Chuong 7 May lam be tong
CHƯƠNG VII: MÁY LÀM BÊ TÔNG
§ 7.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ MÁY LÀM BÊ TÔNG
Máy làm bê tông là tên gọi chung cho các loại máy móc và thiết bị phục vụ công tác làm bê tông theo tông công đoạn: cân đong phối liệu, nhào trộn hỗn hợp bê tông, vận chuyển hỗn hợp bê tông tới nơi thi công, đổ bê tông, đầm bê tông và kiểm tra chất lượng bê tông. Cụ thể là các nhóm máy sau:
1) Thiết bị cân đong phối liệu
2) mỏy trộn bờ tông.
3) mỏy vận chuyển bờ tông
4) máy đổ bê tông
5) máy đầm bê tông
6) máy kiểm tra chất lượng bê tông (súng bắn bê tông).
§ 7.2.MÁY TRỘN BÊ TÔNG & THIẾT BỊ ĐỊNH LƯỢNG PHỐI LIỆU
I) PHÂN LOẠI :
Máy trộn bê tông được phân loại theo các dấu hiệu sau:
- Theo nguyên lý trộn
- Theo chế độ làm việc
- Theo khả năng di chuyển
- Theo phương án đổ bê tông thành phẩm ra.
1) Theo nguyên lý trộn: máy trộn bê tông được chia làm 02 nhóm:
a) Nhóm trộn rơi tự do (hình 7.1.a): Máy trộn bê tông rơI tự do gồm có thùng chộn nghiêng quay chậm, trên thành bên trong của thùng có gắn các lưỡi xẻng. Các lưỡi xẻng này khi thùng trộn quay sẽ xúc phần hỗn hợp vật liệu dưới đáy thùng và nâng nó lên cao dần, sau khi qua vị trí cao nhất vật liệu lại được đổ xuống dưới và do đó mà sảy ra quá trình trộn. Vận tốc quay của thùng trộn không được vượt quá 30 vòng/phút (vì nếu vận tốc lớn hơn lực ly tâm sẽ ảnh hưởng tới sự rơi tự do của phối liêu) và chỉ trộn được những loại bê tông mác thấp M £ 300 tuy nhiên đường kính phối liệu cho phép d £ 150 mm.
Hình 7.1.Nguyên lý cấu tạo máy trộn tự do & cưỡng bức
a) trộn tự do; b) trộn cưỡng bức loại thùng đứng yên trục quay nằm ngang; c) trộn cưỡng bức, trục đứng và quay ngược chiều với thùng trộn; d) trộn cưỡng bức với hai trục nằm ngang; 1 – thùng trộn; 2 – cánh trộn.
b) Nhóm trộn cưỡng bức (hình 7.1.b): ở đây các cánh trộn (xẻng) 2 được gắn với trục trộn nằm ngang hay thẳng đứng quay cưỡng bức, do vậy phối liệu được nhào trộn mãnh liệt trong thùng 3 theo các quỹ đạo khác nhau. Thùng trộn 3 có thể quay theo chiều ngược lại hoặc đứng yên. Loại này có thể để dùng trộn các loại bê tông ít dẻo, khô và bê tông hạt nhỏ. Nhĩa là, đối với những loại hỗn hợp bê tông mà máy trộn bê tông rơi tự do không thể đảm bảo được mức độ đồng đều ngay cả khi kéo dài thời gian trộn, tuy nhiên đường kính phối liệu chỉ cho phép d £ 70 mm.
2) Theo chế độ làm việc: máy trộn bê tông được chia thành 02 nhóm sau:
a) máy trộn bê tông làm việc theo chu kỳ : trộn từng mẻ một. Quá trình trộn bê tông thực tế chỉ chiếm 2/3 thời gian làm việc của máy, 1/3 thời gian còn lại dùng để cấp phối liệu và đổ bê tông thành phẩm ra. Loại này làm việc với năng suất thấp phù hợp với các công trình nhỏ lẻ.
b) Máy trộn bê tông làm việc liên tục: là loại máy mà việc cấp phối liệu và lấy bê tông thành phẩm ra được thực hiện đồng thời và liên tục. Loại này có cấu tạo phức tạp, cồng kềnh nhưng có năng suất cao thường được dùng cho các nhà máy, các trạm trộn bê tông .
3)Theo khả năng di chuyển: có 02 loại:
- loại tĩnh tại (cố định)
- loại di động (tự hành hoặc có thể kéo đi được)
4) Theo phương pháp đổ bê tông: (hình 7.2)
a. Đổ lật úp (hình 7.2.a).
b. Đổ bằng máng (hình 7.2.b).
c. Đổ bằng cách nghiêng và quay (hình 7.2c).
Hình 7.2: Các phương pháp đổ bê tông ra
a) Đổ lật úp; b) Đổ bằng máng; c) Đổ bằng cách nghiêng và quay
II) CÁC LOẠI MÁY TRỘN BÊ TÔNG LÀM VIỆC THEO CHU KỲ:
1) Máy trộn rơi tự do làm việc theo chu kỳ (Hình 7.3):
Các loại máy máy này thường sản xuất bê tông có độ sụt từ 5 – 15 cm với dung tích một mẻ trộn là 65, 165, 330, 500, 800, 1000, 1600, 2000, 3000 lít.
Sơ đồ cấu tạo chung và hệ thống chuyền động của loại máy trộn tự do kiểu lật đổ (hình 7.3).
Động cơ số 6, qua hộp giảm tốc 13 truyền mô men xoắn tới bánh răng hình nón số 14 và truyền động xích số 10. Bánh răng hình nón số 14 quay ăn khớp với vành răng 12 gắn trên thùng trộn số 2 làm cho thùng trộn quay quanh trục của Y- Y của nó (nghiêng 450 so với mặt phẳng thẳng đứng để trộn bê tông. Truyền động xích quay làm cho nửa chủ động của li hợp số 5 quay trơn quanh trục 15..
Muốn đổ vật liệu vào thùng trộn, kéo tay đòn A, nó sẽ nới phanh hãm 7 và đóng ly hợp 5 lại, nhờ vậy lực từ b chuyền sang a làm trục 15 quay và cuốn cáp 8 để kéo gầu 3 trượt theo giá dẫn 16 lên dần tới miệng thùng trộn. Khi gầu lên tới đỉnh giá dẫn thì bị chặn lại, gầu bị lật ngược và đổ vật liệu vào thùng trộn.
Muốn giữ cho gầu đứng ổn định ở trên cao trong thời gian đổ phối liệu vào thùng trộn ta gạt tay đòn A sao cho phanh 7 đóng lại, ly hợp 5 mở, như vậy gầu được giữ ổn định trên cao.
Khi cần hạ gầu tiếp liệu xuống ta gạt nhẹ tay đòn A ở vị trí sao cho phanh 7 và ly hợp 5 đều mở lúc đó do tác dụng của trọng lượng bản thân, gầu tự trượt theo giá dẫn xuống dưới.
Muốn lấy bê tông đã trộn ra, ta quay vô lăng B, nhờ truyền động của cặp bánh răng trụ, giá lật 9 quay, làm thùng lật úp xuống và đổ bê tông đã trộn ra ngoài.
Loại này có ưu điểm là đổ bê tông ra rất nhanh và sạch, tuy nhiên động tác lật thùng tốn rất nhiều lực đặc biệt là động tác quay thùng ngược lại vị trí cũ, nên loại máy này chỉ được chế tạo với dung tích mẻ trộn nhỏ.
Trên hình 7.3.c là loại máy trộn bê tông rơI tự do kiểu lật đổ với hai hệ thống truyền động riêng (hai động cơ riêng biệt, một động cơ gắn liền với hộp giảm tốc đặt ở giá lật một động cơ khác qua khớp nối trục vít bánh vít để dẫn động gầu nạp liệu). Loại máy này thùng trộn 2 được treo console ở giá lật 9 và được quay qua cụm hộp giảm tốc bánh răng thẳng và bánh răng côn hoặc hộp giảm tốc hành tinh bắt vào đáy thùng trộn.
Hình 7.3. Máy trộn tự do kiểu lật đổ: a) Cấu tạo chung; b) hệ thống truyền đông chung: 1- giá máy; 2 – thùng trộn; 3 – gầu tiếp liệu; 4 – thùng đong nước; 5 – ly hợp; 6 - động cơ điện; 7 – phanh; 8 – cáp kéo gầu; 9 – giá lật; 10 – truyền động xích; 11 – cơ cấu tăng xích; 12 – vành răng; 13 – hộp giảm tốc; 14 – bánh răng nón; 15 – trục dẫn động gầu nạp liệu; 16 – giá dẫn; A - đòn điều khiển kéo gầu; B – vô lăng; C - đòn giật nước; c) hệ thống truyền động riêng gồm: I – cụm dẫn động gầu nạp; II – cụm dẫn động quay thùng.
Trên hình 7.4 thể hiện loại máy trộn bê tông có cốt liệu tới 120mm. Máy gồm giá đỡ 5, thùng trộn 2 trong có lắp các cánh trộn, động cơ điện 3, xi lanh khí ép nghiêng thùng 4 và vành 1. Từ động cơ điện qua khớp nối 14 (hình 7.4.b) trục bánh răng 15, các bánh răng 16, 17, 18 truyền mô men xoắn tới bánh răng 13 và vành răng 11 của thùng trộn. Để nghiêng thing đổ bê tông thành phẩm ra ngoài và đưa thing về vị trí ban đầu người ta dùng hệ thống khí nén gồm xi lanh 9, van phân phối 8, lọc khí bằng dầu 7, khoá 6 và bộ phận đóng mở 9. Thùng trộn khi quay tỳ vào các con lăn đỡ. Các con lăn này quay trong ổ 10 và 12.
Hình 7.3. Máy trộn tự do kiểu lật đổ bằng khí nén:
a) Hình tổng thể; b) Sơ đồ động học
2) Máy trộn bê tông cưỡng bức làm việc theo chu kỳ:
Loại này được chế tạo với dung tích một mẻ trộn là 65, 165, 330, 500, 800, 1000, 1600, 2000, 3000 lít với sản phẩm là bê tông các loại mác khác nhau, thường lắp đặt tại các xưởng bê tông đúc sẵn và các trạm trộn bê tông thương phẩm.
Trên hình 7.5 là sơ đồ động học của máy trộn bê tông cưỡng bức hoạt đông theo chu kỳ, nó bao gồm động cơ điện và hộp giảm tốc 1, qua khớp nối 2 làm quay rotor 7. Trên rotor 7 có lắp các tay và cánh trộn, bộ phận an toàn để tránh bị kẹt khi trộn. Vật liệu được nạp qua ống nạp ở nắp thùng, xả bê tông qua cửa đáy thùng trộn. Để đóng mở cửa đáy thùng, dùng khí ép dẫn qua khoá 5 và van phân phối 4 tới xi lanh khí ép 6. Để giảm ồn có lắp thêm bộ tiêu âm 3.
Việc chất tải vào thùng chỉ thực hiện khi rotor đang quay. Cốt liệu, xi măng và nước được đưa vào thùng trộn theo một tỷ lệ đã được xác định.
Sau khi hỗn hợp đã được nhào trộn đồng nhất ta cho xả ra ngoài bằng cách mở cửa đáy.
Hình 7.5. Sơ đồ động học của máy trộn bê tông cưỡng bức, hoạt đông theo chu kỳ
III)MÁY TRỘN BÊ TÔNG LÀM VIỆC LIÊN TỤC
Máy trộn bê tông làm việc liên tục thường có nguyên lý trộn cưỡng bức và dùng để lắp đặt cho các trạm hay nhà máy sản xuất bê tông tươi với sản lượng cao.
Trên hình 7.6 là cấu tạo chung của máy trôn bê tông hoạt đông liên tục. Máy gồm hệ dẫn động, thùng trộn và bộ phận công tác gồm hai trục có mang các cánh trộn.
Hệ dẫn động gồm động cơ 1, bộ truyền đai 2, hộp giảm tốc 3, cơ cấu nối bù trừ 4 và bộ truyền bánh răng 5.
Hình 7.6. Máy trộn bê tông cưỡng bức hoạt động liên tục
Thùng trộn nằm ngang có hình lòng máng.
Bộ phận công tác gồm hai trục 10 có gắn các cánh trộn 7. Phần cuối cánh trộn có lắp các tấm đảo 8 có thể thay thế được. Các cánh trộn được đặt lệch một góc 450 so với trục trộn. Giữa các bộ cánh có ống chặn 9. Các trục được quay trong ổ đỡ 11 và 12. Nhờ có bộ truyền bánh răng 5 các trục quay đồng bộ ngược chiều nhau. Vật liệu được đưa liên tục qua cửa 6, được các cánh nhào trộn và đẩy dọc theo thùng trộn tới cửa xả. Các cánh trộn được bố trí sao cho các dòng vật liệu được nhào trộn mãnh liệt theo phương ngang, còn theo chiều dọc trục lại di chuyển tương đối chem, do vậy vật liệu được trộn đều.
Các loại máy trộn này được dùng để sản xuất bê tông linh động có cột liệu tới 40mm.
Ngoài máy trộn bê tông cưỡng bức hoạt động liên tục còn có máy trộn bê tông tự do hoạt động liên tục, trong đó vật liệu trộn tự do trong thùng trộn quay tỳ trên các con lăn đỡ. Vật liệu được đưa liên tục vao một đầu, còn bê tông thành phẩm cũng cho ra liên tục ở đầu kia.
Truyền động đai 2 có tác dụng chống quá tải khi các cánh bị kẹt.
IV.THIẾT BỊ ĐỊNH LƯƠNG PHỐI LIỆU
Chế tạo hỗn hợp bê tông không thể bỏ qua giai đoạn cân đong các thành phần của chúng.
Để định lượng phối liệu người ta làm bằng 02 cách:
- Định lượng phối liệu bằng thể tích: độ chính xác thấp vì khối lượng riệng của cát, xi măng thường phụ thuộc đáng kể vào độ ẩm và độ nén chặt. Tuy nhiên định lượng bằng thể tích lại đơn giản nên được sử dụng rộng rãi cho các máy trộn hoạt động theo chu kỳ tại các công trường.
- Địnhlượng phối liệu bằng trọng lượng: Có độ chính xác cao (đảm bảo được chất lượng và mác cho bê tông) nên được sử dụng nhiều cho các trạm và nhà máy sản xuất bê tông.
Dưới đây ta nghiên cứu sơ đồ cấu tạo và nguyên lý hoạt động của thiết bị định lượng phối liệu bằng trọng lượng dùng cho các loại máy bê tông làm việc liên tục (hình 7.7).
Bằng cách xê dịch đối trọng 7 có thể chỉnh sao cho kim gắn ở đầu đòn bẩy 6 chỉ đúng mức chuẩn 8 trên cân và thiết bị định lượng bắt đầu hoạt động. Qua phễu 1 phối liệu được cấp vào máng rung 2 (ở đây cường độ rung của máng điều chỉnh cường độ chảy của phối liệu từ máng 1 xuống) qua băng tải cân phối liệu 4 để xuống băng tải chung và chảy vào cửa nạp phối liệu của trạm trộn bê tông liên tục. Giả sử vì lý do nào đó phối liệu rơi xuống băng tải cân 4 lớn hơn định mức sẽ làm cho băng này nặng hơn đẩy hai điểm B – B xuống phía dưới khiến cho hai điểm C & D bị đẩy lên phía trên, kéo theo cả đòn bẩy 6 & lõi bộ cảm biến 9 gây ra hiện tượng sụt điện áp trong hộp điều chỉnh tự động 10, kết quả là bộ rung 3 sẽ rung với biên độ nhỏ hơn (vừa đúng mức cần thiết) nói cách khác là máy tự động giảm tốc độ cấp phối liệu.
Nếu phối liệu rơi xuống băng tải cân 4 ít hơn định mức sẽ gây ra hiện tượng ngược lại.
Sai số của thiết bị định lượng loại này là ± 2% đối với cát sỏi, còn đối với đá dăm là ± 3% còn để định lượng nước ta dùng đồng hồ đo lưu lượng nước.
Hình 7.7 Sơ đồ thiết bị định lương phối liệu (loại hoạt động liên tục):
1 - phễu chứa phối liệu; 2 máng rung; 3 - bộ phận gây rung; 4 – băng tải cân vật liệu; băng tải chung cho các lọai phối liệu dẫn vào thùng trộn; 6 – đòn bẩy; 7 - đối trọng di động; 8 - mức chuẩn về trọng lượng phối liệu trên băng tải cân; 9 - bộ cảm biến điện từ; 10 - bộ điều chỉnh tự động
II)NĂNG SUẤT MÁY TRỘN BÊ TÔNG
1. Máy trộn bê tông theo chu kỳ:
Ns= Vxl.nck.Ktg, (m3/h)
Trong đó: Vxl - thể tích xuất liệu của thùng trộn (thể tích bê tông thành phẩm trộn được trong một mẻ trộn), m3 và được xác định theo công thức sau:
Vxl = Vsx.Kxl = (0,3 – 0,4)Vhh.Kxl, (m3)
Vsx - thể tích sản xuất của thùng trộn, m3
Vhh - thể tích hình học của thùng trộn, m3
Kxl - hệ số xuất liệu trong đó = 0,65 ¸0,7 đối với bê tông và = 0,8 đối với vữa
nck - số mẻ bê tông được sản xuất trong 01 giờ nck = 3600/tck
tck - thời gian một mẻ trộn, s:
tck = tđổ phối liệu vào+ ttrộn + tđổ bê tông ra
Ktg - hệ số sử dụng thời gian của máy trong một ca = 0,8 – 0,9
2. Máy trộn liên tục:
Ns = 60n.S.t.K1.K2.Kxl, (m3/h)
Trong đó: n – là vận tốc quay của trục trộn (v/ph);
S - tiết diện dòng vật liệu di chuyển trong thùng trộn (m2),
S = (0,28 ±0,34)pd2/4
d - đường kính quỹ đạo hình tròn của cánh trộn, m
t – là khoảng cách giữa các cánh trộn theo chiều dọc trục, m
K1 và K2 – các hệ số có xét đến tác động ngăn cản chuyển động của dòng vật liệu trong thùng trộn do tính không liên tục của các cánh trộn và do ma sát giữa vật liệu và các chi tiết tiếp xúc với vật liệu K1.K2 = 0,5
§ 7.2. MÁY VẬN CHUYỂN BÊ TÔNG
I. MÁY VẬN CHUYỂN BÊ TÔNG TRONG PHẠM VI CÔNG TRÌNH:
Để vận chuyển bê tông trong phạm vi công trình có thể dùng nhiều loại phương tiện khác nhau như cần trục, vận thăng , xe cút kít... vv. Nhưng ở đây ta chỉ xét các phương tiện chuyên dùng để vận chuyển bê tông, cụ thể là các loại máy bơm bê tông. Máy bơm bê tông để vận chuyển bê tông linh động (thường có độ sụt trên 12 cm) theo đường ống dẫn có thể đi xa tới 500m hoặc lên cao tới 70m. Nếu muốn bơm đi xa hoặc cao hơn nữa cần phải lắp các bơm nối tiếp nhau. Bơm bê tông còn dùng hiệu quả cho bơm vữa xây dựng.
1. Phân loại:
a. Theo nguyên lý làm việc: Có hai kiểu là làm việc liên tục (kiểu rô to ống mềm) và theo chu kỳ (kiểu piston).
b. Theo kiểu dạng dẫn động: Có hai kiểu là cơ khí và thuỷ lực
c. Theo tính cơ động: Gồm tĩnh tại và cơ động.
2. Các loại bơm bê tông:
Sau đây ta xét đên những loại thông dụng thường dùng trong xây dựng dân dụng và công nghiệp
a) Máy bơm bê tông dẫn động cơ khí: có năng suất kỹ thuật: 10, 20, 40 m3/h; cự ly bơm tới Lmax = 300m; độ cao bơm Hmax = 50m. trên hình 7.8 là sơ đồ cấu tạo và nguyên lý làm việc của loại bơm này.
Máy bơm hoạt động nhờ một động cơ đốt trong chung cho cả hai cơ cấu điều khiển pittông và điều khiển van. Trục khuỷu 10 quay với vận tốc 42 ± 50 v/ph, mỗi vòng quay tương ứng với một lần bơm. Khi piston chuyển động sang trái (hình 7.8.b) thì van 4 mở cho bê tông tụt xuống đầy xi lanh7, van 6 đóng lại để bê tông trong đường ống không bị hút ngược trở lại. Động tác bơm bê tông được thực hiện khi pittông 8 chuyển đông sang phải (hinh 7.8.c). Lúc này van 4 đóng lại để bê tông không bị đẩy ngược lên trên, van 6 mở cho bê tông được nhồi vào ống. Để không bị mòn quá nhanh các van 4 và 6 không đóng kín hoàn toàn. Kích thước khe hở của các van được điều chỉnh bằng kích thước lớn nhất của đá dăm trong bê tông (không quá 40 mm đối với loại máy bơm nhỏ nhất có đường kính trong của ống dẫn Ø150mm và không quá 120mm đối với máy bơm lớn nhất có đường kính ống Ø280).
Hình 7.8. Máy bơm bê tông dẫn động cơ khí:
a) hình dáng bề ngoài; b, c) sơ đồ nguyên lý hoạt động: 1 – phễu chứa bê tông; 2 – cánh trộn bê tông; 3 – van hút; 5 – ống dẫn bê tông; 6 – van đẩy; 7 – xi lanh bơm; 8 – piston bơm; 9 – thanh truyền; 10 – trục khỷu; 11 – cơ cấu lệch tâm; 12 – thanh rằng điều khiển van đẩy 6 và van hút 4; s – hành trình của piston.
Máy có thể dùng để bơm vữa bê tông, để bơm vữa cần điều chỉnh các van 4 và 6 sao cho khi đóng phải kín hoàn toàn.
ống dẫn bê tông 5 làm bằng thép, được nối từ các đoạn có chiều dài 1 hoặc 3m, có các cút nối 300; 450; 900 để nối. Đường kính trong của ống dẫn ỉtrong = 150 ữ 280m
b) Máy bơm bê tông dẫn động thuỷ lực: Loại này có năng suất kỹ thuật từ 5 ÷ 65 m3/h; cự ly bơm tới Lmax = 400m; độ cao bơm Hmax = 80m. Phổ biến hiện nay dùng bơm hai piston thuỷ lực có cửa van hình chữ S (hình 7.9).
a)
Hình 7.9: Sơ đồ cấu tạo máy bơm hai piston thuỷ lực:
a) Sơ đồ cấu tạo; b) Nguyên lý làm việc của van chữ S,
Van ống hình chữ S có nguyên lý hoạt động như sau:
Van chữ S được bố chí ngay trong khoang nạp 1 của bơm, tâm quay của van trùng với tâm ống dẫn bê tông 4. Tại mỗi chu kỳ làm việc van được lắc một góc nhất định và che kín đường ra của một trong hai xi lanh bơm và được piston của xi lanh đó đẩy hỗn hợp bê tông vào trong ống dẫn, lúc này xi lanh còn lại được nối với khoang nạp 1 để hút bê tông. Ưu điểm chính của loại van này là sự thay đổi hướng chuyển động của hỗn hợp bê tông khi hút và đẩy là ít nhất. Tuy nhiên ở mỗi chu kỳ làm việc van phải đảo và tải theo một khối lượng rất lớn (gồm khối hỗn hợp bê tông có trong van và bản thân khối lượng van), phải thắng lực ma sát vùng làm kín (vùng nối) giữa miệng xi lanh bơm và tại chỗ van nối với đường ống dẫn.
Bê tông sau khi được bơm vào ống được chuyển theo ống dẫn bằng thép và được ghép từ những đoạn ống bằng loại khoá đặc biệt.
Một điều cần lưu ý khí bắc ống dẫn cần đặt thẳng và bằng để tránh tổn thất năng lượng ở những đoạn nối cong và làm mòn ống.
c) Máy bơm bê tông kiểu rotor - ống mềm:
C)
Hình 7.10: sơ đồ bơm bê tông kiểu rotor - ống mềm; a) sơ đồ nguyên lý; b) sơ đồ cấu tạo; c) Mặt cắt bơm kiểu rôto ống mềm
Loại này có năng suất kỹ thuật từ 30 – 70 m3/h; cự ly bơm tới Lmax = 300m; độ cao bơm Hmax = 70m. Trên hình 7.10 là sơ đồ hoạt động của bơm kiểu rotor-ống mềm.
Nguyên lý hoạt động: Rotor 4 quay theo chiều mũi tên nhờ được nối vào trục dẫn động bởi motor thuỷ lực. Trong khi quay các con lăn 2 lần lượt thay phiên nhau đè bẹp đoạn ống sau ống 6, đùn hỗn hợp bê tông sang ống 1. Khi con lăn 2 chạy qua đoạn ống phía sau nó nở to ra như cũ, gây áp xuất âm hút bê tông từ phễu 7 vào đoạn ống này để chờ con lăn kia lăn tới, cứ như vậy hai con lăn số 2 thay nhau đùn bê tông sang ống 1 để đi tiếp.
Ưu điểm: cấu tạo gọn nhẹ, tốn ít năng lượng, dẫn động đơn giản rễ bảo dưỡng sửa chữa
Nhược điểm:
- Chỉ bơm được những loại bê tông tương đối min.
- Ống mềm chóng hỏng, phải thay sau 2000 – 3000 h bơm
Vì lý do nhược điểm đó nên ít được sử dụng
d) Thiết bị bơm bê tông bằng khí nén:
Hình 7.11: sơ đồ Thiết bị bơm bê tông bằng khí nén:
1 – máy nén khí; 2 – ống dẫn khí nén; 3 – bình tích áp; 4 – van điều tiết; 5 – thùng kín chứa bê tông cần bơm; 6 – ống dẫn bê tông; 7 – thùng chứa bê tông.
Loại này có năng suất kỹ thuật từ 5 – 20 m3/h; cự ly bơm tới Lmax = 100m; độ cao bơm Hmax = 40m. Trên hình 7.11 là sơ đồ nguyên lý hoạt động của nó.
Nguyên lý hoạt động: mở nắp thùng 5, đổ bê tông vào rồi đậy kín lại (nắp này có gioăng và bộ phận chốt đảm bảo đậy kín). Ta mở van 4 để xả khí nén vào thùng 5. Dưới áp suất của khí nén khối bê tông sẽ đi theo đường ống 6 chảy tới nơi cần vận chuyển. Tiếp đó lại mở thùng 5 và đổ tiếp bê tông vào thùng để bơm chù kỳ tiếp.
Loại bơm bê tông kiểu này đơn giản rễ bảo dưỡng và sửa chữa tuy nhiên Lmax £ 100m và có năng suất thấp nên ít được sử dụng.
3) Năng suất các loại bơm.
a) Năng suất máy bơm bê tông dùng kiểu piston bơm:
Ns = =
trong đó: n - số lần piston bơm trong 01 phút
d - đường kính piston bơm, m
s – hành trình của piston bơm , m
kđầy - hệ số đầy trong xi lanh piston bơm , kđầy = 0,85 ¸ 0,9;
ktg - hệ số sử dụng thời gian làm việc của 01 ca máy = 0,8 ¸ 0,9;
b) Năng suất máy bơm bê tông dùng kiểu rotor - ống mềm
Ns = 60n...kđầy.ktg, m3/h
trong đó: d - đường kính ống mềm, m
D - đường kính vòng cong trung bình của ống mềm, m
n - số vòng quay của động cơ trong 01 phút
kđầy - hệ số đầy trong ống mềm , kđầy = 0, ¸ 0,8;
ktg - hệ số sử dụng thời gian làm việc của 01 ca máy = 0,8 ¸ 0,9;
a) Năng suất máy bơm bê tông dùng kiểu khí nén
Vs = Vsx.nck.kxl.Ktg, m3/h
trong đó: Vsx - thể tích sản xuất của thùng 5, m3 ; Vsx = 0,25 ¸ 1 m3
nck - số lần bơm trong 01 giờ, nck = 10 ¸ 20
4) Các thông số kỹ thuật cơ bản khi lựa chọn bơm bê tông:
- Loại máy bơm
- Lưu lượng max, м3/h
- Apa lực bơm, bar
- Chiều cao bơm max, м
- Tầm xa bơm max, m
II. Ô tô bơm bê tông
Ô tô bơm bê tông được các hãng trên thê giới sản xuất với rất nhiều chủng loại khác nhau đáp ứng mọi yêu cầu trong thi công từ những môđen nhỏ với nhiều chức năng kết hợp tới các máy có tầm bơm xa lớn. Ô tô bơm bê tông có thể được trang bị các thiết bị phụ trợ để phục vụ công tác thi công trong những điều kiện đặc biệt.
Ô tô bơm bê tông được trang bị máy bơm bê tông van chữ “S” hoặc máy bơm bê tông van chữ “C”. Các máy bơm bê tông này được lắp đặt trên sashy của các xe Mercedes Benz Atego hoặc Actros, MAN, МАЗ (các loại xe khác theo đơn đặt hàng)
Các ô tô bơm bê tông và các thông số kỹ thuật cơ bản:
1bar = 0,987 atm = 1,000.105 Pa, 1Pa = 1N/m2
Thông số kỹ thuật
Loại máy bơm
Lưu lượng
м3/h
Áp lực bơm
Bar
Đường kính xi lanh
мм
Hành trình piston
мм
Chiều cao bơm
м
Tầm xa bơm
м
chiều sâu bơm max
м
Chiều dài đoạn ống phân phối cuối cùng
м
Số lượng đoạn cần phân phối
3 - 5
Kiểu gấp các đoạn cần phân phối
gập cần phân phối kiểu chữ Z, chữ R…vv
Đường kính ống dẫn bê tông
мм
III. Máy bơm bê tông tĩnh tại
Máy bơm bê tông tĩnh tại dùng để bơm bê tông cho các công trình có điều kiện đặc biệt khó khăn do quá chật hẹp mà ô tô bơm bê tông khó tiếp cận hoặc khi thi công các sàn cao của nhà cao tầng. Cơ cấu chính của máy bơm bê tông tĩnh tại là bơm bê tông cao áp dạng van chữ “S”, đảm bảo bơm các loại hỗn hợp bê tông nặng nhất.
Máy bơm bê tông tĩnh tại đặt trên giá có bánh xe không dùng để di chuyển trên đường giao thông (đường bộ). Giá có bánh chỉ dùng để di chuyển máy phía trong công trình. Việc di chuyển máy từ công trình này tới công trình kia phải được vận chuyển bằng các loại ô tô tải.
Các thông số kỹ thuật cơ bản khi lựa chọn máy bơm bê tông tĩnh tại:
Thông số kỹ thuật:
Loại máy bơm/ đơn vị
Lưu lượng max
м3/h
Áp lực bơm max
bar
Kích thước hạt cốt liệu max
мм
Chiều cao bơm max
м
Tầm xa bơm max, m
м
Đường kính xi lanh
мм
Hành trình pistông
мм
Công suất động cơ
кw
Kích thước (D х R х C)
Trọng lượng
кg
D - Dẫn động bằng động cơ điêzel
E - Dẫn động bằng động cơ điện
IV. MÁY VẬN CHUYỂN BÊ TÔNG NGOÀI PHẠM VI CÔNG TRƯỜNG:
1. Ô tô tự đổ
Ô tô tự đổ thực ra không phải là phương tiện vận chuyển bê tông, nhưng khi cần vẫn dùng để vận chuyển bê tông, nếu đảm bảo được những điều kiện sau đây:
- nhu cầu lớn (đổ cả xe, không đổ rải rác mỗi nơi một ít);
- khoảng cách vận chuyển không lớn (L £ 10km đối với đường tốt và L £ 3km khi đường xấu);
- thùng xe phải thật kín, không chở đầy (nếu không thì thành phần quý nhất của bê tông là nước xi măng sẽ bị rò rỉ hoặc sánh ra ngoài trong khi xe chạy).
2. Ôtô trộn chở bê tông:
Ôtô trộn chở bê tông dùng để trộn và vận chuyển bê tông với cự ly từ vài km tới vài trục km từ trạm trộn bê tông thương phẩm tới nơi tiêu thụ. Khi vận chuyển bê tông ở cự ly ngắn, người ta đổ bê tông dã trộn vào thùng (75 – 80% dung tích thùng) và cho quay với vận tốc chậm (3 – 4 vòng/phút) để đảm bảo bê tông vân chuyển không bị phân tầng và đông kết. Trong trường hợp này ô tô chỉ làm nhiệm vụ vận chuyển. Khi cần cung cấp đi xa thì người ta đổ cốt liệu khô vào thùng (60 – 70% dung tích thùng) trong khi vận chuyển máy trộn trên xe sẽ quay trộn đều cốt liệu trên xe với nước thành bê tông đồng nhất (tốc độ quay từ 10 – 12 vòng/phút) , tới nơi làm việc chỉ cần đổ ra sử dụng ngay. Trong trường hợp này ô tô vừa làm nhiệm vụ vận chuyển vừa làm nhiệm vụ trộn bê tông.
Về cấu tạo Ôtô trộn chở bê tông (hình 7.12) gồm sashy ô tô 7, giá đỡ thùng trộn 4, thùng trộn 1, thiết bị nạp và xả liệu 2, hệ thống cung cấp nước 3 và bộ truyền động cho thùng trộn 5 cùng cơ cấu điều chỉnh 6. Tất cả các thiết bị này được đặt trên khung và bắt chặt vào sashy ôtô. Trên khung nghiêng 150 đặt thùng trộn tỳ trên 03 điểm: ổ đỡ phía trước và vành tỳ trên 02 con lăn ở phía sau.. Trong thùng trộn đặt hai cánh trộn kiểu vít để trộn bê tông khi thùng quay theo chiều kim đồng hồ và xả khi thùng quay ngược chiều kim đồng hồ nhờ cơ cấu đảo chiều quay bê tông theo máng chảy ra ngoài.
dung tích thùng trộn của các Ôtô trộn chở bê tông hiện nay thường là 2,6; 3,2; 4,0; 7,u và 8m3 tuỳ theo loại sashy ôtô cơ sở.
Hình 7.12: sơ đồ cấu tạo ô tô trộn, chở bê tông
Hình 7.13: sơ đồ cấu tạo ô tô chở bê tông
3. Ôtô trở bê tông: (hình 7.13)
Là loại xe chuyên dùng để trở bê tông ở cự ly không quá 10km. Bê tông thành phẩm được chứa trong thùng chứa bê tông, có hình dạng đặc thù như một cái máng sâu, phần trước to hơn và thấp hơn, phần sau nhỏ hơn và cao hơn. Miêng đổ bê tông ở tư thế nằm ngang của thùng cao hơn cả mức bê tông trong thùng, do đó đảm bảo bê tông không rơi vãi dọc đường. Phía trên thùng có nắp đậy kín để bê tông không ảnh hưởng của nắng, gió hoặc mưa. Vỏ thùng có 02 lớp, trong trường hợp không khí dưới 00c thì khí thải của động cơ sẽ chạy qua khe hở giữa hai lớp vỏ trước khi tới ống xả để sưởi ấm bê tông.
Thùng chở bê tông tựa trên một điểm ở giữa xe và 02 lớp bản lề trên khung chịu lực. Hai xi lanh thuỷ lực kiểu ống lồng có thể nâng thùng tới 800 để đổ bê tông ra (trong thùng có cơ cấu gõ mạnh vào vỏ thùng để đổ bê tông cho hết sạch). Cấu tạo và hoạt đọng của xe này cũng tương tự như ô tô tự đổ, chỉ khác là thùng chở bê tông có cấu tạo đặc biệt để chuyên chở bê tông. Thể tích hữu ích của thùng Vhữu ích = 1,6 – 4m3.
3. Ô tô chở, trộn và kết hợp bơm bê tông
Ô tô chở, trộn và kết hợp bơm bê tông là sự kết hợp những ưu điểm của ô tô bơm bê tông và ô tô chở, trộn bê tông: chúng vận chuyển và nhào trộn bê tông như một ô tô chở trộn bê tông mà ta thường gặp, còn trên công trường thì chúng lại làm nhiệm vụ của một ô tô bơm bê tông để cung cấp và phân phối hỗn hợp bê tông đã trộn tới những vị trí khác nhau theo yêu cầu trên công trường.
Ưu điểm:
Sử dụng một máy thay vì sử dụng hai máy đồng thời giảm chi phí tổ chức trên công trường xây dựng.
Máy được điều khiển bởi một thợ máy (lái xe).
Xuất lợi nhuận khi đầu tư máy là khá cao khi sử dụng máy trên các công trình nhỏ lẻ, mặt khác máy có thể phục vụ nhiều địa điểm do tính cơ động, đáp ứng yêu cầu của nhiều khách hàng.
Máy có thể thực hiện 4-5 chuyến làm việc trong một ca máy.
Ô tô chở, trộn và kết hợp bơm bê tông của hãng «Putzmeister» LB. Đức được chế tạo với các máy bơm bê tông khác nhau (Q- máy bơm bê tông dạng rotor ống mềm, CS-máy bơm bê tông xi lanh dạng van chữ “S”) Và các bộ cần phân phối có chiều dài khác nhau (21, 24, 26, 28 và 31 м) và đặt trên khung xe các hãng nổi tiếng như MAN 32.364/41 hoặc MB Actros 3235/42 hay 3240/42.
Dưới đây là các thông số kỹ thuật của Ô tô chở, trộn và kết hợp bơm bê tông PUMI 21.67 CS của hãng «Putzmeister» LB. Đức được chế tạo với các thông số kỹ thuật cần lưu ý khi lựa chọn máy thi công:
Bơm bê tông dạng xi lanh PUMI 21.67 CS
Thông số kỹ thuật:
PUMI 21.67 CS
Chiều cao bơm max
20,6 м
Tầm xa bơm max, m
17,2 м
Chiều sâu bơm
11,7 м
Đường kính ống dẫn
100 мм
Kiểu bơm
Bơm bê tông dạng xi lanh CS
Năng suất bơm
56 м3/h
Áp lực bơm max
57 bar
Thể tích thùng trộn
7 м3
Thể tích thùng chứa nước
650 lít
tốc độ quay của thùng trộn
14 v./ph.
§ 7.3. MÁY ĐẦM BÊ TÔNG
I. Khái niệm chung:
Để đầm bê tông, người ta dùng các máy gây chấn động với tần số cao (f = 3000 – 20000 phut-1) và biên độ (A = 0,1 – 7,5mm) làm cho các hạt cát, sỏi, đá dăm và xi măng dần dần sắp chặt lại vào với nhau, đẩy không khí ra ngoài làm cho khối lượng riêng của bê tông tăng lên; đồng thời lực ma sát giữa các hạt phối liệu giảm đi, bê tông lỏng ra đồng nhất hơn và chóng đông kết hơn. Biện pháp đầm bê tông làm tăng khả năng chịu lực lên 10 – 20%, tương đương với việc tiết kiệm 10 – 15% xi măng (khoảng 25 – 35 kg xi măng/1m3 bê tông) so với không đầm .
Tất cả các máy đầm bê tông đều hoạt dộng dựa trên nguyên lý rung. Bộ phận gây rung có thể là vật nặng quay lệch tâm hoặc vật nặng dao động qua lại.
1. Máy đầm bề mặt bê tông:
Thường có ba loại đầm mặt: đầm bàn, đầm thước và đầm điện từ;
a. Máy đầm bàn:
Thường dùng để đầm các khối bê tông có diện tích rộng như nền nhà, sàn, nần đường… Hình chung và sơ đồ kết cấu của đầm bàn dao động tròn (hình) hoặc giao động có hướng (hình 7.14).
Bộ phận gây chấn động là một động cơ điện lồng sóc có vỏ 1, hai đầu trục của rôtor được lắp chặt hai cục lệch tâm 4. Trục được đỡ trên hai ổ trục 3. Khi rôtor quay thì cục lệch tâm quay theo gây ra dao động tròn và truyền tới bàn rung. Nhờ có thể thay đổi trọng tâm của hệ cục lệch tâm nên có thể thay đổi được mômen và lực dao động (hình 7.15).
Hình 7.14: Máy đầm bàn:
a) hình dáng bên ngoài; b) cấu tạo; c) nguyên lý gây rung
Trong nhiều trường hợp do yêu cầu công nghệ lại cần dao động có hướng (như đầm đất tự hành và sàng rung…), vì các khối lệch tâm có khối lượng và kích thước như nhau được bắt đối xứng theo dọc trục và quay với cùng tốc độ ngược chiều nhau nên thành phần nằm ngang của lực ly tâm triệt tiêu nhau, còn lực kích động thay đổi về giá trị và có hướng tác dụng vào vỏ đầm. Nhờ có hai bánh răng giống nhau nên tốc độ quay của các khối lệch tâm cân bằng nhau. Nếu gọi He là chiều sâu hiệu dụng của đầm, thì bàn đầm có He =20 – 30 cm tuỳ theo kích cỡ và công suất của động cơ. Để đầm bê tông phải chú ý chọn cỡ đầm có He lớn hơn chiều dày lớp bê tông cần đầm.
Các loại đầm dẫn động bằng động cơ đốt trong thường dùng để đầm đất đá sỏi nhỏ, đầm bê tông mỏng nhưng rộng như mặt đường, sân bay. Khi di chuyển chúng được đặt lên xe con.
b. Đầm điện từ: có nguyên tắc cấu tạo gần giống như chuông điện (hình 7.16 ). Nó gồm một cuộn cảm 1 với lõi sắt 2, phần ứng là một bàn sắt 3 lồng vào các bu lông có lò so đỡ 4 và cách lõi sắt một khe hở nhỏ. Khi nam trâm hoạt đông sẽ hút và nhả làm rung bàn sắt. Lực trấn động qua lò xo, truyền xuống làm rung bàn đầm. Muốn điều chỉnh biên độ chấn động của đầm chỉ cần vặn bu lông điều chỉnh làm thay đổi khoảng cách giữa lõi sắt và bàn sắt. Loại đầm điện từ có cấu tạo đơn giản và độ tin cậy cao khi làm việc. Chúng được dùng phổ biến để dẫn động cơ cấu nạp liệu, sàng rung và định lượng phối liệu.
Hình 7.16: cấu tạo máy đầm điện từ
c. Bàn rung: thường được dùng trong các sưởng bê tông đúc sẵn có năng suất cao chất lượng đầm tốt. Loại này dùng để đầm cấu kiện bê tông cốt thép toàn khối, đúc ống cống, tấm lát mương thuỷ lợi…Đặc biệt hiệu quả khi đúc các cấu kiện dùng bê tông khô cho phép tháo khuôn ngay. Một số bàn rung còn sử dụng hiệu ứng va rung và đã cho kết quả đáng khích lệ.
2. Máy đầm mặt trong:
Khi đầm trong, quả đầm được đặt sâu trong khối bê tông, thường dùng để đầm các khối bê tông dày, diện tích nhỏ như cột, dầm, móng nhà…Trong trường hợp này xung lượng truyền ngay cho bê tông. Đầm dùi trục mềm được sử dụng rộng rãi nhờ các ưu điểm của nó là gọn nhẹ, hiệu quả truyền năng lượng cao.
a. Đầm dùi trục mềm: được chia ra thành hai nhóm: đầm dùi lắc trong và dầm dùi lắc ngoài (hình 7.17.a, b). Trục 1 qua khớp 2 truyền chuyển động tới quay tới trục 3 có khối lệch tâm 5 tác động lên bề mặt chi tiết 6 lắp trong vỏ đầm 4. Khối lệch tâm 5 gây ra dao động tròn và gây trấn động cho qua đầm. Mối liên hệ giữa vòng quay của trục lệch tâm n và tần số dao động f của đầm như sau (với D và d là đường kính bề mặt lăn tròn, mm, hình 7.17):
- khi lăn ngoài:
f =
- khi lăn trong:
f =
Với tỷ lệ D/d cố định có thể đạt được tần số dao động f cao (f = 1000 – 2000ph-1). Ưu điểm nổi bật của đầm dùi trục mềm là kết cấu đơn giản, gọn nhẹ nhưng cũng có nhược điểm mất mát công suất do ma sát trong trục mềm, bán klính hiệu dụng và năng suất thấp (R = 20 – 40 cm; Ns = 3 – 6 m3/h), truyền dao đông không đuợc xa. Quả đầm của đầm dùi trục mềm nặng từ 1,2 – 8,7 kg.
H×nh 7.17: h×nh d¸ng ngoµi & s¬ ®å cÊu t¹o ®Çm dïi trôc mÒm:
a) l¾c trong; b) l¾c ngoµi; c) nguyªn lý g©y dao ®éng
b. Đầm dùi trục cứng: Để tránh một số nhược điểm trên của đầm dùi trục mềm người ta chế tạo ra đầm dùi trục cứng còn gọi là đầm dùi cán cứng. Đặc điểm chủ yếu của loại này là động cơ 4 và bộ phận gây chấn động đều nằm trong vỏ quả đấm 3. Dây dẫn điện từ ngoài vào được luồn qua cán cứng dùng để điều khiển quả đấm nối với động cơ (hình ).
Hình 7.17: đầm dùi trục cứng
Ưu điểm của đầm dùi cứng là hiệu suất chuyền lực cao, do không dùng trục mềm nên tăng tuổi thọ của máy trong quá trình khai thác vận hành. Với đường kính quả đầm 180mm, công suất động cơ 3Kw và khối lượng tới 250kg chúng làm việc hiệu quả với bê tông nặng có độ sụt 1-3cm, thường dùng phương tiện nâng điều khiển hàng loạt quả đầm một lúc, nên rất phù hợp để đầm khối lượng bê tông lớn có cốt thép tương đối thưa hoặc không có cốt thép.
Hoạt động: Dòng điện đi vào stator làm cho rotor quay khiến cục lệch tâm 2 vừa quay vừa vòng, truyền rung cho ổ lăn 3 làm cho quả đầm rung theo.
So đầm dùi trục mềm thì đầm dùi trục cứng có những ưu điểm sau:
- bán kính hiệu dụng và năng suất cao hơn (Re = 60 – 70cm, ns = 9 – 20 m3/h);
- động cơ điện đặt ngay trong quả đầm nên không bị mất mát công suất;
- đầm được xa.
nhưng có những nhược điểm sau là: nặng nề và có cấu tạo phức tạp.
3. Năng suất máy đầm bê tông:
a. Máy đầm bề mặt:
Ns = F.h.Ktg., m3/h
b. Máy đầm mặt trong:
Ns = p.h.Ktg., m3/h
Trong đó: F - diện tích bàn đầm, m2;
h - chiều dày lớp bê tông được đầm, m;
Re – bán kính hiệu dụng của đầm, m;
t1 - thời gian đầm một chỗ (» 30s)
t2 - thời gian chuyển chỗ đầm (» 10s)
Ktg - hệ số sử dụng thời gian trong một ca (Ktg = 0,8 – 0,9).
§ 7.4 Тhiết bị phun bê tông, thiết bị thi công bê tông trong tuyến tunnel
I. Các công nghệ phun bê tông
1. Mô tả các công nghệ phun bê tông
Khái niệm về công nghệ phun bê tông nói chung được hiểu là công nghệ vận chuyển vật liệu phun (ở đây là bê tông) từ bunke nhận tới vòi phun và sự di chuyển của vật liệu phun từ vòi phun tới bề mặt tiếp nhận. Ta biết rằng có hai công nghệ phun đó là công nghệ phun ướt và công nghê phun khô, hai công nghệ này là hoàn toàn khác nhau bởi các đặc tính cơ lý của hỗn hợp bê tông khô khác hoàn toàn với các đặc tính cơ lý của bê tông ướt và bởi vậy thì việc vận chuyển chúng cũng như sự phun sau vòi phun là hoàn toàn khác nhau.
2. Hai công nghệ phun bê tông và các phương án truyền động
Kiểu phun - sản phẩm hỗn hợp
Phương pháp vận chuyển
Công tác phun – vòi phun
Phun khô – bê tông
Phun khô – vữa ướt
Truyền động khí nén (bơm rôto ống mềm)
Trộn trong vòi phun hoặc ngay phía trước vòi phun giữa hỗn hợp bê tông khô với:
- Nước;
- Phụ gia (cố kết nhanh).
Phun ướt - bê tông
Phun ướt - vữa ướt
Dẫn động thuỷ lực (bơm pittông)
Trộn trong vòi phun hoặc ngay phía trước vòi phun giữa hỗn hợp bê tông khô với:
-Khí áp suất cao;
- Phụ gia (cố kết nhanh).
Truyền động khí nén (bơm rôto ống mềm)
Trộn trong vòi phun hoặc ngay phía trước vòi phun giữa hỗn hợp bê tông khô với:
-Khí áp suất cao;
- Phụ gia (cố kết nhanh).
3. Ưu, nhược điểm của từng công nghệ
Cả hai phương pháp phun bê tông kể trên đều có những ưu điểm của mình, những ưu điểm được thể hiện trong các điều kiện ứng dụng cụ thể. Dưới đây ta liệt kê sơ lược so sanh giữa hai phương pháp phun khô và phun ướt.
Phun khô
Phun ướt
Gây bụi
Cao
Thấp
Sự bật lại của vật liệu phun:
Cao
Thấp
Năng suất
Thấp
Cao
Năng suất nhỏ
Dùng cho:
↓
Các tunnel có mặt cắt nhỏ
Năng suất cao Dùng cho:
↓
Các tunnel có mặt cắt lớn
II. Công nghệ phun ướt và thiết bị công nghệ phun ướt
Để phun ướt thường người ta sử dụng truyền đông thuỷ lực nhờ tác dụng của các bơm pittông. Ngoài ra trên thực tế người ta để phun ướt còn sử dụng truyền động khí nén với sự kết hợp với các loại bơm rôto ống mềm.
Khi ứng dụng truyền động thuỷ lực để vận chuyển bê tông người ta thường sử dụng các máy bơm hai pittông. Hỗn hợp bê tông ướt được đưa vào bunke của máy bơm và được bơm đi theo các ống cứng và các ống mềm tới vòi phun. Công nghệ phun yêu cầu cần phải giảm độ rung tới mức thấp nhất trong quá trình vận chuyển với mục đích đảm bảo sự phun được liên tục tại vòi phun. Để đạt được mục tiêu trên người ta sử dụng nhiều phương pháp để tăng hệ số đầy của xi lanh bơm, cũng như giảm thời gian đóng mở của các van điều khiển.
Truyền động thuỷ lực bơm bê tông ướt trong công nghệ phun ướt
Nhờ máy nén khí, không khí có áp suất cao từ máy nén khí được dẫn theo một đường ống dẫn riêng tới vòi phun. Nhờ máy bơm dung dịch phụ gia, dung dịch phụ gia được dẫn theo một đường ống dẫn riêng tới vòi phun. Tỷ lệ giữa phụ gia và bê tông đưa tới vòi phun luôn được đảm bảo đúng như thiết kế nhơ sự hoạt động tương thích giữa hai bơm.
Để vận truyển bê tông ướt bằng truyền động khí nén người ta sử dụng loại bơm rôto ông mềm loại đặc chủng.
Truyền động khí nén vận chuyển bê tông ướt trong công nghệ phun ướt
Ưu điểm:
Công nghệ phun ướt có hàng loạt các ưu điểm nổi trội và là phương pháp phun bê tông hiện đại, năng suất cao.
Trong số những ưu điểm nổi trội đó có thể kể đến những ưu điểm chính dưới đây:
- Tăng năng suất bơm phun bê tông (Trong những trường hợp đặc biệt năng suất của công nghệ này có thể đạt tới 25 м3/h);
- Giảm lượng bê tông không dính bật lại và đi cùng với nó là tăng hiệu suất phun(tới bốn lần);
- Cải thiện điều kiện làm việc của công nhân nhơ giảm lượng bụi tạo ra trong quá trình phun;
- Giảm độ mài mòn của các thiết bị phun;
- Nhu cầu khí nén giảm khi sử dụng truyền động thuỷ lực để vận chuyển bê tông;
- Nâng cao chất lượng bê tông (Tỷ lệ nước/xi măng + phụ gia luôn ổn định).
- Cường độ bê tông sau khi cố kết của công nghệ phun ướt cao hơn so với bê tông của công nghệ phun khô nếu cùng một ty lệ cấp phối.
- Thời gian làm việc của bê tông này cũng lâu hơn so với bê tông của công nghệ phun khô nếu cùng một ty lệ cấp phối.
Khi thi công bằng công nghệ phun ướt thì những công việc đầu tiên là trộn, cung cấp bê tông tươi tới máy bơm và công đoạn cuối (vệ sinh làm sạch thiết bị và ông dẫn là những công việc nặng nhọc nhất), so với công nghệ phun khô. Ngoài ra trong công nghệ phun ướt thời gian phun bê tông phải nằm trong giới hạn cho phép tránh bê tông bị cố kết dẫn tới bê tông không được sử dụng gây lãng phí.
Thiết bị công nghệ phun ướt:
Công nghệ phun ướt có thể được thực hiện bằng phương pháp thủ công (công nhân cầm vòi phun hướng vào vách hầm), và bằng phương pháp cơ giới hoá (vòi phun được đặt trên tay máy phun). Phương pháp phun ướt cơ khí hoá có năng suất cao, phù hợp cho các tunnel có gương đào lớn. Các máy phun bê tông ướt thường dùng máy bơm bê tông dẫn động thuỷ lực dạng van chữ “S” với hai xi lanh bơm. Với loại máy bơm này, một yêu cầu cần phải lưu ý là phải bào đảm bơm đều với mục đích làm cho lượng bê tông lên mặt phun đều bằng phẳng.
Bơm bê tông loại hai xi lanh của hãng Putzmeister LB. Đức
Giới thiệu sơ bộ nguyên lý hoạt động của máy bơm bê tông dẫn động thuỷ lực loại hai xi lanh của hãng Putzmeister LB. Đức
Loại máy bơm này được dẫn động bằng thuỷ lực. Hệ thống phát lực của hệ thống thuỷ lực là động cơ điện hoặc động cơ điêzel. Bê tông được bơm đi nhờ hai xi lanh với hai pittông tác dụng ngược chiều nhờ hai xi lanh thuỷ lực giống hệt nhau dẫn động và tác dụng ngược chiều.
Thiết bị phun bê tông Sika-PM702
Chi tiết chính trong bơm bê tông này là van chữ “S”. Van chữ “S” nằm trong bunke nhận bê tông, nó có thể quay quoanh khớp quay trên thành của bunke, khớp này cũng được ghép cố định với đường ống dẫn bê tông – tâm quay của van chữ “S” trùng với tâm của khớp này và tâm của ống dẫn bê tông.Bê tông trong bunke vừa đủ ngập miệng các xi lanh bơm, van chữ “S” lần lượt quay và ôm vào miệng xả của các xi lanh, các xi lanh tác dụng ngược chiều ví dụ: khi van chữ “S” ôm lấy miệng của xi lanh 1 lúc xi lanh này đẩy bê tông. Pittông của xi lanh này di chuyển từ sau ra trước để đẩy bê tông ướt có sẵn trong xi lanh qua van chữ “S” tới ống dẫn để đẩy đi, đồng thời lúc đó pittông của xi lanh thứ 2 di chuyển từ phía trước ra phia sau để hút bê tông trong bunke vào trong lòng xi lanh kết thúc nửa chu kỳ này van chữ “S” xoay và ôm vào miệng của xi lanh 2 và một nửa chu kỳ sau lại bắt đầu tức là pittông của xi lanh 2 di chuyển từ sau ra trước để đẩy bê tông ra khỏi xi lanh và van chữ “S”, pittông của xi lanh 1 di chuyển từ trước ra sau để hút bê tông trong bunke vào trong lòng xi lanh cứ như vậy bê tông được liên tục hút vào và liên tục bị đẩy đi qua và chữ “S”.
Máy bơm bê tông hầm lò loại BSM 1002 E Elefantino
Chi tiết chính trong bơm bê tông này là 2 xi lanh thuỷ lực dẫn động, 2 xi lanh bơm bê tông, giữa hai cụm xi lanh này là hộp số thuỷ lực, bunke chứa bê tông có cánh đảo và van bánh răng với các xi lanh thuỷ lực dẫn động đóng mở van này
Tổ hợp phun bê tông cơ khí tự hành Sika-PM500
Cùng với sự phát triển như vũ bão của các công nghệ thi công xây dựng, công nghệ phụt vữa cũng ngày càng hoàn thiện đặc biệt trong công nghệ thi công tunnel (tuyến ngầm) công nghệ này là một phần không thể thiếu trong cơ giới hoá và tự động hoá trong thi công tuyến ngầm.Khi thi công tunnel ngầm bằng phương pháp tổ hợp khiên đào lò, tuỳ thuộc vào điều kiện địa chất nơi công trình đi qua mà người ta sử dụng các phương pháp đào, phương pháp bảo vệ gương đào cũng như sử dụng công nghệ phun bê tông để gia cố lần đầu vách lò. Thiết bị để phun bê tông đương nhiên phải thay đổi cho phù hợp với điều kiện, yêu cầu và có thể được lắp trực tiếp lên tổ hợp khiên đào tunnel. Trong trường hợp này cả thiết bị phụt bê tông chở thành một phần không thể tách rời khỏi tổ hợp với sự đồng bộ hoàn toàn trong tất cả các công đoạn thi công và điều khiển.
Thiết bị định lượng
Để trộn phụ gia vào bê tông cần phun (Phụ gia cố kết nhanh) người ta sử dụng thiết bị định lượng phụ gia đặc chủng. Để đảm bảo lượng phụ gia theo thiết kế tức là tỷ lệ phụ gia trên một lưu lương bê tông là không đổi thì thiết bị định lượng phụ gia phải hoạt động đồng bộ với máy bơm bê tông. Ngoài ra thiết bị định lượng phải có dải lưu lượng sao cho đảm bảo đủ phụ gia khi máy bơm bê tông hoạt động với năng suất max và năng suất min.
Giới thiệu sơ bộ chức năng và nguyên lý hoạt động của thiết bị định lượng phụ gia cố kết nhanh trong máy phun bê tông nhãn hiệu Aliva.
Dung dịch phụ gia cố kết nhanh được dẫn vào bơm của thiết bị định lượng phối liệu qua ống dẫn mềm. Một ống mềm đặc chủng được lắp bên trong một vành cố định của máy bơm, hai con lăn quay quoanh trục của mình và quay cùng rôto trung tâm ép lên ống mềm, nhờ chuyển động này của con lăn mà phụ gia phía trong ống mềm được ép đẩy vào ống dẫn để đi tiếp. Trong trường hợp cần thiết thì phụ gia được pha với nước hoặc cùng không khí để bơm đi. Một rơ le (đát chích) áp suất được lắp trong hệ thống để phòng ngừa đường ống tắc nghẽn gây quá tải cho máy bơm và hệ thống ống dẫn.
Mặt cắt bơm định lượng phụ gia kiểu rôto ống mềm
Aliva-403.5
III.Công nghệ phun bê tông khô
Khi sử dụng công nghệ phun khô thì hỗn hợp bê tông khô được đẩy đi nhờ khí nén (Truyền động khí nén). Thường thì việc vận chuyển hỗn hợp bê tông khô được thực hiện với máy bơm nhờ máy bơm kiểu rôto. Hỗn hợp bê tông khô được đổ vào bunke sau đó vào khoang chứa của rôto có kết cấu dạng thùng quay.Từ khoang chứa này nhờ không khí có áp suất và vận tốc cao hỗn hợp bê tông khô được thổi đi qua các ống mềm hoặc ống cứng để tới vòi phun.
Bơm định lượng chất phụ gia + nước cũng đưa chất phụ gia và nước tới vòi phun theo một đường ống riêng. Khối lượng chất phụ gia + nước do bơm định lượng cung cấp luôn luôn tỷ lệ thuận với khối lượng bê tông khô sao cho tỷ lệ phụ gia/bê tông không đổi nhờ sự làm việc đồng bộ của cả hai bơm. Hỗn hợp bê tông, phụ gia và nước được nhào trộn trong vòi phun để tao ra bê tông ướt và được đẩy đi nhờ khí nén để phun vào bề mặt gương lò cần phun.
Ưu điểm:
Ưu điểm của công nghệ phun khô là tính thông dụng của nó. Công nghệ này là công nghệ truyền thống được sử dụng từ lâu và trên khắp thế giới. Công nghệ phun bê tông khô được đặc chưng bởi:
- Cường độ bê tông lúc đầu khá cao;
- Hỗn hợp bê tông khô để phun có thể được bảo quản lâu mà vẫn dùng được;
- Không có bê tông thừa như trong công nghệ phun ướt.
Nhược điểm:
- Lượng bê tông bật lại và rơi vãi là khá lớn;
- Độ gây bụi là rất cao;
- Các chi tiết máy nhanh bị mòn;
- Và cuối cùng là nhu cầu về không khí có áp suất cao là rất lớn.
Trên cơ sở những ưu và nhược điểm của công nghệ nói trên ta thấy rằng những công việc sau có thể để ứng dụng công nghệ này là:
- Sửa chữa các kết cấu bê tông;
- Dùng để trám, trét bê tông hoặc vữa vào những lỗ có nước rò rỉ .
- Khi khối lương bê tông phun không lớn lắm;
Truyền động khí nén vận chuyển hỗn hợp bê tông khô trong công nghệ phun khô
Thiết bị dùng trong công nghệ phun bê tông khô
Công nghệ phun khô có thể được thực hiện bằng phương pháp thủ công (công nhân cầm vòi phun hướng vào vách hầm), và bằng phương pháp cơ giới hoá (vòi phun được đặt trên tay máy phun). Phương pháp phun khô thủ công phù hợp cho các tunnel có gương đào nhỏ, khi phun bê tông cho các gương đào có mặt cắt lớn phải dùng công nghệ phun ướt. Các máy phun bê tông khô thường dùng máy bơm bê tông dẫn động thuỷ lực dạng rôto với các thông số kỹ thuật sau:
- Năng suất (м3/h);
- Sử dụng trong cả hai công nghệ phun khô và phun ướt;
- Kiểu dẫn động (Khí nén / Điện);
- Kích thước thiết bị nhỏ gọn rất tiện lợi;
- Điều khiển (Bằng tay / Tự động hoá từng phần);
- Điều khiểnên (Trực tiếp / từ xa);
- Các thiết bị phụ trợ (Các máy bơm định lượng / hệ thống làm sạch).
Máy bơm rôto là cụm máy chính được sử dụng rộng rãi: 1 – bunke chứa hỗn hợp bê tông khô; 2 - khoang chứa quay; 3 – rôto; 4 – khoang đẩy; 5 - đường dẫn khí nén trên; 6 - ống dẫn bê tông khô cùng khí nén; 7 - đường ống dẫn khí nén dưới.
Nguyên lý làm việc của máy bơm rôto Aliva
Bê tông khô được đổ vào bunke 1, nhờ cánh đảo phía trong bunke hỗn hợp bê tông khô chảy vào khoang quay 2. Nhờ rôto 3 quay nên bê tông được đưa tới đầu ống dẫn 6 cùng với không khí có áp suất cao từ ống 5 bê tông được đẩy đi tới khoang đẩy 4 và được tiếp sức bởi khí nén từ ống 7 để cuốn đi với vận tốc cao theo đường ống dẫn 6 để tới vòi phun.
Sơ đồ cấu tạo máy bơm vận chuyển bê tông bằng khí nén kiểu rôto Aliva
Aliva-263
Aliva-246.5
Ứng d ụng công nghệ phun bê tông, Những ưu điểm của công nghệ phun bê tông
Từ thế kỷ trước công nghệ phun bê tông từ một công nghệ ít được sử dụng đã trở thành một công nghệ được sử dụng rỗng rãi và tới nay có thể coi là một công nghệ thi công bê tông truyền thống. Công nghệ phun bê tông đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành kinh tế để giải quyết hàng loạt các bài toán đặt ra cho nghành xây dựng nói riêng và trong nền kinh tế quốc dân nói trung.
Công nghệ phun bê tông thường được ứng dụng trong các trường hợp sau:
Dùng để sửa chữa các kết cấu bê tông và bê tông cốt thép (Thay phần bê tông đã bị hư hỏng bằng bê tông mới bằng công nghệ phụt, gia cường các kết cấu bê tông);
Thi công lớp bê tông chống thấm;
Thi công các lớp bê tông bảo vệ có tính chất chịu mài mòn cao;
Thi công lớp bê tông bảo vệ vách hầm khi xây dựng tuyến tunnel (Bảo vệ tường hố móng, các kho chứa, chóng sạt lở, cầu đường…vv.);
Thi công các kết cấu bê tông đặc biệt.
Phun bê tông bằng tay khi thi công các cấu kiện bê tông cốt thép
Mặc dù công nghệ phun bê tông đến ngày nay không còn là một công nghệ mới, tuy nhiên nó vẫn luôn được hoàn thiện và cải tiến. Việc thay đổi tỷ lệ thành phần bê tông khi phun cho phép thay đổi cường độ bê tông phun sau cố kết cho phép giải quyết hàng loạt các bài toán tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể của từng công trình.
Ưu điểm của công nghệ phun bê tông:
Có thể phun bê tông lên bề mặt bất kỳ, ở bất cứ vị trí nào nhờ vào các tính chất bám dính cao và khả năng chịu tải của bê tông phun;
Có thể phun bê tông lên các bề mặt phẳng và không phẳng (các kết cấu bê tông với hình dạng bất kỳ);
Nhờ lực vẩy với vận tốc lớn dưới tác dụng của áp lực cao làm cho bê tông phun có tính chất tự làm chặt (không phải đầm) và khả năng bám dính bề mặt cao;
Tuỳ thuộc yêu cầu của thiết kế trong từng trường hợp cụ thể ta có thể thay đổi chiều dày của lớp bê tông phun;
Có thể sử dụng công nghệ phun bê tông trong công tác thi công bê tông có cốt (như bê tông cốt thép truyền thống bê tông cốt sợi);
Có thể thi công nhanh các kết cấu chịu lực với sự chợ giúp của chất phụ gia mà không cần sử dụng ván khuôn tránh phải chờ đợi bê tông ninh kết.
Với những ưu điểm kể trên ta có thể kết luận rằng: Công nghệ phun bê tông (khô và ướt) là công nghệ hiện đại, công nghệ linh hoạt và là công nghệ thi công xây dựng hiệu quả có tính kinh tế cao.
An toàn lao động trong công nghệ phun bê tông
An toàn lao động là công tác được ưu tiên hàng đầu khi tiến hành thi công theo công nghệ phụt bê tông. Những nguyên nhân chính dẫn tới mất an toàn trong thu công phụt bê tông là:
Trong công tác vận chuyển thiết bị tới nơi thi công: Việc vận chuyển thiết bị tới nơi thi công trong hầm lò, nơi có điều kiện chật hẹp, độ chiếu sáng kém phải tăng cường kiểm soát các biện pháp bảo đảm an toàn cho công nhân như: phải mặc áo bảo hộ lao động phù hợp với vải có bề mặt phản quang, trên các phương tiện vận tải phải có các đèn chiếu sáng (luôn được làm sạch) cũng như các còi báo hiệu và chúng phải hoạt động hiệu quả khi di chuyển về phí trước và khi đi lùi;
Trong công tác chuyển tải bê tông phun vào thiết bị phun –Bắt buộc phải có lưới bảo vệ tránh và trạm vào các cụm chuyển động, công nhâ phải mặc quần áo bảo hộ đặc chủng tương thích;
Trong công tác cung cấp (vận chuyển) bê tông phun, Khí nén, chất phụ gia, tới vị trí máy phun làm việc phải – Thường xuyên bảo dưỡng kỹ thuật cho thiết bị theo đúng kế hoạch bảo dưỡng, thường xuyên kiểm tra các đường ống dẫn và các khớp nối của chúng, thường xuyên hướng dẫn công nhân các bện pháp an toàn khi vận hành thiết bị, chỉ cho phép công nhân đã được đào tạo mới được vận hành thiết bị và đương nhiên những công nhâ này khi bắt đầu làm việc phải mặc quần áo bảo hộ đặc chủng có phản quang, và cuối cùng là đảm bảo độ chiếu sáng phù hợp cho nơi thi công;
Trong công tác phun (vẩy) bê tông Công nhân khi điều khiển thiết bị phun bê tông phải có các thiết bị an toàn đi kèm (đeo kính chống va đập hoặc tấm chắn, mặt nạ an toàn, găng tay bảo hộ lao động, máy thở, thiết bị giảm âm, ủng bảo vệ và quần áo bảo hộ đặc chủng). Cấm đi vào vùng vừa phun bê tông và các vùng phụ cận phải treo bảng “cấm đi vào vùng đang phun bê tông” và các bảng này phải được chiếu sáng để mọi người có thể nhìn thấy;
Trong vùng thi công phụt bê tông Chỉ có công nhân mới được vào những người không có nhiệm vụ không được vào. Trong trường hợp bất khả kháng những người khác phải vào vì một lý do nào đó thì người đó phải được trạng bị đầy đủ bộ đồ an toàn như đã nói ở trên.
Thiết bị phụt bê tông tự hành Sika-PM 500 đang đi vào đường lò
Thiết bị phụt bê tông tự hành Sika-PM 407 đang làm việc với gương lò
Thiết bị phụt bê tông tự hành Sika-PM 407 P đang làm việc với vách hầm
Chuẩn bị bề mặt để phun bê tông
Tính bám dính của bê tông lên bề mặt phun phụ thuộc vào tính chất của cả bê tông phun và bề mặt mà bê tông được phun vào. Nhờ chất kết dính (xi măng) có trong bê tông phun và nó được phun vào bề mặt với vận tốc là những yếu tố tốt làm cho bê tông phun bám dính hiệu quả lên bề mặt phun. Vì vậy trong rất nhiều trường hợp độ kết dính giữa bê tông phun với bề mặt được phun phụ thuộc chủ yếu tính chất của bề mặt trước khi phun. Bề mặt trước khi phun phải có độ nhám nhất định, chính độ nhám này quyết định tới lực bám dính sau này. Trong trường hợp bề mặt phun quá nhẵn (ví dụ: bề mặt bê tông), thì trước khi phun phải tạo độ nhám. Bề mặt phun không được có bụi bám, không được có sỏi đá tự do hoặc bám dính kém. Ngoài ra để cho bê tông phun bám tốt hơn với bề mặt thì bề mặt phun phải có độ ẩm nhất định, độ ẩm đảm bảo sẽ tăng một cách đáng kể độ liên kết giữa bê tông phun và bề mặt được phun. Điều này cũng có ý nghĩa rất lớn đối với các vách đào tuyến tunnel nơi bề mặt vách đào vừa mới được tạo ra bằng cách đánh mìn hoặc đào bằng máy. nếu bề mặt vách đào có đá mỏi ta phải dụng các biện phps để loại bỏ sau đó phải tưới nếu độ ẩm của vách lò không đạt yêu cầu trước khí phun bê tông gia cố.
Thứ tự công tác thi công phun bê tông :
Tạo nhám cho bề mặt (nếu cần);
Làm sạch bề mặt (vệ sinh bụi và các vật bám dính kém ra khỏi bề mặt);
Phun nước làm ẩm bề mặt (tuỳ thuộc vào độ nghiêng của bề mặt mà có các biện pháp làm ẩm phù hợp);
Lựa chọn phương án phun bê tông tối ưu cho từng điều kiện cụ thể (phun thẳng hoặc phun tạo một góc nghiêng so với mặt phun).
Với mục đích tối ưu hoá các thiết bị hiện có trong quy trình thi công phụt bê tông người ta kết hợp sử dụng khí nén có sẵn trong tổ hợp hun để làm sạch bề mặt bê tông, dung bơm nước áp suất cao để làm sạch và tạo độ ẩm cần thiết cho bề mặt trước khi phụt bê tông. Các công đoạn này được thực hiện ngay trước khi phụt bê tông để tăng độ liên kết giữa bề mặt cần phun với bê tông sau phun. Những công đoạn được khuyến cáo ở trên cũng được thực hiện khi thi công phun bê tông nhiều lớp. Khi phun bê tông lên bề mặt có quá nhiều nước như nước mạch do bề mặt bị dò dỉ thì công đoạn đầu tiên phải thực hiện là làm công tác trám trít lỗ dò hoặc sử dụng giải pháp rút nước ngầm bằng bấc thấm hoặc thoát nước nhân tạo.
Thiết bị phụt bê tông tự hành Sika-PM 500 đang làm việc phun bê tông trong tuyến tunnel đường ngầm giao thông
Công tác phun bê tông
Công tác phun bê tông được thực hiện từng lớp một trên cùng bề mặt phun bằng cách phun lớp trước sau đó một khoảng thời gian lại phun tiếp lớp sau. Nếu khoảng dừng giữa hai lần phun quá lớn thì phải thực hiện công tác làm sạch và làm ẩm bề mặt sau đó mới phun.
Chiều dày một lần phun bê tông phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Phụ thuộc vào đổ dính của bê tông phun cụ thể ở đây là phụ thuộc và tỷ lệ xi măng/phụ gia đông kết/kích thược hạt cốt liệu max;
Tính chất của bề mặt cần phun bê tông (độ nhám càng cao thì độ dày một lớp càng lớn);
Phương pháp phun;
Năng suất phun;
Hướng phun (phương thẳng đứng/phương ngang);
Tồn tại các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình phun bê tông như độ dày của cốt thép và lượng nước dò dỉ trên bề mặt (nếu còn tồn tại).
Tuỳ thuộc vào độ nghiêng và vị trí bề mặt cần phun bê tông mà lựa chọn các phương pháp phun khác nhau:
Khi phun lên mặt phẳng nàm ngang có vị trí thấp hơn nơi đặt thiết bị phun, Có thể phun bê tông với độ day bất kỳ. Trong trường hợp này cần lưu ý lượng bê tông bật khỏ mặt phun trong quá trình phun, những bê tông này hoặc phải gạt bỏ sau phun nếu độ chặt không đạt hoặc phải phủ lên nó một lớp bê tông tiếp với độ chặt tốt hơn.
Khi phun bê tông lên bề mặt thẳng đứng hoặc có độ dốc lớn Nó chung là phun từng lớp mỏng một hoặc phần lớp dưới ta phun dày nhiều lớp tạo độ nghiêng, còn ở phần trên từng bước một ta phun làm nhiều lớp mỏng dần dần. Khi thi công những mặt phẳng kiểu này thì những bê tông bị bật ra sau mỗi lần phun phải được gạt ra trước khi phun lớp tiếp theo để đảm bảo cương độ đồng đều cũng như độ chống thấm của bê tông phun sau khi cố kết (đặc biệt phần lớp dưới của mặt bê tông thẳng đứng).
Điều chỉnh vòi phun vào bề mặt khi phun bê tông thủ công (điều khiển vòi phun bằng tay)
Đầu phun tự đông của máy phun bê tông Sika-PM 500
Khi phun mặt trần (Mặt phẳng trần trên đầu)
Lực hút của trái đất lên bê tông và lực kết dính giữa bê tông và bề mặt trần tác dụng ngược chiều, vì lú do đó khi phun phải phun từng lớp mỏng đủ để lực kết dính lớn hơn lực hút rơi tự do. Trong trường hợp này cùng với việc giảm năng suất phun và phun từng lớp mỏng làm cho lượng bê tông bật ngược giảm cùng với nó ta tăng được hiệu suất phun. Vật liệu bật ngược trong trường hợp này là rất ít mặt khác những vật liệu còn bám dính được trên bề mặt đều đảm bao được cường độ bê tông nên không cần phải gạt bỏ sau mỗi lớp phun.
Hướng phun bê tông lên bề mặt phải đảm bảo vuông góc với bề mặt cần phun. Kiểu phun vuông góc này cho ta tối ưu hoá độ dính giữa bê tông và bề mặt, mặt khác nó tăng độ lèn chặt bê tông và giảm tối thiểu lượng bê tông bật ngược. Vòi phun được chuyển động theo đường vòng cung đảm bảo độ đồng đều của lớp bê tông phun (dù phun thủ công hay phun cơ khí). Khi phun bê tông cho các kết cấu có cốt thép nếu không thực hiện nghiêm ngặt quy trình phun sẽ tao ra những vùng chết (nhữnglỗ hổng) phía sau cốt thép điều này là rất nguy hiểm cho khả năng chịu lực của kết cấu bê tông cốt thép sau cố kết vì vậy trong trường hợp này phải sử dụng công nhân có tay nghề phun cao đã được đào tạo. Khi phun bê tông có cốt liệu bằng sợi thép thì điều nói ở trên không sảy ra.
Khoảng cách tối ưu từ vòi phun tới bề mặt phun là 1,0 – 1,5 м. Thường thì khoảng cách phun là 1,0 – 2,0 м. Nếu khoảng cách giữa vòi phun và bề mặt phun càng lớn thì lượng bê tông bật ngược sẽ tăng và gia tăng bụi bê tông , và cùng với nó là giảm hiệu suất phun.
Điều khiển vòi phun chuyển động theo vòng cung nhỏ để phun bê tông và tạo mặt phẳng lớp bê tông sau phun.
Ảnh hưởng của góc phun lên khối lượng bê tông bật ngược chở lại.
.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro