
Chương 8
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
166
Chương VIII:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CÓ TÍNH QUY LUẬT
TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Thời lượng: 8 giờ tín chỉ (4 lý thuyết, 2 thảo luận, 2 tự học)
Mục tiêu của người học cần đạt được về kiến thức và kĩ năng:
- Nắm vững quan niệm dân chủ, nền dân chủ, đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa
- Hiểu được đặc trưng chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Nêu được khái niệm văn hóa, nền văn hóa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
- Hiểu được nội dung, phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
- Nắm được khái niệm dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
giải quyết vấn đề dân tộc
- Phân tích được nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong xã hội chủ nghĩa
- Phân tích được đường lối, chính sách giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo hiện nay của
Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa
I. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
1 . Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
a) Quan niệm dân chủ và nền dân chủ
- Cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ đã tồn tại một hình thức đầu tiên của dân chủ
mà Ph. Ăngghen gọi là "dân chủ quân sự", " dân chủ nguyên thuỷ". Trong các kỳ "Đại
hội nhân dân", mọi người đều được tự do phát biểu và biểu quyết những vấn đề quan
trọng của thị tộc, bầu ra những thủ lĩnh của mình. Trong quan hệ dân chủ nguyên thuỷ đó,
quyền lực của nhân dân được coi là thiêng liêng bất khả xâm phạm, quyền lực mà mọi
người đều thực hiện một cách tự nguyện và tự nhiên trong tư tưởng, tình cảm và hành
động của mình.
- Chế độ nguyên thuỷ: vào thời kì này, cộng đồng thị tộc đã biết tổ chức sinh hoạt
dân chủ đơn sơ. Họ bầu ra những chức vụ quan trọng của thị tộc, có quyền phát biểu ý
kiến quyết định những vấn đề lớn của cộng đồng bằng cách giơ tay hoặc hoan hô khi họ
đồng ý. Trong xã hội nguyên thuỷ, việc "cử ra và phế bỏ người đứng đầu" là do quyền
lực của dân.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
167
- Dân chủ với tư cách là chế độ nhà nước lần đầu tiên xuất hiện trong chế độ
chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp, La Mã cổ đại - quyền lực thuộc về giai cấp chủ nô và một bộ
phận dân cư (trừ giai cấp nô lệ).
- Vào thế kỉ XVII, chủ nghĩa tư bản lần lượt ra đời ở một số nước châu Âu. Giai
cấp tư sản thiết lập nền dân chủ tư sản. Những đại biểu xuất sắc như Lốc cơ (1632 -
1704), Môngtexkiơ (1689 - 1755), Rút xô (1712 - 1778), đã đặt nền móng cho việc hình
thành nhà nước pháp quyền và chế độ dân chủ tư sản. Các nhà tư tưởng tư sản đã đưa ra
tư tưởng "tam quyền phân lập" để chế ước và kiểm soát lẫn nhau về quyền lực. C.Mác đã
đánh giá cao tư tưởng dân chủ tư sản. Ông coi đây là một tiến bộ lớn mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển.
- Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền thì tính chất tiến bộ và
cách mạng của giai cấp tư sản mất dần, thay vào đó là tư tưởng bảo thủ và phản động.
V.I.Lênin cho rằng: dân chủ tư sản trong thời kì độc quyền là thứ dân chủ phục vụ cho lợi
ích của giai cấp tư sản. Dân chủ tư sản là thiên đường của giai cấp tư sản, nhưng chỉ là
miếng mồi giả tạo đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
b) Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là một phạm trù lịch sử phụ thuộc vào trình độ kinh tế - xã hội và sự xuất
hiện của hệ thống pháp luật mà nhân dân tự giác thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của mình.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin kế thừa những nhân tố hợp lí trong hoạt động thực tiễn
và nhận thức của nhân dân về dân chủ, đặc biệt là ý kiến cho rằng: dân chủ là nhu cầu
khách quan, là quyền lực của nhân dân.
- Khi xã hội phân chia giai cấp và xuất hiện nhà nước, chế độ dân chủ thể hiện chủ
yếu qua nhà nước, khi đó không có dân chủ thuần tuý, phi giai cấp. Trái lại, mỗi chế độ
dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội.
Từ khi có nhà nước thì dân chủ còn với ý nghĩa là một chế độ chính trị. Trong đó,
có các quyền bầu cử và bãi miễn các thành viên của nhà nước. Việc quản lí xã hội được
thực hiện bằng pháp luật và thừa nhận ở nhà nước đó "quyền lực thuộc về nhân dân".
Quan niệm Nhân dân là ai phụ thuộc vào bản chất giai cấp thống trị xã hội qui định, gắn
liền với một hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị.
Một chế độ dân chủ và một nhà nước tương ứng đều do một giai cấp thống trị cầm
quyền chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, tính giai cấp gắn liền và chi
phối tính dân tộc, chi phối tính chất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi
quốc gia - dân tộc cụ thể.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
168
c) Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Một là, với tư cách là một chế độ nhà nước do nhân dân lao động sáng tạo ra, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực thuộc
về nhân dân. Nhà nước là một thiết chế chủ yếu để thực thi dân chủ. Đây là đặc trưng bản
chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, đặc trưng kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với cơ sở kinh tế là chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm thỏa mãn không ngừng về nhu cầu vật chất
và tinh thần của nhân dân lao động.
Ba là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp hài hòa lợi ích của toàn xã hội
do nhà nước của giai cấp công nhân đại diện nhằm động viên thu hút mọi tiềm năng sáng
tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần có những điều kiện tồn tại với tư cách là
nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử mang bản chất giai cấp công nhân, thực hiện trấn
áp với thiểu số giai cấp bóc lột và phản động. Trong nền dân chủ đó, chuyên chính và dân
chủ là hai mặt có qui định tác động lẫn nhau.
d) Tính tất yếu của xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì xây dựng và phát triển nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình. Dân chủ được mở rộng nhằm phát huy tính
tích cực sáng tạo của nhân dân tham gia vào quản lí nhà nước: "Với việc phát triển chế
độ dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là với việc làm cho toàn thể quần chúng nhân dân
tham gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi công việc quản lý nhà nước"1.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động và thực hành dân chủ trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm đưa những chuẩn mực, nguyên tắc của dân
chủ vào thực tiễn. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là một cuộc cách mạng
chuyển giao quyền lực thực sự cho nhân dân. Nhân tố quan trọng trong quá trình thực
hiện dân chủ hóa đời sống xã hội là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm chống lại
những biểu hiện dân chủ cực đoan vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỉ
cương pháp luật.
2. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
a) Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1981, t 30, tr 93.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
169
C. Mác cho rằng "Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này
dùng để trấn áp một giai cấp khác"2 là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp
này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp đồi với toàn xã hội.
V.I. Lênin cho rằng "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt
khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được thì nhà nước xuất hiện."1
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ
sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa, là công cụ quản lí mà đảng cộng sản và nhân dân tổ
chức ra để thực hiện quyền lực, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
b) Đặc trưng và chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, là giai cấp gắn bó
và đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và cả dân tộc. Do vậy, nhà nước xã hội chủ
nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc
sâu sắc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở bất cứ quốc gia, dân tộc nào cũng đều có điểm
chung là: chính quyền của đa số nhân dân lao động do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản: Chức năng trấn áp và chức
năng tổ chức, xây dựng
Cũng như mọi hình thức nhà nước khác đã có trong lịch sử loài người, nhà nước
xã hội chủ nghĩa không chỉ có chức năng trấn áp mà chủ yếu là tổ chức một phương thức
sản xuất mới, một xã hội mới cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Bạo lực, trấn áp là bản chất vốn có của mọi nhà nước, nhưng đối với nhà nước xã
hội chủ nghĩa chức năng tổ chức và xây dựng xã hội mới là chức năng căn bản. Đặt mối
tương quan với chức năng tổ chức xây dựng theo V.I. Lênin thì chức năng trấn áp chỉ là
việc "quét sạch các đống rác rưởi trước khi xây dựng".
Nhiệm vụ chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được C. Mác và Ph. Ăngghen nêu ra
ngay từ năm 1847. Sau khi thiết lập chuyên chính vô sản ở Nga năm 1917, V.I. Lênin đã
có sự phát triển mới về mặt lý luận liên quan đến tổ chức và xây dựng xã hội mới. Ông
coi việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, thiết lập những quan hệ kinh tế mới là
nhiệm vụ cấp bách nhất. V.I. Lênin cũng coi trọng nhiệm vụ trấn áp nhằm đập tan sự
2 C. Mác-Ph. Ăngghen; Toàn tập, Nxb. CTQG, H1995, t22, tr 290
1 V.I. Lênin đã dẫn, 1976, t33, tr 9.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
170
phản kháng của giai cấp tư sản. Ông dành sự chú ý đặc biệt cho nhiệm vụ quản lý xã hội
mà thực chất là quản lý kinh tế.
c) Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
Sau khi nắm chính quyền, giai cấp công nhân phải thực hiện nhiệm vụ xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là một công cụ để trấn áp các thế lực đi ngược lại
lợi ích của nhân dân nhằm bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu phải xác
lập chuyên chính vô sản còn xuất phát từ nhiệm vụ thực tiễn của thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội còn tồn tại các giai cấp bóc lột chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Để mở rộng dân chủ với mọi tầng lớp nhân dân dấu tranh chống lại mọi hành vi vi
phạm dân chủ, đòi hỏi phải có một thiết chế nhà nước phù hợp. Do đó, xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu khách quan gắn liền với xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là quá trình cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa
đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện và công cụ chủ yếu của nhân
dân. Bởi vậy, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan trong tiến
trình cách mạng.
II. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
1. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
a) Khái niệm văn hóa, nền văn hóa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao
động và hoạt động thực tiễn, biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kì lịch sử nhất
định. C. Mác và Ph. Ăngghen đã khái quát thành 2 hoạt động cơ bản của xã hội, đó là sản xuất
vật chất và sản xuất tinh thần. Do đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần.
Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người, được thể hiện và kết tinh trong
sản phẩm vật chất.
Văn hóa tinh thần là tổng thể tư tưởng lý luận và các giá trị được sáng tạo ra trong đời
sống tinh thần của con người. Nói tới văn hóa là nói tới con người trong việc phát huy năng lực
thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện xã hội, do đó, văn hóa có mặt trong mọi hoạt
động của con người.
Với tư cách là hoạt động tinh thần thuộc về ý thức của con người nên văn hóa chịu tác
động và qui định của cơ sở kinh tế, chính trị. Tách rời kinh tế và chính trị sẽ không hiểu được
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
171
nội dung bản chất của văn hóa. Trong xã hội có giai cấp, văn hóa mang tính giai cấp. Mọi nền
văn hóa trong xã hội có giai cấp đều gắn với bản chất giai cấp cầm quyền. Văn hóa luôn có
tính kế thừa được biểu hiện qua mỗi thời kì lịch sử trên cơ sở kinh tế - chính trị của nó.
b) Đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Sự ra đời của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong quá trình phát
triền của lịch sử: "Văn hóa vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do những
người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản, phát minh ra. Văn hóa vô sản phải là
sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích lũy được
dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan
liêu"1.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được xây dựng và phát triển trên nền tảng của giai
cấp công nhân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhằm thỏa mãn không ngừng nhu cầu ngày
càng cao về đời sống tinh thần của nhân dân, đưa nhân dân lao động trở thành chủ thể
sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi giữ vai trò chủ đạo
quyết định phương hướng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Đây là đặc trưng nói
lên tính chất giai cấp của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Hai là, nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc, thể hiện mục
đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng nền văn hóa trong xã hội mới. Văn hóa
phục vụ giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, đồng thời họ là chủ
thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Văn hóa xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa những di
sản của quá khứ, tiếp tục sáng tạo ra những giá trị mới tiên tiến, hiện đại hướng tới nhân
dân và dân tộc.
Ba là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển một cách tự
giác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
c) Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa xuất phát từ những căn cứ sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ tính triệt để và toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa về
thay đổi phương thức sản xuất đời sống tinh thần phù hợp với phương thức sản xuất vật
chất của xã hội mới.
Thứ hai, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo
tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần nhằm giải phóng nhân dân thoát khỏi ảnh hưởng của
1 V.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 41, tr 361.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
172
tư tưởng, ý thức cũ lạc hậu. Về thực chất, đây là cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng
trong quá trình phát triển xã hội.
Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là quá trình nâng cao trình độ văn
hóa cho nhân dân lao động, là điều kiện để chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu. V.I. Lênin đã
chỉ ra ba kẻ thù của chủ nghĩa xã hội là "bệnh kiêu ngạo cộng sản, nạn mù chữ và nạn hối
lộ"1.
Thứ tư, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu khách quan bởi vì
văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong xây dựng xã hội mới. Văn hóa là những
tiền đề quan trọng để nâng cao phẩm chất, năng lực học vấn, tạo cơ sở để nâng cao năng
suất lao động.
2. Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
a) Nội dung cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa bao gồm những nội dung chính sau đây:
Một là, cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội
mới. Trí tuệ khoa học và cách mạng là yếu tố quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Do đó, nâng cao dân trí, tạo nguồn lao động có chất lượng cao, bồi dưỡng
nhân tài vừa là nhu cầu cấp bách vừa là nhu cầu lâu dài của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Sự nghiệp này là của quần chúng nhân dân: "Chủ nghĩa xã hội sinh động,
sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân" 2.
Hai là, xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Đó là con người có tinh thần
và năng lực, là người lao động mới, có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế
trong sáng; là con người có lối sống tình nghĩa và tính cộng đồng cao.
Ba là, xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Đây là đặc trưng có tính nguyên
tắc được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn
dân giữ vai trò chủ đạo, quyền lực thuộc về nhân dân, hệ tư tưởng khoa học và cách
mạng của giai cấp công nhân đóng vai trò chủ đạo; xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng dân
tộc, giới tính, thể hiện công bằng dân chủ trên mọi lĩnh vực.
Bốn là, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa. Gia đình là hình thức cộng
đồng đặc biệt gắn bó với nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản: hôn nhân và huyết thống:
"Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người
1 V.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 44, tr 217.
2 V.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 35, tr 64.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
173
khác, sinh sôi, nảy nở, đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia
đình"1.
Ngoài hai mối quan hệ cơ bản, gia đình còn có những mối quan hệ khác, đó là
cộng đồng kinh tế, văn hóa, giáo dục, là một thiết chế đặc biệt có cách thức vận động
riêng. Gia đình là một giá trị văn hóa, xã hội có sự tương tác gắn bó với cộng đồng dân
tộc, giai cấp. Những điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau là những nhân tố qui định các
hình thức tổ chức gia đình khác nhau. Loài người đã trải qua các hình thức cộng đồng gia
đình: gia đình huyết tộc, đối ngẫu, một vợ một chồng.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng để xây dựng gia đình văn hóa
mới. Do gia đình trong xã hội, đặc biệt là trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội có vai
trò không giống nhau đối với sự phát triển của xã hội. Vì vậy, xây dựng gia đình văn hóa
mới là một yêu cầu tất yếu của xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội.
Sự hòa thuận, hạnh phúc, ổn định của gia đình sẽ góp phần phát triển ổn định và lành
mạnh xã hội và ngược lại, một xã hội phát triển ổn định và lành mạnh sẽ lại tạo điều kiện
cho gia đình ấm no, bình đẳng và hạnh phúc. Xây dựng gia đình văn hóa mới là xây dựng
gia đình trên cơ sở giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ
những tàn tích hôn nhân gia đình lạc hậu của xã hội cũ, đồng thời tiếp thu những giá trị
tiến bộ của nhân loại về gia đình.
Xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa là một nội dung thể hiện tính ưu việt
của xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ trong gia đình là một bộ phận của quan hệ xã hội, là
biểu hiện của quan hệ xã hội. Bình đẳng, yêu thương, tôn trọng lẫn nhau giữa các thành
viên trong gia đình vừa là quan hệ huyết thống, tình cảm, vừa là trách nhiệm xã hội.
b) Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Để thực hiện được những nội dung chủ yếu của xây dựng nền văn hóa mới, cần
phải thực hiện các phương thức cơ bản sau đây:
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công
nhân trong đời sống xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công
nhân với tư cách là giai cấp cầm quyền, thông qua đội ngũ các nhà tư tưởng và các thiết
chế tư tưởng của mình phải chi phối các quan hệ tư tưởng trong xã hội. Bởi vì: "Những
tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống
trị"1.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG H1995, tập 3, tr 41.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1995, tập 4, tr 625.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
174
Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản
lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa.
Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp
việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc và tiếp thụ có chọn lọc tinh hoa
văn hóa của nhân loại.
Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng tạo
văn hóa.
III. Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo
1.Vấn đề dân tộc và nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết vấn dề dân tộc.
a) Khái niệm dân tộc, hai xu hướng của phong trào dân tộc
Hiện nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa. Trong đó có hai nghĩa
được dùng phổ biến nhất đó là:
Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,
có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù. Dân tộc xuất
hiện sau bộ lạc, bộ tộc có tính kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ
lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của cộng đồng dân cư đó. Với nghĩa
này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia. ( Chẳng hạn như: dân tộc Kinh, Tày, Nùng,
Êđê, Bana,... ở nước ta)
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước,
có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có ý thức về sự thống nhất
quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá
trong lịch sử dựng nước, giữ nước. ( Dân tộc Việt Nam, Trung Hoa, Hoa Kì...)
b) Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong thời kì độc quyền, V.I. Lênin đã phát hiện ra
hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc.
Xu hướng thứ nhất: tách ra để phát triển. Xu hướng này gắn liền với giai đoạn đầu
của chủ nghĩa tư bản do sự thức tỉnh và trưởng thành của ý thức dân tộc. Biểu hiện của
xu hướng này là kích thích đời sống và phong trào dân tộc, xoá bỏ chế độ phong kiến cát
cứ, thành lập các quốc gia độc lập có chính phủ, hiến pháp, thị trường, phục vụ cho sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Xu hướng thứ hai: liên kết lại để phát triển. Khi dân tộc ra đời gắn liền với việc
mở rộng và tăng cường quan hệ kinh tế, xoá bỏ sự ngăn cách giữa các dân tộc, từ đó hình
thành nên một thị trường thế giới, Chủ nghĩa tư bản trở thành một hệ thống. Chính sự
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
175
phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học - công nghệ đã xuất hiện nhu cầu xoá bỏ
sự ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau. Xu hướng này nổi
bật trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Biểu hiện của hai xu hướng này trong thời đại hiện nay
Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau. Sự tự chủ, phồn vinh của mỗi dân tộc sẽ tạo điều kiện vật chất -
tinh thần để hợp tác với các dân tộc anh em. Tuy nhiên, sự hoà quyện giữa các dân tộc đã
không làm mất sắc thái của từng dân tộc. Ngược lại, nó được bảo lưu, giữ gìn và phát huy
tinh hoa, bản sắc của từng dân tộc.
Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan này thể hiện ở
những điểm sau đây:
Thời đại hiện nay là thời đại mà các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc đã đứng lên xoá
bỏ sự nô dịch, áp bức giành quyền tự chủ quyết định vận mệnh dân tộc mình như lựa
chọn nền chính trị, con đường phát triển của dân tộc, quyền bình đẳng với dân tộc khác.
Đây là mục tiêu vì độc lập dân tộc, thực chất là chống chủ nghĩa đế quốc, chống kì thị
dân tộc, phân biệt chủng tộc.
Các dân tộc ngày nay có xu hướng xích lại gần nhau để trở thành một quốc gia
thống nhất theo nguyên trạng của lịch sử.
Các dân tộc có sự tương đồng về địa lí, môi trường, một số giá trị văn hoá, muốn
tạo thành những liên minh dân tộc trên cơ sở những lợi ích chung, muốn dựa vào nhau để
khắc phục những khó khăn trước mắt nhằm phát triển kinh tế và giải quyết một số vấn đề
chung như chiến tranh, môi trường, dịch bệnh, nghèo đói,...
Tóm lại, các dân tộc ngoài việc hội nhập còn phải tìm các giải pháp hữu hiệu để
giữ gìn và phát huy bản sắc của dân tộc mình. Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam là "Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại"1.
c) Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin trong giải quyết vấn đề
dân tộc
Dựa trên quan điểm của C. Mác - Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc qua tổng kết
kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga, đồng thời
phân tích sâu sắc hai xu hướng phát triển của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình
vận động của chủ nghĩa tư bản, nhất là giai đoạn độc quyền, V.I. Lênin đã khái quát
thành Cương lĩnh dân tộc. Trong tác phẩm Về quyền dân tộc tự quyết, Người nêu rõ "Các
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VIII đã dẫn, H1996, tr 84.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
176
dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả
các dân tộc lại. Đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới,
kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân"2. Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản
bao gồm ba nội dung cơ bản sau đây:
+ Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Bình đẳng là quyền thiêng liêng của các dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân
tộc, đảm bảo cho các dân tộc không phân biệt số đông, số ít, trình độ phát triển cao hay
thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau. Đây là cơ sở để xoá bỏ tình trạng nô dịch,
áp bức dân tộc, từng bước khắc phục sự chênh lệch về sự phát triển giữa các dân tộc, xây
dựng sự bình đẳng toàn diện giữa các dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội được
pháp luật thừa nhận và được thực hiện trong cuộc sống.
+ Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền tự quyết thực chất là một nội dung của quyền bình đẳng. Đó là quyền làm
chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình.
Quyền tự quyết có tính chất hai mặt. Một mặt, là quyền tự do phân lập về chính
trị, có nghĩa là sự phân lập của các dân tộc với tư cách là một quốc gia độc lập. Mặt khác,
quyền dân tộc tự quyết còn là quyền tự nguyện liên bang với các dân tộc khác trên cơ sở
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
Khi xem xét quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng trên lập trường của giai cấp vô
sản là nhiệt tình ủng hộ các dân tộc phụ thuộc, thuộc địa đứng lên chống ách thống trị,
giành độc lập tự chủ. Đồng thời phải kiên quyết chống thủ đoạn dùng chiêu bài "dân tộc
tự quyết" để can thiệp công việc nội bộ các nước, kích động tâm lý đòi li khai dân tộc.
V.I. Lênin viết "Yêu sách dân tộc phải phục tùng lợi ích của giai cấp vô sản" và "thừa
nhận hay không thừa nhận quyền dân tộc tự quyết đối với giai cấp vô sản trong cả hai
trường hợp đều cần phải đảm bảo sự phát triển của chính giai cấp mình"1.
+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào dân tộc và giai
cấp. Liên hiệp công nhân các dân tộc thực chất là đoàn kết, thống nhất các lực lượng tiến
bộ đấu tranh vì hoà bình, vì sự nghiệp giải phóng giai cấp và dân tộc. Khi chủ nghĩa tư
bản trở thành một hệ thống, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế thì giai cấp vô sản
2 V.I. Lênin đã dẫn, 1980, t25, tr 37.
1 V.I. Lênin đã dẫn, 1980, t23, tr319.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
177
phải liên hiệp lại để chống kẻ thù chung của mình, giải phóng mình, đồng thời giải phóng
toàn nhân loại.
Tóm lại, ba nội dung của Cương lĩnh dân tộc là một thể thống nhất. Trong đó, liên
hiệp công nhân tất cả các dân tộc là nội dung cơ bản nhất. Cương lĩnh không chỉ là lời
kêu gọi mà còn là biện pháp hữu hiệu để đảm bảo thực hiện quyền bình đẳng và quyền tự
quyết dân tộc. Cương lĩnh cung cấp phương pháp đấu tranh cách mạng cho giai cấp vô
sản thế giới. Vì vậy, cần vận dụng phù hợp với điều kiện của từng quốc gia - dân tộc
trong thời đại hiện nay.
2. Vấn đề tôn giáo và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giải
quyết vấn đề tôn giáo
a) Khái niệm tôn giáo và nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hoá lịch
sử, một lực lượng xã hội trần thế: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư
ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang
hình thức những lực lượng siêu trần thế".1
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử-tự nhiên - xã
hội xác định. Tôn giáo thường gắn giáo lí, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội. Bất cứ
tôn giáo nào cũng có tín ngưỡng. Do vậy xuất hiện thuật ngữ tín ngưỡng tôn giáo. Tôn
giáo là một hiện tượng xã hội tiêu cực, phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự
nhiên - xã hội : "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực,
vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh
thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân"1.
Các nhà duy vật cổ đại đã đưa ra luận điểm "Sự sợ hãi sinh ra thần linh". Người
đầu tiên đưa ra luận điểm này là thi sĩ Latin Lucrêce: thế kỉ I trước Công nguyên. V.I.
Lênin tán thành ý kiến đó và ông đã phân tích thêm "Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng
của tư bản - mù quáng vì quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó - là thế lực
bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và tiểu chủ cũng bị đe doạ đem lại cho họ
sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành
1 . Mác- Ph. ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H1994, t20, tr 437.
1 CácMác - ăngghen đã dẫn, t1, tr 570.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
178
kẻ ăn xin, kẻ bần cùng, và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của
tôn giáo hiện đại"2.
Tôn giáo sẽ tồn tại chừng nào con người chưa thể khám phá những bí ẩn của tự
nhiên - xã hội và sức mạnh của con người chưa có khả năng chi phối được sức mạnh của
tự nhiên: "Con người không chỉ mưu sự mà còn làm cho thành sự nữa, thì chỉ khi đó, cái
sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn đang phản ánh vào tôn giáo mới sẽ mất đi, và
cùng với nó, bản thân sự phản ánh có tính chất tôn giáo cũng sẽ mất đi, vì khi đó sẽ
không có gì để phản ánh nữa."3
Tôn giáo về cơ bản là tiêu cực nhưng mặt khác tôn giáo cũng có tính nhân văn,
nhân đạo và hướng thiện. Vì thế, còn nhiều người trong các tầng lớp xã hội tin theo. Hiện
nay, số lượng tín đồ của các tôn giáo chiếm tỉ lệ khá cao trong dân số thế giới. Chỉ tính
những tôn giáo lớn, đã có tới 2/3 dân số thế giới đi theo:
+ Kitô giáo (gồm Công giáo, Tin lành, Anh giáo và Chính thống giáo): số lượng
tín đồ là 2 tỉ, chiếm 33% dân số thế giới.
+ Hồi giáo: số lượng tín đồ là 1,3 tỉ, chiếm 22% dân số thế giới
+ ấn Độ giáo: số lượng tín đồ là 900 triệu, chiếm 15% dân số thế giới
+ Phật giáo: số lượng tín đồ là 360 triệu, chiếm 6% dân số thế giới.1
b) Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhất là trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
tôn giáo vẫn tồn tại và có năm nguyên nhân cơ bản sau đây:
+ Nguyên nhân nhận thức:
Chưa có thời đại nào mà khoa học - công nghệ đạt được những bước phát triển
nhảy vọt như hiện nay. Những công nghệ mới như thông tin, sinh học, vật liệu mới, phát
triển mạnh mẽ. Nhưng thế giới là vô cùng, vô tận và trình độ khoa học - kĩ thuật hiện nay
chưa cho phép con người chế ngự được hoàn toàn sức mạnh của tự nhiên. Những bất
hạnh, rủi ro mà con người gặp phải như động đất, núi lửa, chiến tranh, thất nghiệp, dịch
bệnh, là những vấn đề của xã hội hiện đại còn tồn tại thì con người vốn có tín ngưỡng,
tôn giáo còn cầu xin sự che chở, sự tha thứ, và "phù hộ độ trì" của thần linh.
+ Nguyên nhân kinh tế:
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhất là giai đoạn đầu của thời kì quá độ vẫn còn
tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Trong nền kinh tế vận hành theo
2 V.I. Lênin đã dẫn 1979, t17, tr 515 - 516.
3 C. Mác -Ph. Ăngghen đã dẫn, H 1995,t20, tr 439.
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo: Vận dụng Nghị quyết Đại hội IX vào giảng dạy môn học CNXHKH, H2003 tr82.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
179
kinh tế thị trường, con người luôn phải chịu sự chi phối của những qui luật kinh tế khách
quan đó. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, vì thế, con người vẫn tin
vào lực lượng siêu nhiên, cầu xin công việc làm ăn gặp nhiều may mắn.
+ Nguyên nhân chính trị - xã hội:
Tôn giáo về cơ bản là tiêu cực nhưng trong các nguyên tắc của tôn giáo còn có
những điểm phù hợp với chủ nghĩa xã hội về pháp luật, với đạo đức, thuần phong, mĩ tục
của dân tộc. Vì thế, tôn giáo tồn tại trong chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng khách quan.
Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo biến đổi theo xu hướng "sống phúc âm giữa lòng dân
tộc", "đồng hành với dân tộc". Nhà nước xã hội chủ nghĩa không ngừng nâng cao địa vị
của những người có đạo. Niềm tin tôn giáo chân chính không đối lập với tính nhân đạo
xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay cuộc đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức phức tạp. Một
số thế lực đã sử dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo. Những cuộc chiến tranh cục
bộ, xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố, lật đổ vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Đây cũng là điều
kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
+ Nguyên nhân tâm lí:
Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, ăn sâu vào tiềm thức của nhiều
người dân. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Những niềm tin tôn giáo
ảnh hưởng sâu đậm trong nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ
đã trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu được của cuộc sống. Vì
thế, dù hiện nay nhân loại đã và đang có những biến đổi lớn lao về kinh tế - xã hội nhưng
tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn tồn tại bởi những lí do đó.
+ Nguyên nhân về văn hoá:
Đa số tín ngưỡng, tôn giáo đều gắn với sinh hoạt văn hoá của nhân dân. Do vậy,
việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đòi hỏi phải bảo tồn tôn giáo ở những
mức độ nhất định (Nhà thờ, chùa, thánh địa,...). Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên
quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư. Vì vậy, sự tồn tại của tôn giáo
trong xã hội xã hội chủ nghĩa như là một hiện tượng khách quan.
Tóm lại, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội.
Vì thế, điều kiện kinh tế - xã hội đã có những biến đổi to lớn nhưng tín ngưỡng, tôn giáo
cũng không thể thay đổi ngay theo sự biến đổi kinh tế - xã hội mà nó phản ánh.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
180
c) Nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy, giải quyết
những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo đòi hỏi phải thận trọng, mềm dẻo, linh hoạt. Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân.
Giải quyết vấn đề tôn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa cần dựa trên năm quan
điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử muốn thay đổi ý
thức xã hội, cần phải thay đổi tồn tại xã hội, xoá bỏ nguồn gốc sinh ra tôn giáo. Vì vậy,
phải xác lập một thế giới hiện thực không có áp bức, bóc lột, bất công. Mục tiêu này chỉ
có thể thực hiện được bằng cách xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Hai là, một khi tín ngưỡng, tôn giáo còn là nhu cầu sinh hoạt tinh thần của một bộ
phận nhân dân thì chính sách của các Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tôn
trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. Quyền này phải được thể hiện về mặt pháp lí và được thực hiện trên thực tế. Mỗi
người có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào theo quy định của pháp luật.
Có nghĩa là việc vào đạo, chuyển đạo, bỏ đạo phải theo qui định của pháp luật hiện hành
và là quyền tự do của mỗi người.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo bằng pháp luật cho công dân có đạo và không
có đạo đều bình đẳng, không phân biệt đối xử. Các tôn giáo được nhà nước thừa nhận
đều bình đẳng trước pháp luật. Giáo hội động viên tín đồ sống "tốt đời đẹp đạo" phù hợp
với lợi ích quốc gia - dân tộc, chống mọi biểu hiện lợi dụng tôn giáo để đi ngược lại lợi
ích dân tộc.
Ba là, thực hiện đoàn kết rộng rãi giữa những người có đạo và không có đạo.
Động viên, khích lệ đồng bào có đạo, không có đạo chung tay xây dựng đất nước, bảo vệ
Tổ quốc. Biện pháp để đồng bào có đạo xích lại gần với chế độ xã hội chủ nghĩa là phải
nâng cao dân trí, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, tăng năng suất lao động,
xây dựng một cuộc sống hạnh phúc ngay ở trần gian.
Bốn là, phân biệt rõ mối quan hệ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo.
+ Mặt tư tưởng thể hiện trong tín ngưỡng tôn giáo và thực hành các lễ nghi tôn
giáo đúng qui định
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
181
+ Mặt chính trị thể hiện việc sử dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội của một số phần tử đội lốt tôn giáo. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản
động trong tôn giáo đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác và là một nhiệm vụ thường xuyên.
Trong cuộc đấu tranh này, cần phải thận trọng, tránh nôn nóng, vội vàng. Quá trình đấu
tranh cần phải đạt được những yêu cầu chính sau đây:
+ Đoàn kết rộng rãi đồng bào có đạo và không có đạo vì mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội.
+ Chăm lo phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, giải quyết các mối quan hệ xã hội
một cách hài hoà.
+ Phát huy tinh thần yêu nước, thương dân, "chuyên cần việc đạo" của các vị chức
sắc tôn giáo.
+ Kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng, đi ngược
lại lợi ích của nhân dân và dân tộc.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Những thời kì
lịch sử khác nhau, vai trò của tôn giáo, giáo hội, giáo sĩ, giáo dân luôn có sự khác biệt. Vì
vậy, cần có thái độ với tôn giáo trên quan điểm lịch sử cụ thể bởi vì trong lịch sử đã xuất
hiện những tôn giáo khi mới ra đời gắn với một phong trào bảo vệ nhân dân lao động. Về
sau biến thành công cụ của giai cấp thống trị chống lại người lao động. Thực tế có những
giáo sĩ suốt đời chuyên cần việc đạo, đồng hành với dân tộc, nhưng cũng có những người
hợp tác với các thế lực thù địch chống phá cách mạng. Trong lịch sử xuất hiện nhiều vị
"chân tu", nhưng đồng thời cũng có những người sẵn sàng hi sinh quyền lợi của Tổ quốc,
của nhân dân vì lợi ích của giáo hội và cá nhân. Những biểu hiện đó đòi hỏi nhà nước xã
hội chủ nghĩa cần xem xét vấn đề tôn giáo một cách tỉ mỉ, thận trọng, tránh khuynh
hướng "tả" hoặc "hữu" trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh từ tôn giáo.
Câu hỏi ôn tập:
1. Phân tích những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN?
2. Phân tích những đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước XHCN?
3. Những nội dung, phương hướng xây dựng gia đình văn hóa XHCN?
4. Phân tích những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giải quyết
vấn đề dân tộc?
5. Phân tích những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giải quyết
vấn đề tôn giáo?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro