi giặt. Bây giờ để chắc ăn, con phải gởi bên hàng xóm tất cả những gì con có. Nhưng thảm kịch của vợ con không ngừng tại đó. Những lần khác nữa, con thấy vợ cón ở dưới gầm bàn, co rúm lại, đầu thụt vào hai vai như một con thú bị mắc bẫy, các bắp thịt thì gồng lên như để chiến đấu và ăn tươi nuốt sống kẻ thù. Con gọi: "Têrêsa!". Bằng một giọng khàn khàn, vợ con trả lời: "Ta là Isabo, chính ta đang điều khiển nó!" Mới đầu con tưởng vợ con đùa giỡn, con nói: "Têrêsa! Anh đang nói chuyện với em mà!" Vẫn cái giọng sầu thảm ấy, vợ con trả lời: "Ta là Isabo! Chính ta đang cai quản nó!". Lúc ấy, vợ con ra khỏi gầm bàn, nhảy về phía con, giơ hai quả đấm lên để thụi vào mặt con, và tự nhiên còn chửi rủa tới tấp vào mặt con nữa. Một buổi tối con mệt mỏi hơn và chán chường hơn bình thường, con chửi một câu nặng nề chống lại Isabo, nhưng vợ con nhảy bổ vào con như một con mèo đang tức giận để bóp cổ con. Con phải vất vả lắm mới gỡ ra được. Có thể nói rằng sức mạnh của vợ con đã tăng lên gấp trăm lần!

_ Khi thấy vợ anh trong tình trạng ấy thì anh làm gì?

_ Con để những dụng cụ nghề nghiệp của con rớt xuống đất, người chồng trả lời một cách chán nản, con ăn vội một miếng bánh mì, rồi cố gắng tới giúp người vợ đáng thương của con cho tới 11 giờ đêm, đôi khi tới nửa đêm, cho tới khi con thấy vợ con tỉnh trí lại.

_ Thế còn con cái?

_ Mới đầu chúng sợ hãi và khóc lóc, nhưng chẳng bao lâu chúng quen đi, trẻ con thì vốn là như thế. Nếu vào ban sáng thì chúng chạy ra đường chơi đùa, nếu vào ban tối thì chúng nói với nhau: "Má bắt đầu khiêu vũ rồi, thôi chúng mình đi ngủ" và chúng đi ngủ.

_ Anh có còn hy vọng sẽ thấy được tất cả những cảnh này chấm dứt chăng?

_ Không còn hy vọng gì... Các y sĩ luôn luôn trả lời tương tự nhau, và cũng không biết làm gì hơn. Con đã chán nản đến nỗi sợ mình điên lên rồi làm tầm bậy.

_ Nhưng giờ đây, linh mục nói, chúng tôi đã thay thế những phương pháp chữa trị của các bác sĩ bằng quyền bính của Giáo Hội là mẹ chúng ta, và chúng ta có thể chắc chắn về kết quả cuối cùng.

_ Vâng, thưa cha, bây giờ con cảm thấy hoàn toàn an tâm và tin tưởng!

Như vậy có phải rõ ràng là Giáo Hội đã đem lại hy vọng cho người đàn ông dũng cảm này không? Nhưng những than van rất hợp tình hợp lý này giúp chúng ta đo lường được mức độ nguy hiểm mà chúng ta phải chịu nếu không có sự bảo vệ của Thiên Chúa, Ngài bắt ma quỷ phải giữ một khoảng cách nào đó đối với đại đa số nhân loại, chỉ cho phép chúng "cám dỗ" thôi - như chúng ta vẫn nói - một hiện tượng tâm linh không ai tránh khỏi.

LẦN TRỪ QUỶ THỨ MƯỜI HAI

Lần trừ quỷ thứ mười hai vào ngày 21.6.1920, ba ngày trước đó, con quỷ tuyên bố rằng nó sẽ không chịu ra trước 5 giờ chiều ngày 23.6. Nhưng dẫu sao kể từ lúc đó, nó đã yếu đi rất nhiều. Ngay từ đầu lần trừ quỷ thứ 12 này, người ta đã thấy điều đó. Khi đọc kinh cầu các thánh hay những kinh nguyện chuẩn bị khác, người phụ nữ bị quỷ nhập không còn làm dữ như những lần trước nữa. Thay vì vươn mình như một con ác thú chuẩn bị chồm tới, thay vì nhìn một cách căm thù những người tới chứng kiến, nhất là vị linh mục trừ quỷ, thì chị ta ngồi, đầu cúi xuống, cằm sát tới ngực, bàn tay nắm lấy thành ghế, trong một thái độ yếu ớt, xấu hổ và hối hận.

Khi vị linh mục vừa cất tiếng lên, thì chị ta từ từ đứng dậy, rồi nằm sõng soài đau đớn trên tấm nệm đặt trước mặt chị, tay chân chị cứng ngắc, đôi mắt nhắm lại. Tất cả những người hiện diện đều xúc động khi nhìn thấy thân xác chị thảm thương như một xác chết, và họ đang chờ đợi một cú nhảy lên bất ngờ như đã xảy ra trong bao nhiêu lần khác, hoặc vặn vẹo người, la hét, gầm thét lên, khiến những người nghe thấy phải đứng tim. Vị linh mục, không mấy an tâm, hết nhìn lên cây thánh giá trên bàn thờ nhỏ, lại liếc nhìn bình nước thánh để chắc chắn rằng mọi sự đã sẵn sàng để có thể bất ngờ tấn công con quỷ. Rồi cha bắt đầu ra lệnh như mọi lần.

_ Ta ra lệnh cho mi không được động đậy, và chỉ trả lời những câu hỏi của ta. Mi hiểu không?

Không có trả lời.

_ Hãy trả lời ta, mi hiểu không?

Vẫn không có tiếng trả lời.

_ Mi không thể trả lời hay không muốn trả lời?

Vẫn im lặng.

Vị linh mục bối rối. Làm sao bắt con quỷ câm này nói được? Ngài nảy ra một sáng kiến.

_ Nếu mi không thể trả lời được, thì giơ một ngón tay. Nếu mi không muốn trả lời thì giơ hai ngón.

Nghe lệnh này, người bị quỷ nhập từ từ giơ một ngón tay lên như là phải khó nhọc lắm giữa sự im lặng của mọi người. Chị ta không thể trả lời.

Những người chứng kiến cảnh này bị ấn tượng sâu xa. Cái người mà ma quỷ đã nhiều lần biến thành mạnh bạo như thế, độc đoán và hống hách như thế, vậy mà giờ đây lại tỏ ra mệt mỏi như thế, nhục nhã như thế, bất lực như thế, tỏ ra ủ rũ, buồn thảm sâu xa như thế, khiến cho người ta không thể nào quên được!

Cuộc đối thoại còn kéo dài giữa vị linh mục và người bị quỷ nhập. Chị ta luôn luôn trả lời bằng cách giơ một hoặc đôi khi hai ngón tay lên. Cuối cùng linh mục ra lệnh:

_ Đứng dậy! Mửa ra!

Khi dùng từ ngữ này, cha muốn ám chỉ rằng cái bùa là một miếng thực phẩm đã ăn vào trước đó 7 năm, mà bây giờ chị phải mửa ra để được giải phóng khỏi cái phù phép đó. Đã nhiều lần vị linh mục ra lệnh này: mửa ra! Nhiều lần chị cũng đã mửa ra một vài miếng, không lần nào là những thức ăn của bữa trước. Nhưng chính cái viên bùa thì chưa ra.

Lần này nữa, chị từ từ đứng dậy, từ từ lại gần cái chậu và ráng vâng lời, nhưng không được. Vị linh mục đã cầu cứu tới quyền năng của ba tiếng Sanctus! Sanctus! Sanctus! mà chúng ta đã từng nói tới. Tất cả cộng đoàn đều hô lên với cha ba tiếng đó.

Chị bị quỷ nhập vâng lời và lại mửa ra một cái gì đó, nhưng cai viên thịt ác hiểm kia thì vẫn chưa chịu ra. Và cũng chẳng thể đạt được cái gì khác hơn nơi chị ta nữa.

NGÀY VĨ ĐẠI

Cuối cùng là cái ngày vĩ đại ấy. Isabo đã nói: ngày 23.6.1920, người ta sẽ thấy rõ điều đó. Bác sĩ Lupi tò mò hơn ai hết về những gì sắp xảy ra. Tất cả mọi người đều tới đúng giờ để có được cái kinh nghiệm độc đáo này. Bác sĩ Lupi bị căng thẳng hơn bình thường, nên cứ lấy cây gậy của mình gõ xuống mặt đất hoài. Các kinh nguyện chuẩn bị được đọc một cách sốt sắng hơn những lần khác. Trong căn phòng trừ quỷ, người phụ nữ bị quỷ nhập bò lê, trông xanh xao mệt mỏi hơn, thẹn thùng hơn bao giờ hết. Chị ngồi phịch xuống cái ghế bành dành cho chị, đầu nghiêng một bên, trong tư thế của một người bị kết án tử hình ngồi trên chiếc ghế điện. Khi những lời trừ quỷ đầu tiên cất lên, chị nằm dài trên tấm nệm, người cứng ngắc, mắt nhắm lại. Bác sĩ Lupi chú ý hơn, không muốn bỏ mất một chi tiết nào trong kinh nghiệm này.

_ Nhân danh Thiên Chúa, vị linh mục kêu lên, ta ra lệnh cho mi phải vâng lời ta, làm tất cả những gì ta truyền lệnh. Mi hiểu không?

Im lặng.

_ Nhân danh Thiên Chúa, nhân danh Đức Maria, ta ra lệnh cho mi như thế!

Vẫn im lặng.

_ Nếu mi hiểu thì giơ một tay lên, nếu không hiểu thì giơ hai tay.

Một cách chậm chạp như không còn hơi sức nữa, chị ta giơ tay lên. Cuộc đối thoại gây xúc động lại tiếp tục. Người ta biết rằng hôm trước có một con quỷ đã ra khỏi chị để nhập vào một người khác. Người ta cũng biết rằng tất cả những thành viên khác trong gia đình đã bị quỷ nhập ít hoặc nhiều, nay đã được chữa lành hoàn toàn.

Còn có những tranh luận giữa Isabo và linh mục về vấn đề tất cả các con quỷ có phải ra cùng một lượt với nhau không. Cuối cùng, để chóng kết thúc, vị linh mục ra cái lệnh mà mọi người đang chờ:

_ Hãy đứng dậy và mửa ra!

Nghe lời này, người bị quỷ nhập ráng đứng dậy, mắt nhìn chằm chằm xuống đất, và quỳ gối xuống cạnh cái chậu. Chị cúi xuống, và với tất cả cố gắng khiến chị rung động cả toàn thân, chị ráng mửa ra. Vị linh mục hết năn nỉ lại ra lệnh, thúc giục chị vâng lời. Người phụ nữ đáng thương ấy trông giống như một xác chết.

_ Mửa ra! Vị linh mục lại ra lệnh.

Với những co thắt trông thật tội nghiệp, chị tựa cùi chỏ vào hai cái ghế hai bên và ráng mửa ra. Khó nhọc mà không mửa ra được gì.

_ Hãy đọc Sanctus! Vị linh mục lên tiếng.

Nghe vậy chị mửa ra được cái gì đó, nhưng còn ít quá! Đầu chị dường như gục xuống. Cần phải nâng đỡ chị, nếu không, có thể chị sẽ chết mất!

Lúc này, vị linh mục nhìn đồng hồ:

_ Bây giờ là 4g35, cha nói. Với tất cả uy quyền mà Thiên Chúa ban cho ta, ta ra lệnh cho mi, hỡi thần ô uế, phải ra khỏi thân xác này ngay, nếu mi không ra ngay tức khắc, ta sẽ đuổi mi ra sa mạc, ra giữa sa mạc Sahara, nếu không ta sẽ đuổi mi xuống hỏa ngục.

Nghe vậy, tất cả những người có mặt đều run lên. Giờ phút nghiêm trọng đã tới! Không có gì khiến cho Satan sợ hãi cho bằng bị ném xuống hỏa ngục. Điều này gợi cho chúng ta một khía cạnh bị hiểu sai lầm về số phận của ma quỷ. Trong Tin Mừng, các con quỷ đã thích nhập vào đàn heo hơn là bị đuổi xuống "Vực Sâu".

Vậy, ở Plaisance, tất cả cử tọa đều chờ đợi. Mọi nhân chứng đều nghe thấy tim mình đập và nín thở.

Lúc đó, theo lệnh của vị linh mục, người bị quỷ nhập từ từ mửa ra. Đằng sau, tóc chị từ đầu thả xuống dưới lưng như một bộ tóc giả to lớn phủ hết phần dưới gáy. Đôi mắt chị đầy lệ. Trông chị có vẻ ngây dại và nhớn nhác. Các bắp thịt ở mặt xệ xuống, môi dưới dường như trĩu xuống cằm. Không còn gì có vẻ là người trên cái khuôn mặt bị biến dạng ấy. Cặp mắt long lanh như muốn khóc, chiếc miệng mở hé, đôi má hóp vào như xác chết. Tất cả những ai trông thấy chị đều chắc chắn không cầm được nước mắt.

Cuối cùng, người ta nghe thấy một giọng sầu thảm, nghẹn ngào, ngập ngừng nói trong cổ họng:

_ Ta ... đi ... đây ...!

Lúc đó, đầu của người phụ nữ cúi xuống cái chậu, và từ miệng chị mửa ra một lượng lớn những thứ ghê tởm.

_ Hãy cút đi! Xéo đi! Vị linh mục kêu lên, lòng khấp khởi mừng vui.

Từ lúc đó, người bị quỷ nhập không còn cảm thấy dây các phép hay việc đặt tay của linh mục lên đầu chị là một gánh nặng ghê gớm nữa. Bỗng bằng một giọng tươi mát, trẻ trung, vui sướng, chị kêu lên:

_ Tôi khỏi rồi!

Và chị đưa mắt nhìn những người chứng kiến từ người này sang người khác trong trạng thái hân hoan, với một nụ cười chiến thắng.

_ Thế còn viên thịt mà Isabo nói tới đâu? Cha Pier-Paolo hỏi.

_ Viên thịt đó chắc chắn ở trong chậu! Ông bác sĩ nói.

Ông đứng dậy, tiến lại gần cái chậu, và lấy cây gậy của ông khua vào những chất trong chậu. Ông nói: "Hãy nhìn đây!", ông vừa nói vừa dùng gậy khều lên tất cả những gì người phụ nữ đã mửa ra, trông nó như là một miếng vải. Thật vậy, trước những cặp mắt ngạc nhiên của những người chứng kiến, một cái gì giống như một tấm "voan" rất đẹp, lóng lánh những màu sắc của chiếc cầu vồng! Sau khi mở tấm "voan" ra, ở giữa tấm voan đó, người ta thấy viên thịt "nổi tiếng" mà con quỷ đã từng mô tả nhiều lần trong những nghi thức trừ quỷ ấy. Đó là một viên thịt héo ướp muối, lớn bằng quả cau, có bảy sừng.

KẾT LUẬN

Thần ác ấy đã giữ lời hứa. Chính ông bác sĩ mới đầu khó tin như thế, mà bây giờ đã tin chắc chắn, vì có những bằng chứng rất rõ ràng và dứt khoát.

Người phụ nữ bị quỷ nhập, sau khi khỏi bệnh, khóc thút thít, nhưng nước mắt của chị bây giờ là nước mắt vui mừng. Vả lại, ngay cả những người chứng kiến cũng thấy mắt mình rướm lệ. Ông bác sĩ vẫn còn hăm hở, xem xét, tìm tòi trong cái chậu. Hai linh mục thì nhìn lên Chúa Kitô chiến thắng.

Vị linh mục trừ quỷ mời tất cả mọi người hiện diện quỳ gối trước bàn thờ. Người phụ nữ được giải phóng khỏi ma quỷ đã dâng lên Chúa những dòng lệ với những tiếng khóc nức nở thổn thức. Chị vừa thoát khỏi cơn thử thách kinh khủng nhất. Chắc chắn cái lỗi lầm đầu tiên của chị là đã đi hỏi ý kiến một ông thầy pháp tự xưng mình là thầy lang chữa bệnh, ông này đã phải lòng chị. Vì chị từ chối lời tỏ tình của ông ta, nên ông ta đã trả thù bằng cách bỏ bùa chị. Chúng ta vừa thấy được những hậu quả tai hại do hành động đó của chị. Điều này thật kỳ lạ! Trong chương sau, chúng ta sẽ gặp một trường hợp hầu như giống y như vậy, nhưng xảy ra khoảng 30 năm sau trong một vùng hoàn toàn khác hẳn.

Câu chuyện về việc trừ quỷ trên đây vẫn còn được những người thời đại ở Plaisance nhắc tới. Người ta biết rằng vị Giám mục đã ra lệnh trừ quỷ bị chết thình lình sau đó ít lâu. Có phải Satan trả thù không? Còn một vài sự kiện khác khiến người ta có thể nghĩ như thế, nhưng dẫu sao sự trả thù này vẫn là một thú nhận sự bất lực của nó. Vị Giám mục đã làm đúng bổn phận của ngài. Và cho dẫu ngài có mất đi thì công lao của ngài vẫn tồn tại mãi mãi.

CHƯƠNG VII

MỘT VỤ THƯ ẾM VÀO

GIỮA THẾ KỶ XX

MỘT CUỘC GẶP GỠ KỲ LẠ

Trước khi đề cập đến chính nội dung chủ đề chương này, tôi xin mạn phép đưa ra đây một sự kiện hoàn toàn có tính cách cá nhân. Đang khi bận viết cuốn sách này, thì tôi nhận được lá thư của một linh mục mà tôi chưa hề quen biết, và linh mục này hoàn toàn không biết tôi đang viết một tác phẩm nói về ma quỷ. Linh mục đó cũng vừa đọc một tác phẩm về chủ đề này, và viết thư cho tôi, một cách ngẫu nhiên, để giới thiệu với tôi tài liệu riêng của cha. Ngài nói với tôi:

_ Đương nhiên là con có những hồ sơ ấy.

_ Được rồi, tôi sẽ đọc những hồ sơ của cha, cha hãy đến gặp tôi nhé!

Việc đó tôi tưởng là khó xảy ra, nhưng thực sự cha đó đã tới. Hồ sơ của cha là những tài liệu hết sức quí giá. Cha đã phải mãnh liệt đương đầu với Satan suốt 6 năm nay. Qua người phụ nữ bị bỏ bùa ở Plaisance được đề cập ở chương trước, chúng ta thấy cuộc chiến đấu đó dữ dằn như thế nào. Thế kỷ chúng ta có khuynh hướng nghi ngờ sự hiện hữu của Satan, cũng như đã nghi ngờ biết bao chuyện khác, nhưng thế kỷ này cũng có những bằng chứng về sự hiện hữu của nó, về sức mạnh và hành động của nó, về những phương pháp mà nó dùng khi được Thiên Chúa cho phép, về những tình trạng khủng khiếp mà nó có thể gây ra cho một nạn nhân khốn khổ nào đó của nó.

Tôi được phép cho biết tên của "nhân chứng" đã đương đầu với Satan vào thời đại mà chúng ta đang sống đây. Đó là cha Berger-Bergès, ở Chavagne-en-Pailler thuộc tỉnh Vendée.

Vì chính cha không xuất bản cuốn sách nào cả, nên cha đã nhờ tôi nói thay cho cha rằng cha sẵn sàng trình bày trước bất kỳ một cử toạ nào về những phép trừ quỷ mà cha có nhiệm vụ phải làm trong 6 năm qua, và vào lúc tôi viết bài này, thì cha vẫn đang tiếp tục nhiệm vụ ấy.

Tôi đã tham khảo, đọc qua, đồng thời ghi chú về những hồ sơ ấy, nhưng dĩ nhiên ở đây tôi chỉ có thể đưa ra một cái nhìn bao quát và ngắn gọn về những tài liệu đó thôi.

Đàng khác, tôi không thể ghi rõ tên tuổi của những người có liên quan đến những câu chuyện đó, mà chỉ ghi chữ đầu trong tên của họ, và cũng không chỉ rõ nơi những câu chuyện ấy xảy ra.

Có những trường hợp trừ quỷ tương đối dễ dàng và thành công nhanh chóng. Nhưng cũng có những trường hợp phức tạp hơn, lâu có kết quả hơn. Dường như trong những trường hợp trừ quỷ khó khăn này, như trường hợp ở Plaisance, mỗi lần nhờ việc trừ quỷ mà nạn nhân bớt đau khổ hơn, dễ chịu hơn, thì chỉ ít lâu sau, chứng quỷ nhập tái diễn và trở nên nặng nề hơn, vì những phù phép gây ra chứng quỷ nhập đó lại được người ta thực hiện ở xa.

Trong tất cả những hồ sơ mà tôi đã xem qua, tôi chỉ giữ lại một hồ sơ, vì nó có tính cách tiêu biểu đặc biệt. Đó là hồ sơ nói về trường hợp quỷ nhập của bà G., một người có gia đình và có một cô con gái nhỏ. Hồ sơ này có không dưới 145 tình tiết xảy ra từng đợt từ 14.9.1953 đến 5.2.1959, hiện nay (năm 1959), lúc tác giả viết cuốn sách này vẫn còn đang tiếp diễn.

Nhưng trước tiên, chúng tôi phải nói câu chuyện xảy ra ngay từ đầu như thế nào.

Để làm việc này, chúng tôi dựa vào những ghi chép riêng của người chồng nạn nhân. Cách nói, cách trình bày câu chuyện là của chúng tôi, còn tất cả mọi chi tiết, tình tự đều là của ông ta. Và để cho bài tường thuật sinh động hơn, chúng tôi sẽ trình bày như chính ông ta tự thuật, dùng chính những từ ngữ của ông được chừng nào có thể.

MỆT MỎI QUÁ SỨC

Ông G. kể lại: "Lúc đó là tháng 9.1950, con gái của chúng tôi là Annie, 2 tuổi, bị chứng mất ngủ. Từ lúc cháu sinh ra, hầu như vợ tôi luôn luôn phải thức trắng đêm với cháu. Nàng cảm thấy mệt mỏi toàn diện, khiến nàng lo lắng đến nỗi chúng tôi phải cầu cứu tới bác sĩ: nàng không còn muốn làm một việc gì nữa, lúc nào cũng thấy mệt mỏi, người thì gầy hẳn đi, lại hay bị chóng mặt... Tuy nhiên, bác sĩ vẫn trấn an. Theo bác sĩ, tình trạng hiện tại không có gì nghiêm trọng cả. Chỉ cần yên tĩnh, ăn uống và ngủ nghỉ đầy đủ; muốn thế, phải để nàng sống trong một căn nhà yên tĩnh để an dưỡng tối thiểu là 3 tuần.

Nói thì quả là hay lắm, dễ lắm, nhưng chúng tôi đâu có bảo hiểm xã hội. Vợ tôi lại chưa bao giờ rời khỏi căn nhà mà hai vợ chồng tôi sống từ hồi nào đến giờ. Vả lại, việc sống ở ngoài rất tốn kém. Vì thế chúng tôi quyết định bỏ qua ý kiến của bác sĩ. Ba tuần trôi qua, tình trạng sức khoẻ của vợ tôi không có gì khả quan hơn. Một hôm lên thành phố, tôi gặp một bạn gái của vợ tôi hỏi thăm tin tức gia đình tôi. Tôi đã kể hết sự tình, và chị ta trả lời: 'Tại sao anh lại không tới ông B.? Ông ấy đang chữa trị cho con trai tôi, cháu bị đau thần kinh, và tôi rất hài lòng. Con trai tôi bây giờ đã ăn ngon ngủ yên, những khủng hoảng thần kinh hầu như biến mất hoàn toàn'. Nghe chị ta nói chắc chắn như thế, mừng quá, tôi hỏi chị xem ông B. ở đâu. Dường như đó là một thầy lang vườn, rất nổi tiếng trong khắp vùng đó. Chị ấy bảo tôi: 'Thứ bảy nào ông ta cũng tới S.J. và chữa bệnh suốt ngày. Anh thử tới đó xem, không tốn kém gì đâu!'. Nhưng người bạn gái tốt bụng này còn nói thêm, không có vẻ coi chuyện mình nói tới là quan trọng: 'Mới đầu ông ta làm tôi sợ: lần đầu tôi tới đó với cháu nhỏ, ông ta cắt của cháu một mớ tóc và cầm nó giữa các ngón tay. Ông vừa vân vê các ngón tay với nhau, vừa nói: 'Phải rồi, đúng là cháu bị bệnh thần kinh rồi!'. Cùng lúc đó một làn khói xanh từ các ngón tay của ông ta bốc lên!'.

Về tới nhà tôi nói tất cả những việc đó với vợ tôi. Chuyện làn khói xanh và mớ tóc bị cắt không làm cho nàng lo âu chút nào cả. Nàng không tin vào tất cả những chuyện đó. Vì thế chúng tôi quyết định tới ông ta vào thứ bảy kế đó. Nhưng vì lý do đột xuất, ông ta lại không tới S.J. để khám bệnh như thường lệ, nên tôi đã tới thăm mẹ tôi ngay hôm đó, mẹ tôi nói với chúng tôi: 'Ồ! Các con! Mẹ không muốn ngăn cản các con tới ông B. khám bệnh đâu! Nhưng các con biết, mẹ không tin tưởng hắn được. Gia đình hắn gồm toàn những người đểu cáng. Nếu có thể làm được thì hắn sẽ làm cho nửa vùng S.J. này toi mạng hết'.

Tuy vậy, tiếng báo động này không làm cho chúng tôi ngưng thực hiện ý định. Nên thứ bảy sau đó, chúng tôi tới bấm chuông nhà ông thầy lang nổi tiếng ấy.

CẢNH ÔNG THẦY KHÁM BỆNH

Chính vợ của ông ta ra mở cửa cho chúng tôi. Chị ta đón tiếp chúng tôi vui vẻ lắm. Chúng tôi chờ tới phiên mình. Đến lượt, ông thầy kêu chúng tôi vào, mời chúng tôi ngồi và bắt đầu thăm bệnh:

_ Thưa bà, xin bà cho biết họ tên và ngày sinh của bà.

Vợ tôi trả lời xong, B. cắt một ít tóc của nàng. Hắn cầm tóc đó giữa ngón cái và ngón trỏ của bàn tay phải, rồi cầm cổ tay vợ tôi. Im lặng một lát, hắn vê ngón cái và ngón trỏ với nhau, không nói gì, bỗng nhiên có một làn khói xanh bay lên, cao tối thiểu 20cm, y như một điếu thuốc tự bốc khói từ một ống gạt tàn thuốc. Một lát sau, hắn rời hai ngón tay ra, thì - một chuyện có vẻ như không có thật - không còn thấy tóc đâu nữa! Lúc đó, B. tuyên bố: "Ồ! Bà bị đau thần kinh, nhưng không sao cả, tôi sẽ chữa cho bà, nghề chuyên môn của tôi mà! Tới đây khám bệnh hai ba lần là bà sẽ hoàn toàn khoẻ mạnh!".

Rồi hắn cầm một cái lọ có đựng một chất gì là lạ, và nhúng ngón tay cái vào lọ. Hắn nhìn đồng hồ để căn thời gian, chỉ trong vài giây là hắn rút nhanh ngón tay ra. Kế đó, hắn nắm lấy hai cổ tay vợ tôi: kìa, tự nhiên hắn co rúm người lại, người hắn đỏ lên như trái cà chua. Như vậy kéo dài mấy phút, đầu hắn vẫn cúi xuống. Bỗng nhiên vợ tôi nhắm mắt lại và bắt đầu ngủ. Lập tức, hắn buông hai cổ tay vợ tôi ra và chuẩn bị làm cho nàng tỉnh dậy. Hắn nói rằng hắn đang bị đau ở gáy, và như hắn nói thì công việc hắn vừa làm khiến hắn rất mệt. Hắn cầm một ống thuốc đựng éther, chích vào gáy hắn một phát để lấy lại sức khỏe, rồi chích vào gáy vợ tôi khiến nàng tỉnh dậy, trông ngơ ngáo, đầu nặng chịch, sau một vài phút ngủ một giấc kỳ lạ. Phiên khám bệnh của vợ tôi thế là hết. Nàng cảm thấy khoẻ hơn trước một chút. Hắn cho chúng tôi địa chỉ nhà tư của hắn, để phòng trường hợp chúng tôi muốn gặp hắn tại nhà. Nhưng hắn hẹn chúng tôi trở lại S.J. 15 ngày sau.

GIẤC NGỦ KỲ DỊ

Chúng tôi ra về với hy vọng rất lớn là bệnh nàng sẽ khỏi. Nhưng ngay buổi tối hôm đó, chúng tôi đang dùng bữa, thì bỗng nhiên vợ tôi buông bỏ muỗng nĩa, gục đầu xuống ngay trên đĩa nàng đang ăn và ngủ mất. Chuyện gì xảy ra vậy? Tôi không hiểu gì cả. Hai phút trôi qua, thế mà có vẻ như lâu lắm, vợ tôi tỉnh lại và nói với tôi: "Thế là nghĩa gì? Tất cả mọi cái đều mờ đi trước mắt em, và em không còn thấy gì nữa. Bây giờ em thấy mệt mỏi và thờ thẫn!". Ít lâu sau, nàng cảm thấy khoẻ khoắn hơn và nói: "Bây giờ em đói quá!".

Hôm sau cũng như những ngày tiếp theo, cảnh đó lại diễn ra, bữa ăn nào vợ tôi cũng ngủ. Ban tối, lúc đi ngủ, khoảng 8g30 hay 9g00, nàng bắt đầu lúng búng nói những từ ngữ kỳ dị, rồi cười nắc nẻ như thể có một cái gì hiện ra trước mắt nàng. Nàng đi quanh cái bàn như một người điên, và dùng ngón tay chỉ các đồ vật như một người câm muốn làm cho người ta hiểu mình. Tôi cố làm cho nàng ngừng cái trò đó lại, nhưng nàng đẩy tôi ra như thể tôi là một người xa lạ, mà nàng không muốn gặp.

Càng ngày tôi càng không hiểu gì, và tôi tự hỏi tên lang băm này có thể đã làm gì cho vợ tôi trong lần chữa bệnh bằng từ lực - như hắn ta vẫn gọi như thế.

Việc này không thể kéo dài được. Vì thế, thứ năm sau cái lần gặp tên lang băm đó, chúng tôi lại tới gặp hắn tại nhà tư.

BỆNH LẠI CÀNG TRẦM TRỌNG HƠN

Chúng tôi kể lại những gì đã xảy ra, thì tên thầy lang xin lỗi một cách kỳ cục, hắn nói hắn đã lầm lẫn về ngày tháng sinh của vợ tôi, vì đối với những người sinh vào tháng đó, thì cần phải chữa trị một cách êm dịu hơn, vì thế không có gì đáng lo cả, và chúng tôi có thể hoàn toàn an tâm trở về, vì mọi sự sẽ xảy ra tốt đẹp hơn nhiều!

Khi nói điều đó, tên B. có vẻ vui mừng ra mặt. Về sau chúng tôi mới hiểu tại sao: Satan đã làm đúng lệnh của hắn. Đối với hắn, việc chúng tôi trở lại gặp hắn là một chiến thắng. Trong lúc khám bệnh, vợ tôi lại ngủ trước mặt hắn. Thực ra hắn chỉ miễn cưỡng làm đẹp lòng nàng và đành phải nói: "Khi ra khỏi nhà tôi, bà sẽ ăn ngon, rồi bà sẽ thấy, và tối nay bà sẽ ngủ ngon!".

Quả thật là trên đường trở về nhà, vợ tôi đã ăn ngấu nghiến cả một nải chuối. Buổi tối, nàng đi ngủ và ngủ một giấc say như chết: sau này chúng tôi mới hiểu điều đó, vì lúc ấy Satan đã có mặt để làm một điều gì rồi. Buổi sáng, khi tỉnh dậy, nàng lại cảm thấy hoàn toàn thờ thẫn. Nhiều ngày trôi qua, tình trạng của nàng càng lúc càng tệ hại hơn. Nàng nhức đầu kinh khủng, chưa bao giờ nhức đầu như vậy. Đôi khi nàng cảm thấy choáng váng khủng khiếp, và phát khóc lên vì đau đớn quá mức. Rồi bỗng nhiên nàng im lặng, ...

BỆNH LẠI CÀNG TRẦM TRỌNG HƠN (tt)

...người trở nên cứng ngắc, mắt mở trừng trừng hoảng hốt, nhìn chòng chọc lên trần nhà, hai tay giơ lên. Nàng nói nhiều lần: "Chắc tôi điên mất!".

Những lần khác, nàng giống như chết. Tôi không sao làm nàng tỉnh dậy được trừ phi làm gãy hai cánh tay nàng. Nàng không nhìn thấy tôi, cũng không nghe thấy tiếng tôi nói nữa. Cứ như vậy suốt một tiếng, đôi khi tiếng rưỡi đồng hồ, có những lần chỉ kéo dài 15 phút. Còn tôi, ở đó, bất lực, chẳng biết phải làm gì nữa!

Đương nhiên, thứ bảy kế tiếp, khi B. tới S.J. khám bệnh, chúng tôi tới đó để nói với hắn sự bất mãn của mình. Hắn lại khám bệnh vợ tôi: hắn cầm lấy hai cổ tay nàng, cho nàng uống một lọ thuốc tăng lực mà hắn nói là máu bò và huyết cầu tố. Hắn còn cho thêm vào đó một ít thuốc cốm cũng được gọi là thuốc tăng lực. Hắn còn xác định là hắn đã làm cho lực tác động của hắn bớt mạnh, và nói rằng hắn không cưỡng ép nàng chút nào cả. Nhưng tình trạng sức khoẻ của nàng vẫn không khá hơn chút nào. Một lần nữa, thứ bảy trước Giáng Sinh 1950, chúng tôi lại tới S.J. để nói với hắn rằng với bất cứ giá nào hắn cũng phải làm sao cho nàng đỡ hơn. Vì chúng tôi tin chắc rằng tất cả đều tuỳ thuộc hắn, vì hắn đã truyền nhân điện của hắn qua nàng. Để trả lời cho những quở trách của chúng tôi, hắn nói:

_ Các bạn đáng thương của tôi ơi! Tôi không thể làm gì hơn những gì tôi đã làm. Nhưng với bà - hắn nói với vợ tôi - tôi không hiểu tại sao. Dường như có một bức tường ở trước tôi. Khi tôi muốn làm điều gì cho bà, thì có một sức lực ngăn cản không cho tôi chữa bệnh cho bà. Tôi đã từng chữa bệnh cho bao nhiêu người khác, nhưng không bao giờ thấy có một bức tường như vậy! Tôi không biết phải làm gì ngoài cái phương cách mà tôi phải dùng: vậy, bà hãy đến ở gần nhà tôi, tôi sẽ chăm sóc bệnh tình bà dễ dàng hơn!

Như vậy là hắn đang giương lên chung quanh chúng tôi một cái bẫy mà chúng tôi vẫn vô tình không biết gì cả.

BỊ SA BẪY

Hôm đó, khi trở về nhà, vợ tôi rất lưỡng lự. Nhưng một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi trở lại nhà của B. ở S.J, và nàng yêu cầu hắn dẫn nàng ngay tối hôm đó về ngôi khách sạn ở cách S.J. hai kilômét. Chắc chắn hắn rất vui mừng nhưng không để lộ cho ai thấy cả, lập tức hắn kêu điện thoại cho khách sạn đó, báo tin rằng sẽ có 2 người tới đó để thuê phòng. Ngay 9 giờ tối hôm đó, chúng tôi tới khách sạn, và phải ở đó từ thứ bảy tới thứ năm kế tiếp, mà tình trạng của vợ tôi vẫn không khá hơn. Lễ Giáng Sinh đã tới. Vợ tôi quyết định mừng lễ ở nhà. Bệnh của nàng càng ngày càng nghiêm trọng hơn. Nàng trở thành nhớn nhác, không còn nhận ra tôi nữa. Nàng nói với tôi: Tôi không quen biết ông, tôi không muốn gặp ông nữa!". Điều nghiêm trọng hơn nữa là nàng không còn thiện cảm với bé Annie, đứa con gái mà trước đây nàng hết sức yêu thương và âu yếm. Có lần đang làm bếp, nàng cầm con dao trong tay, sấn tới con bé để làm hại nó. Nàng cảm thấy trong người nàng có một lực thúc đẩy nàng làm điều ấy. Tuy vậy, nàng vẫn chống lại lực thúc đẩy đó. Nhưng rồi một hôm nàng có tư tưởng bóp cổ con gái mình. Sức mạnh ấy vẫn thúc đẩy nàng. May mắn thay nàng chống cự lại được. Nhưng nàng khóc. Đối với nàng đó là một đau khổ khôn tả. Những tư tưởng làm hại con của nàng có thể xuất phát từ đâu?

Giữa tháng giêng 1951, khi còn nằm trên giường, nàng nói với tôi: "Hãy tới gặp tên B., nói với hắn tới gặp em. Em sợ những trò ma quái của hắn quá rồi! Hắn phải ngưng tất cả những trò này lại!".

Tôi làm những gì nàng muốn. Ban tối, sau khi B. chữa bệnh cho bệnh nhân xong, hắn tới nhà chúng tôi. Hắn muốn nói chuyện mặt đối mặt với vợ tôi. Hắn bảo nàng tới nhà hắn một mình. Vì thế tôi dẫn nàng tới nhà hắn, nhưng để một mình nàng vào gặp hắn khoảng nửa tiếng.

Khi ra khỏi đó, nàng có vẻ hơi lạc thần. Tôi hỏi nàng: "Em làm sao vậy? Trông em tức cười quá!". Nàng trả lời: "Ồ! Tên B. ngu xuẩn này yêu cầu em làm tình nhân của hắn, và em trả lời hắn: Hãy để tôi yên, và đừng đặt lại vấn đề ấy nữa!"

Lúc ấy tên thầy lang không nài nỉ nàng vì trong nhà của hắn đầy người. Vợ hắn không có ở đó. Nhưng không vì thế mà tên khốn nạn ấy từ bỏ ý định của hắn, như chúng ta sẽ thấy sau này.

Tháng giêng qua đi. Bệnh tình của vợ tôi càng tệ hơn, lúc nào nàng cũng thù ghét Annie, con gái nàng. Điều đó trở thành một ám ảnh kinh khủng tới độ nàng không chịu đựng được nữa. Một hôm, vào đầu tháng giêng 1951, nàng nói với tôi: "Anh biết đấy, em phải tới S.J. để chữa bệnh, em phải ở gần B. để hắn chữa cho em. Em nài xin hắn đưa em ra khỏi tình trạng này. Quả thật, em không thể chịu đựng nổi nữa, và em phải xa rời đứa con gái của em, vì em sợ gần nó em sẽ làm hại nó!".

Sau này chúng tôi thấy rằng mưu mô của Satan - theo lệnh của B. - hệ tại chính điều này: Việc vợ tôi sợ làm hại đứa con gái khiến nàng rơi vào bẫy của B., hắn không chịu đựng được sự từ khước của vợ tôi đối với đam mê của hắn khi hắn tấn công nàng lần đầu. Tôi trả lời:

_ Em thực sự tin rằng mọi sự sẽ tốt đẹp hơn khi em đến với tên ấy sao? Anh không tin tưởng lắm!

Nhưng vì nàng năn nỉ, nên tôi lại dẫn nàng tới khách sạn mà chúng tôi đã ở trước lễ Giáng Sinh, và tôi để nàng một mình tại đó, vì tôi còn phải về để đi làm. Tôi và hắn vẫn đến thăm nàng, cho tới thứ ba kế tiếp. Sáng thứ ba, nàng thấy hắn vào phòng nàng lúc nàng còn nằm trên giường. Và hắn đã đề nghị với nàng những điều tội lỗi ghê tởm nhất một cách vô liêm sỉ. Vợ tôi tức giận. Nàng nói với hắn những từ ngữ chỉ thích hợp để nói với một tên đểu cáng như hắn. Nàng nói thêm: Hãy để tôi yên, tôi sẽ nói với chồng tôi tất cả!".

ĐE DỌA

B. lại thất bại lần nữa, nên hắn đe doạ nàng một cách quyết liệt:

_ Nếu bà nói với chồng bà điều đó, bà sẽ hối hận! Tôi không thích ai cưỡng lại tôi cả, và bà sẽ hối hận vì điều đó!

_ Ông đã làm gì khiến cho tôi bệnh hoạn thế này? Vợ tôi la lên.

_ Bà nói vậy sao? Hắn tức giận đáp lại. Không phải tôi làm cho bà bệnh đâu, có thể có một tên vô lại nào đó đã làm hại bà!

_ Đúng! Thằng vô lại đó chính là ông! Vợ tôi phản công lại.

Hắn cười khẩy và trả lời:

_ Ờ! Đúng rồi! Tôi thư ếm bà đó! Chỉ cần vậy thôi!

Không hiểu rõ lời hắn nói, vợ tôi kêu lên:

_ Tôi sẽ điện thoại cho chồng tôi ngay chiều nay, để anh ấy đến kiếm tôi.

_ Được! Tôi nói cho bà biết là bà không kêu điện thoại được đâu, và bà phải ở lại đây!

Hắn tức giận ra khỏi phòng, và xuống khu giải khát ở nhà hàng. Vào khoảng 2 giờ chiều, hắn trở lại nói với nàng:

_ Sao? Bà đã suy nghĩ về những gì tôi nói với bà chưa?

Rồi hắn đưa cho nàng một cái kẹo nu-ga mà hắn vừa mua ở một cái máy bán kẹo tự động. Vợ tôi cầm lấy kẹo, ném vào mặt hắn và nói:

_ Ông là một thằng đểu cáng! Cái kẹo của ông đó! Tôi sẽ kêu điện thoại cho chồng tôi!

_ Được! B. trả lời. Rồi bà sẽ thấy, bà sẽ hối hận vì đã từ chối.

Quả thật, suốt buổi chiều, vợ tôi cố gắng tới phòng điện thoại mà không được, dù phòng đó chỉ cách phòng nàng có năm, sáu mét. Nhưng vào buổi tối, khoảng 20 giờ, khi tôi gọi điện thoại cho nàng như mọi ngày để biết tin tức về nàng, thì nàng mới tới được phòng điện thoại, mà phải vất vả lắm mới tới được. Nàng nói trong hơi thở:

_ Hãy đến gặp em gấp!

Nàng chỉ cố gắng nói được như thế. Nhưng tôi đã hiểu năm chữ đó. Vào 10 giờ tối tôi mới tới được bên nàng. Lúc đó tôi thấy nàng đang khóc! Sáng thứ tư, nàng mệt mỏi đến nỗi phải vất vả lắm mới mặc được quần áo. Tôi phải cố gắng lắm mới dẫn nàng ra ga được, trước cặp mắt giận dữ nhưng bất lực của B., chính hắn cũng vừa mới dẫn một người ra ga.

Trên xe lửa, vợ tôi kể lại tất cả những gì xảy ra giữa nàng và B. Nàng kể cho tôi sự nài xin vô liêm sỉ và những lời đe doạ của hắn. Hắn còn dám nói với nàng:

_ Anh không thể nhịn được lòng khát khao của anh đối với em nữa! Chắc là em đã bỏ bùa mê cho anh rồi!

Chắc chắn là có bùa mê trong đó, nhưng cái phù phép đó là do hắn chứ không phải do vợ tôi. Vợ tôi không hề nghĩ tới chuyện này!

HIỆU QUẢ CỦA PHÙ PHÉP

Khi về tới nhà, chúng tôi hiểu ngay. Hắn đã nói: "Tôi không thích ai cưỡng lại tôi cả, bà sẽ hối hận vì điều đó".

Quả thật, vợ tôi cảm thấy ngay những hiệu quả báo thù của hắn. Nàng càng lúc càng đau đớn, nên cứ phải nằm trên giường hoài. Nàng bị như vậy trong hai tuần đầu của tháng 2.1951. Những cơn đau của nàng làm tôi rất khổ tâm: nàng không đứng dậy được, không ăn được, không ngủ được, và lịm đi lúc nào không biết. Tôi cho nàng uống nước cam, nhưng nàng nuốt không nổi. Tôi kêu bác sĩ tới, ông ta chích thuốc cho nàng. Qua ánh mắt của ông, tôi biết ông ta nghĩ nàng đang bị nguy khốn. Tôi kêu tới bốn bác sĩ, nhưng kết quả chẳng hơn. Một trong các bác sĩ đề nghị đưa nàng tới bệnh viện tâm thần. Nhưng nàng nói với ông ta rõ ràng: "Tôi không muốn vào bệnh viện. Thưa bác sĩ, tôi không bị điên đâu! Nhưng tôi cảm thấy trong người có một sức mạnh làm tôi đau đớn. Người ta bảo tôi điên, nhưng tôi không điên đâu!".

Tuy nhiên vào cuối tháng hai, vợ tôi và tôi quyết định tới Saujon để nghỉ mát tại một nhà do bác sĩ Dubois, một bác sĩ tâm thần, phụ trách. Hôm đó là ngày 21.2. Tại đó, người ta điều trị cho vợ tôi bằng tất cả những phương pháp thông thường áp dụng cho các bệnh thần kinh: nào là tắm bông sen, chạy điện, ... Nhưng chẳng kết quả gì. Tuy nhiên sau hai tháng điều trị, nàng lên được nửa ký. Các cơn khủng hoảng cũng bớt kịch liệt đi. Sức khoẻ tương đối khá hơn cho tới tháng tám. Nhưng một hôm, khi nàng đi ngủ, chỉ trong một phút mà tất cả đều thay đổi. Nàng buông bỏ cuốn sách đang đọc, mở mắt trừng trừng và la lên: "Nhức đầu quá! Nhức đầu quá! Tôi điên mất!". Cơn khủng hoảng đó kéo dài suốt một tiếng đồng hồ. Rồi nàng nói với tôi: "Tình trạng đó trở lại rồi! Thằng B. lại làm hại em rồi! Hắn muốn cho em điên lên mà! Hắn làm cho em cứ choáng váng trong đầu hoài!".

Tình trạng của nàng bỗng nhiên trầm trọng ra, không ăn được nữa. Tôi cảm thấy bất lực. Chúng tôi đến với một bà thầy thuốc, bà này làm nàng bình thản được một lúc, nhưng khi về nhà được một tiếng, thì tất cả đều trở lại còn tệ hơn trước. Dường như lúc đó có những cuộc tấn công và phản công giữa bà thầy thuốc và tên B. Cuối cùng, chúng tôi đi đến quyết định là phải làm đơn khiếu nại tên B. trước pháp luật.

Chúng tôi đã làm việc đó vào tháng 9.1951. Tháng 10 và 11 trôi qua mà đơn chúng tôi vẫn chưa được cứu xét. Nhưng vào tháng 12, chúng tôi nhận được giấy báo yêu cầu chúng tôi tới toà án để đối chứng với tên B. Nhưng hôm đó vợ tôi không đến được vì nàng bị đau suốt đêm trước. Tôi tới hầu toà một mình, và phân bua mọi chuyện với quan tòa. Ông chánh án chỉ trả lời đơn giản: "Nếu vợ anh không tới được, thì chúng ta phải dời vào ngày khác". Tôi không đồng ý điều đó, vì có thể những lần khác cũng lại như thế nữa, và việc ra toà sẽ quay trở lại bất lợi cho chúng tôi. Nên khi gặp B. ở hành lang, tôi nói với hắn: "Vợ tôi sẽ tới đây, bất chấp những cản trở của anh!". Thật vậy, tôi đã về nhà kêu nàng dậy, đưa nàng tới toà án bằng taxi, vì toà án chỉ cách nhà tôi khoảng 400 mét. Khi tới hầu tòa, vợ tôi khai tất cả. Quan toà hỏi B. xem hắn có nhìn nhận sự việc không. Mặt hắn bỗng thất sắc và dường như hết sức lúng túng. Hắn nhìn nhận tất cả, kể cả việc thư ếm nàng, và ký vào biên bản vụ kiện. Trạng sư của hắn làm như "bị cụt hứng". Nên từ lúc đó B. sẵn sàng bị tấn công, có lẽ không vì vụ thư ếm mà luật pháp không hề đề cập đến, nhưng vì vụ hành nghề thầy thuốc một cách bất hợp pháp. Sau vụ khiếu nại đó, một viên cảnh sát tới nhà tôi. Ông ta thấy vợ tôi đang lên cơn: mắt thì hoảng hốt, tay thì giơ lên trời, và ông ta chụp được một mớ thuốc mà B. đã cho chúng tôi. Ông ta nói: "Với những tang vật này, chúng tôi sẽ bắt tên ranh mãnh ấy về việc hành nghề y tế bất hợp pháp".

B. đoán được việc đó, vì khi ra khỏi toà án, hắn đến nói với chúng tôi: "Ông bà không thấy được ông bà đã gây rắc rối cho tôi tới mức nào: họ đã phạt tôi hai trăm ngàn đồng quan Pháp. Hãy nghe tôi! Ông bà hãy rút đơn khiếu tố đi, vì tôi không còn lý do gì để tiếp tục việc đó nữa!" Hắn nói câu ấy mà không hề nghĩ tới sự phản bội của hắn về sau.

Thế là hắn thú nhận điều mà chúng tôi luôn luôn chắc chắn: tất cả mọi khủng hoảng của vợ tôi đều do hắn gây ra cả.

Nhượng bộ lời van xin của hắn, vợ tôi và tôi lập tức trở lại gặp ông chánh án để xin rút đơn khiếu nại vì hắn đã đồng ý để cho vợ tôi được an mạnh. Quan toà trả lời:

_ Tốt lắm, ông bà cứ rút đơn khiếu nại, nhưng chúng tôi vẫn dành cho mình quyền theo dõi tên B. này về việc hành nghề y tế bất hợp pháp.

Về đến nhà, chúng tôi viết một lá thư cho ông chủ tịch viện kiểm sát để rút đơn khiếu tố, và chúng tôi báo lại cho B. về chuyện đó.

LẠI TẤN CÔNG NỮA

Tên thầy lang đã đạt được điều hắn muốn. Vợ tôi được yên ổn không đau đớn khoảng một tháng. Nhưng vào tháng giêng 1952, thảm cảnh trở lại và tệ hơn trước. Tức muốn điên lên, vợ tôi đòi tới gặp tên B. ngay. Hôm đó, hắn ở nhà với mẹ hắn, chính bà đón tiếp chúng tôi, nhưng vì vợ tôi xin bà cho nàng gặp chính hắn, nên hắn ra gặp chúng tôi. Một cuộc cãi lộn kịch liệt đã nổ ra trước sự có mặt của mẹ hắn. Rốt cuộc, vì không thắng được trong cuộc tranh cãi, B. nắm tay vợ tôi định lôi nàng ra khỏi nhà. Nhưng nàng vuột ra lanh lẹ, và giáng cho hắn một cú đấm thật mạnh vào mũi. Hắn lại nắm lấy nàng, nàng lại thoi cho hắn một cú trực tiếp nữa vào giữa mặt. Lần này máu vọt ra, và mũi hắn chảy máu lênh láng. Đến lượt tôi can thiệp, tôi nắm chặt tay hắn, bắt hắn phải đứng yên và để vợ tôi thoát ra. Hắn tuân theo và rút khăn ra lau mặt, chiếc khăn bị nhuộm đỏ máu ngay. Người hắn tím lại: ánh mắt đầy căm giận. Chúng tôi đi về phía cửa, hắn chạy theo bén gót kêu lên:

_ A! Các người tới nhà hành hung tôi! Tôi chưa bao giờ bị như thế! Tôi sẽ thưa công an!

_ Được rồi! Vợ tôi trả lời. Chúng ta cùng đi! Ông cứ khiếu nại và nói tại sao tôi đánh ông!

Vẫn giữ khăn trên mũi, B. lại đe dọa:

_ Nếu bà còn tiếp tục, bà sẽ chết trong nhà thương điên, nghe chưa?!

Vậy là hắn đã lộ ý định trả thù của hắn. Chúng tôi lập tức tới bót cảnh sát. Khi nghe diễn tiến câu chuyện, các viên thanh tra cười thầm. Hắn dám yêu cầu cảnh sát ra lệnh cho vợ tôi để hắn yên. Lúc đó vợ tôi nói với hắn:

_ Được! Ông cứ khiếu nại về tôi! Rồi tôi sẽ nói tại sao tôi đánh ông!

Lập tức hắn cảm thấy mắc cỡ, nên chỉ nói:

_ Thôi, tôi không khiếu nại, nhưng yêu cầu để cho tôi yên!

Khi ra về, hắn nói lời cuối cùng:

_ Một người mắc bệnh như bà mà lại đánh mạnh được như thế đấy!

TÊN THẦY LANG TRẢ THÙ

Về sau tên thầy lang quyết tâm trả thù vợ tôi, không chỉ vì nàng cưỡng lại hắn, mà còn công khai nhục mạ và thách thức hắn.

Nàng sẽ phải chết trong nhà thương điên. Để thực hiện lời đe doạ ấy, hắn có một tên đầy tớ sẵn sàng làm theo lệnh của hắn, là Satan, chúng ta sắp thấy rõ ràng điều đó. Và sự cứng tin của thời đại đã đóng một vai trò có lợi cho tên phù thuỷ này. Vào thời đại chúng ta, có ai tin là có quỷ đâu? Chứng quỷ nhập, đối với đa số các bác sĩ cũng như đối với đại đa số quần chúng thời nay, chỉ là chứng điên loạn. Vì thế, khi "thư ếm" vợ tôi, khi sai con quỷ nhập vào nàng, B. hầu như chắc chắn người ta sẽ phải nhanh chóng đưa nàng vào nhà thương điên. Sự trả thù là ở chỗ đó. Theo hắn nghĩ thì nàng đang nằm trong tầm tay của hắn.

Cuộc cãi lộn kịch liệt mà chúng tôi vừa thuật lại, xảy ra ngày 12.1.1952. Chúng tôi về nhà và biết chắc chắn thế nào cũng có chuyện không may xảy ra. Chắc chắn những tháng đầu tiên vợ tôi sẽ phải đau đớn rất nhiều. Có những điều bất thường cho thấy tình trạng của vợ tôi lại trầm trọng hơn trước. Nhưng một đêm vào tháng 8.1952, nàng giật mình và tỉnh giấc, rất sợ sệt và la khóc. Nàng nắm chặt tay tôi, xiết cứng lấy tôi với tất cả sức mạnh, như một người đang bị kinh hãi ghê gớm, đôi mắt đầy hoảng hốt, nàng nói với tôi:

_ Ôi! Em sợ quá! Kìa, nó kìa! Nó đang tiến lại giường của em! Đuổi nó đi!

_ Nhưng em sợ cái gì chứ? Tôi nói với nàng, cố trấn tĩnh nàng.

_ Kìa, nó kìa! Một con vật có móng vuốt ghê lắm, thân là rắn, mà đầu lại là đầu thằng B.!

Nàng lập lại:

_ Nó tiến lại giường em kìa! Em sợ quá anh ơi!

Cơn đau và nỗi khủng khiếp khiến nàng la lớn. Cứ như vậy cho tới sáng. Hôm sau, nàng mệt lử và kiệt sức, mà cơn đau vẫn không hết. Hai đêm sau, cuộc tấn công lại tiếp diễn: Nàng bị mê sảng và quỵ xuống tại chỗ. Như một người mất trí, nàng nói nhiều thứ tiếng lạ, cười ngờ nghệch, bị điên loạn như vậy từ 45 phút tới một tiếng đồng hồ. Khi cơn khủng hoảng qua đi, nàng hồi tỉnh lại và nói:

_ Chuyện gì xảy ra với em vậy? Em có cảm tưởng như mình không còn sống nữa! Em không thấy gì nữa! Ôi chao! Sao em bị đau ở gáy thế này?

Còn tôi, chưa biết đó là do quỷ, và không hề nghĩ như thế. Tôi đau khổ vì sự bất lực của mình. Nhưng lúc nào lời đe doạ của B. cũng văng vẳng trong tâm trí tôi: "Bà sẽ chết trong nhà thương điên!" Tôi cứ ngẫm nghĩ câu này mãi, và tự hỏi xem chúng tôi phải đi đâu đây!

Chung quanh chúng tôi, hàng xóm và những người thân quen góp ý kiến với chúng tôi. Đương nhiên, không ai nghĩ tới sự hiện diện của Satan cả. Nhiều ý kiến khác nhau khuyên chúng tôi tới cầu cứu các thầy lang vườn. Nhưng không ông thầy lang nào giúp được chúng tôi, tất cả đều bỏ cuộc khi họ biết là họ đang chống lại tên B.

CÁNH CỬA CỨU RỖI

Vào khoảng thời gian đó, chúng tôi cho ra đời một cháu gái thứ hai, vào tháng 12.1952. Bất chấp những thử thách mẹ nó phải chịu suốt cái năm khủng khiếp ấy, đứa trẻ vẫn khoẻ mạnh. Một điểm đáng lưu ý là sau những đêm khủng khiếp ấy, vợ tôi không còn chịu để trong nhà những cây thánh giá, những hình ảnh đạo đức hay chuỗi môi khôi nữa. Trong những lúc lên cơn, nàng chỉ yêu cầu vứt tất cả những thứ đó ra ngoài. Nhưng việc bỗng nhiên ghét bỏ những vật làm phép này không làm chúng tôi mở mắt ra, và chúng tôi vẫn không nhìn ra có Satan hành động trong những cơn đau đớn của vợ tôi.

Một ngày vào tháng 2.1953, Chúa Quan Phòng dẫn chúng tôi tới cha Berger-Bergès, vì chính vợ tôi đã đề nghị việc này chứ không phải do tôi thúc đẩy. Gặp cha, chúng tôi thuật lại những nỗi khốn khổ của mình cho cha nghe, cũng như đã từng kể như thế cho bao nhiêu người trước đó. Cha đón tiếp chúng tôi với tất cả lòng tốt của cha, nhưng cha chỉ trả lời cho chúng tôi một cách đơn giản rằng: "Trước tiên cần phải để y tế khám nghiệm xem đó có phải là một bệnh tự nhiên hay không, rằng cha không thể làm gì được nếu không biết rõ điều đó, nhưng cha sẽ làm theo ý chúng tôi nếu điều đó trở nên cần thiết".

Mười lăm ngày sau, tức vào cuối tháng 2, theo lời khuyên của một người bạn, chúng tôi quyết định tới hỏi ý kiến các cha ở Bellef...

Điều kỳ lạ là cuộc hành trình này cả bận đi lẫn bận về đều gặp trục trặc. Chiếc taxi chở chúng tôi cứ bị "pan" hoài, bác tài xế chưa gặp chuyện kỳ lạ như vậy bao giờ.

Tại Bellef, chúng tôi kể lại trường hợp của mình. Sau nửa tiếng đồng hồ, vị linh mục ở đó đã trao cho chúng tôi một cuốn sách, bảo chúng tôi đọc và tuân theo những chỉ dẫn trong sách. Còn cha, cha nói cha sẽ làm những gì cha phải làm. Cha còn xác định rằng việc đó có thể đòi hỏi tới sáu tháng hay hơn nữa.

Tất cả tuỳ thuộc vào ý muốn của Thiên Chúa là Đấng đã gởi đến cho chúng tôi cơn thử thách này vì những lý do của Ngài.

TRỞ LẠI ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO

Tất cả những gì phải chịu đựng từ năm 1950 đã chuẩn bị cho chúng tôi tuân theo mọi điều mà người ta vừa yêu cầu, một sự chuẩn bị mà chúng tôi không hay. Chúng tôi đã nghe theo lời khuyên của vị linh mục. Chúng tôi trở về nhà, quyết định cố gắng tuân theo những lời khuyên đó. Trên đường trở về, xe của chúng tôi lại cứ trục trặc hoài, đến nỗi tài xế phải nói rằng đó là lần đầu tiên trong đời ông ta thấy như vậy!

Đã lâu lắm rồi, đây là lần đầu tiên vợ tôi cảm thấy được yên ổn. Vị linh mục tiếp đón chúng tôi hôm trước đã thực sự trừ quỷ cho vợ tôi từ xa một cách hữu hiệu, mà về sau chúng tôi mới biết, vì Satan đã tuyên bố như thế. Tuy nhiên, ngày đó là vào tháng 2.1953, chúng tôi vẫn chưa nghĩ ra Satan hiện diện ở đây. Nhưng có một sự biến đổi kỳ diệu xảy ra ngay trong chúng tôi. Cho tới lúc đó, đức tin của chúng tôi rất yếu kém, và không sống đạo gì cả.

Bỗng nhiên, do hiệu quả của ân sủng - mà sau này chúng tôi mới đánh giá được - chúng tôi quyết định đi lễ mỗi Chúa nhật, năng chịu các phép bí tích, rước lễ thường xuyên. Chắc chắn những lời mà nhiều người rộng lượng khuyên bảo chúng tôi từ ít lâu nay đã đem lại kết quả. Nhưng tác động của Thiên Chúa có một sức mạnh kỳ diệu. Chúng tôi trở về con đường của Chúa một cách nhanh chóng lạ thường. Chúng tôi hiểu được những điều mà cho tới lúc đó chúng tôi không biết.

Tuy nhiên, khi vợ tôi muốn đi dự lễ, thì đó là cả một câu chuyện lịch sử. Phải sống như thế nào thì mới phát sinh một ý tưởng như thế. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn vững vàng không nao núng. Người ta cầu nguyện cho chúng tôi. Dường như đó là một cuộc chiến đấu giữa hai lực lượng trái ngược nhau, mà chúng tôi không còn nghi ngờ gì nữa".

Chương tiếp theo sẽ kể lại những tình tiết đặc sắc nhất về cuộc chiến đấu này, nó còn kéo dài thêm nhiều năm nữa!

CHƯƠNG IX

SỰ HIỆN DIỆN CỦA SATAN TRONG

THẾ GIỚI NGÀY NAY

KHỞI ĐIỂM CỦA CHÚNG TÔI

Chúng tôi đã tường thuật nhiều chuyện về những trường hợp quỷ ám cũng như quỷ nhập. Vì thế, từ nay chúng ta có thể bác bỏ một số những khẳng định tự nhận là khoa học. Nhưng khẳng định đó cho rằng tin ma quỷ thực sự hiện hữu và hoạt động trong thế giới là một niềm tin sai lầm, mê tín: những khẳng định như thế đã không tồn tại hoài theo thời gian. Chúng ta hãy đưa ra một thí dụ điển hình cho thấy cái mà người ta gọi là khoa học đã coi thường những giáo huấn của thần học Công giáo như thế nào. Không gì quả quyết hơn như chúng ta sẽ thấy, nhưng theo thiển ý của chúng tôi, thì cũng không có gì hẹp hòi và sai lầm hơn.

Năm 1884, bác sĩ Legué đã xuất bản một cuốn sách nhan đề Urbain Grandier et les possedés de Loudun (Urbain Grandier và những người bị quỷ nhập ở Loudun). Tác giả đã kiên quyết tuyên bố không ngần ngại rằng:

"Khoa học ngày nay đã cởi bỏ cái ách của Thần học. Để giải thích sự vật, khoa học không cần phải nại đến ảnh hưởng của ma quỷ hay thần thánh. Từ lâu các nhà bác học nổi tiếng đã nghiên cứu những bệnh thần kinh kỳ dị mà ngày xưa được coi là những bệnh siêu nhiên. Nhờ công việc của họ, nhờ những ảnh hưởng tốt đẹp mà họ đã để lại cho những nghiên cứu hiện đại, nên Satan, một hữu thể tưởng tượng, đã hoàn toàn biến mất. Chắc chắn nó đã nhường chỗ cho một thực tại khoa học. Cũng như tất cả những bệnh nhân khác, những người bị chứng điên loạn đều thuộc quyền giải quyết của các y sĩ, chứ không thuộc quyền giải quyết của các linh mục hay của các tu sĩ trừ tà nữa" (Trích trong Satan dans la Cité của M. de la Bigne de Villeneuve, Paris, s.d., p.50).

Những ý kiến của bác sĩ Legué không còn là ý kiến của tất cả các y sĩ nữa. Gần chúng ta hơn rất nhiều có giáo sư Jean Lhermitte, một bác sĩ tâm thần nổi tiếng, vừa mới qua đời (tháng 2.1959), đã phát biểu theo một tinh thần khác hẳn, trong tạp chí Ecclesia tháng 10.1954 dưới một nhan đề rất gợi ý: Người bị quỷ nhập có phải là người điên không?

Chính ông đã viết một cách khẳng định:

"Tinh thần phê bình và khoa học đã làm tan biến nhiều đám mây, đã phá đổ nhiều huyền thoại, tuy vậy, thế giới hiện nay vẫn còn một con số đáng kể những người bị quỷ nhập. Tôi quả quyết điều này dựa trên kinh nghiệm cá nhân và lâu năm của tôi".

Vậy, chúng ta có thể tin rằng ma quỷ hiện hữu, ám ảnh quấy nhiễu con người, tin vào hiện tượng quỷ nhập, mà không sợ mâu thuẫn với khoa học, dẫu là thứ khoa học có những đòi hỏi nghiêm khắc nhất.

Đối với người Công giáo, Satan là một hữu thể có ngã vị (il est Quelqu'un). Satan không phải là một ý niệm trừu tượng, một sản phẩm của trí tưởng tượng, một nhân vật hư cấu, hay một tên xảo quyệt chỉ có trong tiểu thuyết. Satan cũng không phải là một danh hiệu trong huyền thoại được đặt ra do sự dốt nát về những chứng bệnh thần kinh chỉ thuộc phạm vi chữa trị của y học, không liên quan gì tới thần học cả.

Nhưng chúng ta đừng quên điều này, những sự kiện chúng tôi đã trình bày không phải là điều cốt yếu trong hành động của ma quỷ nơi con người. Người ta có thể so sánh những sự kiện về quỷ nhập với những biểu hiện tương tự nhưng theo chiều hướng ngược lại, như những lần hiện ra của Đức Trinh Nữ hay của các thánh. Sở dĩ có những cuộc hiện ra này là để đánh động tinh thần con người, và để đức tin của các tín hữu thêm sống động. Nhưng điều vô cùng quan trọng hơn là tác động của Thiên Chúa, của Đức Trinh Nữ và của các Thánh trên con người bằng ân sủng, một cách thân mật, sâu xa, hằng ngày hay nói đúng hơn là không ngừng.

Cũng vậy, việc Satan hiện diện và hoạt động trong các thể chế, phong tục, trong đời sống của con người - cá nhân, gia đình, quốc gia, cũng như quốc tế - như chúng tôi đang cố gắng mô tả, là một cái gì rộng rãi hơn nhiều, nghiêm trọng hơn nhiều, và đáng sợ hơn nhiều đối với tất cả chúng ta. Một phụ nữ đáng thương bị quỷ nhập, bị Satan điều khiển, bị hành hạ bằng đủ mọi hình thức thô lỗ nhất như chúng ta đã thấy, thật là tội nghiệp cho chị, đồng thời gây một ấn tượng mạnh đối với chúng ta. Nhưng một sự kiện khác còn khủng khiếp hơn gấp trăm ngàn lần, đó là toàn thể các quốc gia trên thế giới, một cách nào đó, đang sống dưới ách của ma quỷ, tới mức độ có thể nói là bị chứng quỷ nhập tập thể, dường như đó là những gì đang xảy ra dưới mắt chúng ta. Và hậu quả của sự việc này thật là kinh khủng.

NHỮNG CÁCH PHÂN BIỆT

Sách Các phép có chỉ cho chúng ta những dấu hiệu để phân biệt chứng quỷ nhập với chứng điên loạn thần kinh, vì hai chứng ấy khác nhau rất xa. Nhưng chúng ta có thể áp dụng những chỉ dẫn đó cho sự kiện mà chúng ta vừa gọi là quỷ nhập tập thể không? Thật khó mà quả quyết được. Chúng tôi chỉ dám phỏng đoán thôi. Sách Các phép đâu có nói đến việc trừ quỷ cho các quốc gia hay cho toàn thể nhân loại! Một Giáo Hoàng sáng suốt như Đức Lêô XIII mà tin rằng phải thêm vào mỗi thánh lễ tư một nghi thức trừ quỷ rõ ràng bằng lời kêu cầu thánh Micae, chắc chắn sự việc đó chứng tỏ ngài tin rằng, thời nay vẫn có những chuyện ma quỷ quấy nhiễu. Căn cứ trên sự kiện nào mà ngài tin như vậy? Làm sao nhận rõ được sự hiện diện của Satan trong thế giới ngày nay? Tất cả vấn đề là ở chỗ đó.

Trong việc giải quyết vấn đề, cần phải tránh hai nguy hiểm này: Thứ nhất là quan niệm cho rằng chỗ nào, lãnh vực nào cũng có Satan, đến nỗi con người không còn trách nhiệm về việc mình làm nữa. Thứ hai là quan niệm cho rằng không nơi nào có Satan cả, mọi hỗn loạn mà chúng ta đang kinh hãi chứng kiến đều là do ác tâm của con người mà ra, Satan không có vai trò nào hết.

Thực ra, cả ma quỷ lẫn con người đều có thể góp phần gây ra những đau khổ và hỗn loạn đang làm chúng ta phải phàn nàn, hoặc đang đe doạ chúng ta, hoặc đã xảy đến với chúng ta.

Chúng ta vẫn hãnh diện được làm một chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Kitô. Song song với Thân Thể đó, cũng có hoặc có thể cũng có thân thể mầu nhiệm của Satan, trong đó qui tụ tất cả những đầu óc bất lương của thế giới và hoả ngục.

Trong một bản văn mà sách Phụng Vụ Các Giờ Kinh dành cho các giáo sĩ đọc, vào Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay. Đức Grêgôriô Cả nói với chúng ta:

"Chắc chắn ma quỷ là thủ lãnh của tất cả những kẻ gian ác, và tất cả những kẻ gian ác đều là chi thể của cái đầu này."

Ngài có kể ra một vài người được coi là "chi thể" của cái thân thể ma quỷ này, như Philatô, những tên lý hình đã đóng đinh Chúa Kitô, v.v...

Cứ theo lẽ ấy thì khó mà có ai thoát khỏi một đôi lần làm "chi thể của Satan", cho dẫu là Kitô hữu.

Nhưng khi người ta biết hối hận về tội lỗi mình, thì tội lỗi ấy được rút lại một cách nhanh chóng như lúc người ta phạm tội. Lúc đó, người ta không còn thuộc về Satan nữa và tội lỗi đó chỉ còn là một tai nạn, một bước lầm lỡ, một sự sa ngã, nó không cản trở bước tiến của con người về phía trước.

Thân thể mầu nhiệm của Satan bao gồm những người a dua theo nó, tự nguyện làm những gì nó đề nghị, hoặc sống theo sự thôi thúc hay theo những nguyên tắc của nó.

CÁCH THỨC BIỂU LỘ CỦA SATAN

Chúng ta hãy đi sát vấn đề hơn. Vấn đề là: làm sao nhận ra được sự hiện diện của Satan? Hãy tìm câu trả lời trong các sách Tin Mừng, đó là nguồn mạch ánh sáng của chúng ta.

Đức Giêsu đã nói nhiều điều về Satan mà chúng ta cần phải sưu tập lại để nghiền ngẫm.

Một hôm Người nói với những người biệt phái không ngừng mưu hại Người: "Các ông là con cái ma quỷ, nên các ông muốn làm theo ý muốn của nó là cha của các ông. Ngay từ ban đầu, ma quỷ đã là kẻ giết người. Nó không khi nào đứng về phía chân lý vì nó chẳng bao giờ thành thật. Đối với nó, gian trá chỉ là một điều rất tự nhiên, vì nó vốn là đứa gian trá và là cha đẻ của mọi dối trá" (Ga 8,44).

Như thế chưa đủ sáng tỏ sao?

Nếu chúng ta muốn biết sự hiện diện của Satan được biểu lộ thế nào trong thế giới chúng ta đang sống ngày nay, chúng ta chỉ cần nhận ra những điều dối trá quan trọng được tuyên bố vào thời đại này, và sự tiến bộ đã đạt được trong nghệ thuật giết người hiện nay.

Thế giới càng thấm nhuần sự dối trá, sinh mạng con người càng bị coi thường và càng bị cái chết đe doạ, thì sự hiện diện của Satan càng rõ rệt!

Làm sao chúng ta có thể nghi ngờ về hai điểm này được? Sự dối trágiết người, đó là hai dấu hiệu rõ ràng cho thấy sự có mặt của Satan. Chúng ta không thể sai lầm khi quả quyết sự hiện diện của Satan trong những dối trá quan trọng và những đe doạ khủng khiếp về mạng sống con người mà chúng ta đang chứng kiến vào thời đại này.

ĐIỀU DỐI TRÁ TUYỆT DIỆU: KHÔNG CÓ THIÊN CHÚA

Dưới mắt chúng ta, sự dối trá có một tầm mức ảnh hưởng sâu rộng vào thời đại này, mà thế kỷ trước chưa có, đó chính là chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa cũng như của ma quỷ.

Trong nhiều thế kỷ dài đăng đẳng, nơi các tôn giáo của dân ngoại, ma quỷ đã thành công trong việc khiến người ta tôn thờ nó dưới danh hiệu những thần linh giả tạo. Người ta chưa đặt tới niềm tin vào Thiên Chúa. Như thánh Phaolô nói với dân thành Athènes: "Tôi thấy quí vị là những người sùng đạo nhất trong nhân loại" (Cv 17,22). Quả thật, họ thờ không biết bao nhiêu là thần linh, thậm chí thờ cả một "vị thần chưa hề biết đến" vì e rằng có vị thần nào bị lãng quên chăng!

Nhưng ngày nay sự chối bỏ thần linh được công nhận, được tuyên truyền, có vẻ như muốn khinh thường niềm tin vào Thiên Chúa. Đó là một thứ triết lý đề cao niềm tin vào hư không hơn là vào hữu thể, làm như hữu thể phát xuất từ hư không, hay hư không có trước và sinh ra hữu thể.

Hiện nay, sự chối bỏ Thiên Chúa là điều dối trá to lớn nhất, tệ hại nhất, tội lỗi nhất. Nó có hai hình thức không nghiêm trọng như nhau: Trước hết là hình thức lý thuyết, của các triết gia duy vật, duy khoa học, bất khả tri, hiện sinh. Và sau đó là hình thức thực tiễn của những người chỉ mải miết theo đuổi việc làm ăn, của cải trần gian, theo đuổi những tính toán chính trị, thương mại, kể cả việc nghiên cứu khoa học hay phát minh kỹ thuật, đến nỗi không dành cho Thiên Chúa một chỗ đứng trong đời sống của họ!

Sự chối bỏ Thiên Chúa đã khởi đầu với những văn sĩ độc lập, với những kẻ "vô đạo" (libertin) như người ta thường nói vào thế kỷ 17, với những "triết gia" như người ta thường gọi vào thế kỷ 18, với những tay chủ trương "tự do tư tưởng" như người thời nay vẫn nói: "Một số người đã biểu lộ sự cứng tin của mình bằng những giọng điệu thống thiết hơn!" Người ta thường hay trích dẫn một trang sách của Nietzsche mà ông ta đã đặt vào miệng của một người phải nói là điên. Ông ta có lý lắm, nhưng người điên này có lẽ đúng là một người bị quỷ nhập:

"Thiên Chúa ở đâu, hắn nói, tôi có thể nói cho các bạn biết điều đó! Các bạn và tôi, chúng ta đã giết chết Ngài rồi! Tất cả chúng ta đều là những kẻ giết chết Ngài! Nhưng chúng ta đã giết chết Ngài như thế nào? Làm sao chúng ta có thể uống hết được cái Đại Dương ấy? Ai đã cho chúng ta cái bọt biển để xoá bỏ toàn bộ cái chân trời ấy? Chúng ta đã làm gì khi tách rời trái đất này khỏi mặt trời của nó? Trái đất ấy bây giờ đi đâu rồi? Chúng ta đi đâu? Xa khỏi tất cả các mặt trời ư? Hiện tại chúng ta không bị rơi bằng một sa ngã liên tục sao? Ngã ra sau, ra bên cạnh, ra đằng trước, ra đủ mọi hướng sao? Có còn một cái cao và một cái thấp nữa không? Chúng ta không bị lạc vào một sự hư không vô tận sao? Chúng ta không cảm thấy sức ép của một nơi trống rỗng mênh mông sao? Trời không lạnh hơn sao? Đêm không đen hơn sao? Không cần phải đốt đèn vào giữa trưa sao? Các bạn đã không nghe thấy tiếng xôn xao của đám người đào huyệt chôn Thượng Đế đó sao? Các bạn không ngửi thấy mùi của Thượng Đế đang bị thối rữa sao? - Vì các thần linh cũng đều bị hư hoại! Thượng Đế đã chết! Thượng Đế vẫn còn chết, và chúng ta là những kẻ giết chết Ngài!..."

Trong những dòng đó, giọng điệu có vẻ hối hận làm sao, cắn rứt, điên dại và sợ sệt làm sao!

Chắc chắn đó là sự dối trá thuộc loại siêu đẳng! Là dối trá của mọi thứ dối trá!

Nói rằng Thiên Chúa không hiện hữu, thì có khác nào nói rằng hữu thể không hiện hữu! Tên của Thiên Chúa chính là Hữu Thể, Ngài là Đấng vẫn có, Đấng Tự Hữu. Theo cách diễn tả của Victor Hugo, thì "Ngài hiện hữu, hiện hữu, hiện hữu, hiện hữu một cách chồng chất!"

Mà trước mắt chúng ta, nhiều dân tộc đang sống dưới ách của những kẻ chối bỏ Thiên Chúa, đang tuyên dương chủ thuyết của họ, họ nhạo cười đức tin, họ phủ nhận tất cả những gì vượt khỏi tầm nhận xét của "khoa học", thứ khoa học theo như họ hiểu, nghĩa là bằng cách biến cái tuyệt đối thành những cái ngẫu nhiên!

Thế giới của chúng ta đã trở thành quá nhỏ bé vì những phương tiện giao thông liên lạc phát triển nhanh chóng. Một số những bậc thầy đang điều khiển cái thế giới nhỏ bé này - chúng tôi tự hỏi - liệu họ có phải đơn thuần và giản dị là những viên phụ tá cho chính Satan không? Thậm chí là hiện thân của Satan không?

MỘT HIỆN THÂN CỦA SATAN

Cách đây 11 năm, Dom Alois Mager đã dùng chính từ ngữ này để chỉ Hitler trong một cuốn sách có giá trị nói về Satan, do nhóm Études Carmélitaines (những nghiên cứu của dòng Cát Minh) xuất bản (Desclée, 1948)

Chúng tôi có thể cho biết tên của nhân vật đó, vì hắn đã chết. Đối với những nhân vật còn đang sống (là hiện thân của Satan) mà chúng ta đang thấy họ "quấy phá" thế giới, thì chúng ta không nên nói rõ tên của họ. Tuy vậy, không một độc giả nào lại có thể không nhận ra những điều đó.

Bản văn của Dom Alois Mager mà chúng tôi trích dẫn ra đây rất mạnh mẽ và rõ ràng. Ông viết:

"Satan chủ trương dùng con người này làm hiện thân cho nó để đảo lộn tất cả những chuẩn mực của luật pháp và luân lý. Nói chung, cho tới thời đó, những chuẩn mực này vẫn còn được truyền thống cũng như thiên nhiên nhìn nhận, cho dẫu có những phong trào bài trừ Kitô giáo. Hiện thân đó là Adolf Hitler. Không còn một từ ngữ nào ngắn gọn hơn, chính xác hơn, thích hợp với bản chất của Hitler hơn cái từ ngữ rất hàm súc này: Hiện thân của Satan. Nếu đặc trưng không có ngoại lệ của tất cả những tay làm hiện thân cho Satan, là: sống vô luân cả về mặt tinh thần lẫn nhân cách, thì Hitler tiên thiên là một hiện thân của ma quỷ. Nếu không bị huyền hoặc thì không ai thấy con người Hitler lại có một nhân cách đáng phục về luân lý cũng như tính nết. Trong vụ án Nuremberg, tướng Jodl có nói về Hitler như sau: "Đó là một vĩ nhân, nhưng là vĩ nhân của Hoả Ngục" (Satan, sách đã dẫn, trang 639).

Dối trá và giết người: Hai tính chất này không phải là nổi bật rõ ràng trong sự nghiệp của Hitler sao?

Đối với Staline, đối thủ của Hitler, người ta chẳng có thể nói như thế hoặc hơn thế nữa sao?

Chúng tôi tin rằng: vào thời đại của chúng ta, sự hiện diện của Satan trong thế giới chính là chứng quỷ nhập tập thể của nhiều dân tộc, và càng chắc chắn hơn nữa trong trường hợp của chủ nghĩa Quốc xã ở Đức, cũng may là nó không tồn tại lâu, và chủ trương chối bỏ Thiên Chúa trong những quốc gia rộng lớn. Trường hợp sau đáng sợ hơn nhiều, vì nó tồn tại lâu dài hơn, có tính cách đe doạ nhiều hơn, và có vẻ cao ngạo hơn.

Cần phải tin rằng Satan đang chuẩn bị một thảm hoạ khủng khiếp nhất cho nhân loại mà người ta có thể tưởng tượng và kinh sợ. Thêm vào đó là những lời dối trá của thời đại, được trang bị bằng những phương tiện phá hoại và giết người chưa từng có từ trước tới nay.

Trước khi xét tới tính chất thứ hai trong việc biểu hiện của Satan, chúng ta hãy tiếp tục xét tới quyền lực của dối trá mà Satan đang bày ra trước mắt chúng ta hiện nay.

DỐI TRÁ VÀ MÂU THUẪN

Việc chối bỏ Thiên Chúa là sự dối trá đứng hàng đầu và nghiêm trọng nhất trong những điều dối trá của thời đại chúng ta hiện nay. Nhưng sự dối trá không đi một mình. Chúng ta đang lặn hụp, đang chìm ngập trong dối trá, thậm chí hít thở bầu không khí dối trá mà hầu như không biết.

Dấu hiệu để nhận ra sự dối trá này là sự mâu thuẫn. Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, thì ai là Thiên Chúa? Chúng ta không thể nói đó là ma quỷ, vì trong khi Satan làm cho người ta chối bỏ Thiên Chúa, thì nó cũng muốn được người ta phủ nhận sự hiện diện của chính nó, hơn là nó muốn lộ mặt ra. Con người ngày nay vừa chối bỏ Thiên Chúa, vừa muốn chối bỏ cả ma quỷ nữa. Thế thì chỉ còn lại có con người hiện hữu. Vì thế, chính con người là Thiên Chúa! Khoa học, kỹ thuật, sự thông minh của con người có một quyền năng tối thượng trên tất cả mọi sự. Chúng ta là Thượng Đế! Nhưng chúng ta không có linh hồn, vì chỉ có vật chất hiện hữu mà thôi. Hoặc nếu chúng ta có linh hồn - câu này chỉ có nghĩa là chúng ta sống và tư tưởng - thì linh hồn ở đây không phải là linh hồn bất tử. Khi con người chết, thì tất cả đều chết. Nếu Thiên Chúa chết, nghĩa là trong mọi trường hợp có một người trong thời đại này chết, thì tức là có một vị Thượng Đế chết.

Phủ nhận Thiên Chúa, phủ nhận Satan, phủ nhận linh hồn bất tử, phủ nhận sự khác biệt giữa Thiện và Ác, phủ nhận tội lỗi, phủ nhận đức hạnh, phủ nhận Trời, phủ nhận Hoả Ngục! Đó là một vài phủ nhận dối trá của chúng ta.

Nếu sau đó, chúng ta tự tôn vinh mình, nếu chúng ta tự coi mình như những Thượng Đế duy nhất hiện hữu, thì đó là thuần tuý mâu thuẫn. Hữu thể và hư vô bị lẫn lộn với nhau. Khi bỏ hết tôn giáo, chúng ta sẽ lấy chủ nghĩa hư vô làm tôn giáo duy nhất có thể có của chúng ta. Và vì điều đó không ảnh hưởng gì đến những bài diễn văn quan trọng, những lời hứa hẹn lớn lao, và nhất là những ảo tưởng vĩ đại, nên một lần nữa, mọi vấn đề trong chính trị, trong triết lý, trong sự xáo trộn hiện nay, đều được giải quyết trong sự mâu thuẫn bao la này!

Vấn đề chỉ là không những chinh phục thế giới trên trái đất này, mà còn chinh phục cả vũ trụ tinh tú. Tất cả những thứ đó chỉ là trò tung hứng, là biểu dương quyền năng một cách phù phiếm. Tất cả những cái đó chỉ là phù vân và thất vọng! Vào thời đại này, dân số thế giới tăng vọt với một tốc độ khiến những nhà chính trị phải sốt ruột. Người ta tính toán xem hành tinh này có thể nuôi được bao nhiêu người. Và người ta chỉ thấy được hai giải pháp: một là phá huỷ các mầm sống ngay từ trong lòng mẹ, hai là dùng chiến tranh để tiêu diệt một phần lớn nhân loại! Việc thần thánh hoá con người đã đi đến những hậu quả như thế đấy! Nói là Satan hoá con người thì đúng hơn!

Dối trá và mâu thuẫn, đó là những dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự hiện diện của Satan trong thế giới ngày nay.

SATAN - KẺ GIẾT NGƯỜI

Nhưng dấu hiệu thứ hai, tức những âm mưu hay những đe doạ tiêu diệt sự sống con người không phải là kém rõ ràng!

Giữa thế giới ngày nay và thế giới của thế kỷ trước, nếu có một đặc tính khác biệt, thì đó chính là sự phát triển lạ lùng những phương tiện giết người.

Lúc nào, thời nào cũng có chiến tranh, điều đó đúng tới tận mọi nguồn gốc của chúng ta, từ thời Cain và Abel đã có chiến tranh rồi. Nếu Satan là "kẻ sát nhân ngay từ ban đầu" - theo từ ngữ mà Chúa Kitô dùng - thì ma quỷ không phải chỉ hiện diện mà thôi trong tất cả những cuộc "huynh đệ tương tàn" giữa con người, nhưng phải coi nó như kẻ âm thầm xúi giục gây nên tất cả những cuộc chiến tranh này. Những tiến bộ trong nghệ thuật giết người là những tiến bộ ma quỷ. Mà những tiến bộ này thời nào cũng có. Hơn nữa, khó lòng có được một tiến bộ nào rút ra từ chiến tranh mà đem lại lợi ích tốt đẹp!

Thế giới ngày nay chi phí cho chiến tranh nhiều hơn là chi phí cho những mục đích quan trọng khác trong đời sống nhân loại, nhiều hơn hàng tỷ đôla. Tất cả những tỷ bạc được sử dụng cho chiến tranh sắp tới, và tất cả những tỷ bạc được phung phí trong những cuộc chiến tranh vừa qua, nếu được sử dụng để truyền bá đức tin chân thật cho thế giới, để chống lại bất hạnh và ngu dốt, để đẩy lui nạn đói và tội ác, thì bộ mặt thế giới đã khác hẳn. Mà đâu có cần thiết phải gây ra chiến tranh để rồi phải đau khổ vì những hiểm hoạ mà chiến tranh giáng xuống trên chúng ta!

Các phương tiện giao thông liên lạc càng nhiều nhờ vào cái tiến bộ mà chúng ta vẫn tự hào ấy, các khoảng cách càng bị rút ngắn lại, thì con người càng cảm thấy phải sống trong một bầu khí bị giam hãm, có thể nói như thế, và bị đầu độc vào một giờ nhất định mỗi ngày bởi những tin tức đến với chúng ta từ khắp thế giới. Những tin tức đó bằng hình thức này hay hình thức khác, nói với chúng ta về sự ghen ghét, thù hận, tranh chấp, những tai biến có thể xảy ra, những phương tiện giết người chưa từng có và kinh khủng.

Nỗi sợ chiến tranh cũng gây ra những tàn phá trong tâm hồn con người không kém gì chính những cuộc chiến tranh. Chúng ta đang sống một cuộc sống dị thường nhất và phi nhân nhất. Từ khi chúng ta giết Thiên Chúa, như Nietzsche đã nói, không còn hoà bình cho con người nữa, và con người bị kết án là: cứ phải luôn luôn nói tới hoà bình, nhưng là một hoà bình vắng mặt, một lý tưởng xa vời, một giấc mơ, có thể là một ảo tưởng, bởi vì người ta vừa nói chuyện hoà bình vừa làm việc để gia tăng khả năng giết người, nghĩa là gia tăng sức mạnh quân sự của mình. Một số quốc gia làm điều đó vì sợ bị tấn công, một số khác vì những tham vọng thầm kín của mình, gây nên những chuyện thách thức lẫn nhau, đe doạ nhau, ngầm ám chỉ một cuộc tranh chấp có khả năng xảy ra rất gần đây, một tranh chấp toàn thế giới, cũng có nghĩa là sự chung tận của nhân loại.

HOẠT ĐỘNG CỦA SATAN TRONG THẾ GIỚI

Giữa những vùng khác nhau trong thế giới ngày nay, có những sự khác biệt nào về những dấu hiệu hiện diện của Satan không? - nếu Satan không hiện diện ở một số nơi nhiều hơn những nơi khác thì mới là điều đáng ngạc nhiên.

Giovanni Papini có viết một cuốn sách gây nên những cuộc tranh luận sôi nổi, trong đó có nhiều điểm xuất sắc có thể chấp nhận được, nhưng cũng có nhiều điểm ấu trĩ, những tư tưởng lạc giáo - mà chúng ta sẽ đề cập tới - thậm chí có cả những lời lộng ngôn vô ý thức. Một trong những chương ngắn của cuốn sách này có tựa là: Miền đất hứa của Satan. Người ta tò mò muốn biết miền đất đó là đất nào? Dân tộc bị gán cho danh hiệu con trưởng của Satan là dân tộc nào? Người ta không thể ngạc nhiên khi nghe Papini nói miền đất đó là nước Pháp, và dân tộc đó là dân tộc Pháp (Nên nhớ tác giả là người Pháp, viết cuốn sách này cho độc giả Pháp. Lời dịch giả). Papini nói:

"Từ thời Jules César, người ta viết rất nhiều về 'nước Pháp hiền dịu', nhưng tôi tin rằng không ai trên mảnh đất này lại khám phá ra điều dị thường mà tôi xin nói ra ở đây: Nước Pháp là miền đất hứa của Satan".

Quả là một khám phá dị thường. Papini còn nhấn mạnh: không phải ông ta muốn viết tiểu thuyết, mà đó là một dữ kiện ông nhận thấy, ông quả quyết như vậy:

"Một sự chiều theo điều ác vì điều ác hoàn toàn có ý thức, một sở thích làm điều đồi bại độc ác, một lý thuyết và thực hành phản loạn chống lại Thiên Chúa và các luật luân lý, đặc biệt là luật Kitô giáo".

Papini đã tỏ ra một sự khoan dung rõ rệt đối với Satan suốt cuốn sách của ông. Vì thế, ông không muốn người ta đánh giá thấp điều ông quả quyết, một điều quả quyết không dễ nghe đối với người Pháp:

"Tôi rất yêu mến nước Pháp, ông xác định, yêu nghệ thuật, văn chương, văn hoá của nó: vì thế, tôi không hề có ý định vu khống nước Pháp. Và để chứng tỏ rằng tôi không nói một cách may rủi, cũng không nói chơi, nên tôi bó buộc phải kể ra rất nhiều tên của các tác giả và tác phẩm".

Và ông kể ra một số rất lớn các văn sĩ Pháp. Điều lạ lùng là những văn sĩ đó không luôn luôn là những người mà chúng tôi cho rằng có "khuynh hướng ma quỷ". Không có một chữ về Voltaire, Diderot, Alembert, Holbach, Condorcet. Bù lại, ông ta cho là có khuynh hướng Satan ngay cả những tác giả Công giáo như Georges Bernanos và Francois Mauriac.

Tất cả những cái đó chưa phải là nghiêm trọng lắm! Nếu cuộc cách mạng Pháp có thể được coi là do Satan đạo diễn, xét về một số phương diện và biến cố, chứ không phải toàn bộ, thì không thể quên rằng có một tục ngữ đã lưu hành rất lâu mà người trong Giáo Hội cũng theo đó mà nói: Gesta Del per Francos (những việc làm cao cả của Thiên Chúa của người Pháp)! Chẳng may đã hai thế kỷ nay người ta cũng nói Gesta Diaboli per Francos (những việc làm đồi bại của ma quỷ qua người Pháp). Đối với chúng ta, toàn bộ vấn đề là tìm biết xem chúng ta có được cứu khỏi sự nô lệ Satan không, chúng ta muốn hay không muốn trở về với truyền thống ánh sáng và chân lý lâu đời của chúng ta trong tình thương của Thiên Chúa.

NHỮNG MỨC ĐỘ KHÁC NHAU TRONG SỰ HIỆN DIỆN CỦA MA QUỶ

Hãy để qua một bên những công trình cặm cụi viết lách của Papini, và hãy thử đưa ra một ý niệm chính xác hơn về hành động của Satan trong vũ trụ mà chúng ta đang sống.

Có điểm đầu tiên dường như rất chắc chắn đối với chúng ta là: trong một số quốc gia, Satan hành động nhiều hơn so với những nước khác. Từ đó ta suy ra được điểm thứ hai không kém hiển nhiên, đó là: trong những mức độ hiện diện của Satan giữa các dân tộc, có thể nhận ra một cái gì đó tương tự như mức độ hiện diện của Satan mà chúng ta đã thấy rõ ràng giữa các cá nhân. Chúng tôi đã nói hành động của Satan sẽ leo thang từ cám dỗ đến ám ảnh quấy nhiễu, và từ quỷ ám đến quỷ nhập. Vì thế, cũng có những nước bị quỷ nhập, những nước bị quỷ ám, và có những nước chỉ bị quỷ cám dỗ.

Cám dỗ là chuyện xảy ra hằng ngày, hầu như lúc nào cũng có. Đủ mọi hình thức cám dỗ, tuỳ theo tính nết và tính khí của từng người mà thay đổi. Muốn trình bày về cám dỗ, một cách rất đơn giản là dựa vào bảy mối tội đầu mà mô tả: Kiêu ngạo, hoang phí, dâm dục, ghen ghét, giận dữ, ...

Nhưng trong cái bảng tổng quan mà chúng tôi muốn phác hoạ, điều đáng cho chúng ta lưu ý không phải là điều đó.

Mới đây, ngày 20.2.1959, tờ La France Catholique (Nước Pháp Công giáo), một tuần báo lớn, có đăng một bài báo của Maria Winowska tựa là Cơn cám dỗ thứ ba. Qua bài báo này, mọi người đều nhất trí công nhận một trong những tinh thần tỉnh táo nhất của thời đại.

Bài báo này nói về việc ma quỷ cám dỗ Đức Kitô, về cơn cám dỗ trong đó Satan cho Ngài thấy tất cả các vương quốc trên trái đất, rồi nói với Ngài: "Nếu ngươi sấp mình xuống thờ lạy ta, thì tất cả những thứ đó sẽ thuộc về ngươi!"

Maria Winowska đưa vào câu chuyện một thanh niên Ấn giáo vừa trở lại và chịu phép Rửa tội. Hai người đã tới Montmartre. Quang cảnh thành phố Paris nguy nga và diễm lệ đang bày ra trước mắt họ, khiến cho chàng thanh niên Ấn giáo kêu lên:

_ Tại sao người Kitô hữu lại không sống theo đức tin của mình? Tin Mừng thật là rõ ràng: Cầu nguyện là trên hết, không ngoan là trên hết, đức tin là trên hết, tình thương là trên hết. Tuy được viết trên giấy, nhưng còn phải được đem ra thực hành.

_ Em có lý đấy! M. Winowska trả lời. Nhưng dẫu sao trong số những Kitô hữu vẫn có những người, nam cũng như nữ, sống Tin Mừng chứ! Chắc chắn như thế! Có một số người, thậm chí là số lớn nữa đang sống Tin Mừng! Và chính điều đó biện hộ cho chúng tôi. Đương nhiên là cũng có những mặt yếu, những khiếm khuyết, những phi lý...

_ Người Kitô hữu Âu châu, anh chàng Ấn giáo nói tiếp, đa số sống giống như không có đức tin. Em không muốn nói rằng họ không có đức tin, mà nói rằng họ cất giấu đức tin đó kỹ quá!

Anh ta lại tiếp tục một cách không thương xót:

_ Em đã nghe các linh mục nói với em về kỹ thuật truyền giáo, về phương pháp, về cách thích nghi, về báo chí, về điện ảnh, về truyền hình. Đó quả là những linh mục tốt. Nhưng tại sao họ lại không nói cái chính yếu nhỉ? Đối với người Ấn giáo thì khác, sự minh triết quan trọng hơn những thứ đó, quan trọng hơn tất cả mọi thứ trên đời! Làm sao so sánh giữa Đấng Tạo Hoá và các tạo vật được?

Đương nhiên Maria Winowska phản đối. Không thể phán đoán hàng giáo phẩm qua một lần tiếp xúc bên ngoài. Không được kết án họ là duy hoạt động chủ nghĩa khi chưa biết toàn bộ đời sống nội tâm của họ ra sao. 50 năm qua, chúng ta đã thực hiện 2 cuộc cách mạng trên lãnh vực tôn giáo: một cuộc cách mạng về phụng vụ hiện chưa đem lại được tất cả những kết quả mong muốn, và một cuộc cách mạng về Kinh Thánh mới chỉ bắt đầu thôi; ngoài ra, còn phải thực hiện thêm một cuộc cách mạng về thần bí, về tâm linh, để đáp ứng đầy đủ những ước vọng rất chính đáng của những người như chàng thanh niên Ấn giáo và chị Maria Winowska này.

Cơn cám dỗ lớn nhất cho người Kitô hữu thời nay không phải là cám dỗ về những chuyện lẻ tẻ, mà là cơn cám dỗ rất bao quát, nhưng cũng rất nguy hiểm, đó là chuộng sự vật hơn Thiên Chúa. Anh thanh niên Ấn giáo nói rằng anh ta đã làm một cuộc trắc nghiệm đối với những Kitô hữu mà anh đã gặp. Trắc nghiệm đó tương tự như sự thử nghiệm trong cơn cám dỗ ma quỷ đã áp dụng cho Đức Kitô trên núi. Anh nói:

_ Mà chị biết không? Rất ít người không có chấp nhận làm một hành động nhỏ để tỏ sự kính trọng, như cúi đầu một cái chẳng hạn, trước tên cám dỗ sẵn sàng dâng cho ta các nước trên trần gian. Họ nói: 'Một khi có tất cả những thứ đó, người ta sẽ làm cho Thiên Chúa được vinh danh', hoặc nói: 'Cũng cần phải nhượng bộ thế gian một chút xíu để có thể làm chủ nó nhiều hơn', hoặc 'Nếu không thích nghi với những tiến bộ của thế giới, thì Kitô giáo sẽ không đứng vững được' - Tóm lại, em có thể chắc chắn với chị rằng tất cả những người đó đều tin tưởng vào những kỹ thuật của con người hơn là vào đức tin của mình!".

Quả thực, sau khi đã cẩn thận trắc nghiệm 47 người, anh bạn Ấn giáo của chúng ta chỉ tìm thấy 3 hay 4 người thực sự yêu mến Thiên Chúa hơn các sự vật. Và cần phải thêm rằng anh ta chỉ làm thí nghiệm này trên những người Công giáo ngoan đạo mà thôi.

Đó là cơn cám dỗ thứ ba. Tất cả những người Công giáo này đều có đức tin cả, thậm chí họ có nhiều việc làm để chứng tỏ niềm tin ấy, họ có đức cậy và đức mến nữa. Họ là những người mà thánh Phaolô - trong các thư của ngài - gọi là "các thánh", nghĩa là những tâm hồn có Thiên Chúa ngự trị. Nhưng họ cũng là những linh hồn không hợp lý - và tất cả chúng ta, không nhiều thì ít, đều như thế cả - là những tâm hồn không đi tới cùng con đường mà đức tin đòi hỏi, là những tâm hồn - nói theo Maria Winowska - coi cái quan trọng hơn cái .

Và chị ta ngàn lần có lý khi kết luận:

_ Tất cả khoa học của trần gian không giá trị bằng một chút xíu minh triết, và tiến bộ cao nhất về kỹ thuật sẽ kết thúc đột ngột nếu con người chỉ làm chủ được nó trên số lượng. Nói cách khác: "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?"

Cách đây 3 thế kỷ, Pascal đã nói bằng một ngôn ngữ vô song:

_ Tất cả mọi vật chất gộp chung lại, cộng với tất cả mọi tinh thần gộp chung lại, cộng với tất cả mọi sản phẩm của hai thứ đó gộp chung lại, cũng không có giá trị bằng một chút bác ái. Đó là một trật tự khác hẳn, vô cùng cao cả hơn.

NHÌN TỔNG QUAN

Chúng tôi cho rằng người ta sẽ có một cái nhìn hoàn toàn sai lầm về thế giới hiện tại, nếu người ta lẫn lộn sự đối nghịch giữa đông và tây với sự đối kháng giữa Satan và Thiên Chúa, hay nếu người ta tách rời hành tinh này thành hai vùng hoàn toàn riêng biệt: vùng của ma quỷ và vùng của Thiên Chúa.

Chúng tôi xin nhường lời cho một người Nga. Cách đây không lâu, chúng ta đã nghe một người Nga nói trong những tờ báo của chúng ta. Đó là một kỹ sư Xô Viết qua Âu Tây với một công tác khoa học, đã ở với chúng tôi một thời gian tương đối lâu. Anh ta nói:

_ Thực ra, những người phương Tây các anh cũng là những người duy vật. Với tiền bạc trong tay, các anh có thể sắm tất cả mọi của cải, thoả mãn mọi ước muốn. Nhưng đúng là các anh không còn nghĩ gì nữa ngoài những của cải đó. Cuộc sống của các anh, sinh hoạt của các anh, khoa học, kỹ thuật, tất cả những công việc và những bận tâm của các anh, các anh đã dành cho chúng một mục đích thực tế này, là gia tăng sự thoải mái của các anh, cải thiện những tiện nghi của các anh: như xe hơi, tủ lạnh, tivi, ... đó chính là lẽ sống của đại đa số các anh".

Ai dám nói là trong lời tố cáo đó không có một phần nào sự thật? - Duy vật không phải chỉ là cái dở của chủ nghĩa xã hội, mà còn là của chủ nghĩa tư bản nữa. Vẫn theo kỹ sư này, thì sự suy sụp do chủ nghĩa tư bản gây ra cho con người còn nghiêm trọng hơn nhiều. Chúng ta hãy nghe anh ta lý luận tiếp:

_ Trái lại, đối với chúng tôi, tất cả những vấn đề đó không hiện hữu (anh ta muốn nói tới việc tìm sự thoải mái). Một cách thực tiễn, những tiện nghi của anh quả là xa lạ đối với chúng tôi. Vì chúng tôi không có khả năng, thậm chí không nghĩ tới chúng. Người ta đã khiến chúng tôi không còn ước muốn những của cải vật chất nữa. Còn các anh đang phải ưu tư và bị ám ảnh vì tất cả những ước muốn đó. Khi làm điều ấy, người ta đã giải phóng chúng tôi. Tất cả các nghị lực mà các anh phung phí để tìm những thứ phù phiếm đó, thì chúng tôi lại dùng vào việc đọc sách, sáng tác nhạc, suy tư, mơ mộng. Các anh còn muốn chúng tôi làm gì nữa, khi mà ban tối chúng tôi trở về căn phòng nhỏ bé của chúng tôi, giống như một nhà tu hành trong căn phòng nhỏ bé của ông ta?

Và anh kết luận:

_ Phải, chúng tôi còn có thì giờ và còn có hứng thú để suy nghĩ. Nhưng, còn các anh thì sao?

Trong số những công việc mà người Nga này vẫn muốn dành cho mình thì giờ để làm, nếu anh ta thêm vào hai chữ "cầu nguyện" sau những chữ "đọc sách, sáng tác nhạc, suy tư, mơ mộng", thì những lời nói của anh ta thật đáng khích lệ biết bao! Tuy nhiên, lý tưởng của anh kỹ sư này vẫn cao hơn lý tưởng mà những nhà lãnh đạo của anh đang theo đuổi: là đạt tới và vượt qua những nước giàu hơn về sản xuất, về của cải vật chất, về hàng triệu thứ tiện nghi với kỹ thuật tinh xảo nhất. Điều mà anh kỹ sư này coi thường, và chúng ta cũng coi thường như anh ta, khi nó đi ngược lại sự phát triển về tâm linh của con người, chính là những cái nhìn mà nhiều quốc gia đang lấy làm đối tượng phải đạt tới. Chủ nghĩa duy vật chất đã chẳng được định nghĩa là "mỗi người được hưởng theo nhu cầu của mình" sao? Và nhu cầu của mỗi người trong công thức này chẳng phải là những ước muốn vật chất sao?

Nhưng chúng ta không nên đối nghịch chủ nghĩa duy vật chất với chủ nghĩa tư bản. Cả hai đều do Satan gợi hứng, thôi thúc, trong mức độ phủ nhận Thiên Chúa và linh hồn. Tóm lại chủ nghĩa duy vật chất không làm gì khác hơn là lấy lại cái triết lý "trưởng giả". Nó là kết quả của triết lý đó, và tiếp tục đẩy triết lý đó tới cùng cực. Nếu thật là không có Thiên Chúa, không có ma quỷ, không có linh hồn, và tất cả chỉ là vật chất, thì duy vật hay tư bản chẳng cái nào đúng hơn cái nào, vì không còn chân lý theo đúng nghĩa chân lý, mà tất cả đều là giả dối, tất cả đều do Satan!

Sau khi nói những điều đó, chúng tôi không vui mừng cũng không sợ hãi tố cáo ra đây một số đặc tính của nền văn minh ngày nay, được coi như một số dấu hiệu cho biết có sự hiện diện của Satan giữa chúng ta. Những đặc tính này không ai có thể phủ nhận là không thấy:

1. Sự tầm thường trong những phương tiện truyền thông của chúng ta, như điện ảnh, truyền thanh, truyền hình... Sự tầm thường không nằm trong khả năng truyền bá, mà trong sự tác động có cao thượng và đẹp đẽ trên tinh thần hay không.

2. Tính khiêu dâm của môi trường xã hội được trình bày trong các tiểu thuyết, phim ảnh, các vở kịch, các bài ca, trong những trò giải trí, những thú tiêu khiển.

3. Sự thoái hoá của nghệ thuật hiện đại, dường như không còn yêu thích vẻ đẹp nữa, mà chỉ thích những cái xấu xa, tăm tối.

Trước khi kết thúc chương này, một chương rất dễ viết dài ra, chúng ta thấy gì?

Satan hoạt động khắp nơi. Chống lại nó, chỉ có một sức mạnh có thực, là Đức Giêsu Kitô. Một đằng là chủ nghĩa tục hoá, là dối trá, là coi thường sự sống con người, là máu của Abel bị Cain làm đổ ra. Một đằng là đức tin, đức ái, là tình thương vô biên được thực hiện trong cầu nguyện, trong thờ phượng, trong sự từ chối hận thù của Satan, trong ước muốn làm cho nước Chúa lan rộng khắp nơi, trong lời cầu nguyện sốt sắng không ngừng của các tâm hồn: "Nguyện cho Nước Chúa trị đến".

Cái nhìn về lịch sử phổ quát không thay đổi: Thành của Thiên Chúa chống với thành của Satan, Thành của Tình Yêu chống với thành của Hận Thù!

Có hai ngọn cờ: một của Satan, một của Chúa Giêsu Kitô.

Điều kỳ lạ là: người Kitô hữu tuyên bố coi nhẹ cuộc sống hiện tại vì biết còn một cuộc sống khác vĩnh cửu, thì lại tỏ ra kính trọng sự sống con người và nhân cách con người một cách tuyệt đối nhất. Satan, trái lại, làm cho những kẻ theo nó tin rằng: cuộc sống hiện tại là duy nhất, không còn một cuộc sống nào khác sau cuộc sống này nữa, và cuộc sống này là cái thiện hảo tối thượng của con người. Vì thế, tôi nói rằng đối với cuộc sống này, vốn là tất cả, Satan biểu lộ sự coi thường sinh mạng con người, sự coi thường đó được thể hiện bằng những trại tập trung, những vụ hành quyết tập thể, những lò hoả táng, những cuộc tra tấn phi nhân! Thế là dối trá luôn luôn đi đôi với giết chóc!

Nhưng điều đáng trách nhất của những kẻ theo Satan là sự què quặt mà họ gây ra cho loài người khi họ chối bỏ Đấng Vô Biên, chối bỏ sự bất tử.

Tinh thần hẹp hòi của những người cứng tin là một cái gì thê thảm hơn nữa. Cần nhắc lại lời kêu gọi của Tertullien nói với những người lạc giáo thời ông: "Parce orbis unicae spei!" - "Hãy chừa lại cho thế giới niềm hy vọng duy nhất của nó!". Nếu một ngày nào chúng ta muốn chiếm hữu cái thế giới này dẫu nó không đáng giá bằng linh hồn chúng ta, thì lúc đó cần phải cứu linh hồn chúng ta bằng đức tin và tình yêu!

Ôi, còn cuộc chiến nào kinh khủng bằng cuộc chiến giữa Chúa Kitô và Satan!

CHƯƠNG X

CHỦ NGHĨA SATAN

VÀ NHỮNG TRÒ CHƠI CỦA SATAN

ĐỊNH NGHĨA

Từ ngữ chủ nghĩa Satan (Satanisme) có nhiều nghĩa. Trước hết, ta có thể coi Satan như chủ hay thủ lãnh của thế gian này. Đó là danh hiệu mà Chúa Giêsu đã dùng tới 3 lần trong Tin Mừng để nói về Satan. Và chúng tôi cũng vừa mới trình bày về quan điểm này. Satan hiện diện trong vũ trụ chúng ta đang sống tới mức độ nào? Chúng tôi đã nói: mức độ đó thay đổi tuỳ từng quốc gia, chủng tộc, văn minh, chế độ chính trị. Chủ nghĩa Satan còn có nghĩa là sống theo đường lối Satan bằng một đời sống tội lỗi. Chúng tôi đã nhắc lại lời của Đức Grêgôriô Cả rằng trong suốt thời gian một người tùng phục tội lỗi, thì người đó là một chi thể trong "thân thể mầu nhiệm của Satan".

Công việc của chúng ta không phải là tìm xem số người sống trong "tình trạng ân sủng" là bao nhiêu, nghĩa là những người, hiện lúc này, không sống dưới quyền lực Satan. Nhưng chúng ta có quyền giả thiết rằng số người đó nhiều hơn là người ta tưởng, nhất là nếu cho rằng những kẻ tội lỗi thường chỉ là những người đã bước tới một bước lầm lỡ, hay đã bị sa ngã nhưng họ không muốn vì thế mà ở lại trong quyền lực Satan.

Cuối cùng, từ ngữ chủ nghĩa Satan còn có nghĩa là sự thờ phượng Satan, không phải bằng một tội đã phạm trong một cơ hội nào đó, rồi về sau hối hận và chừa cải ngay, mà bằng một gắn bó rõ ràng và tự nguyện với Satan.

HAI HÌNH THỨC CỦA CHỦ NGHĨA SATAN

Chúng ta cần phân biệt hai hình thức khác nhau của chủ nghĩa Satan. Trước hết là thứ Satan chủ nghĩa của những người tuy không tin có Satan cũng như không tin có Thiên Chúa, nhưng toàn bộ đời sống của họ lại phù hợp với những nguyên tắc và sự hướng dẫn của Satan.

Đối với hình thức đầu tiên của chủ nghĩa Satan này, câu nói mà chúng tôi thường lập lại và đã từng giải thích thật là chí lý: "Mưu mô quỷ quyệt nhất của Satan là làm cho người ta tin rằng không có ma quỷ gì cả!". Về đề tài này, Papini vào năm 1921 đã trích dẫn lời của triết gia Alain:

"Ma quỷ phải chịu cùng một số phận với tất cả mọi thứ ảo ảnh... Theo như tôi thấy, ngay cả chiến tranh cũng không làm cho ma quỷ và các quyền năng của nó sống lại" (Alain, Propos sur la Religion, Paris, Rieder, 1937, p.64).

Nhưng chúng ta không dừng lại ở hình thức đầu của chủ nghĩa Satan. Hình thức này thuần tuý tiêu cực. Vả lại, người ta cũng gặp thấy hình thức này ngay cả nơi những Kitô hữu ưu tú, dẫu họ không có một chút ý hướng xấu nào, và họ cũng không biết họ đang sống ngược với tính chính thống và với Tin Mừng.

Điều chúng ta phải tìm hiểu, quan trọng nhất là những hình thức tích cực của chủ nghĩa Satan. Chúng tôi nói những hình thức tích cực (ở số nhiều), vì qua các thế kỷ, và cho tới thời đại chúng ta, dường như ít nhất có hai hình thức chủ nghĩa Satan tích cực: tôn giáo Satan (Satanisme-religion) và ma thuật Satan (Satanisme-magie).

TÔN GIÁO SATAN

Ngay khi nghĩ về vấn đề này, người ta không thể không ngạc nhiên khi thấy lịch sử của chủ nghĩa Satan thực sự hoà lẫn với lịch sử các tôn giáo!

Kết luận như thế quả là bao quát quá, cần phải giải thích rõ ràng hơn.

Hiện nay lịch sử các tôn giáo được nghiên cứu rất sâu xa, thường không đề cập nhiều đến Satan. Ma quỷ chỉ chiếm một vị thế giới hạn. Nhà viết sử các tôn giáo thường chú tâm trình bày những niềm tin tôn giáo của các dân tộc một cách khách quan, nêu danh các vị thần, đưa ra những thuộc tính của mỗi vị thần được nhóm người này hay nhóm người kia thờ phượng. Họ trình bày những nghi thức mà người ta dùng để biểu lộ lòng tôn kính đối với các thần linh. Trên nguyên tắc họ không đả động tới việc phán đoán về giá trị. Họ không làm triết lý, không đi sâu vào siêu hình học, và càng không đặt vấn đề theo kiểu thần học Kitô giáo.

Nhưng bàn về chủ đề này chúng ta có thể tránh kiểu đặt vấn đề của thần học được không? Khi nói về Satan và sự hiện diện của nó trong thế gian, chúng ta có cần phải đặt mình trong quan điểm Kitô giáo, là quan điểm duy nhất đặt Satan vào đúng chỗ của nó trong bảng tổng quát về các hữu thể không?

Tin Mừng đã nói gì? Các Giáo Phụ đã nói gì? Thần học Kitô giáo đã nói gì về các tôn giáo của dân ngoại?

Tin Mừng đã gán cho Satan một danh hiệu khó hiểu - đáng lẽ chúng ta không nên nhấn mạnh quá về điểm này - nhưng tất nhiên là đúng vì đích thân Đức Kitô đã cho nó danh hiệu đó: Thủ lãnh của thế gian! Một danh hiệu như thế làm sao lại có thể dành cho Satan được, nếu những thần linh ngoại giáo không phải thuần tuý và đơn giản là ma quỷ?

Các Giáo Phụ trong Giáo Hội cũng nhất trí hiểu vấn đề như thế. Về điểm này đối với các ngài, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Các thần linh ngoại giáo đều là ma quỷ cả. Những lời sấm lưu hành trong dân ngoại, như của Dodone hay của Delphes, và những sấm ngôn khác ít nổi tiếng hơn đều là những lời sấm của ma quỷ, là những biểu hiện của chủ nghĩa Satan.

Thần học Kitô giáo đương nhiên thừa hưởng quan điểm đó. Những mô tả về các tôn giáo dân ngoại ngày xưa cũng như thời nay của lịch sử, đối với chúng ta, không phải là một trò chơi trí tuệ, một thứ hiếu kỳ về văn học, mà là một nhận xét đáng sợ về sự thống trị của Satan trên con người.

Làm sao Satan và bè lũ của nó lại được con người tôn thờ và cầu xin? Dường như người ta khó nhận thấy mình làm điều đó, vì người ta ngả theo Satan một cách vô thức, hay vì một thứ chủ nghĩa hiện thực sơ đẳng nào đó. Nói chung, các nhà viết sử về các tôn giáo, đều nhìn nhận có một Thiên Chúa tối cao, tối thượng, toàn năng và toàn thiện, nhưng chính những tôn giáo này lại rất thường xếp Thiên Chúa ấy vào một xó, và dành sự tôn kính của họ cho cả một thế giới thần linh thấp kém hơn, hoặc tốt hoặc xấu. Người ta cũng biết những thần linh này phải tuỳ thuộc vào vị Thiên Chúa tối thượng ấy, nhưng họ cho rằng những thần linh này gần gũi với họ hơn, chia sẻ thân phận với họ nhiều hơn, do đó cầu khẩn hay nài xin dễ có lợi ích hơn.

Cuối cùng, một số lớn các tôn giáo dân ngoại tin rằng có những lực lượng hay sức mạnh có hại cần phải được hoà giải bằng những nghi thức cúng tế.

"Chủ nghĩa hiện thực" sơ đẳng này, nói nôm na là: việc nào cần thì làm trước, dường như bắt nguồn từ những huyền thoại ngoại giáo, những nghi thức ngoại giáo, và những pha trộn sau này trong những chủ nghĩa hoà đồng thực dụng, mà đền Panthéon là một thí dụ điển hình.

Chắc chắn không thể nghi ngờ là dưới mắt của những người theo đạo Do Thái, và còn hơn thế nữa, của những người theo Kitô giáo, tất cả các thần linh ngoại giáo chỉ có thể là ma quỷ. Vì thế, luôn luôn có những cuộc chiến đấu anh hùng, đối với người Do Thái thì đặc biệt vào thời Macabê, còn đối với người Kitô giáo thì là suốt thời kỳ bắt hại đẫm máu. Vì thế, người Kitô hữu luôn luôn cảm thấy một sự kinh tởm về mặt tôn giáo khi phải đối diện với việc thờ lạy "tượng thần" - như họ vẫn nói - tức là những hình tượng phù phiếm trong việc thờ cúng ma quỷ của dân ngoại.

Theo quan điểm mà chúng ta thừa hưởng từ xa xưa, nếu ta để qua một cái tôn giáo duy nhất chân thực, tôn giáo của các tổ phụ, của Môisê, và của Kitô giáo, thì rõ ràng là lịch sử các tôn giáo không gì khác hơn lịch sử của chủ nghĩa Satan. Danh hiệu "Thủ lãnh của thế gian" mà Chúa Kitô dùng để chỉ Satan chỉ có thể được hiểu theo nghĩa đó.

Khi so sánh sự đơn nhất trong việc thờ phượng Thiên Chúa: trước hết là Yavê rồi tới Ngôi Lời nhập thể, với sự đa tạp trong việc thờ cúng các thần giả hiệu, ta bó buộc phải nhìn nhận rằng: nếu Chúa Giêsu thực sự là vị Vua duy nhất, thì Ngài thật chí lý khi tuyên bố: "Nước Ta không thuộc về thế gian này!"

Và chúng ta cũng hiểu được tại sao nghi thức rửa tội Kitô giáo lại nhấn mạnh vào việc trừ quỷ, được cử hành nhiều lần trong nghi lễ. Người ta còn gặp lại việc trừ quỷ rất nhiều lần trong phụng vụ Công giáo. Khi một linh mục làm phép nước thánh, ngài đọc trên muối mà ngài sẽ pha vào trong nước đó những lời sau đây:

"Hỡi muối được Thiên Chúa hằng sống tạo dựng nên, ta trừ quỷ cho ngươi, để ngươi trở nên thứ muối tinh khiết ích lợi cho phần rỗi các tín hữu, để ngươi trở nên một khí cụ đem lại hạnh phúc về tâm hồn cũng như thể xác cho tất cả những ai dùng ngươi, để người ta rảy ngươi vào chỗ nào thì chỗ đó được trừ khử và đẩy lui mọi ảo ảnh, mọi hiểm độc, và mọi cạm bẫy của ma quỷ chuyên lường gạt, cũng như mọi tinh thần bất chính, chúng bị xua đuổi bởi Đấng sẽ đến phán xét kẻ sống, kẻ chết, và cả thế gian bằng lửa. Amen".

Rồi ngài cũng đọc trên nước phải làm phép:

"Hỡi nước được tạo dựng, nhân danh Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, ta trừ quỷ cho ngươi, để ngươi trở nên nước tinh khiết có khả năng xua đuổi tất cả mọi quyền lực thù nghịch, cũng như nhổ bật gốc đồng thời đuổi xa chính Kẻ Thù và những thiên thần bội phản cùng bè lũ với nó. Nhờ cũng một Đức Kitô Chúa chúng ta...".

Ngài còn thêm:

"Lạy Chúa, vì phần rỗi của loài người, Chúa đã trộn lẫn chất nước này với những mầu nhiệm lớn nhất của Chúa, xin hãy rủ thương khấng nhận lời kêu cầu của chúng con, để nước này vốn là tạo vật của Chúa, nhờ ân sủng của Chúa, nhận được khả năng đuổi xa ma quỷ...".

Cuối cùng, vào lúc làm phép nước trong phụng vụ tuyệt vời ngày thứ bảy tuần thánh, lời cầu nguyện đó được lặp lại:

"Vậy lạy Chúa, xin hãy ra lệnh cho mọi thần ô uế ra khỏi đây: xin hãy xua đuổi khỏi môi trường này tất cả mọi hiểm ác và mưu mô của ma quỷ. Đừng để quyền lực kẻ thù lẫn lộn vào nước này. Đừng để quyền lực ấy lai vãng chung quanh nước này và âm thầm lẻn vào nước này để quấy phá và làm cho nước này hư hoại. Xin cho tạo vật thánh này tránh được mọi tấn công của kẻ thù, được tinh khiết vì mọi hiểm ác đều bị xua đuổi..."

Nếu những công thức đức tin trong Giáo Hội này được xác nhận sáng tỏ như thế, thì còn ai nghi ngờ gì nữa?

Nhưng người ta nói, đó chỉ là những câu nói, những gì còn sót lại của những tín ngưỡng cổ xưa, mà dưới con mắt của người thời đại chỉ là những mê tín! Chúng tôi xin trả lời ý kiến đó bằng những dữ kiện. Tất cả những trường hợp quỷ nhập mà chúng tôi đã thuật lại, tất cả những nhân chứng của các linh mục trừ quỷ, và của những người đã chứng kiến những can thiệp của ma quỷ, đều khẳng định điều đó: người ta không thể rảy nước thánh lên một người bị quỷ nhập mà không làm cho con quỷ đang cư ngụ nơi người ấy cảm thấy tác dụng của nước ấy đối với nó. Nó đã phải kêu lên: "Mi đốt ta! Mi đốt ta!". Vậy là nước thánh có hiệu lực tác động và tiêu huỷ những hành động bí mật của ma quỷ. Điều này đưa chúng ta tới một khía cạnh khác của chú nghĩa Satan.

MA THUẬT SATAN

Song song với tôn giáo Satan mà chúng tôi vừa đề cập, người ta thường cho rằng cũng có ma thuật Satan nữa. Nói cho đúng, không thiếu các nhà chuyên môn nghiên cứu về lịch sử các tôn giáo và các nghi thức phụng tự, đã nghĩ và dạy rằng: ma thuật thậm chí có trước tôn giáo, và tất cả các tôn giáo dân ngoại đều biến thể từ ma thuật. Nhưng ý kiến này càng ngày càng ít người chấp nhận, và nó cũng đáng bị như thế. Khó mà chắc chắn được con người đã bắt đầu bằng ma thuật để rồi chuyển sang tôn giáo đúng nghĩa.

Vậy, ma thuật đối nghịch với tôn giáo là gì?

Trong tôn giáo, con người nghiêng mình trước một quyền lực cao hơn, họ thờ lạy, cầu khẩn, đồng thời nhìn nhận sự yếu đuối bất lực của mình. Họ chấp nhận sự lệ thuộc của họ. Những dân tộc "sơ khai" nhất hiện nay, nghĩa là những dân tộc kém tiến hoá nhất, theo chúng tôi nghĩ, vẫn còn rất gần với nguồn gốc xa xưa, như dân tộc Pygmés chẳng hạn, nơi những dân tộc này, thái độ đó vẫn còn hiện hành. Nơi họ, tôn giáo thậm chí vẫn còn thuần tuý hơn nơi những dân tộc tiến hoá hơn.

Trong ma thuật, con người khoe khoang về một quyền lực mầu nhiệm nào đó. Không những không nghiêng mình trước thần linh, con người còn tin rằng họ có thể điều khiển được cả thần linh. Họ phát minh ra những công thức và sử dụng chúng. Họ cho rằng nhờ những công thức đó họ có thể điều khiển được những sức mạnh thượng đẳng để chúng phục vụ họ. Não trạng của nhà ma thuật - hay của nhà phù thuỷ, tức anh em sinh đôi với nhà ma thuật nhưng độc ác hơn - rất khác với não trạng của con người tôn giáo. Một người bình thường làm sao có thể đi tới một não trạng như thế?

Đối với chúng tôi, đó là một điều khó hiểu. So với việc thờ thần tượng, thì ma thuật có tính Satan cao độ hơn rất nhiều. Khi thờ thần tượng, con người ít nhiều gì cũng có một tâm hồn thành thật. Người ta sai lầm trong bản chất của đối tượng tôn sùng, chứ không sai lầm trong việc họ lệ thuộc và cầu khẩn với đối tượng đó, vốn là điều tất yếu phải có. Người ta không dành sự tôn kính của họ cho Thiên Chúa đích thực, nhưng họ không sai lầm khi nghĩ rằng sự kính trọng của họ phải danh riêng cho một Đấng nào đó!

Trong ma thuật có sự phạm thánh, có sự kiêu ngạo, hãnh diện về một quyền lực đích thực đầy tính ma quỷ. Tên thầy bùa ra lệnh cho thần linh, nhưng hắn biết rằng các thần linh sẽ có lúc bắt hắn phải trả một giá rất đắt về sự thần phục tạm thời của họ. Dẫu sao, hắn vẫn hãnh diện vì ép buộc được họ, bắt họ phải tuân lệnh hắn ít nhất trong một thời gian nào đó. Hắn hãnh diện vì có được một quyền lực khiến cho anh em đồng loại của mình phải khiếp sợ, phải dành cho hắn nhiều lợi thế trước mắt, trong khi chờ đợi luật công bình tự nhiên trở lại giải quyết.

Chắc chắn ma thuật cũng như việc thờ cúng thần tượng phát sinh từ chính chủ nghĩa hiện thực đó. Người ta đã thờ phượng những thần linh kém hơn, nghĩa là những thần giả tạo, thay vì thờ phượng chính Thiên Chúa chân thật đã được những người "sơ khai" nhìn nhận, vì những thần linh ấy gần với chúng ta hơn, kêu cầu và hoà giải với họ có lợi ích hơn. Nhưng có một số người đã đầy cái chủ nghĩa hiện thực này đi xa hơn nữa, họ đã chuyển từ tôn giáo sang ma thuật, từ sự tuân phục sang một thứ giao ước ngầm, cho họ quyền ra lệnh cho chính thần linh. Việc chuyển từ tôn giáo sang ma thuật là một sự biến dạng, nhưng dẫu sao nó vẫn còn tự nhiên hơn là việc chuyển từ ma thuật sang tôn giáo. Nếu con người đã bắt đầu dùng ma thuật, ta sẽ không thể hiểu được làm sao họ lại thụt lùi - có thể nói như thế - về phía tôn giáo. Làm sao họ có thể kêu cầu những đại diện của những sức mạnh mà họ tưởng rằng đang nằm trong quyền sử dụng của họ?

Đó là hai loại Satan chủ nghĩa: tôn giáo Satanma thuật Satan, mà chúng ta đã định nghĩa rõ ràng. Trong tôn giáo Satan thì Satan là "thủ lãnh của thế gian này", bởi vì toàn thể thế giới đều nghiêng mình trước bàn thờ của nó và dâng lễ vật cho nó. Trong ma thuật Satan, thì dường như Satan đồng ý vâng lời con người khi họ sử dụng một số công thức hoặc cử hành một số nghi thức nào đó. Nhưng Satan không mất mát gì trong chuyện đó cả, vì những người thực hành ma thuật cuối cùng sẽ bị Satan thu phục lại, và nó sẽ thống trị họ một cách còn chặt chẽ hơn và đầy đủ hơn tất cả những người thờ phượng nó.

CHỦ NGHĨA SATAN NGÀY NAY

Chủ nghĩa Satan đã có từ lâu đời dưới hai hình thức đó ngày nay còn lại gì? Mọi người đều hiểu rằng câu hỏi này không thể trả lời được.

Tôn giáo Satan mà chúng tôi đã định nghĩa, đang biến mất một cách nhanh chóng. Trên thế giới, những bàn thờ cúng các thần linh giả tạo càng ngày càng ít đi. Điều đó không có nghĩa là sự thống trị của Satan trên thế giới bị giảm sút, vì nó đang thực sự hoạt động tích cực trong những đế quốc rộng lớn, như chúng tôi đã chứng tỏ điều đó. Nó đã thay đổi chiến thuật. Nó phải thích ứng với sự tiến hoá chung của nhân loại, một nhân loại mà nó chưa làm chủ được một cách tuyệt đối, dẫu nó đang đóng một vai trò hết sức quan trọng.

Hình thức mới đây nhất của chủ nghĩa Satan chính là chủ nghĩa vô thần dưới mọi hình thức. Chủ nghĩa là có tính Satan, vì nó chối bỏ Thiên Chúa và ma quỷ, chối bỏ linh hồn, chỉ biết có vật chất và cuộc sống hiện tại. Vì nó cắt bỏ phần bất tử của con người, nên nó đã làm cho con người, và ngay cả tình yêu của những con quỷ đồng bọn với nó. Vì nó chính là sự thù hận. Chiến thắng của nó chính là reo rắc hận thù, truyền bá hận thù. Chủ nghĩa Satan ngày nay chủ trương khơi dậy lòng hận thù giữa các giai cấp, giữa các chủng tộc, giữa các dân tộc, gieo hận thù khắp nơi với chiêu bài lo lắng cho dân nghèo, cho giai cấp bị bóc lột. Thế là tôn giáo Satan lại được phổ biến ra rộng rãi hơn dưới một hình thức mới, hoạt động hơn, bất lương hơn rất nhiều so với bất cứ thời đại nào. Những dối trá của chủ nghĩa này có tầm rộng rãi hơn, những gì nó chối bỏ có tính cách triệt để hơn, và những gì nó khích động mang tính giết người nhiều hơn bất cứ thời nào từ trước tới nay.

Tất cả mọi người đều nhìn thấy chủ nghĩa đó đúng là một tôn giáo, vì nó huy động được tất cả sức mạnh của lòng nhiệt thành, của sự tận tâm, của tinh thần hy sinh nơi tâm hồn những người gắn bó với nó, không khác gì những điều người ta gặp trong các cao trào tôn giáo khác.

Nhưng tôn giáo này chỉ có thể gọi là tôn giáo của Satan, vì nó chống lại niềm tin vào Thiên Chúa một cách triệt để và căm thù.

Tuy nhiên, tôn giáo Satan vẫn còn tồn tại trong hình thức thờ cúng thần tượng nơi những dân tộc vẫn còn mải mê với chủ nghĩa thần vật cổ xưa (animisme antique), là những dân tộc dường như sẵn sàng mở rộng vòng tay đón nhận sự xâm nhập của chủ nghĩa vô thần một cách tự nhiên, mà không hề biết một chút gì về nguồn gốc của nó.

CHỦ NGHĨA SATAN CHÍNH DANH

Ngoài hai hình thức của tôn giáo Satan vừa nói trên - tức chủ nghĩa vô thần và tôn giáo thờ thần vật lạc hậu - còn một thứ Satan chủ nghĩa tinh vi và thâm độc, còn ít người biết tới, cũng ít người theo, và rất khó tìm hiểu nghiên cứu. Đó là tôn giáo thờ phượng Lucifer một cách tự nguyện và có tính toán. Chúng tôi không dám tự hào có những dữ kiện chính xác về thứ Satan chủ nghĩa này của thời đại chúng ta. Chúng tôi có thể nói đó là thứ Satan chủ nghĩa có những nghi thức phạm thánh, những lời báng bổ cố tình, những kiểu thờ phượng quái dị, như những "thánh lễ đen" (messe noire) chẳng hạn, nghĩa là những hình thức phạm thượng có hệ thống và có tính toán, nhái theo những nghi thức tôn kính Thiên Chúa của những tín hữu sáng suốt và chân thành nhất, để áp dụng tương tự trong việc thờ phượng Lucifer.

Chúng ta sẽ có cái nhìn bao quát về thứ Satan chủ nghĩa này khi đọc một đoạn ghi chú trong cuốn Satan, do nhóm Études carmélitaines xuất bản (trang 639). Đoạn ghi chú đó như sau:

"Chúng tôi không thể nói rộng về tất cả những người theo đạo Satan ngày nay, hay những cảm tình viên của đạo này. Báo chí Anh ra ngày 2.12.1947 có loan tin về việc ông Aleister Crowley từ trần. Theo như "ông Công Lý" đánh giá, thì đó là nhân vật tội lỗi và đồi bại nhất của nước Anh".

Khi được hỏi về lý lịch của mình, Crowley trả lời: "Trước khi có Hitler, đã có ta". Đó là một lời nhái theo một câu nói trong Tin Mừng. Trước khi từ giã cõi đời, lão phù thuỷ 70 tuổi này nguyền rủa vị bác sĩ đã từ chối một cách chính đáng không chịu chích morphine cho lão: "Vì ông mà tôi phải chết không được chích morphine, nên ông sẽ phải chết ngay sau khi tôi chết". Và đã xảy ra như vậy. Tờ Daily Express (Tin nhanh hằng ngày) ra ngày 2.4.1948 loan tin: đám tang của lão phù thuỷ đen Crowley đã gây nên những phản đối trong Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Brighton. Uỷ viên J.C. Sherrot nói: "Bản tường thuật xác nhận rằng người ta đã cử hành toàn bộ những nghi thức của ma thuật đen trên mộ ông ta". Thật vậy, trên mộ hắn, các đệ tử đã hát những câu thần chú của ma quỷ, hát bài "Ca ngợi thần Pan" do chính Crowley soạn ra, bài "Ca tụng Satan" do Carducci soạn, và những bài Lễ Ca để cử hành "lễ ngộ đạo" (messe gnostique) do Crowley sáng tác để phục vụ những nghi thức tại đền thờ Satan của hắn tại Luân Đôn.

Báo chí Anh ra ngày 30.3.1948 đã dành những ghi chú quan trọng về những người đã chết cho nhà siêu tâm lý nổi tiếng Harry PRICE, là chuyên viên nghiên cứu về ma quỷ. Price có lần tuyên bố trong một bản tường thuật được Đại học Luân Đôn chứng nhận: "Trong tất cả những vùng thuộc Luân Đôn, có hàng trăm người, nam có nữ có, thuộc thành phần trí thức cũng như thuộc giai cấp cao trong xã hội, tôn kính ma quỷ và thường xuyên thờ phượng ma quỷ. Ba hình thức mê tín của thời Trung Cổ - là ma thuật đen, quỷ thuật, nghi thức gọi quỷ - đang thịnh hành ở Luân Đôn một cách có qui mô và tự do, thứ tự do mà thời Trung Cổ chưa từng có". Ông Price là người sáng lập và là thư ký vĩnh viễn của Hội đồng nghiên cứu bệnh tâm thần (Council for Psychiatrical Investigations) của Đại học Luân Đôn.

A. Frank-Duquesne còn cho chúng tôi biết: "Trong số những chuyện dị thường về ma quỷ thời nay có bản tường thuật của giáo sư Paul Kosok thuộc Đại học Long-Island, được xuất bản trong Tập san Bảo Tàng về Vạn Vật học của Mỹ (Annales du Musée Américain d'histoire naturelle) nói về một cuộc thám hiểm được thực hiện năm 1946 tại Pérou. Trong khoảng 500 km vuông đất có nhiều cát của một vùng sa mạc, các nhà thám hiểm đã khám phá được hai loại tranh vẽ: một loại trình bày những dấu hiệu của hoàng đạo, một loại trình bày các thứ chim chóc, cây cối, và nhất là những con rắn nhiều đầu. Một bức tranh Con Rắn, ở giữa, có một cái hố lớn chứa các bộ xương người và xương thú vật, rõ ràng xương đó là của những người và vật bị sát tế. Người ta cho rằng toàn bộ những tranh vẽ đó đã có từ 2000 năm nay".

Phải chi chúng ta đăng lại toàn bộ bài báo quan trọng này, đặc biệt về hai đoạn đầu và về những bài báo đã cho chúng ta biết chung quanh những "hội Satan" có rất đông người tham gia ở Luân Đôn, chung quanh những "tín đồ Satan" mà ai cũng biết như Crowley và Price. Nhưng rõ ràng là những điều đó chỉ cho chúng ta cái nhìn bao quát rất sơ sài về cái tôn giáo tôn thờ Lucifer ngày nay. Đó là chỉ nói về Luân Đôn mà thôi. Có lẽ người ta còn gặp những nhóm tương tự như thế trong tất cả những thành phố lớn trên thế giới.

Quả thật, người ta chắc chắn rằng tại Paris hiện tại, có trên 10 ngàn người, nam có nữ có, thờ phượng Satan một cách thường xuyên. Nhưng bản chất của tất cả các tôn giáo loại này là lẩn trốn mọi thứ ánh sáng, mặc lấy những tính chất huyền bí, và coi thường tất cả mọi thống kê.

Nhưng các tín đồ của Satan mà chúng ta vừa nói đến không phải là những người thờ phượng Lucifer, mà còn là những thầy pháp hoặc phù thuỷ. Điều này dẫn chúng ta tới một khảo sát sơ lược về ma thuật hiện đại.

MA THUẬT SATAN NGÀY NAY

Ngoài những tay đại pháp sư quỷ quái mà chúng ta vừa kể tên, và những người mà chúng ta có thể nghi ngờ là hành động trong mặt bí mật của xã hội ngày nay, còn có những tay phù thuỷ ở những vùng thôn quê, chúng ta không thể xác định được bao nhiêu người, nhưng có lẽ nhiều hơn người ta tưởng. Sách gối đầu giường của họ là những cuốn Les Secrets du Grand Albert (Những bí mật của Albert Cả), Les Secrets du Petit-Albert (Những bí mật của Abert Thứ), Le Dragon Rouge (Con Rồng đỏ). Điều lạ lùng là hai cuốn sách huyền bí trước mang tên của vị thánh nổi tiếng là thánh Tiến sĩ Albert Cả, là người mà người ta cho rằng biết tất cả những bí mật của vũ trụ vạn vật. Đem những công thức ma thuật kinh tởm ấy đặt dưới sự bảo trợ của một vị thánh rất được tôn sùng là một mưu mô quỷ quyệt đúng là của ma quỷ. Nhưng chúng tôi cũng biết ít nhất có một tay phù thuỷ thời nay - mà chúng tôi đã nói tới - lạm dụng những hình ảnh đạo đức để hành động nghề lừa bịp đám đông hầu thủ lợi.

Thật là ngạc nhiên khi biết rằng: trong những chương trước nói về những nghi thức trừ quỷ mới đây, chúng ta gặp những trường hợp vì đọc những câu thần chú ma thuật mà rồi bị quỷ nhập. Nếu chúng ta tin vào lời của những con quỷ bị những linh mục trừ quỷ bắt buộc phải nói, thì chính những tay phù thuỷ này đã ra lệnh cho chúng phải nhập vào những người này hay người kia. Và bằng cách làm đi làm lại một số phù phép, chính những tay phù thuỷ ấy đã ngăn cản không cho những con quỷ đó vâng theo những mệnh lệnh trong những lời trừ quỷ, hoặc bắt buộc chúng phải trở lại với những người đã được giải phóng một thời gian nhờ những lời kinh ở trong sách Các phép.

Tất cả những chuyện đó quả thật vẫn còn rất mù mờ đối với chúng ta. Nhưng những vị trừ quỷ giỏi nhất biết rất rõ về điểm này.

Đôi khi chính các toà án cũng lưu tâm một cách không chính thức về những hành vi mê tín này, như trong trường hợp của một phụ nữ kia vừa mới giết chồng chị, vì chị ta tưởng chồng mình bị thư ếm hoặc chính chàng đi thư ếm người khác!

Nhưng công lý của loài người rõ ràng là không có khả năng xét xử những âm mưu giết người loại ấy, vì những âm mưu thuộc loại này thường thoát khỏi những lời chứng của con người, và không thể nào đem ra ánh sáng pháp luật được.

Chắc chắn rằng có những người đàn ông, cũng có thể có cả đàn bà nữa, làm theo những lời chỉ bảo kỳ quái trong các sách ma thuật, là tưởng tượng rằng họ liên lạc với Satan, giao ước với nó, nên nhờ đó đạt được những quyền năng lạ thường, và nhờ những quyền năng này họ làm được một nghề đem lại nhiều tiền bạc. Ma thuật góp phần vào khía cạnh đen tối của đời sống con người. Theo cách dùng từ của thánh Gioan, bóng tối luôn luôn đối lập với ánh sáng. Ma thuật cư ngụ trong bóng tối. Nó ẩn mình tránh tất cả mọi ánh mắt dòm ngó, nó biết rằng nó tạo ra một sự ghê tởm không sao xoá bỏ được nơi tất cả mọi người bình thường. Nhưng nó rất kiêu ngạo và hãnh diện về những gì nó tưởng rằng nó biết, nhất là về những gì nó tưởng rằng nó làm được.

NHỮNG TRÒ CHƠI SATAN

Ngoài tôn giáo Satan và ma thuật Satan, còn có những "trò chơi Satan".

Trong một bài giảng nảy lửa vẫn còn nổi tiếng đến ngày nay, Đức Cha Pierre Chrysologue, một hôm, nói với giáo dân trong giáo phận Ravenne của ngài: "Ai chơi với ma quỷ thì không thể thống trị với Chúa Kitô!".

Ngài nói với các Kitô hữu, mà việc "chơi với ma quỷ", tức những cảnh vô luân trong những đấu trường, đôi khi cũng cám dỗ họ.

Ngày nay cũng như thế kỷ thứ 5, người Kitô hữu nên biết rằng: nếu không muốn chuốc lấy tình trạng "không được thống trị với Chúa Kitô", thì không nên chơi đùa với ma quỷ.

Nhưng ngày nay, việc chơi đùa với ma quỷ chắc chắn không còn là những trò chơi mà Pierre Chrysologue tố giác nữa. Hoặc nếu ngày nay vẫn còn những trò chơi đó, thì chúng sẽ mang những hình thức hết sức mới mẻ.

Chúng tôi đã nói tới phim ảnh, nên chúng tôi không nói lại nữa. Chúng tôi sẽ không nói nhiều về việc quá đông người đang lạm dụng tiểu thuyết, mà một số lớn người thời đại rất ưa chuộng. Khả năng hấp dẫn của tiểu thuyết dường như trực tiếp do việc trình bày những điều tục tĩu.

Tiểu thuyết được viết ra như thế, và bằng những hiện thực độc hại và đồi truỵ, nó đang chiến thắng như thế trước mắt chúng ta: sự việc đó rất thường mang tính chất tội lỗi, ma quỷ. Chắc chắn người Kitô hữu không nên đọc những thứ sách đó. Điều này gợi cho chúng ta những lời tiên tri của thánh Phaolô viết cho đồ đệ của ngài là Timôthê:

"Sẽ có thời người ta không chịu nghe đạo lý chân chính nữa, trái lại họ sẽ nghe theo những bọn người khéo nói làm cho họ vui tai và thoả mãn tư dục, họ sẽ bịt tai không nghe chân lý mà xoay hướng về những chuyện hão huyền" (2Tm 4,3-4)

Ad fabulas convertentur! (họ sẽ xoay hướng về những chuyện hão huyền). Từ ngữ Latinh để chỉ về tiểu thuyết chính là từ ngữ fabulae đó, nghĩa là những chuyện hão huyền!

Thời nay có biết bao người chỉ tìm kiếm triết lý, cách hiểu cuộc đời của họ trong các tiểu thuyết họ đọc, là loại sách thường xuyên kích thích trí tưởng tượng và tình dục.

NHỮNG TRÒ CHƠI KHÁC

Chúng tôi đã nói chuyện cha sở thánh họ Ars nghĩ gì, nói gì về việc chiêu hồn và cầu cơ.

Gần chúng ta hơn rất nhiều, chính xác là ngày 26.11.1995, cha Berger-Bergès, vị trừ quỷ đã được chúng tôi nói đến, có đặt 4 câu hỏi như sau cho con quỷ đang hiện diện trong một người bị quỷ nhập:

1. Trò chiêu hồn là một khoa học hay một sự lừa phỉnh? Có phải chính ngươi là đạo diễn trong trò chiêu hồn không?

Trả lời: Nó chậm rãi trả lời bằng cử điệu, nó dùng ngón tay chỉ rằng chính nó.

2. Còn trò cầu cơ? Có phải chính ngươi di chuyển con cơ không?

Trả lời: "Phải, nhưng không phải chỉ có một mình ta, mà cần phải có cả những người tham dự nữa! Phải hợp tác với nhau mới làm con cơ chạy được".

3. Trong trò chiêu hồn, có những bản văn ký tên Marc Aurèle. Vậy ai ký tên Marc Aurèle? Chính ngươi hay một người nào của ngươi? (Tôi rất nhấn mạnh câu hỏi này, cha Berger nói. Nó không trả lời, nó nói rằng nó không muốn trả lời. Cuối cùng, nó nói rằng nó không được phép trả lời. Tuy nhiên, nó có một cử chỉ nhỏ mà tôi nhận ra, cử chỉ đó cho tôi biết là chính nó. Nó làm như một người trả lời một cách bí mật để Thiên Chúa không thấy được nó trả lời gì hết!...)

4. Thế còn cái trò bói bài là trò gì vậy?

Satan trả lời: "A! Cần phải có những người làm ăn sinh sống bằng nghề này!" Nó cho biết rằng bói bài là một trong những phương tiện nó dùng để lường gạt sự ngu xuẩn của con người.

Điều đó khiến chúng ta thấy được khía cạnh kỳ cục của thời đại. Việc coi bói bài khiến chúng ta trở về với những khía cạnh trẻ con nhất của ngoại giáo thời xưa.

BÓI TOÁN: VIỆC LÀM CỦA MA QUỶ

Hiện nay, việc bói toán bình dân dưới những hình thức hết sức khác nhau được phổ biến tới một mức độ không thể tin được. Người ta đã đưa ra những con số sau đây: Chỉ tại Paris, có tới 6000 người đăng ký với Sở Công an hành nghề làm thầy fakir, bói bài, bói chỉ tay, thầy tướng số. Còn trên toàn nước Pháp, có tới 60.000 người, với con số "dịch vụ" hàng năm ít nhất là 60 tỷ dịch vụ. Chắc chắn những phương pháp cổ xưa được áp dụng vào việc bói toán tại Pháp, như xem bộ lòng của con vật đem cúng tế, xem đường bay của chim, nghe tiếng thì thào của gió rừng, hay những hình thù do dòng nước xoáy tạo nên... Những phương pháp đó đã biến mất vĩnh viễn. Nhưng hiện nay vẫn có biết bao phương pháp khác đang được áp dụng, như xem các lá bài, xem chỉ tay, xem những dấu vết còn lại ở bã cà phê, ... Cũng như thời xưa, khoa chiêm tinh học (tức khoa tử vi) vẫn được coi là hình thức thông thái nhất để biết vận mạng con người. Ngày nay vẫn còn những nhà chiêm tinh gia, coi tử vi. Những người này quả quyết - không phải là không thiếu thận trọng - rằng họ có những bằng chứng rõ ràng về giá trị của những lời tiên tri của họ.

Thực ra tất cả những tự phụ của họ chẳng những phù phiếm mà còn hoàn toàn phi lý nữa. Chắc chắn đó là những hình thức "dối trá", là "nghề chuyên môn" của ma quỷ từ ngàn xưa. Các thầy chiêm tinh gia, các thầy tử vi được coi là những thầy bói sáng giá nhất. Đối với những thầy bói loại này, chúng ta chỉ cần đối chiếu họ với những lời của một bậc thầy về thiên văn học, một khoa học chính xác, ông G. de Vaucouleurs. Trong tác phẩm L'Astronomie (Thiên văn học) vĩ đại của ông, xuất bản năm 1948, khi đề cập đến ảnh hưởng của vũ trụ trên các sinh vật, ông viết: "Đương nhiên những ảnh hưởng mà các nhà chiêm tinh hay tử vi tìm cách móc nối với những lời nói vớ vẩn giả mạo khoa học của họ, những ảnh hưởng đó không phải là ảo tưởng". Đi xa hơn một chút, ông nhận thấy rằng trong quá khứ, khoa thiên văn học vẫn còn "quan hệ mật thiết với những mê tín của khoa chiêm tinh hay khoa tử vi cho tới đầu thời đại này (và than ôi! ngày nay thậm chí vẫn còn đắm chìm quá sâu trong tinh thần kém tiến hoá)" - và khi đả kích việc bói toán của khoa chiêm tinh hay tử vi, ông đã dùng những từ ngữ như khinh thường vị trí của khoa thiên văn học, đối lập với ngành bói toán theo chiêm tinh hay tử vi, trong ngành đó, Nostradamus là người nổi bật nhất thời trước, nên môn bói toán này vẫn được nhiều người ái mộ cuồng nhiệt cho tới ngày nay!

Làm sao khoa chiêm tinh hay khoa tử vi lại gắn số mạng của con người với sự gặp gỡ ngẫu nhiên của những lá bài, hay với những đường nét ít nhiều kỳ cục trong bã cà phê được!?

Điều đó càng làm cho các tín hữu thấy được rõ ràng sự dối trá của khoa bói toán. Chắc chắn chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được tương lai thôi. Tại sao Ngài lại biết được tương lai? Làm sao Thiên Chúa lại có thể biết được những gì chưa xảy ra, đang khi con người có tự do? Làm sao việc Thiên Chúa biết trước lại không nghịch lý trước tự do của chúng ta? Ai cũng biết đó là một trong những vấn đề khó khăn nhất của môn siêu hình học tổng quát. Chúng tôi xin trình bày vắn tắt giải đáp duy nhất có thể nghĩ ra được cho vấn đề này:

Trong tư tưởng của Thiên Chúa, thế giới của chúng ta không phải là thế giới duy nhất có thể nghĩ ra được. Có thể có vô vàn những thế giới có thể hiện hữu, khác biệt nhau. Nhưng sự khả hữu của chúng là do việc chúng đã được cưu mang từ đời đời trong tư tưởng của Đấng Sáng Tạo. Và trong tư tưởng này, nghĩa là trong Ngôi Lời của Thiên Chúa, các thế giới này mới diễn ra bằng ý tưởng đúng theo những định luật tự nhiên của nó, trong đó có vai trò của tự do tuỳ nghi tác động vào. Khi Thiên Chúa quyết định cho thế giới này hay thế giới kia hiện hữu, nghĩa là thế giới đó được Ngài tạo dựng nên, là vì Ngài thích chọn thế giới đó hơn những thế giới khác. Những điều kiện của thế giới đó vì thế không bị thay đổi, vì nếu thay đổi, thì đó không còn là cái thế giới mà Thiên Chúa đã muốn và đã thấy nữa.

Những hành vi tự do cũng sẽ tiếp tục là tự do, nhưng dầu vậy Thiên Chúa cũng vẫn thấy trước được những hành vi đó sẽ xảy ra như thế nào, vào lúc nào. Chính trong chiều hướng này mà Thiên Chúa biết được tương lai. Vì Ngài là Đấng duy nhất đời đời cưu mang trong tư tưởng mình các thế giới, nên hiển nhiên chỉ một mình Ngài biết được tương lai mà thôi. Vậy ngoài trường hợp lạ lùng nơi các tiên tri của Thiên Chúa, mọi hình thức muốn báo trước tương lai đều nhất thiết có tính cách ma quỷ, vì đó là một sự lấn lướt, dẫm chân lên Thiên Chúa.

Do đó, không một khả năng bói toán nào có được ở trong trò bói bài, trong bã cà phê, trong đường chỉ tay, trong những đường do muối vẽ ra trên lòng trắng trứng, cũng như trong sự gặp gỡ của các hành tinh và ngôi sao vào lúc một người nào đó sinh ra. Cái mà người ta gọi là Định Mạng trong khoa chiêm tinh hay tử vi, chỉ là một sự gian trá hay mê tín.

Chắc chắn chúng tôi không chủ trương rằng ngàn thầy bói đang sinh sống bằng cái nghề nói trước tương lai, tại Paris cũng như tại các thành phố lớn ở Pháp, đều là những thầy phù thuỷ đã bán mình cho Satan.

Đa số những người đó dường như chỉ nghĩ tới việc làm một cái nghề đem lại tiền bạc để sinh sống, mà không hề nghĩ rằng nghề đó là vô luân hay có tính cách ma quỷ gì cả. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không có quyền nghĩ rằng ma quỷ đã tìm thấy những cái lợi cho nó ở những lệch lạc đó, và sự bói toán - dù dưới hình thức thời đại hay cổ xưa - chỉ là những "trò chơi Satan" giữa lòng nhân loại. Vì thế bói toán cũng là một trong những hình thức thời đại của ma thuật Satan, song song và khác biệt với tôn giáo Satan

CHƯƠNG XI

MỘT VÀI TRẠNG SƯ

CỦA LUCIFER

BOULLAN VÀ BÈ MARIAVITES

Trong chương này, chúng tôi muốn đưa ra một vài thí dụ xảy ra mới đây chủ trương bênh vực cho Lucifer. Thí dụ đầu tiên là trường hợp ông Boullan (một linh mục xuất).

Jean-Antoine Boullan sinh ngày 18.2.1824 tại Saint-Porchaire (Charente-Maritime), và qua đời ngày 4.1.1893 tại Lyon. Người ta ít biết về nghề nghiệp của ông, chỉ biết rằng ông là linh mục năm 1848. Ông thường giao du với những văn sĩ có khuynh hướng huyền bí, và sống trong một môi trường mà trong cuốn Confession (Tự Thú) của ông, ông xác định là môi trường của những phụ nữ "bị dư luận cho là điên loạn và quỷ ám". Một trong những phụ nữ này còn bị động kinh nữa. Trong cuốn Confession, ông nhìn nhận rằng ông không có năng khiếu hướng dẫn phụ nữ.

Nói rằng ông bị họ "hướng dẫn" thì có lẽ đúng hơn nhiều. Tuy nhiên, ông rất thông minh. Nhưng ông lại bị thúc đẩy cùng một lúc bởi tính hiếu kỳ thiếu lành mạnh và những khuynh hướng tính dục mạnh tới mức luôn ám ảnh ông. Ông tự giải thích những lầm lỗi của mình như sau. Ông viết: "Những tội lỗi của tôi phát sinh từ 3 nguyên do: trước tiên là sự yếu đuối và mỏng dòn nơi bản tính đã bị hư hỏng của tôi, rồi đến những ảo tưởng mà ma quỷ dùng để lường gạt tôi và làm cho tinh thần tôi bị lạc hướng; cuối cùng là cách hiểu sự vật của tôi đã dẫn tôi tới nhiều chuyện đáng chê trách".

Một lời tự thú như thế cho thấy những dấu hiệu thành thật. Ông Boullan nhìn nhận những sai sót và lỗi lầm của mình. Nơi ông, có một sự pha trộn giữa những ý tưởng tốt đã khiến ông bị mù quáng, và những hành động tội lỗi đã dẫn ông tới việc tự lừa dối mình. Ông cho rằng vì ông có ý muốn chữa lành những người phụ nữ bị quỷ ám. Về vấn đề này, ông đã dùng những "kinh nghiệm" của mình về những phụ nữ đồi truỵ để thử tìm hiểu những hậu quả của tội lỗi và những giới hạn nơi những hành động của ma quỷ. Ông đã để cho Satan xoay chuyển mình tới mức độ tin rằng ông là "Gioan Tẩy Giả tái giáng xuống thế gian này". Ông đã kế tục con đường lạc đạo của Vintras, ông này tự cho mình là một "hoá nhân của tiên tri Êlia".

Chúng ta biết rằng Gioan Tẩy Giả được coi là Êlia tái sinh. Vì thế, một người kế tục cho Vintras chỉ có thể làm Gioan Tẩy Giả. Từ khi tự cho mình là người như thế, ông cảm thấy mình có một sứ mạng. Ông được sinh ra để cải cách. Cần phải quy tụ chung quanh mình những đồ đệ để cùng nâng "lưỡi gươm của Thiên Chúa" lên chống lại Giáo Hội Rôma. Theo như ông tin tưởng thì Giáo Hội Rôma đã bị giao nộp cho Satan. Các linh mục Công giáo, nói theo từ ngữ của ông, là "những quỷ có sừng mang chức linh mục".

Tiền bạc là một vấn đề hết sức quan trọng đối với ông. Cuốn Tự Thú cho biết ông "kiếm được rất nhiều tiền", tại Paris, trước khi lập nên sự nghiệp của mình. Ông không nói tiền bạc đó từ đâu ra. Nhưng tiền bạc làm ông say mê. Ông mua một lâu đài và chi phí vào đó những món tiền kếch xù. Trong tâm trí ông, thiện và ác trở thành một cái gì đó khó phân biệt, đến nỗi ông đã phạm một tội lừa đảo, bịp bợm, đã khiến ông phải ra trước vành móng ngựa năm 1861, lãnh 3 năm tù (1861-1964). Điều tra của toà án cho biết ông đã sử dụng những kiến thức tự cho là siêu nhiên của mình để khai thác những tâm hồn cả tin, và để bòn rút tiền bạc của họ. Nhưng rồi ông cũng đâu có giữ được tiền bạc ấy cho mình. Ông có một thú vui dị thường là lấy tiền của người này để phân chia cho người khác.

Cuốn Tự Thú có ghi lại những lời nguyền rủa nảy lửa đối với những "quỷ có sừng mang chức linh mục". Vì những lời này mà ông bị tố cáo tại Rôma, khiến ông và người bạn gái của ông bị kết án. Người bạn gái này là một nữ tu xuất, tên Adèle Chevalier, được Đức Mẹ làm phép lạ chữa bệnh cho ở La Salette, nhưng sau đó bị sa ngã vào truỵ lạc, lôi kéo cha Boullan sa ngã theo.

Ông lại bị đưa ra trước toà án giáo sĩ ở Rôma, và bị tù ở nhà giam của Toà Thánh. Nhưng ông được giải thoát do quân Piémont tràn vào năm 1870.

Tất cả những ai theo ông, ông đều gán cho họ một gánh nặng ghê gớm, hoặc lâu dài hoặc ngắn hạn, có thể bị tù đày, hoặc phải trả hết những món nợ nần của ông.

Nhưng ông rất ngông cuồng đến nỗi ngay cả các đồ đệ của Vintras cũng phải tống cổ ông ra khỏi hội của họ.

Linh mục sai lạc khốn nạn này là nạn nhân của khoa huyền bí học và thói dâm dục. Nếu ông không thuộc vào một tổ chức, và không để lại cho Giáo Hội một bè rối sau này, thì lịch sử của ông chỉ đơn thuần là đáng thương và tầm thường mà thôi.

Nhưng ông thuộc về một tổ chức, và trường hợp của ông đã tạo ra một luồng sáng thảm hại soi chiếu vào cả một thế giới đã có đầy những biểu hiện và âm mưu của bóng tối. Đó là Hội Huyền Bí học của Êliphas Lévi, hội Thiên cảm học của Vintras tức hoá thân của Êlia, hội Thông thiên học của bà Blavatsky, những sáng tạo của Guaita, của Sâr Péladan dưới danh hiệu Hội Chữ Thập Hồng và cũng có thể, trên một bình diện còn rộng lớn hơn, là những nghi thức huyền bí của hội kín Tam Điểm (Franc Maconnerie initiatique) - hội này kết án chủ nghĩa vô thần của tổ chức Đại Đông (Grand Crient) tại Pháp - Đó chỉ là những hội có những lý thuyết và lối sống đạo có tính cách bí truyền đang hoạt động trong mặt trái của xã hội hiện nay. Và chắc chắn không phải là không có cơ sở khi coi tất cả những hội đó là những hình thức khác nhau của chủ nghĩa Satan hiện nay.

Nhưng Boullan cũng để lại cho đời một hậu duệ: Bè rối Mariavites.

BÈ RỐI MARIAVITES

Bè Mariavites là một giáo phái giả thần bí (pseudo-mystique), được thành lập ở Ba Lan năm 1906, do Jan Kowalski, một linh mục bị vạ tuyệt thông, và bởi Félicie Kozlowska, một phụ nữ được thấy những thị kiến (1862-1922).

Hai người sáng lập này quan hệ mật thiết với cha Boullan. Họ thuộc về tổ chức của cha, cùng hoạt động với cha, cùng ở trong hội Thiên cảm học (illuminisme) của cha. Kowalski và bạn gái của ông là Procnievski, cả hai đều thuộc dòng Phanxicô. Marie - Félicie Kozlowska cũng là một nữ tu Phanxicô. Họ là những người ủng hộ cha Boullan và bà tiên tri của cha là Adèle Chevalier, một nữ tu xuất được ơn phép lạ ở La Salette. Người ta thấy họ hoạt động trong môi trường khả nghi này trong khoảng từ 1888 đến 1893. Thời gian này, cha Boullan qua đời. Những người Ba Lan đó đã về xứ sở của họ. Năm 1894, Marie - Félicie bắt đầu đưa ra những lời tiên đoán, chẳng bao lâu người ta gọi bà là Matouchka, nghĩa là "mẹ".

Phong trào mới này chủ trương tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria một cách đặc biệt. Họ chỉ nói một cách rất đạo đức về việc "bắt chước đời sống của Đức Trinh Nữ Maria" (Mariae Vitam imitari). Vì thế, họ mới mang tên là Mariavites (những người noi gương Maria). Marie - Félicie Kozlowska không ngần ngại tuyên bố là có "Đức Trinh Nữ cư ngụ" ở trong bà ta. Năm 1903, họ bị Đức Giáo Hoàng Piô X kết án. Thay vì thần phục Giáo Hoàng, những hội viên "noi gương Đức Mẹ" này đã tách rời cả đám khỏi Giáo Hội. Vào năm 1906 là năm bè Mariavites chính thức thành lập, số người gia nhập bè phái được thẩm định khoảng một triệu người, trong đó có 300 linh mục và nữ tu phụ trách hướng dẫn và nâng đỡ tinh thần họ. Kowalski trở thành giáo chủ bè ly khai này. Ông đã lãnh nhận - cho chính ông và cho một vài đồng chí của ông - chức giám mục - thành sự - nhân danh toà giám mục của giáo phái Công giáo cổ truyền và phái Jansénites ở Utrecht năm 1909. Tháng 12.1910, Đức Giáo Hoàng Piô X đã kết án họ qua thông điệp Acta Sanctae Sedis.

Nhưng chẳng bao lâu gương xấu này nổ ra ngay. Bè phái này chủ trương cho phép và phổ biến những "hôn nhân thần bí" được vay mượn như tàn tích của cha Boullan. Người ta quả quyết, những cuộc hôn nhân này nhằm mục đích đạt được "sự sinh con không qua đam mê xác thịt, để nhờ đó sinh ra những đứa con không mắc tội tổ tông truyền". Từ "hôn nhân thần bí" này người ta nhanh chóng chuyển sang "đa hôn thần bí" (Polygamie mystique) hay "đa hôn tinh thần" (Polygamie spirituelle). Giáo phái Công giáo cổ truyền (Vieux - Catholique) lúc đó chống đối lại. Đại hội quốc tế của giáo phái này, tổ chức năm 1924 tại Berne, ra vạ tuyệt thông cho toàn giáo hội Mariavites. Vào ngày đó, giáo hội này vẫn còn sáu trăm ngàn tín đồ. Ông giáo chủ và nhiều vị giám mục của ông phải trả lời những kết án nặng nề về những việc làm liên hệ đến phong tục trong xứ sở của họ, và toà án thượng phẩm đã giáng trên họ những lời kết án gây nhiều tiếng vang. Theo Enciclopedia Cattolica (tự điển bách khoa Công giáo), ở chữ Mariavites, cuốn VIII, thì năm 1952, số người theo bè phái này lúc đó không vượt quá năm mươi ngàn người, với một vị tổng giám mục, ba giám mục, ba mươi linh mục và năm trăm nữ tu. Họ sống theo luật của thánh Phanxicô, trong đó, các linh mục theo luật của dòng nhất, các nữ tu theo luật của dòng nhì, còn các giáo hữu theo luật dòng ba.

Trong bè phái này, chủ nghĩa Satan chỉ được thể hiện bằng cách "nhái" theo những tổ chức chính thống. Nó làm cho dòng Phanxicô mang tiếng vì không thể giữ những luật đó đúng đắn hơn được.

LÉON BLOY

Có nên gắn liền trường hợp của linh mục xuất Boullan và những người cuồng nhiệt theo bè phái Mariavites với trường hợp của nhà văn nổi tiếng Léon Bloy không?

Cách đây không lâu, đặt vấn đề như thế dường như là một sự xúc phạm, hay ít nhất là một chuyện hết sức khó tin (vì lúc đó Léon Bloy đang có uy tín và được kính trọng).

Nhưng bỗng nhiên vào năm 1957, xuất hiện một tác phẩm làm người ta ngạc nhiên do R. Barbeau viết. Tựa đề của tác phẩm khiến người ta phải dị nghị: Léon Bloy, một tiên tri của Lucifer (Un prophète de Lucifer, Léon Bloy, Paris, Ed. Montaigne, Aubier).

Chúng ta hãy nhường lời cho các tác giả nói lên những ý hướng của ông, và chia sẻ với chúng ta những khám phá của ông. Ông viết rằng trong hơn ba năm, ông đã gia nhập "Hội Léon Bloy" (Cercle Léon Bloy) do cha Guy Courteau dòng Tên hướng dẫn tại Montréal. Linh mục này coi Bloy là một người có năng khiếu nhất trong việc làm tỉnh giấc tính vô cảm thiếu tình người (apathique) của lớp người "trưởng giả", đồng thời mở cho giai cấp trí thức con đường vào Giáo Hội. Quả thật, ảnh hưởng của Léon Bloy vào đầu thế kỷ này rất rộng lớn. Nhiều người sắc sảo và đáng kính như Jacques Maritain (và vợ ông), Pierre van der Meer de Walcheren, Léopld Levaux, ... đã lớn tiếng tuyên bố rằng sở dĩ họ trở lại Giáo Hội Công giáo là do Léon Bloy. Ông có nhiều bạn bè rất hào phóng như Pierre Termier, Réné Matineau, Jacques Debout, và nhiều người khác nữa. Những người ngưỡng mộ ông là những người có tầm cỡ như Hubert Colley, tác giả cuốn L'Âme de Léon Bloy (tâm hồn của Léon Bloy) (viết năm 1930); M.J. Lory, tác giả cuốn La pensée religieuse de Léon Bloy (tư tưởng tôn giáo của Léon Bloy) (1951); Stanislas Fumet, Mission de Léon Bloy (sứ mạng của Léon Bloy) (1935); Albert Béguin, Bloy, mystique de la douleur (Bloy, nhà thần bí của đau khổ) (1948), ...

Léon Bloy sinh tại Périgueux. Cha ông là một người vô thần, nhưng mẹ là một người rất đạo đức. Ngay từ nhỏ, ông đã có một tính khí rất hung hăng, đòi hỏi tuyệt đối, rất khó thích ứng. Chính Barbey d'Aurevilly đã giúp ông trở về với đức tin ở Paris. Không thể phủ nhận được Léon Bloy là một văn sĩ thượng thặng, với khuynh hướng viết văn có âm nhạc và nhịp điệu, điều đó khiến ông đứng hàng đầu trong nghề viết văn. Ông quan hệ rất thân thiết với Ernest Hello, với cha Tardif de Moidrey. Ông hết sức ngưỡng mộ Blano de Saint-Bonnet, một nhà văn ở Lyon. Nhưng theo cuốn sách của R. Barbeau, thì chắc chắn rằng kể từ đó ông đã giao du với rất nhiều người theo huyền bí học, ông sống trong niềm mong chờ những mặc khải vĩ đại, những tai biến lạ lùng, và ông có tư tưởng cho mình có một sứ mạng cao cả phải thực hiện.

Với bản tính tuyệt đối của ông, ông cảm thấy mình có sự tranh chấp sâu sắc với thời đại. Ông kêu lên: "Ngày 29.5.1892, tôi có cảm thức rõ rệt là tất cả mọi người đều sai lầm, tất cả mọi người đều bị gạt gẫm, và tâm trí con người đã bị rơi vào bóng tối hết sức dày đặc".

Nhưng ánh sáng đến với ông phát xuất từ đâu? - Không phải từ Giáo Hội Công giáo mà từ một phụ nữ đáng thương tên Anne-Marie Roulé, một cô gái điếm, là người đàn bà tốt bụng trong cuốn tiểu thuyết Le Désespéré (người tuyệt vọng) của ông.

Ông kết giao với nàng. Ông chắc chắn rằng ông đã làm cho nàng trở lại. Trước khi bị bệnh điên loạn và kết thúc cuộc đời trong nhà thương điên, nàng đã có những thị kiến siêu nhiên. Dựa trên niềm tin vào phụ nữ này, và trên những mặc khải mà ông tin rằng được tỏ lộ ra trong Bí mật của Mélanie Calvat, người trông thấy Đức Mẹ hiện ra ở La Salette, ông chắc chắn rằng sắp đến "ngày tận thế", và ngày tận thế này hệ tại sự giáng lâm của Đấng An Ủi (Paraclet), và Đấng này không ai khác hơn là đích thân Lucifer!

Một sự ngông cuồng như thế là một phạm thượng không thể chấp nhận được. Toàn bộ cuốn sách của R. Barbeau có khuynh hướng chứng minh rằng đó là ý niệm căn bản và chủ yếu của Léon Bloy, ý niệm mà ông coi là "bí mật" dành cho ông, vì thế ông muốn dấu không cho ai biết, nhưng bí mật đó lại soi sáng cho tất cả những gì ông viết ra.

Thường xuyên bị thất vọng vì những hy vọng được chứng kiến những biến cố mà ông có sứ mạng chuẩn bị vẫn không thành tựu, nên trong cuốn Tiểu Sử (Biographie, do Joseph Bollery xuất bản tại nhà in Albin-Michel, năm 1947), ông viết:

"Tôi chỉ có thể thấy trong tôi một nỗi oán giận chua cay nhất và tàn khốc nhất đối với một Thiên Chúa quá cứng rắn và bạc bẽo... Nếu tôi đối xử với một con chó tương tự như cách Thiên Chúa đã đối xử với tôi, thì tôi thật là xấu hổ" (I. 428-429).

Thật vậy, ông tin rằng Thiên Chúa Cha là một ông chủ hống hách và tàn nhẫn, Thiên Chúa Con chỉ sửa đổi lại công trình của Chúa Cha đã bị thất bại, và chỉ có Chúa Thánh Thần là sự thống trị khắp nơi bằng Tình Thương.

Như vậy là Léon Bloy đã lập lại theo cách thức của mình những giấc mơ của Joachim de Flore (khoảng 1145-1202). Nhưng đặc biệt là sự đồng nhất ông gán cho giữa Satan và Chúa Thánh Thần thật là quái đản!

QUAN ĐIỂM CỦA LÉON BLOY VỀ SATAN

Léon Bloy tự hào rằng ông là người duy nhất - ông thường nói: người duy nhất! - hiểu được Satan là gì. Ông thấy Satan là ngôi thứ ba của Thiên Chúa, nên chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy ông gán cho Satan quá nhiều quyền năng. Trong cuốn sách ông viết về Christophe Colomb có tựa là Le Révélateur du Globe (Đấng Mặc Khải về Thế Giới) (1884), người ta đọc thấy:

"So với tất cả chuyện đời nay, thì quan niệm về ma quỷ là một quan niệm thiếu chiều sâu nhất, nông cạn nhất, thiếu điều đã trở thành một đối tượng của văn học. Chắc chắn là ma quỷ do phần đông các thi sĩ nghĩ ra không làm ai sợ kể cả trẻ con. Tôi chỉ biết có một ông Satan duy nhất do các nhà thơ nghĩ ra mà thực sự đáng sợ thôi. Đó là ông Satan của Baudelaire, vì ông ta là người dám nói phạm thượng.

Tất cả những Satan khác, kể cả Satan của Dante, chỉ làm cho tâm hồn chúng ta an tâm, và những đe doạ của chúng chỉ làm nhún vai những em bé gái đang học lớp giáo lý nhi đồng vốn rất dốt về văn học. Nhưng cái ông Satan đích thực mà chúng ta không còn biết tới nữa chính là Satan của bà Evà, là kẻ đã cám dỗ Đức Giêsu Kitô. Satan đó quái đản đến mức, nếu cho phép tên khốn kiếp ấy hiện nguyên hình đúng như bản tính của hắn - trong sự trần trụi siêu nhiên của sự Không-Tình-Thương (Non-Amour) - thì loài người và toàn thể các giống thú chỉ kêu lên một tiếng rồi chết ngất...".

Cho tới đây chúng tôi hoàn toàn đồng ý với Léon Bloy. Nhưng đoạn tiếp theo đây có nhiều chỗ chúng tôi không đồng ý cho lắm, vì ông tỏ ra hơi quá đáng:

"Satan hiện diện giữa mọi đôi môi và mọi ly rượu. Hắn ngồi trong tất cả mọi bữa tiệc, và giữa những chiến thắng hắn làm cho chúng ta no nê những chuyện kinh tởm. Hắn nằm trong cái góc tối tăm nhất trên giường của đôi tân hôn. Hắn gặm nhấm và làm dơ tất cả những tâm tình, hy vọng, tất cả những gì trong trắng, tinh khiết, tất cả mọi vinh quang của con người. Cái ngai mà nó ưa ngồi nhất là cái chén vàng của tình yêu đang độ nở hoa. Và cái bồn tắm ngọt ngào nhất của nó là cái mái ấm màu tím của tình yêu đang bốc lửa.

Khi chúng ta không nói với Thiên Chúa cũng như không nói vì Thiên Chúa, tức là chúng ta nói với ma quỷ, và chính hắn nghe chúng ta nói, trong một bầu khí im lặng khủng khiếp. Hắn đầu độc tất cả mọi dòng sinh lực và mọi nguồn tử vong. Hắn đào những cái hố giữa mọi con đường chúng ta đi. Hắn trang bị vũ khí cho toàn bộ vạn vật để chống lại chúng ta, đến nỗi Thiên Chúa phải được giao nhiệm vụ canh giữ mỗi người chúng ta cho một thiên thần của Ngài, để chúng ta không bị hư hoại ngay từ giây phút đầu tiên khi sinh ra. Cuối cùng Satan ngồi trên thượng tầng trái đất, đặt bàn chân hắn trên năm châu thế giới. Và không có gì nơi con người được thực hiện mà không có hắn can thiệp vào, mà hắn không bị can thiệp, mà hắn không phải can thiệp vào".

Và ông kết luận:

"Đó chính là đế quốc vô giới hạn của Satan. Hắn thống trị như một vị vua trên vô số thần dân là những đứa con thảm hại của sự tự do nơi con người".

Léon Bloy đã nhiều lần trở lại với chính những ý tưởng này. Những ý tưởng này đúng ra là của Luther, là nhà thần học bi quan về tội tổ tông, cho rằng tội ấy không thể tẩy xoá và huỷ diệt được. Léon Bloy đã trở lại với những ý tưởng đó trong các cuốn sách của ông: Belluaires et Porchers (Những người dạy thú và những kẻ chăn heo) (1905); L'Âme de Napoléon (Tâm hồn của Nã-phá-Luân) (1912); và ở nhiều chỗ khác nữa. Một hôm ông viết thư cho Pierre Termier: "Tất cả những gì tân thời đều là của ma quỷ. Đó là mấu chốt của mọi cuốn sách tôi viết, và của tác giả những cuốn sách đó". Trong cuốn L'invendable (Cái không thể bán được) (1909), ông viết: "Mai mốt chúng ta sẽ phải đối diện với một trường hợp quỷ nhập khắp nơi (possession universelle)!" (tr. 219).

Nhưng làm sao Léon Bloy khảo sát quyền lực đen tối của Satan kỹ lưỡng như thế lại có thể đồng hoá Satan với Đấng Yên Ủi được? Làm sao kẻ mà ông nhận là Không Tình Thương - cũng như chúng ta vẫn công nhận - lại có thể trở thành hiện thân của Tình Thương được?

Đó chính là bí mật thâm sâu nhất của Léon Bloy. Ông bị mất hút trong những thế giới biểu tượng bí hiểm nhất, và ông vui thích với những lần xuất thần chỉ dành riêng cho ông thôi. Ngày 21.10.1889, ông viết cho vị hôn thê chưa cưới của ông là con gái của một văn sĩ Đan Mạch tên Molbech, như sau:

"Em hãy nhớ... điều đã được mặc khải cho anh ngày xưa, và chỉ một mình anh trên đời mới có thể nói được điều đó, chẳng hạn như: cái dấu hiệu của đau khổ và nhục nhã - tức Thập Giá - lại là biểu tượng gợi cảm nhất của Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu - là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, là Đấng đại diện cho toàn thể nhân loại - đã vác trên vai Thập giá này, cái Thập giá còn lớn hơn thân Ngài, đè nặng lên Ngài. Simon Xirênê phải giúp Ngài vác một quãng đường. Khi anh nghĩ tới nhân vật nhiệm mầu vĩ đại ấy, được tuyển chọn từ đời đời giữa hàng tỉ tạo vật, để một ngày kia giúp đỡ cho Ngôi Hai Thiên Chúa vác cái hình ảnh của Ngôi thứ Ba, anh cảm thấy sâu sắc một sự kính trọng vô biên giống như một nỗi sợ sệt.

Simon có nghĩa là Vâng Lời. Nhưng chính Đấng-Không-Vâng-Lời - tức Chúa Thánh Thần - đã đặt Thập giá lên vai của một người vâng lời khác là Đức Giêsu Kitô. Jeanne, em thương, em hãy nhận ra rằng trong sự việc đó có ba nhân vật, hai kẻ vâng lời phải vác cái gánh nặng khủng khiếp của Đấng-Không-Vâng-Lời, và cái bộ ba thảm thương ấy đang trên đường đi tới chỗ chiến thắng cái chết. Thật là một vực thẳm khủng khiếp!"

Trong một thư khác đề ngày 2.12.1889, ông đã cho thấy quan niệm của ông về tội nguyên tổ và sự phục hưng cuối cùng. Ông viết:

"Đây là cách quan niệm của tôi về cái thảm kịch vĩ đại của tội nguyên tổ: Con Rắn, biểu trưng cho mặt đen tối của Chúa Thánh Thần, đã lừa dối người đàn bà, mà người đàn bà này lại là biểu trưng cho mặt sáng láng của Ngài. Người đàn bà đã chấp nhận và ăn cái chết vào mình. Cho tới đây, loài người chưa gọi là sa ngã, vì nếu người đàn bà đã đánh mất sự vô tội diệu kỳ của nàng, gấy bất lợi cho tiết tháo, vốn là phản ánh sự vô tội của nàng, thì người đàn ông - biểu trưng sáng lạn của Ngôi Hai Thiên Chúa - chưa đánh mất chính sự vô tội ấy bằng hành động tự do của mình. Đó là một tình huống chưa bao giờ xảy ra với họ, hầu như không thể quan niệm nổi. Anh xin em hết sức chú ý điểm này. Người đàn ông và người đàn bà phải đối diện với nhau, tranh chấp với nhau chỉ một mình họ thôi, vì Con Rắn đã nhập vào người đàn bà, đã trở nên một với nàng rồi. Bóng tối và ánh sáng đã pha trộn với nhau suốt bao thế kỷ rồi. Người đàn ông và người đàn bà đó, tức Chúa GiêsuChúa Thánh Thần, phải đối diện với nhau, dưới bàn tay của Chúa Cha.

Người đàn bà, biểu trưng của Chúa Thánh Thần, đại diện cho tất cả những gì đã sa ngã và sẽ sa ngã. Người đàn ông, biểu tượng của Chúa Giêsu, đại diện cho sự cứu rỗi phổ quát nhờ sự chấp nhận, nhờ sự thăng hoa tự do của mọi sự sa ngã, của toàn bộ sự ác có thể xảy ra: Và nhờ phép lạ của một tình thương vô biên, người đàn ông bằng lòng hy sinh sự vô tội của mình để chia sẻ hoa trái của sự chết, để rồi một ngày nào đó sẽ chiến thắng chính cái chết đó, khi mà sự đau khổ đã làm cho sự tự do của y lớn lên một cách kỳ diệu. Lúc đó, cả hai đều nhận ra rằng họ trần truồng, bởi vì Sự Cứu Chuộc - vốn đã khởi sự - một ngày nào đó sẽ hoàn tất trên một cái cây - mà cái cây trong vườn địa đàng, chỉ là biểu tượng có trước của cây này - ngày đó, của lễ hiến tế, lễ vật hy sinh phổ quát là Sự Tự Do và Tiết Tháo phải được nhìn ngắm hoàn toàn trần trụi trên Thập giá tượng trưng cho sự đền tội của mọi người. Nếu anh không chết vì lạnh, thì còn có 50 chuyện khác để nói nữa!

Bất chấp! Bằng một nghĩa cử không sao nói được, không sao hiểu được. Tình yêu đã nhập vào trần gian. Ngôi Lời - vốn không thể tách rời khỏi Tình Yêu - cũng đã theo Tình Yêu nhập vào trần gian. Và Chúa Cha đã liên tục dùng cái này để nâng đỡ cái kia. Trước tiên người đàn ông đã hy sinh sự tự do của mình một cách đau đớn để cứu lấy vợ mình, và kế đó, người đàn bà đã hy sinh tiết tháo của mình một cách đau đớn hơn nữa để giải thoát cho chồng mình. Khi em viết thư cho anh nói rằng có lẽ chỉ có người đàn bà là giàu có, và chỉ có người đàn ông là nghèo nàn, là em đã diễn tả - có thể là vô tình chăng? - một trong những công thức tuyệt diệu nhất của khoa chú giải thượng thặng. Và cái công thức đó chỉ hoàn toàn đúng theo chiều hướng của khoa chú giải đó thôi, và điều đó chính là đối tượng anh muốn trình bày trong lá thư này".

Nếu chúng ta hiểu rõ được cái ngôn ngữ tối nghĩa và kiêu kỳ này, thì Con Rắn, tức Satan, biểu trưng cho bề mặt đen tối của Đấng An Ủi, đã phỉnh gạt người phụ nữ, phụ nữ này không phải chỉ là bà Evà, mà còn là Người Phụ Nữ sẽ trở nên Trinh Nữ Maria nữa, là biểu trưng cho mặt tươi sáng của chính Đấng An Ủi đó. Con Rắn "đã trở nên một với nàng", nghĩa là Satan, cả Ánh Sáng lẫn Người Phụ Nữ "đã pha trộn vào nhau suốt bao nhiêu thế kỷ rồi". Con Rắn và Người Phụ Nữ chỉ còn là một hữu thể, hữu thể đó chính là Đấng An Ủi. Nhưng, sau khi sa ngã và lúc trỗi dậy, "Bằng một nghĩa cử không sao nói được, không sao hiểu được. Tình yêu đã nhập vào trần gian. Ngôi Lời - vốn không thể tách rời khỏi Tình Yêu - cũng đã theo Tình Yêu nhập vào trần gian. Và Chúa Cha đã liên tục dùng cái này để nâng đỡ cái kia". Đấng An Ủi đồng nghĩa với Lucifer. Hình ảnh gây xúc cảm nhất đối với Lucifer là Đứa Con hoang đàng. Người Cha lo lắng chờ đợi đứa con trở về. Lucifer sẽ trở lại. Hắn sẽ được Chúa Cha hớn hở đón tiếp. Người anh của hắn sẽ không hài lòng. Nghĩa là Giáo Hội sẽ bách hại Đấng An-Ủi-và-Giải-Phóng, Đấng sẽ nhổ đinh cho Đức Kitô vào thời kỳ cuối cùng. Đó là Sự Giáng Lâm bất khả tư nghị sẽ xảy đến trong tương lai, là sự chiến thắng của Do Thái giáo (Synagogue), và là Vinh Quang của Satan.

Chúng ta hãy tạm ngưng trình bày những điều phi lý ấy tại đây. Khi đọc bản buộc tội Léon Bloy của R. Barbeau, ít nhất chúng ta có thể xếp Bloy vào số người theo tân-ngộ-đạo-thuyết (Néognostique), càng ngày càng đông từ hai thế kỷ nay. Qua việc đó chúng tôi muốn nói gì? Cách đây 18 thế kỷ, ngộ đạo thuyết gồm những người rối đạo tự cho mình là cao hơn những tín hữu bình thường. Họ đọc Kinh Thánh với một niềm tự hào là đã tìm thấy trong đó những ý nghĩa nhiệm mầu mà những tín hữu bình thường không thể hiểu nổi, và họ dựng nên những hệ thống khó mà tin được về những "éons" (vị thần), là những hữu thể trung gian, ở giữa Thiên Chúa và vật chất, chúng được hiểu như một chiếc cầu nối vật chất - được đồng hoá với sự ác - với Thiên Chúa, là Đấng ở rất xa dường như không thể đạt tới được.

Cũng như những người ngộ đạo thuyết, Léon Bloy tin rằng cái bí mật mà ông khám phá được chỉ dành riêng cho ông và một vài người được thụ pháp (initíes) mà chỉ một mình ông mới hiểu những gì được mạc khải cho họ. Ông cũng muốn tìm cho bí mật này một chỗ dựa trong Kinh Thánh, nhưng được chú giải theo cách riêng của ông. Ông sống trong một niềm hy vọng ngông cuồng rằng sẽ có một tai biến mà trong đó ông không phải chỉ là một người chứng kiến, mà còn là một tác nhân chủ động nhất nữa. Ông nghĩ rằng ông sẽ là tiên tri, là người loan báo ưu tuyển về ngày tận thế (parousie). Theo ông, ngày này chính là ngày Lucifer, được tôn vinh và lấy lại danh hiệu cũng như vinh quang của Đấng An Ủi, và cũng là ngôi vị thứ ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Để Satan được khôi phục lại, chỉ cần kẻ đang là Không-Tình-Yêu trở lại thành Tình Yêu như lúc đầu, và kẻ ấy xin với Chúa Cha rằng: "Con xin Cha chuyển sự Công Bình của Cha thành Vinh Quang của Cha!" Câu đó có nghĩa là: Nếu Thiên Chúa cầm giữ Satan trong hoả ngục, cùng với những kẻ bị trầm luân khác do hắn lôi kéo, thì Ngài đã làm một hành vi công bình, nhưng điều đó có hại cho vinh quang của Ngài. Việc tạo dựng tức công trình của Ngài như vậy là chưa hoàn toàn. Nói vắn tắt, nếu hoả ngục tồn tại vĩnh cửu, thì việc tạo dựng kể như thất bại! Như vậy là có một vết đen, có một vết bẩn không thể chấp nhận được. Cho nên "vì vinh quang của Ngài", Thiên Chúa bắt buộc phải tha thứ cho Satan và cho tất cả mọi người bị trầm luân. Ngài không thể để cho sự kinh tởm được gọi là Hoả Ngục ấy tồn tại mãi!

Dường như đó là bí mật của Léon Bloy. R. Barbeau, tác giả cuốn sách mà chúng ta vừa phân tích, đã tuyên bố nghiêm chỉnh như sau:

"Cuốn sách này chỉ là một phần văn bản đã được đệ trình ở Sorbonne ngày 1.6.1955. Cả một loạt những vấn đề quan trọng - mà chúng tôi sắp liệt kê ra - đã được xuất bản trong một công trình nghiên cứu được xuất hiện sau này, kèm theo những lá thư và những bản văn chưa từng được xuất bản. Những vấn đề quan trọng vừa nói, chẳng hạn như sự chuyển kiếp (réincarnation) của người "Phụ Nữ nghèo nàn" (Femme pauvre) ấy, niềm tin của Léon Bloy vào sự chuyển kiếp của nhiều người bạn ông, sự tự hào không thể lay chuyển cho rằng chính ông cũng là một nhân vật quan trọng được chuyển kiếp, sự bất hiện hữu của thời gian, thiên thần tính của Satan trước khi sa ngã, việc con người tự thần thánh hoá mình, những chủ đề về vườn địa đàng, về châu Atlantide, vế phái tính của Người Phụ Nữ đó, sự loạn luân, Thiên đường theo ngộ đạo thuyết, ngôn ngữ huyền bí, nghệ thuật Lucifer, chu kỳ bảy năm, năm hạn, Thánh Graal, sự tất yếu và tự do, hai Vực Sâu, thuyết đảo ngữ (hay nói lái, như gare thành rage), và nhiều vấn đề khác thuộc huyền bí học, cũng như hai tài liệu đầy đủ về chủ nghĩa Lucifer từ tính (luciférisme magnétique) của Éliphas Lévi, và chủ nghĩa Lucifer huyền thoại (luciférisme mythologique) của bà H.P. Blavatsky. Những vấn đề trên đã tạo nên mối quan hệ giữa Léon Bloy và những người thụ pháp (initié)".

Léon Bloy đã dẫn chúng ta vào một cảnh đầy huyền hoặc. Chúng ta hãy tiếp tục ở trong cảnh này ít lâu nữa với Giovanni Papini.

QUAN NIỆM CỦA PAPINI VỀ THIÊN CHÚA

Hai tác giả có cùng khuynh hướng về thuyết thiên cảm (illuminisme), là Léon Bloy và Papini, lại gặp nhau ở chỗ cả hai đều kiên quyết tán thành sự khôi phục của Satan vào thời cuối cùng. Vấn đề vẫn luôn luôn là "chuyển sự công bình của Thiên Chúa sang vinh quang của Ngài". Nếu Papini ít có những tư tưởng tân-ngộ-đạo (néognostique) hơn Léon Bloy, thì ông lại làm sống lại một cách kì cục một chủ thuyết lạc giáo rất cổ xưa: thần khổ thuyết (théopaschisme). Chủ thuyết này cho rằng cả Thiên Chúa cũng đau khổ nữa! Nhưng các nhà theo thuyết này thời xưa cắt nghĩa "sự đau khổ của Thiên Chúa" bằng cái chết của Con Thiên Chúa trên thập giá, trong đó có một số giải thích là đúng, còn một số khác rõ ràng là lạc đạo. Còn Papini cho rằng sự đau khổ là một trong những đặc tính căn bản nhất của bản tính Thiên Chúa. Quả thật, ông không ngần ngại viết như sau:

"Nếu Thiên Chúa là Tình Yêu, thì tất yếu Ngài phải là Sự Đau Khổ. Nếu Tình Yêu là sự hiệp thông hoàn toàn giữa người yêu và người được yêu, thì tất nhiên mọi đau khổ, mọi thử thách của đối tượng được yêu sẽ làm cho tâm hồn của chủ thể yêu xót xa đau đớn. Nếu Thiên Chúa yêu các tạo vật như người Cha yêu thương con cái mình - Ngài yêu thương chúng hơn một người cha trần thế yêu thương con cái mình rất nhiều - thì Thiên Chúa phải đau khổ, và chắc chắn Ngài phải đau khổ vì thấy những tạo vật - mà Ngài đã dùng quyền năng của mình rút ra khỏi hư không - phải đau khổ. Và nếu bản tính của Thiên Chúa là vô hạn về mọi phương tiện, thì sự đau khổ của Ngài cũng phải vô hạn, cũng như tình yêu của Ngài là vô hạn" (Papini, Le Diable, tr. 74).

Không có gì tai hại hơn sự dốt nát về thần học mà người ta nhận thấy trong những hàng chữ trên! Không biết gì về Thiên Chúa thì mới nói về Ngài bằng những lời không thích hợp như vậy. Nói như thế là đã nhân hình hoá (anthropomorphisme) Thiên Chúa tới độ không thể chấp nhận được, là gán cho Thiên Chúa những khiếm khuyết của thứ tình yêu mà chúng ta vẫn quan niệm và vẫn có.

Thiên Chúa vượt lên trên tất cả mọi phạm trù và mọi quan niệm của chúng ta. Tình yêu vô biên của Ngài có nguyên tắc của nó, có cách biểu lộ của nó. Hành vi tạo dựng đã đặt các hữu thể hữu hạn - như loài thiên thần và loài người - vào đúng chỗ của nó. Hành vi đó chỉ có thể là một hành vi yêu thương, vì Thiên Chúa không thể làm gì khác hơn những hành vi như thế. Nhưng tình yêu của các tạo vật đòi hỏi họ phải có tự do. Tình yêu đó không thể ảnh hưởng lên bản chất của Thiên Chúa chút nào cả, không thể gây biến đổi nào trong bản tính bất biến của Ngài. Nghĩ khác đi chính là lẫn lộn hữu hạn với vô hạn, tạo vật với Tạo Hoá, các hữu thể với HỮU THỂ! Tình yêu đúng với bản chất của nó nơi Thiên Chúa lại chính là Thiên Chúa. Chúng ta nhân cách hoá Tình Yêu đó thành Đấng An Ủi hay Thánh Thần, cũng như chúng ta nhân cách hoá Sự Khôn Ngoan là chính Thiên Chúa thành Ngôi Lời của Ngài. Nhưng Tình Yêu thuần tuý và vô biên này chỉ có thể là Hạnh Phúc Vô Tận, nó khai trừ hoàn toàn mọi khổ não và đau đớn. Papini đã đưa chúng ta tới những phi lý hoàn toàn trên phương diện thần học, khi ông nói tiếp:

"Chúng ta không hề nghĩ cho đủ sự đau khổ vô hạn của Thiên Chúa. Chúng ta không hề thương xót cho sự đau đớn ấy của Thiên Chúa. Phần đông những người tự nhận mình là con cái Thiên Chúa lại không hề lo lắng tìm hiểu hay an ủi những đau khổ vô hạn của Thiên Chúa. Chúng ta xin Thiên Chúa Cha những món quà, xin Ngài can thiệp, tha thứ, nhưng không có ai chia sẻ nỗi lo âu vĩnh cửu của Thiên Chúa bằng một tình cảm âu yếm của một người con sáng suốt".

Ông nhìn nhận rằng các thánh đã suy gẫm rất nhiều về thánh giá Đức Kitô, rằng các ngài muốn hiệp thông với những đau khổ của Chúa Kitô với tư cách Đức Kitô là người. Nhưng ông trách các thánh là đã gán cho những đau khổ của Thiên Chúa một "sự thể hiện quá vật chất" (épiphanie physique). Theo ông, "Thập giá chỉ là một biểu tượng hữu hạn, sờ mó được của Khổ hình Thập Giá đi trước và theo sau biểu tượng ấy".

Nói như thế, Papini không ngờ rằng ông đã đi xa hơn các nhà thần khổ luận ngày xưa rất nhiều, là những người đã bị kết án là rối đạo. Trước tiên là những người chủ trương Đức Kitô chỉ có một bản tính (monophysites ou eutychiens), vì họ cho rằng nơi Đức Kitô bản tính con người bị chìm ngập và tan biến trong bản tính Thiên Chúa, đến nỗi cả hai chỉ còn là một bản tính duy nhất. Họ nghĩ rằng có thể nói: bản tính Thiên Chúa đã chịu đau khổ trên thập giá. Nhưng Papini còn cho rằng đau khổ nằm ngay trong yếu tính của Thiên Chúa. Ông dùng thuyết lạc giáo của các nhà thần khổ để canh tân lại thuyết lạc giáo của các nhà Patripassiens hay Sabelliens (phụ nạn thuyết). Những nhà thần học này nhân danh sự duy nhất của bản thể Thiên Chúa dạy rằng Thiên Chúa Cha đã chết trên thập giá cũng như Thiên Chúa Con!

Người ta thấy tư tưởng của Papini đầy tưởng tượng lãng mạn. Ông không chỉ muốn chúng ta tin Thiên Chúa, mà còn muốn chúng ta thương xót Ngài nữa!

Đúng là đảo lộn vai trò một cách dị hợm bằng một phạm thượng bất ngờ! Vì Thiên Chúa là Tình Yêu Vô Biên, nên Ngài cũng là Hạnh Phúc Vô Biên, Ngài không cần chúng ta thương xót Ngài chút nào cả. Ngài muốn lòng trắc ẩn của chúng ta hướng về Người Con của Ngài chết trên thập giá. Ngài muốn lòng trắc ẩn của chúng ta đối với Con của Ngài không phải chỉ là hão huyền và vô bổ, nó phải đi kèm với sự hối hận đúng như những lầm lỗi của chúng ta đòi hỏi, vì nguyên nhân khiến Con Ngài phải đau khổ chính là những lỗi lầm đó, chứ không phải chỉ là sự điên rồ của Satan, hay sự phản bội của Giuđa, hay sự ghen ghét của người Pharisiêu. Nhưng tất cả những chuyện đó đều xảy ra trong trật tự của những vật hữu hạn, của tạo vật. Không có gì thuộc về hữu hạn và tạo vật lại có thể biến đổi được cái vô hạn và bất sinh bất diệt.

Papini thật là phi lý khi đề nghị chúng ta thương xót Thiên Chúa!

PAPINI VÀ LUCIFER

Ông không phi lý chút nào khi cho rằng chúng ta phải cầu nguyện cho Satan, phải xin Thiên Chúa tha thứ cho Satan, phải ý thức rằng Satan không phải chỉ là kẻ tội lỗi nhất, mà còn là kẻ đáng thương nhất!

Thật vậy, Papini nhận thấy rằng Satan là kẻ tội lỗi nhất. Nhưng theo ông, chúng ta phải thông cảm với Satan. Và một khi đã thông cảm, thì không thể nào không cảm động khi thấy kẻ tội lỗi kinh khủng này cũng là kẻ khốn khổ kinh khủng!

Mà chỉ tư tưởng này thôi cũng đủ để xoay ngược lại vấn đề, thay đổi toàn bộ tình huống. Satan tội lỗi! Chúng ta có quyền và có bổn phận lên án hắn! Nhưng Satan đau khổ, nên chúng ta có bổn phận thương xót hắn và xin Thiên Chúa tha thứ cho hắn!

Thật vậy, theo Papini, nếu Thiên Chúa yêu thương Satan vô biên trước khi hắn sa ngã - phải coi điều này là hiển nhiên, vì hắn là tạo vật đẹp đẽ nhất của Ngài - thì "Ngài lại không thương hắn hơn thế nữa khi hắn trở nên kẻ khốn khổ và tuyệt vọng nhất trong số tất cả những kẻ khốn khổ sao?".

Người ta thấy trong lập luận đó có nguỵ biện. Lập luận đó là: Thiên Chúa yêu thương những kẻ khốn khổ, mà Lucifer là kẻ khốn khổ nhất, nên Thiên Chúa phải thương hắn hơn tất cả những người khác!

Lương tri đơn giản của con người có thể trả lời rằng Thiên Chúa yêu thương những kẻ khốn khổ khi họ không đáng phải chịu khốn khổ, hay chính họ không muốn chịu khốn khổ, hay khi họ biết biến sự khốn khổ đó thành một hành vi yêu thương, và hành vi yêu thương cao cả nhất là hành vi của Đức Kitô đã làm trên thập giá! Phải, Thiên Chúa yêu thương vô hạn Đức Kitô của Ngài trên thập giá! Nhưng làm sao Thiên Chúa có thể yêu thương được kẻ đã chọn hận thù thay vì yêu thương, phản loạn thay vì vâng phục, kiêu ngạo thay vì khiêm tốn? Đó là chuyện không thể xảy ra, cũng không thể quan niệm được!

SỰ KHỐN KHỔ CỦA SATAN CÓ THỂ CHỮA LÀNH ĐƯỢC KHÔNG ?

Papini yêu cầu chúng ta thương xót Satan vì hình phạt hắn phải chịu. Ông đã giả thiết: những người theo thần học chính thống như chúng ta đã dạy rằng trước một Thiên Chúa đang thịnh nộ và không thể nguôi giận được, trước một Thiên Chúa cố chấp trong sự công bình của Ngài, có một Lucifer đáng thương kia rất khốn khổ, rất muốn được tha thứ, nhưng Thiên Chúa lại từ chối không chịu tha thứ cho hắn nếu chúng ta không cầu xin Ngài điều đó.

Papini chủ trương như thế thì cũng giống như Léon Bloy, nhưng tính chất ngông của tân ngộ đạo thuyết ít hơn, tính huyền hoặc cũng ít hơn. Tất cả đều đơn giản hơn rất nhiều. Chính Papini cũng biết điều đó, vì ông đã mô tả nỗi thống khổ của Satan như sau:

"Hình phạt mà Lucifer phải chịu hết sức khủng khiếp, đến nỗi không một thần thánh hay người nào có thể quan niệm được: hắn không yêu thương nữa, không còn khả năng yêu thương ai được nữa, hắn bị đóng đinh và bị nuốt vào trong bóng tối vô tận của sự vắng bóng tình thương và của hận thù... Trên trái đất này, không có một tên bất lương nào bị nguyền rủa như hắn, nguyền rủa tới mức độ không bao giờ hắn có được một tâm tình thúc đẩy, một ánh sáng hy vọng mờ nhạt nhất. Những ánh sáng dù mong manh nhưng vô giá ấy Lucifer không bao giờ có được" (Sách đã dẫn, tr. 77. Chúng tôi gạch dưới những điều muốn nhấn mạnh).

Papini đã nhìn thấy cái lý do chủ yếu khiến hoả ngục trở thành vĩnh cửu. Thỉnh thoảng người ta đặt vấn đề: "Làm sao chấp nhận được một lỗi lầm phạm trong khoảnh khắc lại có thể bị phạt đời đời?" Hỏi như thế là chưa hề biết lý thuyết của Giáo Hội và Hoả Ngục. Lầm lỗi phạm trong giây lát không bao giờ bị phạt đời đời trong hoả ngục cả, vì đó là một lỗi lầm được hối hận ngay sau đó, và bị xoá bỏ vì sự ăn năn của chính người phạm lỗi, hay đúng hơn vì tình thương vô hạn của Thiên Chúa. Chỉ có tội lỗi vĩnh cửu mới phải chịu hình phạt vĩnh cửu. Lucifer chỉ biết có hận thù, ai cũng biết điều đó! Không những hắn không thể làm gì khác hơn, mà hắn cũng không muốn gì khác hơn là hận thù. Mà hận thù chính là lầm lỗi vô tận của hắn, và cũng là nguyên nhân trầm luân vô tận của hắn.

Vả lại, lòng hận thù vô tận đó cũng chính là sự kết án vô tận. Hoả ngục không phải là một cái gì được thêm nữa - có thể nói như vậy - vào cái lầm lỗi mà hắn đang bị ràng buộc một cách nội tại do sự thế phải vậy. Lucifer không thể không khốn khổ, cũng như hắn không thể không hận thù. Khi không thể yêu thương nữa, thì hắn đã tự bít lại vĩnh viễn cho mình con đường hối cải. Nơi Léon Bloy, chúng ta cũng thấy sự sai lầm đó. Chúng tôi tự hỏi: Theo các ông, làm sao một người tự bản chất là Không-Tình-Thương lại có thể trở thành chính Tình Thương, tức Đấng An Ủi, và Đấng này không ai khác hơn là Chúa Thánh Thần? Đó là sự đảo lộn sự vật mà chỉ có những người tưởng tượng mất thăng bằng mới có thể chấp nhận được thôi. Nơi Papini, sự quái đản đó nhỏ hơn. Ông không đi tới chỗ đồng hoá Lucifer với Đấng An Ủi - đó là một phạm thượng ghê tởm - nhưng ông muốn rằng hình phạt về lòng hận thù đối với Lucifer phải được Tình Yêu Vô Biên cảm nghiệm thấy cũng như chính kẻ có tội đang cảm thấy. Dựa trên đó, ông đề nghị chúng ta thương xót Thiên Chúa bằng cách thương xót Lucifer.

Trong số những con quỷ mà những vị trừ quỷ của chúng ta đã chất vấn, ít nhất có một con quỷ đã kêu lên: "Đặc biệt ta không muốn cho con người thương hại ta!".

Thật vậy, Satan không muốn chúng ta thương hại hắn đâu! Cuốn sách của Papini cho thấy ông đã gây cho ma quỷ một nỗi khổ tâm nhất: đó là nỗi khổ bị thương hại bởi những kẻ có thể chết được như chúng ta, thấp kém hơn hắn rất nhiều!

Giải pháp mà Papini đề nghị, vì thế, không có căn bản chút nào. Nó được xây dựng trên một quan niệm sai lầm về bản tính thiên thần. Cũng như ông đã quan niệm sai lầm từ căn bản về bản tính Thiên Chúa khi cho rằng bản tính đó có thể đau khổ được. Cũng như ông đã quan niệm sai lầm từ căn bản về bản tính thiên thần, nên cũng sai lầm về bản tính ma quỷ, vì ông giả thiết bản tính đó giống như bản tính loài người, là bị lệ thuộc vào sự thay đổi và sự khác nhau trong những quyết định và lựa chọn của mình.

Sự khôi phục vào thời cuối cùng của những kẻ bị trầm luân là một vấn đề thường được bàn cãi sôi nổi vào thời đại chúng ta. Trong đó, hầu hết các thần học gia Tin Lành đều chủ trương thời gian trừng phạt ở Hoả Ngục có giới hạn. Để kết thúc vấn đề này, chúng tôi xin trưng dẫn một trang sách rất đúng đắn của Jean Guitton mới xuất bản đây. Ông viết:

"Cái ý niệm soi sáng và làm nền tảng cho niềm tin Kitô giáo về sự vĩnh cửu của hoả ngục, đó là: sự thất bại của kẻ gian ác phải là thất bại toàn diện. Ở đây tôi gọi là gian ác, kẻ nào chọn lựa sự ác vì đó là sự ác, một cách sáng suốt, tự do, và kiên trì với chọn lựa đó cho tới cùng. Mà, mọi sự xấu hổ và đau khổ dù lớn đến đâu, nếu có tính thời gian, thì sẽ có lúc phải tiêu tan đi. Nếu kẻ gian ác không bị tồn tại vĩnh cửu trong điều ác mà hắn đã chọn lựa, thì chính hắn sẽ là kẻ chiến thắng thật sự. Nếu thế thì cuối cùng hắn sẽ có quyền nói với Thiên Chúa: 'Ngài thấy đó, tôi đã hoàn thành một việc khó. Chính tôi là kẻ can đảm nhất, kiên nhẫn nhất. Sự cao cả và thi vị của đau khổ là chính tôi, chỉ một mình tôi thôi, là người đã giới thiệu, trình bày sự cao cả và thi vị đó trong suốt cuộc thương khó lâu dài của tôi, là người không phải chỉ đau khổ có một ngày. Thực ra, tôi đã có lý do khi chọn điều ác, là điều đã đem lại cho tôi biết bao giây phút vô tận. Chính tôi là người khéo léo nhất, chính tôi là người cao cả nhất. Sự đền tội của tôi đã chấm dứt. Vì thế tôi sẽ có lý do cho đến đời đời, và trước mặt Ngài 'ai có thể sánh được với chúng tôi!''" (Trong Revue de Paris, tháng mười hai năm 1958. Jean Guitton, La Vie éternelle).

Trong chương cuối cùng, chúng ta hãy nghiên cứu sơ lược về tính tình của ma quỷ, và thử đưa ra một cái nhìn tổng quát, thế nào thì thế, về Tâm lý của Satan.

GHI CHÚ

Những trang dành cho Léon Bloy ở trên đã gây phản kháng mạnh mẽ nơi các ông Van der Meer de Walcheren hiện là linh mục Dom Pierre Matthias, và ông Bisson, một hoạ sĩ vẽ tranh tôn giáo được ưa chuộng, cả hai ông đều nhờ Léon Bloy mà trở lại Kitô giáo. Họ cho rằng những đoạn văn bị kết án của Léon Bloy đã bị ông R. Barbeau chú giải một cách sai lạc trong cuốn sách mà chúng tôi đã trưng dẫn. Thật vậy, theo một nguồn tin có thẩm quyền cấp cao ở Rôma, thì các tác phẩm của Léon Bloy đã bị đưa ra trước toà án của Toà Thánh, và Đức Hồng Y Billot cho biết chúng không bị kết án, vì lý do poetice loquitur - ông ta nói với tư cách thi sĩ. Cuốn sách của Papini về ma quỷ không bị kết án cũng vì lý do đó. Vậy chúng ta cũng đừng nên nghiêm khắc hơn Toà Thánh.

CHƯƠNG XII

TÂM LÝ CỦA SATAN

NHỮNG PHÂN BIỆT CẦN THIẾT

Khi nói về Satan thì điều không nên quên là: Satan chỉ có một, còn các con quỷ thì vô số. Nhưng trong cuốn khảo luận này, chúng tôi ít nhiều cũng đã đối xử với Satan như thể tất cả mọi con quỷ đều giống như hắn, như thể thủ lãnh hoả ngục và quân binh của hắn có thể thay đổi lẫn nhau được. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy trong số những con quỷ nhập vào người này hay người kia trong các trường hợp quỷ nhập, người ta gặp những danh hiệu khác không phải là Satan, như Isacaron, Isabô, Asmodée, ... Những danh hiệu này không hoàn toàn đồng nghĩa với Satan. Trong bài tiểu luận về tâm lý ma quỷ này, sự kiện đầu tiên cần phải nhận thấy, là các con quỷ khác biệt nhau, giống như nơi con người: người này khác người kia. Không bao giờ có hai con giống hệt nhau cả. Và chúng cũng không luôn luôn đồng ý với nhau. Chúng ta đã thấy ở Perpignan, con quỷ chiếm hữu Antoine Gay là Isacaron đã gây lộn một cách giận dữ với con quỷ chiếm hữu Chiquette.

Trong trường hợp người phụ nữ bị thư ếm ở Plaisance, chúng ta thấy: bên cạnh Isabô còn có 6 con quỷ khác với những tên gọi kỳ cục. Nhưng dường như Isabô không quan tâm gì đến những con quỷ đó cả.

Muốn hiểu tâm lý Satan, điều trước tiên là phải phân biệt thủ lãnh với thần dân của hắn.

SATAN VÀ ÔNG BÀ NGUYÊN TỔ CỦA CHÚNG TA

Chúng ta chắc chắn rằng Con Rắn đã cám dỗ bà Eva chính là Satan. Con Rắn là Con Rồng ở trong sách Khải Huyền. Và Con Rồng chính là Satan hay Lucifer.

Chúng ta có thể suy diễn từ danh từ Con Rắn ra những gì liên hệ tới "não trạng" của Satan không?

Đặc tính thứ nhất: "Trong các loài thú sống ngoài đồng, thì Con Rắn là con quỷ quyệt nhất" (St 3,1). Không thể nghi ngờ gì về điều này. Satan nổi danh về những quỷ kế của hắn. Từ ngữ đó là gì? Quỷ kế là "mưu mô khéo léo để lường gạt". Ai hành động bằng mưu mô, bằng quỷ kế, là có ý hướng xấu. Nếu hắn nói thì không phải là để nói sự thật, mà để lường gạt, để làm người ta hiểu sai. Satan là giả mạo, là dối trá. Người ta không thể tin cậy, phó thác nơi hắn. Điều mà hắn thiếu nhất là sự ngay chính, thành thật, thẳng thắn. Hắn luôn luôn mờ ám. Hắn cố tình tỏ ra khó hiểu, dấu diếm. Khi suy gẫm cuộc đối thoại giữa hắn với bà Eva, người ta ngạc nhiên một đằng vì sự đơn sơ, ngây thơ của bà, đằng khác vì sự tinh vi, bạo dạn và vô liêm sỉ của Satan. Hắn giải thích sự phòng thủ của Thiên Chúa theo cách riêng của hắn.

Hắn chối không chịu nhận rằng sự phòng thủ đó là chính đáng, không nhận rằng việc vi phạm sự phòng thủ đó có thể gây ra những hậu quả xấu nghiêm trọng. Bà Eva nói với hắn rằng ai ăn quả ở cây mà Chúa đã cấm đụng đến sẽ bị phạt chết. Satan - dưới lốt rắn - trả lời thế nào?

"Không phải vậy đâu! Ông bà không chết đâu! Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào ông bà ăn trái đó thì mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ trở nên như Thiên Chúa, biết được điều lành điều dữ!".

Satan không chỉ đưa ra một phủ nhận về Thiên Chúa, mà còn tố cáo Ngài hành động như một kẻ thù của con người, như một tên bạo chúa không muốn cho "mắt của họ mở ra". Hắn còn làm cho niềm mong ước của hắn trỗi dậy trong tâm trí con người: "Ông bà sẽ trở nên như Thiên Chúa".

Qua lời này, Satan đã để lộ điều bí mật của hắn, nguyên nhân phản loạn của hắn, vì lý do sa ngã của hắn: "Muốn trở nên như Thiên Chúa". Hành vi kiêu ngạo này chính là nền tảng cho tâm lý của Satan!

Làm sao một tạo vật có trí tuệ sáng như vậy lại có thể đi tới một tình trạng tinh thần ngu xuẩn như thế? Chúng ta không biết gì về đời sống của các thiên thần trước khi Satan sa ngã. Có thể trong thế giới của các thiên thần, có rất nhiều thiên thần hâm mộ hắn. Điều đó khiến chúng ta giả thiết rằng hắn đã lôi kéo về phe hắn "một phần ba các ngôi sao trên trời" tức là các thiên thần. Sự việc có nhiều thiên thần khác hâm mộ hắn là "sự thử thách" của Satan. Hắn đã thất bại trong cuộc thử thách đó, vì hắn lại tự đề cao chính mình. Tất cả những gì chúng ta biết được về tính kiêu ngạo của con người, giúp chúng ta đi đến phỏng đoán đó. Tính kiêu ngạo này đã gợi cho hắn sáng kiến nói với bà Eva câu này: "Ông bà sẽ trở nên như Thiên Chúa". Trong vụ sa ngã của hắn, chính hắn đã tự coi mình như Thiên Chúa. Tính kiêu ngạo của hắn không chết.

Chính sự kiêu ngạo khiến hắn xa rời Thiên Chúa và biến hắn thành Kẻ Đối Thủ. Trong sách Huấn Ca, hậu quả của sự kiêu ngạo đó được đặt nổi bật lên rõ rệt. Trong đó chúng ta đọc thấy:

"Lề thói của kẻ kiêu ngạo là lìa xa Chúa và để trái tim nó xa rời Đấng Tạo Hoá, vì lề thói của kẻ kiêu ngạo là tội lỗi, kẻ nào say mê tội lỗi thì gieo rắc sự kinh tởm". (Hc 10, 12-13).

Cuối cùng, với sự xa cách Thiên Chúa đó, người ta thấy trong tâm lý của Satan dưới lốt Con Rắn cám dỗ, có sự ghen ghét đối với con người, được giấu ẩn dưới vẻ thân thiện!

Hắn muốn lường gạt người đàn bà, và dùng nàng để lường gạt người đàn ông. Hắn đối lập lời của hắn với lời của Thiên Chúa. Hắn làm cho họ hoa mắt lên vì cái giấc mơ phi lý và tại hại này: "Ông bà sẽ trở nên như Thiên Chúa". Tuy nhiên hắn biết rằng chính nhờ điều ấy mà hắn đã đưa được sự chết vào trong nhân loại.

Từ đó, chúng ta hiểu rằng: Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã định nghĩa Satan là cha của dối trá, là kẻ giết người ngay từ nguyên thuỷ. Đối với chúng ta, không hể quá đáng khi nói rằng từ ngữ kẻ giết người chỉ đưa ra một khía cạnh của chân lý toàn diện này: Trên tất cả, Satan là kẻ giết Thiên Chúa!

Sau khi cám dỗ Đức Kitô thất bại, chính hắn đã không ngừng đưa Ngài tới chỗ chết! Bằng cách nhập vào tâm hồn Giuđa, hắn chính là đạo diễn của cái thảm kịch kết thúc ở đồi Canvê ấy!

KẺ CÁM DỖ ĐỨC KITÔ

Tất cả những chuyện gì chúng ta vừa khám phá ra được về Satan đều được thể hiện rõ ràng trong ba lần hắn cám dỗ Đức Kitô. Thật không có một kiêu ngạo nào điên rồ hơn lời Satan nói với Đức Kitô lúc hắn cho Ngài thấy bằng tâm trí với tất cả những vương quốc trên trái đất: "Nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó!". Cái cốt lõi sâu xa trong tham vọng của Satan là "tước đoạt của Thiên Chúa những kẻ đang thờ phụng Ngài, và hướng sự thờ phụng của con người về với hắn!". Đúng là điên rồ! Tuy nhiên, như chúng tôi đã nói, lịch sử các tôn giáo là một bằng chứng cho thấy Satan đã thành công rất lớn trong việc làm cho người ta thờ phụng hắn thay vì thờ phụng Thiên Chúa!.

Và nếu con người thời nay không thờ phượng đích danh Satan nữa, thì hắn cũng đã hoạt động và thúc đẩy để con người không còn thờ phượng Thiên Chúa nữa! Hắn không còn hướng việc thờ phượng của con người vào những vị thần trong huyền thoại nữa, mà hướng tới những "vị thần" mới, do lòng kiêu ngạo của con người sáng tạo nên: Khoa Học, Tiến Bộ, Kỹ Thuật, Vật Chất! Như chúng tôi đã nói ở trên, sự chinh phục thế giới đang làm cho tâm hồn con người hư mất! Đó chính là chiến thắng của Satan trong sự thù ghét Thiên Chúa và con người!

Tóm lại: lòng kiêu ngạo, ý chí muốn mình trở thành thần linh, tính quỷ quyệt, lòng ghen tương và sự thù ghét đối với con người, tất cả những cái đó đã dẫn tới sự dối trá, giết người, giết Thiên Chúa. Đó là Satan!

Hiện tại, nếu chúng ta muốn tìm gặp Satan, chắc chắn chúng ta sẽ không gặp thấy hắn trong đám những con quỷ tối tăm và không quan trọng nơi những người bị quỷ nhập hoặc bị quỷ quấy nhiễu, mà sẽ gặp thấy hắn trong đường lối chính trị lớn của thế giới. Satan ở tại trung tâm những cơ cấu giết người hàng loạt, mà cụ thể có thể là cuộc thế chiến thứ ba có lẽ sẽ xảy ra. Chúng ta có thể chắc chắn rằng chính hắn là kẻ đang đạo diễn trong cuộc chiến tranh lạnh, đang gieo rắc ngờ vực giữa các dân tộc, khiến dân tộc này chống lại dân tộc kia, gây nên những cuộc bách hại những người theo Chúa Kitô, áp đặt cái ách phi nhân bản của hắn lên những quốc gia theo chủ nghĩa vô đạo, và sẵn sàng châm ngòi cho những trái bom đã được kỹ thuật hiện đại nhất hoàn chỉnh để thực hiện cái tai hoạ cuối cùng cho nhân loại!

Tâm lý của Satan: vừa có tính cách đại qui mô vì hắn chi phối được toàn cầu, vừa bi thảm vì hắn chủ trương huỷ phá tất cả, vừa có tính tội lỗi vì hắn làm cho người ta xa lìa Thiên Chúa là ánh sáng và sự sống.

Theo những bản văn nói về Léon Bloy mà chúng tôi đã trích dẫn ở chương trước, thì ông ta đã không quá đáng khi nói rằng nếu con người không thể nhìn thấy Satan đúng như bản chất của hắn, thì con người sẽ bị điên đảo vì hắn!

NHỮNG CON QUỶ TRONG TIN MỪNG

Nếu chúng ta không thể nói gì về mức độ độc ác và quyền năng của Satan, thì cũng vậy, chúng ta cũng không thể nói về những chuyện đó của những con quỷ ở dưới lệnh của hắn. Cái đám đông vĩ đại ấy đang cống hiến cho hắn tất cả mọi khả năng thông minh hướng về điều ác thuộc đủ mọi trình độ của mình.

Khi phân tích những dữ kiện trong Tin Mừng về những người bị quỷ nhập được Chúa Giêsu chữa lành, Đức Cha Catherinet đã tìm thấy trong đó những đặc tính tâm lý của những con quỷ như sau. Ngài viết:

"Tất cả những tính chất như sợ hãi, khúm núm, có quyền phép, bất lương, hay thay đổi, thậm chí thô lỗ, đều được tỏ lộ ra rõ ràng trong bài tường thuật của Tin Mừng về những người bị quỷ nhập ở Gérase, và chúng ta cũng thấy được những tính chất đó với nhiều mức độ khác nhau trong những trình thuật khác của Tin Mừng về việc trừ quỷ".

Đức Cha cũng ghi chú thêm:

"Cái khía cạnh tức cười, tầm thường và bất lương này trong những trường hợp quỷ nhập, cũng được gặp thấy trong những tường thuật của sách Công Vụ, đặc biệt đoạn 19,13-17. Đoạn này nói về câu chuyện ở Êphêsô, có một số "thầy trừ quỷ dạo người Do Thái thử kêu cầu danh hiệu Giêsu trên những người bị quỷ nhập xem sao. Họ là bảy người con trai của ông Seévas nào đó, làm thượng tế trong đạo Do Thái. Tại hoạ liền đến với họ, vì một ngày đẹp trời kia, một trong những người bị quỷ nhập đó trả lời họ: "Ta biết Đức Giêsu, ta biết Phaolô là ai. Nhưng ta không biết các ngươi là ai". Và người bị quỷ nhập đó xông vào họ, thắng được cả bọn, đánh họ một trận nhừ tử đến nỗi phải trần trụi trốn ra khỏi nhà đó, mình mẩy đầy thương tích!".

Khác với Satan, đặc trưng của những con quỷ này dường như có sự mâu thuẫn, vì chúng lần lượt thay đổi những đặc tính đó, hết đe doạ tới luồn cúi, hết kiêu ngạo đến sợ hãi, nhưng luôn luôn vô liêm sỉ, thô lỗ và tầm thường!

MA QUỶ THỜI JEAN CASSIEN VÀ THỜI NAY

Để mô tả sơ lược về thế giới ma quỷ, chúng ta không thể bỏ qua bài mô tả trong cuốn Conférences (các bài giảng) của Jean Cassien, nói về cha Serenus, một trong những vị ẩn tu ở sa mạc. Cha Serenus nói về những kinh nghiệm của cha và của những cha khác đã có dịp đọ sức với ma quỷ. Cassien viết:

"Theo cha Serenus, chắc chắn là những thần xấu cũng có những sở thích khác nhau y như loài người. Thật vậy, những thần xấu mà người bình dân thường gọi là "ma-cà-rồng" (vagabond), nhất là những con hay cám dỗ và thích làm trò hề, chúng thường ở một số nơi nào đó, trên một số con đường nào đó. Chúng thích gạt gẫm những người mà chúng gặp hơn là thích làm cho họ đau khổ. Chúng cảm thấy thích thú khi làm họ mệt vì những trò chơi của chúng hoặc vì những ảo ảnh do chúng gây ra, chứ không cố ý hại họ..." (Sđd, tr.139)

Cha Serenus còn kể ra nhiều tính nết của chúng, mà chúng ta chỉ cần nhớ nét cốt yếu này: "Chúng thích gạt gẫm người ta".

Nhưng chúng cũng thích sỉ nhục, đe doạ, và làm cho người ta sợ. Với những người mà chúng muốn quấy nhiễu, chúng thường tạo ra "cuộc chiến tranh lạnh" theo cách của chúng, nhưng Thiên Chúa không cho phép chúng gây nhiều đau khổ cho họ.

Trong những quấy nhiễu của ma quỷ tại Ars và Lộ Đức, ma quỷ cũng hành động như thế. Con Quỷ Cào Sắt của cha sở Ars không tỏ ra nguy hiểm, chắc chắn vì, theo cách nói của thánh Augustin đã được trưng dẫn trước đây, "con chó đã bị xích lại rồi". Nó có thể sủa, hoặc chỉ cắn những ai lại gần nó quá! Những người như Boullan hay Léon Bloy đã bị cắn thật đau, nhưng đó là do lỗi của họ. Cả cha sở họ Ars, cả Bernadette, không ai phải đau khổ quá nặng nề vì ma quỷ quấy nhiễu cả!

Đối với loài người, tên cám dỗ tỏ ra có những nét mà chúng tôi vừa nói: quỷ quyệt, dối trá, ám ảnh, ít nhất là theo từng giai đoạn, nhưng nó không có khả năng chống lại đức tin: "Cui resistite fortes in fide! - Hãy đứng vững trong đức tin mà chống lại nó!" Thánh Phêrô yêu cầu chúng ta như thế.

THÁI ĐỘ CỦA MA QUỶ ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI TRỪ QUỶ

Để kết thúc chương này, chúng tôi nghĩ nên trích dẫn bức thư sau đây do một vị trừ quỷ xuất sắc đang thi hành công tác trừ quỷ, đó là cha Berger-Bergès. Cha viết cho chúng tôi ngày 17.2.1959:

"Đức Cha hỏi tôi: khi bị trừ quỷ thì tâm lý của Satan thế nào? Tôi xin trả lời Đức Cha bằng lá thư này:

Dù nguyên nhân của trường hợp quỷ nhập là gì đi nữa, thì trong đó thường có một mầu nhiệm không thể hiểu thấu. Cần phải xác định và tóm tắt tâm lý của Satan bằng những từ này: Kiêu ngạo, khinh thường nạn nhân, dai dẳng theo đuổi.

Kiêu ngạo khiến cho Satan cảm thấy hết sức đau khổ và nhục nhã vì những nghi thức trừ quỷ trong sách Các phép Rôma. Vì thế, ngay từ đầu buổi trừ quỷ, nó đã có những lời hay những thái độ thay phiên nhau xảy ra là sợ hãi, bị sỉ nhục, ngao ngán. Vì thế, nó đã tìm cách trốn đi bằng cách vặn vẹo, uốn éo thân mình một cách dữ tợn, đến nỗi những người có mặt ở đó phải trói chặt người bị quỷ nhập lại, hoặc phải khống chế y bằng đôi tay vững chắc. Vì thế, khi Satan phải phủ phục xuống đất, cuộn người lại, bất lực, nó mới thốt ra những lời tức giận này:

'Ta không muốn người ta thấy điều đó! Ta không muốn người ta thấy ta như thế này!'

Vì thế, nó mới lên mặt phạm thượng và ngạo mạn, thái độ đó khiến nó nói: 'Này Thượng Đế! Tôi không sợ ông đâu!... Chính ta là chủ tể đây!... Ta là chủ tể thế giới!...'

Khi nó cố bẻ gãy cây thánh giá mà vị linh mục đặt trên ngực nó mà không được, điều đó khiến nó phải nói: 'Ông Giêsu đừng làm cho nó gãy nhé!'

Bằng một nụ cười quỷ quái mà ai trừ quỷ cũng đều biết rõ, Satan gọi Chúa Giêsu là 'Con Rối ở trên thập giá!... Tên Tử tội trên cây gỗ!...'

Quyền năng của phép trừ quỷ làm tính kiêu ngạo của nó bị tổn thương, khiến nó đâm ra thù ghét tôn giáo. Và điều rất lạ lùng - cần phải nhấn mạnh - là sự thù ghét đó phải ngừng lại một cách bất lực trước danh hiệu và con người của Đức Trinh Nữ Maria, và nhiều lần Satan bị bó buộc phải tuyên xưng nguyên văn như sau:

'Chính là người quyền năng nhất!... Tôi không làm gì chống lại Bà được, hỡi Bà đầy quyền năng!... Chỉ vì Bà mà tôi không làm gì được!... Và người ta bắt buộc tôi phải nói lên điều đó!...'. Người ta ở đây chính là Thiên Chúa!

Không bao giờ, không bao giờ Satan dám sỉ nhục Đức Trinh Nữ, nhưng nó không quên tìm cách tống khứ cuốn sách trừ quỷ, tức sách Các phép. Ít nhất có một lần nó nói với tôi rằng sách Các phép đã làm nó phải chịu đựng một hoả ngục thứ hai. Cuốn sách Các phép mà vị linh mục cầm trong tay có lần đã đốt cháy bàn tay của nó, khi nó thình lình giằng lấy cuốn sách đó trong vòng một giây... Và nếu có thể thì nó cũng sẽ tống khứ cả vị linh mục trừ quỷ. Thật vậy, nó bị bó buộc phải tuyên bố một cách giận dữ:

'Với ngươi, ta đành phải chịu như vậy! Vì ngươi có những người ở bên trên phù hộ ngươi, bảo vệ ngươi... nếu không, ta sẽ bóp chết ngươi từ lâu rồi!...'

Thưa Đức Cha, Đức Cha đã đoán đúng, các độc giả của Đức Cha cũng đoán đúng, rằng tất cả những chi tiết đó đều được ghi lại đầy đủ trong tập tài liệu của con, với những chi tiết chính xác khiến Satan phải khó chịu, thậm chí còn cảm thấy nặng nề nữa. Nó đã từng kêu lên ít nhất là một lần với con: 'Ôi chao, những tài liệu của ngươi, nếu có thể, ta sẽ ném tất cả những thứ đó của ngươi vào lửa!'.

Thưa Đức Cha, như con đã nói với Đức Cha, cần phải ghi nhận một điểm trong tâm lý Satan là: ngoài tính kiêu ngạo, nó còn tỏ ra một sự khinh thường thật dễ ghét và thô bỉ đối với nạn nhân của nó trong thời gian trừ quỷ. Sở dĩ nó có thái độ này đối với người bị nó nhập vào, là vì nó thấy người ấy là một đối thủ hay một người thay thế chỗ của nó trên thiên đàng, nơi mà nó đã bị trục xuất vĩnh viễn cùng với đồng bọn của nó. Và khi vị trừ quỷ gọi nó là 'Đồ khốn kiếp! Đồ bị nguyền rủa!' thì nó phản ứng ngay tức khắc bằng sự im lặng và buồn bã bi thảm tới mức gây ấn tượng. Sự buồn thảm này sẽ biến thành lòng thù hận và sự hung tợn đối với nạn nhân của nó'.

Những người chứng kiến những cảnh đau thương luôn luôn gây ấn tượng ấy, và vị linh mục trừ quỷ đã trông thấy người bị quỷ nhập lăn xuống đất, cuốn người lại trên mặt đất trong những cơn đau khủng khiếp, và bắt buộc phải tránh những đòn mà Satan dùng để trả đũa một cách độc ác. Sự độc ác này đôi khi khiến cho vài người chứng kiến phải đi chỗ khác để khỏi phải nhìn những cảnh hết sức đau thương.

Dĩ nhiên trong khi xảy ra những cảnh độc ác đó, thì việc trừ quỷ vẫn tiếp tục hết buổi này tới buổi khác, đôi khi kéo dài hai tiếng, ba tiếng, thậm chí tới bốn tiếng, khiến vị trừ quỷ mệt nhọc không thể ngờ được, vì vị linh mục không chịu nhượng bộ Satan cho tới khi nào nó bị sức mạnh của sách Các phép chiến thắng và chế ngự được nó, khiến nó dần dần bị kiệt sức, rồi bỗng nhiên khuỵu xuống, đầu sát đất, và bằng một giọng hổn hển nó thốt lên những lời bất ngờ:

'Thôi! Đủ rồi! Xin thương tôi! Xin thương tôi! Hãy để tôi ra đi!'

Với quyền năng trả đũa và thống trị của phép trừ quỷ trong Giáo Hội, người ta chờ đợi được nhìn thấy Satan đầu hàng kể từ lúc đó, và ra dấu hiệu cho biết người bị quỷ nhập đã được giải phóng. Người ta tự nhủ rằng rốt cuộc người đó, anh đó hay chị đó, đã được giải phóng rồi! Nhưng niềm tin và sự hy vọng của dân chúng bị chưng hửng khi biết rằng Satan vẫn còn trong nạn nhân, nó vẫn dai dẳng bắt buộc Giáo Hội và vị trừ quỷ phải can thiệp nhiều lần nữa. Chính điểm này khiến chúng ta phải lập lại lời Thánh Phaolô:

'Ai biết được những đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa? Ai hiểu được những mầu nhiệm không thấu của Ngài?'

Thưa Đức Cha, còn người đang viết cho Đức Cha những dòng chữ này, đã hơn 5 năm nay, vẫn tiếp tục không ngừng cầm sách Các phép trong tay để đương đầu với Satan. Người đó vẫn không ngừng lập lại cho những ai đang bị quỷ nhập, đang bị Con Thú hành hạ đau khổ lời này: 'Hãy tin tưởng! Hãy vững tâm! Hãy tin vào sức mạnh, có thể chậm nhưng hữu hiệu, của quyền năng trừ quỷ trong Giáo Hội. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Đức Trinh Nữ, là Đấng đã chiến thắng Satan, và hãy chờ đợi giờ phút của Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến!'"

HẾT

CÁM ƠN CÁM BẠN ĐÃ QUAN TÂM THEO DÕI

HẸN GẶP CÁC BẠN Ở MỘT CHỦ ĐỀ KHÁC

Chữ ký của josviet: Tất cả là hồng ân.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: