Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 7

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

148

Phần thứ ba

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, học thuyết kinh tế về phương thức sản xuất tư bản

chủ nghĩa cùng với bộ phận lý luận triết học là những cơ sở lý luận tất yếu và trực tiếp

của chủ nghĩa xã hội khoa học, tức học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy,

theo nghĩa rộng chủ nghĩa xã hội khoa học chính là chủ nghĩa Mác-Lênin, còn theo nghĩa

hẹp thì nó là một bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin - bộ phận lý luận về

chủ nghĩa xã hội, đó là bộ phận nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai

cấp công nhân; tính tất yếu và nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa; quá trình hình

thành và phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa; quy luật và con

đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Chương VII:

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Thời lượng: 8 giờ tín chỉ (6 lý thuyết, 2 thảo luận)

Mục tiêu của người học cần đạt được về kiến thức và kĩ năng:

- Nắm được khái niệm giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử và những điều kiện

khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

- Hiểu vai trò của Đảng Cộng sản trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp

công nhân

- Nắm khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên nhân của nó

- Phân tích được mục tiêu, nội dung, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa

- Hiểu được xu thế của sự ra đời hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa

I. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó

a) Khái niệm giai cấp công nhân

- Vị trí phạm trù sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp

công nhân là phạm trù cơ bản nhất, phạm trù xuất phát của chủ nghĩa xã hội khoa học.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

149

Trong tác phẩm "Vận mệnh của học thuyết Mác", V.I.Lênin đã chỉ rõ: "Điểm chủ yếu

trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp

công nhân là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa". Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của

giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác, nó là cốt

lõi hình thành ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác.

- Quan niệm của của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công

nhân

C. Mác và Ph. Ăngghen đã dùng rất nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về giai cấp

công nhân. Đó là các thuật ngữ: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công

nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp, giai cấp những người lao động thế kỷ

XIX.

Hai ông còn dùng những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân

trong các ngành khác nhau, trong các giai đoạn khác nhau của công nghiệp. Tất cả đó chỉ

là những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân - con đẻ của

nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến,

cho phương thức sản xuất hiện đại.

Theo C. Mác và Ph. Ăngghen khái niệm giai cấp công nhân có hai thuộc tính:

Thuộc tính thứ nhất, xét vị trí của giai cấp công nhân trong phương thức lao động,

phương thức sản xuất. Theo thuộc tính này, công nhân là những người lao động trực tiếp

hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại

và xã hội hóa cao.

Mác và Ăngghen luôn nhấn mạnh tới người công nhân hiện đại gắn liền với nền

công nghiệp hiện đại, coi đó là bộ phận cơ bản nhất của giai cấp công nhân: "Các giai cấp

khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô

sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp".

Thuộc tính thứ hai, xét vị trí của giai cấp công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản

chủ nghĩa: Căn cứ vào thuộc tính này, công nhân là những người lao động không có tư

liệu sản xuất, phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá

trị thặng dư.

C. Mác và Ph. Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh thuộc tính thứ hai, vì chính điều đó

khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản. Đồng thời

nói lên đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản, nên C. Mác và Ph.

Ăngghen gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của

Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: "Giai cấp vô sản là một giai cấp xã

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

150

hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng

lợi nhuận của bất cứ tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và

chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình

hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cạnh

tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp của những người

vô sản là giai cấp lao động trong thế kỉ XIX"1.

- Quan niệm hiện nay về giai cấp công nhân

Căn cứ vào hai thuộc tính (hay hai tiêu chí cơ bản) nói trên, có thể dưa ra khái

niệm: "Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng

với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực

lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên

tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và

cải tạo các quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử, quá độ từ chủ

nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. ở các nước tư bản, giai cấp công nhân là những người

không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và

bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã

cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác

lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội, trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân

họ"1.

Hai tiêu chí hay hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân do C. Mác và Ph.

Ăngghen nêu trên có ý nghĩa chỉ đạo phương pháp luận trong việc xem xét giai cấp công

nhân hiện đại trong thời đại hiện nay:

+ Hiện nay cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có thay đổi to lớn. Bên

cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp

tự động hóa với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất.

+ Cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, giai cấp công nhân có xu hướng

"trí thức hóa" ngày càng tăng và cũng có một bộ phận trí thức đông đảo gắn liền trực tiếp

với lao động công nghiệp, với quy trình sản xuất công nghiệp, tạo ra của cải vật chất cho

xã hội, bổ sung vào hàng ngũ giai cấp công nhân, nằm trong nội hàm khái niệm giai cấp

công nhân.

1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 4, tr 456.

1 Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, Tư

tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb CTQG, H.2002, tr 99.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

151

+ Tri thức cao không làm thay đổi bản chất của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa

tư bản với tính chất là lao động làm thuê cho giai cấp tư sản trong hoạt động sản xuất

công nghiệp.

+ Trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ, giai cấp công nhân trở

thành người làm chủ tư liệu sản xuất, họ vẫn là công nhân nhưng không còn là giai cấp

vô sản như trong chủ nghĩa tư bản.

+ Trong điều kiện còn tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, một bộ phận công

nhân làm thuê trong các xí nghiệp tư nhân, những người này vừa tham gia làm chủ cùng

toàn bộ giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vừa là người làm thuê xét về mặt cá

nhân. Tuy nhiên, địa vị làm thuê của họ không hoàn toàn giống như làm thuê dưới chế độ

tư bản chủ nghĩa, vì có nhà nước bảo hộ quyền lợi của họ.

b) Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Giai cấp công nhân và sản phẩm của nền đại công nghiệp, là lực lượng tiêu biểu

cho sự phát triển của phương thức sản xuất tiến bộ. Về khách quan là giai cấp có sứ mệnh

lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột và xây dựng xã

hội mới cộng sản chủ nghĩa. Trong tác phẩm Chống Đuyring, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:

"Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc phải hoàn thành

cuộc cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị diệt vong"1 và: "Thực hiện sự nghiệp giải phóng

thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại"2 .

V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng: "Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó

làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, là người xây dựng xã hội xã hội

chủ nghĩa"3.

Theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của

giai cấp công nhân cần trải qua hai bước:

Thứ nhất, giai cấp vô sản phải chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản

xuất thành sở hữu nhà nước.

Thứ hai, xóa bỏ mọi sự phân biệt về giai cấp và đối kháng giai cấp.

Hai bước trên có quan hệ chặt chẽ với nhau. Bước thứ nhất là cơ sở để thực hiện

bước thứ hai trong việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để hoàn thành được sứ

mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân tất yếu phải tập hợp được các tầng lớp nhân dân lao

1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, tập 20, tr 388-389.

2 Sdd, tr 393.

3 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 23, tr 1.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

152

động để tiến hành đấu tranh cách mạng xã hội. Đây là một quá trình lịch sử hết sức lâu

dài, gian khổ và khó khăn.

2. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

a) Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa

Học thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là luận chứng khoa

học về địa vị kinh tế - xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, về những mục tiêu

và con đường để giải phóng giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Luận thuyết đó đã được C. Mác và Ph. Ănghen trình bày sâu sắc trong Tuyên ngôn của

Đảng cộng sản trên những quan điểm cơ bản như sau:

- Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn liền với

lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Vì vậy nó là lực lượng quyết định

phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Và sau khi giành được chính quyền, nó đại

biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội

xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

- Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được nền

sản xuất công nghiệp hiện đại rèn luyện, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã

hội hùng mạnh. Do bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, nên họ là giai cấp trực tiếp

đối kháng với giai cấp tư sản, là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức

bóc lột tư bản chủ nghĩa. Tính chất triệt để biểu hiện ở chỗ những cuộc đấu tranh diễn ra

ngay từ khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời, không chỉ nhằm thủ tiêu giai cấp tư sản, chế độ

tư bản mà còn nhằm xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn và đi đến thủ tiêu cả giai cấp

mình.

b) Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân

Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở

thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng thực hiện sứ mệnh

lịch sử đó:

+ Giai cấp tiên tiến nhất trong thời đại ngày nay.

+ Giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để nhất.

+ Giai cấp có ý thức tổ chức kỉ luật cao.

+ Giai cấp có bản chất quốc tế.

- Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của các nhà kinh điển của chủ

nghĩa xã hội khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên,

ngày nay kẻ thù của chủ nghĩa xã hội và một số người cơ hội, xét lại đang phủ nhận học

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

153

thuyết Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Họ cho rằng thời đại ngày

nay là thời đại của nền văn minh "hậu công nghiệp" - "văn minh trí tuệ" của "kinh tế tri

thức", do đó, trí thức mới là lực lượng tiên phong, có vai trò lãnh đạo cách mạng.

Trong lịchsử phát triển không ai phủ nhận vai trò của trí thức. Trong sự nghiệp

xây dựng xã hội mới, vai trò trí thức ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Song trí

thức không thể đóng vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp công nhân, vì:

Một là, trong xã hội, trí thức là các tầng lớp đặc biệt và không thuần nhất, chưa

bao giờ và không bao giờ là một giai cấp đóng vai trò đại diện cho một phương thức sản

xuất độc lập với một hệ tư tưởng độc lập.

Hai là, không có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Dưới chế độ tư bản

chủ nghĩa, trí thức cũng là một tầng lớp làm thuê đặc biệt, được giai cấp tư sản đào tạo,

sử dụng và có một bộ phận được chế độ tư bản ưu đãi. Do đó nó không có tinh thần cách

mạng triệt để như giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.

Ba là, trí thức bao giờ cũng là trí thức của một giai cấp nhất định và thường là của

giai cấp thống trị xã hội.

3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của

giai cấp công nhân

a) Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công

nhân

- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, để biến

khả năng khách quan đó thành hiện thực phải thông qua những nhân tố chủ quan. Đảng

cộng sản là chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân, trung thành với lợi ích, với sự

nghiệp của giai cấp công nhân là nhân tố chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất đảm bảo

cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

- Yếu tố quyết định bảo đảm cho giai cấp công nhân có bước phát triển nhảy vọt

về chất, từ tự phát sang tự giác (tức là ý thức được vai trò lịch sử của mình) là sự xâm

nhập của chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân. Sự xâm nhập của chủ nghĩa

Mác vào phong trào công nhân tất yếu dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp

công nhân. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng, Đảng cộng sản là sự kết hợp phong trào công nhân

với chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của

lịch sử lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian

và thời gian.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

154

Ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, trong đó có Việt Nam, chủ nghĩa Mác-

Lênin thường kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra

Đảng cộng sản. Do đó, có thể khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam ra đời vào đầu năm

1930 là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với giai cấp công nhân và phong

trào yêu nước.

- Chỉ có Đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự

phát sang đấu trang tự giác trong mọi hoạt động với tư cách là một giai cấp tự giác và

thực sự cách mạng.

b) Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân

- Đảng lãnh đạo hay giai cấp lãnh đạo? Không có giai cấp nào đứng ra trực tiếp

lãnh đạo xã hội mà phải lãnh đạo thông qua chính đảng của giai cấp mình, vì Đảng chính

trị đó là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp.

Trong xã hội có giai cấp chính đảng nào cũng mang tính giai cấp, cũng tiêu biểu cho hệ

tư tưởng của một giai cấp nhất định.

- Đối với giai cấp công nhân, đó là Đảng cộng sản, giai cấp công nhân là cơ sở xã

hội - giai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của Đảng. Đảng là đội tiên phong

chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân, là biểu hiện tập trung của lợi ích,

nguyện vọng phẩm chất, tổ chức của giai cấp công nhân và của dân tộc.

- Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối liên hệ khăng khít, hữu cơ, không thể

tách rời. Nói lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo của giai cấp, Đảng thống nhất với giai cấp.

Nhưng Đảng giữ vai trò tiên phong trong chính trị cũng như trong lý luận và trong hành

động, có nhiệm vụ đề ra mục tiêu, phương hướng, đường lối đúng đắn phù hợp với yêu

cầu phát triển khách quan của đất nước, của thời đại và phấn đấu hy sinh cho mục tiêu

đó. Đồng thời Đảng có vai trò tổ chức, giáo dục, lãnh đạo giai cấp, toàn thể dân tộc đấu

tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và xây dựng xã hội mới.

- Để hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân cũng như mỗi người công

nhân cần thường xuyên phấn đấu vươn lên, trưởng thành về mọi mặt: tư tưởng, chính trị,

lập trường giai cấp, văn hóa khoa học - kỹ thuật, tay nghề. Các tổ chức của công nhân

như nghiệp đoàn, công đoàn thường xuyên phát triển vững mạnh cùng với quá trình phát

triển không ngừng của nền sản xuất công nghiệp hiện đại.

II. Cách mạng xã hội chủ nghĩa

1. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên nhân của nó

a) Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

155

Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng

chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành

được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản - nhà nước của giai cấp

công nhân và nhân dân lao động, được xem như dấu hiệu kết thúc cuộc cách mạng.

Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến một cách

toàn diện và triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn

hóa, tư tưởng... để xây dựng chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Như

vậy theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành chính

quyền, thiết lập chính quyền mới làm phương tiện chủ yếu để cải tạo xã hội cũ, xây dựng

xã hội mới. Đây là một quá trình lâu dài, quá trình này chỉ kết thúc khi chủ nghĩa xã hội

được xây dựng xong và phát triển trên cơ sở của chính nó.

b) Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa

+ Nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng xã hội đã diễn ra trong lịch sử là

do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung của sự phát triển xã hội, khi

lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời,

kìm hãm nó, tất yếu sẽ phải thay thế quan hệ sản xuất đã lỗi thời đó bằng một quan hệ sản

xuất mới tiến bộ hơn.

+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng có nguồn gốc sâu xa phát sinh từ nhu cầu giải

quyết mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản, đó là giải phóng lực lượng sản xuất đã mang

tính chất xã hội hóa cao ra khỏi sự kìm hãm của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu

tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

Theo quy luật này trong thời đại ngày nay, sự phù hợp thật sự với tính xã hội hóa ở

trình độ cao của lực lượng sản xuất chỉ có thể là sự thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa bằng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ

nghĩa. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra phải có những điều kiện khách quan

và chủ quan.

2. Mục tiêu, nội dung và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa

a) Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa

- Mục tiêu chung. Khác với tất cả các cuộc cách mạng trước đó, kể cả cách mạng

Dân chủ tư sản, giải phóng con người, giải phóng xã hội là mục tiêu chung của giai cấp

công nhân, của chủ nghĩa xã hội, cho nên có thể nói chủ nghĩa xã hội, cách mạng xã hội

chủ nghĩa mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

156

Chủ nghĩa nhân đạo đó đặt vấn đề giải phóng con người không chỉ dừng lại ở nhận

thức, ở khẩu hiệu mà từng bước thực hiện giải phóng con người trên thực tế, "biến con

người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do", tạo nên một thế liên hiệp "trong đó

sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do của tất cả mọi người". Tóm lại là cải

tạo toàn diện triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong đó

con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, và có điều kiện phát triển toàn diện cá

nhân.

- Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đoàn kết với nhân

dân lao động giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân.

- Mục tiêu giai đoạn hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là "Xóa bỏ tình trạng

người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ".

b) Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Theo quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen, tất cả các phong trào cách mạng

trong lịch sử từ trước đến nay đều do thiểu số thực hiện và mưu cầu lợi ích cho thiểu số

nhưng: "Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số mưu lợi ích cho khối

đại đa số"1. Với mục đích giải phong giai cấp công nhân, nhân dân lao động ra khỏi tình

trạng áp bức bóc lột, do vậy cách mạng xã hội chủ nghĩa thu hút được sự tham gia của

giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác: giai cấp nông dân, trí thức

Sau đây là vai trò của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ

nghĩa:

- Giai cấp công nhân: Là giai cấp tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới, lại có

hệ tư tưởng tiên tiến và lý luận khoa học - cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng

thời đại biểu cho lợi ích cơ bản của tất cả những người lao động, giai cấp công nhân trở

thành động lực cơ bản, chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, phát huy vai trò động lực và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân là yếu tố

quyết định hàng đầu đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Giai cấp nông dân: Là giai cấp có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của

giai cấp công nhân, do vậy, họ trở thành động lực cách mạng to lớn. Sự tham gia của

nông dân vào tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với sự hiện

thực hóa vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và là một đảm bảo cho sự thắng lợi của

cách.

c) Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa

1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H 1995, tập 4, tr 611.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

157

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến cách mạng triệt để lâu dài và

toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế và tư tưởng,

văn hóa.

- Trên lĩnh vực chính trị:

+ Nội dung chính trị căn bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đưa quần chúng

nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ

nhà nước và xã hội, để từ đó họ hoạt động như một chủ thể sáng tạo, tự giác xây dựng xã

hội mới.

+ Muốn vậy, giai cấp công nhân cần phải không ngừng nâng cao trình độ trí thức

về mọi mặt cho quần chúng nhân dân lao động, thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị,

mở rộng hơn nữa quyền làm chủ của người lao động, đưa xã hội đến một trạng thái mới,

nhân dân lao động tham gia ngày càng đông đảo vào cuộc đấu tranh nhằm cải tạo xã hội

cũ, xây dựng xã hội mới.

- Trên lĩnh vực kinh tế:

+ Những cuộc cách mạng trước đây về thực chất chỉ là cuộc cách mạng chính trị,

giành chính quyền là mục tiêu cơ bản, đó cũng là dấu hiệu kết thúc của cách mạng. Đối

với cách mạng xã hội chủ nghĩa, việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và

nhân dân lao động mới là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho sự

thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải phát triển kinh tế, không ngừng nâng

cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân.

Có thể hiểu rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa thực chất là có tính chất kinh tế:

"Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn

bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay nhà

nước để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất"1.

Nội dung kinh tế của cách mạng xã hội chủ nghĩa thể hiện:

+ Trước hết, phải thay đổi vị trí, vai trò người lao động đối với tư liệu sản xuất,

thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa

dưới những hình thức thích hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động

với tư liệu sản xuất.

+ Trên cơ sở năng suất lao động ngày càng tăng, từng bước cải thiện đời sống nhân

dân lao động, nâng cao chất lượng sức khỏe, năng lực của người lao động. Từ đó, phát huy

tính tích cực xã hội, khả năng sáng tạo của con người lao động để ngày càng nâng cao năng

1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H 1995, tập 4, tr 626.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

158

suất lao động, hiệu quả công tác làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển

cao hơn chủ nghĩa tư bản.

+ Chủ nghĩa xã hội có điều kiện đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất để nâng cao

năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.

+ Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, do đó năng suất

lao động, hiệu suất công tác là thước đo đánh giá sự đóng góp của mỗi người, là biểu

hiện cụ thể của lòng yêu nước, ý thức giai cấp, ý thức dân tộc của mỗi người ở trong xã

hội.

- Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa:

+ Đối với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã là những

người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, do vậy, họ cũng là những người

sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội.

+ Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp

thu các giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực

văn hóa thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua việc

xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan mới - cộng sản chủ nghĩa, xây dựng

nền văn hóa mới và các thế hệ con người mới xã hội chủ nghĩa.

3. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong cách mạng

xã hội chủ nghĩa

a) Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với

giai cấp nông dân

- Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen: trên cơ sở tổng kết thực tiễn phong trào

cách mạng của giai cấp công nhân ở châu Âu, nhất là các nước Anh, Pháp cuối thế kỉ

XIX, hai ông đã khái quát thành một hệ thống lí luận khoa học về cách mạng vô sản. Các

ông đã chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai

cấp công nhân không tổ chức liên minh được với "người bạn đồng minh của mình" là giai

cấp nông dân. Vì vậy, trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và các

cuộc cách mạng này đã trở thành "bài ai điếu".

- Quan điểm của V.I. Lênin: Ông đã vận dụng và phát triển tư tưởng của C. Mác

và Ph. Ăngghen trong điều kiện mới. Thành công của Cách mạng Tháng Mười là minh

chứng cho thắng lợi của tư tưởng đó. Trong thời kì quá độ, V.I. Lênin cho rằng không chỉ

liên minh với công - nông, mà còn liên minh với các giai tầng khác. Người coi liên minh

này là:"Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

159

sản với nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà

nước"(1). V.I. Lênin đặc biệt coi trọng khối liên minh này trong những nước nông nghiệp

mà đại đa số là nông dân. Qua liên minh lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông

dân được công nhân tập hợp vì mục tiêu chung và lợi ích của toàn dân tộc.

- Tính tất yếu của liên minh công - nông trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội

được xem xét dưới các góc độ sau:

Thứ nhất, xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng của chuyên chính vô sản thì liên

minh này đã tập thu hút và tổ chức được lực lượng sản xuất cơ bản, đông đảo và cách

mạng nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, xét về nguyên tắc lãnh đạo của chuyên chính vô sản thì giai cấp vô sản là

giai cấp duy nhất thông qua đảng của mình để lãnh đạo hệ thống chính trị xã hội chủ

nghĩa. Nhưng vai trò đó chỉ được thực hiện với điều kiện tổ chức tốt liên minh công -

nông - trí thức và các giai tầng khác trong xã hội.

Thứ ba, xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa là đảm

bảo quyền lợi của toàn thể nhân dân, dân tộc mà đại đa số là công - nông và những người

lao động khác.

b) Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai

cấp nông dân

Nội dung cơ bản của liên minh

- Nội dung chính trị của liên minh

Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cùng

nhau tham gia vào chính quyền nhà nước từ cơ sở đến Trung ương nhằm bảo vệ những

thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là liên minh trên lập trường chính trị của

giai cấp công nhân mà nòng cốt là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao

động khác, tạo cơ sở vững chắc cho nhà nước xã hội chủ nghĩa và trong mặt trận dân tộc

thống nhất, thực hiện khối liên minh rộng rãi với các tầng lớp lao động khác.

- Nội dung kinh tế của liên minh

Đây là nội dung cơ bản có ý nghĩa quyết định nhất, là cơ sở vật chất - kĩ thuật

vững chắc của liên minh trong thời kì quá độ. Cần giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích

kinh tế trong khối liên minh được thể hiện qua thị trường và các hoạt động sản xuất, kinh

doanh để lợi ích kinh tế trở thành động lực nội tại thúc đẩy các chủ thể kinh tế trong hoạt

động sản xuất vật chất. Nhằm xây dựng một nền sản xuất công nghiệp hiện đại, từng

bước đưa nông dân đi theo con đường xã hội chủ nghĩa bằng con đường hợp tác xã với

(1) V. I. Lênin đã dẫn 1978, t44, tr 57.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

160

những bước đi phù hợp. Khối liên minh công - nông - trí thức là nòng cốt, tạo thành sức

mạnh to lớn trong xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin nhấn mạnh: "Trước sự

liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kĩ thuật, không một thế lực

đen tối nào đứng vững được"1.

- Nội dung văn hoá - xã hội của liên minh

+ Nâng cao dân trí, đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn

để tăng năng suất lao động, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, góp phần cải thiện đời

sống cho người lao động.

+ Xây dựng một xã hội nhân văn, nhân đạo, coi con người là vốn quí của xã hội.

Giữa dân tộc này với dân tộc khác là quan hệ hữu nghị, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

+ Tạo điều kiện cho nhân dân lao động, tham gia quản lí kinh tế - xã hội, quản lí

nhà nước. Vì vậy, nhân dân phải có trình độ văn hóa, hiểu biếu chính sách xã hội nhất

định về nhà nước và chế độ xã hội.

Nguyên tắc cơ bản của liên minh:

- Đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản

- Phải kết hợp đúng đắn và hài hoà giữa các lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, đặc biệt

chú ý giai cấp nông dân vì họ chiếm đa số. Đối với giai cấp nông dân, họ thường kiểm

nghiệm những lợi ích thiết thân hàng ngày. Nếu không được đáp ứng kịp thời, công bằng,

họ dễ mất lòng tin. Theo V.I.Lênin: "Họ sẽ đi theo những mạch kinh tế ngầm với tư

thương, tư sản, kết quả là chúng ta sẽ mất một cơ sở kinh tế"1.

- Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện trong liên minh.

III. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa

1. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa

Trong nhiều tác phẩm của mình, đặc biệt là trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và

Chống Đuyring, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai

đoạn tất yếu của nhân loại: "Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỉ,

đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ

trước kia gộp lại"2. Tuy vậy, trong quá trình phát triển, lực lượng sản xuất đạt đến trình độ

xã hội hóa ngày càng cao làm mâu thuẫn với quan hệ sản xuất mang tính chất tư nhân tư

bản chủ nghĩa càng thêm sâu sắc, dẫn đến cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và tư

1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1977, tập 44, tr 218.

1 V.I. Lênin đã dẫn 1978, t43, tr 371.

2 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H 1995, tập 4, tr 603.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

161

sản ngày càng trở nên căng thẳng. Qua thực tiễn đấu tranh khiến cho giai cấp công nhân

nhận thức được rằng muốn thắng lợi phải tiếp thu chủ nghĩa xã hội khoa học, thiết lập

chính đảng của mình. Đảng Cộng sản ra đời hướng vào mục đích lật đổ nhà nước của giai

cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Sự xuất hiện của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa có các điều kiện sau

đây:

Thứ nhất, đó là tính gay gắt của mâu thuẫn trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư

bản. Mâu thuẫn này xuất phát từ trình độ xã hội hóa ngày càng cao của những lực lượng

sản xuất, đặc biệt là nền công nghiệp hiện đại.

Thứ hai, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt

xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Hai giai cấp này mâu thuẫn

với nhau ngày càng rõ rệt, trở nên không thể điều hòa.

Thứ ba, để đạt mục đích cao nhất là tăng thêm lợi nhuận, giai cấp tư sản phải

thường xuyên cách mạng hóa công cụ sản xuất, bằng cách sử dụng những phát minh

trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Chính điều đó làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa lực

lượng sản xuất ngày càng mang tính chất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên

chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ ngiã về tư liệu sản xuất.

Với thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo

thông qua Đảng tiên phong của nó, cũng có nghĩa khi đó bắt đầu của một thời đại mới,

với sự xuất hiện một hình thái kinh tế - xã hội mới "lọt lòng" từ chủ nghĩa tư bản.

2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa

a) Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

- Tính tất yếu của thời kì quá độ được luận giải từ các căn cứ sau đây:

Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất mà trước hết là về chế

độ sở hữu tư liệu sản xuất. Vì vậy, cần có một thời kì cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên một nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ

cao mà quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất - kĩ thuật nhất định cho

chủ nghĩa xã hội. Cơ sở đó muốn phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần có thời gian sắp xếp, tổ chức

lại.

Ba là, các quan hệ xã hội chủ nghĩa không nảy sinh trong xã hội tư bản mà là kết quả của

xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa, do vậy, cần có một thời gian nhất định.

Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp và mới

mẻ, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân và nhân dân lao động từng bước thực hiện.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

162

- Đặc điểm và nội dung kinh tế của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội: là sự đan xen giữa

những yếu tố của xã hội cũ và xã hội mới trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa đấu tranh trên tất

cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Đặc điểm và nội dung kinh tế:

+ Tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống

nhất.

+ Tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa

dạng và các hình thức phân phối, trong đó, phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.

+ Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì bố trí lại lực lượng sản xuất hiện có, cải tạo

quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho

chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm là tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo

định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đặc điểm và nội dung chính trị: Xã hội có nhiều giai tầng: công nhân, nông dân, trí thức,

những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các giai tầng này vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Trong

một giai tầng cũng có nhiều bộ phận có trình độ ý thức về chính trị khác nhau.

Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị là tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế

lực thù địch, xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực cho

nhân dân lao động.

Đặc điểm và nội dung tư tưởng - văn hóa - xã hội: thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội tồn

tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa là tư tưởng tư

sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông. V.I. Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư sản là: "kẻ thù giấu mặt

hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn nhiều so với bọn phản cách mạng công khai"1.

Nội dung tư tưởng - văn hóa là thực hiện tuyên truyền, phổ biến tư tưởng khoa học, khắc

phục ý thức, tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, tiếp thụ

các giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới. Về xã hội, thực hiện việc khắc phục những tệ

nạn do xã hội cũ để lại. Từng bước khắc phục sự chênh lệch về phát triển giữa các vùng miền, các

tầng lớp dân cư, thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với

người trong xã hội mới.

b) Xã hội xã hội chủ nghĩa: là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:

+ Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp với

trình độ hiện đại, tức lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi nó hoàn thiện,

phải cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.

1 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t 36, tr 285-286.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

163

+ Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập

chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.

Các nhà kinh điển Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội không xóa bỏ chế độ tư

hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội, về cơ sở kinh tế còn tồn tại nền kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. V.I Lênin trong "Chính sách kinh

tế mới" (NEP) cũng đã thừa nhận, trong thời kỳ quá độ, nước Nga còn tồn tại nền kinh tế

hàng hóa 5 thành phần. Đó là một đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội. Do đó, việc xóa bỏ một cách vội vàng những đặc điểm và nội dung kinh tế trên là

chủ quan duy ý chí trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa, là

trái với quan điểm của V.I.Lênin về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ tạo ra được hình thức và phương pháp tổ chức, kỷ

luật lao động mới

Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mới do những người lao động làm chủ.

Trong sự nghiệp kiến thiết chế độ xã hội mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội

khoa học rất quan tâm và coi trọng việc tổ chức lao động và kỹ thuật lao động mới vừa

có tính kỷ luật chặt chẽ theo những quy định chung của luật pháp, pháp chế xã hội chủ

nghĩa, vừa có tính tự giác, kỷ luật tự cao, khắc phục tư tưởng, tác phong của người sản

xuất nhỏ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đây là nguyên tắc cơ bản

nhất, làm cơ sở cho mọi quan hệ phân phối của toàn xã hội

Theo nguyên tắc này, mỗi người lao động sẽ được nhận từ xã hội một số lượng sản

phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương số lượng chất lượng và hiệu quả lao động của họ

đã cung cấp cho xã hội, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã hội.

Nguyên tắc phân phối này là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất trong chủ nghĩa xã hội, tức giai đoạn của của cải làm ra chưa đạt tới mức thật

dồi dào như trong chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời nguyên tắc này thể hiện sự công bằng

dưới chủ nghĩa xã hội.

+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa "của dân, do dân, vì dân" và hệ thống chính trị mang

bản chất - giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc

Nhà nước xã hội chủ nghĩa (hay nhà nước chuyên chính vô sản) là nhà nước kiểu

mới - nhà nước được xác lập do thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

164

Thực chất của nhà nước đó là sự lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp công nhân,

được nhân dân tổ chức ra. Thông qua nhà nước mà đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt

và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội.

+ Con người được giải phóng khỏi chế độ tư hữu - áp bức - bóc lột, bình đẳng trước

pháp luật và có những điều kiện cho mọi người phát triển toàn diện

Giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều

kiện cho con người phát triển toàn diện, đó là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội.

Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất cơ bản, cho phép chủ

nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thực hiện được việc loại bỏ những tai họa lớn nhất

của loài người là tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc;

thực hiện được sự công bằng, bình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về địa vị xã hội

của con người, gắn liền với nó, là bình đẳng nam - nữ, bình đẳng giữa các dân tộc và

đoàn kết toàn dân tộc.

Trên cơ sở toàn bộ những cải biến xã hội lịch sử nói trên, chủ nghĩa xã hội tạo ra

những điều kiện để từng bước tiến tới giải phóng triệt để con người và phát triển con

người một cách toàn diện.

c) Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa

Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội loài

người, C. Mác đã dự báo về sự xuất hiện của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa,

giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản:

Về kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội dồi dào,

khoa học kĩ thuật phát triển, lao động của con người được giảm nhẹ.

Về xã hội, con người có điều kiện phát triển năng lực của mình, không còn sự

phân biệt giữa thành thị và nông thôn, giai cấp và nhà nước tự tiêu vong. Theo V.I.

Lênin: "Chúng ta chỉ có quyền nói rằng nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong, đồng thời nhấn

mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát

triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản"1.

Qua phân tích của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về giai đoạn cao của hình

thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, cho thấy:

Một là, chỉ có thể đạt đến giai đoạn cao khi xã hội đã đủ điều kiện tiền đề phù hợp.

Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao là một quá trình lâu dài thông qua sự phát triển

mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của xã hội giáo dục và tinh thần tự giác của con người.

1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1976, t 33, tr 118.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

165

Ba là, sự xuất hiện của giai đoạn cao tùy thuộc vào điều kiện của mỗi nước diễn ra

bằng sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện.

Tiến trình phát triển của lịch sử là con đường trải qua những bước thăng trầm,

thậm chí những bước thụt lùi, khủng hoảng tạm thời trên con đường phát triển đó. Đây

chính là quy luật khách quan của xã hội, chịu sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan

trong những điều kiện xác định, tạo nên tính phong phú, đa dạng của tiến trình lịch sử.

Câu hỏi ôn tập:

1. Phân tích những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp

công nhân?

2. Vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay?

3. Phân tích mục tiêu, nội dung, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa?

4. Nguyên tắc và nội dung cơ bản của liên minh công - nông trong cách mạng xã

hội chủ nghĩa?

5. Tại sao nói trong liên minh công - nông và trí thức cần quan tâm đặc biệt lợi ích

của nông dân?

6. Phân tích những đặc điểm và nội dung kinh tế - chính trị của thời kì quá độ lên

chủ nghĩa xã hội?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #chanlee