Chuong 8
Vào Vương động, Nhạc Lâm được xe duyên
Xuống âm phủ, Hà Lập thấy quả báo
Ngồi giữa Nhân An điện, Miêu Vương sải tả hữu dẫn Nhạc Lâm vào. Nhạc Lâm đứng hiên ngang không chịu quỳ.
Miêu Vương hét lớn:
- Mi là loài mao trùng ở đâu dám đến đây giết chết tướng tiên phong của ta. Nay đã bị bắt sao không quỳ xuống còn đợi gì nữa?
Nhạc Lâm cười gằn:
- Ta đây đường đường con một vị Nguyên soái, há chịu quì lụy loài hóa ngoại Miêu nhân sao? Hãy giết ta đi chớ có nhiều lời.
Miêu Vương hỏi:
- Cha ngươi là Nguyên soái nào mà ngươi dám khoe khoang trước mặt ta?
Nhạc Lâm nghiêm giọng, đáp:
- Cha ta là Thiếu Bảo Võ Xương Khai Quốc Công Nhạc Phi đại Nguyên soái, ai nghe tên người mà chẳng biết?
Miêu Vương lại hỏi:
- Có phải Nguyên soái Nhạc Phi là người đánh quân Kim tại Châu Tiên trấn đó không?
- Đúng.
Ngươi là con thứ mấy của Nhạc Nguyên soái, đến đây làm gì?
Nhạc Lâm đáp:
- Ta là con thứ tư, tên Nhạc Lâm. Cha và anh cả của ta đều bị gian thần Tần Cối hãm hại, nay gia quyến ta đều bị đày ra đây.
Miêu Vương nghe rõ đầu đuôi liền bước xuống mở trói cho Nhạc Lâm và nói:
- Té ra công tử của Nhạc Nguyên soái đây mà tôi không biết.
Sau khi mời Nhạc Lâm ngồi, Miêu Vương hỏi:
- Chẳng hay vì cớ gì lệnh tôn lại bị gian thần hãm hại như vậy?
Nhạc Lâm thuật lại đầu đuôi mọi việc rồi khóc rống lên. Miêu Vương nói:
- Ta đây cũng đâu phải người nào xa lạ, chính là Hóa Ngoại Miêu Vương Lý Thuật Phủ đây, ngày trước ta có gặp lệnh tôn tại Châu Tiên trấn, người có hứa với ta sẽ bảo tấu với Hoàng Đế đặng phong vương cho ta, chẳng dè người bị gian thần hãm hại, thật đáng tiếc thay, đáng giận thay!
Ngừng một lát, Miêu Vương tiếp:
- Nay công tử đã đến đây, sẵn ta có một đứa con gái ý muốn gả cho công tử, vậy công tử chớ nên từ chối.
Nói rồi truyền kẻ tả hữu đưa Nhạc công tử vào trong ra mắt nương nương, một mặt sai sắm sửa trang hoàng trong ngoài cho tươm tất để đêm nay Nhạc công tử thành thân với công chúa.
Nhạc Lâm vội năn nỉ:
- Đại Vương đã thương tình, tôi rất lấy làm cảm động, song thù cha và anh chưa trả được, vậy xin hãy cho tiểu tử về thưa lại với mẫu thân rồi sẽ đến đây thành thân mới được.
Miêu Vương nói:
- Anh em công tử cũng đông, vậy công tử hãy ở lại đây với ta để khỏi bị gian thần hãm hại chẳng là hay hơn sao?
Nhạc Lâm cứ từ chối hoài, Miêu Vương chẳng nói thêm nữa cứ việc thúc quân đưa Nhạc Lâm đi thẳng vào trong.
Miêu Hầu trông thấy Nhạc Lâm tướng mạo phương phi, mười phần vui lòng, liền nói:
- Năm trước Đại Vương qua Châu Tiên trấn, cháu của ta là Hắc Man Long có kết bạn với anh của công tử, nên từ ngày nó về đây đến nay, không lúc nào nó không nhắc đến lệnh tôn và lệnh huynh. Đến nay mới hay nhà họ Nhạc gặp đại họa, may trời khiến công tử lại đến đây, ấy là lệnh tôn muốn chia công tử cho ta đấy. Vậy công tử hãy an lòng chớ nên từ chối.
Nhạc Lâm không biết tính sao, buộc lòng phải vâng lời theo.
Hôm ấy anh em đi săn bắn, kẻ sản được hổ báo, người được hươu nai, lục tục khiêng về dinh, ai nấy đều đủ mặt chỉ có công tử Nhạc Lâm là không thấy về.
Mọi người còn đang trông đợi, bỗng thấy quân sĩ hớt hải chạy về phi báo:
- Nguy tai, nguy tai? Tứ công tử đã bị Miêu Vương bắt sống đem đi rồi.
Sài Vương nghe quân báo, thất kinh nói với mấy anh em:
- Chúng ta phải đi cứu cho mau, chớ nên chậm trễ.
Mấy vị anh hùng nghe nói đều tung mình lên ngựa một lượt, phi như bay đến trước động Miêu Vương, kêu lớn:
- Hãy mau mau đem Nhạc công tử trả lại cho chúng ta thì muôn việc đều yên, bằng chậm trễ nửa khắc, chúng ta đạp sào huyệt chúng bay thành bình địa.
Miêu binh lật đật vào phi báo, Miêu Vương mỉm cười nói:
- Đây chắc là Sài Vương rồi, để ta ra xem sao.
Nói rồi lên ngựa chạy thẳng ra ngoài động, mấy anh em trông thấy tướng mạo Miêu Vương cổ quái, kỳ dị lấy làm lo ngại. Sài Vương giục ngựa lướt tới, quát lớn:
- Ngươi là ai mà dám cả gan bắt Nhạc tứ đệ của ta?
Miêu Vương đáp:
- Ta là Hóa Ngoại Miêu Vương Lý Thuật Phủ đây, Nhạc công tử đâm chết tướng tiên phong của ta là Xích Lợi nên mới bị ta bắt, sao ngươi lại có thái độ vô lễ với ta?
Sài Vương dịu giọng nói:
- Thế thì ta hiểu lầm rồi. Nhưng nếu ngươi bằng lòng tha Nhạc công tử ra thì chúng ta sẽ cùng nhau hỏi tội.
Miêu Vương gật đầu đáp:
- Nếu liệt vị biết điều tình lý thì xin mời vào động chuyện vãn chơi cho vui.
Mấy anh em đều dắt nhau theo Miêu Vương vào thẳng động Vương phủ. Sau khi làm lễ ra mắt nhau,
Miêu Vương mời ngồi dùng trà rồi hỏi:
- Liệt vị là gì với họ Nhạc?
Mấy anh em đều tự nói rõ tên họ của mình và xưng là anh em kết nghĩa với Nhạc Lâm. Miêu Vương mừng rỡ, nói:
- Nếu vậy chúng ta đều là một nhà với nhau cả, lúc trước tôi có dịp được gặp gỡ Nhạc Nguyên soái một lần tại Châu Tiên trấn. Cháu tôi là Hắc Man Long đã kết làm anh em với Nhạc Vân công tử, nay liệt vị đến đây thật là một việc may mắn cho tôi vì tôi vốn có một đứa con gái, muốn gả cho tứ công tử và xin để ở với tôi. Mong chư vi tính giùm cho thành sự.
Nhạc Lôi nói:
- Đại Vương đã có lòng chiếu cố đến em tôi thì ơn ấy vô cùng trọng đại, ngặt vì anh em tôi thù cha chưa trả được, xin để cho chúng tôi trả xong mối thù lớn ấy, rồi sẽ đưa em tôi đến đây thành thân với công chúa.
Miêu Vương nói:
- Nhị công tử nói vậy sao phải, anh em của công tử đông, nay cho tôi nuôi bớt một người cũng là điều tốt chứ sao? Vả lại, cả nhà công tử ra chốn Hóa Ngoại này không có bà con thân thích, nay kết thông gia với tôi cũng chẳng lỗi gì. Lúc nào công tử được trở về cố hương, tôi sẽ cho cọn gái theo lệnh đệ về chứ có ngăn cản chi đâu mà ngại.
Thấy Miêu Vương đã quyết tâm, Sài Vương cùng mấy anh em phải bằng lòng. Miêu Vương mừng rỡ, truyền bày yến tiệc mời mấy vị tiểu anh hùng vào dự tiệc.
Vừa ngồi vào bàn tiệc, bỗng thấy Miêu binh chạy vào bẩm:
- Hắc Vương Gia đã về tới!
Lý Thuật Phủ nói:
- Hãy mời hắn vào đây.
Hắc Man Long vào, ra mắt Lý Thuật Phủ rồi quay lại chào mấy vị Tiểu anh hùng; Lý Thuật Phủ đem hết việc cho con Nhạc Nguyên soái bị hại, thuật lại đầu đuôi cho Hắc Man Long nghe. Hắc Man Long nghe qua nổi giận, tóc lông dựng ngược, lớn tiếng nói:
- Tôi ở xa xôi cách trở không hay biết gì về việc Nhạc Nguyên soái và anh tôi bị gian thần hãm hại nên không đến cứu kịp, thật tức tối biết chừng nào?
Ngưu Thông thấy vậy, nháy Hắc Man Long kéo lại gần mình nói nhỏ:
- Nếu Hắc ca ca muốn đi báo thù thì có khó chi? Vì Vương gia đây là người Hóa ngoại chưa từng thụ hưởng quan chức của hôn quân, cứ việc dẫn quân đánh thốc vào ải Dân chúng thảy đều cảm mến ơn đức của Nhạc lão bá, tất nhiên họ giúp lương thảo cho Hắc ca ca. Lúc nào đến Thái Hành sơn hãy tin cho cha tôi hay, người sẽ đem đại binh hợp lực đánh thẳng xuống Lâm An thì xong việc.
Hắc Man Long nghe nói mừng rỡ, song chẳng hở môi, cứ việc lén sai một tên quân tâm phúc chạy vào phi báo dối:
- Này có Diêu Động dẫn binh đến xâm lăng bờ cõi ta, xin Đại Vương liệu định.
Miêu Vương nghe báo nổi giận,sai Hắc Man Long dẫn ba ngàn quân đi chỉnh phạt. Hắc Man Long từ biệt mấy vị anh hùng, dẫn binh kéo tuốt qua Tam quan, báo thù cho Nhạc Nguyên soái.
Khi Hắc Man Long đi rồi, Miêu Vương Lý Thuật Phủ mời mấy vị tiểu anh hùng ngồi vào bàn tiệc.
Trong lúc ăn uống, Lý Thuật Phủ nghĩ thầm:
"Cháu ta mới về đây, lẽ nào quân Diêu Động lại đến lấn bờ cõi? Việc này ta hồ nghi quá".
Nói rồi vội sai Miêu binh, chạy theo thám thính.
Tên ấy đi hồi lâu trở về phi báo:
- Tiểu Vương gia không phải đi chỉnh phạt Diêu Động mà kéo binh thẳng qua Trung Nguyên rồi.
Lý Thuật Phủ nghe báo gằn giọng:
- Thật quả như điều ta ước đoán chẳng sai.
Nói rồi quay lại nói với mấy vị tiểu anh hùng:
- Tôi không có con trai, chỉ có một mình nó là cháu đó thôi, nay nó lại qua Trung Nguyên báo thù cho Nhạc Nguyên soái, đường sá xa xôi không người giúp sức, phỏng có điều chi bất trắc, rồi biết nương tựa vào đâu. Bây giờ xin liệt vị công tử hãy về trước, để rể lão ở lại đây cho có bạn, chừng nào Man Long trở về, sẽ liệu.
Nhạc Lôi thấy Miêu Vương nghĩa khí như vậy nên phải nghe lời để Nhạc Lâm ở lại rồi cùng mấy anh em từ biệt ra về, ra mắt Nhạc thái thái phu nhân rồi đem hết việc Nhạc Lâm bẩm lại.
Nhạc thái thái phu nhân nói:
- Lòng tốt của Miêu Vương thật hiếm có, ta muốn thân qua đó để tạ ơn.
Sài nương nương nói:
- Nếu hiền muội có đi, chị cũng đi theo với cho có bạn.
Rồi sáng hôm sau, Sài nương nương và Nhạc thái thái phu nhân dắt nhau đến phủ Miêu Vương. Miêu Hầu ra nghênh tiếp vào trong. Nhạc Lâm và công chúa Man Vân dắt nhau làm lễ ra mắt.
Miêu Hầu truyền lệnh dọn yến thết đãi hai phu nhân. Nhạc phu nhân nhân thấy công chúa Man Vân mười phần xinh đẹp, trong lòng mừng thầm.
Cuộc yến tiệc kéo dài đến chiều tối mới tan. Nhạc phu nhân và Sài nương nương từ biệt ra về. Rồi từ đó hai bà phu nhân thường thường qua lại thăm viếng, gây được mối tình đậm đà mật thiết giữa hai thông gia.
Nhắc chuyện tên Hà Lập, từ ngày vâng lệnh Tần Cối sai qua Đông Nam Đệ Nhất sơn để bắt Diệp Thủ Nhất. Hắn đi trọn ba bốn tháng trời gặp ai cũng hỏi thăm, nhưng không ai biết cái tên Diệp Thủ Nhất ở Đông Nam Đệ Nhất sơn là ai cả.
Hà Lập nghĩ thầm:
"Nếu ta không tìm được tên này chắc mẹ và vợ ta khó toàn tính mạng".
Nghĩ đến đây, hai hàng nước mắt tuôn xuống ròng ròng. Một hôm hắn đi đến một ngã ba đường, xung quanh không có nhà cửa nên phân vân, không biết phải đi ngả nào? Cỏn đang do dự, bỗng thấy một lão thầy bói, tay phải cầm ống quẻ, tay trái xách tấm chiêu bài có đề hai câu:
"Bát quái suy lai huyền diệu lý,
Lục hào sưu tận quỷ thần cơ!"
Hà Lập bước tới nắm tay lão thầy bói hỏi:
- Tôi có một việc, mong tiên sinh bói giùm tôi một quẻ.
Lão thầy bói để gói đồ xuống hòn đá bên vệ đường rồi nói:
- Được rồi, tiên sinh muốn bói việc chi hãy vái đi.
Hà Lập ngửa mặt lên trời lâm râm khấn một hồi. Lão thầy bói lấy tiền ra gieo một quẻ rồi hỏi:
- Tiên sinh muốn bói việc chi đây?
- Tôi muốn tìm một người song chẳng biết có tìm được không?
Lão nhìn vào quẻ hồi lâu rồi hỏi:
- Có phải người ở Tây Bắc muốn qua Đông Nam không?
Hà Lập gật đầu:
- Đúng lắm, quả thật tiên sinh coi quẻ như thấy trước mắt.
Lão thầy bói lắc đầu, thở dài:
- Quẻ này không được tốt. Vả lại đường sá thì hiểm nguy, non núi gập ghềnh khó đi đến nơi đến chốn, hãy trở về thì hơn.
Hà Lập nói bằng một giọng cương quyết:
- Chẳng những nguy hiểm gập ghềnh mà thôi đâu, dẫu có chết tôi cũng phải đi.
Lão thầy bói trố mắt nhìn Hà Lập hồi lâu rồi nói:
- Nếu ngươi dám liều chết thì ta sẵn sàng chỉ đường cho ngươi đi. Ngươi cứ theo con đường giữa này đi độ chừng hai ba mươi dặm nữa thì đến Tứ Châu đại lộ, đến đó sẽ gặp người ấy.
Hà Lập tạ ơn, lấy ra mười đồng tiền thưởng cho lão thầy bói. Lão đứng dậy quảy đồ ra đi, còn Hà Lập cứ lần theo con đường giữa đi tiếp.
Đi chừng ba mươi dặm, quả nhiên đến Tứ Châu, hắn vào thuê phòng ngủ một đêm rồi sáng hôm sau ra đường thấy ai cũng hỏi thăm, nhưng đã hỏi hơn một tháng trời, vẫn không ai biết Đông Nam Đệ nhất sơn ở đâu cả.
Hà Lập nghĩ thầm:
- "Cái lão thầy bói ấy coi quẻ chẳng linh nghiệm gì cả ta nghe nói tại đây có hòn núi Tứ Châu, trên núi có một toà Từ Thánh Tử, trong miếu ấy Thánh thần linh lắm, ta hãy lên đó vái van cầu khẩn may ra thần linh chỉ bảo".
Nghĩ rồi, vội đi mua hương đèn đi thẳng lên núi Tứ Châu bước vào miếu đến trước bàn thờ đốt hương khấn vái một hồi mà không thấy gì linh nghiệm.
Hà Lập thất vọng đi lần ra trước miếu nhìn lên hòn núi trước mặt thấy vách đá chập chùng, đỉnh cao vòi vọi hắn đi lần đến gần trông thấy một tảng đá lớn hơn có khắc ba chữ "Xá Thân Nham", nhìn xuống phía dưới thì thấy hang sâu thăm thẳm.
Hà Lập thở dài ngao ngán, nghĩ thầm:
- "Ta lặn lội khổ cực ngót nửa năm trời mà không tìm thấy tên Thủ Nhất khốn kiếp, vậy trước sau gì ta cũng phải chết, chi bằng ta nhào xuống cái vực này chết cho rồi".
Nghĩ rồi toan nhảy xuống, nhưng rồi giật mình nghĩ lại:
"Đã đến nước này cái thân ta đâu có tiếc gì? Song ngặt một nỗi mẹ ta nay đã tám mươi ba tuổi, nếu ta chết rồi thì vợ con ta cung không thể sống được, lấy ai nuôi dưỡng mẹ ta!".
Rồi Hà Lập ngồi trên tảng đá than khóc thảm thiết, trong người mỏi mệt nằm xỉu xuống rồi ngủ luôn. Bỗng thấy một người bước tới bảo:
- Hãy đi theo ta mau!
Hà Lập xem lại người ấy chính là lão thầy bói hôm trước. Hà Lập cau mày, nói:
- Thầy bảo tôi đi đến Tứ Châu thì gặp, sao tôi đến đây tìm kiếm suốt hai tháng vẫn không thấy gì cả?
Lão thầy bói hỏi:
- Ngươi hãy nói thiệt cho ta biết, ngươi muốn đi đâu và tìm kiếm người nào ta sẽ chỉ cho.
Hà Lập đáp:
- Tôi vâng tìm một người tên là Diệp Thủ Nhất.
Lão thầy bói cười ha hả nói:
- Ngươi không thấy hòn núi cao trước mắt kia sao? Núi ấy không phải Đông Nam Đệ nhất sơn là gì?
Hà Lập nhìn kỹ hòn núi trước mắt mừng rỡ vô cùng vội đứng phắt dậy rồi chạy thẳng tới. Hắn nhảy từ ghềnh đá này sang ghềnh đá khác, leo trèo hồi lâu, bỗng thấy trước mặt hiện lên một ngôi chùa, kiến trúc vô cùng nguy nga tráng lệ. Trước cửa chùa có tấm biển đề mấy chữ thếp vàng: "Đông Nam Đệ Nhất Sơn .
Hà Lập lẩm bẩm:
"Cảnh chùa này thật là đẹp!".
Còn đang đứng nhìn ngơ ngác, bỗng thấy trong chùa có một tên hành giả đi ra. Hà Lập bước tới vòng tay vái một vái và hỏi:
- Chẳng hay trong chùa này có một người tên là Diệp Thủ Nhất không?
Hành giả trợn mắt, nạt lớn:
- Ngươi là ai lại dám cả gan kêu cái danh hiệu của Phật gia ra như vậy?
Hà Lập lo sợ, van nài:
- Thiệt tình kẻ tiểu nhân này không biết, xin người thứ tội. Và xin cho biết cái danh hiệu ấy là của vị phật nào?
Hành giả đáp:
- Không phải Diệp Thủ Nhất mà là Giả Thập Nhất đồng âm chứ không đồng nghĩa, chữ thập nhất tức là chữ Địa, ấy là hiệu của Địa Tang Vương Bồ Tát ngươi hiểu chưa?
Hà Lập chắp tay, nói:
- Vậy thì xin sư phụ làm ơn bẩm giùm rằng: có tôi là Hà Lập, gia nhân của Tần Thái sư sai đến muốn cầu ra mắt Phật gia.
Hành giả nói:
- Ngươi hãy đứng đây chờ lúc nào Phật gia thăng điện ta sẽ bẩm giùm cho.
Nói chưa dứt lời bỗng trong chùa chiêng trống vang dậy, Hành giả nói:
- Bồ Tát đã thăng điện đó, để ta vào bẩm giùm cho.
Vừa nói Hành giả vừa chạy vào chùa. Chẳng bao lâu Hà Lập thấy Hành giả trở ra kêu:
- Hà Lập, Phật gia dạy đòi ngươi vào.
Hà Lập vội vã vào chùa thẳng đến đại điện quỳ xuống nói:
- Tôi chúc cho Phật gia thánh thọ vô cương.
Bồ Tát nói:
- Hà Lập, ngươi đến đây có việc chi?
- Thưa, tôi vâng mệnh chủ tôi đến mời Bồ Tát phó trai. Bồ Tát nghiêm giọng, nói:
- Rõ ràng hắn sai ngươi đi bắt ta sao ngươi bảo đi mời ta phó trai? Nói dối Tần Cối đã bị ta bắt cầm dưới phong đô hành tội rồi!
Hà Lập ngạc nhiên, nói:
- Lúc tôi ra đi Thái sư tôi hãy còn mạnh khỏe ở nhà, sao lại bảo người đã đến đây rồi?
Bồ Tát nói:
- Được, nếu ngươi không tin thì ta sẽ cho mi thấy.
Nói rồi truyền cho Hành giả đi bảo viên chủ ngục Minh Quan dẫn Tần Cối lên điện để đối mặt với Hà Lập.
Hành Giả vâng lệnh ra đi chẳng bao lâu, bỗng thấy chủ ngục Minh Quan dẫn Tần Cối đến quỳ trước điện. Tần Cối khóc sướt mướt bẩm:
- Xin Phật gia mở lượng từ bi tha cho kẻ Tần Cối này, vì không còn có thể chịu thêm khổ hình được nữa.
Bồ Tát nói:
- Sao ngươi còn dám sai người đến bắt ta.
Tần Cối chối quanh:
- Quả nhiên tôi không có làm việc ấy.
Bồ Tát cười gằn:
- Người chớ chối, kẻ tả hữu đâu, hãy gọi Hà Lập lên đây để hắn đối chứng.
Hà Lập vừa bước lên điện đã giật mình bước lùi một bước vì trông thấy Tần Thái sư bị mang gông cùm, máu me đầy mình, thân thể thảm thê. Hà Lập cất tiếng kêu:
- Thái sư ôi! Kẻ tiểu nhân đây này.
Tần Cối nói:
- Hà Lập, ngươi chớ nên gọi ta là Thái sư nữa, hãy kêu ta là thằng gian tặc mưu hại trung thần. Lúc nào ngươi có về nhà hãy bảo lại với phu nhân hay rằng: ta bị tội tại đây, cũng là tại cái việc nơi Đông song đã đổ vỡ ra rỏi, nay ta ăn năn đã muộn, chẳng bao lâu phu nhân cũng phải xuống đây chịu tội.
Bồ Tát bèn sai chủ ngục dẫn Tần Cối trở về địa ngục. Chủ ngục bước vào từ tạ Bồ Tát còn bọn quỉ tốt thì áp đến kéo lết Tần Cối đi, vung roi đánh bổ xuống đầu Tần Cối vun vút.
Hà Lập thấy vậy trong lòng chẳng đành vội quỳ xuống bẩm:
- Xin Phật gia dung thứ cho chủ tôi, để tôi tình nguyện chịu thế cho chủ tôi.
Bồ Tát nói:
- Ai làm nấy chịu, thế sao được? Còn ngươi, nay đã xuống âm ty rồi, chớ có mong trở về dương thế.
Hà Lập nghe nói khóc lóc:
- Xin Phật gia mở lượng từ bi giúp cho kẻ tội đồ này một phen vì kẻ tội đồ này còn một mẹ già ở nhà năm nay đã tám mươi ba tuổi không ai nuôi dưỡng. Xin cho tôi về nuôi mẹ, chờ khi người qua đời rồi tôi sẽ xuống đây chịu tội.
Bồ Tát gật đầu khen:
- Hãy lắm, Hà Lập cũng có lòng hiếu nghĩa đáng khen thay?
Nói rồi sai tả hữu cho trở về dương thế. Hà Lập cúi đầu từ tạ Bồ Tát rồi theo kẻ thị giả ra khỏi cửa chùa. Nhưng lúc bước ra ngoài không phải đường cũ lúc nãy mà xung quanh là âm phong thăm thẳm, hắc vụ mang mang.
Hà Lập đi gần đến xóm kia trông thấy ở đây rất nhiều chó dữ giống như hổ báo sài lang, lại thấy những bọn quỉ tốt dẫn một bọn tội phạm đi qua đó, bầy chó kia nhảy tới cắn hết sức hung dữ. Kẻ bị chó cắn cụt tay, kẻ bị lòi ruột, khiến Hà Lập phát run lên. Chàng phải theo bén gót tên thị giả.
Khi đi qua khỏi xóm chó dữ lại đến chỗ kia, hai bên núi cao lởm chởm, đá nhọn như mũi gươm, phía dưới vô số những quỷ hình thù đầu trâu mặt ngựa, bắt những tội phạm đem quăng lên núi đá kẻ bể đầu, người thủng ruột, máu chảy dầm dề.
Qua khỏi núi đến một chỗ gọi là cầu Nại Hà, Hà Lập đến gần bên cầu nhìn xuống sông trông thấy lấy làm kinh hồn hoảng vía, vì phía dưới toàn là những tội phạm trần trụi lõa lồ, rắn dữ leo quấn đầy mình cắn mổ kẻ bể đầu, người lòi mắt, kêu khóc ầm ĩ.
Hà Lập ngước nhìn lên chiếc cầu trông thấy chỉ có một cái cây bắc ngang qua lắt lẻo trông dễ sợ làm sao!
Hà Lập kêu Thị giả hỏi:
- Sư phụ, cầu gì có một khúc cây như vậy qua sao được, rủi ngã xuống kia bị rắn dữ cắn nguy hiểm lắm!
Thị giả nói:
- Không hề chi đâu, ngươi cứ việc nhắm mắt sẽ qua được ngay.
Hà Lập hồn phách rụng rời, nhưng cũng phải nhắm mắt nắm áo tên Thị giả chặt cứng, chạy qua khỏi cầu Nại Hà.
Đến đây là một dãy đồng trống bao la, đất bỏ hoang, song nghe văng vẳng quỉ khóc rên la, khiến Hà Lập lạnh mình run lẩy bẩy vội hỏi Thị giả:
- Sư phụ ôi! Chỗ này là chỗ nào mà thê thảm quá vậy?
Thị giả giải thích:
- Phía trước đây là Quỉ Môn quan còn phía tay trái là Uổng tử thành, hễ tội phạm nào đã sa vào Uổng tử thành đừng mong làm người nữa!
Còn dang chuyện vãn, hai người đã đến Quỉ Môn quan, bỗng thấy trong thành xông ra một bầy ác quỉ, nhe nanh múa vuốt trông ghê gớm làm sao! Chúng đón đường lại quát lớn:
- Đi đâu đó?
Thị giả nói:
- Phật gia thấy hắn là người hiếu nghĩa nên sai ta đưa hắn hồi dương, chớ nên ngăn trở.
Lũ Quỉ gật đầu đáp:
- Nếu có pháp chỉ của Phật gia thì xin hãy đi đi!
Hà Lập qua khỏi Quỉ Môn quan, bỗng thấy một cái liên đài rất cao liền hỏi tên Thị giả:
- Chỗ này là chỗ nào vậy?
Thị giả nói:
- Chỗ ấy gọi là Vọng hương đài.
Mấy phút sau hai người đi đến gần, Hà Lập bảo:
- Tôi muốn lên đó xem chơi chốc lát được không?
Thị giả nói:
- Ngươi đã thấy xóm làng không về đi còn nấn ná làm gì nữa?
Thị giả vừa nói vừa xô Hà Lập một cái, Hà Lập thất kinh rú lên một tiếng thất thanh té nhào xuống đài, giật mình thức dậy thì thấy mình nằm trên hòn đá, mới biết là chiêm bao.
Hắn ngồi suy nghĩ một hồi rồi lẩm bẩm một mình:
- Ta thấy rõ ràng Địa Tạng Vương Bồ Tát đã bắt Thừa tướng xuống chốn âm ty hành tội, lại thấy địa ngục khổ sở trăm bề; quả thật thần minh chỉ dẫn, vậy ta phải tạ ơn Thần rồi trở về hồi phúc cho Thái sư hay.
Nói rồi trở vào miếu bái tạ Từ Châu Đại Thánh, xuống núi trở về chỗ trọ nghỉ một đêm, sáng hôm sau tính tiền trả xong quảy hành lý lên vai, noi theo đường cũ trở về Lâm An.
Đi chẳng mấy ngày đã đến nơi, Hà Lập vào trướng phủ ra mắt Tần Cối. Lúc ấy Tần Cối đã bị ung thư phát bối, bịnh tình vô cùng trầm trọng nằm liệt trên giường, ngày đêm rên la không ăn, không ngủ.
Hà Lập vào quỳ xuống dưới chân giường, Tần Cối mở mắt ra trông thấy Hà Lập, thì thào hỏi:
- Hà Lập, ngươi đã về đó sao? Việc Thủ Nhất ta đã biết rõ cả rồi, ngươi chớ nói làm chi, gia quyến của ngươi ta đã tha rồi, ngươi hãy về phụng dưỡng mẹ ngươi!
Hà Lập cúi đầu từ tạ Tần Cối, ra khỏi trướng phủ trở về nhà gặp mẹ và vợ.
Cả nhà vừa trông thấy mặt Hà Lập cảm động khóc rống lên một hồi, rồi đi sắm sửa hương đèn bái tạ tổ tông.
Từ đó Hà Lập kiên tâm làm điều thiện, tránh điều ác.
Sau khi phụng dưỡng mẹ già thọ đến chín mươi tuổi, vì không có con, vợ chồng Hà Lập đi tu tại chùa Huyền Diệu ở Bình Giang phủ!
Hắc Man Long tế điện Nhạc Phi
Gian thần Tần Cối về âm phủ.
Các quan lại địa phương tới tấp gửi chỉ làm bổn chương báo cáo về dinh thừa tướng tâu chuyện Hắc Man Long kéo binh qua khỏi Tam Quan đã truyền hịch cho dân chúng biết mục đích của đoàn quân này là đi bắt cho được Tần Cối để bảo thù cho Nhạc Nguyên soái. Bọn gian thần như Trương Tuấn, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập đều thất kinh dắt nhau ra mắt Tần Cối.
Bây giờ Tần Cối đang bị ung thư phát bối, nằm liệt giường. Ba người vào thư phòng, phải quỳ dưới chân giường bẩm:
- Này Hắc Man Long đã đánh vào khỏi Tam Quan rồi, hắn tuyên bố là quyết báo thù cho Nhạc Phi nên buộc triều đình phải đem Thái sư dâng cho nó thì nó mới chịu lui binh. Nay bổn chương các nơi gửi về tới tấp, chúng tôi không dám tự tiện phải đến đây chờ lệnh.
Tần Cối nghe nói hét lên một tiếng rồi hôn mê bất tỉnh, không nói gì được. Ba người thấy tình trạng Tần Cối như vậy không biết tính sao đành từ biệt trở về bàn với nhau. Trương Tuấn nói:
Hắc Man Long võ nghệ cao cường, lại thêm hắn đến đâu dân chúng đồng tâm ủng hộ, khó mà đánh lại nó, nay ta cần phải làm một chiếu giả sai người ra Vân Nam trút hết tội lỗi cho vợ Nhạc Phi, khiến hắn phải viết thư rút Miêu binh về mới được.
Thương nghị xong, Trương Tuấn một mặt làm chiếu giả sai người đem ra Vân Nam, một mặt truyền cho các tướng gìn giữ ải quan đồng thời đem thêm binh ngăn ngừa những nơi hiểm yếu.
Qua bữa sau Trương Tuấn vào quỳ trước Kim giai tâu:
- Nay Tần Thừa tướng bệnh tình trầm trọng mà trong nước xảy ra nạn binh đao, vậy xin Thánh thượng hãy lập người khác để lo việc triều chính.
Cao Tông nghe tâu, truyền chỉ xe giá ngự đến trướng phủ thăm Tần Cối. Con nuôi Tần Cối là Tần Hy cùng Vương thị đều dắt nhau ra ngoài thành tiếp giá.
Cao Tông đi thẳng vào thư phòng đến ngồi bên giường Tần Cối nhưng Tần Cối vẫn mê man, không hay biết gì hết.
Tần Hy bước tới vừa lay, vừa gọi:
- Cha ơi! Có thánh giá ngự đến đây này!
Tần Cối nghe kêu hé mở mắt ra nhìn, nhưng tay chân cứng đơ không cựa quậy nổi, rồi cố gắng lắm Tần Cối mới thì thào được mấy tiếng:
- Thánh giá đến đây làm gì cho nhọc mình rồng? Hãy xá tội cho hạ thần nay mang trọng tội, nên phải bị Âm ty hành phạt, bệ hạ cũng nên an dưỡng mình rồng. Hạ thần bị Nhạc Phi theo đòi mạng, lại đánh một chùy phía sau lưng đau đớn vô cùng, chắc không thể thấy thánh thượng được nữa!
Nói vừa dứt lời, Tần Cối rú lên một tiếng rồi chết giấc. Cao Tông vô cùng xúc động, sai thái y hết lòng chữa chạy rồi lui giá về cung. Hôm sau lâm triều, vua hạ chỉ cho Vạn Sĩ Hoa và Lã Võ Tập hợp lo việc triều chính.
Bấy giờ đoàn quân của Hắc Man Long tiến mạnh như vũ bão, thế mạnh như chẻ tre, gặp châu chiếm được châu, gặp huyện chiếm được huyện, đánh thốc đến Lâm An đồn binh tại Phạm thôn.
Quân chạy vào thị báo, Trương Tuấn thất kinh sai Tổng binh Vương Võ lãnh năm ngàn binh ra thành cự địch với Miêu tướng.
Vương Võ vâng lệnh dẫn binh ra Phạm thôn an dinh hạ trại. Hắc Man Long vung chùy giục ngựa lướt tới kêu lớn:
- Bớ Tống tướng, nếu ngươi thức thời, hãy vào thành bắt Tần Cối đem đây dâng nạp cho mau thì muôn việc đều xong, bằng chậm trễ, ta đánh thốc vào thành, chắc chắn lão hôn quân kia ta cũng không tha.
Quân sĩ vào phi báo, Vương Võ lên ngựa vung đao xông ra khỏi trại, nạt lớn:
- Chúng bay là loài Miêu man, lẽ ra phải khuất phục chịu phong vương tước mới phải, sao dám cả gan xâm phạm thiên triều, tội ấy khó dung. Nay bổn soái đã ra đây tất nhiên thây ngươi phải đứt làm mấy đoạn.
Hắc Man Long lửa giận phừng gan, lớn tiếng mắng:
- Mi cũng là loài gian đảng nghịch thần, nhưng nếu đem tên đại gian ác Tần Cối dâng nạp, ta cũng tha thứ cho ngươi, nếu ngươi cố tình phò trợ hắn để tiếp tục làm điều tàn ác, thì ít ngày nữa đây ta vào được trong thành, vàng đá khó phân, ta sạn thành Lâm An bình địa, lúc ấy dù ăn năn cũng đã muộn.
Vương Võ giận quá không thèm nói thêm nửa lời, lập tức vung đao xốc tới chém. Hắc Man Long vung chùy đánh hất đao ra, hai bên đánh nhau chưa đầy sáu hiệp, hai quả chùy của Hắc Man Long quá nặng, khiến hai cánh tay của Vương Võ bủn rủn không đỡ nổi được nữa.
Chỉ một khắc sau, Hắc Man Long giáng Vương Võ một chùy trúng giữa sọ, óc huyết văng tứ tung, chết không kịp ngáp.
Hắc Man Long thừa thế xua binh chém giết quân Tống chết quá phân nửa, còn bao nhiêu chạy thoát vào thành. Hắc Man Long kéo thẳng đến Thê Hà lãnh hạ trại, rồi sai quân sĩ sắm lễ vật đem đến trước mộ Nhạc Phi tế điện.Vị dũng tướng vô cùng xúc động, đứng trước phần mộ khóc lóc thảm thiết.
Hôm sau Trương Tuấn thân dẫn binh ra thành, kéo đến trước chùa Tịnh Từ đóng quân rồi đem cây, đá lấp hết các nẻo đường xung quanh, đoạn triệu tập bốn viên Ngự tiền Tổng binh là Ngô Luân, Trần Kỳ, Vương Đắc Thắng và Lý Tất Hiển vào thương nghị.
Trương Tuấn nói:
- Nay Hắc Man Long là viên Miêu tướng dũng mãnh vô .song, cần phải dùng trí đánh hắn may ra mới thắng nổi.
Vương Đắc Thắng nói:
- Tôi đã tính sẵn một kế, đêm nay phải đem vài trăm cái bàn thả dưới hồ, rồi đem hình nộm cột vào chân bàn, mỗi hình nộm phải cho cầm một cây đèn lồng để cho chúng lầm. Sai tướng dẫn binh mai phục gần bên mé hồ. Trong lúc ban đêm tăm tối, nó lại thấy quân ta ở dưới hồ, nó sẽ tưởng lầm hồ cạn thế nào cũng sa xuống hồ, chừng ấy bắt nó dễ như trở bàn tay.
Trương Tuấn khen là diệu kế, bèn sai quân lính y theo kế ấy mà thi hành.
Chờ đến trời tối, Vương Đắc Thắng dẫn binh đến gần trại của Hắc Man Long la hét om sòm. Lúc ấy Hắc Man Long đang ngủ mơ màng, bỗng nghe tiếng quân reo vang trời dậy đất, liền mang giáp, vung chùy lên ngựa xông ra khỏi dinh.
Vương Đắc Thắng thấy Hắc Man Long, liền lướt tới đâm đại một thương rồi quay ngựa bỏ chạy. Hắc Man Long giục ngựa đuổi theo nhưng khi Vương Đắc Thắng chạy đến mé hồ thì rẽ qua con đường nhỏ trốn mất.
Đến đây, Hắc Man Long nhìn quanh nhìn quất không tìm thấy Vương Đắc thắng đâu cả, lại thấy dưới hồ có quân cẩm đèn, phần vì trời tối không trông rõ ràng, liền giục ngựa chạy đại xuống hồ để chém sạch địch quân, chẳng dè cả người lẫn ngựa chìm nghỉm dưới hồ.
Trương Tuấn điều khiển đoàn quân mai phục, vừa trông thấy Hắc Man Long sa xuống nước lòng mừng khấp khởi, liền dốc quân dùng câu liêm móc kéo lên trói chặt, rồi sai Tổng binh Trương Khôn dẫn ba ngàn quân áp giải Hắc Man Long về thành.
Lúc đang đi, bỗng có một tướng cầm bạch mã ngân thương, xốc tới đâm Trương Khôn một thương chết lập tức rồi hắn liền mở trói cho Hắc Man Long, một mình vung thương giết sạch ba ngàn quân sĩ.
Hắc Man Long được thoát nạn nhưng không biết ân nhân là ai, vội bước tới chấp tay hỏi:
- Chẳng hay tướng quân là ai xin cho biết quí danh đề sau này đền ơn sâu.
Người ấy đáp:
- Tôi họ Hàn tên Ngạn Trực, cha tôi là đại Nguyên soái Hàn Thế Trung, chỉ vì thấy cha con Nhạc Nguyên soái bị hãm hại, nên buồn giận không muốn làm quan, sống ẩn cư nơi đây. Vừa rồi nghe tướng quân báo thù cho Nhạc Nguyên soái lòng người ai cũng thuận và vui mừng. Hôm nay cha tôi nghe tướng quân giao binh với Trương Tuấn, sợ tướng quân lầm gian kế của hắn, nên sai tôi đến đây dò nghe tin tức, chẳng dè đi đến đây gặp tướng quân.
Hắc Man Long nói:
- Tôi mang trọng ân của tướng quân, nếu tướng quân không chê tôi là người Hóa ngoại, thì tôi xin tình nguyện kết nghĩa anh em.
Hàn Ngạn Trực nghe nói mừng rỡ vô cùng, liền dắt Hắc Man Long đến cầu Lục Điều bốc đất làm hương, vái trời đất kết nghĩa anh em, thề cùng sống chết.
Rồi Hàn Ngạn Trực nắm tay Hắc Man Long thân mật nói:
- Bây giờ đệ xin kiếu ca ca để về, vì đệ ở đây sợ e gian thần biết được đồn danh, bán tiếng thì bất tiện lắm.
Hắc Man Long quyến luyến nói:
- Lúc nào hiền đệ có rảnh hãy ra nơi Hóa ngoại thăm anh chơi.
Hai người bịn rịn một hồi lâu mới chia tay. Hàn Ngạn Trực trở về nhà, còn Hắc Man Long thì trở về trại, điểm binh mã kéo xốc tới hồ đóng quân.
Sáng hôm sau, Hắc Man Long lại kéo quân thẳng đến cửa thành khiêu chiến. Quân sĩ chạy vào phi báo, Trương Tuấn buồn bực chẳng yên, liền nhóm hết chư tướng thương nghị.
Trương Tuấn nói:
- Chúng ta không phải hạng đối thủ của Hắc Man Long, nếu cưỡng ra quân ắt mang hại. Chi bằng lập kế hoãn binh, nghĩa là chúng ta sẽ cho hắn biết rằng, hiện nay thánh thể bất an, chờ cho Thiên tử khỏe mạnh, lâm triều được, sẽ bắt gian thần nạp cho hắn và muốn cho hắn vui lòng chờ đợi, bây giờ cần phải đem lương thảo ra dâng nạp cho hắn nuôi quân. Ta tin chắc rồi đây sẽ có thư vợ Nhạc Phi gửi đến khuyên hắn lui binh ngay. Chừng ấy ta phát văn thư cho binh mã các nơi đến cứu giá là yên việc.
Nói về Nhạc phu nhân, ở tại Vân Nam, ngày kia tiếp được thánh chỉ, mới hay Hắc Man Long xâm phạm Lâm An liền viết một phong thư, sai Trương Anh đi suốt ngày đêm đem về Lâm An trao cho Hắc Man Long.
Hắc Man Long tiếp thư đọc:
"Tôi, Nhạc phu nhân Lý thị, kính gửi đôi lời cho Hắc tướng quân được rõ:
Chồng tôi rủi vương phép nước về thần, tôi chịu tội ra chốn Vân Nam. Thiết nghĩ mưu kế gian thần sẽ có ngày bại lộ, con cháu tôi chắc được minh oan.
Nay tướng quân tuy là nghĩa khí gan dạ, vì chút thù riêng mà hưng binh xâm phạm, làm cho triều đình khiếp đảm, kinh hồn. Tướng quân quyết báo thù cho họ Nhạc, nhưng vô tình đã làm cho hoại danh trung nghĩa của chồng con tôi.
Vì vậy, tôi phải sai Trương Anh tức tốc đem bức thư này đến trao cho tướng quân, mong tướng quân vị tình lập tức thu quân về nước, chớ để lụy cho tôi và làm phiền lòng chồng tôi nơi chín suối.Tôi cảm đội ơn chẳng cùng".
Đọc xong bức thư Hắc Man Long vô cùng xức động, hai hàng nước mắt chảy ròng rong, liền nói với Trương Anh:
- Tôi kéo quân từ Tam quân đến đây, đi đến đâu cũng thấy dân chúng thương tiếc lão bá chẳng cùng, nay Nhạc bá mẫu lại bền lòng trung nghĩa, khiến tiểu đệ phải lui binh. Nếu vậy thì dung dưỡng cho gian thần nó muốn làm chi thì làm hay sao? Thật tình tôi lấy làm uất hận.
Trương Anh nói:
- Xưa kia Ngưu lão gia cùng chư vị anh hùng đã hưng binh về triều để báo thù cho Nhạc Đại lão gia, nhưng khi đến sông Trường Giang Nhạc Đại lão gia hiện hồn cản trở không cho tiến quân, vì thế ta đủ thấy con người trung nghĩa dù chết cũng không muốn hủy hoại danh tiết; vả lại, bọn gian thần ấy tội lỗi đã đầy rẫy thế nào cũng có ngày báo ứng, ta hãy chờ xem kết cục ra sao cho biết.
Hắc Man Long không biết tính sao, đành phải sắm đồ tế lễ mộ Nhạc Nguyên soái cúng tế khóc than một hồi, rồi truyền quân nhổ trại kéo về Hóa ngoại.
Trong thành, Trương Tuấn đang lo lắng mong đợi, bỗng có quân vào báo:
- Miêu binh đã rút hết rồi.
Trương Tuấn lòng mừng khắp khởi vội vào triều tâu dối với vua:
Thần đã ra quân đánh dẹp Miêu binh. Chúng sợ hãi bỏ chạy thất sá hồn kinh, thần xua quân rượt theo mấy mươi dặm nhưng không kịp nên phải trở về đây tâu Thánh thượng rõ.
Cao Tông bước xuống Kim giai đỡ Trương Tuấn dậy và nói:
- Khanh quả là một đại trung thần có công lớn với triều đình không ai sánh kịp.
Nói rồi hạ chỉ gia phong cho Trương Tuấn làm chức Trấn Viễn Đại Đô Đốc và ban cho vàng bạc, gấm vóc rất nhiều. Những tướng tá bộ hạ của y cũng đều được thăng thưởng trọng hậu.
Trương Tuấn tạ ơn lui ra, đi thẳng đến tướng phủ thăm Tần Cối. Tần Hy vội rước vào thư phòng. Trương Tuấn bước đến bên giường thấy thần sắc Tần Cối xanh như tàu lá hai hàm răng cắn chặt, bệnh tình trầm trọng, liền hỏi Tần Hy:
- Bệnh tình Thái sư hôm nay thế nào? Mấy ngày qua người có uống thuốc men gì không?
Tần Hy thở dài, đáp:
- Thái y chẩn mạch bốc thuốc thường xuyên, nhưng không hiệu nghiệm chi cả, bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, ngày đêm cứ rên la hoài, lắm lúc hôn mê bất tỉnh, chắc không xong rồi!
Trương Tuấn bước tới sát bên giường ghé vào tai Tần Cối nói nhỏ:
- Thái sư hãy trọng lấy thân, nay Hắc Man Long đã bị tôi đánh đuổi lui về nước rồi, nên tôi đến bẩm cho Thái sư hay.
Tần Cối nhướng mắt lên, vừa trông thấy Trương Tuấn đã la lên:
- Nhạc gia ôi! Xin dung mạng, xin dung mạng?
Trương Tuấn thấy vậy trong lòng lo ngại liền từ biệt về ngay. Tần Hy tiễn Trương Tuấn ra khỏi cửa mới trở vào thư phòng.
Vừa đi đến cửa phòng bỗng nghe bên trong có tiếng xiềng xích chạm nhau khua lẻng xẻng, Tần Hy vào bên giường thấy Tần Cối tâm thần hoảng loạn, đôi mắt thất thần như muốn van xin, cầu cứu, thấy Tần Hy, Tần Cối muốn nói gì đó, nhưng không nói được, chỉ lắc đầu mấy cái rồi lè lưỡi ra thật dài cắn phập một cái nát cả lưỡi, máu tuôn lai láng rồi tắt thở!
Oán trời đất, Hồ Địch du địa phủ
Mộng Trung Nguyên, Ngột Truật lại dấy binh.
Triều đình tạm giấu chuyện thừa tướng Tần Cối vừa qua đời sợ lòng dân sinh biến. Lúc bấy giờ trong thành Lâm An có một vị tú tài tên Hồ Địch biệt danh là Mộng Điệp từ ngày thấy cha con Nhạc Phi bị hại, trong lòng vô cùng uất ức nên lúc nào cũng nói:
"Trời đất có riêng, quỉ thần chẳng công ".
Rồi mỗi khi cầm đến cây bút là viết lên hai câu ấy.
Hôm ấy hay tin Hắc Man Long đem quân đánh thấu đến Lâm An quyết báo thù cho Nhạc Phi, Miêu tướng buộc triều định phải đem nộp gian thần Tần Cối mới chịu lui binh, nếu không nhất định đánh thốc vào thành: Hồ Địch lòng mừng vô hạn liền reo lên:
- Thế thì sung sướng cho ta biết bao nhiêu!
Hồ Địch sai gia nhân đi thám thính từng giờ từng phút để kịp thời chứng kiến cái cảnh hành hình bọn gian thần cho hả giận.
Qua bữa sau, gia tướng trở về phi báo:
- Vương Võ đã bị Hắc Man Long giết chết rồi, bây giờ Miêu binh đã đến đóng tại Thê Hà Lãnh, Trương Tuấn phải đích thân ra thành nghênh chiến.
Hồ Địch hay được tin ấy lại càng sung sướng hơn nữa, mong sao Trương Tuấn chết luôn về tay Miêu binh để bớt lũ gian thần, nên sai gia nhân đi thám thính tiếp.
Sau đó lại nghe triều đình khiếp đảm đem lương thảo và bạc tiền dâng nạp cho Hắc Man Long, hứa mười hôm nữa sẽ bắt gian thần hiến nạp.
Hồ Địch nhảy nhót reo mừng lấy làm toại chí, cả ngày uống rượu ăn uống vui chơi một mình để chờ tin mừng.
Chiều hôm ấy Hồ Địch đã say mèm, bỗng thấy gia đinh chạy về phi báo:
- Nay Hắc Man Long đã bị Trương Tuấn đánh chạy về Hóa ngoại rồi, triều đình gia phong thêm quan tước và thưởng cho Trương Tuấn vàng bạc châu báu rất nhiều.
Hồ Địch nghe nói, đang cầm chai rượu trong tay, tức mình đập vỡ nát lúc nào không hay, rồi đang say nghiêng ngửa vẫn lấy bút viết ra một bài thơ; nguyên văn:
"Trướng khước gian thần trường thiệt thệ,
Luyến thương trung hiếu khổ mưu di,
Thiên tào mặc mặc duyên vô báo,
Địa phủ minh minh định hữu ti.
Huỳnh các chú hòa thiện tải hận,
Thanh y hành tửu lượng quân bi,
Ngu sinh nhược đắc Diêm la tố,
Định bắt gian thần vạn kiếp bì"
Lời thư của Hồ Địch đầy oán, ý nói đứa gian thần hãm hại người trung lương mà thiên tào không báo ứng, địa phủ cũng làm ngơ, chắc thiên địa thiên vị lũ gian này rồi Phải chi Hồ Địch này làm chức Diêm Vương nhất định sẽ cắt da xẻ thịt lũ gian cho biết mặt.
Viết rồi đọc lởn một hồi cho hả hơi, mới đưa vào đèn đốt cháy.
Sau đó Hồ Địch lại rót rượu uống cho đến say mèm không còn biết trời đất gì nữa, miệng thì cứ than trời trách đất hoài không ngớt.
Uống riết một hồi, Hồ Địch dựa ngang thành ghế, nhắm nghiền đôi mắt, rồi mơ màng trông thấy dưới bàn có hai con quỉ vùng nhảy xổ ra, quát lớn:
- Diêm Vương ra lệnh đòi ngươi, phải theo ta lập tức.
Hồ Địch hỏi:
- Diêm Vương ra lệnh đòi ta có việc gì?
- Đừng hỏi nhiều lời hãy theo ta đến đó sẽ biết. Vừa nói, hai con quỷ kéo lôi Hồ Địch đi. Hồ Địch biết không thể cưỡng nổi đành phải ngoan ngoãn bước theo.
Khi gia nhân bưng cơm lên thấy chủ mình nằm ngả trên thành ghế, bước lại rờ xem thì thấy Hồ Địch đã tắt thở, trên ngực chỉ còn chút ấm ấm thôi.
Gia nhân thất kinh chạy xuống phi báo.
Bà tú kinh hoàng chạy vào đỡ chồng lên giường kêu khóc thảm thiết, nhưng vẫn không thấy tỉnh lại. Cả nhà đều lăn ra khóc than, lo sắm quan quách nhưng thấy ngực ông tú Hồ Địch còn nóng nên chưa dám liệm, chỉ đứng xung quanh cái thây xem chừng mà thôi.
Nói về Hồ Địch theo hai con quỉ ra khỏi cửa, mỗi con
quỉ kèm một bên kẹp Hồ Địch phi nhanh, vượt qua một dãy đồng không mông quạnh gió thổi lạnh lùng. ước độ dặm đường đến một nơi thành quách nguy nga, có dân chúng qua lại buôn bán đông đúc.
Hai con quỉ dắt Hồ Địch đi thẳng vào thành, nơi đây chợ búa, phố phường nhộn nhịp. Đi một đoạn nữa, đến trước một cái đền cao lớn, sơn phết rực rỡ, phía trên có bốn tấm bảng đề bốn chữ rất to: "Linh Diệu Chi Phủ" trước cửa đền đứng vô số bọn đầu trâu mặt ngựa, đứa cầm cang xa, đứa cầm thiết chùy.
Hồ Địch trong lòng khiếp sợ, dừng chân lại. Một con quỉ đứng giữ Hồ Địch, còn con kia đi trước bẩm báo.
Giây phút sau hắn trở ra bảo Hồ Địch:
- Diêm Vương đòi ngươi vào.
Hồ Địch nghe nói tay chân bủn rủn, nhưng cũng liều nhắm mắt đưa chân, theo hai con quỉ đi ngay vào chốn điện hình.
Đến nơi, Hồ Địch ngước mắt nhìn thấy trên cao một vị Đại Vương áo mão rỡ ràng, hai bên có sáu vị thần áo xanh, đai xám, giày rộng mũ cao đứng hầu, mỗi người đều cầm một quyển sổ trên tay. Phía dưới, đứng hầu có trên năm trăm người, ai nấy đều có nanh vuốt dữ dằn, mắt lộ răng lồi càng thấy càng ghê sợ.
Hồ Địch vừa bước tới quỳ trước thềm, Diêm Vương đã lên tiếng quát hỏi:
Mi là học trò lẽ ra phải tôn kính trời đất mới phải, sao lại oán trách trời đất, chê bai quỉ thần?
Hồ Địch dõng dạc đáp:
- Tôi đây vốn dòng Hầu Tấn song cũng có học đạo thánh hiền, lẽ đâu lại dám oán hận trời đất, chê bai thần thánh?
Diêm Vương nói:
- Mi thường bảo trời đất có riêng, quỉ thần chẳng công, lại làm thơ có câu: "Thiên Tào mặc mặc duyên vô báo, Địa phủ minh minh định hữu ti sao mi bảo mi không oán trời, trách đất?
Hồ Địch nghe hỏi mới nhớ lại bài thơ trong lúc mình uống rượu say làm ra, nên vội vàng sụp lạy mà nói:
- Chỉ vì tôi thấy Nhạc Phi đã hết lòng vì dân vì nước, lại bị gian thần hãm hại, thế mà lũ gian thần chẳng những không bị trừng phạt mà còn ngang nhiên hưởng phú quí vinh hoa cho nên khi uống rượu say, nóng giận mới ca thán như vậy, xin Đại Vương dung thứ.
Diêm Vương nói:
- Được rồi, bây giờ hãy làm cho ta một tờ cung trạng, nếu ngươi luận phải lý, ta sẽ cho ngươi trở về dương thế sum họp với vợ con, bằng từ lý không thông thì đừng mong thoát khỏi chốn địa ngục này.
Nói rồi, sai quỉ đem giấy mực đến. Hồ Địch cúi đầu vâng dạ rồi múa bút thảo một hồi xong ngay. Bọn quỉ tiếp lấy đem dâng cho Diêm Vương. Diêm Vương bảo tả hữu đọc lớn lên cho mọi người đều nghe. Một viên đội mũ thẻ ngang đứng một bên tiếp lấy tờ cung trạng hắng giọng đọc:
"Phụng dĩ hỗn độn vị phân, diệt võ sinh nhi vô tử, âm dương ký phán, phương hữu quỉ dĩ hậu thần vị Tang môn truyền nhân quả chi kinh, tri địa ngục thiết luân hồi chi báo, thiện giả phước, ác giả họa, lý sở đương nhiên, trực chi thăng khuất chỉ trầm, diệc phi mầu hĩ. Cái ngu hiên chi dị loại, nhược u hiển chi thù đồi thị đĩ bất đắc kỳ binh tắc minh, phi điểm danh nhi điều tự, cam vọng phi pháp bất đạo chi giới, cố la tội dĩ chiến khiên, xuất ư tự nhiên bổn hồ thiên tính. Thiệt niệm mà âu độc phụ thơ, tảo hiệu công danh chi chi, trưởng thừa sư huấn, tạm vô kinh vĩ chi tài, phi duy rộng đồng quản chi hào, nghĩ giục giáp thiên môn chi dục, mỗi túc hưng dạ mị thường cùng lý dĩ tu thân; đọc Khổng thánh chi vi ngôn, tư cử trực chi thố uổng; quan Vương Khuê xác mận, tưởng khích trước dĩ vương thanh; lập trung trinh dục hiệu tòng quân, khăn suy lão cam đồng bồ liễu; thiên cao địa hạo tri bán thế chi hành tàng, nhựt cư nguyệt chư kiến nhất tâm chi diệu dụng, duy tôn hiền nhi tợ bửu; đệ kiến ác nhi như cừu, văn Nhạc Phi phụ tử chi oan, dục truy cầu nhi tử tránh, đỗ Tần Cối phu thê chi ác, cánh nguyện đắc nhi sinh thân; nhân Đông San tán túng hổ chi ngôn, trí bất thú thất hồi loan chi vọng; thương trung thần thần nhi bị hại hận tặc tử dĩ toàn chung, thiên đạo vô tri, quỉ thần an tại, tỷ gian nịnh sinh ư hiếu hạnh, lệnh liền triết tử ư vô cô, bán quỉ võ thần ty trượt kề chi sỉ, háo hiền ố nhịn thiết phi hu trượt chi nho, thị giai chí chánh chi tâm yên hậu thiên tư chi ý, ẩn tam bôi chi cuồng được phủ bát cú chi bĩ ngâm, tuy mao đại thông, thiệt vị công thần, duy thần giám chi".
Xin tạm dịch:
Lúc sơ khai còn hỗn độn thì đâu có sự sống chết?
Về sau âm dương phân biệt mới có quỉ thần; cửa Phật có truyền nhân quả, mới biết rõ địa ngục, thiên đàng là chỗ luân hồi báo ứng.
Làm lành hưởng phúc, làm dữ gặp họa là lẽ thường. Ngay thì được tự đo cất lên, gian thì phải nhận xuống không thể sai lệch. Nhưng vì trên đời ngu hiền cách biệt, sáng tối cách xa nên mới sinh ra nhiều nỗi bất bình buộc lòng phải nói, chớ không phải nói đề chuộng danh, cầu khen. Cũng không phải sợ phép mà câm miệng; ấy là lẽ tự nhiên vốn tại tính trời vậy.
Từ lúc nhỏ tôi đã đọc sách của cha tôi để lại, sẵn có chí công danh, lởn lên theo thầy học tập, nhưng hổ vì không tài kinh vĩ. Chẳng phải lộng bút khoe khoang, chứ thật tình ý muốn chắp cánh bay lên trời, đêm nằm suy gẫm quyết chí trau dồi, học lời Khổng thánh hiền theo ngay bỏ gian. Xem lời luận của Vương Khuê thường gạn đục khỏi trong, lập tiết trung trinh muốn bắt chước cây "tông" cây "trước". Giá tấm lòng son cam chịu như cây "liễu cây "bồ". Trời cao đất dày có biết hành động của tôi chăng? Nhật nguyệt hai vầng có thấu nỗi lòng này diệu dụng: Chỉ vì xem người hiền như châu báu, xem việc dữ như cừu thù nên oan tình của cha con Nhạc Phi tôi động lòng muốn chết theo, thấy vợ chồng Tần Cối độc ác muốn ăn tươi nuốt sống. Chúng luận câu thả cọp" tại chốn Đông Song, làm cho Nhị Đế hết trông về Nam Đại.
Thương người ngay bị hại, giận đứa nịnh hiển vinh. Thiên địa không hay, quỉ thần chẳng biết; để đứa gian sống yên vô sự, người hiền chết ức chết oan. Tôi chê thần, nhạo quỉ chẳng phải như kẻ sĩ trớ trêu, ghét nịnh ưa hiền không sánh với bọn nho gia giễu cợt.Quả là lòng ngay thẳng chẳng chút cong queo. Uống ba chén rượu vịnh vài vận đau buồn, tuy làm tội lớn, song với lẽ công bằng.
Đến đây lời nói đã cùng, xin thần linh phán xét!
Diêm Vương nghe nói cười ha hả:
- Loài hủ nho giỏi tài hùng biện thật. Tuy lòng ngươi ưa lành ghét dữ cũng khá khen, song trong bài thư ngươi có câu: Nhược đắc Diêm la tố, nghĩa là nếu ngươiđược làm vua Diêm Vương. quả thật ngươi hủy ta đến thậm tệ. Ta thử hỏi, ngươi mà được làm Diêm Vương thì ngươi bỏ ta ra chỗ nào?
Hồ Địch đáp:
- Xưa ông Hàm Cầm Hổ có nói rằng: Sống làm Thượng Trụ Quốc, chết làm Diêm La Vương và ông Khấu Lại Công, Giang thừa tướng cũng thường nói lời ấy, sách sử hãy còn rành rành hơn nữa vua Diêm Vương là người thánh nhân quân tử trên cõi dương gian xuống, chấp nhặt làm chi việc ấy? Tôi đây tuy chẳng dám sánh với ba ông ấy, song về phương diện lòng ngay, dạ thẳng cũng dám bì theo chút đỉnh.
Diêm Vương lại hỏi:
- Nếu Diêm Vương thay đổi thì người cũ đi đâu?
Hồ Địch đáp không nghĩ:
- Nếu có thay đổi tất nhiên người cũ phải đầu sinh lên dương thế làm vương công đại nhân.
Diêm Vương nghe đến đây cười xòa nói:
- Tên này nói rất chí lý, song những hạng cuồng sinh này nếu không cho hắn thấy tất nhiên không tin lẽ báo ứng của trời đất, rồi suốt đời hắn không biết kiêng dè.
Nói rồi Cho gọi Lục Y đem tấm Bạch Giản đến. Hồ Địch thấy trên tấm bạch giản có đề tám chữ: "Hữu ngưỡng phổ lược địa ngục minh quan".
Diêm Vương dặn tên Lục Y:
- Mi hãy dắt Hồ Địch đi xem việc báo ứng khắp hết các cửa ngục nhé!
Lục Y lĩnh mệnh dẫn Hồ Địch bước xuống Tây Lang thẳng ra phía sau điện chừng ba dặm. Nơi đây vách tường cao hằng mấy trượng, xây bằng đá trắng, lấy sắt làm cửa, phía trên có đề bốn chữ: "Phổ lược chi ngục".
Lục Y bước tới gõ cửa, thình lình bên trong có mấy tên quỉ Dạ Xoa nhảy bổ ra chộp bắt Hồ Địch, Lục Y trợn mắt hét:
- Hãy buông ra lập tức, người nho sinh này không có tội, ta vâng lệnh đem người này đến đây để xem cho tường tận việc báo ứng đó thôi?
Vừa nói vừa đưa tấm Bạch Giản cho quỉ Dạ Xoa xem. Quỉ Dạ Xoa trông thấy Bạch Giản vội buông Hồ Địch ngay và nói:
- Tôi tưởng là tội nhân, ai ngờ là nho sinh, xin người chớ chấp.
Sau đó bọn quỉ đứng nép sang một bên, Lục Y dắt
Hồ Địch đi thẳng vào trong. Đây là nơi rộng rãi ước chừng hơn năm mươi dặm vuông, mặt trời soi bóng lờ mờ, hơi lạnh thấu xương. Phía Đông là ngục Phong Lôi, phía Nam là ngục Hỏa Xa, phía Tây là ngục Kim Cang, phía Bắc là ngục Minh Lãnh. Không biết bao nhiêu là đàn ông, đàn bà, kẻ mang gông, người mang xiềng đi tới, đi lui chật ních.
Lục Y dẫn Hồ Địch đến trước một cái cửa, vừa nhìn vào đã thấy hơn hai mươi người trần truồng bỏ tóc xõa, tay chân đều bị đóng đinh dính cứng trên giường sắt, cổ bị mang gông sắt, toàn thân bị dấu roi tra khảo nứt nẻ, máu mủ xông ra tanh hôi ghê gớm chẳng ai dám lại gần.
Lục Y chỉ một người phía dưới nói với Hồ Địch:
- Tần Cối kia kìa, hắn đã bị bắt xuống đây rồi, còn bọn Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập và Trương Tuấn chẳng bao lâu cũng bị quả báo tại đương gian rồi sẽ bị bắt xuống đây hành tội như vậy.
Rồi Lục Y giơ tay chỉ mấy người còn lại những bộ xương trắng hếu, nói:
- Ngươi có biết bọn này là ai không? Bọn này không ai xa lạ chính là bọn Chương Đôn; cha con Thái Kinh, Vương Phố, Châu Nại, Cảnh Nam, Ngô Trọng Thắng, Mạc Trù, Phạm Quỳ toàn là lũ gian ác thảy đều bị tội tại đây Diêm Vương có dạy phải dùng âm hình khảo chúng cho ngươi xem, vậy hãy xem đây.
Nói rồi Lục Y gọi hơn ba mươi tên quỉ dẫn bọn Tần Cối đến ngục Phong Lôi trói vào cây cột đồng; rồi một tên quỉ tốt lấy roi đánh vào chiếc vòng một cái, đột nhiên đao thương bay đến đâm Chém chúng túi bụi. Bọn Tần Cối mình mẩy nát như trái mồng tơi, trong giây phút, nghe sét đánh xuống ầm ầm, bọn Tần Cối nát bấy ra như tương, máu chảy tràn trề. Rồi bỗng một luồng ác phong thổi tới, quyện chung quanh mấy cái thây một
hồi. Lạ thay, mấy cái thây nát được hoàn y lại như cũ.
Lục Y nói với Hồ Địch:
- Sét đánh tức là âm lôi, còn gió thổi là Nghiệt phong đấy.
Nói rồi lại sai quỉ ít dẫn bọn Tần Cối qua phía ngục Kim Cang, trói vào nơi giường sắt, Quỉ đầu trâu tu miệng thổi một cái, nổi lên một luồng Hắc phong thổi tới cuồn cuộn, đao kiếm bay tới chém xả vào mình máu tuôn lai láng.
Sau khi quỉ đầu trâu hô lên một tiếng, gió đao ngừng lại hắn liền dẫn tội nhân sang ngục Hỏa Xa. Ở đây, bọn quỉ Dạ Xoa cầm đinh ba chực sẵn vứt bọn Tần Cối bỏ lên xe rồi lấy quạt lớn phất qua một cái, tức thì hỏa xa chạy như bay, lửa cháy rần rần, trong giây phút cả bọn đều bị cháy thành tro Quỉ tốt lấy một thứ nước gì thối lắm đem tưới vào, mấy cái thây lại hoàn nguyên như cũ.
Sau đó chúng lại dẫn qua ngục Minh Lãnh, bọn quỉ xách bọn Tần Cối ném xuống nước,nước lạnh thấu xương rồi lấy dao dần xương thịt nát bấy, đoạn lấy câu móc, móc lên đem vào chỗ cũ, lấy đinh đóng hai tay chân vào cây trụ đồng, rồi lấy đầu sôi xối vào khắp thân mình, đói thì cho ăn đao sắt, khát cho uống nước đồng.
Lục Y nói với Hồ Địch:
Cứ ba ngày bọn gian thần này phải chịu hình phạt trong các ngục ấy một lần, sau ba năm chúng phải đầu thai lên dương thế làm trâu dê, heo chó cho người ta phanh thây xẻ thịt ăn. Còn vợ Tần Cối nay mai đây cũng bắt xuống hành tội ba năm rồi mới đầu thai lên dương gian làm lợn nái, để đẻ heo con cho thiên hạ dùng, cuối cùng hắn cũng không khỏi bị phân thây xẻ thịt, còn bọn Tần Cối kia phải làm loài súc vật trên năm mươi kiếp.
Hồ Địch nói:
- Tội ấy bao giờ mới hết?
Lục Y đáp:
- Tội ấy bị hành hạ đời đời kiếp kiếp, chẳng biết bao giờ hết!
Vừa nói vừa dắt Hồ Địch qua phía Tây Viên. ở đấy có một cái cửa nhỏ đề bốn chữ: "Gian hồi chi ngục", người ta thấy hơn trăm người mang gông xiềng, hình thù gần giống như thú, gươm đao bị găm đầy mình.
Hồ Địch nói:
- Bọn ấy bị tội gì vậy?
Lục Y đáp:
- ấy là bọn gian tướng lừa vua dối bề trên, phá nước hại dân, cứ ba ngày chịu hình phạt một lần rồi cũng đúng ba năm đầu thai làm súc vật như bọn Tần Cối vậy.
Nói rồi, lại dắt Hồ Địch qua phía Nam Viên đến trước khung cửa nhỏ, ở đây cũng có đề chữ: "Bất trung nội thần chi ngục".
Trong ấy hơn mấy ngàn con trâu, con nào con nấy đều có dây sắt xỏ mũi, buộc vào cây trụ sắt, bốn phía đều nhóm lửa để nướng.
Hồ Địch lấy làm lạ, hỏi:
- Trâu mà có tội gì, lại hành phạt đến thế?
Lục Y đáp:
- Chớ nên hỏi vội, hãy bình tĩnh xem thì biết.
Nói rồi khiến ngục tốt lấy quạt lớn quạt lửa lên, chỉ trong giây phút lửa cháy phừng phừng, bầy trâu nóng quá kêu rống lên, da thịt chảy nứt ra, bỗng nghe trong lửa nổ lên một tiếng, da trâu vàng mất hết để lộ ra hình người trần truồng trông rất thảm hại. Lục Y lại sai quỉ Dạ Xoa quăng vào vạc dầu, da thịt tiêu hết chỉ còn những bộ xương trắng, trông dễ sợ làm sao!
Giây phút sau, quỉ tốt lấy nước phun vào, tự nhiên hình người trở lại như cũ.
Lục Y nói với Hồ Địch:
- Bọn này trước kia cũng là những hoạn quan, trải qua mấy đời vua như bọn Thập Thường Thị đời Hán, bọn Lý Phụ Quốc, Cừu Si Lương, Vương Thủ Trùng, Điền Lệnh Tư đời Đường; bọn Diêm Văn ưng, Đông Quán đời Tống, chúng được nuôi dưỡng ở trong cung cấm, ăn đồ ngọc thực, mặc áo cẩm y đã không lo đều ơn chúa lại học thói khi quân giết hại trung thần, hiếp người lương thiện, làm khổ sở muôn dân nay phải báo ứng đời đời kiếp kiếp.
Nói rồi, dắt Hồ Địch qua nơi Đông Bích thấy đàn ông, đàn bà mấy ngàn, không tấm chăn manh áo che thân, kẻ bị nấu dầu, người bị mổ ruột, kẻ ngồi bàn chông người bị cắt lưỡi kêu khóc inh tai nhức óc. Lục Y đưa tay chỉ và nói:
- Những bọn này phần đông là bọn tham quan Ô lại, nhiễu quốc hại dân, không biết thảo ngay, nghịch cha dối chúa, lại gian dâm, ăn hối lộ, hoặc ăm trộm, ăn cướp của người ta nên phải tội như vậy.
Hồ Địch xem đến đây điểm một nụ cười khoái trá nói:
- ừ có như vậy mới hả giận ta chứ!
Lục Y dắt Hồ Địch trở lại Linh Diêu điện, Diêm Vương hỏi:
- Tên cuồng sinh kia, ngươi đã thấy rõ quả báo chưa?
Hồ Địch cúi đầu đáp:
- Vâng, tôi đã trông thấy tường tận. Thế mới gọi là thiên địa vô tư, quỉ thần minh sát chứ!
Diêm Vương lại nói:
- Nay ngươi trông thấy đã rõ ràng, vậy ngươi hãy làm một bài phê phán vợ chồng Tần Cối ta xem nào. Hồ Địch vâng mệnh múa bút viết ngay một bài luận tội vợ chồng Tần Cối rồi dâng lên.
Diêm Vương xem xong vỗ tay cười ha hả, lớn tiếng khen:
- Tên học trò này quả là kẻ cuồng trực.
Hồ Địch lại bẩm:
- Đứa gian thần đền tội chính mắt tôi trông thấy rõ ràng, song còn Nhạc Hầu trung nghĩa lại bị hãm hại, chẳng biết lúc này người ở tại đâu?
Diêm Vương nói:
- Ngươi khỏi cần phải đòi hỏi việc ấy, ta đã cho ngươi thấy rõ địa ngục để thấy Tần Cối bị hình phạt như thế nào tất nhiên ta phải cho ngươi thấy Nhạc Phi để ngươi khỏi thắc mắc nữa chứ. Ta tin cho ngươi biết rằng, ta đã cho người đi thỉnh hồn Nhạc Phi và Ngột Truật xuống đây đặng đối án Tam Tào để ngươi hiểu rõ. Nguyên vì lúc trước vua Đạo quân Hoàng Đế nhân tiết Nguyên đán tế trời, người viết tờ biểu lại chấm chữ ngọc lộn lên chữ đại thành thử chữ "Ngọc hoàng Đại để hóa ra chữ "Vương Hoàng khuyển đế". Vì vậy Ngọc Hoàng nổi giận sai con Xích Tu Long xuống đầu thai làm Ngột Truật để nhiễu loạn giang sơn nhà Tống.
Còn Nhạc Phi nguyên là Đại Bàng điểu chỉ vì mổ chết con nữ Thổ Bức nên đức Phật Như Lai phạt xuống phàm trần, oan hồn nữ Thổ Bức lại đầu thai xuống làm vợ Tần Cối tại Đông Song để báo cái thù ấy.
Tần Cối chính là con Cù Long cũng bị Đại Bàng điểu mổ trúng tại Cửu khúc Hoàng Hà, hắn dâng nước làm hại huyện Thang âm phạm thiên triều nên bị đày xuống đầu thai để bao thù.
Việc oan oan tương báo như vậy, nhưng Vương thị tham dâm tư thông với Ngột Truật, còn Tần Cối tàn hại trung lương nên phải bị địa ngục hành hình. Còn Nhạc Nguyên soái đang ở nơi thiên tước phủ, nay mai đây sẽ đặng dương gian phong tặng muôn thuở thơm danh.
Diêm Vương giải thích cho Hồ Địch nghe một hồi rồi sai tả hữu đi mời Nhạc Nguyên soái và Ngột Truật đến.
Mấy phút sau đã thấy Nhạc Nguyên soái cùng Nhạc Vân, Trương Hiến đến, tiếp theo sau là tứ hoàng tử Phiên bang Ngột Truật, Diêm Vương bước xuống nghênh tiếp lên điện, phân ngôi chủ khách mời ngồi.
Diêm Vương nói:
- Nay chỉ vì gã cuồng si kia chẳng biết việc chi quả báo, thường oán trách trời đất tư vị, quỉ thần chẳng công, vả chính Nhạc công và Hoàng tử đây cũng chưa rõ thấu được cội nguồn của mình nên ta mới mời hai người xuống đây để đối án Tam Tào cho rõ, để tỏ rằng thiên địa quỉ thản chí công vô tư, duy việc báo ứng chỉ sớm muộn mà thôi.
Ngừng một lát, Diêm Vương đem việc nhân quả đầu đuôi thuật hết một hồi, rồi nói:
- Nhạc công tử, Trương tướng quân đây đều là Lôi Phủ Linh quan hạ giới, chẳng bao lâu đây cũng sẽ có ngọc chỉ gia phong quý vị.
Dứt lời Diêm Vương sai quỉ tốt xuống chốn Phong Đô dẫn Tần Cối đến. Tần Cối bị xiềng xích đầy mình, quì gục đầu trước điện. Diêm Vương quát bọn đầu trâu mặt ngựa đè Tần Cối xuống đánh hai mươi roi đồng, máu tuôn lai láng rồi sai dẫn vào địa ngục.
Mọi việc xong xuôi, Diêm Vương trầm giọng bảo:
- Nay việc nhân quả đã rõ ràng, vậy xin Nguyên soái hãy trở về Thiên Tước phủ nghỉ ngơi, còn Hoàng tử trở lại dương trần làm xong công việc của mình. Riêng tên Hồ Địch này vì không biết mà mắc lỗi lầm, hơn nữa là người chính trực đáng khen nên ta cho trở về dương thế và cho ngươi được hưởng thọ thêm một kỷ nữa.
Lúc bấy giờ cha con Nhạc Phi và Ngột Truật mới hay việc trước của mình, liền từ biệt Diêm Vương ra đi. Diêm Vương cũng bước xuống điện đưa ra khỏi cửa rồi mới trở lại ngồi trên điện.
Bỗng thấy quan Công tào bước đến tâu:
- Hồ Địch xuống đây đã lâu, nếu trễ chừng ba khắc nữa thì cái thây phải rã, khó mà cứu sống lại được.
Diêm chúa nói:
- Thế thì mau mau bắt con Cấp khước cho hắn cưỡi về
Quỉ tốt vâng lệnh dắt đến một con ngựa, rồi nhanh như chớp bế xốc Hồ Địch để trên lưng ngựa, đoạn quất con ngựa một roi con ngựa vụt chạy nhanh như bão. Hồ Địch kinh hồn hoảng vía nằm mọp trên lưng ngựa ghì chặt đây cương hai mặt nhắm nghiền không dám cựa quậy.
Chỉ trong nháy mắt con ngựa bay đến một hòn núi cao, Hồ Địch len lén hé mắt nhìn thấy hai bên đều vực sâu thăm thẳm, chính giữa có một con đường đi rất hẹp, lòng đầy kinh hãi, tay chân bủn rủn ngồi không vững, thình lình trật yên té nhào xuống vực, giựt mình thức dậy mồ hôi ướt dầm, mở mắt ra thấy mình nằm ngủ trên giường, còn cả nhà thì lăn ra khóc lóc thảm thiết.
Hồ Địch nói:
- Ta sống lại rồi, khóc lóc làm chi.
Cả nhà vui mừng khôn xiết, lập tức bỏ hết các đồ tang chế, xúm lại hỏi thăm.
Hồ Địch chết ba ngày mới sống dậy, ai nấy đều lấy làm lạ. Sau khi Hồ Địch húp vài muỗng cháo, kể hết mọi chuyện mình thấy dưới âm ty cho mọi người nghe, ai nấy đều sợ hãi nói với Hồ Địch:
- Tần Cối mới chết hôm qua thế mà hắn đã bị hành tội dưới địa ngục rồi thật là đáng sợ!
Trương Tín dâng năm đều phá địch
Hiếu Tông quyết sửa trị Tống triều
Ngột Truật cho triệu tập các vị Vương tử như: Hoàn Nhan Càn Tự, đại Nguyên soái Chiêm Đắc Lực, Trương
Báo Mã Đề Quốc, Nguyên soái Mạo Lợi, Yên Chi Quốc, Nguyên soái Hoàn Hắc Bửu, Hắc Thủy Quốc, Nguyên soái Hàm Lý Đóa; quân sự Hấp Mê Xi, mưu sĩ Hốt Mê Nhĩ đốc xuất năm chục vạn quân, rầm rộ kéo thẳng qua Trung nguyên.
Vừa thấy quân Phiên kéo sang, các quan địa phương đều dâng bổn chương về triều cấp báo, một ngày không biết mấy chục tờ bổn chương mà kể.
Nói về Vương thị, từ ngày Tần Cối chết rồi, ngày đêm tâm thần hoảng hốt, ngồi đứng chẳng yên. Ngày kia mụ ta ngồi dựa mình trên thành ghế, một mình tay chống cằm suy tính, bỗng thấy a hoàn chạy vào bẩm:
- Nghe nói nay Kim Bang Hoàng tử Ngột Truật dấy đại binh hơn năm mươi vạn đánh qua Trung Nguyên thế mạnh như chẻ tre, binh mã kéo đến gần tới Châu Tiên trấn rồi!
Vương Thị nghe nói nghĩ thầm:
- "Nay Nhạc Phi chết rồi không ai ngăn chống, thế nào giang sơn nhà Tống cũng sẽ về tay Kim Bang Ngột Truật. Vậy ta chuẩn bị dắt gia quyến nghênh tiếp người, thế nào người cũng nghĩ đến tình cũ, nghĩa xưa sẽ phong tước cho ta".
Còn đang suy nghĩ bỗng có ngọn gió âm phong không biết từ đâu thổi tới sởn cả tóc gáy. Vương thị vừa ngước mắt lên bỗng thấy một tên đầu trâu, mặt ngựa dắt theo mấy tên quỷ mặt mày hung ác, đứa cầm chùy sắt, đứa vác đinh ba lại có cả Tần Cối bị mang xiềng xích xưng xẻng.
Tần Cối bước tới trước mặt Vương thị thì thào, nói:
- Khổ sở lắm phu nhân ôi!
Vương thị kinh hồn hoảng vía, mồ hôi toát ra ướt cả áo.
Tần Cối lại nói:
- Việc trước kia đã lộ ra hết rồi!
Nói chưa dứt lời, quỷ tốt đã vung chùy đập lên lưng Vương thị một cái. Vương thị rú lên một tiếng thất thanh té xỉu xuống đất, vừa khóc vừa kêu:
- Xin tha mạng, xin tha mạng!
Bọn a hoàn vội vã chạy vào phòng thấy Vương thị nằm ngay dưới đất, chúng khiêng để lên giường rồi chạy ra ngoài báo cho Tần Hy hay. Tần Hy lật đật chạy vào thấy Vương thị lè lưỡi dài hơn ba tấc, hai con mắt lòi tròng ra, chết một cách thảm hại.
Tần Hy khóc than một hồi rồi lo sắm sửa việc tang chế. Sáng hôm sau, vào Triều dâng biểu tâu vua hay, nhằm lúc vua Cao Tông thăng điện, văn võ bá quan triều bái xong rồi phân đứng hai bên. Bỗng thấy quan huỳnh môn bước đến Kim giai, cúi đầu quỳ xuống tâu:
- Này có rất nhiều bổn chương của các ải gửi về cáo cấp xin dâng cho bệ hạ ngự tường.
Quan cận vệ tiếp lấy bổn chương đem trải lên long án, Cao Tông xem qua mặt mày biến sắc, phán hỏi:
- Có ai dám lãnh binh đi trừ Ngột Truật không?
Lúc ấy linh hồn Nhạc Phi nhập vào La Võ Tập khiến hắn bước ra quỳ tâu:
- Muôn tâu Thánh thượng, Nhạc Phi này xin đi vậy.
Cao Tông nghe hai tiếng Nhạc Phi hồn bất phụ thể, hoảng sợ ngã nhào xuống long sàng, các quan đại thần xúm lại đỡ dậy đưa thẳng vào cung. Rồi sau đó mình rồng mê sảng, cả ngày cứ giật mình nói lảm nhảm, lắm lúc lại rú lên thất thanh, thuốc men gì cũng không hiệu quả. Chỉ vài hôm sau Cao Tông băng hà.
Các quan đại thần họp lại tôn Thái tử lên ngôi (Thái tử này là cháu vua Cao Tông).
Thái tử lên ngôi xưng hiệu là Hiếu Tông, phát chiếu đi rao truyền khắp thiên hạ và gia thăng quan chức cho các quan viên trong Triều.
Lúc ấy Nguyên soái Trương Tín nghe Cao Tông mất, tân vương lên kế ngôi, liền về Lâm An triều hạ. Vua Hiếu Tông truyền mời Trương Tín vào cung, Trương Tín vào làm lễ và tâu:
- Bệ hạ mới lên ngôi mà quân Kim đã xâm lấn bờ cõi Trung Nguyên, chẳng hay bệ hạ đã dự tính cách nào để đối phó?
Hiếu Tông đáp:
- Trẫm tuổi còn nhỏ chưa biết được việc chi, chẳng hay lão khanh có chước chi dẹp được quân Kim chăng?
Trương Tín nói:
- Muốn dẹp được quân Kim, thần xin dâng lên Thánh thượng năm điều.
"Điều thứ nhất, phải bắt hết lũ gian thần hạ ngục, trị tội rửa hờn cho dân. Điều thứ hai, sai quan xây mồ đắp mả cho Nhạc Nguyên soái và lập trung từ, quý tế cho rạng danh trung nghĩa. Điều thứ ba, phải hạ chỉ sai quan ra Vân Nam tha cho nhà họ Nhạc về và phong cho con là Nhạc Lôi nối lấy chức cha và sai đi dẹp quân Kim. Điều thứ tư phải chiêu an bọn Ngưu Cao ở trên Thái Hành sơn về để cùng với chúng tướng trừ Ngột Truật. Điều thứ năm là phải phục chức lại cho mấy vị cựu thần. Nếu bệ hạ làm theo năm điều ấy thì có lo chi Kim binh chẳng phá, xã tắc chẳng an?
Hiếu Tông nghe tâu mừng rỡ, phán:
- Hay lắm, thế thì trẫm phiền lão Quốc trụ, bắt cho hết gia quyến lũ gian thần hạ ngục.
Sau đó vua Hiếu Tông hạ chỉ truyền cho Lại Bộ sai quan ra Vân Nam tha hết cả nhà họ Nhạc và triệu thỉnh về sắc phong cho con là Nhạc Lôi nối lấy chức cha, đồng thời sai quan Đại học sĩ Lý Văn Thắng lên Thái Hành sơn chiêu an bọn Ngưu Cao, một mặt sai Trương Cửu Tư lo xây đắp Nhạc mộ phần, lại ban chiếu ra khắp thiên hạ cho những quan cựu thần bị Tần Cối truất phế lúc trước đều về triều phục chức cũ.
Trương Tín tạ ơn, lãnh chỉ lui ra khỏi cung, lập tức dẫn quân Hiệu úy đi bắt hết bọn La Võ Tập, Vạn Sĩ Hoa, Trương Tuấn và gia quyến lớn nhỏ thảy đều hạ ngục, còn Trương Cửu Tư thì lãnh thánh chỉ dẫn quân ra nơi Thê Hà lãnh lo xây đắp phần mộ cho Nhạc Phi, lại lập miếu, đúc tượng thờ Nhạc Phi và các vị trung thần.
Cùng lúc ấy Trần Nghĩa Tông cũng lãnh thánh chỉ tuốt ra Vân Nam tha cả nhà họ Nhạc, lại phát chiếu thư truyền rao cho khắp thiên hạ đều hay biết. Tất cả những người bị liên lụy với họ Nhạc phải đi trốn tránh, nay đều được trở về Triều nhận chức.
Khi Châu Tam Húy hay được tin ấy liền làm một tờ biểu kể rõ việc Nhạc Phi bị Tần Cối hãm hại và ép mình tra tấn cùng các việc oan uổng về Triều dâng lên kêu oan cho Nhạc Phi.
Vua Hiếu Tông phê chuẩn ngay rồi phục chức lại, cho Châu Tam Húy và sai tra khảo bọn gian thần.
Châu Tam Húy tạ ơn lui ra.
Nói về Lý Văn Thắng phụng chỉ lên núi Thái Hành sơn chiêu an bọn Ngưu Cao, kéo binh đi tròn một tháng mới đến nơi, nhờ lâu la lên núi báo tin. Lâu la chạy đi báo cho Ngưu Cao hay, Ngưu Cao bảo:
- Hãy gọi hắn lên đây!
Lâu la chạy xuống thưa:
- Đại Vương dạy gọi ngài lên núi cho người bảo.
Lý Văn Thắng hơi bất bình, song không biết làm sao đành phải theo lâu la lên núi ra mắt Ngưu Cao nói:
- Xin Ngưu tướng quân hãy đặt bàn hương án để tiếp chỉ.
Ngưu Cao lắc đầu trề môi, đáp:
- Lão hôn quân ấy đối với ta có nghĩa gì nữa mà bảo tiếp chỉ, ngươi thử nghĩ lúc lão ta bị ngộ nạn tại Ngưu Đầu sơn nhờ có bọn ta hiệp lực với Nhạc đại ca ra tay bảo vệ lập không biết bao nhiêu công lao thế mà lão không biết ơn, lại nghe lời đứa gian thần giết chết Nhạc đại ca ta còn bắt cả nhà đày ra Vân Nam, nay lão còn muốn sai người đến đây lừa để hại ta nữa phải không?
Lý Văn Thắng nói:
- Thế ra tướng quân không biết chi hết sao? Nay vua Cao Tông đã băng hà rồi.
Ngưu Cao ngắt lời, nói:
- Lão hôn quân ấy chết thật rồi ư? Nhưng lão đã chết rồi ngươi lại đến đây bảo ta tiếp chỉ của ai?
Lý Văn Thắng đáp:
- Nay Thái tử lên ngôi xưng hiệu là Hiếu Tông hoàng đế truyền bắt hết lũ gian thần trong Triều hạ ngục, sai quan ra Vân Nam tha hết cả nhà họ Nhạc về, phong cho con là Nhạc Lôi nối lấy chức cha, lại sai Trương Cửu Tư xây lập mộ phần cho Nhạc Phi, còn hạ quan lãnh nhiệm vụ chiêu an tướng quân về kinh trọng dụng.
Ngưu Cao suy nghĩ hồi lâu rồi thở dài hằn học:
- Ta tưởng các chú Hoàng đế đều là những hạng người vô tình bạc nghĩa, ta đã bị lừa nhiều rồi, bây giờ nhất định không bị lầm nữa đâu, đừng hòng chiêu an vô ích.
Lý Văn Thắng nói khích:
- Hay là tướng quân nghe nói Ngột Truật qua xâm phạm Trung Nguyên lần nữa nên sợ hãi không dám xuống chăng?
Ngưu Cao trợn mắt nhìn thẳng vào mặt Lý Văn Thắng, nói:
- ồ, Ngưu Cao này đời nào biết sợ Ngột Truật? Thôi, nếu ngươi nói vậy thì để ta xuống dẹp an Ngột Truật rồi trở về đây chứ nhất thiết, không chịu khuất phục ai nữa hết.
Kiết Thanh bước tới nói:
- Ngưu huynh chớ nên nóng nảy, muốn biết việc này giả thật ra sao, Ngưu huynh hãy xuống Vân Nam thăm tẩu tẩu nếu quả được tha thật, thì bọn ta kéo về kinh một lượt.
Ngưu Cao nói:
- Kiết đệ nói chí lý.
Sau đó Ngưu Cao tiễn Lý Văn Thắng về kinh phục chỉ rồi một mình dẫn binh ra thằng Vân Nam:
Nói về Nhạc phu nhân bữa nọ đang ngồi đàm luận
với Sàn nương nương, bỗng thấy quân sĩ chạy vào bẩm:
- Có thánh chỉ đến.
Nhạc phu nhân vội vàng dẫn hết gia quyến ra rước thánh chỉ vào trung đường, quỳ xuống nghe khâm sai Trần Nghĩa Đông đọc.
Đọc xong, Nhạc phu nhân cùng các vị công tử đều cúi đầu tạ ơn rồi hối thúc gia nhân dọn yến tiệc, thết đãi khâm sai. Hôm sau, khâm sai từ biệt trở về kinh phục chỉ.
Lý Thuật Phủ hay tin ấy liền dắt con rể mình đến chúc mừng, Nhạc phu nhân làm lễ ra mắt xong, Lý Thuật Phủ nói:
- Tôi được nghe tin phu nhân phụng chỉ về Triều nên phải đưa hai đứa trẻ qua đây, để chúng nó về theo.
Nhạc phu nhân cảm tạ chẳng cùng, liền hối gia nhân dọn tiệc thết đãi ăn uống vui chơi cho tới chiều mới mãn tiệc.
Sáng hôm sau, Nhạc phu nhân sắm sửa lên đường, Lý Thuật Phủ tiễn đưa trên một dặm đường mới giã biệt rể con trở lại, lệ giọt ngắn giọt dài trông rất thảm thiết. Còn mẹ con Sài nương nương cũng sắm sửa theo đưa, nhắm Nam Quan tiến tới.
Đi chẳng mấy ngày đã đến Bình Nam quan Nhạc phu nhân bèn chọn ngày cho Nhạc Lôi, Hàn Khởi Long, Hàn Khởi Phụng, Ngưu Thông bốn người làm lễ hoa chúc, đoạn nghỉ tại đó ba hôm mới dắt nhau về Lâm An. Khi đi đến quận Nam Ninh, Sài Lão nương nương, Sài Vương cùng Lộ Huê Vương trở về Vương phủ.
Khi Nhạc phu nhân qua khỏi Thiết Lư quan, bỗng gặp binh mã của Ngưu Cao vừa đến đó. Ngưu Cao hỏi:
- Binh mã phía trước đó là của ai vậy?
Quân sĩ bảo:
- Đó là Nhạc phu nhân phụng chỉ hồi Triều.
Ngưu Cao bảo:
- Thế thì ngươi hãy đến bẩm báo cho Nhạc phu nhân biết có ta là Ngưu Cao muốn ra mắt phu nhân.
Quân sĩ vội đến báo cho phu nhân hay. Phu nhân sai quân sĩ an dinh hạ trại tại đó và gọi các vị công tử vào bảo:
- - Các con hãy đi mời Ngưu thúc thúc của các con đến đây cho mẹ nói chuyện.
Các công tử vâng lời ra đón Ngưu Cao vào dinh. Ngưu Cao làm lễ ra mắt Nhạc phu nhân xong, Nhạc phu nhân nói:
- Nay triều định đã tha tội cho chị rồi, chị phụng chỉ trở về kinh, thúc thúc cũng nên bỏ sơn trại đi, về một lượt với chị để triều kiến tân Vương, rồi ra sức giúp triều đình cho toàn trung, toàn nghĩa.
Ngưu Cao vâng dạ và nói:
- Lời tẩu tẩu nói thật là chí lý, vậy để Ngưu đệ này dẫn binh về Thái Hành sơn trước để thu góp sơn trại rồi dắt hết mấy anh em đến đón tẩu tẩu.
Nói rồi từ biệt Nhạc phu nhân cùng các vị, đi suốt đêm ngày về Thái Hành sơn, còn Nhạc phu nhân cứ thủng thẳng mà đi.
Sau đó mấy hôm, Ngưu Cao dắt hết bọn Triệu Vân, Lương Hưng, Kiết Thanh và Châu Thanh cùng lâu la chực sẵn bên đường chờ đợi.
Hai người gặp nhau mừng rỡ rồi cùng nhau kéo đến Lâm An. Nhạc phu nhân dẫn hết bọn Ngưu Cao và các vị Công tử đến trước ngọ môn hầu chỉ.
Quan huỳnh môn vào tâu, Hiếu Tông hạ chỉ mời hết vào điện. Bọn Nhạc phu nhân quỳ trước Kim giai. Hiếu Tông phán:
- Chỉ vì tiên đế nghe đứa gian thần, làm cho tôi trung thác oan, nay trẫm sắc phong cho Lý thị làm Nhất phẩm Quận Quốc phu nhân, bốn người con thì phong tước Hầu. Bọn Ngưu Cao, Kiết Thanh thì phong làm Địệt Lỗ Đại Tướng Quân. Bọn Hàn Khởi Long, Tông Lương, mấy vị tiểu anh hùng đều phong làm Ngự Tiền Đô Thống. Nhạc Lôi thì phong thụ chức của Nhạc Nguyên soái khi xưa, cấp cho phủ trạch mà ở. Còn những tướng khác, ngày mai trẫm sẽ ngư tế sắc phong luôn thể.
Ai nấy đều tạ ơn lui ra khỏi triều.
Sáng hôm sau, vua Hiếu Tông đắt hết văn võ bá quan ngự giá ra mộ Nhạc Phi bày hương hoa, lễ vật để tế điện, sai quan Đại Học sĩ Lý Văn Thắng đọc một bài văn tế.
Đọc xong, Hiếu Tông truyền chỉ sắc phong cho Nhạc Phi làm Ngọc Quốc Công, Nhạc Vân làm Trung Liệt Hầu, Ngân Bình làm Hiếu Hòa phu nhân, Trương Hiến làm Thành nghĩa Tướng quân, Thi Toàn làm Chúng An Kiều Thổ Địa, Vương Hoành làm Bình Giang Dịch Thô Địa, Trương Bảo làm Nghĩa Dũng úy, Thanh Hoài làm Trung Nghĩa Tướng Quân, Dương Tái Hưng làm Trung Dũng Tướng Quân, bọn Đổng Tiên năm người đều phong làm Tụy Trung úy, còn các tướng tử trận tất thảy đều phong tặng.
Hiếu Tông còn lập chùa miếu để xuân thu tế tự, lại sai Châu Tam Húy cùng với Ngưu Cao thẩm vấn bọn Tần Hy, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập, Trương Tuấn cùng hết thảy gia quyến của bọn gian thần, cứ theo luật hình mà trị tội.
Nhạc phu nhân và chư tướng cúi đầu tạ ơn; vua Hiếu Tông lên giá hồi cung. Chư tướng quỳ đưa thánh giá đi rồi trở lại cùng nhau tế điện trước mộ phần Nhạc Phi.
Trong khi mọi người đang lạy, bỗng có hai người ở đâu chạy tới cũng quỳ xuống trước mộ lạy và khóc rống lên rồi lột đồ tang bỏ đi. Các vị công tử bận lo tế lễ không biết là ai, chỉ có Nhạc Lôi bước tới hỏi:
- Chẳng hay nhị vị là ai, có quen biết chi với cha tôi hay sao mà tế điện?
Một người nói:
- Tôi là Vương Năng, còn vị này là Lý Trực, lâu nay chúng tôi ngưỡng mộ Nhạc gia trung nghĩa, lúc người bị gian thần cầm giữ tại ngục trung, anh em tôi không biết làm sao cứu được, Chỉ có cách là lấy tiền đem lo lót với ngục tốt để chúng săn sóc cho người tử tế mà thôi, khi người thác rồi, tôi đem tiền mua quan mộc để liệm người, đoạn giấu trong đấng la sư xác. Từ đó anh em tôi chịu tang báo hiếu, đến nay trời đã mở mắt báo ứng cho người, nên anh em tôi dắt nhau đến đây trừ phục.
Nói đến đây, hai người vùng chạy mất. Nhạc Lôi liền sai gia tướng chạy theo mời lại, nhưng gia tướng chạy theo ra khỏi mộ, hai người đã biến đâu mất dạng.
Nhạc phu nhân cùng mấy vị công tử vô cùng cảm kích than thở chẳng cùng.
Hôm sau Nhạc phu nhân sai người đi tìm kiếm, nghe ngóng trong thiên hạ, nhiều người bảo rằng:
- Hai người ấy ngày trước đều ở tại phía trước cầu, nhưng không biết lý do gì cách đây vài năm lại bán hết sản nghiệp, nay ở chỗ này mai ở chỗ kia, sống phiêu lưu không nơi nhất định. Gia nhân tìm mãi vẫn không ra tung tích. Về sau, khi Nhạc Lôi đi tảo Bắc yên rồi về, có nghe hai người này tu hành tại núi Vân Thê. Nhạc Lôi bản thân đến đó lạy tạ đáp cái ơn ngày trước, lại đem vàng bạc lụa là tặng rất hậu, nhưng hai người nằng nặc quyết không chịu nhận, Nhạc Lôi không biết làm sao nên để của ấy lại cúng cho nhà chùa. Sau này nghe đâu hai người này sống trên chín mươi tuổi và thành Phật cả.
Đó là việc về sau, bây giờ xin nhắc lại việc Ngưu Cao, hôm ấy đi đến đại lý nha môn. Châu Tam Húy ra đón thẳng vào đại đường để thánh chỉ ngay chính giữa, còn hai người ngồi hai bên, truyền dẫn hết bọn Tần Hy, Trương Tuấn ra quỳ trước đại đường.
Châu Tam Húy gọi Tần Hy, nói:
- Cha ngươi đã làm quan nhất phẩm, còn ngươi được đứng hàng truyền thọ, hưởng lộc của triều đình, sao chẳng lo đền nợ nước lại tư thông với Ngột Truật, giả truyền thánh chỉ mưu hại trung lương? Quả là tội khi quân hại nước, ngươi còn nói gì nữa chăng?
Tần Hy chẳng dám nói chi cứ gục mặt làm thinh. Ngưu Cao nói:
- Lại phải hỏi làm chí cho mệt, cứ vả cho hắn bốn chục vả rồi mới định tội.
Kẻ tả hữu liền xáp tới vả Tần Hy đủ bốn chục vả. Thương hại cho Tần Hy, từ nhỏ đến lớn đã quen sung sướng, chưa từng bị đòn nay bị đánh vả, mặt sưng vù khóc mếu trông thảm hại.
Châu Tam Húy lại gọi Trương Tuấn, hỏi:
- Tội của ngươi tưởng không hơi đâu kể cho hết, ta chỉ hỏi ngươi một điều này thôi: Ngươi đã làm một Đại tướng sao lại nương cậy theo gian thần, sát hại người ngay, vậy ngươi đáng tội gì?
Trương Tuấn cũng không biết nói sao, cứ cúi gục đầu làm thinh.
Ngưu Cao nói:
- Hơi đâu hỏi cho lâu, cứ việc vả cho đủ bốn chục vả rồi sẽ định tội.
Kẻ tả hữu vâng lời đánh Trương Tuấn đủ bốn chục vả, mặt mày sưng như mặt lợn luộc, Châu Tam Húy lại hỏi Vạn Sĩ Hoa:
- Còn mi có lời chi đối nại không?
Vạn Sĩ Hoa nói:
- Tôi đây bất quá nghe lời Tần Thái sư sai khiến thôi, chớ việc ấy có can chi đến tôi.
Châu Tam Húy lại hỏi La Võ Tập:
- Ngươi đã làm Pháp Ty đại thần sao lại cố hại cha con Nhạc gia?
La Võ Tập nói:
- Tần Cối và Vạn Sĩ Hoa sai sao tôi làm vậy, việc ấy do hai người chuyên trách chứ tôi có can chi đâu?
Ngưu Cao nổi giận, nạt lớn:
- Loài súc sinh, lại phải hỏi lôi thôi làm gì thêm xung gan, kẻ tả hữu đâu, hãy vật chúng ra đánh cho đủ bốn mươi côn rồi sẽ định tội.
Tả hữu vâng lệnh áp tới vung côn đánh mỗi đứa đủ bốn mươi cái máu chảy đầm đìa, chết đi sống lại mấy lần.
Châu Tam Húy lấy bút phê:
- "Vợ chồng Tần Cối tư thông với Ngột Truật, bán nước dối vua lại hãm hại trung lương, tội đáng đem đi chém đầu, còn Tần Hy làm chức biên tạ, chép dối chiếu chỉ, điên đảo thị phi. Trương Tuấn được làm Đại tướng đã chẳng lo đền nợ nước, lại chuyên quyền, loạn chính tàn hại trung lương, dối nước hại dân. Còn Vạn Sĩ Hoa và La Võ Tập xu phụ quyền gian, trộm thăng chức lớn, tàn hại trung lương, tham tàn hại nước, cả thảy đều đáng tội chết.
Tất cả vợ con, gia quyến chúng phải đày ra Lãnh Nam sung quân".
Châu Tam Húy phê án định tội xong xuôi, liền sai ngục tốt dẫn hết đem nhốt để chờ lệnh chỉ thi hành.
Sáng hôm sau, Châu Tam Húy vào triều tâu lại cho Hiếu Tông nghe, vua Hiếu Tông chuẩn tấu rồi hạ chỉ sai Ngưu Cao làm quan Giám trảm đem hết những tội phạm ra Thê Hà lãnh xử chém trước mộ Nhạc Phi, lại ban cho Nhạc phu nhân năm trăm cân sắt để đúc tượng Tần Cối, Vương Thị, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập và Trương Tuấn năm tên này phải quỳ trước mồ Nhạc Phi để cho dân chúng rửa hờn.
Thánh chỉ vừa mới ban ra, nhân dân vùng Lâm An vui mừng khôn xiết.
Hôm ấy Nhạc phu nhân sắm sửa đồ tế lễ rồi dắt hết mấy vị công tử đến trước Nhạc mộ phần chờ đợi. Chẳng bao lâu, Châu Tam Húy truyền ngục tốt dẫn hết các phạm nhân ra Đại lý tự đường rồi truyền trói chặt dẫn đi.
Quân Hiệu úy gìn giữ trước sau rất cẩn mật, phía trước phất cờ, phía sau đánh trống ra khỏi tiền đường, hai bên dân chúng từ đàn ông chí đàn bà theo coi đông đảo và vỗ tay khen:
- Thật là trời cao báo ứng rất mau!
Đi đến mộ Nhạc Phi, thấy Ngưu Cao mình mặc đại hồng kiết phục ngồi trên công án lớn truyền cậy quan tài vợ chồng Tần Cối ra, chém lấy hai cái thủ cấp để trên bàn mà tế. Lại sai dẫn Tần Hy, Trương Tuấn, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập ra chém.
Quân đao phủ vừa dẫn chúng đến trước mộ, bỗng nghe bên ngoài lao xao, nhiều tiếng la hét om sòm. Ngưu Cao giựt mình, bảo tả hữu đưa binh khí đến cho mình cầm sẵn đề phòng bất trắc, rồi nói:
- Kẻ nào muốn đến pháp trường cướp tội nhân phải không? Chư tướng đâu? Hãy ra xem xét, nếu có quân cường đạo đến thì hãy giết cho bằng sạch không còn một mống.
Năm gian thần bị chặt đầu tế mộ
Nhạc Lôi nguyên soái lĩnh ấn bình Phiên
Thì ra tiếng la hét om sòm ở ngoài chỉ là sự phẫn nộ của dân chúng muốn được tự tay trừng trị Trương Tuấn.
Lát sau chư tướng vào bẩm:
- Trương Tuấn ở tại Lâm An thường hay gian dâm vợ con người, lại còn ỷ quyền thế chiếm đoạt tài sản của dân lành, nên nay những người ấy đến coi hành hình Trương Tuấn, quyết ý báo thù, họ giành nhau chen vào mắng chửi Trương Tuấn không ngớt, họ lại còn muốn được ăn gan uống máu Trương Tuấn họ mới hả dạ!
Nhạc phu nhân nói:
- Người thù của hắn thì nhiều mà chém có một đao, trả sao cho đủ, vậy thì bắt Trương Tuấn giao cho dân chúng, muốn làm sao cho hả giận thì làm.
Gia tướng vâng lệnh đem lời ấy truyền rao cho dân chúng hay, ai nấy đều quỳ xuống tạ ơn Nhạc phu nhân rồi xúm nhau khiêng Trương Tuấn đem ra để gần mé hồ, kẻ ném đá người đánh, hùa nhau đấm đá tơi bời.
Bỗng có người lớn tuổi trong bọn đứng ra nói:
- Liệt vị, xin dừng tay lại cho tôi phân tỏ một điều: nay chúng ta mong ơn Nhạc phu nhân giao đứa gian này để chúng ta báo thù cho thỏa mãn, nhưng trong chúng ta quá đông nếu làm như vậy sẽ có kẻ báo được, người không. Thật không công bằng, chi bằng đem nó để ngoài chỗ rộng chúng ta đứng qua một phía, mồi người chạy đến đem việc báo thù kể ra ba điều rồi mắng vào mặt hắn rồi cắn một miếng thôi. ý của tôi liệt vị nghĩ sao?
Dân chúng đều khen ý kiến hay lắm; liền đem Trương Tuấn ra chỗ đất trống trói vào cây liễu, rồi một người chạy đến trước mặt mắng lớn:
- Loài gian tặc, sao mi dám chiếm đoạt vợ ta?
Vừa nói vừa cắn, rứt ra một miếng thịt rồi đứng dẹp ra, người khác lại chạy vào vả vào mặt Trương Tuấn mắng:
- Gian tặc, sao mi chiếm đoạt ruộng đất của ta?
Nói rồi cũng cản một miếng thịt chạy ra. Đoạn một người khác nữa vào mắng:
- Trương Tuấn, sao mi giết cha ta?
Rồi sau đó cứ tiếp tục người nào cũng mắng nhiếc và cắn rứt Trương Tuấn một miếng thịt, ai nấy đều căm giận Trương Tuấn đến cực độ.
Cắn riết một hồi, Trương Tuấn không còn lấy một chút thịt, ban đầu còn rên la, rốt cuộc hết thở.
Chỉ vì Trương Tuấn lúc làm Giám Khảo tại võ trường có thề rằng: "Nếu hắn có lòng khi quân thì về sau phải chết nơi miệng muôn người". Lời thề ấy, ngờ đâu hôm nay lại vô cùng ứng nghiệm, quả là trời đất quỉ thần rất linh thiêng.
Khi Trương Tuấn chết rồi, Ngưu Cao truyền chém lấy thủ cấp cùng với thủ cấp Tần Hy, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập cộng là bốn cái đem để trên bàn trước mộ Nhạc Phi cúng tế.
Mọi việc xong xuôi, Nhạc phu nhân và Ngưu Cao dắt nhau vào Triều tạ ơn Thiên tử rồi trở về phủ an nghỉ.
Hôm sau Châu Tam Húy sai quân dẫn gia quyến bọn gian thần về Lãnh Nam.
Cách vài ba ngày sau lại có bổn chương về cáo cấp:
- Đai binh của Ngột Truật đã lấy cầu Châu Tiên trấn, xin phát binh cứu viện cho mau.
Trương Tín mang bổn chương vào triều dâng lên, Hiếu Tông lập tức ra chỉ triệu Nhạc Lôi vào triều phong làm Tảo Bắc Đại Nguyên soái còn Ngưu Cao làm giám quân Đô đốc, Gia Cát Cẩm làm Quân sư. Các vị anh hùng đều theo ra trận chừng nào lập được công lao sẽ phong thưởng.
Nhạc Lôi tạ ơn, lãnh ấn lui ra.
Hôm sau, Trương Nguyên soái điều phát binh mã, Nhạc Lôi từ giã mẹ và vợ thẳng ra đấu trường kiểm điểm tướng sĩ dẫn hai mươi vạn quân sĩ, nổ súng kéo cờ rầm rộ ra đi, ra khỏi Lâm An nhắm Châu Tiên trấn thẳng tiến.
Việc này xin gác lại, bây giờ nhắc qua việc Đổng Tiên, khi còn ở tại Cửu Cung sơn làm tướng cướp, lúc gặp Trương Hiến thì đến đầu thuận Nhạc Phi để vợ con ở tại gần chân núi Cửu Cung, người con tên Đổng Diệu Tông tuổi còn nhỏ, sau Đổng Tiên bị trận Liên Hoàn giáp mã chết tại dinh Kim thì Nhạc Nguyên soái thường sai người đem vàng bạc chu cấp cho vợ con Đổng Tiên luôn luôn.
Khi Đổng Diệu Tông lớn lên tướng mạo to khỏe, mặt như nhọ chảo, sức mạnh muôn người khó địch, hay dùng cây Cửu Cổ thác thiên xoa nặng ngàn cân. Cả làng Cửu Cung đều kiêng sợ, nên thường gọi Diệu Tông bằng Quyện Địa Hổ.
Một hôm Đổng Diệu Tông đang ngồi chơi với chúng bạn kể chuyện này tích kia, cùng nhắc đến cha con Nhạc Phi bị gian thần hãm hại, trong lòng cảm thấy bứt rứt không yên, liền trở về nhà sắm đồ hành lý từ biệt mẹ ra đi, quyết xuống Lâm An báo thù cho họ Nhạc.
Đi được vài ngày vừa đến Liệt Phong sơn trời đã gần tối nên phải tìm chỗ nghỉ chân. Chàng chạy đến phía trước chợt thấy trong đám rừng xông ra một người mình cao hơn trượng, tuổi không đầy hai mươi, mặt vàng như củ nghệ, đầu đội bao cân, mình mặc áo màu xanh, tay cầm đông côn, vừa trông thấy Đổng Diệu Tông đi tới, người ấy trợn mắt, quát:
- Hãy nộp tiền mãi lộ đây cho mau.
Diệu Tông vùng cười ngất, nói:
- Ông bạn muốn gì?
Người ấy gằn giọng:
- Hãy nộp tiền mãi lộ cho ta, đừng đánh trống lảng mà thiệt mạng đấy.
Diệu Tông lại cười gằn, nói:
- Ngươi chiếm dụng con đường này lúc nào mà ta không biết, tại sao hôm nay ngươi lại đòi tiền mãi lộ?
Người ấy trầm giọng:
- Hừ, khắp hết mọi nẻo đường trong thiên hạ chứ chẳng gì là con đường này, hễ gặp ông là phải nạp tiền ngay, nếu không thì chớ hòng đi qua.
Diệu Tông nói:
- Ngươi nhè ta mà hỏi tiền mãi lộ, chẳng khác nào đi gãi đầu cọp. Thôi để ta cho ngươi nếm mùi cây xoa này cho biết.
Vừa nói vừa vung xoa đâm tới, người ấy nổi giận cũng vung cây thục đồng côn đón đánh, hai người đánh nhau hơn năm mươi hiệp có dư, chưa phân hơn thua.
Diệu Tông nghĩ thầm: "Tên này võ nghệ cũng cao cường, chi bằng ta dụ hắn theo ta cho có bạn có khi hay hơn".
Nghĩ đoạn, Diệu Tông lấy cây xoa gài cứng cây côn của đối phương lại, nói:
- Ông bạn ơi, ta đánh với ngươi hơn nửa ngày mà ta quên hỏi tên họ ngươi, vậy xin hãy cho biết quí danh rồi sẽ đánh tiếp
Người ấy đáp:
- Ta đường đường đấng trượng phu đời nào biết giấu tên họ làm gì? Chính Vương Bưu là ta, lại có, biệt danh là Diêu San Hổ.
Diệu Tông cau mày nói:
- Ta xem ngươi có tài, sao không đi lập công danh lại ở đây làm nghề thảo khấu?
Vương Bưu nạt lớn:
- Đừng nói bậy, cha ta là tướng của Nhạc Nguyên soái há ta lại đi ăn cướp sao? Chỉ vì ta đi xuống Lâm An rủi thiếu tiền lộ phí nên mới hỏi ngươi mượn đỡ, sao ngươi dám bảo ta là ăn cướp?
Diệu Tông lại hỏi:
- Cha ngươi là tướng quan của Nhạc Nguyên soái, chẳng hay danh tự là gì?
Vương Bưu cười gằn:
- Cha ta là Vương Hoành, đâu đâu lại chẳng nghe danh.
Diệu Tông nghe nói mừng rỡ bảo:
- Thế thì chúng ta đều là người nhà cả rồi, tôi đây cũng chẳng phải nào ai lạ, chính là con của Thiết Diện Đổng Tiên tên Đổng Diệu Tông đây.
Vương Bưu nghe nói vội quăng cây thục đồng côn, vòng tay nói:
Té ra là Đổng công tử mà tôi không biết, xin miễn chấp, chẳng hay công tử đi đâu đây?
Diệu Tông bèn đem ý định mình muốn xuống Lâm An để báo thù cho Nhạc Phi bày tỏ cho Vương Bưu nghe, Vương Bưu nói:
- Tôi cũng không giấu chi công tử, xưa cha tôi phò Nhạc Nguyên soái trở về Lâm An, nhưng khi đi đến Bình Giang Dịch lại bị quân Hiệu úy đón bắt đại lão gia, cha tôi toan ra tay, lão gia lại không cho, đành phải để cho chúng giết chết, tôi ở nhà nghe tin ấy không biết được thật giả, vội từ biệt mẹ tôi xuống Bình Giang thám thính. Khi đi được nửa đường lại gặp quân sĩ của cha tôi đem giao cây thục đồng côn cho tôi, chừng ấy mới tin chắc chắn, lại nghe nói lão gia bị bắt về kinh, nên tôi phải trở về. Năm nay mẹ tôi mất, cậu tôi qua đời chỉ còn mình tôi trơ trọi, tôi quyết xuống Lâm An giết cho hết lũ gian thần để báo thù cho đại lão gia và cha tôi, ngặt vì tiền lộ phí có ít quá đi không tiện, nên phải ở đây làm càn kiếm thêm ít nhiều chi dụng.
Nói xong, hai người nhìn nhau cười xòa sau đó kết làm anh em, dắt nhau vào xóm tìm chỗ nghỉ ngơi qua đêm, sáng hôm sau nhắm Lâm An lên đường.
Hôm ấy, hai người đi đến Cửu Long sơn, bỗng nghe trong rừng có tiếng thanh la gióng vang dậy, rồi một bọn lâu la chạy ra bao vây hai người, kêu lớn:
Muốn bảo toàn tính mạng hãy nạp tiền mãi lộ ra đây cho mau!
Đổng Diệu Tông vỗ vai Vương Bưu nói:
- Kìa con cháu của Vương đệ nói năng gì mà lộn xộn thế?
Vương Bưu cả cười rồi chỉ bọn lâu la nói:
- Bớ các cháu, ông đang thiếu tiền lộ phí, các cháu có ít nhiều gì góp đem đây cho ông dùng đỡ nhé!
Bọn lâu la trố mắt nhìn nhau, nói:
- Ôi chao! Mấy hôm nay không có một mối hàng nào đáng giá, nay lại gặp loài quỉ đói này thiệt rủi ro!
Một tên trong bọn nói:
- Nếu không có thì để cái gói kia lại rồi hãy đi?
Vừa nói vừa xáp lại toan giật gói, Vương Bưu nổi giận vung cây đồng côn quét ngang một cái, bảy tám đứa ngã lăn, Diệu Tông cũng múa cây cửu cổ xoa, đưa ra một đường, năm sáu tên ngã sấp.
Bọn lâu la thất kinh dắt nhau chạy lên núi. Diệu Tông nói với Vương Bưu:
Bọn lâu la chạy lên núi, thế nào giây lát đây cũng có tên đầu đảng của chúng chạy xuống, anh em ta hãy chờ hắn xuống kiếm ít tiền lộ phí rồi hãy đi.
Vương Bưu gật đầu đáp:
- Anh nói phải lắm.
Còn đang chuyện vãn đã thấy trên núi một người cưỡi ngựa phi như bay xuống. Người này tướng mạo oai phong, mình cao da trắng, mặt vuông trán rộng, hai tai hắn thòng xuống chấm vai, đầu đội lăng ngân khôi, mình mặc đoàn hòa tú bạch bào, tay cầm song thiết kích, lướt tới nạt lớn:
- Loài mao tặc ở đâu dám đến đây đánh lâu la ta. Hãy nộp mạng mau!
Diệu Tông nổi giận xung thiên không thèm nói năng chi hết cứ việc vung xoa đâm liền. Hai bên đánh nhau độ hai mươi hiệp. Vương Bưu trông thấy Đổng Diệu Tông lúng túng đánh không lại, liền múa côn nhảy vào đánh giúp. Người ấy một mình cự với hai người, nhưng càng đánh sức mạnh càng tăng thêm. Hai người liệu bề đánh không lại nên quay ngựa chạy dài. Tướng ấy giục ngựa rượt theo, hai người liền quay lại, trợn mắt hét:
- Tên kia, ngươi đừng làm phách, chỉ vì anh em ta gấp rút đi báo thù lớn nên mới nhịn ngươi chứ không phải anh em ta chịu thua ngươi đâu.
Người ấy cười ha hả nói:
- Các ngươi đã nói vậy thì ta cũng không bức hiếp các ngươi làm gì, song phải nói rõ ngươi có oán thù gì với ai, nếu quả là thù lớn thì ta sẵn lòng cho các ngươi đi, bằng nói không mình bạch thì đừng hòng thoát khỏi tay ta.
Đổng Diệu Tông nói:
- Ta đây là con Đổng Tiên, tướng thủ hạ của Nhạc Nguyên soái, còn người này là Vương Bưu con Vương Hoành. Chỉ vì Nhạc gia bị bọn gian thần Tần Cối, Vạn Sĩ Hoa và La Võ Tập hãm hại nên nay hai anh em ta muốn xuống Lâm An giết cho hết bọn gian thần để báo thù. Vì vậy ta đi gấp, ngươi nghe rõ chưa?
Người ấy nghe nói vùng ngửa mặt lên trời cười ngất, rồi thâu kích nhảy xuống ngựa nói:
- Tôi gặp hai anh mà không biết thật đáng tội. Tôi đây chẳng phải ai xa lại mà chính là con của Dương Tái Hưng tên Dương Kế Châu. Từ khi cha tôi qui thuận Nhạc Nguyên soái, tôi hãy còn nhỏ ở nhà với mẹ, ngờ đâu cha tôi bị quân Kim giết hại tại Tiểu Thương hà, mẹ tôi đêm ngày thương khóc đến nỗi mang bệnh mà chết.
Tôi có ý định xuống đầu Nhạc lão gia để giết chết Ngột Truật trả mối thù cha, chẳng dè Nhạc lão gia lại bị gian thần hãm hại. Vì vậy tôi chiêu tập binh mã của cha tôi lúc trước, đồng thời sửa sang sơn trại để khởi đánh Kim Phiên, nay may gặp hai anh đây nếu muốn báo thù, hãy theo tôi lên núi ta cũng nghĩ kế.
Hai người nghe nói mừng rỡ, đáp:
- Thì ra Dương công tử đây mà chúng mình không biết. Hèn chi võ nghệ cao cường.
Dương Kế Châu dắt hai người lên núi vào sơn trại rồi đem hết tâm sự tỏ bày cho nhau biết.
Dương Kế Châu nói:
- Lâm An là chỗ đế đô, chắc binh mã nhiều lắm, ba anh em ta không nên nông nổi mà hỏng việc, chi bằng hai anh ở lại đây với tôi, chiêu tập anh hùng, đồn lương tích thảo cho đầy đủ, khi nào thấy đủ lực lượng sẽ kéo xuống Lâm An báo thù mới chắc chắn giành được thắng lợi.
Hai người khen phải, vui lòng ở lại đây chờ thời. Ngày nào cũng sai lâu la đi khắp các nơi thám thính. Ba người ăn ở với nhau rất ý hợp tâm đầu, họ kết làm anh em cùng sống chết có nhau xem nhau như anh em ruột thịt.
Ngày kia, ba người đang chuyện vãn trong sơn trại, bỗng thấy lâu la hớt hải chạy về báo:
- Dưới núi hiện có một đám quan quân giải tội phạm đi ngang qua đây, tôi coi mồi trong túi chúng cũng khá.
Vương Bưu đứng dậy nói:
- Để tôi đi bắt chúng nó cho.
Nói rồi dẫn một số lâu la chạy bay xuống núi, bỗng thấy bấn vị giải quan cùng năm sáu tên giải sai áp giải đến ba bốn mươi tội phạm, đàn ông, đàn bà và có cả con nít nữa.
Vương Bưu đón lại, nạt:
- Bọn kia, hãy nạp tiền mãi lộ đây cho mau.
Quan quân xem thấy kinh hồn hoảng vía, vội đáp:
- Chúng tôi đây không phải khách buôn, mà là lính giải tù, nay vâng lệnh giải những tội phạm này qua Lãnh Nam, xin Đại vương rộng lòng cho chúng tôi qua.
Vương Bưu nói:
- Ta không biết quan quân nào hết, hãy theo chúng ta lên núi sẽ hay.
Vừa nói vừa hối lâu la bắt hết, dẫn lên núi, đoạn vào trại nói với Dương Kế Châu:
- Tôi đã bắt được một bọn giải quan và tội phạm đem lên đây, vậy chúng ta hãy tra hỏi xem bọn phạm nhân này có oan uổng chi không, nếu triều đình nghe lũ gian thần hãm hại họ thì chúng ta giết quách bọn giải quan này để cứu họ kẻo tội nghiệp.
Dương Kế Châu chưa kịp đáp, bọn tội phạm nghe nói . đã kêu oan ầm ĩ. Bốn tên giải quan liền quỳ xuống bẩm:
- Xin Đại vương chớ nên nghe lời lũ ấy, vì chúng nó toàn là gia quyến của bọn gian thần chứ không có việc chi oan uổng.
Đổng Diệu Tông nói:
- Gia quyến của bọn gian thần nào hãy nói thật ra thử nào?
Giải quan giơ tay chỉ từng bọn, nói:
- Đây là dâu con của Tần Cối, kia là gia quyến của bọn Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập và Trương Tuấn danh sách chúng trong tờ văn thư đây này các đại vương hãy xem.
Dương Kế Châu hỏi:
- Chúng phạm tội gì, nói mau.
Giải quan liền đem việc vua Cao Tông băng hà, Hiếu Tông lên nối ngôi, Ngột Truật dấy binh, Trương Tín tâu vua xin tha hết cả nhà họ Nhạc, Công tử Nhạc Lôi thế chức của cha, Hiếu Tông ngự giá đến mộ Nhạc Nguyên soái tế điện, lại sai quan lên Thái Hành san chiêu an Ngưu Cao lão gia và chư tướng, đã bắt hết lũ gian thần xử trảm, còn con cháu và gia quyến thì đày lên Lãnh Nam.
Giải quan kể lại đầu đuôi không sót mảy may, ba vị đại vương nghe xong, cùng cười ngất:
- Không dè lũ gian thần ấy ngày nay ra thân như vậy.
Nói rồi khiến lâu la bắt hết gia quyến bọn gian thần.
Bọn lâu la vâng lệnh dẫn hết giai quyến lũ gian thần đem đến Bát Y đình trói lại chém lấy thủ cấp để dầy bàn rồi đem bài vị của Nhạc Phi, Nhạc Vân, Trương Hiến ra tế.
Vương Bưu lại đem bài vị của cha mình là Vương Hoành ra tế một hồi, bốn tên giải quan thấy vậy kinh hồn hoảng vía cứ việc cúi đầu năn nhỉ xin tha.
Dương Kế Châu nói:
- Các ngươi đừng sợ, hãy đứng dậy cho ta hỏi một điều Chẳng hay Nhạc công tử hiện đang ở tại Triều làm quan hay ở đâu?
Giải quan đáp:
- Nay triều đình đã phong cho Nhạc công tử là Tảo Bắc Đại Nguyên soái, Ngưu lão Tướng quân làm Giám quan, các vị anh hùng lớn nhỏ thảy đều theo ra trận, khởi binh hai mươi vạn đi tiễu trừ Ngột Truật để đón Nhị Đế hồi triều. Hiện giờ đại binh đã kéo đi Châu Tiên trấn rồi.
Dương Kế Châu liền sai bọn lâu la lấy tài vật của bọn gian thần thưởng cho giải quan rồi thả đi. Bọn giải quan mừng rỡ cúi đầu tạ ơn rồi xuống núi trở về Lâm An phục chỉ.
Sau đó Dương Kế Châu nói với Đồng Diệu Tông:
- Nếu Nhạc Lôi công tử đã kéo binh đi Tảo Bắc thì anh em ta cũng nên bỏ cái sơn trại này, dẫn hết binh mã ra đó giúp người, không biết ý kiến ấy có được chăng?
Đổng Diệu Tông nói:
- Lời đại ca nói hợp ý tôi lắm.
Dương Kế Châu lại nói:
- Ta chỉ ngại một điều là Nhạc nhị công tử không biết mặt ta, nên dẫn binh theo e người nghi hoặc, chư đệ hãy chịu phiền ra trước Châu Tiên trấn báo trước với Nhạc công tử, để ta ở lại đây thâu góp binh mã và lương thảo rồi sẽ đi sau.
Vương Bưu và Đổng Diệu Tông khen phải rồi từ biệt Dương Kế Châu dắt theo vài tên lâu la suốt ngày đêm nhắm Châu Tiên trấn tiến tới.
Nói qua Nhạc Lôi, khi lãnh ấn Đại Nguyên soái, lập tức dẫn hai mươi vạn binh kéo ra Châu Tiên trấn. Khi đi đến Thiên Trường quan, quan Tổng binh Trịnh Tài mở cửa ải nghênh tiếp. Nhạc Lôi chào đáp lễ rồi kéo quân lên Châu Tiên trấn, truyền an dinh hạ trại.
Quân thám tử của Kim Phiên trông thấy lập tức chạy về phi báo với Ngột Truật.
- Nay Tống triều sai con của Nhạc Nam man là Nhạc Lôi thống lãnh hai mươi vạn binh mã ra đến Châu Tiên trấn hạ dinh rồi.
Ngột Truật cười ha hả, nói:
- Tống Triều đã hết người rồi mới sai bọn con nít đến đây, thế thì cơ nghiệp nhà Tống sắp tuyệt rồi.
Hôm sau, Nhạc Lôi thăng trướng, chư tướng triều kiến xong xuôi, Nhạc Lôi hỏi:
- Hôm nay có vị tướng quân nào dám ra trận đầu tiên không?
Nói chưa dứt lời đã có một tướng xông ra bẩm:
- Tôi xin đi.
Nhạc Lôi xem lại người ấy là âu Dương Tùng Thiện, liền phát ba ngàn quân, bảo kéo đến dinh Kim khiêu chiến.
Tùng Thiện lĩnh mệnh lên ngựa vung song phủ, kéo binh thẳng đến trước dinh Kim kêu lớn:
- Trong dinh Phiên có tướng nào giỏi ra đây nếm thử mùi búa của ta chơi!
Tiểu Phiên chạy vào báo, Ngột Truật hỏi chư tướng:
- Có Nam man đến khiêu chiến, ai dám ra binh bắt hắn?
Dưới trướng có một Phiên tướng ứng đáp ngay:
- Tôi là Thổ Đức Long xin đi bắt hắn cho.
Ngột Truật liền điểm ba ngàn binh mã cho Thổ Đức Long ra ngựa.
Thổ Đức Long lên ngựa múa thương ra trận. Âu Dương Tùng Thiện trông thấy tướng ấy mật xanh như chàm, mắt đỏ như tôm luộc, đầu đội kim khôi, mình mang kim giáp, cưỡi ngựa huỳnh bưu, tay cầm Ô du côn, bên phải mang cung, bên trái đeo tên.
Âu Dương Tùng Thiện nghĩ thầm:
- "Ta ở tại bến sông đưa đò đã lâu từng gặp rất nhiều tay kỳ khôi, nhưng chưa hề thấy ai hình dung cổ quái như vậy Nay ra trận đầu mà gặp gã dị tướng như vậy chẳng lẽ ta chịu thua hắn thì coi sao được?"
Nghĩ đoạn, lớn tiếng quát:
- Mi tên họ là chi? Hãy nói ra cho mau.
Thổ Đức Long nói:
- Ta là thủ hạ của Đại Kim Quốc Xương Bình Vương Bình Nam Đại Nguyên soái Hoàn Nhan Ngột Truật; Tiên phong Bình Chương Thổ Đức Long là ta đây, còn ngươi là ai dám đến đây ngăn trở đại binh?
Tùng Thiện nói:
- Ông đây là trướng hạ của Đại Tống Thiên Tử Giá Tiền Đô Đốc Tảo Bắc Nhạc Lôi Nguyên soái, đô thống Âu Dương Tùng Thiện, Ngũ Phương Thái Tuế ông đây, sao mi chưa xuống ngựa chịu trói cho rồi để ông khỏi nhọc sức.
Thổ Đức Long nổi giận xung thiên múa côn đánh liền, Tùng Thiện cũng vung búa ngàn đỡ rồi đón đánh quyết liệt Hai người đao kề, búa côn choảng nhau nghe choang choang một qua một lại ước chừng mươi hiệp, Thổ Đức Long đã đuổi sức ráng đánh thêm chừng vài ba hiệp nữa, mệt chẳng ra hơi bị Tùng Thiện giáng cho một búa bể óc té nhào xuống ngựa chết tươi.
Tùng Thiện nhảy xuống cắt lấy thủ cấp, đánh trống đắc thắng kẻo binh về dinh chờ lệnh, Nhạc Lôi sai quan Chánh Ti ghi công thứ nhất cho âu Dương Tùng Thiện.
Quân Phiên chạy về phi báo, ba anh em Thổ Đức Hổ, Thổ Đức Bưu và Thổ Đức Báo liền bước ra bẩm:
- Anh tôi bị chết về tay tướng Nam man, vậy xin chúa công hãy cho ba anh em tôi xuất quân bắt bọn chúng để báo thù cho anh tôi.
Ngột Truật y lời, phát ba ngàn binh mã cho ba người ra trận. Ba anh em vâng lệnh dẫn binh đến trước dinh Tống kêu mắng, quân tiểu hiệu chạy vào phi báo, Nhạc Lôi truyền lệnh mời lão tướng Kiết Thanh hiệp với Tông Lương và Dư Lôi dẫn ba ngàn quân kéo ra nghênh chiến.
Ba người vâng lệnh dẫn binh ra dinh, ngó thấy bên kia ba tướng Phiên thảy đều hình dùng cổ quái, tướng mạo dữ dằn.
Kiết Thanh lướt tới, nạt lớn:
- Loài man di kia, hãy nói tên họ ra cho mau để rồi ta còn cắt cổ.
Bên kia, Thổ Đức Hổ cũng lướt tới quát:
- Loài Nam man, mi chẳng nghe danh ta lợi hại thế nào sao dám đến đây khua môi múa mỏ? Ta là Tiền Phong Bình chương trướng hạ của Tứ Hoàng tử tên Thổ Đức Hổ đây, tam đệ của ta là Thổ Đức Bưu, Tứ đệ của ta là Thổ Đức Báo, chúng bay giết chết đại ca ta, nay chúng ta đến đây quyết lấy gan chúng bây để tế điện.
Kiết Thanh nghe nói ngửa mặt lên trời cười ngất, nói:
- Chúng bay là lũ chuột nhắt lại đòi moi gan của ông sao? Hãy xem cây roi của ông đây!
Vừa nói vừa vung lang nha bổng nhắm đầu Thổ Đức Hổ đánh tới. Thổ Dục Hổ cũng vung cây thiết thích lang nha côn đón đánh, hai tướng đánh với nhau hơn ba mươi hiệp, Thổ Đức Hổ đuối sức coi bộ ngăn đỡ không nổi nữa. Thổ Đức Bưu lập tức vung đao xông vào trợ chiến; bên này Tông Lương cũng vung côn nhảy ra đón đánh. Thổ Đức Báo thấy thế cũng vung cây trượng nhị xà mâu xông ra. Dư Lôi cũng vung song chùy nhảy vào tiếp chiến.
Sáu tướng đánh với nhau tối trời mịt đất; Thổ Đức Bưu bị chậm tay một chút bị Tông Lương đánh một con té nhào xuống ngựa. Ba quan ồ lên đánh trống khua chiêng trợ lực. Thổ Đức Hổ giựt mình trở tay không kịp, bị Kiết Thanh quất một roi hồn lìa khói xác. Thổ Đức Báo thấy hai anh vong mạng không dám đánh nữa liền quày ngựa chạy dài. Ba viên Tống tướng không thèm truy kích liền đem hai cái thủ cấp trở về báo công.
Thổ Đức Báo chạy thẳng về dinh ra mắt Ngột Truật bẩm:
- Tướng Nam man quá lợi hại, chúng giết chết hai anh tôi rồi, tôi nhắm đánh không nổi nên trở về đây chịu tội.
Ngột Truật bị thất bại hai trận, lòng nóng như lửa đốt lên tiếng hỏi:
- Có ai dám đánh với bọn Nam man nữa không?
Lúc ấy Đại Nguyên soái Chiêm Đắc Lực đỏ hoe hai mắt, bước ra nói lớn:
- Để tôi ra trận trừ khử chúng nó cho.
Ngột Truật gật đầu nói:
- Tướng công mà ra quân thì chắc chắc thành công.
Nói rồi, điểm ba ngàn quân cho Chiêm Đắc Lực đi báo thù. Chiêm Đắc Lực lãnh binh xách song chùy nặng ngàn cân tung mình nhảy lên con lạc đà, kéo binh đến trước dinh Tống khiêu chiếu.
Quân vào phi báo, Nhạc Lôi liền sai La Hồng và Ngưu Thông dẫn ba ngàn binh mã ra cự chiến. Hai tướng vâng lệnh dẫn binh ra trận trông thấy Phiên tướng đầu đội kim quang có giặt đôi lông trĩ, mình mang kim giáp nịt dây da tượng, lưng đeo thanh phong kiếm, lưng giắt nhạn linh đao, mặt đỏ như huyết dụ, râu vàng như râu ngô.
Ngưu Thông lướt tới quát lớn:
- Mi tên họ chi hãy nói mau rồi chịu chết!
Chiêm Đắc Lực đáp:
- Ta là Kim Bang đại nguyên soái Chiêm Đắc Lực đây Còn mi tên họ chi dám ra đây chống cự với ta?
Ngưu Thông đáp gọn:
- Kim Mao Thái Tuế chính là ông đây. Kẻ nào vô phúc gặp ông tức là Diêm Vương đã gọi rồi, hãy nếm thử cây đao của ông đây này!
Vừa nói vừa vung đao chém sả xuống, Chiêm Đắc Lực đưa chùy đỡ vọt ra rồi giáng xuống một chùy, Ngưu Thông vung đao ra đỡ, chẳng dè chùy của đối phương nặng quá, hai tay của Ngưu Thông cảm thấy bủn rủn, Ngưu Thông còn ngơ ngác, Chiêm Đắc Lực bồi thêm một chùy nữa. Ngưu Thông không dám đỡ, liền né sang một bên, rủi trật nên ngã nhào xuống ngựa. La Hồng thấy vậy liền giục ngựa bay ra đón đánh. Quân Tống nhờ vậy cứu được Ngưu Thông đem về. La Hồng đánh với Chiêm Đắc Lực chừng năm sáu hiệp nhắm cự không lại liền quay ngựa chạy dài; Chiêm Đắc Lực giục ngựa rượt theo bén gót.
Quân chạy vào phi báo, Nhạc Lôi vội sai Tông Lương, Dư Lôi, Âu Dương Tùng Thiện và Trịnh Thế Bửu lập tức ra tiếp ứng.
Bốn tướng vừa phi ngựa chạy ra, gặp La Hồng chạy về, phía sau tướng Phiên theo sát gót, Tông Lương huy động thiết côn, Tùng Thiện vung song phủ, Dư Lôi sử dụng song chùy, Trịnh Thế Bửu vung thiết phương sóc, áp ra một lượt bao vây Chiêm Đắc Lực, nhưng Chiêm Đắc Lực không chút sợ sệt, hắn múa cặp tử kim chùy, tả xông hữu đột, đánh với bấn tướng dư bốn mươi hiệp, nhưng càng đánh sức càng mạnh thêm. Bốn tướng liệu đánh không lại quay ngựa chạy về.
Chiêm Đắc Lực thấy trời tối liền gióng chiêng thu binh về dinh ra mặt Ngột Truật báo công thắng trận.
Ngột Truật mừng rỡ, nói:
- Hôm nay Nguyên soái khó nhọc, hãy về dinh nghỉ ngơi rồi ngày mai đi đánh nữa.
Chiêm Đắc Lực từ tạ về dinh rồi sáng hôm sau lại đến khiêu chiến.
Nhạc Lôi liền truyền lệnh sai Vương An, Kiết Thành Lượng, Thi Phụng, Thang Anh, Ngũ Liên, Dư Lôi, Hàn Khởi Long, Hàn Khởi Phụng và Nhạc Đình cộng hết là mười viên tiểu tướng ra trận một lượt.
Chư tướng vâng lệnh ào ra, không nói năng gì cả, cứ việc bao vây Chiêm Đắc Lực đâm chém lia lịa. Chiêm Đắc Lực nạt lớn:
- Chúng bay có hết thảy bao nhiêu hãy tập trung hết ra đây chịu chết luôn thể.
Vừa nói vừa múa chùy tả xông hữu đột không hề biết sợ sệt là gì. Tiểu Phiên chạy về phi báo, Ngột Truật sai Táng Y Hãn, Không Ngạn Câu, Bột Đổng, Hấp Lý và Ô Nhãn Lang Quân bốn viên dũng tướng ra trợ lực.
Lúc ấy Chiêm Đắc Lực đang tung hoành giữa trận như hùm dữ lìa non, như giao long xuất hải, lại thêm bốn tướng xông vào trợ lực nữa, khí thế lại càng uy mãnh thêm, mười viên tiểu tướng kia làm sao đánh cho lại? Vì vậy mười viên tiểu tướng quay ngựa chạy thẳng về dinh. Chiêm Đắc Lực giục ngựa đuổi riết theo, khi đến cửa dinh, binh Tống dùng cung tên bắn vãi ra như mưa nên Chiêm Đắc Lực không dám theo nữa vội đánh chiêng thu binh trở về đợi lệnh.
Nhạc Lôi lấy làm lo lắng, sáng hôm sau triệu tập chư tướng vào thương nghị, Gia Cát Cẩm nói:
- Nguyên soái đừng lo, đêm hôm qua tôi có đánh quẻ xem biết có cứu tinh gần đến. Chắc là có Đại tướng đến đây giúp ta Tảo Bắc thành công đấy.
Còn đang thương nghị, bỗng nghe quân sĩ chạy vào báo:
- Hôm nay Chiêm Đắc Lực lại đến trước dinh ta khiêu chiến nữa, hắn còn đòi xông vào dinh đạp thành ra bình địa và nói nhiều lời rất hỗn xược, tôi chẳng dám nói ra.
Nhạc Lôi nghe qua cau mày, nói:
- Tên Phiên ấy vô cùng lợi hại, chúng ta làm sao chống cự nổi? Chi bằng hãy treo miễn chiến bài để nghĩ kế rồi sẽ ra binh.
Ngưu Cao đứng một bên nghe vậy, vùng nói lớn:
- Hãy khoan, xưa cha cháu hễ cờ phất thì địch chạy cong đuôi, chứ chưa hề biết thất bại trận nào cả. Nay cháu làm Nguyên soái mới ra binh gặp một tên tướng Phiên quèn đã treo miễn chiến bài thì nhục lắm, để chú ra bắt nó cho.
Nói rồi cầm giản lên ngựa xông ra hét như sấm nổ:
- Chiêm Đắc Lực là thằng nào đâu?
Chiêm Đắc Lực lướt tới xoe tròn đôi mắt như than lửa đỏ, quát hỏi:
- Ngươi là ai, đã biết danh ta sao không trốn đi còn ra đây chịu chết? Ngươi đã tới số phải không?
Ngưu Cao cười gằn:
- Thế thì ngươi quả là tên vô danh tiểu tốt mới không biết danh của Ngưu lão gia, thôi đừng nói chi nhiều lời, hãy ráng mà chịu đựng cây giản của ta đây này.
Vừa nói vừa vung giản đánh tới. Chiêm Đắc Lực cũng múa chùy đỡ hất giản ra khỏi rồi trả lại một chùy. Ngưu Cao vận hết công lực đỡ vẹt ra, chẳng dè chùy giáng xuống nặng quá làm rách toác cả hổ khẩu tay, Ngưu Cao thất kinh liền quay ngựa bỏ chạy, nhưng lúc nãy đã chót khoác lác với đứa cháu Nhạc Lôi và chư tướng giờ quay chạy về dinh thì còn mặt mũi nào, nên cứ nhắm rừng hoang chạy tuốt may ra tướng địch bỏ không truy đuổi, chẳng dè Chiêm Đắc Lực giục ngựa đuổi theo bén gót.
Bỗng có tiếng:
- Ngưu lão tướng, xin dừng ngựa lại.
Dùng "Bửu châu", đả thương Tống tướng
Bắn hỏa tiễn, Cát Cẩm phá Đà Long
Ngưu Cao nghe tiếng quen quen, nhưng không rõ là ai cứ cắm đầu chạy và nói với lại:
- Hiện giờ ta không thể nói chuyện với ai được cả, Phiên tướng dữ dằn lắm, hắn theo kịp kia kìa?
Lại có tiếng gọi:
- Ngưu lão tướng quân có cháu là Quan Linh đây!
Tiểu tướng ấy chính là Quan Linh.
Từ ngày ở lại Châu Tiên trấn, anh em phải phân tán về nhà Quan Linh trong lòng vô cùng uất ức, muốn báo thù cho Nhạc Nguyên soái, ngặt vì thân cô thế cô nên phải ẩn dật chờ thời, nay nghe tin Cao Tông băng hà, tân vương lên kế vị, gia quyến họ Nhạc được phục hồi lại phong cho Nhạc Lôi làm Nguyên soái cầm quân đi tảo Bắc, đánh Phiên. Quan Linh bỏ nhà tuốt xuống Trương sa phủ, lộ An Châu, rủ Lục Văn Long, Phan Thành Nghiêm Thành Phương và Địch Lôi bấn người, dắt nhau ra Châu Tiên trấn để giúp Nhạc Lôi.
Hôm ấy, còn trên một dặm đường nữa mới đến trấn, năm người khi vượt qua một đám rừng bỗng thấy một tướng Phiên rượt một tướng Tống mặt đen chạy đến; Quan Linh xem kỹ chính là Ngưu Cao, nên mới gọi lớn.
Ngưu Cao gò cương lại thấy rõ ràng là bọn Quan Linh, Lục Văn Long tất cả năm người mới tỉnh hồn nói với Lục Văn Long.
- Các cháu phải chuẩn bị sẵn sàng, tên Phiên kia lợi hại lắm, chú đánh không lại, kìa, nó đã theo kịp kia!
Nói chưa dứt lời, Chiêm Đắc Lực đã rượt đến, hắn nhìn Ngưu Cao cười ngắt nói:
- Kìa, Ngưu Nam man. Sao chưa xuống ngựa chịu trói cho rồi còn chạy đi đâu?
Không đợi Ngưu Cao đáp, Quan Linh vung đao lướt tới nạt:
- Tên Phiên tặc kia sao dám xấc xược đến thế? Đã có ông đến đây, hãy coi chừng!
Chiêm Đắc Lực tròn xoe đôi mắt, hỏi:
- Mi là ai dám cả gan đón đường ta?
Quan Linh nói:
- Chớ có khinh thường, ta cho mi biết ta đây là Quan Linh, dòng dõi Võ An Vương đời Hán, hôm nay mi đã gặp ta đây tức mi đã tới số rồi!
Chiêm Đắc Lực cả giận vung chùy bổ tới, Quan Linh đưa đao đón đánh. Hai người sức lực tương đương, quần nhau trên ba mươi hiệp, Địch Lôi đứng ngoài thấy Quan Linh có phần sút hơn, liền vỗ ngựa vung chùy xông vào trợ chiến, nhưng Chiêm Đắc Lực cũng không hề nao núng, hắn nghiến răng hét lên một tiếng như sấm nổ sức lực tăng thêm đánh vùi thêm mười hiệp nữa, Phàn Thành thấy thế muốn xông vào, nhưng Lục Văn Long lại hô lớn:
- Thôi chư đệ hãy nghỉ hết đi, để anh trị hắn cho.
Hai người vừa lui ra, Lục Văn Long vận sức đâm tới một thương nhanh như chớp xẹt lưng trời, Chiêm Đắc Lực nhắm thế đỡ không kịp bèn né sang bên, không ngờ mũi thương lao tới nhanh quá nhằm trúng mắt con lạc đà làm nó đau quá, gục đầu xuống, Nghiêm Thành Phương thừa dịp giáng lên đầu con lạc đà một búa vỡ sọ ngã quy, ném Chiêm Đắc Lực xuống đất, Phan Thành nhanh tay lao mình tới đâm trúng giữa ngực Chiêm Đắc Lực một thương chết tươi.
Quan Linh liền nhảy xuống ngựa cắt lấy thủ cấp Chiêm Đắc Lực. Quân Phiên thấy vậy vỡ tan chạy hết. Ngưu Cao mừng rỡ dắt cả năm người trở về dinh ra mắt Nhạc Lôi, thuật lại việc tình cờ gặp bọn Quan Linh và giết Chiêm Đắc Lực cho Nhạc Lôi nghe.
Nhạc Lôi mừng rỡ bước xuống dưới trướng làm lễ ra mắt thúc phụ cùng mấy anh em rồi ngồi lại chuyện vãn với nhau. Sau đó Nhạc Lôi viết bổn chương gửi về triều tâu xin phong chức cho năm người, đồng thời đem thủ cấp Chiêm Đắc Lực bêu trước dinh làm hiệu lệnh.
Hôm sau, bỗng có quân thám tử về báo với Nhạc Lôi:
- Bẩm Nguyên soái, hiện có quan thủ bị Hà Giang Phủ giải ba ngàn hộc lương đến đây, nhưng bị tướng Phiên là Vưu Khả Vinh đón dường giật cướp, xin Nguyên soái hãy sai đại tướng đi cứu ứng cho mau.
Nhạc Lôi nghe báo, hỏi chư tướng:
- Chư vị tưởng quân, ai dám đi tiếp cứu quân lương được thì công ấy không nhỏ.
Ngưu Cao mỉm cười nói:
- Việc quan trọng như vậy tưởng không thể để cho ai đi được, chú cần phải đảm nhiệm việc này mới xong.
Nhạc Lôi nói:
- Lương thảo là việc hệ trọng, nếu thúc phụ sẵn lòng ra sức thì cháu mới an lòng.
Ngưu Cao nói:
- Được rồi, chú sẽ đi giết tướng Phiên đem lương thảo về ngay lập tức.
Nói rồi vội điểm ba ngàn binh mã hỏa tốc đi ngay. Khi đến Hà Giang phủ trông thấy quan thủ bị là Tông Lang đang đánh với tướng Phiên Vưu Khả Vinh đã gần đuối sức, thế rất nguy, Ngưu Cao xông tới quát lớn:
- Phiên tặc, dám cả gan đoạt lương thảo của ta sao? Hãy nếm thử mùi vị này!
Vừa nói, vừa vung giản giáng xuống, Vưu Khả Vinh cũng vung đao đón đánh, song đánh chỉ được vài ba hiệp nhắm thế đánh không lại Ngưu Cao, liền quay ngựa chạy dài.
Ngưu Cao hét như sấm nổ:
- Ngươi chạy lên trời cũng không khỏi tay ta. Tuy lương thảo ngươi trả lại rồi, song còn cái đầu của ngươi cũng phải để nốt lại đây mới được.
Vừa nói, vừa giục ngựa đuổi theo, còn Tông Lang thì hối quân đẩy xe lương trở về dinh.
Ngưu Cao một mình một ngựa đuổi theo tướng Phiên trên hai mươi dặm. Khi vượt qua một eo núi, bỗng thấy một đạo nhân đứng trên đỉnh núi lớn tiếng kêu Ngưu Cao. Ngưu Cao ngoảnh đầu lên thấy người ấy chính là thầy mình, liền nhảy xuống ngựa quỳ bên mé núi, thưa:
- Chẳng hay sư phụ đến đây có việc chi?
Bảo Phương lão tổ nói:
- Tên Phiên ấy chưa tới số, đừng theo hắn mất công vô ích, hiện giờ Ngưu Thông đang bị nạn, con hãy cầm lấy hoàn đơn được này đem về gấp, bẻ ra một nửa cho nó uống, một nửa thoa vào cổ thì lành mạnh như xưa, còn viên thuốc này con cũng nhận luôn đem về cứu Hà Phụng.
Từ nay về sau nếu con ra trận gặp yêu nhân dùng tà thuật con cứ việc lấy "xuyên vân tiễn bắn lên thì phá được ngay.
Nói đến đây Bảo Phương lão tổ biến mất. Ngưu Cao ngước mắt nhìn lên không trung lạy tạ rồi lên ngựa trở về.
Khi Chiêm Đắc Lực chết rồi, quân sĩ hoảng kinh chạy về phi báo với Ngột Truật, Ngột Truật vừa tiếc thương vừa giận dữ nói:
- Bọn tiểu Nam man này so sánh với lão Nam man lúc nọ còn lợi hại hơn nhiều, thế thì biết bao giờ ta mới thôn tính được Trung Nguyên?
Còn đang than thở, bỗng có tiểu Phiên vào báo:
- Nay có Quốc sư Phổ Phong đến.
Đang buồn bực, Ngột Truật bỗng vui lên, vội sai quân mời Phổ Phong vào. Giây phút sau Phổ Phong vào đến trưởng, Ngột Truật vội vã bước xuống nghênh tiếp.
Hai bên làm lễ ra mắt nhau xong rồi, Phổ Phong nói:
- Chẳng hay Chúa công giao phong với bọn Nam man thắng bại thế nào?
Ngột Truật thở dài đáp:
- Thật tôi chẳng giấu gì Quốc sư, bọn tiểu Nam man này mười phần lợi hại, sánh với lão Nam man lúc trước còn dũng mãnh hơn nhiều, nên vừa ra quân mấy phen đều bị thất bại, chết mất mười viên danh tướng, không biết tính sao?
Phổ Phong cười ha hả nói:
- Chúa công chớ lo, để ngày mai bần đạo ra trận đem chút tài mọn bắt bọn Nam man đem về đây cho.
Ngột Truật đáp:
- Vâng, tôi đặt hy vọng ở nơi Quốc sư đấy?
Nói rồi sai quân dọn yến tiệc thết đãi, Phổ Phong ăn uống no say đến canh khuya mới đi nghỉ.
Sáng hôm sau, Phổ Phong chẳng thèm đem binh mã, chỉ một mình một ngựa, cầm cây thiết trượng đến trước dinh quân Tống khiêu chiến.
Quân Tống chạy vào phi báo:
- Nay có một lão đạo nhân đến trước dinh khiêu chiến.
Nhạc Lôi hỏi chư tướng:
- Có ai dám ra trận không?
- Hỏi vừa dứt lời đã thấy Ngưu Thông và Hà Phụng bước ra xin đi, Nhạc Lôi căn dặn:
- Thường thường đạo nhân và đàn bà con gái ra trận hay dùng yêu thuật, nhị vị tướng quân phải cẩn thận lắm mới được.
Nói rồi sai Thang Anh, Kiết Thành Lượng và Dư Lôi, ba người theo yểm trợ.
Năm tướng vâng lệnh lên ngựa kéo quân ra trước dinh, thấy một lão đạo nhân mình mặc áo đạo sĩ, tay cầm thiết trượng, cưỡi ngựa ô, đôi mắt sâu hoắm nhưng phóng ra hai luồng nhãn quang trông dễ khiếp.
Ngưu Thông giục ngựa lướt tới hét lớn:
- Bình sinh ta không hề giết kẻ vô danh. Lão trọc kia, tên họ là chi hãy nói cho ta biết để rồi ta siêu độ cho.
Phổ Phong cười nham hiểm, đáp:
- Phật gia là Quốc sư, Đại Kim Quốc tên Phổ Phong đây
Ngưu Thông lắc đầu.
Ta không cần biết Quốc sư hay gia sư gì hết, chỉ biết ngươi là lão trọc, đủ rồi, thôi hãy ngửa cổ ra cho dài để ta chém!
Phổ Phong lửa giận phừng gan, thét to như sấm:
- Loài Nam man dám vô lễ với ta đến thế ư? Hãy lãnh giáo cây gậy của ta đây này.
Vừa nói vừa vung thiết trượng nhắm ngay đầu Ngưu Thông bổ tới, Ngưu Thông lập tức đỡ vọt ra rồi đánh với hắn hơn ba mươi hiệp, Phổ Phong đuối sức cự không lại Ngưu Thông, nghĩ thầm:
- "Thằng Nam man này lợi hại lắm, ta phải tính trước đi mới được".
Nghĩ đoạn, giả vờ nói với Ngưu Thông:
- Ngươi mạnh quá ta đánh không lại, thôi ta nhịn người đó.
Nói rồi, lão quay ngựa chạy, Ngưu Thông giục ngựa rượt theo hét lớn:
- Mi chạy lên trời cũng không khỏi tay ta. Mi muốn chạy hãy để cái đầu trọc lại đây cho ta mới được.
Phổ Phong thấy Ngưu Thông rượt theo gần sát liền thò tay vào túi láy ra một hạt "hỗn nguyên châu to bằng nắm tay giơ cao lên nói:
- Tiểu Nam man, đừng theo ta nữa vô ích, hãy nếm thử thứ bảo bối này.
Vừa nói vừa ném "hỗn nguyên châu lên không trung, Ngưu Thông ngước mắt lên thấy một cục tròn tròn từ trên rớt xuống, cười khúc khích nói:
- Lão trọc kia, ta đùa với mi sao?
Nói chưa dứt lời, viên "hỗn nguyên châu" rớt ngay giữa đỉnh đầu, Ngưu Thông thất kinh vội né sang bên, nhưng không kịp bị rớt trúng bả vai bên phải khiến Ngưu Thông ngã nhào xuống ngựa. Phổ Phong thu bảo bối lại, vung thiết trượng lướt tới đánh Ngưu Thông.
May thay lúc ấy Hà Phụng múa roi xốc tới chặn Phổ Phong lại, chư tướng áp tới cứu Ngưu Thông đem về.
Phổ Phong đánh với Hà Phụng được mười hiệp lại lấy "hỗn nguyên châu quăng ra. Hà Phụng biết không phải tầm thường quay ngựa bỏ chạy, chẳng dè "hỗn nguyên châu" rơi giữa lưng, Hà Phụng nhào xuống ngựa bất động.
Phổ Phong toan nhảy xuống ngựa cắt lấy thủ cấp, may có Thang Anh, Dư Lôi và Kiết Thành Lượng áp ra một lượt vây lấy Phổ Phong. Quân sĩ có cơ hội khiêng Hà Phụng về dinh. Phổ Phong thấy tướng Tống quá đông liệu đánh không lại liền lấy hỗn nguyên châu liệng lên. Ba người vừa trông thấy bảo bối thoát khỏi tay đã hô rập lên một tiếng giục ngựa chạy dài.
Vì quá hấp tấp, con ngựa Kiết Thành Lượng bị vấp chân ngã quị quăng Kiết Thanh Lượng xuống đất, may nhờ có quân sĩ dùng cung tên bắn vãi ra như mưa, cản trở bước tiến của Phổ Phong nên Kiết Thành Lượng có đủ thì giờ lồm cồm ngồi dậy chạy bộ vào dinh.
Phổ Phong đắc thắng đánh chiêng thu quân trở về ra mắt Ngột Truật, Ngột Truật hết lời khen ngợi:
- Tài năng của Quốc sư quả là vô địch. Chuyến này bọn Nam man phải kinh hồn lạc phách. Hôm nay Quốc sư nhọc sức ra trận chắc mỏi mệt lắm, cần phải nghỉ ngơi bồi dưỡng Bức khỏe, ngày mai giết chúng cho nhiều hơn nữa.
Nói rồi, sai quân dọn yến tiệc đãi Phổ Phong. Phổ Phong ngồi uống rượu đắc chí rung đùi nói:
- Chẳng phải tôi dám khoe miệng chứ thật ra lũ Nam man ấy tôi coi cũng như cá nhốt trong rọ rồi, tôi muốn bắt, muốn giết lúc nào chẳng được. Để tôi làm cho chúng nó táng đởm kinh hồn, bó tay chịu hàng cho Điện hạ xem.
Ngột Truật mừng rỡ vô cùng, đêm đó ăn uống say vùi với Phổ Phong cho đến quá nửa đêm mới mãn tiệc.
Nói về bên dinh Tống, chư tướng bại trận chạy về, Hà Phụng nằm trên giường bất động, còn Ngưu Thông rên la inh ỏi. Nhạc Lôi lo lắng không yên. Bỗng thấy quân sĩ chạy vào bẩm báo:
- Ngưu lão tướng quân đã về tới rồi.
Nhạc Lôi bước ra đón vào, nói:
- Cháu mừng cho chú hôm nay đã lập dược công lớn, song bữa nay Ngưu Thông ra trận bị Phiên tăng nó dùng yêu pháp đả thương bệnh tình rất nguy cấp, chú hãy đi thẳng ra phía sau dinh thăm luôn thể.
Ngưu Cao nghe nói vội bước theo Nhạc Lôi đi thẳng ra sau dinh, thấy Ngưu Thông đang rên xiết, còn Hà Phụng nằm trên giường bất tỉnh. Ngưu Cao thúc quân đem nước đến rồi cứ theo lời của Bảo Phương lão tổ cho hai người uống thuốc. Chỉ trong khoảnh khắc, cả hai đều bình phục như xưa.
Hà Phụng mở mắt ra thấy Ngưu Cao cứu mình, bèn sụp lạy tạ ơn. Nhạc Lôi đến hỏi Ngưu Cao:
- Tại sao chú lai có thuốc tiên hay đến thế?
Ngưu Cao đem hết việc gặp Bảo Phương lão tổ cho thuốc thuật lại một hồi. Nhạc Lôi mừng rỡ tạ ơn trời đất phù hộ. Còn Ngưu Thông và Hà Phụng cùng nghiến răng nói:
- Mang ơn Bảo Phương lão tổ cho thuốc tiên chúng ta mới sống lại được. Ngày mai quyết đi bắt cho được lão trọc đầu ấy về ăn gan mới hả giận.
Nhạc Lôi nói:
- Hôm nay nhị vị tướng quân đã mệt nhọc hãy tạm nghỉ vài ngày, vì tên Phiên tăng ấy quá lợi hại, không nên khinh thường, hãy treo miễn chiến bài vài hôm để lo kế rồi sẽ xuất quân mới được.
Ngưu Cao cười gằn, nói:
- Trước kia chú theo cha cháu hễ quân Phiên gặp mặt là vỡ vật kinh hồn, hôm nay chúng bay ra làm tướng, hễ rục rịch một chút là treo miễn chiến bài, thiệt xấu hổ quá! Thôi, để mai Ngưu Thông với mấy anh em ra trận, chú sẽ theo sau yểm trận cho. Chú sẽ bắt thằng trọc ấy về đây cho cháu xem.
Nhạc Lôi không dám cãi Ngưu Cao nhưng trong lòng rất lo ngại, chàng nói:
- Thôi để ngày mai thương nghị lại đã.
Sáng hôm sau Nhạc Lôi thăng trướng sớm lắm, chư tướng vừa tề tựu đủ mặt, bỗng có quân chạy vào báo:
- Hôm nay Phiên tăng lại đến khiêu chiến nữa.
Ngưu Thông và Hà Phụng lửa giận sôi lên sùng sục, sắc mặt hầm hầm xin phép ra binh lập tức, Nhạc Lôi ý muốn khuyên can, Gia Cát Cẩm bước ra nói:
- Nguyên soái cứ để cho họ xuất trận, nhưng phải có Ngưu lão Tướng quân theo yểm trận thì chắc là nắm phần thắng trong tay.
Nhạc Lôi y lời nhưng căn dặn:
- Vậy thì năm vị tướng quân hãy hết lòng cẩn thận, còn Ngưu thúc phụ chịu phiền theo yểm trận một phen.
Năm tướng vâng lệnh giục ngựa xông ra, Ngưu Cao dẫn binh theo sau. Ngưu Thông vừa trông thấy Phổ Phong chẳng nói rằng chi cả, cứ việc vung đao chém bổ tới Hà Phụng cũng hét lên một tiếng rung trời chuyển đất chỉ vào mặt Phổ Phong mắng lớn:
- Thằng trọc này dám có gan dùng yêu pháp hại ta, hôm nay ta đố mi chạy đi đâu cho khỏi?
Vừa nói, vừa múa song tiễn sáp tới đánh túi bụi, Thang Anh, Dư Lôi và Kiết Thành Lượng cũng vung binh khí xông vào đánh tới tấp. Phổ Phong biết thế không xong liền nhanh tay rút viên "hỗn nguyên châu" ra giơ lên cao, nạt:
- Loài Nam man hãy coi chừng bửu bối của ta đây.
Vừa nói, vừa liệng lên không trung, năm người còn ngơ ngác chưa biết đối phó bằng cách nào, Ngưu Cao đứng sau trận trông thấy hạt châu ấy tỏa ra một luồng hắc khí bay quyện lên không trung, nghĩ thầm:
"Thôi để ta sử dụng "xuyên vân tiễn" xem sao."
Ngưu Cao lấy mũi tên phóng tôi, tức thì luồng hắc khí tiêu tan mất hết, viên "hỗn nguyên châu" rớt bịch xuống đất như một hòn sỏi rơi. Ngưu Cao trông thấy nhảy xuống ngựa nhặt trái bửu bối ấy nhảy lên ngựa kêu Phổ Phong nói:
- Thằng trọc kia, hãy đỡ bửu bối đây này.
Nói rồi, Ngưu Cao bắt chước ném hỗn nguyên châu lên không trung chằng dè hỗn nguyên châu ấy đã bị xuyên vân tiễn của mình bắn thủng rồi không còn linh nghiệm nữa. Phổ Phong giơ tay tiếp lấy vừa muốn quăng lên nữa, ngờ đâu Dư Lôi lẹ tay nhảy tới đâm một thương nhằm trúng vai, lão ta nhào lăn xuống đất.
Ngưu Thông nhảy tới toan bồi thêm một đao đế kết liễu mạng sống song Phổ Phong đã hóa ra đạo Kim phong biến mất.
Bọn Ngưu Thông đắc thắng đánh trống trở về dinh báo công.
Nói về Phổ Phong thoát chạy về dinh, lấy linh đơn ra xức chỗ bị thương, trong giây phút bình phục như xưa, vào trướng ra mắt Ngột Truật nói:
- Hôm nay tôi ra trận rủi bị Nam man nó phá phép bửu châu nên mới thất bại về đây.
Ngột Truật thở dài nói:
- Quốc sư mà không cự lại được chúng thì biết bao giờ mới thôn tính được Trung Nguyên?
Phổ Phong cười đáp:
- Tuy vậy, Chúa công chớ quá lo nội trong đêm nay tôi sẽ giết sạch lũ Nam man mới hả giận.
Ngột Truật làm lạ hỏi:
- Bọn Nam man hung dữ như vậy, Quốc sư làm cách nào giết chúng được?
Phổ Phong giải thích.
- Lúc tôi đi tu, thầy tôi có cho một món pháp bửu gồm năm ngàn lẻ tám con Đà Long, muốn lớn cũng được muốn nhỏ cũng được, tôi thu hết trong hồ lô này. Hễ thả ra là chúng bay đến ăn thịt uống máu địch quân không còn một đứa. Đối với mấy mươi vạn binh Tống tôi chỉ cần thả ra trong thời gian vài tiếng đồng hồ là nó ăn không còn một tên nào.
Ngột Truật nghe nói, lòng vô cùng mừng rỡ, liền bảo tiểu Phiên dọn yến, hai người ăn uống với nhau đến chiều tối.
Phổ Phong từ giã Ngột Truật trở về dinh mình, đặt hương án để hồ lô lên bàn, miệng đọc thần chú, rồi giở nút hồ lô ra truyền lệnh:
- Bưu bối! Hãy bay lên.
Dứt tiếng, trong hồ lô vù vù bay ra vô số Đà Long thẳng cánh bay lên không trung, mỗi con biến dài ra hơn mấy trượng mắt sáng ngời, miệng đỏ như chậu huyết, răng nhọn sắc như dao, hùng hổ bay qua dinh Tống.
Tống quân xem thấy trên lừng trời hào quang tỏa ra muôn đạo sáng chói cả một vùng liền la ó bàn tán với nhau:
- Không biết có phải quân Phiên lập kế cướp dinh chăng?
Rồi đứa khác lại cãi.
- Không phải đâu, quân Phiên sao lại biết bay lên trời? Thôi cứ việc phi báo rồi sẽ hay.
Vừa nói vừa chạy vào trướng thưa:
- Trên nửa lừng trời có vô số đèn lửa đang bay đến dinh ta, không biết là vật chi nên phải vào bẩm để Nguyên soái biết.
Gia Cát Cẩm nghe báo hoảng hốt chạy ra xem, thoạt trông thấy đã thất kinh:
- Cha chả! Không xong rồi, phải truyền cho đại tiểu tướng quân, lập tức đội trước làm sau đội sau làm trước lui lại cho mau, sẽ tránh tai nạn.
Ba quân nghe lệnh, sợ hãi nhổ trại chạy ngay. Nhưng ngay lúc đó đạo binh sau đã thét vang dậy vì Đà Long đã bay đến bắt quân sĩ vừa hút máu vừa ăn thịt. Quân Tống hoảng hốt không còn có trật tự nữa, cùng xô nhau chạy thục mạng hơn sáu mươi dặm đường, mới dám dừng chân lại. Lúc bấy giờ đã đến canh năm.
Bên kia Phổ Phong niệm chú thu hết Đà Long về.
Đà Long rút lui, trời vừa sáng, Nhạc Lôi tra điểm binh mã, mới hay Tống quân bị mất hết một vạn tám ngàn. Ngưu Cao nói:
- Vật chi mà lợi hại lắm vậy?
Gia Cát Cẩm đáp:
- Đó chính là Đà Long trận, chỉ vì tôi không dự liệu trước nên mới bị thất bại như thế này, tôi sẽ trả đũa lại bằng một kế mọn khác cho chúng biết tay.
Nói rồi, sai quân sắm máu lợn, máu chó, củi khô, cỏ và đồ dẫn lửa cho nhiều, quân sĩ đều mặc áo xám, đeo cung tên cho sẵn sàng chờ lệnh rồi lại sai năm ngàn quân mã trở lại chỗ cũ đào một cái hầm rộng một trượng năm thước, bề sâu đến một trượng hai, dài hai mươi lăm trượng, suốt đêm phải làm cho xong.
Quân Tống vâng lệnh xúm nhau làm, chẳng bao lâu công việc hoàn tất.
Gia Cát Cẩm bèn sai quân đem hỏa pháo bố trí dưới hầm rồi đặt những hỏa lôi phục xung quanh, phía trên thì đặt nhiều củi và tưới máu lợn, máu chó lên trên, đoạn sai ba quân trở về chỗ cũ đóng dinh trại nguyên vẹn như trước.
Ngoài ra, Gia Cát Cẩm còn bố trí một đội quân mai phục hai bên và trước dinh chờ cho Đà Long sa xuống hầm thì phát pháo lên làm hiệu, bốn phía hỏa tiễn bắn ra một lượt.
Phân công và bố trí đâu đó xong xuôi, trời đã tối.
Bên dinh Phiên, Quốc sư Phổ Phong dùng Đà Long trận giết chết một số lớn quân Tống lấy làm đắc chí, chờ cho trời tối cũng áp dụng thủ đoạn như đêm trước. Phổ Phong cũng đặt bàn hương án lên niệm thần chú, giở nắp hồ lô ra, Đà Long bay ra vô số như ong bầy, kiến lũ thẳng đến dinh Tống để ăn thịt, uống máu, còn Phổ Phong thì cưỡi ngựa đi sau mà xem.
Khi bầy Đà Long bay đến dinh Tống gần bên cái hầm ngửi mùi huyết tanh tanh liền nhào xuống hầm để uống huyết.
Gia Cát Cẩm trông thấy rõ ràng, chờ cho Đà Long chui trọn xuống hầm rồi, cho nổ lên một pháo hiệu, tức thì ba ngàn binh phục đều dậy, hỏa tiễn cùng thuốc cháy bắn vãi ra, trong giây phút lửa dậy hừng trời, những hỏa lôi phục gặp lửa phát lên những tiếng nổ kinh thiên động.địa. Ngọn lửa mỗi lúc một bốc cháy cao, khói tỏa mịt trời.
Phổ Phong thấy vậy vội đọc thần chú thu Đà Long về chẳng dè Đà Long bị máu lợn máu chó ô uế bay lên không nổi, trọn năm ngàn lẻ tám con Đà Long đều bị chết, Phổ Phong thoát chạy về dinh nhổ mấy mũi tên ra lấy thuốc thoa vào và nghĩ thầm:
- "Đại bại như thế này, Đà
hồi thứ bảy mươi sáu
Dùng "Bửu châu", đả thương Tống tướng
Bắn hỏa tiễn, Cát Cẩm phá Đà Long
Ngưu Cao nghe tiếng quen quen, nhưng không rõ là ai cứ cắm đầu chạy và nói với lại:
- Hiện giờ ta không thể nói chuyện với ai được cả, Phiên tướng dữ dằn lắm, hắn theo kịp kia kìa?
Lại có tiếng gọi:
- Ngưu lão tướng quân có cháu là Quan Linh đây!
Tiểu tướng ấy chính là Quan Linh.
Từ ngày ở lại Châu Tiên trấn, anh em phải phân tán về nhà Quan Linh trong lòng vô cùng uất ức, muốn báo thù cho Nhạc Nguyên soái, ngặt vì thân cô thế cô nên phải ẩn dật chờ thời, nay nghe tin Cao Tông băng hà, tân vương lên kế vị, gia quyến họ Nhạc được phục hồi lại phong cho Nhạc Lôi làm Nguyên soái cầm quân đi tảo Bắc, đánh Phiên. Quan Linh bỏ nhà tuốt xuống Trương sa phủ, lộ An Châu, rủ Lục Văn Long, Phan Thành Nghiêm Thành Phương và Địch Lôi bấn người, dắt nhau ra Châu Tiên trấn để giúp Nhạc Lôi.
Hôm ấy, còn trên một dặm đường nữa mới đến trấn, năm người khi vượt qua một đám rừng bỗng thấy một tướng Phiên rượt một tướng Tống mặt đen chạy đến; Quan Linh xem kỹ chính là Ngưu Cao, nên mới gọi lớn.
Ngưu Cao gò cương lại thấy rõ ràng là bọn Quan Linh, Lục Văn Long tất cả năm người mới tỉnh hồn nói với Lục Văn Long.
- Các cháu phải chuẩn bị sẵn sàng, tên Phiên kia lợi hại lắm, chú đánh không lại, kìa, nó đã theo kịp kia!
Nói chưa dứt lời, Chiêm Đắc Lực đã rượt đến, hắn nhìn Ngưu Cao cười ngắt nói:
- Kìa, Ngưu Nam man. Sao chưa xuống ngựa chịu trói cho rồi còn chạy đi đâu?
Không đợi Ngưu Cao đáp, Quan Linh vung đao lướt tới nạt:
- Tên Phiên tặc kia sao dám xấc xược đến thế? Đã có ông đến đây, hãy coi chừng!
Chiêm Đắc Lực tròn xoe đôi mắt, hỏi:
- Mi là ai dám cả gan đón đường ta?
Quan Linh nói:
- Chớ có khinh thường, ta cho mi biết ta đây là Quan Linh, dòng dõi Võ An Vương đời Hán, hôm nay mi đã gặp ta đây tức mi đã tới số rồi!
Chiêm Đắc Lực cả giận vung chùy bổ tới, Quan Linh đưa đao đón đánh. Hai người sức lực tương đương, quần nhau trên ba mươi hiệp, Địch Lôi đứng ngoài thấy Quan Linh có phần sút hơn, liền vỗ ngựa vung chùy xông vào trợ chiến, nhưng Chiêm Đắc Lực cũng không hề nao núng, hắn nghiến răng hét lên một tiếng như sấm nổ sức lực tăng thêm đánh vùi thêm mười hiệp nữa, Phàn Thành thấy thế muốn xông vào, nhưng Lục Văn Long lại hô lớn:
- Thôi chư đệ hãy nghỉ hết đi, để anh trị hắn cho.
Hai người vừa lui ra, Lục Văn Long vận sức đâm tới một thương nhanh như chớp xẹt lưng trời, Chiêm Đắc Lực nhắm thế đỡ không kịp bèn né sang bên, không ngờ mũi thương lao tới nhanh quá nhằm trúng mắt con lạc đà làm nó đau quá, gục đầu xuống, Nghiêm Thành Phương thừa dịp giáng lên đầu con lạc đà một búa vỡ sọ ngã quy, ném Chiêm Đắc Lực xuống đất, Phan Thành nhanh tay lao mình tới đâm trúng giữa ngực Chiêm Đắc Lực một thương chết tươi.
Quan Linh liền nhảy xuống ngựa cắt lấy thủ cấp Chiêm Đắc Lực. Quân Phiên thấy vậy vỡ tan chạy hết. Ngưu Cao mừng rỡ dắt cả năm người trở về dinh ra mắt Nhạc Lôi, thuật lại việc tình cờ gặp bọn Quan Linh và giết Chiêm Đắc Lực cho Nhạc Lôi nghe.
Nhạc Lôi mừng rỡ bước xuống dưới trướng làm lễ ra mắt thúc phụ cùng mấy anh em rồi ngồi lại chuyện vãn với nhau. Sau đó Nhạc Lôi viết bổn chương gửi về triều tâu xin phong chức cho năm người, đồng thời đem thủ cấp Chiêm Đắc Lực bêu trước dinh làm hiệu lệnh.
Hôm sau, bỗng có quân thám tử về báo với Nhạc Lôi:
- Bẩm Nguyên soái, hiện có quan thủ bị Hà Giang Phủ giải ba ngàn hộc lương đến đây, nhưng bị tướng Phiên là Vưu Khả Vinh đón dường giật cướp, xin Nguyên soái hãy sai đại tướng đi cứu ứng cho mau.
Nhạc Lôi nghe báo, hỏi chư tướng:
- Chư vị tưởng quân, ai dám đi tiếp cứu quân lương được thì công ấy không nhỏ.
Ngưu Cao mỉm cười nói:
- Việc quan trọng như vậy tưởng không thể để cho ai đi được, chú cần phải đảm nhiệm việc này mới xong.
Nhạc Lôi nói:
- Lương thảo là việc hệ trọng, nếu thúc phụ sẵn lòng ra sức thì cháu mới an lòng.
Ngưu Cao nói:
- Được rồi, chú sẽ đi giết tướng Phiên đem lương thảo về ngay lập tức.
Nói rồi vội điểm ba ngàn binh mã hỏa tốc đi ngay. Khi đến Hà Giang phủ trông thấy quan thủ bị là Tông Lang đang đánh với tướng Phiên Vưu Khả Vinh đã gần đuối sức, thế rất nguy, Ngưu Cao xông tới quát lớn:
- Phiên tặc, dám cả gan đoạt lương thảo của ta sao? Hãy nếm thử mùi vị này!
Vừa nói, vừa vung giản giáng xuống, Vưu Khả Vinh cũng vung đao đón đánh, song đánh chỉ được vài ba hiệp nhắm thế đánh không lại Ngưu Cao, liền quay ngựa chạy dài.
Ngưu Cao hét như sấm nổ:
- Ngươi chạy lên trời cũng không khỏi tay ta. Tuy lương thảo ngươi trả lại rồi, song còn cái đầu của ngươi cũng phải để nốt lại đây mới được.
Vừa nói, vừa giục ngựa đuổi theo, còn Tông Lang thì hối quân đẩy xe lương trở về dinh.
Ngưu Cao một mình một ngựa đuổi theo tướng Phiên trên hai mươi dặm. Khi vượt qua một eo núi, bỗng thấy một đạo nhân đứng trên đỉnh núi lớn tiếng kêu Ngưu Cao. Ngưu Cao ngoảnh đầu lên thấy người ấy chính là thầy mình, liền nhảy xuống ngựa quỳ bên mé núi, thưa:
- Chẳng hay sư phụ đến đây có việc chi?
Bảo Phương lão tổ nói:
- Tên Phiên ấy chưa tới số, đừng theo hắn mất công vô ích, hiện giờ Ngưu Thông đang bị nạn, con hãy cầm lấy hoàn đơn được này đem về gấp, bẻ ra một nửa cho nó uống, một nửa thoa vào cổ thì lành mạnh như xưa, còn viên thuốc này con cũng nhận luôn đem về cứu Hà Phụng.
Từ nay về sau nếu con ra trận gặp yêu nhân dùng tà thuật con cứ việc lấy "xuyên vân tiễn bắn lên thì phá được ngay.
Nói đến đây Bảo Phương lão tổ biến mất. Ngưu Cao ngước mắt nhìn lên không trung lạy tạ rồi lên ngựa trở về.
Khi Chiêm Đắc Lực chết rồi, quân sĩ hoảng kinh chạy về phi báo với Ngột Truật, Ngột Truật vừa tiếc thương vừa giận dữ nói:
- Bọn tiểu Nam man này so sánh với lão Nam man lúc nọ còn lợi hại hơn nhiều, thế thì biết bao giờ ta mới thôn tính được Trung Nguyên?
Còn đang than thở, bỗng có tiểu Phiên vào báo:
- Nay có Quốc sư Phổ Phong đến.
Đang buồn bực, Ngột Truật bỗng vui lên, vội sai quân mời Phổ Phong vào. Giây phút sau Phổ Phong vào đến trưởng, Ngột Truật vội vã bước xuống nghênh tiếp.
Hai bên làm lễ ra mắt nhau xong rồi, Phổ Phong nói:
- Chẳng hay Chúa công giao phong với bọn Nam man thắng bại thế nào?
Ngột Truật thở dài đáp:
- Thật tôi chẳng giấu gì Quốc sư, bọn tiểu Nam man này mười phần lợi hại, sánh với lão Nam man lúc trước còn dũng mãnh hơn nhiều, nên vừa ra quân mấy phen đều bị thất bại, chết mất mười viên danh tướng, không biết tính sao?
Phổ Phong cười ha hả nói:
- Chúa công chớ lo, để ngày mai bần đạo ra trận đem chút tài mọn bắt bọn Nam man đem về đây cho.
Ngột Truật đáp:
- Vâng, tôi đặt hy vọng ở nơi Quốc sư đấy?
Nói rồi sai quân dọn yến tiệc thết đãi, Phổ Phong ăn uống no say đến canh khuya mới đi nghỉ.
Sáng hôm sau, Phổ Phong chẳng thèm đem binh mã, chỉ một mình một ngựa, cầm cây thiết trượng đến trước dinh quân Tống khiêu chiến.
Quân Tống chạy vào phi báo:
- Nay có một lão đạo nhân đến trước dinh khiêu chiến.
Nhạc Lôi hỏi chư tướng:
- Có ai dám ra trận không?
- Hỏi vừa dứt lời đã thấy Ngưu Thông và Hà Phụng bước ra xin đi, Nhạc Lôi căn dặn:
- Thường thường đạo nhân và đàn bà con gái ra trận hay dùng yêu thuật, nhị vị tướng quân phải cẩn thận lắm mới được.
Nói rồi sai Thang Anh, Kiết Thành Lượng và Dư Lôi, ba người theo yểm trợ.
Năm tướng vâng lệnh lên ngựa kéo quân ra trước dinh, thấy một lão đạo nhân mình mặc áo đạo sĩ, tay cầm thiết trượng, cưỡi ngựa ô, đôi mắt sâu hoắm nhưng phóng ra hai luồng nhãn quang trông dễ khiếp.
Ngưu Thông giục ngựa lướt tới hét lớn:
- Bình sinh ta không hề giết kẻ vô danh. Lão trọc kia, tên họ là chi hãy nói cho ta biết để rồi ta siêu độ cho.
Phổ Phong cười nham hiểm, đáp:
- Phật gia là Quốc sư, Đại Kim Quốc tên Phổ Phong đây
Ngưu Thông lắc đầu.
Ta không cần biết Quốc sư hay gia sư gì hết, chỉ biết ngươi là lão trọc, đủ rồi, thôi hãy ngửa cổ ra cho dài để ta chém!
Phổ Phong lửa giận phừng gan, thét to như sấm:
- Loài Nam man dám vô lễ với ta đến thế ư? Hãy lãnh giáo cây gậy của ta đây này.
Vừa nói vừa vung thiết trượng nhắm ngay đầu Ngưu Thông bổ tới, Ngưu Thông lập tức đỡ vọt ra rồi đánh với hắn hơn ba mươi hiệp, Phổ Phong đuối sức cự không lại Ngưu Thông, nghĩ thầm:
- "Thằng Nam man này lợi hại lắm, ta phải tính trước đi mới được".
Nghĩ đoạn, giả vờ nói với Ngưu Thông:
- Ngươi mạnh quá ta đánh không lại, thôi ta nhịn người đó.
Nói rồi, lão quay ngựa chạy, Ngưu Thông giục ngựa rượt theo hét lớn:
- Mi chạy lên trời cũng không khỏi tay ta. Mi muốn chạy hãy để cái đầu trọc lại đây cho ta mới được.
Phổ Phong thấy Ngưu Thông rượt theo gần sát liền thò tay vào túi láy ra một hạt "hỗn nguyên châu to bằng nắm tay giơ cao lên nói:
- Tiểu Nam man, đừng theo ta nữa vô ích, hãy nếm thử thứ bảo bối này.
Vừa nói vừa ném "hỗn nguyên châu lên không trung, Ngưu Thông ngước mắt lên thấy một cục tròn tròn từ trên rớt xuống, cười khúc khích nói:
- Lão trọc kia, ta đùa với mi sao?
Nói chưa dứt lời, viên "hỗn nguyên châu" rớt ngay giữa đỉnh đầu, Ngưu Thông thất kinh vội né sang bên, nhưng không kịp bị rớt trúng bả vai bên phải khiến Ngưu Thông ngã nhào xuống ngựa. Phổ Phong thu bảo bối lại, vung thiết trượng lướt tới đánh Ngưu Thông.
May thay lúc ấy Hà Phụng múa roi xốc tới chặn Phổ Phong lại, chư tướng áp tới cứu Ngưu Thông đem về.
Phổ Phong đánh với Hà Phụng được mười hiệp lại lấy "hỗn nguyên châu quăng ra. Hà Phụng biết không phải tầm thường quay ngựa bỏ chạy, chẳng dè "hỗn nguyên châu" rơi giữa lưng, Hà Phụng nhào xuống ngựa bất động.
Phổ Phong toan nhảy xuống ngựa cắt lấy thủ cấp, may có Thang Anh, Dư Lôi và Kiết Thành Lượng áp ra một lượt vây lấy Phổ Phong. Quân sĩ có cơ hội khiêng Hà Phụng về dinh. Phổ Phong thấy tướng Tống quá đông liệu đánh không lại liền lấy hỗn nguyên châu liệng lên. Ba người vừa trông thấy bảo bối thoát khỏi tay đã hô rập lên một tiếng giục ngựa chạy dài.
Vì quá hấp tấp, con ngựa Kiết Thành Lượng bị vấp chân ngã quị quăng Kiết Thanh Lượng xuống đất, may nhờ có quân sĩ dùng cung tên bắn vãi ra như mưa, cản trở bước tiến của Phổ Phong nên Kiết Thành Lượng có đủ thì giờ lồm cồm ngồi dậy chạy bộ vào dinh.
Phổ Phong đắc thắng đánh chiêng thu quân trở về ra mắt Ngột Truật, Ngột Truật hết lời khen ngợi:
- Tài năng của Quốc sư quả là vô địch. Chuyến này bọn Nam man phải kinh hồn lạc phách. Hôm nay Quốc sư nhọc sức ra trận chắc mỏi mệt lắm, cần phải nghỉ ngơi bồi dưỡng Bức khỏe, ngày mai giết chúng cho nhiều hơn nữa.
Nói rồi, sai quân dọn yến tiệc đãi Phổ Phong. Phổ Phong ngồi uống rượu đắc chí rung đùi nói:
- Chẳng phải tôi dám khoe miệng chứ thật ra lũ Nam man ấy tôi coi cũng như cá nhốt trong rọ rồi, tôi muốn bắt, muốn giết lúc nào chẳng được. Để tôi làm cho chúng nó táng đởm kinh hồn, bó tay chịu hàng cho Điện hạ xem.
Ngột Truật mừng rỡ vô cùng, đêm đó ăn uống say vùi với Phổ Phong cho đến quá nửa đêm mới mãn tiệc.
Nói về bên dinh Tống, chư tướng bại trận chạy về, Hà Phụng nằm trên giường bất động, còn Ngưu Thông rên la inh ỏi. Nhạc Lôi lo lắng không yên. Bỗng thấy quân sĩ chạy vào bẩm báo:
- Ngưu lão tướng quân đã về tới rồi.
Nhạc Lôi bước ra đón vào, nói:
- Cháu mừng cho chú hôm nay đã lập dược công lớn, song bữa nay Ngưu Thông ra trận bị Phiên tăng nó dùng yêu pháp đả thương bệnh tình rất nguy cấp, chú hãy đi thẳng ra phía sau dinh thăm luôn thể.
Ngưu Cao nghe nói vội bước theo Nhạc Lôi đi thẳng ra sau dinh, thấy Ngưu Thông đang rên xiết, còn Hà Phụng nằm trên giường bất tỉnh. Ngưu Cao thúc quân đem nước đến rồi cứ theo lời của Bảo Phương lão tổ cho hai người uống thuốc. Chỉ trong khoảnh khắc, cả hai đều bình phục như xưa.
Hà Phụng mở mắt ra thấy Ngưu Cao cứu mình, bèn sụp lạy tạ ơn. Nhạc Lôi đến hỏi Ngưu Cao:
- Tại sao chú lai có thuốc tiên hay đến thế?
Ngưu Cao đem hết việc gặp Bảo Phương lão tổ cho thuốc thuật lại một hồi. Nhạc Lôi mừng rỡ tạ ơn trời đất phù hộ. Còn Ngưu Thông và Hà Phụng cùng nghiến răng nói:
- Mang ơn Bảo Phương lão tổ cho thuốc tiên chúng ta mới sống lại được. Ngày mai quyết đi bắt cho được lão trọc đầu ấy về ăn gan mới hả giận.
Nhạc Lôi nói:
- Hôm nay nhị vị tướng quân đã mệt nhọc hãy tạm nghỉ vài ngày, vì tên Phiên tăng ấy quá lợi hại, không nên khinh thường, hãy treo miễn chiến bài vài hôm để lo kế rồi sẽ xuất quân mới được.
Ngưu Cao cười gằn, nói:
- Trước kia chú theo cha cháu hễ quân Phiên gặp mặt là vỡ vật kinh hồn, hôm nay chúng bay ra làm tướng, hễ rục rịch một chút là treo miễn chiến bài, thiệt xấu hổ quá! Thôi, để mai Ngưu Thông với mấy anh em ra trận, chú sẽ theo sau yểm trận cho. Chú sẽ bắt thằng trọc ấy về đây cho cháu xem.
Nhạc Lôi không dám cãi Ngưu Cao nhưng trong lòng rất lo ngại, chàng nói:
- Thôi để ngày mai thương nghị lại đã.
Sáng hôm sau Nhạc Lôi thăng trướng sớm lắm, chư tướng vừa tề tựu đủ mặt, bỗng có quân chạy vào báo:
- Hôm nay Phiên tăng lại đến khiêu chiến nữa.
Ngưu Thông và Hà Phụng lửa giận sôi lên sùng sục, sắc mặt hầm hầm xin phép ra binh lập tức, Nhạc Lôi ý muốn khuyên can, Gia Cát Cẩm bước ra nói:
- Nguyên soái cứ để cho họ xuất trận, nhưng phải có Ngưu lão Tướng quân theo yểm trận thì chắc là nắm phần thắng trong tay.
Nhạc Lôi y lời nhưng căn dặn:
- Vậy thì năm vị tướng quân hãy hết lòng cẩn thận, còn Ngưu thúc phụ chịu phiền theo yểm trận một phen.
Năm tướng vâng lệnh giục ngựa xông ra, Ngưu Cao dẫn binh theo sau. Ngưu Thông vừa trông thấy Phổ Phong chẳng nói rằng chi cả, cứ việc vung đao chém bổ tới Hà Phụng cũng hét lên một tiếng rung trời chuyển đất chỉ vào mặt Phổ Phong mắng lớn:
- Thằng trọc này dám có gan dùng yêu pháp hại ta, hôm nay ta đố mi chạy đi đâu cho khỏi?
Vừa nói, vừa múa song tiễn sáp tới đánh túi bụi, Thang Anh, Dư Lôi và Kiết Thành Lượng cũng vung binh khí xông vào đánh tới tấp. Phổ Phong biết thế không xong liền nhanh tay rút viên "hỗn nguyên châu" ra giơ lên cao, nạt:
- Loài Nam man hãy coi chừng bửu bối của ta đây.
Vừa nói, vừa liệng lên không trung, năm người còn ngơ ngác chưa biết đối phó bằng cách nào, Ngưu Cao đứng sau trận trông thấy hạt châu ấy tỏa ra một luồng hắc khí bay quyện lên không trung, nghĩ thầm:
"Thôi để ta sử dụng "xuyên vân tiễn" xem sao."
Ngưu Cao lấy mũi tên phóng tôi, tức thì luồng hắc khí tiêu tan mất hết, viên "hỗn nguyên châu" rớt bịch xuống đất như một hòn sỏi rơi. Ngưu Cao trông thấy nhảy xuống ngựa nhặt trái bửu bối ấy nhảy lên ngựa kêu Phổ Phong nói:
- Thằng trọc kia, hãy đỡ bửu bối đây này.
Nói rồi, Ngưu Cao bắt chước ném hỗn nguyên châu lên không trung chằng dè hỗn nguyên châu ấy đã bị xuyên vân tiễn của mình bắn thủng rồi không còn linh nghiệm nữa. Phổ Phong giơ tay tiếp lấy vừa muốn quăng lên nữa, ngờ đâu Dư Lôi lẹ tay nhảy tới đâm một thương nhằm trúng vai, lão ta nhào lăn xuống đất.
Ngưu Thông nhảy tới toan bồi thêm một đao đế kết liễu mạng sống song Phổ Phong đã hóa ra đạo Kim phong biến mất.
Bọn Ngưu Thông đắc thắng đánh trống trở về dinh báo công.
Nói về Phổ Phong thoát chạy về dinh, lấy linh đơn ra xức chỗ bị thương, trong giây phút bình phục như xưa, vào trướng ra mắt Ngột Truật nói:
- Hôm nay tôi ra trận rủi bị Nam man nó phá phép bửu châu nên mới thất bại về đây.
Ngột Truật thở dài nói:
- Quốc sư mà không cự lại được chúng thì biết bao giờ mới thôn tính được Trung Nguyên?
Phổ Phong cười đáp:
- Tuy vậy, Chúa công chớ quá lo nội trong đêm nay tôi sẽ giết sạch lũ Nam man mới hả giận.
Ngột Truật làm lạ hỏi:
- Bọn Nam man hung dữ như vậy, Quốc sư làm cách nào giết chúng được?
Phổ Phong giải thích.
- Lúc tôi đi tu, thầy tôi có cho một món pháp bửu gồm năm ngàn lẻ tám con Đà Long, muốn lớn cũng được muốn nhỏ cũng được, tôi thu hết trong hồ lô này. Hễ thả ra là chúng bay đến ăn thịt uống máu địch quân không còn một đứa. Đối với mấy mươi vạn binh Tống tôi chỉ cần thả ra trong thời gian vài tiếng đồng hồ là nó ăn không còn một tên nào.
Ngột Truật nghe nói, lòng vô cùng mừng rỡ, liền bảo tiểu Phiên dọn yến, hai người ăn uống với nhau đến chiều tối.
Phổ Phong từ giã Ngột Truật trở về dinh mình, đặt hương án để hồ lô lên bàn, miệng đọc thần chú, rồi giở nút hồ lô ra truyền lệnh:
- Bưu bối! Hãy bay lên.
Dứt tiếng, trong hồ lô vù vù bay ra vô số Đà Long thẳng cánh bay lên không trung, mỗi con biến dài ra hơn mấy trượng mắt sáng ngời, miệng đỏ như chậu huyết, răng nhọn sắc như dao, hùng hổ bay qua dinh Tống.
Tống quân xem thấy trên lừng trời hào quang tỏa ra muôn đạo sáng chói cả một vùng liền la ó bàn tán với nhau:
- Không biết có phải quân Phiên lập kế cướp dinh chăng?
Rồi đứa khác lại cãi.
- Không phải đâu, quân Phiên sao lại biết bay lên trời? Thôi cứ việc phi báo rồi sẽ hay.
Vừa nói vừa chạy vào trướng thưa:
- Trên nửa lừng trời có vô số đèn lửa đang bay đến dinh ta, không biết là vật chi nên phải vào bẩm để Nguyên soái biết.
Gia Cát Cẩm nghe báo hoảng hốt chạy ra xem, thoạt trông thấy đã thất kinh:
- Cha chả! Không xong rồi, phải truyền cho đại tiểu tướng quân, lập tức đội trước làm sau đội sau làm trước lui lại cho mau, sẽ tránh tai nạn.
Ba quân nghe lệnh, sợ hãi nhổ trại chạy ngay. Nhưng ngay lúc đó đạo binh sau đã thét vang dậy vì Đà Long đã bay đến bắt quân sĩ vừa hút máu vừa ăn thịt. Quân Tống hoảng hốt không còn có trật tự nữa, cùng xô nhau chạy thục mạng hơn sáu mươi dặm đường, mới dám dừng chân lại. Lúc bấy giờ đã đến canh năm.
Bên kia Phổ Phong niệm chú thu hết Đà Long về.
Đà Long rút lui, trời vừa sáng, Nhạc Lôi tra điểm binh mã, mới hay Tống quân bị mất hết một vạn tám ngàn. Ngưu Cao nói:
- Vật chi mà lợi hại lắm vậy?
Gia Cát Cẩm đáp:
- Đó chính là Đà Long trận, chỉ vì tôi không dự liệu trước nên mới bị thất bại như thế này, tôi sẽ trả đũa lại bằng một kế mọn khác cho chúng biết tay.
Nói rồi, sai quân sắm máu lợn, máu chó, củi khô, cỏ và đồ dẫn lửa cho nhiều, quân sĩ đều mặc áo xám, đeo cung tên cho sẵn sàng chờ lệnh rồi lại sai năm ngàn quân mã trở lại chỗ cũ đào một cái hầm rộng một trượng năm thước, bề sâu đến một trượng hai, dài hai mươi lăm trượng, suốt đêm phải làm cho xong.
Quân Tống vâng lệnh xúm nhau làm, chẳng bao lâu công việc hoàn tất.
Gia Cát Cẩm bèn sai quân đem hỏa pháo bố trí dưới hầm rồi đặt những hỏa lôi phục xung quanh, phía trên thì đặt nhiều củi và tưới máu lợn, máu chó lên trên, đoạn sai ba quân trở về chỗ cũ đóng dinh trại nguyên vẹn như trước.
Ngoài ra, Gia Cát Cẩm còn bố trí một đội quân mai phục hai bên và trước dinh chờ cho Đà Long sa xuống hầm thì phát pháo lên làm hiệu, bốn phía hỏa tiễn bắn ra một lượt.
Phân công và bố trí đâu đó xong xuôi, trời đã tối.
Bên dinh Phiên, Quốc sư Phổ Phong dùng Đà Long trận giết chết một số lớn quân Tống lấy làm đắc chí, chờ cho trời tối cũng áp dụng thủ đoạn như đêm trước. Phổ Phong cũng đặt bàn hương án lên niệm thần chú, giở nắp hồ lô ra, Đà Long bay ra vô số như ong bầy, kiến lũ thẳng đến dinh Tống để ăn thịt, uống máu, còn Phổ Phong thì cưỡi ngựa đi sau mà xem.
Khi bầy Đà Long bay đến dinh Tống gần bên cái hầm ngửi mùi huyết tanh tanh liền nhào xuống hầm để uống huyết.
Gia Cát Cẩm trông thấy rõ ràng, chờ cho Đà Long chui trọn xuống hầm rồi, cho nổ lên một pháo hiệu, tức thì ba ngàn binh phục đều dậy, hỏa tiễn cùng thuốc cháy bắn vãi ra, trong giây phút lửa dậy hừng trời, những hỏa lôi phục gặp lửa phát lên những tiếng nổ kinh thiên động.địa. Ngọn lửa mỗi lúc một bốc cháy cao, khói tỏa mịt trời.
Phổ Phong thấy vậy vội đọc thần chú thu Đà Long về chẳng dè Đà Long bị máu lợn máu chó ô uế bay lên không nổi, trọn năm ngàn lẻ tám con Đà Long đều bị chết, Phổ Phong thoát chạy về dinh nhổ mấy mũi tên ra lấy thuốc thoa vào và nghĩ thầm:
- "Đại bại như thế này, Đà Long cũng bị chết hết còn mặt mũi nào trông thấy Ngột Truật? Chi bằng về núi luyện phép lại rồi sẽ trở xuống báo thù' . Đêm ấy Phổ Phong âm thầm trở về núi, không cho Ngột Truật biết.
Sơn Sư Đà kép sức cho Ngột Truật
Dương Kế Châu, dư sức địch tướng phiên
Khi biết Phổ Phong trốn về núi rồi. Ngột Truật thở dài thất vọng, vội viết bổn chương gửi về nước xin quân tiếp viện.
Hôm sau, Nhạc Lôi thăng trướng truyền lệnh sai Quan Linh và Ngưu Thông lãnh ba ngàn quân làm đội thứ nhất, Lục Văn Long, Phàn Thành dẫn ba ngàn quân làm đội thứ hai, Kiết Thanh, Lương Hưng, Triệu Vân, Châu Thanh Lượng và Địch Lôi làm tả đội, còn Nghiêm Thành Phương và Ngũ Liên làm hữu đội; riêng Nhạc Lôi dẫn chư tướng đi sau, nổ ba tiếng pháo kéo thẳng đến dinh quân Phiên.
Tiểu Phiên vào phi báo, Ngột Truật lập tức dẫn hết bọn Nguyên soái và bọn Bình chương ra cự chiến.
Hai bên vừa gặp nhau là xáp vào hỗn chiến chứ không nói năng gì cả. Tuy binh Ngột Truật nhiều, nhưng vì binh Tống tấn công bốn phương tám hướng, nên không thể nào tiếp ứng kịp, hơn nữa bọn tiểu anh hùng dữ dằn quá gặp binh giết binh, gặp tướng giết tướng, đánh thôi đá lở, cát bay, trời sầu đất thảm, quân Kim ngã lăn như cây rừng khi gặp bão lớn, năm mươi vạn quân Kim chỉ còn phân nửa.
Ngột Truật đại bại kéo hết tàn quân chạy dài, Nhạc Lôi xua binh đuổi theo.
Khi qua khỏi các cửa ải đến địa phận Kim Phiên Ngột Truật chạy đã xa rồi, Nhạc Lôi truyền quân đóng trại nghỉ ngơi chờ cho lương thảo đến rồi sẽ đánh thốc qua Phiên bắt cho được Ngột Truật, đồng thời nghênh đón Nhị Đế về triều. Đây chính là nguyện vọng của Nhạc Phi, chỉ vì gian thần hãm hại nên giữa đường phải bỏ cuộc, nay Nhạc Lôi quyết nối chí cha.
Khi Ngột Truật chạy về quan ngoại liền họp các vị vương tử và các vị Bình chương lại thương nghị.
Ngột Truật nói:
- Chúng ta đại bại, binh mã chẳng còn bao nhiêu, chi bằng trở về nước chỉnh điểm thêm binh mã rồi sẽ qua
Nói rồi truyền lệnh kéo hết đám tàn quân ra đi.
Hôm ấy, tàn quân kéo về đến Giới Sơn, bỗng thấy phía trước có một đội quân đồn trú, dựng cờ hiệu nước Kim, Ngột Truật sai người tra hỏi mới hay đạo quân ấy là của Kim Quốc Sơn Sư Đà và Hàm Quản Tổng binh Liên Nhi Tâm Thiện. Hai người này dẫn quân qua trợ chiến với Ngột Truật.
Đang lúc buồn bực, Ngột Truật thấy vậy bỗng cảm thấy vui lên, vội sai tiểu Phiên vào thành phi báo.
Sơn Sư Đà và Liên Nhi Tâm Thiện lập tức đích thân ra ngoài thành đón Ngột Truật vào ngưu bì trướng, làm lễ ra mắt rồi hỏi:
- Tại sao Chúa công đi đánh Trung Nguyên lại bỏ về?
Ngột Truật đáp:
- Ta vào Trung Nguyên, lúc đầu tiến quân một cách dễ dàng thế đánh như chẻ tre, chẳng dè khi đến Châu Tiên trấn bị thằng Nhạc tiểu Nam man hưng binh đến chống cự ta. Ta giao phong với hắn đã bao nhiêu trận nhưng thảy .đều thất bại, bọn ấy quả là lợi hại, chúng giết chết mất trên hai mươi đại tướng của ta, còn năm mươi vạn quân thì hao hết phân nửa. Vì vậy nay ta phải trở về chỉnh điểm thêm binh mã rồi sẽ trở qua quyết tranh thắng bại với hắn.
Sơn Sư Đà nói:
- Nếu vậy thì để tôi chờ lũ Nam man đến đây giết cho tận tuyệt để báo thù cho Chúa công. Xin Chúa công về điều chỉnh thêm binh mã đến đây tiếp ứng cho mau, để cùng nhau đánh thốc tới Lâm An.
Hấp Mê Xi nói:
- ý kiến Nguyên soái hay lắm.
Nói rồi đề nghị với Ngột Truất để hết tàn quân lại cho Sơn Sư Đà và Liên Nhi Tâm Thiện, hai người đồn trú tại đó chờ quân Tống đến, còn Ngột Truật cùng quân sư và các vị Vương tử dắt nhau trở về Hà Vương Phủ.
Chỉ vài ngày sau Nhạc Lôi tiếp được lương thảo đầy đủ lập tức truyền quân nhổ trại kéo đến Giới Sơn, bỗng có quân tuần thám đi trước trở lại phi báo:
- Dưới chân núi Giới Sơn, có quân Kim ngăn đón, không thể tiến quân thêm nữa được.
Nhạc Lôi nghe báo liền truyền lệnh an dinh hạ trại.
Sơn Sư Đà hay tin quân Tống kéo đến, liền mặc giáp lên ngựa, cầm cây lưu kim giản nặng một ngàn hai trăm cân lướt tới trước dinh Tống khiêu chiến.
Quân vào phi báo, Nhạc Lôi hỏi chư tướng:- Có ai dám ra trận chống với Phiên tướng không?
Vừa dứt lời, đã thấy Quan Linh bước ra xin đi.
Nhạc Lôi nói:
- Tướng quân có đi xin hãy cẩn thận.
Quan Linh lên ngựa cầm đao dẫn ba ngàn quân, phất cờ nổi trống kéo ra trước trận, trông thấy tướng Phiên hình dung cổ quái, nước da đen như nhọ chảo, mặt thỏn, mõm dài và nhọn hoắt, đôi mắt lồ lộ và trắng toát trông như quỉ Dạ Xoa hiện hình, tại lớn như tai voi, miệng rộng tới mép tai, mũi lớn một cách dị thường, tóc vàng râu quắn, mới xem qua giống như Thiên Lôi giáng thế, xem lâu chẳng khác quỉ sứ dưới âm ty.
Quan Linh bước tới nhìn thẳng vào mặt đối phương nạt lớn:
- Tên kia, mi là ai, sao dám ngăn cản binh ta? Hãy nói tên cho mau để ta lấy đầu mi đem về lập công.
Sơn Sư Đà há nửa chiếc miệng hỏa lò cười ngất lên một hồi rồi đáp:
- Đại Kim Quốc thần võ Đại Nguyên soái Sơn Sư Đà là ta đây, còn mi là đứa trẻ nít nên "điếc không sợ súng". Ta cho mi biết rằng, Tống triều đang khi bại hoại, chúa tối tôi gian, chẳng bao lâu nữa cũng phải mất. Ta vâng lệnh Trời đến thâu đoạt giang san nhà Tống, mi đã không trốn đi để cho toàn tính mạng, lại còn khờ khạo qua đây xâm lấn bờ cõi ta. Ta thấy miệng mi còn hôi sữa nên chẳng nỡ giết, mi hãy về kêu người tuổi tác ra đây đánh với ta, nếu cưỡng lại chớ trách ta sao ỷ lớn.
Quan Linh nổi giận nghiến răng nói:
- Ta đã lấy lời phải trái khuyên ngươi mà ngươi nhất quyết không nghe, vậy ta phải kết liễu đời ngươi cho rồi!
Nghe nói vậy, Sư Đà vừa vung giản nhắm ngay đầu Quan Linh đánh bổ xuống. Quan Linh vội múa đao đỡ vọt ra, nhưng Quan Linh cảm thấy sức mạnh đối phương thật phi phàm, khiến Quan Linh mới đỡ một cái mà rung động toàn thân.
Nhắm thế cự không lại, Quan Linh quất ngựa chạy về, Sơn Sư Đà vừa rượt theo vừa giết quân Tống chết rất nhiều Khi vào dinh rồi kiểm điểm lại ba ngàn quân hao hết một ngàn.
Sơn Sư Đà đắc thắng đánh trống thu quân về dinh. Còn Quan Linh chạy vào ra mắt Nguyên soái Nhạc Lôi xin chịu tội.
Nhạc Lôi nói:
- Phàm chiến đấu cần nhất là phải biết rõ lực lượng của đối phương, nên khi tướng ra trận mà thất bại lỗi ấy là của bổn soái chứ tướng quân có can chi.
Gia Cát Cẩm nói:
- Hôm nay địch thắng ta, thế nào đêm nay chúng cũng đến cướp trại.
Nhạc Lôi gật đầu khen phải, rồi hai người bàn luận với nhau, bí mật truyền lệnh cho ba quân lùi lại hai mươi dặm đóng dinh, sai Quan Linh dẫn ba ngàn binh mai phục bên phải, Nghiêm Thành Phương dẫn ba ngàn mai phục bên trái, Lục Văn Long dẫn ba ngàn quân theo ngả sau kéo ra Giới Sơn chặn đường về của đối phương, còn Nhạc Lôi cùng chư tướng ở tại đại dinh, phân binh mai phục hai bên. Nhạc Lôi lại truyền lệnh, hễ nghe tiếng pháo nổ thì bốn phía đều dậy lên một lượt, xông vào.
Sắp đặt đâu đó xong xuôi, trời vừa tối, quả nhiên bên dinh Kim, Liên Nhi Tâm Thiện dâng kế với Sơn Sư Đà:
- Hôm nay quân Tống đại bại, hoảng kinh chắc không phòng bị, chúng ta đem quân đi cướp trại thế nào cũng toàn thắng.
Sơn Sư Đà khen phải nhưng lại nói:
- Bọn Nam man đa mưu, lắm kế nên Chúa công thường thường cứ bị chúng lừa, nay ta đi cướp trại phỏng như chúng phòng bị rồi thì nguy tai. Chi bằng áp dụng phương pháp lấy khách làm chủ, nghĩa là sai hai phó tướng Phương Lâm và Phương Học dẫn một ngàn binh mã giả ý đi cướp trại, còn ta với ngươi thì phân làm hai đạo chặn ngả sau của chúng nó, làm cho chúng tiến thoái lưỡng nan, hai đầu chạm địch, có phải hay hơn không?
Liên Nhi Tâm Thiện vỗ tay khen:
- Nguyên soái mưu như thần tính toán diệu kỳ chẳng ai kịp.
Sau đó Sơn Sư Đà điểm một ngàn binh mã giao cho hai phó tướng là Phương Lâm và Phương Học tiến theo đại lộ đi cướp trại, còn mình và Liên Nhi Tâm Thiện thì phân binh hai đạo sẽ lén kéo đi.
Qua đến đầu canh ba, Phương Lâm và Phương Học kéo binh đến dinh Tống cứ việc đánh thẳng vào, bỗng nghe trong dinh Tống nổ một tiếng pháo. Phương Lâm và Phương Học quay ngựa trở ra. Quan Linh từ bên phải đánh riết vào gặp quân của Sơn Sư Đà, Nghiêm Thành Phương từ bên trái đánh vào gặp quân của Liên Nhi Tâm Thiện. Hai bên đánh với nhau một trận. Quân Phiên cũng như quân Tống đều chết vô số. Sơn Sư Đà liệu thế không xong liền thu quân về, chẳng may lại gặp Lục Văn Long chặn lại đánh ác liệt một trận nữa, đến khi trời sáng, hai bên đều thu quân .
Về đến dinh, Sơn Sư Đà kiểm điểm binh tướng thì thấy phó tướng Phương Học đế bị loạn quân giết chết rồi, binh sĩ hao hết một ngàn rưỡi. Còn binh Tống cũng hao hết trên ngàn.
Sau trận ác chiến ấy, hai bên đều nghỉ binh một ngày. Qua bữa sau, Liên Nhi Tâm Thiện đến trước dinh Tống khiêu chiến.
Quân sĩ vào phi báo, Nguyên soái hỏi chư tướng:
- Có ai dám ra ngựa không?
Nghiêm Thành Phương liền lên tiếng xin đi, Nguyên soái phát ba ngàn quân, Nghiêm Thành Phương nhận lệnh kéo quân ra trước trận, trông thấy tướng Phiên mình cao một trượng, mắt đỏ ngầu như than lửa đang nung trong lò, mày rô trán trợt, đầu đội kim khôi có giắt hai chiếc lông trĩ, mình mang khôi giáp, lưng đeo dây nịt vảy rồng, cưỡi con ngựa ô truy, tay cầm hiệp phiến đao. Vừa thấy Nghiêm Thành Phương ra ngựa thì hét to như sấm động:
- Nam man kia tên gì? Nói mau!
Nghiêm Thành Phương giơ đao đáp:
- Đại Tống ngự tiền Đô Thống Nghiêm Thành Phương là ta, còn mi tên gì cũng phải nói mau lên để ta còn ra tay độc thủ.
Liên Nhi Tâm Thiện cười ha hả đáp:
- Đại Kim Quốc Hàm Quan Đại Nguyên soái Liên Nhi Tâm Thiện là ta, ngươi nghe danh ta rồi sao không xuống ngựa chịu trói cho rồi để ta khỏi nhọc công ra sức.
Nghiêm Thành Phương nạt lớn:
- Tên quỷ sứ này nói ba hoa khoác lác đến thế là cùng, hãy xem song chùy ta đây.
Vừa nói vừa vung song chùy đánh bổ tới, Liên Nhi Tâm Thiện cũng đưa đao đón đánh. Hai người đánh với nhau được bốn mươi hiệp, Nghiêm Thành Phương cảm thấy đối phương mạnh hơn nên đánh bậy một chùy rồi quay ngựa chạy thẳng vào rừng. Liên Nhi Tâm Thiện giục ngựa đuổi theo.
Nghiêm Thành Phương chạy hơn mười dặm, bỗng thấy bên mé rừng phía trước có buộc hai con ngựa, lại có hai vị hảo hán đang ngồi trên bàn thạch trò chuyện. Một vị mặt đen như than hầm, một vị mặt vàng như nghệ.
Hai người vừa trông thấy Nghiêm Thành Phương chạy đến, liền đứng dậy kêu lớn:
- Tướng quân chớ sợ, chúng tôi sẽ giúp cho một tay.
Nghiêm Thành Phương đáp:
- Phía sau có tướng Phiên đuổi theo, hắn lợi hại lắm, chẳng hay nhị vị là ai?
Người mặt đen lên tiếng đáp:
- Tôi đây là con của Đổng Tiền tên Đổng Diệu Tông, còn người này là con của Mã Hậu Vương Hoành tên Vương Bưu, chúng tôi định xuống đầu theo Nhạc nhị đệ đây.
Nghiêm Thành Phương nói:
- Tôi là huy hạ Nhạc Lôi Nguyên soái tên Nghiêm Thành Phương bị Phiên tướng đuổi theo bức quá xin nhị vị hãy cứu giùm.
Vừa nói đến đây, Liên Nhi Tâm Thiện đã đuổi theo kịp, giơ tay chỉ vào mặt Nghiêm Thành Phương nói:
- Loài Man tử kia, sao chưa xuống ngựa chịu trói cho rồi còn chạy đi đâu nữa?
Đổng Diệu Tông lập tức tung mình lên ngựa, vung xoa kích xốc tới ngăn tướng Phiên lại nạt lớn:
- Tên mọi Phiên kia, có ông Đổng đến đây đừng khoe môi múa mỏ.
Liên Nhi Tâm Thiện xoe tròn đôi mắt nẩy lửa, mắng:
- Tên tiểu quỉ này ở đâu lại dám cả gan đến đây đón đầu ngựa ta?
Vừa mắng, vừa vung đao chém tới, Đổng Diệu Tông cũng múa xoa kích đón đánh, hai ngựa giao kề đánh nhau chừng vài mươi hiệp, Đổng Diệu Tông đuối sức, miệng thở hồng hộc, Vương Bưu thấy vậy xông vào trợ chiến, nhưng Liên Nhi Tâm Thiện đánh với hai người không chút nao núng. Nghiêm Thành Phương thấy vậy liền quay ngựa trở lại, vung song chùy áp vào đánh tiếp.
Bấy giờ Liên Nhi Tâm Thiện phải tả xông hữu đột với ba con hổ dữ trông nhọc nhằn lắm, Tâm Thiện dù mạnh đến đâu cũng khó mà chống nổi với ba người, nên vội quay ngựa chạy tuốt về dinh.
Ba tướng cũng dắt nhau về dinh vào trướng ra mắt Nguyên soái. Đổng Diệu Tông, Vương Bưu đem việc con
Dương Tái Hưng là Dương Kế Châu muốn đến hiệp binh đánh Kim Phiên báo thù cha, nên bảo hai người đi trước còn y sẽ thâu góp binh mã lương thảo rồi xuống sau. Khi đi vừa đến đây bỗng gặp Nghiêm Thành Phương bèn phối hợp nhau đánh Liên Nhi Tâm Thiện chạy dài. Đầu đuôi mọi việc hai người thuật lại một hồi, Nguyên soái mừng rỡ vội ghi công cho hai người rồi truyền dọn yến tiệc đãi đằng.
Liên Nhi Tâm Thiện chạy về dinh ra mắt Sơn Sư Đà vừa thở vừa nói:
Hôm nay tôi rượt theo Nghiêm man tử suýt bắt được nó, chẳng dè lại gặp hai thằng tiểu Nam man ở đâu không biết chạy đến thình lình hùa nhau đánh rát quá tôi phải bỏ về.
Sơn Sư Đà nghe nói, lòng nóng như lửa đốt. Qua hôm sau, Sơn Sư Đà đích thân lên ngựa cầm giản đến trước dinh Tống kêu đích danh Nhạc Lôi ra đánh với mình.
Nhạc Nguyên soái vừa muốn ra binh, bỗng có Vương Anh bước ra bẩm:
- Nguyên soái chớ nên hạ mình giao phong với thằng tiểu khấu, để đệ ra bắt nó cũng đủ rồi.
Nguyên soái nói:
- Vương đệ có đi phải hết lòng cẩn thận mới được.
Vương Anh vâng lệnh cầm đao dẫn quân ra trước trận, Sơn Sư Đà trông thấy đã hét to:
- Mi có phải Nhạc Lôi đó không?
Vương Anh cười gằn đáp:
- Đời nào Nguyên soái ta lại chịu hạ mình đánh với mi. Ta đây là Tiểu Hỏa Thần Vương gia đây, hãy ráng đỡ cây đao này.
Vừa nói, vừa vung đao chém bổ tới, Sơn Sư Đà vung lưu kim giản đỡ gạt ra rồi thuận thế đánh tiếp luôn mấy giản một lượt khiến Vương Anh luýnh quýnh đỡ không kịp, liền quay ngựa chạy dài, Sơn Sư Đà giục ngựa đuổi theo.
Trong cơn nguy cấp may gặp Ngưu Cao giải lương về đến thấy Vương Anh thua chạy, liền kêu lớn:
- Có bác đây, hiền điệt đừng sợ.
Vừa nói vừa xông ra đứng cản ngang giữa đường. Sơn Sư Đà gò cương lại, nạt lớn:
- Loài mao tặc ở đâu dám đến đây đón đầu ngựa ta?
Ngưu Cao cười ngất một hồi, nói:
- Tên ngốc kia, sao mi ngu đến vậy hả? Ngưu Cao lão gia này đã lừng danh bổn bể ai lại không biết, sao mi hỏi ngớ ngẩn quá vậy?
Sơn Sư Đà nói:
- Té ra mi là Ngưu Cao đó ư? Mi lại không nghe danh Sư Đà này sao lại dám đến đây cản ngựa?
Ngưu Cao lắc đầu, đáp:
Đối với ta thì Sư Đà Sư Điếc cũng không ăn thua gì cả hễ gặp tay ta là vong mạng thôi.
Vừa nói vừa múa giản đánh hèn. Sơn Sư Đà liền đưa giản đỡ hất ra một cái thật mạnh khiến cây giản của Ngưu Cao văng bổng lên không trung cao hơn mấy trượng rồi rớt xuống trong đám cỏ.
Ngưu Cao vùng la lớn:
- Ôi chao, thằng này giỏi thiệt, phải có học trò ta đến đây thì mới có thể bắt được nó!
Sơn Sư Đà nghe nói cười ngất:
- Võ nghệ như vậy mà dạy học trò nào nên thân?
Ngưu Cao "hư một tiếng rồi nói:
- Ngươi ở bên Kim Phiên làm gì biết được việc bên Trung Quốc ta? Đại phàm khí lực mạnh yếu là tại trời sinh chứ không phải tại thầy dạy, thầy dạy chỉ dạy võ nghệ mà thôi chứ làm sao dạy sức mạnh được? Vì vậy thằng học trò của ta tưởng chẳng đợi cho mi thấy nó làm gì, ta nói ra đây cũng đủ cho mi hết hồn. Ôi! Cái thằng làm sao mà dũng mãnh vô song, hắn cử nổi chẳng biết mấy ngàn cân mà kể. Nó ra trận không cần mang theo đồ binh khí. Một tay cũng đủ bắt một người, một chân cũng có thể đạp chết vài ba đứa. Còn ốm yếu như mi, nó chỉ cần quát một tiếng là mi nhào xuống ngựa ngay lập tức!
Sơn Sư Đà cười gằn:
- Ngươi đừng khoác lác với ta. Trên đời này không có ai đang ngồi trên ngựa bị nạt mà té nhào cả!
Ngưu Cao nói:
- Nếu mi không tin, hãy ở đây chờ đợi để ta đi kêu nó đến đây cho mà xem.
Sơn Sư Đà nói:
- Được rồi, nếu mi lừa ta, mi có chạy lên trời cũng không khỏi, hãy đi kêu hắn đến đây, mau lên.
Ngưu Cao lại nói:
- Phàm kẻ anh hùng hảo hán thì hành động phải cho minh minh chánh chánh. Ta đi kêu học trò ta đến đây nếu đánh với mi không lại thì ta phục mi, bằng mi đánh không lại nó thì chớ trách ta; còn những lương thảo của ta để đây, mi không được động tới đấy!
Sơn Sư Đà cưới gằn đáp:
- Lương thảo của mi để đó xem như ở trong túi ta rồi, ta vội chi, hãy đi cho mau lên, đừng nói nhiều lời!
Ngưu Cao vẫn nói:
- Hãy ngồi cho vững kẻo ta kêu học trò ta đến đây, mi mà thấy sẽ té nhào đấy!
Vừa nói, vừa nhảy lên ngựa nhặt cây giản rồi nhắm hướng đông chạy tuốt.
Ngưu Cao vừa đi vừa nghĩ thầm:
- Tuy lừa hắn thoát thân được rồi, song còn lương thảo làm sao cứu được?
Còn dang suy nghĩ, bỗng thấy phía trước mặt có bụi bay mịt trời, xem kỹ lại thì quả là một đạo binh xăm xăm lướt tới có ba chữ "Cửu Cung sơn cần vương". Ngưu Cao đứng nép một bên để xem cho tường tận.
Ngưu Cao trông thấy Vương Anh giục ngựa đi kề sát một vị anh hùng, còn phía trước lại có một người đầu đội nhị long hi ngân khôi, mình mặc song sư còn cầu bạch chiến bào, tay cầm song kích, lưng buộc diêu cung, cưỡi con bạch long cu, đeo cây thanh đồng kiếm giống như Tiết Nhân Quý phục sinh, tựa Lữ ôn Hầu tái thế.
Ngưu Cao lẩm bẩm một mình:
"Phải rồi, phải rồi . Lúc ta còn ở trên Thái Hành sơn có nghe đồn rằng, người con Dương Tái Hưng vẫn còn ở Cửu Cung sơn, nay chắc hắn nghe Nhạc Lôi đi tảo Bắc nên kéo binh đến giúp đây.
Nghĩ rồi liền bước ra kêu lớn:
- Vương hiền điệt ôi! Người đi với cháu đó phải là con của Dương Tái Hưng không?
Vương Anh nói:
- Thưa phải!
Rồi quay qua nói với Dương Kế Châu:
- Người này là Ngưu Cao lão bá đấy.
Dương Kế Châu nghe nói vội vàng xuống ngựa vòng tay nói:
- Tiểu điệt chính là Dương Kế Châu đây, chẳng hay Phiên tướng hiện giờ ở đâu?
Ngưu Cao nói:
- Thông đừng hỏi tới tướng Phiên nữa; chúng lợi hại lắm, nếu quả cháu là con của Dương Tái Hương thì phải trở về cho mau.
Dương Kế Châu ngạc nhiên hỏi:
- Cháu quyết đến đây giúp sức bình Kim Phiên, sao bá phụ lại bảo cháu trở về?
Ngưu Cao nói:
- Vì hiền điệt không rõ đấy thôi, nguyên vì tên tướng Phiên Sơn Sư Đà quá ư là lợi hại, chẳng những riêng Vương Anh thua nó mà thôi, chính bác đây cũng không thể đánh lại nó, bị nó chặn lương thảo, bác có bảo với hắn rằng: Nếu chẳng để ta đem lương thảo về thì học trò ta là Dương Kế Châu đến đây nó đủ sức bắt ngươi như chơi, Sơn Sư Đà nghe nói đã không sợ lại còn cười mỉa mai bảo tàng: "Giỏi như Dương Tái Hưng thuở trước, anh hùng vô địch mà còn bị hắn giết chết tại Tiểu Thương hà, huống chi đứa con hắn có đến đây thì chỉ cần đánh một giản là bay đầu ngay".
Vì vậy bác khuyên cháu nên tìm đường trốn tránh đi để bảo toàn tính mạng, hay có thể về trại kêu ít đứa cháu nào cho giỏi đến đánh với Sơn Sư Đà may ra mới thắng được.
Dương Kế Châu nghe nói lòng như lửa đốt, thưa:
- Xin bá phụ đừng quá khen kẻ địch, để cháu đi bắt nó cho mà xem.
Nói rồi hối quân chạy tới cho mau. Đến nơi trông thấy Sơn Sư Đà đang ngồi hiên ngang trên ngựa ra vẻ chờ đợi.
Ngưu Cao bước tới kêu lớn:
- Tên Phiên nô kia, học trò của ta đã đến đấy, mi có giỏi thì đánh với nó đi.
Sơn Sư Đà giục ngựa lướt tới, hỏi:
- Ngươi quả thật là học trò Ngưu Cao đó sao? Thế ngươi tên họ là chi?
Dương Kế Châu nói:
- Để ta lấy đầu ngươi rồi ta mới có thì giờ thong thả sẽ nói tên họ sau.
Sơn Sư Đà giận quá liền đưa giản nhắm ngay đầu Kế Châu đánh xuống, Kế Châu đưa kích đỡ văng ra rồi nhằm ngay hông đối phương đâm tới. Hễ kích đâm thì giản đỡ, giản đánh thì kích gạt ra, một qua một lại, một tới một lui; quả là tướng tài lại gặp tướng tài thật xứng đôi ngang sức, một đàng như Thành Đô tái thế, một đàng như Lã Bố trùng sinh. Hai người đánh nhau trên trăm hiệp vẫn chưa phân thắng bại.
Ngưu Cao thấy vậy kêu Sơn Sư Đà nói:
- Ngươi dở quá đánh không lại học trò ta, ta không hơi đâu đứng đây chờ đợi, thôi ta kiếu đấy.
Nói rồi hối quân sĩ đẩy xe lương chạy thẳng vào dinh Tống.
Sơn Sư Đà nổi giận, mắng:
- Loài Man tử quỉ quyệt thật!
Nói rồi bỏ Kế Châu giục ngựa đuổi theo Ngưu Cao, nhưng Kế Châu vẫn rượt theo chặn lại, buộc lòng Sơn Sư Đà phải quay ngựa lại chống cự.
Đánh thêm mười mấy hiệp nữa, Sơn Sư Đà nhắm không thể thắng nổi liền quay ngựa chạy tuốt về dinh, Dương Kế Châu không thèm rượt theo, cùng với Vương Anh trở lại theo Ngưu Cao về dinh Tống.
Nguyên soái Nhạc Lôi hay tin vội dắt hết chư tướng ra trướng nghênh tiếp. Sau khi Dương Kế Châu làm lễ ra mắt mọi người, ngồi lại nói chuyện hàn huyên, anh em lớn nhỏ đều mừng rỡ. Nguyên soái truyền thâu điểm lương thảo hối quân dọn yến tiệc ăn mừng, chuyện vãn đến khuya mới phân nhau về dinh nghỉ.
Nguyên soái Sơn Sư Đà chạy về dinh rồi, lòng nóng như lửa đốt, cố tìm cách phá cho kỳ được binh Tống.
Bỗng thấy tiểu Phiên chạy vào phi báo:
- Có Quốc sư Phổ Phong đến trước dinh xin vào ra mắt.
Sơn Sư Đà nghe báo, nghĩ thầm: Trước kia ta có nghe chúa công Ngột Truật bảo rằng y đã bị quân Tống đánh thua bỏ trốn mất rồi, hôm nay trở về đây làm gì? Hay là hắn đã có pháp thuật mới nào chăng?
Nghĩ rồi, truyền quân ra mời vào.
Tống Tướng dính "Hắc phong châu" tử nạn
Dây Bạch Long, mỹ nữ trói Ngũ Liên
Phổ Phong cầm cây thiết trượng đàng hoàng bước vào dinh.
Sau khi làm lễ ra mát xong, Sơn Sư Đà hỏi Phổ Phong:
- Ngày trước tôi có nghe Chúa công bảo rằng: "Bửu Châu và Đà Long bị quân Tống phá hết nên Quốc Sư phải thua chúng rồi bỏ lên núi không một lời từ biệt. Hôm nay chẳng biết Quốc sư ở đâu trở về đây?
Phổ Phong cười, đáp:
- Tôi thiết tưởng mấy thằng mao trùng bên Tống muốn trừ khử chúng nó không khó chi đâu, chỉ vì khi trước tôi ỷ thị nên không phòng bị, thành thử đi cướp trại lại lầm gian kế. Để mai đây tôi ra trận giết cho hết lũ gian mao trùng ấy, rửa hờn khi trước.
Sơn Sư Đà nghe nói mừng rỡ vội truyền quân bày yến tiệc thết đãi Phổ Phong. Bữa tiệc kéo dài đến khuya, ai nấy đều uống đến say vùi mới đi nghỉ.
Sáng hôm sau Phổ Phong không thèm cưỡi ngựa, cứ đi bộ dẫn ba ngàn quân đến dinh Tống khiêu chiến.
Phổ Phong lớn tiếng gọi:
- Nay Phổ Phong đạo sĩ đến đây, lũ mao trùng Tống triều đâu, ra đây chịu chết cho mau!
Quân Tống chạy vào phi báo:
- Tên đạo sĩ Phổ Phong ngày trước đã thua chạy rồi; nay bỗng dưng lại đến trước dinh khiêu chiến.
Nguyên soái nghe báo trong lòng vô cùng lo ngại, cứ thẫn thờ ra suy nghĩ mãi. Chư tướng thấy vậy hỏi:
- Từ ngày Nguyên soái ra quân đánh Ngột Truật đến nay đã bao phen đánh chúng táng đởm kinh hồn, nay có tên đạo cốt ấy há lại sợ hắn sao?
Nguyên soái đáp:
- Chư tướng không rõ chứ, đại phàm ra trận gặp bọn đạo cốt tất nhiên có yêu thuật, mà tên đạo sĩ Phổ Phong này đã thua chạy rồi mà còn trở lại, tất nhiên hắn có gì đây thật đáng lo ngại.
Gia Cát Cẩm xen vào phụ họa:
- Lời Nguyên soái nói rất chí lý, vậy thì phải treo miễn chiến bài rồi sẽ lo kế mà trừ khử hắn mới được.
Vừa nói đến đây, bỗng thấy Kiết Thanh bước ra nạt lớn:
- Đừng nói bậy, chúng ta đây đều là đường đường
dũng tướng cả, há lại đi sợ một thằng đạo cốt trọc đầu hay sao? Huống chi hắn lại là tên bại tướng còn sợ nỗi gì? Mi là thằng mũi trâu, nhát gan đến thế còn làm Quân sư với ai? Ta đây chẳng thèm đem theo một tên quân nào hết, một mình ra bắt nó cho mà xem.
Kiết Thanh nói dứt lời, Long Hưng, Châu Thanh, Triệu Vân cũng chạy ra nói lớn:
- Kiết ca nói phải lắm, hãy cho chúng tôi đi với.
Ngưu Cao hỏi:
- Hãy khoan, nếu các ngươi muốn đi phải có ta ra yểm trận mới xong.
Bọn Kiết Thanh đều đồng thanh đáp:
- Nếu có Ngưu ca đi nữa thì càng hay lắm.
Rồi năm người không cần chờ lệnh Nguyên soái, cứ việc vung binh khí xông ra. Gia Cát Cẩm thấy thế nóng ruột, giậm chân nói:
- Phổ Phong đã thua chạy rồi, nay trở lại tất nhiên trong tay hắn có bửu bối chi lợi hại rồi. Nguyên soái là người thống lãnh sao không ra lệnh giữ mấy người trở lại?
Nguyên soái nói:
- Vẫn biết vậy, song mấy người này đều ngang vai vế với cha tôi, đâu có thể so sánh với những người khác được? Nhưng cũng may có Ngưu thúc phụ theo yểm trận, tưởng chắc cũng không sao. Tuy vậy phải sai thêm ít vị theo tiếp ứng mới xong.
Nói rồi vội sai Lục Văn Long, Quan Linh, Địch Lôi và Phàn Thành dẫn binh mã đi theo tiếp ứng.
Khi bọn Kiết Thanh gồm bốn người vừa ra đến trước trận đã thấy Phổ Phong đứng dưới cây đại kỳ lớn tiếng gọi:
- Hỡi bọn tướng Tống, hãy kêu tên Nhạc Lôi ra đây đánh với ta.
Kiết Thanh giục ngựa lướt tới hét lớn:
- Tên trọc kia, hôm trước ngươi đã thua chạy đến hồn vía chẳng còn sao không trốn đi để bảo toàn tính mạng lại đến đây chịu chết sao?
Phổ Phong nổi giận, mắng:
- Loài mang tử, đừng có khoác lác, để ta siêu độ giùm cho.
Vừa nói vừa vung cây thiết trượng bổ tới, Kiết Thanh đỡ văng ra rồi đánh lại, hai người đánh với nhau chừng mười mấy hiệp; Triệu Vân, Lương Hưng và Châu Thanh cũng áp vào vây đánh.
Phổ Phong nhắm thế không xong, thò tay vào túi da hổ lấy ra một cái bửu bối gọi là "hắc phong châu" ném lên không trung.
Trái "hắc phong châu bay lượn trên không một vòng rồi tự nhiên tạo ra một luồng gió đen, ai cũng cảm thấy lạnh mình. Chỉ trong nháy mắt trái châu ấy biến thành muôn ngàn trái thiết châu lớn bằng cái bát, nhắm ngay đầu bốn người ném xuống.
Ngưu Cao đứng phía sau thấy vậy vội lấy xuyên vân tiễn bắn ra, nhưng vô hiệu quả, người ta nghe những tiếng rú thất thanh rồi cả bọn Kiết Thanh gồm bốn người đều ngã nhào xuống ngựa chết hết. Trái thiết châu đánh xuống rồi lại hợp thành một và thu nhỏ lại. Phổ Phong lượm bửu bối bỏ vào bọc, đoạn lướt tới toan cắt lấy thủ cấp bốn người.
Nhưng nhanh như chớp, bọn Ngưu Cao, Lục Văn Long, Quan Linh, Địch Lôi và Phàn Thành đều áp đến một lượt đánh bật Phổ Phong chạy lùi ra sau: quân Tống thừa cơ hội giựt thây bốn người khiêng về dinh.
Phổ Phong bị bọn Ngưu Cao đánh gắt quá không hở tay để lấy bửu bối nên hóa ra một đạo kim quang biến mất.
Bọn Ngưu Cao thấy anh em Kiết Thanh đã chết nên đánh chiêng thu binh trở về dinh, xúm nhau than khóc thảm thiết. Riêng Kiết Thành Lượng vì quá thương cha nên khóc ngất, chết xỉu đi mấy lần, Nhạc Lôi truyền sắm sửa quan tài khâm liệm hài cốt an táng tử tế, Kiết Thành Lượng chịu cư tang giữ tròn hiếu đạo.
Cách vài hôm sau, bỗng thấy quân chạy vào báo:
- Hôm nay lại có tên đạo sĩ Phổ Phong đến trước dinh chửi bới thách đấu, Kiết Thành Lượng bước ra xin đi báo thù cho cha.
Nhạc Lôi khuyên nhủ:
- Hiền đệ chớ nên nóng nảy, thằng yêu tăng ấy có tà thuật vô cùng lợi hại, chẳng nên đánh gấp làm chi, để ta lo kế với Quân sư, thế nào cũng bắt được nó đem về đây cho hiền đệ trị tội.
Kiết Thành Lương nằng nặc nói:
- Mối thù cha không đội trời chung với nó, đệ không thể nào trì hoãn được!
Bọn tiểu anh hùng cũng đều đứng dậy, nói:
- Nhút nhát như Nguyên soái vậy thì biết đời nào chúng ta mới qua đến Ngũ Cốc thành đón Nhị Đế về? Chi bằng chúng ta ào ra một lượt bắt cho được lão ác tăng ấy đem về báo thù cho bốn vị thúc phụ chẳng hay hơn sao?
Rồi sau đó kẻ nói ra người nói vào, khiến Nhạc Lôi không biết nên quyết định ra sao cho phải. Cuối cùng Nhạc Lôi đành kéo thốc binh mã đi đánh. Phân làm tả hữu tiền đội còn mình thì thống lãnh ba quân, theo sau yểm trận.
Ba tiếng pháo nổ vang rền, binh Tống ào ạt kéo ra trước trận đã thấy Phổ Phong đang đứng dưới cây đại kỳ cầm cây thiết trượng diều võ dương oai. Kiết Thành Lượng lướt tới mắng lớn:
- Loài cẩu đầu dám cả gan giết chết cha ta. Hãy đem tính mạng đến đây nộp cho mau!
Vừa hét, vừa đưa búa xông tới chém ha lịa, Phổ Phong cũng đưa thiết trượng đón đánh. Bọn Quan Linh, Địch Lôi, Trương Anh, Vương Bưu cũng lập tức áp vào vây đánh Phổ Phong liệu thế không xong liền cong mình búng một cái, toàn thân lão như vành cung bật ngược nhảy thoát ra ngoài vòng chiến, rồi thò tay vào túi lấy ra một món bửu bối hình thù giống như cây cờ nhỏ dài hơn một gang tay gọi là "hắc phong kỳ .
Phổ Phong giơ bửu bối cao lên, miệng đọc thần chú, tức thì nổi lên một ngọn gió đen cuốn, bụi cát bay mịt trời, tiếng sấm ầm ầm, bầu trời đang quang đãng bỗng tối sầm, ngửa bàn tay không thấy, rồi cây cờ đen đột nhiên dài hơn mấy thước và biến ra thành vô số cờ đen khác bay tới đánh quân Tống tới tấp.
Quân tướng Tống kinh hãi vội bỏ chạy, kẻ bị đánh trầy đầu, bể mũi, kẻ bị gãy tay, lòi xương, kêu khóc ầm ĩ Phổ Phong thừa thế xua quân ào tới chém giết, rượt theo hơn mười dặm mới thu quân trở lại.
Nguyên soái Nhạc Lôi dẫn binh chạy trên ba mươi dặm mới an dinh hạ trại, kiểm điểm lại binh mã thấy hao mất trên ngàn quân, ngoài ra còn một sớm thương không biết bao nhiêu mà kể. Nguyên soái buồn bực chẳng yên nói với Quân sư Gia Cát Cẩm:
- Yêu tăng nó lợi hại đến thế, biết làm sao bây giờ?
Gia Cát Cẩm đáp:
- Nguyên soái chớ lo, tôi đã đoán quẻ rồi, chư tướng phải qua một phen tai nạn rồi mới thành công được. Chắc chắn vài hôm nữa đây sẽ có người đến phá trận.
Nguyên soái nghe nói bán tín bán nghi, nhưng chẳng biết làm sao, phải lo truyền lệnh chư tướng sĩ một mặt thuốc thang chữa chạy, một mặt truyền lấy máu lợn máu chó cùng các vật Ô uế trương lên đề phòng yêu tăng dùng tà thuật đến cướp trại.
Cách vài hôm sau, quả nhiên có quân tiểu hiệu chạy vào báo:
- Có một lão đạo nhân xưng là thầy của Ngưu tướng quân muốn cầu ra mắt Nguyên soái, hiện người còn đứng trước dinh.
Nguyên soái nghe báo mừng quá, cùng Ngưu Cao ra tận bên ngoài nghênh tiếp vào dinh.
Sau khi hai bên làm lễ ra mắt xong, bỗng thấy Ngưu Thông và Hà Phụng bước tới tạ ơn cứu mạng.
Bảo Phương lão tổ nói:
- Bần đạo là kẻ tu hành tất nhiên phải xa lánh chốn hồng trần, nhưng chỉ vì sao tử vi nhà Tống vào vận trung hưng ,Nguyên soái đi tảo Bắc lại bị yêu tảng ngăn trở nên phải xuống đây giúp sức.
Nguyên soái tạ ơn rồi đem hết binh phù và ấn soái giao cho Bảo Phương lão tổ và nói:
- Tôi vốn kẻ tài sơ, trí thiển lại mang cả một sứ mạng vô cùng trọng đại, nay bị yêu tăng sát hại binh tướng, thật đắc tội với triều đình. Nay có sư phụ tới đây, quả là phúc lớn của triều đình, vậy xin sư phụ nhận chưởng ấn để tiện bề phát lệnh.
Bào Phương lão tổ mỉm cười, đáp:
- Nguyên soái chớ làm như vậy, tôi hạ sơn chỉ vì nghĩa lớn chứ không phải vì danh lợi. Hơn nữa, tên yêu tăng ấy vốn chỉ là một con cá lóc ở tại Trấn Hoa giang, đầu hắn có đội thất tinh triều lễ với vì sao Bắc Đẩu trên một ngàn năm, nay hắn đã gần thành quả, chỉ vì kiếp trước lệnh tôn có hại con của Ô Linh Thánh mẫu nên Thánh Mẫu sai hắn xuống đây hại Nguyên soái để báo thù. Hắn chỉ cậy có ba cái yêu pháp đó thôi, chứ không phải bửu bối. Nguyên soái cứ việc truyền quân đến Giới Sơn đóng dinh thế nào hắn cũng đến khiêu chiến, chừng ấy bất cứ người nào ra trận cũng được, chờ hắn ném yêu phép ra bần đạo sẽ thu hết là xong chuyện.
Nguyên soái mừng rỡ, liền sai dọn cơm chay thết đãi đoạn truyền lệnh ba quân nhổ trại kéo đến Giới Sơn đóng dinh trại y như trước.
Hôm ấy, hai Nguyên soái Sơn, Liên cùng lão Phổ Phong ngồi trong dinh nghị kế.
Sơn Sư Đà nói:
- Nay quân Tống đại bại chạy đến vỡ mật, chắc chúng chẳng dám đến nữa, vậy chúng ta hãy chờ cho Chúa công đem viện binh qua đây, sẽ hiệp nhau kéo thẳng vào Trung Nguyên, thâu đoạt giang sơn nhà Tống.
Ba người đang cười nói, bỗng thấy tiểu Phiên chạy vào phi báo:
- Nay quân Tống lại đến Giới Sơn đóng binh như cũ, cờ xí, khí thế coi lại càng rầm rộ hơn trước nhiều.
Phổ Phong nghe nói, cười ha hả:
- Quả thật lũ này không biết sợ chết là gì. Thôi, để ta đi giết cho tận tuyệt mới được.
Sơn Sư Đà và Liên Nhi Tâm Thiện đồng thanh nói:
- Chúng tôi cũng nguyện ra trận trợ lực với sư phụ.
Nói rồi, kiểm điểm binh mã nổ pháo kéo ra. Đến trước dinh Tống, Phổ Phong lớn tiếng gọi:
- Chúng bay đã không sợ chết, sao không ra đây để ta siêu độ giùm cho?
Ngưu Thông nổi giận, vung đao lướt ra chém. Phổ Phong múa thiết trượng chống cự, bị Ngưu Thông chém lia chém ha khiến Phổ Phong đỡ không kịp, mệt thở chẳng ra hơi liền bỏ chạy dài.
Ngưu Thông rượt theo hét lên như sấm nổ.
- Ta cho ngươi dùng yêu thuật, ta không sợ đâu!
Phổ Phong thò tay vào túi lấy Hắc phong châu ra, giơ lên cao hét lớn:
- Tiểu Nam man, hãy coi chừng bửu bối ta đây.
Vừa nói vừa ném lên không trung chẳng dè bên kia Bảo Phương lão tổ giơ tay chỉ một cái, trái châu ấy không còn linh nghiệm nữa chỉ rớt bịch xuống đất như một viên đá thường không hơn không kém.
Ngưu Thông cười ngất, nói:
- Thằng trọc đầu này làm gì vậy? Ngươi muốn dọa dẫm ta sao?
Phổ Phong thừa dịp Ngưu Thông đang cười ngất vội lấy mũi xuyên vân tiễn nhặt được của Ngưu Cao, nhắm ngay yết hầu đối phương bắn tới, Bảo Phương lão tổ nhanh như chớp với tay bắt lấy mũi tên bỏ vào bọc.
Phổ Phong nổi giận chỉ lão tổ mắng:
- Loài yêu đạo ở đâu dám đến đây cản trở việc làm của ta?
Vừa nói vừa vung thiết trượng chạy tới đánh lão tổ, nhưng lão tổ chỉ né sang một bên để cho Ngưu Thông tiếp đánh Lúc ấy trong dinh Tống có bọn Quan Linh, Địch Lôi, Lục Văn Long, Phàn Thành, Nghiêm Thành Phương, Kiết Thành Lượng, Thi Phụng, Hà Phụng, Trịnh Thế Bửu, Ngũ Liên và âu Dương Tùng Thiện, một bọn tiểu anh hùng đều ào ra một lượt hô to:
- Hôm nay chúng ta quyết không để cho thằng trọc này chạy thoát.
Vừa hét, vừa áp tới bao vây Phổ Phong chặt cứng. Phổ Phong lật đật thò tay vào túi lấy Hắc Phong kỳ ra phất lia phất lịa, làm cho thiên hôn địa ám, gió thổi cát bay. Bảo Phương lão tổ thấy vậy liền lấy ra một cái gương nhỏ tên gọi "bửu quang kính", rọi ngay vào ngọn hắc phong, tỏa ra muôn đạo hào quang, tự nhiên bầu trời đang mây đen u ám bỗng tiêu tan mất hết, gió lặng, trời êm như cũ.
Phổ Phong càng giận dữ hơn nữa vội giơ cao cây thiết thiền trượng lên, mài qua, mài lại, miệng đọc thẫn chú lâm râm. Thình lình cây thiết trượng biến ra vô số cây thiết trượng nhắm ngay đầu quân tướng Tống đánh ào xuống.
Quân tướng Tống thấy vậy hoảng vía kinh hồn, nhưng Bảo Phương lão tổ chẳng hề nao núng, tay lấy cây phất trần ra quẳng lên không trung rồi hô lớn:
- Biến!
Tức thì cây phất trần cũng hóa ra muôn ngàn cây phất trần bay lượn trên không trung, cản ngăn tất cả những cây thiết trượng của đối phương không cho đánh xuống. Hai bên quân sĩ đứng nhìn ngơ ngác, quên cả việc đánh giặc
Phổ Phong thấy thế, vội niệm chú thu thiết trượng mình về, chẳng dè Bảo Phương lão tổ lại rũ tay áo rộng xuống, bao nhiêu thiết trượng hợp lại thành một cây bay.đến trước mặt lão tổ. Lão tổ lại lấy phất trần đánh thiết trượng một cái, thiết trượng hóa thành một con cá cái dài ba tấc chui thẳng vào tay áo lão tổ mất dạng.
Bị mất bảo bối, Phổ Phong bủn rủn tay chân, hồn siêu phách lạc liền biến ra đạo kim quang toan tẩu thoát, nhưng hai chân vừa mới nhảy lên khỏi mặt đất đã bị Âu Dương Tùng Thiện nhanh như chớp nhảy tới chém một búa ngã nhào, Dư Lôi lại bồi thêm một chùy, Phổ Phong bị vỡ sọ ngay, biến hiện nguyên hình con cá lóc to tướng.
Tiếc thay "công trình tu luyện ngàn năm dư, nay chỉ một phút tan tành theo mây khói".
Lúc ấy Sơn Sư Đà thấy vậy lửa giận phừng gan, giục ngựa lướt tới vung lưu kim giản nhắm ngay đầu Âu Dương Tùng Thiện đánh bổ xuống. Dương Kế Châu thấy vậy vội lướt tới chận Sư Đà lại đánh tới tấp. Lục Văn Long cũng áp vào trợ chiến. Đánh được vài hiệp, Dương Kế Châu giả vờ hô lên:
- Mi mạnh quá ta đánh không lại, ta nhịn mi đấy.
Vừa nói vừa quất ngựa chạy dài. Sơn Sư Đà rượt theo hét:
- Mi chạy đàng trời cũng không khỏi tay ta.
Dương Kế Châu chờ cho Sơn Sư Đà tiến sát, vòng quay ngựa lại vung kích nhắm ngay giữa bụng đối phương đâm mạnh. Sơn Sư Đà trở tay không kịp, bị một kích xuyên qua lưng, ngã nhào xuống ngựa. Dương Kế Châu bồi thêm một thương nữa y hồn lìa khỏi xác.
Liên Nhi Tâm Thiện thấy Sư Đà bị giết chết, trong lòng thất kinh toan bỏ chạy, nhưng mới vừa quay mình đã bị Lục Văn Long đâm một thương trúng ngay yết hầu, nhào xuống ngựa chết tươi.
Nguyên soái Nhạc Lôi phất cờ thúc ba quân áp tới giết quân Phiên máu chảy thành sông, thây nằm chật đất.
Thương cho mấy vạn quân Phiên chỉ còn vài mươi đứa trốn thoát được mà thôi.
Đánh dẹp xong quân Phiên, Nguyên soái Nhạc Lôi thúc quân vượt qua khỏi Giới Sơn mới truyền an dinh hạ trại rồi ghi công, ban thưởng.
Bảo Phương lão tổ nói:
- Nguyên soái đi chuyến này, tuy gian nan, nhưng thời vận Tống trào đang lúc hưng vượng, tất nhiên có bá linh phù trợ, vậy bần đạo xin kiếu biệt về núi.
Nguyên soái lưu giữ lại đôi ba phen, Lão tổ cũng không chịu, Ngưu Cao chắp tay, nói:
- Con muốn theo sư phụ, ngặt vì ở trên núi buồn tẻ lại ăn uống cực khổ quá nên mới ở lại đây, vậy sư phụ hãy cho con lại mũi xuyên vân tiễn ấy phòng ngày sau có chỗ dùng.
Bảo Phương lão tổ mỉm cười:
- Không còn bao lâu nữa con sẽ thành công, còn dùng nó nữa làm gì? Còn đôi thảo hài ấy con chớ nên làm mất nhé.
Ngưu Cao đáp:
- Vật quí giá như vậy đời nào con lại làm mất. Con bỏ trong đẫy buộc lại chặt cứng không khi nào rời khỏi mình, sư phụ chớ lo.
Bảo Phương lão tổ nói:
- Còn hãy lấy ra xem có còn trong ấy hay không?
Ngưu Cao vội lận lưng lấy gói mở ra thì trong ấy không phải dôi thảo hài nữa mà nó đã biến ra một cặp chim há miệng kêu chiếp chiếp. Ngưu Cao còn đang ngạc nhiên, hai con chim đã bay bổng lên trời mất dạng.
Bảo Phương lão tổ liền cười ngất một hồi rồi hóa ra ngọn gió đằng vân đi mất. Nhạc Lâm, Ngưu Cao cùng chư tướng ngước mặt lên trời lạy tạ rồi viết bổn chương sai về Lâm An báo tin thắng trận.
Sau khi cho quân tướng nghỉ ngơi ba ngày, Nguyên soái Nhạc Lôi kiểm điểm binh mã sai Âu Dương Tùng Thiện đi tiên phong, Dư Lôi và Địch Lôi dẫn một vạn quán làm đội thứ nhất. Ngưu Thông lãnh nhị đội tiên phong. Thang Anh, Thi Phụng làm phó tướng cũng lãnh một vạn quân làm đội thứ hai. Còn Nguyên soái cùng chư tướng dẫn đại binh đi sau nhắm Mục Dương thành tiến quân.
Đoàn quân Bắc tiến kéo đi rầm rộ như nước vỡ bờ, chẳng bao lâu đội tiên phong đã đến Mục Dương thành. Âu Dương Tùng Thiện xách búa đi trước, Dư Lôi xách chùy theo sau, đến trước thành khiêu chiến.
Tướng giữ thành Mục Dương tên Hoàn Nhan Thọ là dòng tôn thất của nước Kim, tướng mạo Hoàn Nhan Thọ cũng dị kỳ, đầu hùm mắt beo, giỏi sử dụng cây cửu nhĩ viễn liên hoàn đao, sức mạnh đánh muôn người, lại thêm hai tên phó tướng, một người tên Thích Quan Tổ, một người tên Thích Kế Tổ, hai tên này chính là con của Thích Phương năm trước bị bọn tiểu anh hùng đến phá lôi đài nên chúng chạy đến đầu theo quân Kim, Kim chúa sai ra làm thủ hạ cho Hoàn Nhan Thọ.
Hôm ấy, Hoàn Nhan Thọ đang đàm luận với hai vị phó tướng trong đinh, bỗng thấy tiểu Phiên chạy vào phi báo:
- Có Tống tướng đến trước thành khiêu chiến.
Hoàn Nhan Thọ liền nai nịt, cầm đao lên ngựa dẫn hai anh em họ Thích ra trận. Hoàn Nhan Thọ nhìn thẳng vào mặt âu Dương Tùng Thiện quát lớn:
- Mi tên họ là chi, dám cả gan đến xâm phạm Kim quốc của ta?
Tùng Thiện đáp:
Tảo Bắc Đại Nguyên soái huy hạ, Tiên phong Ngũ Phương Thái Tuế là ta đây, nay vâng lệnh đến phá Mục Dương thành, song cây búa của ta đây không khi nào giết kẻ vô danh, vậy mi hãy xưng tên họ để ta đưa ngươi xuống Diêm Vương.
Hoàn Nhan Thọ đáp:
- Kim trào Tôn Thất Vương Thúc Hoàn Nhan Thọ là ta. Nếu mi biết thời thế, lui về Trung Nguyên thì tính mạng được bảo toàn, bằng cưỡng lại ắt đầu ngươi lìa khỏi cổ.
Tùng Thiện cười gằn:
- Nguyên soái ta phụng mệnh đi tảo Bắc để đón Nhị Đế về triều từ bên Trung Nguyên chúng ta đi đốn đây, đánh như chẻ tre, sá chi cái thành nhỏ này? Nếu ngươi chịu đầu hàng, ta tha mạng bằng không chúng ta phá thành rồi nhất định gà chó cũng không tha.
Hoàn Nhan Thọ nổi giận xung thiên, hét lên một tiếng kinh thiên động địa, rồi vỗ ngựa lướt tới vung đao chém xuống. Tùng Thiện đưa búa ra đón đánh, chưa hai hiệp đã bị Hoàn Nhan Thọ giáng một đao đứt làm hai đoạn, té nhào xuống ngựa chết tươi.
Nhanh như chớp, Dư Lôi và Địch Lôi vỗ ngựa chạy bay tới thét lên vang dậy, bốn chuỳ bao vây Hoàn Nhan Thọ đánh tới tấp. Quân Tống tới khiêng thây Âu Dương Tùng Thiện đem về dinh. Còn hai tướng đánh với Hoàn Nhan Thọ một hồi rồi cũng bỏ chạy về dinh, Hoàn Nhan Thọ thu quân vào ải chứ không truy kích.
Dư Lôi, Địch Lôi trở về dinh rồi lo sắm sửa quan mộc chôn cất Âu Dương Tùng Thiện tại dưới chân núi.
Qua hôm sau, đội thứ nhì của Ngưu Thông vừa đến, hai tướng Dư, Địch thuật lại cái chết của Âu Dương Tùng Thiện cho Ngưu Thông nghe, Ngưu Thông nổi giận nói:
- Nếu tôi không phá được cái thành này cho tan hoang, nhất định không thèm làm người.
Hai người đồng thanh nói:
- Ngưu huynh chớ nóng nảy, cái thành nhỏ này làm sao có thể cự nổi đại binh của ta? Xin hãy chờ cho đại binh đến sẽ hay.
Hoàn Nhan Thọ vào dinh rồi ngồi suy nghĩ, nhận thấy quân trong thành quá ít không đủ sức giữ thành, nên lập tức viết bổn chương về triều xin binh cứu viện. Viết xong sai người đi ngày đêm tuốt về Huỳnh Long phủ.
Khi Kim chúa tiếp được bổn chương liền cho mời Vương thúc lên điện thương nghị.
Ngột Truật tâu:
- Nay binh Tống đã đến Mục Dương thành rồi nên rất nguy cấp, vậy bệ hạ hãy truyền chỉ cho Diên Quan Nguyên soái là Tây Nhĩ Đại lãnh binh đi trước cứu ứng, để tôi lên Vạn Cẩm sơn vào Thiên Hoa động cầu Ô Linh Thánh Mẫu xuống đây, người biết phép dời non lấp biển, sái đậu thành binh, lại có thêm ba ngàn ngự lâm quân mười phần lợi hại, nếu người bằng lòng xuống giúp ta thì có khó chi không đánh lui được quân Tống?
Kim chúa mừng rỡ, đáp:
- Mong ơn Vương thúc chỉ bảo cho.
Nói rồi, hạ chiếu sai Diễn Quan Tây Nhĩ Đại cấp tốc kéo binh mã đến Mục Dương cứu ứng, còn Ngột Truật thì lui về phủ sắm sửa lên Vạn Cẩm sơn cầu cứu Ô Linh Thánh Mẫu.
Nói về Diên Quan Tổng binh là Tây Nhĩ Đại tiếp được chiếu chỉ vội dắt con gái là Tây Vân tiểu muội dẫn binh mã rầm rộ kéo đến Mục Dương thành.
Hoàn Nhan Thọ ra tận bên ngoài nghênh tiếp đón vào thành làm lễ ra mắt, bày yến tiệc thết đãi, rồi sai đóng dinh gần bên giáo trường.
Sáng hôm sau có quân thám tử vào phi báo:
- Đại binh của Tống đã đến và có tướng sĩ đến ngoài thành khiêu chiến.
Tây Nhĩ Đại nghe báo liền mang giáp lên ngựa, dẫn binh ra thành sắp quân đứng hai bên, còn Hoàn Nhan Thọ cũng dắt hai anh em họ Thích đứng trên thành thị chiến.
Bỗng thấy bên dinh Tống nổ lên một tiếng pháo,
một viên tiểu tướng giục ngựa xông ra hét lớn:
- Phiên tướng, nên biết thời thế hãy đầu hàng cho sớm chúng ta sẽ tha mạng cho, bằng không chúng ta sẽ giết hết không chừa một tên nào.
Tây Nhĩ Đại nổi giận, mắng:
- Thằng con nít, miệng còn hôi sữa sao dám cả gan đến xâm phạm bờ cõi của ta, hãy nói tên họ ra mau để ta cắt đầu cho sớm.
Nhạc Đình cười ha hả, đáp:
- Đại Tống Võ Mục Vương, Tam Công Tử Nhạc Đình là ta đây, mi hãy nói tên ra, nếu là kẻ vô danh tiểu tốt thì cây thương của ta nó tha cho.
Tây Nhĩ Đại đáp:
- Đại Kim Quốc Diên Quan Nguyên soái Tây Nhĩ Đại là ta đây, nay ta vâng chỉ, đến đây bắt hết lũ Nam man chúng bay đem về lóc da, xẻ thịt cho chúa ta hả giận. Thôi hãy nếm thử cây đao này!
Vừa nói Tây Nhĩ Đại vừa vung cây xích đồng đao chém tới. Nhạc Đình cũng vung cây lãng ngân thương đánh hất ra rồi đâm trở lại. Hai bên đánh nhau hơn bấn mươi hiệp. Tây Nhĩ Đại tuy mạnh khoẻ song đánh sao cho lại Nhạc Đình, một vị tiểu anh hùng. Chàng càng đánh thương pháp càng nhanh, đường thương phạt ngang qua như chớp xẹt lưng trời. Tây Nhĩ Đại chỉ chậm tay một chút y đã bị Nhạc Đình đâm trúng một thương vào vai té nhào xuống ngựa. Nhạc Đình với đâm bồi thương nữa, đối phương tắt thở.
Nhạc Đình cắt thủ cấp đem về dinh Tống, chư tướng được thể đồng thanh hô lên một tiếng đổ xô tới giết quân Phiên chết vô số. Hoàn Nhan Thọ đứng trên thành thấy vậy liền truyền quân thả điếu kiều cho tàn quân chạy vào rồi bắn tên ra như mưa để ngăn cản quân Tống, đoạn kéo điếu kiều lên.
Nguyên soái Nhạc Lâm thấy vậy liền gióng chiêng, thu binh về dinh ghi công cho Nhạc Đình. Bên kia, quân Kim giựt cướp được thây Tây Nhĩ Đại đem về, Tây Vân tiểu muội trông thấy nhào lăn ra khóc thảm thiết, Hoàn Nhan Thọ sai thợ mộc tiện chiếc đầu gỗ ráp rồi quan liệm lại để trong chùa.
Sáng hôm sau Tây Vân tiểu muội mặc đồ tang, mang giáp trắng dẫn binh ra thành kêu đích danh Nhạc Đình ra đánh.
Quân tiểu hiệu chạy vào phi báo, Nguyên soái liền dẫn chư tướng ra ngoài dinh lập trận thế, bỗng thấy bên Kim có một nữ tướng dung nhan yểu điệu, cốt cách phương phi, mặt như thoa phấn, môi tựa thoa son, nàng đứng trước trận kêu lớn:
- Bớ tướng sĩ bên Tống, hãy đem Nhạc Đình nạp cho mau để ta báo thù cho cha ta, bằng chậm trễ ta giết không chừa một tên!
Nhạc Đình nghe nói, nổi giận xông ra nạt lớn:
- Con tiện tỳ kia, có tam gia đến đây đừng khoe tài.
Vừa nói vừa múa thương đánh thẳng, Tiểu Muội cũng đưa song đao đón đánh. ước được bảy tám hiệp, thấy cự không lại Nhạc Đình, liền quay ngựa chạy dài; Nhạc Đình giục ngựa chạy theo. Ngờ đâu trong túi Tiểu Muội có hai viên đạn "âm dương do một dị nhân truyền cho, nên nàng vừa chạy, vừa thò tay vào túi lấy viên âm đạn ra ném ngược trở lại, tức thì tỏa ra một luồng hắc quang xẹt ngay vào mặt Nhạc Đình làm tối tăm mày mặt, chàng bị trật yên ngã nhào xuống ngựa.
Tây Vân tiểu muội liền quay ngựa lại quyết lấy thủ cấp, nhưng bên Tống, Phàn Thành đã nhanh như chớp lao mình tới chận Tiểu Muội lại đánh dữ dội, còn chư tướng chạy đến giựt Nhạc Đình đem về dinh.
Tây Vân tiểu muội đánh với Phàn Thành chừng bốn năm hiệp lại thò tay vào túi lấy viên dương đạn liệng ra, tức thì tỏa ra một vòm lửa đỏ rực vào mặt Phàn Thành, không tài nào chịu nổi, Phàn Thành bị ngã nhào xuống ngựa. May thay có Ngũ Liên kịp thời chạy bay đến tiếp ứng.
Ngũ Liên chỉ vào mặt Tiểu Muội, quát to:
- Tiện tỳ, hãy coi chừng có Ngũ Liên đến đây:
Tây Vân ngước mắt ngó lên thấy Ngũ Liên đầu đội tử kim quan, mình mang huỳnh kim giáp, mặt như hoa phù dung vào buổi sáng, nàng chép miệng khen thầm:
"Người đàn ông gì mà đẹp trai đến thế? Nếu ta gặp được một vị lang quân như vậy thì đời ta còn gì sung sướng cho bằng. Thôi, để ta bắt sống đem về ép làm chồng ta cho rồi".
Nghĩ rồi, vung đao xốc tới đánh Ngũ Liên. Hai người đánh nhau ước chừng mười hiệp, Tây Vân vùng quay ngựa bỏ chạy. Ngũ Liên không bỏ lỡ cơ hội, liền giục ngựa đuổi theo. Tây Vân vội thò tay vào túi lấy ra một dây "bạch long đái "quăng lên trên không, miệng thét lên the thé:
- Hãy coi chừng bửu bối của ta đây.
Ngũ Liên vừa ngước mặt ngó lên, đã thấy trên không trung một con rồng bạch sa xuống quấn chặt Ngũ Liên không còn cựa quậy được nữa.
Tây Vân tiểu muội quay ngựa lại nhìn Ngũ Liên, mỉm miệng cười rồi bế xốc chàng ta chạy tuốt về dinh.
Khi bọn Nghiêm Thành Phương, Dư Lôi, Hàn Khởi Long chạy đến cứu thì Tiểu Muội đã vào thành rồi, Nguyên soái không biết liệu sao đành phải gióng chiêng thu quân trở về dinh, trong lòng buồn bực chẳng yên.
Tây Vân bắt được Ngũ Liên rồi, lòng mừng khấp khởi, đem về dinh mở trói ngay, bảo quân sĩ đem nhốt vào hậu dinh canh giữ tử tế. Đêm ấy, nàng sai con thị tỳ tâm phúc tên Thế Hồng đến nói cho Ngũ Liên biết rằng: nàng đem lòng yên mến, hãy qui thuận đi để cùng nàng kết nghĩa đá vàng.
Ban đầu Ngũ Liên không chịu, sau thấy Thế Hồng cố tình nài ép cho bằng được, Ngũ Liên liền sinh ra một kế, nên giả vờ nói với Thế Hồng.
- Ta đã mang ơn tiểu thư không giết, lẽ phải thuận tùng, song vì âu Dương Tùng Thiện đã kết nghĩa đồng sinh đồng tử với ta, nay Hoàn Nhan Thọ đã giết đi, nếu tiểu thư sẵn lòng báo thù giùm cho ta, thì ta tình nguyện nói với anh em họ Nhạc về đầu Kim quốc luôn thể, bằng không giết Hoàn Nhan Thọ thì thà ta chịu chết chứ quyết chẳng thuận tình.
Thế Hồng liền đem lời ấy nói lại cho Tây Vân Tiểu Muội biết. Tiểu Muội còn đang do dự chưa biết tính sao cho vẹn toàn, bỗng có quân vào báo:
Vương thúc Hoàn Nhan Thọ sai người cầm lệnh tiễn đến bảo phải đem Tống tướng ra chém ngay để làm hiệu lệnh.
Tây Vân nghe báo thất kinh vội sai người ra nói lại với người cầm lệnh tiễn rằng: "cha mình bị Nhạc Đình đâm chết, thù ấy chưa trả được, nên muốn để chờ bắt cho được Nhạc Đình sẽ chém luôn thể để tế cha mình .
Tên ấy trở về thưa lại, Hoàn Nhan Thọ nổi giận mắng:
- Con tiện tỳ này mới thắng được một trận đã vội khinh ta, để mai ta ra trận bắt ít viên tướng Tống cho nó không dám coi thường.
Hôm sau, quân sĩ chạy vào phi báo:
- Có tướng Tống đến trước dinh khiêu chiến.
Hoàn Nhan Thọ nghe báo, nai nịt chỉnh tề dắt hai anh em họ Thích kéo quân ra thành, lại bảo Tây Vân hãy ra ngoài xem mình bắt tướng Tống.
Tây Vân dẫn bốn bộ binh ra nơi điếu kiều đứng xem, còn Hoàn Nhan Thọ thì giục ngựa vung đao phóng ra trước trận hét lớn:
- Trong dinh Tống có tướng nào tài giỏi thì hãy ra đây nạp mạng.
Vừa dứt lời, bỗng nghe bên dinh Tống, một tiếng pháo nổ vang, xông ra một tướng cưỡi con hồng sa mã, tay cầm lục trảm thương, hét to như sấm động:
- Có Lục Văn Long đây, hãy xuống ngựa chịu trói cho rồi.
Hoàn Nhan Thọ không nói thêm nửa lời, cứ việc vung đao chém tới tấp, hai tướng đánh nhau trên năm mươi hiệp. Hoàn Nhan Thọ cảm thấy mình sút hơn; ngăn đỡ khó khăn, liền kêu lớn:
- Tây Vân tiểu muội, hãy ra trợ chiến với ta cho mau?
Tiểu Muội đứng tại điếu kiều làm lơ, giả vờ không nghe thấy. Hoàn Nhan Thọ cố gắng đánh thêm ba hiệp nữa rồi quay ngựa bỏ chạy. Khi chạy đến điếu kiều, Lục Văn Long theo kịp đâm Hoàng Nhan Thọ một thương rồi quăng luôn xác xuống hào thành.
Lục Văn Long không để lỡ cơ hội, liền xua binh ào đến cướp điếu kiều, nhưng Tây Vân Tiểu Muội đã nhanh tay rút điếu kiều lên rồi từ trên thành, trương cung tên bắn ào xuống. Lúc ấy anh em Thích Quan Tổ và Thích Kế Tổ lên điếu kiều không kịp bị binh Tống ào đến, chúng hoảng sợ ngã nhào xuống đất bị ngựa đạp nát như tương. Ba ngàn quân Phiên cũng không còn một đứa.
Lục Văn Long thắng trận đánh trống thu quân về dinh. Nhạc Lôi Nguyên soái ghi công cho Lục Văn Long và khao thưởng ba quân.
Trong khi đó thì ở trong thành Quận Chúa Thoại Tiên đang lăn khóc thảm thiết vì cái chết của cha nàng là Hoàn Nhan Thọ.
Ngột Truật cầu cứu Ô Linh Thánh Mẫu
Thi Sầm tiên đạo phá trận Ô Long
Tây Vân tiểu muội làm lơ trước lời kêu gọi giúp đỡ của Hoàn Nhan Thọ, dẫn đến cái chết của y, nhưng trước nỗi đau đớn của Quận chúa lại làm ra vẻ thương cảm đến đỡ Quận chúa dậy, khuyên:
- Xin Quận chúa bớt cơn bi lụy; để mai tôi ra trận bắt cho hết lũ Nam man để báo thù cho lệnh tôn công. Nói rồi lại lấy khăn lau nước mắt cho Quận chúa rồi sai tỳ nữ dìu Quận chúa về phủ.
Tây Vân trở về dinh, lòng mừng thầm, bảo Thế Hồng ra sau dinh nói rõ cái chết của Hoàn Nhan Thọ cho Ngũ Liên hay.
Tỳ nữ Thế Hồng vâng lệnh chạy ra sau dinh nói cho Ngũ Liên chuyện Hoàn Nhan Thọ đã chết:
Ngũ Liên nói:
- Nếu tiểu thư đã báo thù cho ta được rồi, tất nhiên tiểu thư là ân nhân của ta, lẽ nào ta chẳng bằng lòng? Ngặt vì việc vợ chồng là việc lớn, há lại không có mai mối để đi thầm lén vụng trộm như vậy tránh sao cho khỏi miệng thế cười chê? ước gì có một người nào bên dinh Tống theo qua đây đứng làm mai mối thì mới thuận tình đạt lý Nếu âm thầm thành thân với nhau không ai hay biết thì xấu hổ lắm, ta quyết không chịu đâu!
Thế Hồng đến thuật lại ý kiến Ngũ Liên cho tiểu thư nghe, Tây Vân nghĩ thầm:
- Làm thế nào ta cũng cố gắng mời được người bên dinh Tống đem về đây buộc hắn làm mai thì xong.
Trọn đêm hôm ấy, tiểu thư lo lắng mãi không ngủ được chờ đến sáng, lập tức dẫn binh ra thành thẳng đến dinh Tống khiêu chiến.
Bên dinh Tống, Nguyên soái Nhạc Lôi tuy vừa rồi thắng được một trận, giết chết Hoàn Nhan Thọ, song vẫn còn lo lắng nhiều phần vì trong thành Mục Dương hãy còn Tây Vân phép thuật dị thường, lại thêm Ngũ Liên bị bắt, không biết lành dữ thế nào, nên thường sai kẻ tâm phúc trèo non vượt núi, cố vào cho được trong thành dò thăm tin tức Ngũ Liên, song chưa thấy ai điều tra được về báo lại, phần thì Phàn Thành và Nhạc Đình bị trọng thương nằm liệt trên giường hôn mê bất tỉnh chưa biết sống chết ra sao!
Nguyên soái nóng lòng như lửa đốt vội hỏi Gia Cát Cẩm. Gia Cát Cẩm nói:
- Xin Nguyên soái hãy an tâm vì đêm qua tôi đoán một quẻ biết thế nào Ngũ huynh cũng có thiên hỉ đến cứu mạng, không hề gì đâu. Tôi lại xem thiên văn thấy những vì tinh tú phía trên quân Kim mờ tối lắm, còn bên ta thì tỏ rạng hưng vượng lạ thường, chắc chắn nay mai đây sẽ có cao nhân đến giúp ta. Thiết tưởng, ngày trước yêu tăng lợi hại biết bao nhiêu mà không cản trở được quân ta, huống hồ hôm nay có một đứa con gái như vậy có nghĩa gì?
Hai người còn dang bàn luận, bỗng có quân tiểu hiệu chạy vào phi báo:
- Tây Vân tiểu muội lại đến trước dinh khiêu chiến nữa.
Nghe báo, Nguyên soái lập tức truyền lệnh tập trung quân sĩ Bắp thành đội ngũ rồi bản thân dẫn binh ra trước trận. Tây Vân hét lên the thé:
- Tống tướng hãy mau mau bó tay ra đây chịu chết cho rồi.
Nguyên soái nhìn vào đám chư tướng, hỏi:
- Ai dám ra bắt con tiện tỳ ấy?
Nói chưa dứt lời, Kiết Thành Lượng đã bước ra, nói:
- Tôi xin lĩnh mệnh đi bắt nó cho.
Vừa nói, vừa vỗ ngựa xông tới vung búa chém liền.
Tiểu Muội cũng vung đao đón đánh. Cuộc giao phong chưa đầy hai hiệp đã thấy Tây Vân Tiểu muội thò tay vào túi lấy viên dương đạn ra nhắm ngay mặt Kiết Thành Lượng ném tới. Dương đạn vừa thoát khỏi lòng tay, đã thấy tỏa ra một đạo hồng quang quét vào mặt Kiết Thành Lượng, khiến Lượng bị tối tăm mày mặt té nhào xuống ngựa. La Hồng thấy vậy quất ngựa vọt tới vung thương chặn Tây Vân lại đánh, còn chư tướng thì áp tới khiêng Kiết Thành Lượng về dinh.
Tây Vân đánh với La Hồng được bảy tám hiệp rồi cũng lấy viên dương đạn ném vào mặt La Hồng, cháy cả đôi lông mày và cũng bị ngã xuống ngựa bất tỉnh. Tây Vân vừa vung đao chém La Hồng, bỗng thấy Ngưu Thông bước tới gạt văng cây đao của Tây Vân ra, hét lớn:
- Tiện tỳ chớ có hỗn láo.
Tây Vân bị Ngưu Thông đỡ văng ra bất ngờ phải thối lùi ra sau mấy bước, nổi giận nhìn thẳng vào mặt Ngưu Thông mắng:
- Ôi chao, con quỉ này ở đâu mà chạy đến đây nhanh vậy?
Ngưu Thông cười gằn:
- Mi chê ta xấu phải không? Vợ ta ở nhà cũng đẹp như mi vậy... và nó cũng biết dùng pháp thuật, hay lấy thạch nguyên bửu đánh người ta, còn mi cũng có phép thuật, thật là tương xứng, vậy mi hãy theo ta về làm vợ bé cho đủ cặp chẳng hay hơn sao?
Tây Vân nổi giận, hét:
- Loài quỉ sứ chớ nói bậy, hãy đỡ cây đao của ta đây?
Hét rồi lướt tới vung đao chém liền, Ngưu Thông cũng vung đao đón đánh, ước chừng mười hiệp, Tiểu Muội đã đuối sức, vội lấy dây "Bạch long đái ra quăng lên trên không trung, nạt lớn:
Tên quỉ, hãy coi chừng bửu bối của ta.
Ngưu Thông ngước mặt ngó lên thấy một con rồng bạch bay sà xuống quấn chặt cứng, Ngưu Thông vùng vẫy không nhúc nhích, may nhờ có bọn Thi Phụng, Thang Anh, Hàn Khởi Long, Hàn Khởi Phụng bốn tướng xông ra cứu được Ngưu Thông về dinh mình.
Nhạc Lôi vội truyền quân sĩ dùng cung tên bắn ra ào ào như mưa, nên Tây Vân không tiến tới được, đành phải đánh trống đắc thắng kéo binh về thành.
Khi tướng Tống đem Ngưu Thông về dinh rồi, xúm nhau mở sợi dây Bạch long đái nhưng không tài nào mở ra được, hình như sợi dây đã bám rễ trong mình Ngưu Thông rồi vậy, hễ kê dao vào cắt thì tự nhiên con dao tàn rụi ngay.
Nguyên soái không biết làm sao phải treo bảng rao khắp xa gần, nếu ai mở được thì thưởng vàng ròng mười lượng.
Trong thành Mục Dương, Tây Vân tiểu muội một mình chong ngọn đèn ngồi đứng không yên, vì tuy đắc thắng song không bắt được viên tướng Tống nào cả, lấy ai làm mai mối để kết duyên châu trần với chàng Ngũ Liên?
Thế Hồng thấy vậy bước tới khuyên giải:
- Nếu tiểu thư cứ đánh như vậy thì cũng không thể bắt họ được vì binh tướng họ nhiều, hễ đánh bại người này thì người kia nhảy ra cứu, không tài nào bắt nổi. Chi bằng tiểu thư giả thua chạy tuốt vào rìjng dẫn hắn vào chỗ vắng vẻ mới có thể ra tay mà không sợ người khác cứu. Có như vậy thì tiểu thư mới có người làm mai mối.
Tây Vân tiểu muội bấm trán suy nghĩ hồi lâu, đoạn nét mặt bỗng tươi hẳn lên, cất tiếng khen con nữ tỳ:
- Mi bày mưu ấy hay lắm, để mai ta sẽ thực hiện.
Nói về Ngũ Liên tuy bị cầm giữ tại hậu dinh song vì Tây Vân tiểu muội có ý kết đôi, nên những kẻ coi giữ chẳng dám câu thúc cho lắm mà lại còn phải đem rượu thịt lên dâng thường thường. Tuy vậy Ngũ Liên vẫn nóng lòng, nên ngày nào cung hỏi thăm sự việc xảy ra bên ngoài.
Hôm ấy, tên giữ ngục bước vào, Ngũ Liên hỏi:
- Hôm nay tiểu thư ra trận thế nào?
Hắn đáp:
- Hôm nay tiểu thư đả thương hai tướng, rồi toan bắt một tướng nhưng binh Tống đông quá nên giựt lại được, vì vậy ngày mai tiểu thư phải đi đánh nữa.
Ngũ Liên nói:
- Phải chi tiểu thư bắt sống được một người đem về làm mai mối để ta được nên chồng nên vợ với tiểu thư, thế nào các ngươi cũng được ban thưởng. Nay ta tạm ở đây lẽ ra các ngươi phải dâng rượu thịt cho thường mới phải.
Ngũ Liên nói vừa dứt lời, bọn giữ ngục dạ lia lịa và lên tiếng nói:
- Có chứ, chúng tôi ở tại Mục Dương này thiếu chi rượu ngon để chúng tôi đem về vài hồ cho ngài dùng. Ngày mai ngài được kết đôi với Nữ soái của chúng tôi, rồi thế nào ngài cũng lên làm Nguyên soái, chừng ấy xin ngài nhớ đến chúng tôi với.
Ngũ Liên vui vẻ, đáp:
- Việc ấy thì nhất định rồi, lúc ấy ta sẽ phong cho các ngươi làm Thiên tổng hay ít ra cung làm chức Bá hộ, sung sướng nhất đời.
Bấn tên quân giữ ngục lấy làm đắc ý, nhảy nhót reo hò, rồi đứa đi mua thịt, đứa đi mua rượu, mở xe tù thả Ngũ Liên ra.
Ngũ Liên nói:
- Ta rất cảm ơn các ngươi đã có lòng tốt đối với ta, vậy thì xúm nhau lại đây ăn uống cho vui.
Bốn tên quân khép nép đáp:
- Dạ, thưa chúng tôi đâu dám.
Ngũ Liên nói:
- Không hề chi, hiện nay ta còn là người bị bắt, các ngươi cứ việc cùng ta ăn uống cho vui chớ nên khép nép làm gì.
Bốn tên quân vui mừng vô cùng, xúm nhau lại ăn uống vui cười hỉ hả.Uống nết một hồi đứa ngã nghiêng, đứa ngã ngửa nằm sóng sượt.
Ngũ Liên thấy thế, nghĩ thầm: "Lúc này ta không trốn còn đợi lúc nào".
Nghĩ rồi, đứng phắt dậy, lén chạy ra phía sau dinh, ngặt vì chàng không thuộc đường, quen nẻo, nên không biết phải thoát ra ngả nào cho tiện.
Còn đang ngơ ngác, bỗng nghe phía trước có quân canh đi lại. Ngũ Liên hoảng kinh, ngó thấy phía bên tả có chỗ bờ tường không cao lắm bèn rón rén trèo qua. Té ra chỗ ấy là một vườn hoa rất lớn, bốn phía đều có đền đài, lầu các Ngũ Liên bước nhanh vào trong xó hè ngồi nấp, bỗng thấy phía sau có ánh đèn rọi tới, chàng phải lẻn vào trong nhà.
Vào trang, Ngũ Liên thấy bàn ghế rất sang trọng, trưng bày lộng lẫy. Còn đang xem xét, bỗng nghe phía ngoài có tiếng người nói chuyện và đi vào. Ngũ Liên bí thế phải chui nấp dưới gầm giường.
Giây phút sau đó ba người bước vào, người đi trước là Quận chúa Thoại Tiên, đi sau có hai con a hoàn xách đèn. Quận chúa vào ngồi ngay giữa phòng, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, có lẽ nàng vừa ở tại miếu đường cúng tế về nên mới sầu thảm đến thế.
Con a hoàn bước tới khuyên nhủ:
- Xin Quận chúa hãy bớt bi thương, Vương gia đã chết rồi dù Quận chúa có khóc cho lắm cũng không sống lại được Tôi được biết con Tây Vân tiểu muội độc ác lắm. Mới hôm trước đây hắn bắt được một viên Tống tướng đẹp trai, muốn để làm chồng, nên chẳng chịu giải đến cho Vương gia, vì vậy Vương gia tức mình ra trận đến khi Vương gia đuối sức kêu nó ra trợ chiến nhưng nó làm ngơ không chịu ra nên Vương gia mới bị hại như vậy Nay Quận chúa có khóc cũng chẳng ích gì. Chi bằng lo kế báo thù thì hay hơn.
Quận chúa nghe nói tức giận, nghiến răng nói:
- Ta sẽ tâu cho chúa công hay, rồi phân thây xé thịt con tiện tỳ ấy ta mới hả dạ.
Lúc ấy Ngũ Liên nấp ở dưới giường trông thấy Quận chúa mặt hoa mày liễu, da trắng như ngà, môi thắm như hoa đào chớm nở, đôi mắt bồ câu điểm một vài giọt lệ càng tăng thêm vẻ đẹp mỹ miều. Nhìn hồi lâu, chàng có cảm tưởng như Hằng nga dời nguyệt điện, hay tiên nữ xuống trần gian.
Ngũ Liên chép miệng, nói thầm:
- "Người sao mà đẹp đến thế kia .
Hai con a hoàn khuyên giải hồi lâu rồi bưng cơm lên mời Quận chúa, nhưng Quận chúa vẫn sụt sùi không ăn, chúng phải năn nỉ hết sức nàng mới dùng đôi miếng lấy lệ. Sau một hồi than khóc, Quận chúa cảm thấy
mệt, liền khiến a hoàn lui ra rồi đóng cửa phòng lại, lên giường nghỉ ngơi.
Ngũ Liên chờ cho Quận chúa ngủ rồi, len lén chui lên, trông thấy Quận chúa trên giường nước da trắng phau phau, con tim chàng nghe rạo rực, lửa dục tình nổi dậy không sao ngăn cản nổi.
Ngũ Liên cởi hết y phục, nhảy lên giường ôm Thoại Tiên chặt cứng và hôn lấy hôn để. Thoại Tiên giật mình thức dậy song bị Ngũ Liên ôm chặt quá không cựa quậy được vô cùng kinh hãi toan la lên, thì Ngũ Liên đã vỗ về vuốt mái tóc nàng nói:
- Quận chúa chớ la, ta không phải là kẻ địch của nàng, mà là kẻ đến đây giúp nàng một tay để giết Tây Vân tiểu muội, báo thù cho cha nàng. Nếu nàng la lên tất nhiêu ta sẽ giết nàng trước.
Quận chúa nói:
- Ngươi là ai, hãy nói cho minh bạch, nếu hiếp bức ta thì ta thề chịu chết chứ nhất định không chịu nhục.
Ngũ Liên nói:
- Nàng nói rất phải, thôi, để ta phân tỏ minh bạch cho mà nghe.
Dứt lời, chàng buông Quận chúa ra rồi đứng dậy mặc quần áo lại. Quận chúa liếc thấy Ngũ Liên tướng mạo khôi ngô, nước da bánh mật, hình dung tuấn tú, cốt cách phi phàm. Đang tuổi dậy thì, nàng cũng cảm thấy trái tim rung động, song vẫn dằn tâm đứng phắt dậy, rút gươm ra lướt tới toan chém Ngũ Liên và gằn giọng nói:
- Ngươi là ai, dám cả gan vào phủ hãm hiếp ta? Nếu nói không minh bạch, ta quyết liều sống thác với ngươi.
Ngũ Liên dịu giọng, nói:
- Xin Quận chúa bớt giận, tôi đây chẳng phải là người nào, vốn là đại tướng Ngữ Liên ở bên dinh Tống, hôm trước ra trận bị con Tây Vân tiểu muội dùng phép yêu bắt đem về đây, tôi quyết liều sống chết, song hắn lại sai con thị tỳ đến dụ tôi ưng làm vợ chồng với thị.Tôi thấy thị không kể gì mối thù cha, tham lam điều dâm dục nên ý không muốn, nên mượn cớ trả thù cho Tùng Thiện rồi tôi sẽ ưng. Bởi có đòi phải ấy nên hôm trước lệnh tôn bại trận, Tây Vân chẳng tiếp ứng, cố làm cho lệnh tôn không còn con đường sống. Hôm nay, tôi có ý trốn thoát, không ngờ lại đi lạc vào đây gặp Quận chúa, thiệt quả là lương duyên trời định, nay Quận chúa đã thất thân với tôi rồi, có nói ra cũng không tốt, chi bằng kết nghĩa với nhau, tôi sẽ giết Tây Vân tiểu muội rồi chúng mình dắt nhau về đầu Tống. Như vậy Quận chúa đã trả được thù cha mà còn vẹn chữ lương duyên có phải vẹn toàn không?
Ngũ Liên thuyết cho một hồi. Quận chúa cứ việc lặng thinh, cúi đầu nghe và suy nghĩ: "Hắn ta nói có lý lắm".
Nghĩ rồi liếc nhìn Ngữ Liên đoán biết người này không phải bậc tầm thường, thế nào ngày sau cũng nên trang lương đống, huống chi nay Kim chúa hoang dâm vô đạo khí số đã hết, chi bằng ưng phắt người này cho rồi.
Nghĩ đến đây, Quận chúa buông tiếng thở dài, quăng gươm xuống đất rồi nói:
- Nếu như báo thù cho tôi được thì tôi nguyện theo chàng về Tống, bằng giết không được con Tây Vân tiểu muội thì tôi thề không sống trên cõi đời này.
Ngũ Liên mừng rỡ, nói:
- Thế nào ngày mai con Tây Vân tiểu muội cũng ra thành nghênh chiến, Quận chúa giả vờ đem gia tướng ra nghênh chiến cùng nó. Tôi sẽ trà trộn trong đám gia tướng xuất kỳ bất ý nhảy ra chém quách nó đi, rồi dâng phắt cái Mục Dương thành này cho Nguyên soái Nhạc Lôi, chắc chắn triều đình sẽ phong thưởng.
Quận chúa gật đầu khen:
- Kế ấy hay lắm.
Đêm ấy hai người chuyện vãn với nhau rất tâm đầu ý hợp, quả là một cặp uyên ương xứng đôi vừa lứa.
Nhắc lai bốn tên giữ ngục say rượu ngủ li bì, khi tỉnh dậy, nhìn dáo dác không thấy Ngũ Liên đâu cả, chúng kinh hồn hoảng vía, nhưng chẳng dám nói với ai, lập tức dắt nhau trốn biệt!
Qua bữa sau, Tây Vân hay được Ngũ Liên đã trốn mất, trong lòng buồn bực, sai quân sĩ đi lục kiếm khắp thành nhưng không tìm ra tông tích. Tây Vân không biết làm sao bèn mang giáp lên ngựa dẫn binh ra thành đến trước dinh Tống khiêu chiến.
Quân vào phi báo, tứ công tử Nhạc Lâm xin ra quân.
Nguyên soái Nhạc Lôi nói:
- Con yêu phụ ấy có tà phép vô cùng lợi hại, tứ đệ có đi phải cẩn thận mới được.
Nhạc Lâm vâng lời cầm thương lên ngựa xông ra trận, nạt lớn:
- Loài yêu phụ, có ta là tứ công tử đến đây, hãy dâng đầu lập tức
Tây Vân Tiểu muội liếc thấy Nhạc Lâm mặt như trăng rằm, diện mạo khôi ngô tuấn tú khác phàm, lửa tình nổi dậy, nàng nghĩ thầm: "Người này đẹp trai không kém gì Ngũ Liên, xem đi xem lại còn có phần nho nhã hơn nữa, sao bên Tống lại có lắm chàng trai đẹp thế Thôi, để ta bắt sống đem về làm chồng mới thỏa chí ta!"
Nghĩ rồi liếc mắt đưa tình và điểm một nụ cười duyên dáng, nói:
- Ta nhắm tướng quân tuổi còn trẻ lại đẹp trai thế kia sao lại đến đây chịu chết? Hãy đầu hàng ta đi sẽ được phong quan tước và nếu ngươi bằng lòng có thể kết nghĩa châu trần với ta.
Nhạc Lâm nghe nói nổi giận xung thiên, hét như sấm nổ:
- Dâm phụ, đừng nói lời xằng bậy, hãy xem cây thương của ta đây!
Nói chưa dứt lời đã vung thương đâm thẳng, Tây Vân cũng vung đao đón đánh. Hai bên đánh nhau chừng bảy tám hiệp, Tây Vân liền quay ngựa chạy tuốt vào rừng, Nhạc Lâm giục ngựa đuổi theo. Chạy ước chừng mười dặm đến một chỗ vắng vẻ, hai bên đá dựng chập chùng, Tây Vân lấy sợi "Bạch long đái ra ném lên không và kêu lớn:
- Tiểu Man tử, hãy xem bửu bối của ta.
Nhạc Lâm biết bửu bối ấy lợi hại lắm, toan quay ngựa
bỏ chạy, bỗng nghe trên núi có người kêu vọng xuống:
- Nhạc Lâm đừng sợ, có ta đây.
Nhạc Lâm ngước mắt ngó lên trông thấy một vị đạo nhân đầu đội cửu lương quan, mình mặc thất tinh đạo bào, cười con trâu nước, tay cầm cây cổ định kiếm, dáng điệu tiên phong đạo cốt, từ trên thủng thẳng bước xuống. Đạo nhân giơ tay ngoắc ngoắc mấy cái tức thì sợi "Bạch long đái" ở trên không quay một vòng rồi bay thẳng vào tay áo lão đạo nhân mất dạng.
Tây Vân tiểu muội nổi giận liền thò tay vào túi lấy viên dương đạn ra nhắm đối phương ném tới, vị đạo nhân chỉ cần ngửa bàn tay phải, viên đạn ấy bay vụt tới ngoan ngoãn nằm gọn trong bàn tay, ông bình tĩnh bỏ vào túi.
Tây Vân tiểu muội chỉ còn một viên âm đạn cũng nhắm ngay đầu đạo nhân quăng nốt, nhưng cũng bị thu mất. Bấy giờ tiểu muội chỉ còn hai tay trăng, hồn vía rụng rời quay ngựa chạy tuốt về thành, Nhạc Lâm và đạo nhân lập tức đuổi theo.
Khi Tây Vân tiểu muội chạy về đến cửa thành, Quận chúa lật đật thả điếu kiều xuống, nhưng khi Tây Vân vào khỏi cửa thành, Ngũ Liên đã nhanh như chớp rút gươm nhảy tới chém đứt làm hai đoạn.
Khi Nguyên soái Nhạc Lôi nghe tin Nhạc Lâm rượt theo yêu nữ trong lòng lo ngại vội thống lãnh đại binh kéo theo tiếp ứng. Khi đến trước thành lại thấy Ngũ Liên xách đầu Tây Vân tiểu muội, đứng bên Ngũ Liên có một giai nhân tuyệt sắc, nàng ta nói to:
- Ta đã đầu thuận Tống triều rồi, nếu ai theo ta thì khỏi chết.
Quân Phiên nghe nói đều hô rập lên một lượt:
- Chúng tôi tình nguyện đầu hàng.
Nguyên soái thấy vậy liền đốc quân vào thành: Ngũ Liên dắt Quận chúa đến ra mắt Nguyên soái rồi bước thẳng vào soái phủ. Nhạc Lâm cũng dắt đạo nhân đến ra mắt Nguyên soái và kể lại việc vị đạo nhân cứu mình.
Nguyên soái bước xuống tạ ơn rồi hỏi:
- Chẳng hay tiên trưởng ở đâu, danh hiệu là chi?
Đạo nhân đáp:
- Ta ở Bồng Lai, tên Thi Sầm, nhân đi vân du khắp xứ vừa đến đây gặp lệnh đệ mắc nạn, ta phải ra tay cứu giúp, và ta cũng có thể cứu được hết những tướng sĩ rủi bị thương.
Nguyên soái nghe nói mừng quá vội thúc quân khiêng Nhạc Đình, Phàn Thành, Kiết Thành Lượng, Ngưu Thông và La Hồng đem ra giữa đại đường cho vị tiên trưởng cứu chữa.
Thi Sầm vừa trông thấy, mỉm cười nói:
- Những người này toàn là bị trúng âm dương đạn cả.
Nói rồi lấy ra bốn viên linh đơn đem bỏ vào miệng bốn người, chỉ trong giây phút cả bốn tướng lành mạnh như xưa.
Ngưu Thông thấy vậy la lớn lên:
- Còn tôi bị cái dây này nó trói chặt quá xin tiên trưởng hãy cứu tôi với.
Thi Sầm lấy tay chỉ một cái tự nhiên sợi dây được cởi ra liền. Ngưu Thông lồm cồm ngồi dậy chộp sợi dây nắm trên tay nói:
- Không biết nó dùng sợi dây gì đây mà trói tay chân tôi đã sưng hết, để tôi chặt ra xem dây gì cho biết.
Nói rồi lấy đao chặt lia ha đến nỗi mẻ cả đao mà sợi dây không hề hấn gì cả.
Nguyên soái thấy thế, làm lạ hỏi:
- Thưa tiên trưởng, sợi dây ấy bằng gì mà chắc quá vậy?
Thi Sầm cười xòa rồi thò tay vào túi lấy một sợi Bạch long đái nữa ném ra mà nói:
- Còn một sợi dây nữa đây này, có phải bửu bối gì đâu, ấy chỉ là hai sợi dây cột giày nó luyện ra đó thôi.
Nói rồi lấy hai viên đạn trao cho Nguyên soái xem. Thì ra là hai cục phấn chì, hắn dùng âm dương luyện ra, ai nấy nhìn đều sửng sốt rồi quỳ lạy tạ ơn tiên trưởng. Sau đó lại mời tiên trưởng lên tây phòng nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, Nguyên soái truyền lệnh điểm tra lương thảo rồi treo bản chiêu an, khao thưởng tướng sĩ, lại truyền sắm sửa chỗ huê chúc cho vợ chồng Ngũ Liên hợp cẩn. Nguyên soái còn bày tiệc ăn mừng cho thao luyện quân sĩ đang tiến quân đến Huỳnh Long phủ.
Nói về Ngột Truật lên Vạn Cẩm sơn Vào Thiên Hoa động cầu xin Ô Linh Thánh Mẫu xuống phò Kim diệt Tống.
Nguyên Ô Linh Thánh Mẫu này là con gái ông Giả Sứ Quân ở đất Trường Sa đời Đông Tấn, bị con yêu tinh hóa ra một tên Tú tài lấy tên Thuận Lang vào làm rể Giả Sứ Quân. Nàng ta ăn ở với con yêu ấy lâu ngày chầy tháng cũng nhiễm lấy yêu khí, hóa ra con giao long sinh được ba đứa con. Về sau, Hứa Chân Quân bắt được Thuận Lang trói vào cây cột sắt và chém chết hai đứa con. Nhờ có Giả Sứ Quân cầu xin lắm, nàng mới được tha sống để nuôi đứa con thứ ba.
Nàng lên Vạn Cấm Sơn tu thành chánh quả, xưng hiệu là Ô Linh Thánh Mẫu, người con thứ ba trốn xuống sông Hoàng Hà tu luyện thành ra con Thiết Bối Cù Long, chẳng dè bị Đại Bàng điểu (kiếp trước của Nhạc Phi) mổ trúng làm mù mắt, hắn tức giận dâng nước tàn hại cả huyện Thang Âm phạm vào thiên điều bị chết chém.
Về sau hắn đầu thai làm Tần Cối, vì vậy Ô Linh Thánh Mẫu muốn báo thù cho con, ngày nọ sai Phổ Phong xuống giúp Ngột Truật, chẳng dè bị Bảo Phương lão tổ hóa phép giết đi. Thánh Mẫu lại càng tức giận hơn, quyết đích thân xuống báo thù, nay Ngột Truật đến cầu, tất nhiên bà ta chấp nhận đi ngay.
Ô Linh Thánh Mẫu theo Ngột Truật hạ sơn còn dẫn theo ba ngàn ngự lâm quân suốt ngày đêm đi thẳng xuống Mục Dương thành cứu ứng.
Gần đến nơi, hay tin Mục Dương thành thất thủ. Ngột Truật kinh hãi vội bàn bạc với Thánh Mẫu lập kế chống lại.
Ô Linh Thành Mẫu nói:
- Tứ hoàng tử hãy an tâm, để bần đạo đến Trấn Hoa giang lập ra một trận tại mé sông xem thử Nhạc Lôi làm thế nào qua sông được?
Ngột Truật mừng rỡ, nội đêm ấy cùng Thánh Mẫu đến Trấn Hoa giang đóng dinh trại dọc theo mé sông, một mặt sai đi khắp xứ điều động binh mã Tam Xuyên, Lục Quốc kéo đến cứu ứng cho mau.
Nhạc Lôi chia quân thành bốn đội rầm rộ kéo đi.
Khi gần đến Trấn Hoa còn cách chừng năm mươi dặm, bỗng nghe quân thám tử về báo:
- Kim Phiên đóng hơn bấn chục cái dinh trại tại mé sông Trấn Hoa, chúng bố trí đâu đó nghiêm ngặt lắm. Nguyên soái nghe báo liền lựa chỗ trống trải, truyền lệnh an dinh hạ trại rồi sai Hàn Khởi Long, Hàn Khởi Phụng, Đổng Diệu Tông cùng Dương Kế Châu bấn người ở phía tả; La Hồng, Kiết Thành Lượng, Dư Lôi và Vương Anh ở phía hữu. Hữu tả chia làm hai dực, còn mình thì đại lĩnh chư tướng ở giữa kết làm ba cái trại lớn. Lại sai Vương Anh và Vương Bưu đi đốn cây làm bè cho sẵn sàng đợi đạo binh sau của Ngưu Cao đi đến sẽ xuất quân.
Cách vài hôm sau, quân tiếp viện của Ngột Truật đến cộng hơn mười vạn binh mã đóng dinh nối dài theo mé sông Trấn Hoa.
Ô Linh Thánh Mẫu đích thân ra lập xong thế trận rồi bảo Ngột Truật sai người đi hạ chiến thư hẹn ngày quyết chiến.
Nhạc Lôi tiếp được chiến thư liền lật phía sau phê hẹn hôm sau sẽ giao chiến...
Sáng hôm sau, hai bên đều phát pháo lệnh xuất quân. Ngột Truật giục ngựa xông tới trước trận kêu đích danh Nhạc Lôi ra cho mình nói chuyện. Nhạc Lôi dẫn chư tướng ra trước mặt Ngột Truật.
Ngột Truật nói:
- Người xưa có dạy: rượt người không nên rượt đến bước đường cùng. Xưa ta vào Trung Nguyên ba lần, thế mình như chẻ tre bởi vì Tống Triều của ngươi chúa tối, tôi gian nên mới bị nước mất nhà tan. Nay ngươi đã có tân Vương đường hoàng. Lẽ ra ai phải giữ bờ cõi nấy, sao ngươi dám đến đây thâu đoạt thành trí, giết chết đại tướng của ta, quả là ngươi to gan thật. Huống chi lúc chúa ngươi Huy Tông tức vị tại Lâm An đã sai Hà Tú vào Tào Huấn đến nước ta xin giảng hòa, nếu ngươi không thừa lúc này mà lui binh thì sau này ăn năn không kịp.
Nhạc Lôi đáp:
- Ngột Truật, ngươi nói vậy sai lầm rồi. Lúc trước vô cớ mà ngươi xâm phạm nước ta, thâu đoạt thành trì của ta, bắt Nhị Đế ta đem về nước giam cầm, người dân nước ta từ già chí trẻ ai mà không căm phẫn? Huống chi dòng họ Nhạc của ta mang danh trung nghĩa đã vang khắp thiên hạ lại làm ngơ hay sao? Vì vậy, hôm nay ta muốn đến đây phá tan nước Kim cho thành binh địa để báo thù cho Nhị Đế ta.
Ngột Truật nghe nói nổi giận xung thiên, lớn tiếng mắng:
- Loài nghiệt súc, ta đã lấy lời lẽ phải trái khuyên lơn để cho hai nước được hòa hảo mà ngươi lại lớn lối với ta, thế thì hãy đến đây cùng ta giao chiến.
Nhạc Lôi chưa kịp lướt tới đã thấy Quan Linh vỗ ngựa vọt tới trước, nói:
- Nguyên soái hãy dừng lại để tôi bắt nó cho.
Vừa nói vừa vung Thanh long đao chém Ngột Truật. Ngột Truật vung cây Kim tước phủ đón đánh, nhưng đánh chưa đầy mười hiệp Ngột Truật ngăn đỡ không lại? liền quay ngựa chạy, Quan Linh liền giục ngựa đuối theo bỗng nghe trong trận có tiếng chuông reo rồi thình lình xuất hiện một vị đạo cô cưỡi con Bích thủy Ô ngưu, tay cầm cặp thiết đao, thét to:
- Có ta đến đây, Nam man chớ cậy tài.
Quan Linh nhìn thẳng vào mặt đạo cô cười gằn, nói:
- Ngươi là đạo cô ở chùa nào, sao không lo phận tu hành lại đến đây làm gì?
Ô Linh Thành Mẫu nói:
- Vạn Cẩm sơn, Thiên Hoa động Ô Linh Thánh Mẫu là ta đây, chỉ vì chúng bay đem quân xâm lấn nước ta, nên ta phải ra tay trừ khử.
Nói rồi, múa song đao lướt tới chém Quan Linh. Quan Linh cũng vung đao đón đánh, chưa đầy ba hiệp Thánh Mẫu liền giơ tay chỉ một cái, bỗng thấy trong trận có ba ngàn binh xông ra. Đoàn binh này thảy đều dùng da cá đuối làm giáp bao trùm tới trên đầu chỉ chừa có hai con mắt thôi nên đao thương gì đâm cũng không thủng, tên nào cũng cầm đao bén xông đến chém thật dữ dằn. Quan Linh thất kinh quay ngựa chạy dài. Thánh Mẫu xua quân đuổi theo chém giết quân Tống vô số. Chạy đến hai ba mươi dặm mới hạ trại. Kiểm điểm lại hao mất ba ngàn quân, lớp bị thương không biết bao nhiêu mà kể.
Nguyên soái Nhạc Lôi lòng buồn vô hạn. Còn đang thương nghị với chư tướng bỗng có quân vào báo:
- Đại binh sau của Ngưu lão tướng quân đã đến.
Giây phút sau, Ngưu Cao cùng Thi Sầm tiên đạo vào dinh ra mắt. Nguyên soái bèn đem việc bại trận thuật lại một hồi. Thi Sầm nói:
- Nguyên soái chớ lo, để ngày mai tôi bắt nó cho.
Hôm sau bình minh vừa xuất hiện, Nguyên soái Nhạc Lôi đã truyền quân nhổ trại kéo thẳng đến trước dinh Kim lập trận thế rồi sai Ngưu Cao đi khiêu chiến.
Ngột Truật vừa giục ngựa ra, trông thấy Ngưu Cao cười ngất rồi lớn tiếng mắng:
- Cái thằng mặt đen như nhọ chảo này chưa biết sợ ta sao? Thế thì hôm nay mi đã tới số rồi!
Dứt lời, Ngột Truật vung búa đánh liền, Ngưu Cao cũng đưa giản ra đón đánh. Hai tướng đánh nhau được mười hiệp thì trong dinh Tống xông ra sáu viên tiểu tướng, đi đầu là Quan Linh, Lục Văn Long và Địch Lôi rồi đến Nghiêm Thành Phương, Phàn Thành và Ngưu Thông. Sáu viên tiểu tướng vung binh khí xông vào một lượt, bên dinh Kim cũng xông ra năm viên đại tướng: Hấp Đồng Văn, Hấp Đồng Võ, Lê Minh Thắt, Ô Lợi Bột và Tán Lý Hổ. Hai bên đánh nhau bụi cát bay mịt mù. Chẳng dè Tống Lương ở đâu chạy vọt ra vung côn đánh trúng vai Ngột Truật khiến y gần ngã xuống ngựa, Ngột Truật rú lên một tiếng thất thanh rồi quay ngựa chạy dài.
Bọn tướng Phiên trông thấy Ngột Truật bị thương thảy đều khiếp sợ, Hấp Đồng Văn bị Quan Linh chém chết. Hấp Đồng Võ cũng bị Nhạc Lôi giáng một chùy vỡ sọ còn bao nhiêu quay ngựa chạy dài.
Tướng Tống rượt theo vừa đến Ô Long trận bỗng nghe tiếng chuông reo, rồi Thánh Mẫu cưỡi con Hắc ngưu xông ra, thét lên the thé:
- Chúng bay đừng vô lễ, hãy kêu Nhạc Lôi ra đây phá trận của ta. Ngưu Cao chẳng thèm nói năng gì hết cứ việc múa giản lướt tới đánh bổ xuống túi bụi. Thánh Mẫu thấy thế không xong liền giơ tay chỉ một cái, đột nhiên từ trong trận xông ra ba ngàn ngự lâm quân ào tới như ong bầy kiến lũ. Tống tướng vội quay ngựa chạy về Nhưng lúc ấy Thi Sầm đã cưỡi trâu nước từ từ bước ra tay cầm cây Tòng văn cổ định kiếm, khỏa tay nói:
- Chư tướng đừng sợ, đã có bần đạo ra đây!
Vừa nói, vừa giở chiếc hồ lô mở nắp trút ra, bỗng thấy bầy "Thiết chỉ hỏa nha bay ào ra, rồi cứ việc bay theo quân ngư lâm nhằm con mắt mổ lia mổ lịa. Bọn ngự lâm quân này đao thương cung tên gì chẳng sợ, ngặt vì bầy "Thiết chỉ hỏa nha cái mỏ dài như mũi dùi lại cứ nhắm con mắt mà mổ, hễ đuổi bên phải thì bay qua trái mà đuổi bên trái lại bay qua bên phải. Quân ngự lâm bị mổ một hồi mù cả hai mắt không thấy đường nào chạy nữa bị quân Tống bắt hết.
Thi Sầm liền thu Thần nha về. Thánh Mẫu nổi giận
giục con Ô ngưu lướt tới mắng lớn:
Mi là yêu đạo ở đâu dám đến đây phá trận ta?
Đạo nhân cười gằn, nói:
- Loài nghiệt súc, mi còn nhớ năm nọ tại chốn Trường sa sư phụ ta vẫn muốn chém mi, may nhờ ta xin mới khỏi chết, lúc ấy sư phụ ta có dặn mi ráng tu hành, đừng làm chuyện xấu xa mà mang họa, sao này mi dám đến đây chống ngăn binh trời? Nếu mi không dâng Ngột Truật ra đây thì chớ trách ta sao ra tay độc ác.
Thánh Mẫu nghe nói lạnh mình nghĩ thầm:
- "Té ra lão này là học trò của Hứa Chân Quân rồi! Thế thì làm sao ta đánh cho lại".
Tuy nghĩ vậy song việc đã lỡ rồi, chẳng lẽ làm thinh nên Thánh Mẫu gắng gượng nói:
- Thi Tiên sư lại lạ gì không biết Ngột Truật là người phụng ngọc chỉ Thiên đình hạ giới, còn Đại Bàng điểu vô cớ mổ con tôi đui mắt đến nỗi phải mạng vong. Nay Nhạc Lôi nghịch mệnh trời xua quân đến đánh Bắc lẽ nào tôi lại làm thinh? Hơn nữa, việc này không can dự gì đến Tiên sư, tại sao Tiên sư lại ngăn trở?
Thi Sầm nạt lớn:
- Đừng nói bậy, Nhạc Phi mổ mắt con mi, đã báo ứng rồi, còn con mi làm dâng nước tàn hại cả huyện Thang Âm phạm vào "Thiên điều nên bị chết chém, mình làm mình chịu còn thù oán ai nữa? Đừng biện luận nhiều lời ta chém đầu lập tức!
Thánh Mẫu tức giận tràn hông, gằn giọng, nói:
- Tại sao ngươi lại không cho ta báo thù cho con ta, lại còn coi khinh ta đến thế ư? Được rồi, để ta quyết không cho quân Tống qua sông xem ngươi làm gì được ta?
Bây giờ Thi Sầm không thể chịu nổi giọng nói. khích của Ô Linh Thánh Mẫu nữa liền vung cây "cổ định kiếm" nhắm ngay đầu Thánh Mẫu chém tới, Thánh Mẫu cũng vung đao ngăn đánh. Hai bên đánh với nhau ước đặng ba bốn hiệp, Thánh Mẫu đỡ vọt ra rồi nói:
- Thi Sầm, ta nói với ngươi đã hết lời mà ngươi vẫn nằng nặc muốn đánh ta cho được, vậy ta thách ngươi dám phá trận ta không?
Dứt lời Thánh Mẫu quay ngựa trở về trận.
Thi Sầm cười gằn nói:
- Được rồi, ta vào trận cho mi coi.
Nói rồi giục con trâu nước vung gươm xông thẳng vào trận Ô Long. Thánh Mẫu vội leo lên trướng đài lấy cây cờ đem phất qua phất lại mấy cái, miệng đọc thần chú lâm râm. Trong giây phút đất bằng bỗng dậy phong ba, không biết được từ đâu chảy đến cuồn cuộn, binh tôm tướng cá kỳ hình, quái dạng, hiện ra vô số, đứa cầm gươm, đứa cầm giáo ào đến như ong bầy kiến lũ: Quân Tống thấy vậy hoảng kinh bỏ chạy tán loạn, nhưng Thi Sầm vẫn thản nhiên giơ tay chỉ một cái rồi đọc thần chú, bỗng nhiên trên trời tối sầm lại, sấm sét nổi dậy ầm ầm, binh tôm tướng cá sợ hãi trốn mất hết. Thi Sầm giục trâu rẽ nước đuổi theo Thánh Mẫu, vung đao chém mạnh. Thánh Mẫu thất kinh nhảy nhào xuống nước hóa ra một con Ô Long nhe nanh múa vuốt quyết chộp Thi Sầm, nhưng Thi Sầm đã nhanh như chớp lách sang một bên chộp cổ con Ô Long đè xuống vung gương toan chém. Thánh Mẫu năn nỉ xin tha mạng.
Thi Sầm thấy vậy không nỡ chém, lên tiếng nói:
- Thôi, ta cũng chẳng thèm chém ngươi làm gì, song ta phải đem về cho thầy ta cột ngươi vào cây cột sắt cho ngươi hết hung hăng.
Nói rồi quay lại kêu bọn tướng Tống nói:
- Các ngươi hãy bẩm lại với Nguyên soái ngươi biết rằng ta đã bắt được con yêu rồi và phải mang nó về phục mạng với sư phụ ta, nên không có thì giờ kiếu từ xin hãy miễn chấp cho!
Nói rồi lấy dây cột chặt Thánh Mẫu lại để nằm vắt ngang trên lưng trâu, độn thủy đi mất.
Lúc ấy quân Tống thấy trận Ô Long đã bị phá rồi nên thừa thế xông vào một lượt chém giết tứ tung, quân Phiên kinh hãi bỏ chạy tán loạn. Quân Tống đuổi theo đến bên sông, quân Phiên lật đật xuống thuyền không kịp, lớp bị quân Tống giết, lớp ngã xuống sông chết chìm không biết bao nhiêu mà kể.
Lúc ấy Ngưu Cao tung hoành trong trận, đụng ai giết nấy, bỗng gặp Ngột Truật đang thu góp tàn quân để trốn chạy, thấy Ngưu Cao vừa trở tới, Ngột Truật thất kinh quay ngựa chạy dài.
Ngưu Cao kêu lớn:
- Ngột Truật, mi còn chạy đi đâu nữa? Sao không bó tay chịu trói cho rồi?
Ngột Truật nổi giận hét:
- Ngưu Cao, ngươi đối với ta có nghĩa gì mà ngươi dám coi khinh ta đến thế?
Nói rồi quay ngựa lại đánh Ngưu Cao. Đánh được vài ba hiệp, vì cánh tay Ngột Truật bị bệnh chỉ còn một tay nắm búa nên bị Ngưu Cao bắt được cây búa nắm chặt cứng rồi quăng giản nắm hai tay giựt một cái thật mạnh làm Ngột Truật bị trật yên ngựa ngã nhào xuống. Ngưu Cao vì giật quá mạnh cũng bị mất thăng bằng ngã xuống chụp trên mình Ngột Truật. Ngưu Cao thừa thể chồm dậy ngồi cưỡi trên lưng Ngột Truật cười ngất, nói:
- Ngột Truật, lại có ngày mi bị ta bắt như vậy sao?
Ngột Truật ngẩng lên thấy mặt Ngưu Cao liền trợn mắt nghiến răng, hét lên giận dữ như sấm nó.
Ngột Truật phần thì uất quá, phần thì hét lớn nên hộc máu ra chết tươi, còn Ngưu Cao ngồi trên lưng kẻ thù thì vô cùng khoái chí, cười ngất, cười sằng sặc đến ngút hơi và cũng tắt thở luôn!
Đây quả là cọp cưỡi rồng. Ngột Truật chết rồi mà còn với níu Ngưu Cao để rồi cùng xuống Diêm La một lượt.
Kết Thúc (END)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro