Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chuong 6

Tấm Gương Thu Hình

Lâm Thao Phùng sinh, tên thật là gì, người thuật chuyện không nhớ, chỉ biết chàng vốn dòng dõi thế gia nay đã sa sút rồi. Có người chài lưới thiếu nợ chàng mà không trả nổi, hễ lần nào bắt ba ba cùng loài cua đinh cũng đem biếu chàng. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, chàng thấy hình dạng lạ lùng, liền thả ra sông.

Sau đó có dịp đi thăm con rể trở về đến bờ sông Hoàng Hà trời đã chạng vạng, thấy một người say rượu, hai ba tiểu đồng theo sau, ngất ngưởng đi từ đầu kia tới, giáp mặt chàng hỏi chàng là ai đi đâu vậy? Chàng trả lời là kẻ đi đường. Người say giận nói:

- Chàng có tên họ gì, sao lại nói cụt ngủn là kẻ đi đường?

Đường xa trời tối, chàng sốt ruột đi về, cho nên chẳng buồn trả lời, cứ phăng phăng đi qua. Người say càng giận, nắm chặt lấy áo chàng không cho đi, mùi rượu xông lên sặc sụa. Chàng rất khó chịu mà cố sức gỡ mình ra không được bèn nói xẵng:

- Nhà ngươi tên chi?

Người say đáp giọng lè nhè:

- Ta là Lệnh Doãn cũ ở Nam Đô. Mà chú hỏi làm chi.

Chàng nói:

- Thế gian có thứ Lệnh Doãn như vậy, thật là chửi thiên hạ. Ấy, may là Lệnh doãn cũ, phải là Lệnh doãn mới, dễ thường phải giết hết người ta chăng?

Người say giận lắm, toan giở võ ra với chàng. Chàng dõng dạc nói:

- Ta đây là Phùng mỗ, không chịu anh đánh đâu.

Nguời say nghe nói, liền đổi giận làm vui, cúi mọp xuống lạy mà nói:

- Ngài là ân nhân của tôi, vừa rồi đường đột, xin đừng chấp trách.

Đoạn, trỗi dậy bảo tiểu đồng đi mau về nhà trước dọn rượu. Chàng từ chối không được, nắm tay cùng đi vài dặm, đến một xóm nhỏ. Vào trong thì nhà cửa sang trọng, như phủ đệ qúy nhân. Sau khi thấy chủ nhân đã tỉnh rượu, chàng mới hỏi thăm tên họ là gì. Chủ nhân nói:

- Thú thật với ông xin ông chớ kinh hãi. Tôi là bát Đại Vương ở sông Thao đây. Mới đây, Thanh Đồng ở Sơn Tây mời đi uống rượu trở về có hơi quá say, nên mới xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn.

Chàng biết là yêu quái nhưng thấy tình ý niềm nở cho nên chẳng sợ hãi. Giây lát tiệc bày linh đình, mời chàng uống rượu nói chuyện. Bát vương uống cực hăng một hơi đã cạn luôn mấy ly lớn. Chàng sợ hắn lại say, sinh sự rắc rối như hồi nãy, bèn giã đò mình say đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý, cười nói:

- Ông sợ tôi say quá hóa cuồng chăng? Xin ông chớ lo. Phàm người say nói xằng làm bậy, mà bảo rằng qua sáng mà tỉnh rượu, không còn nhớ gì việc mình là, ấy là nói dối, nhưng đối với người trưởng giả như ngài, thật không dám làm điều vô hạnh. Tại sao ngài cự tuyệt tôi như thế?

Chàng nể lòng, lại ngồi xuống, nghiêm sắc mặt can gián:

- Ông đã tự biết mình lầm lỗi, sao không sử đổi đi?

Bát vương đáp:

- Lão phu hồi làm Lệnh Doãn, say sưa be bét còn quá ngày nay. Từ ngày chọc giận Thượng đế, bị đày ở cù lao, cố chừa thói cũ, được hơn mười năm. Nay nghĩ mình già yếu sắp sửa vào hòm, mà tấm thân còn vất vả chẳng được vẫy vùng, cho nên thói cũ lại muốn trở lại mà không tự biết đó thô. Nay được ngày khuyên bảo, tôi xin vâng lời.

Còn đang nói chuyện, thì nghe thấy tiếng chuông chùa xa đã gõ. Bát vương đứng dậy cầm tay chàng nói:

- Tôi cùng ngài tụ họp không được lâu, vậy có một vật báu, xin tặng ngài để báo đáp ơn xưa. Vật này chẳng nên mang lâu. chừng được như nguyện rồi, xin trả lại cho tôi.

Nói đoạn, khạc trong miệng ra một hình nhân bé tí hon, độ chừng một tấc, rồi móng tay nọn rạch cánh tay chàng đau như xé ruột, vội vàng đặt hình nhân lên trên mà đè thật mạnh. Khi buông tay thì hình nhân đã lọt vào da thịt, mà dấu móng tay còn rành rành. Chàng sợ hãi cuống quít, Bát vương cười mà không đáp, chỉ nói rằng:

- Ngài nên đi thôi.

Đoạn tiễn chân chàng ra cửa. Bát vương trở lại.

Chàng ngoảnh lại, xóm làng nhà cửa đều biến mất, duy một con ba ba đang bò xuống sông, chàng sửng sốt giây lâu tự nghĩ vật báu mới cho tất là ngọc ba ba.

Từ đó cặp mắt cực sáng; phàm chỗ nào có châu báu, dù ở suối vàng cũng trông thấy. Ngay đến vật gì thuở nay không từng biết bao giờ cũng ứng khẩu nói ra đích danh. Nhờ vậy mà đào lên được mấy trăm bạc chôn giấu ngay trong buồng ngủ, thành ra sự ăn tiêu hơi phóng túc.

Sau có người bán ngôi nhà cũ, chàng dòm thấy tiền bạc chôn giấu nhiều lắm, bèn mua giá đắt để làm nhà ở. Dần dà giàu có ngang bậc vương hầu, phàm loại ngọc quý trong thiên hạ, nhà chàng sưu tập tích súc đủ cả.

Trong số đó có một tấm gương, sau lưng chạm trỏ hình chim phượng và bà Tương Phi, bề mặt chiếu sáng tới ngót một dặm, rõ ràng từ mảy tóc sợi lông, có thể đếm được.

Nhất là mỹ nhân nào soi gương này, tức thời hình dạng in vào gương, chùi lau cách gì cũng không mất được. Nếu người đó thay quần áo khác mà soi lại, hoặc một mỹ nhân khác soi thì hình ảnh in trước mới được mất đi.

Lúc bấy giờ, bà chúa Ba, con gái Túc vương ( tức là Túc Trang Vương), hoàng tử thứ mười bốn của Thái tổ nhà Minh nhan sắc tuyệt đẹp, chàng vẫn nghe danh mộ tiếng. Nhân dịp bà chúa đi chơi núi Không Động, chàng đi trước, lén núp trong hang, rình khi chúa ở trên kiệu bước xuống, lấy gương ra thu hình ảnh rồi mang về.

Chàng về, đặt gương trên bàn, nhìn kỹ, thấy mỹ nhân ơ trong, tay cầm khăn, miệng mỉm cười và mấp máy muốn nói, làn sóng mắt cũng long lanh muốn động, chàng mừng quá giấu kỹ một nơi.

Hơn một năm, vợ ngồi lê đôi mách, nói lộ chuyện ấy ra, lọt đến tai Túc phủ.

Túc vương cả giận, bắt giam chàng lại, đòi lấy tấm gương và định đem đi chém. Chàng hối lộ rất nhiều cho một vị thân tín trong phủ, nhờ băn tin với Túc vương rằng:

- Nếu vương tha thì của gì báu nhất trên đời, muốn có cũng dễ. Bằng không, tôi chỉ chết là cùng, sự đó lại chẳng ích lợi gì cho vương.

Túc vương muốn tịch thu gia sản và đày chàng đi xa. Chúa Ba nói:

- Hắn đã dòm con rồi, dù hắn chết mười phần, cũng không gội rửa cái nhơ bẩn này, chi bằng gả con cho hắn là hơn.

Vương không nghe. Chúa đóng cửa không chịu ăn. Vương phi lo quá, hết sức nói với vương, bấy giờ vương mới chịu thả chàng ra khỏi ngục, lại sai người thân ngỏ ý với chàng. Chàng từ chối:

- Vợ tôi lấy từ thuở hàn vì, nghĩa không sao bỏ đặng. Tôi thà chết, chứ không dám phụng mạng. Nếu vương cho tôi chuộc tội thì hết nhà hết cửa cũng cam.

Vương giận lắm, lại bắt chàng giam ngục.

Bà vương phi vời vợ chàng vào trong cung, toan đánh thuốc độc cho chết. Nàng đem chiếc giá gương bằng san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ cực mềm mỏng. Vương phi rất vui lòng, sai giáp mặt Chúa Ba, chúa cũng ưng ý, đính ước làm chị em, rồi sai người vào ngục dụ dỗ chàng nữa. Chàng nhắn bảo vợ: "Con nhà vương hầu, không nên kể trước sau mà bàn chuyện lớn bé được".

Vợ không nghe, cứ việc sắm lễ vật, đưa nộp vương phủ. Số người mang đội lễ có hàng ngàn, nhiều thứ châu báu quý ngọc lạ, nhà vương không biết tên gì. Vương mừng thả chàng về làm lễ cưới với chúa. Hôm chúa về nhà chồng, cũng đem gương báu cùng về.

Một đêm chàng nằm một mình, mộng thấy Bát vương nghênh ngang đi vào nói:

- Món đồ tôi tặng năm xưa, giờ nên trả lại. Mang nó trong mình lâu quá tổn hao tâm quyết và haị mạng nữa.

Chàng xin vâng, muốn cầm giữ Bát vương ở lại uống rượu chơi, nhưng Bát vương từ chối:

- Thôi, rượu thì tôi xin kiếu. Từ lúc nghe lời ông khuyên can, tôi bỏ dứt hơi men, được ba năm rồi.

Đoạn há miệng cắn vào tay chàng. Đau quá chàng tỉnh dậy, xem cục thịt nổi đã tiêu mất rồi. Từ đó y như người bình thường.

Gái Báo Thù Cha

Xưa ở Chư Cát Thành có Thường Sĩ Vũ là kẻ sĩ nhân. Do say rượu nói điều ngỗ ngược với vị huyện hào, Thường bị vị nọ sai gia nô túm lại đánh cho tơi bời, về đến nhà thì chết.

Thường có hai con trai, cả tên Thần, thứ tên Lễ, người con gái là Tam Quan, tuổi vừa trăng tròn lẻ, đẽ hẹn kỳ xuất giá, song vì việc cha phải dừng. Hai anh đâm đơn kiện, một năm ròng chưa được hỏi đến. Nhà trai sai người đến thăm dò hỏi ý kiến bà mẹ xin cho được tòng quyền cưới chạy tang. Bà mẹ đã xiêu nhưng cô gái thưa lại:

- Cha mất chưa kịp lạnh, sao có thể tính chuyện vui mừng? Dễ họ không có cha mẹ hay sao?

Nhà trai nghe thấy điều ấy, lấy làm xấu hổ đành bỏ ý định.

Không bao lâu, vụ kiện không được xét, hai người anh trai đành đội đơn về, cả nhà khôn xiết đau thương. Hai anh bàn hãy lưu thi hài cha, chưa chôn cất vội để tiếp tục theo kiện, Tam Quan nói:

- Người bị sát hại mà không được xử, đủ biết sự thế ngày nay như thế nào rồi?Có dễ trời sinh riêng cho anh em ta một Bao Công chăng? Ta nỡ lòng nào cứ để thi hài cha phơi mãi như thế!

Hai anh phục lời nói ấy, liền lo ngay việc mai táng cha.

Việc tang vừa xong, bỗng ban đêm Tam Quan trốn nhà đi đâu không biết. Bà mẹ coi chuyện này là điều tủi hổ cho gia phong nên sợ nhà trai nghe thấy, không dám để lộ chuyện với bà con họ hàng, chỉ rỉ tai hai con trai phải kín đáo dò tìm xem sao. Song nửa năm dã qua vẫn không thấy tăm tích Tam Quan.

Gặp dịp huyện hào bày lễ mừng thọ, gọi phường hát đến mua vui. Trùm phường họ Tân, dẫn theo hai đàm em giúp việc, một gã tên Vương Thành dung mạo bình thường nhưng tiếng trong vắt, mọi người tán thưởng lắm; một gã tên Lý Ngọc, mặt mày xinh đẹp như con gái, chủ bảo hát cứ cố từ rằng không được thường luyện, nài ép mãi thì ca giọng hát nửa phần lẫn lộn những khúc điệu dân ca của đàn bà con gái. Nghe xong cả đám vỗ tay cười rầm rĩ. Tân xấu hổ quá, phải thưa thực với chủ:

- Nó mới học chưa được bao lâu chỉ mới biết hầu rượu xin chớ trách mắng.

Rồi Tân sai gã ta đi chuốc rượu. Lý Ngọc lại qua nhẹ nhàng lúng liếng khi rót ra mời, lại rất khéo chiều ý hướng của chủ khiến ông ta đẹp lòng lắm.

Rượu tàn, khách về, huyện hào lưu Ngọc lại cùng ngủ. Ngọc rũ giưòng cởi giày cho chủ ân cần, chu đáo lắm. Huyện hào vờ say rượu ôm ấp cợt nhả, Ngọc chỉ mỉm cười, cho nên lão ta càng mê tợn. Hắn đuổi hết đầy tớ ra chỉ để một mình Ngọc lại. Ngọc đợi mọi người ra hết liền đóng cửa, khóa trái.

Bọn đầy tớ sang nhà khác ăn uống. Lát sau nghe thấy tiếng động công cốc trên sảnh nơi chủ ngủ, một người chạy sang, chỉ thấy trong sảnh tối đen như mực, im lặng như tờ, quay trở về, bỗng nghe tiếng huỵnh như có vật gì nặng treo cao đứt dây rơi xuống. Lên tiếng hỏi, không thấy trả lời. Gọi mọi người phá cửa vào, thấy chủ nhân đầu lìa khỏi xác. Còn Ngọc thì treo cổ tự tử, dây đứt xác rơi xuống đất. Trên xác vẫn còn lủng lẳng một đoạn dây.

Mọi người trong nhà kinh hãi, tụ tập bàn tán, không hiểu ra sao. Họ khiêng xác Ngọc ra sân, thấy trong giày và bít tất dường như không có bàn chân, cởi ra thì thấy bàn chân bó nhỏ, hóa ra là con gái. Họ lại càng hoảng gọi Tân đến gặng hỏi. Tân hãi quá, không biết trả lời thế nào, chỉ biết sơ sài: "Tháng trước, Ngọc đến xin làm đàn em, được đi theo đến cuộc lễ mừng thọ, thực không biết từ đâu đến".

Vì thấy Ngọc mang đồ tang, họ ngờ là thích khách nhà họ Thương, tạm cử hai người trông coi xác. Cô gái nét mặt vẫn đẹp như ngọc, vỗ về thì thân thể tay chân ấm lại. Hai chàng máu dê liền giở trò khả ố. Một anh ôm lấy thi thể vần vò xoay nghiêng xoay ngửa, đang lần cởi giải thì đầu như một đòn búa bổ, máu mồm, máu mũi hộc ra, chết đứ đừ, còn anh kia thoát chết, kể chuyện lại với mọi người. Co gái được coi như thần.

Vụ này được báo lên quận, Quan hỏi Thần và Lễ, họ đều nói không biết gì, còn cô em Tam Quan thì đã bỏ nhà đi từ nửa năm rồi. Họ đến thử xem thì đúng là Tam Quan. Quan cũng phải coi điều kỳ lạ, truyền hai anh em mang thi hài em về mai táng, lại sức khuyên nhà huyện hào chớ có cậy thế gây thù chuốc oán nữa.

Bức Họa Trên Tường

Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức" Thiên nữ rắc hoa", ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.

Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức tường.

Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể.

Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo.

Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên có vẫy gọi, chàng liền bước theo vào.

Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích.

Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến.

Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền trêu trọc nàng rằng:

- Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm gái còn son ư?

Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên.

Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo:

- Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui.

Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên, vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng xinh đẹp gấp bội.

Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái.

Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nông, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ huyên náo.

Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy, đám thiếu nữ xúm xít xung quanh.

Sứ giả nói:

- Ðã đủ chưa?

Có tiếng đáp:

- Ðủ cả rồi.

Sứ giả lại nói:

- Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ để phải hối về sau.

Cả bọn đồng thanh đáp:

- Không có đâu!

Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp.

Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng:

- Mau trốn xuống gầm giường.

Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất.

Chu nằm bẹp xuống, không dám thở.

Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra.

Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng người qua lại bàn bạc.

Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây.

Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi Nhà Sư.

Vị sư cười đáp:

- Ði nghe thuyết pháp rồi.

Mạnh Long Ðàm hỏi:

- Ở đâu?

Nhà Sư đáp:

- Không xa.

Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng:

- Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về?

Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai, chừng như nghe ngóng.

Nhà Sư lại gọi tiếp:

- Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy.

Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn.

Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han.

Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình.

Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên, không còn xõa tóc nữa.

Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ.

Nhà Sư cười đáp:

- Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được!

Chu ỉu xìu mất cả khí thế.

Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra về.

Hồ Gã Con

Có một Thiên Quan họ Ân, người Lịch Thành thuở nhỏ, nhà nghèo, thường tỏ ra gan dạ. Trong ấp có khu nhà của một cố gia, rộng vài chục mẫu, lầu viện liền nóc, thường thấy chuyện quái dị, vì thế mà bỏ hoang, không ai ở.

Lâu ngày tranh cỏ mọc um tùm, giữa ban ngày cũng không ai dám bén mảng đến.

Một hôm, Ân đang cùng các bạn học trò uống rượu, có người nói đùa:

- Ai dám ngủ trong nhà đó một đêm, chúng tôi sẽ góp tiền đãi bữa rượu.

Ân ngồi nhổm ngay dậy, nói:

- Khó gì việc ấy:

Rồi cắp một chiếc chiếu mà đi. Chúng bạn tiễn Ân đến cổng, bảo đùa rằng:

- Chúng tôi hẵng đợi ngoài này, nếu như có thấy điều gì thì kíp gọi to lên.

Ân cười đáp lại:

- Nếu có ma hãy hồ thì sẽ tóm cổ đưa về làm bằng

Nói rồi đi vào. Thấy lau sậy mọc khuất cả lối đi, các loài cỏ dại mọc rậm như gai.

Hôm đó, nhằm khoảng đầu tháng, trăng non mờ nhạt, nên cửa ngõ cũng phân biệt được.

Ân đưa tay lần vách mà đi mãi, mới đến khu lầu phía sau.

Trèo lên sân thưởng nguyệt, thấy sáng sủa, sạch sẽ, một vành trăng sáng ngậm trên đầu núi, ngồi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, trong bụng cười thầm cho là thiên hạ đồn hão.

Rồi giải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá, nằm ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.

Canh khuya, lơ mơ muốn ngủ, Ân chợt nghe dưới lầu có tiếng giầy lẹp kẹp đi lên.

Ân vờ ngủ, ghé mắt xem, thấy một nàng áo xanh xách chiếc đèn hoa sen, thốt nhiên nhìn thấy Ân thì giật mình lùi bước, bảo với người đi sau rằng:

- Có người lạ trên này.

Người bên dưới hỏi:

- Ai vậy?

- Cô gái đáp rằng:

- Không biết.

Giây lát, một ông già bước lên, đến tận nơi nhìn kỹ, nói:

- Ðây là quan thượng thư họ Ân. Ngài đã ngủ say, ta cứ làm việc mình. Ông lớn là người không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quở trách đâu.

Họ bèn đưa nhau lên, vào cả trong lầu. Các cửa lầu mở hết. Một lát nữa, kẻ đi người lại càng nhiều. Trên lầu, đèn sáng như ban ngày.

Ân khẽ cựa mình, cất tiếng ho hắng.

Ông già thấy ông đã tỉnh, bèn bước ra, quỳ xuống thưa rằng:

- Kẻ hèn mọn này có đứa con gái sắp gả chồng, đêm nay cho cháu làm lễ vu quy; không ngờ xúc phạm đến quan nhân, mong ngài lượng thứ.

Ân ngồi dậy, đỡ ông lão lên nói:

- Không biết hôm nay là ngày vui mừng của nhà ta, thật áy náy vì không có gì để mừng tặng.

Ông già đáp:

- Ðược quan nhân hạ cố, trấn áp điềm hung hiểm, là may lắm rồi. Lại xin được phiền ngài ngồi lại cùng vui, quý hóa biết chừng nào

Ân cũng mừng, nhận lời.

Vào trong lầu, nhìn xem, thấy bày biện đẹp đẽ, trang nhã.

Lúc ấy, có người đàn bà bước ra vái chào, tuổi đã ngoại bốn mươi. Ông già nói:

- Ðây là tiện nội.

Ông vái chào lại.

Bỗng nghe tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai, có người nhà chạy vội lên thưa:

- Ðến rồi!

Ông lão chạy ra đón, Ân cũng đừng đợi.

Phút chốc, một chiếc đàn lồng bằng sa mỏng, dẫn chú rễ vào.

Chù rễ tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người sáng sủa, thanh tú.

Ông già bảo hãy chào quan khách trước.

Chàng trai đưa mắt nhìn ông.

Ông giữ chân tiếp khách dùm chủ nhà, nên nhận lễ nửa khách nửa chủ. Thứ đến là bố vợ và chàng rễ giao bái. Xong, bèn ngồi vào bàn tiệc.

Một loáng, đám người phấn sáp kéo lên như mây. Rượu thịt bày la liệt. Chén ngọc, bình vàng sáng nhoáng, chiếu rọi lên bàn ghế.

Rượu được vài tuần, ông già bảo con hầu vào mời tiểu thư ra.

Con hầu vâng lời đi vào, lúc lâu vẫn không thấy ra.

Ông lão tự mình đứng lên, vén bức màn, giục ra.

Phút chốc, một bọn hầu gái, trẻ có già có, cùng đỡ cô dâu ra.

Tiếng ngọc đeo vang lên lanh canh, mùi lan thơm sực nức.

Ông già truyền bảo nàng hãy trông lên mà chào lạy.

Lạy xong cô dâu đứng dậy, ngồi bên cạnh bà mẹ.

Ân đưa mắt liếc nhìn, thấy cô tóc phượng cài trâm thu, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp.

Thế rồi, rót rượu vào chén vàng, mỗi chén lớn chừng vài đấu.

Ân nghĩ:

-Vật này có thể đưa cho bạn bè làm chứng được, bèn giấu vào trong tay áo rồi vờ say, tựa xuống ghế, gục đầu mà ngủ.

Mọi người đều nói:

- Ông lớn say rồi!

Không bao lâu, nghe tiếng chú rễ có lời xin rước dâu.

Tiếng nhạc, tiếng sênh lại nổi lên, mọi người nhộn nhịp xuống lầu ra đi.

Xong xuôi, chủ nhân thu dọn bàn tiệc, thấy thiếu mất một cái chén, tìm khắp không thấy.

Có người bàn, vụng ngờ cho ông khách đang nằm ngủ.

Ông già vội gạt đi không cho nói hết, chỉ sợ Ân nghe được.

Lúc lâu nữa, trong ngoài im lặng cả, Ân mới trở dậy.

Tối mò không có đèn đuốc gì, chỉ có mùi thơm của phấn sáp và hơi rượu, như còn đầy cả bốn quanh tường.

Trông ra, hừng đông đã rạng, bèn thong thả bước ra. Sờ vào trong tay áo, cái chén vàng vẫn còn.

Ra đến cổng thì bạn bè đã đợi sẵn, họ cứ ngờ Ân đang đêm lẻn ra, gần sáng mới trở vào.

Ân đưa chén cho xem, ai cũng kinh ngạc, dò hỏi.

Ân bèn kể rõ đầu đuôi cho biết. Chúng đều nghĩ vật này thì anh học trò nghèo chẳng thể nào có, mới tin là chuyện thực.

Về sau, ông thi đỗ Tiến sĩ, nhậm chức ở Phù Khâu.

Có nhà gia thế họ Chu thết tiệc ông, sai lấy bộ chén lớn, mà mãi vẫn không thấy người hầu mang ra.

Có đứa hầu nhỏ che miệng nói thầm với chủ nhân điều gì đấy, nét mặt chủ nhân có vẻ tức giận.

Một lát sau đem bộ chén vàng ra, rót mời khách uống.

Nhìn kỹ kiểu chén cùng đường trạm trổ, không khác chút gì với thứ chén của hồ dạo nào.

Ân lấy làm lạ , Ân hỏi chén này chế tạo ở đâu. Chủ nhân đáp:

- Bộ chén này cả thảy có tám chiếc, đời ông thân tôi làm quan Khanh tại kinh, kén tìm thợ khéo chế ra, nên lấy làm vật gia bảo truyền thế, cất kỹ từ lâu. Vì được đại nhân hạ cố mới lấy ở trong hòm ra, thì chỉ còn bảy chiếc.

Ngờ đâu người nhà lấy trộm, mà dấu niêm phong mười năm vẫn như cũ, thật chẳng hiểu sao nữa.

Ân cười bảo:

- Chén vàng mọc cánh bay mất rồi, những vật báu truyền đời không nên để cho mất. Tôi có một chiếc cũng gần giống, xin đem để tặng ngài.

Tiệc xong, về dinh, ông lấy chén ra, cho người mang đến.

Chủ nhân xem kỹ, rất kinh hãi, đích thân đến tạ ơn, và hỏi nguyên do chiếc chén từ đâu mà có.

Ân bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện.

Mới hay rằng vật ngoài nghìn dặm, hồ cũng có thể lấy được, duy chỉ không dám giữ làm của mình.

Mưa Tiền

Thư sinh tú tài xứ Tân Châu đang đọc sách trong phòng học thì có tiếng gõ cữa. Một ông già tóc trắng phơ phơ, dáng người cũ kỹ bước vào.

Thư sinh đón mời vào hỏi họ tên. Ông cụ cho biết ông họ Hồ, tên Dưỡng Chân, vốn là hồ tiên, vì mến mộ chàng là người coa nhã, xin được đến cùng ăn ở sớm khuya.

Thư sinh tính khí khoáng đạt cho nên cũng không nghi ngại gì, hàng ngày cùng nhau bàn luận cổ kim. Ông cụ đặc biệt uyên bác, nói năng vanh vách như nhả ngọc phun châu, về mặt kinh nghĩa lại càng sâu sắc. Thư sinh tự thấy mình không thể kịp, càng kính phục lắm, lưu ông cụ ở lại rất lâu.

Một hôm thư sinh ngỏ lời tâm tình:

- Cụ thấy tôi là người hiền lành, phúc hậu mà lại nghèo khổ thế này. Cụ chỉ ra tay một chút là vàng bạc đến ngay, sao cụ không gia ơn cho chút đỉnh?

Ông cụ "hừ" một tiếng, tựa như cho là không thể được. Nhưng lát sau lại cười bảo:

- Việc đó cực dễ! Nhưng phải có mười đồng tiền mẹ làm mồi.

Thư sinh đưa ra đủ. Ông cụ dẫn vào một cái buồng kín đáo rồi làm phép, bắt quyết đọc chú. Chỉ một lát bỗng hàng chục vạn, tặm vạn đồng tiền từ trên nóc nhà loảng xoảng rơi xuống y như mưa rào vậy. Loáng cái đã ngập đến đầu gối người đứng dưới, rút chân đứng lên trên tiền lại ngập đến bắp vế. Một căn nhà rộng mênh mông mà tiền ngập đến ba, bốn thước.

Ông cụ quay lại hỏi chàng thư sinh:

- Thế nào, vừa ý anh chưa?

- Thưa đủ rồi - Chàng hoan hỉ trả lời.

Ông cụ vẫy tay một cái mưa tiền ngưng lại. Rồi cùng nhau đóng cửa gài then đi ra.

Chàng thư sinh mừng quá chắc mẩm phen này giàu nứt đố đổ vách. Lát sau phải vào căn nhà ấy để lấy đồ thì ôi thôi, căn nhà đầy tiền đã rỗng không. Chỉ còn mười đồng tiền mẹ làm mồi, nằm chỏng chơ ở đó.

Hy vọng thế là tiêu tan, chàng thư sinh tức điên lên, oán trách ông già lừa mình. Ông già nổi giận mắng lại:

- Lão này với anh chỉ là bạn văn chương chữ nghĩa, chứ không định cùng anh làm giặc. Muốn được như ý của anh thì phải kết thân với bọn trèo tường khóet vách, chứ lão đây không thể vâng mệnh!

Nói rồi phủi áo bỏ đi.

Thuật Mồm

Có một cô gái tuổi chừng hai bốn, hai nhăm, khoác một túi thuốc đến làng bán. Người đến chữa bệnh, cô gái không biết kê đơn bốc thuốc, khất đợi tối đến hỏi thần.

Tối đến, cô ta dọn dẹp sạch sẽ căn buồng nhỏ, cài chặt cửa bên trong. Mọi người xúm đến quanh cửa sổ nhưng chỉ dám thầm thào nói nhỏ không dám ho. Trong ngoài lặng ngắt như tờ. Khoảng nửa trống canh sau bỗng rèm động, cô hàng thuốc hỏi:

- Cô Chín đến đấy ư?

Tiếng con gái đáp:

- Đến đây.

Lại hỏi:

- Lạp Mai có theo hầu cô Chín đến đây không?

Ả thị tì trả lời:

- Đến rồi ạ!

Ba người líu ríu trò chuyện. Lát sau, rèm lại động, cô bán thuốc reo lên:

- A! Cô Sáu đến rồi.

Tiếng tíu tít hỏi:

- Xuân Mai có bế cậu nhỏ theo không?

Tiếng một ả khác:

- Cậu cứ khóc không chịu ngủ, nằng nặc đòi theo nương tử. Gớm, nặng đến hàng tạ, cõng tưởng chết người.

Rồi tiếng cô bán thuốc ân cần, tiếng cô Chín thăm hỏi, tiếng cô Sáu hàn huyên, tiếng hai thị tì rúc rích, tiếng cậu bè cười đùa, tất cả cứ rối rít lên. Lại nghe cô hàng thuốc cười nói:

- Chàng nhỏ này nghịch quá xá, xa thế mà còn đem theo cả con mèo.

Sau đó lời qua tiếng lại thưa thớt dần. Bỗng rèm lại động. Gian buồng lại lao nhao lên:

- Cô Bốn sao đến chậm vậy?

Tiếng một cô bé gái lí nhí:

- Đường xa hơn nghìn dặm, đi với cô bao nhiêu lâu mới tới được. Cô đi hơi chậm.

Rồi tiếng nói chuyện dông dài, tiếng chuyển chỗ, tiếng gọi lấy thêm ghế, cứ láo nháo lào nhào, phải chừng giập bả trầu mới tạm ngớt.

Đến lúc cô hàng thuốc cầu xin đơn thuốc. Cô Chín nói phải có sâm. Cô Sáu nói phải có kỳ. Cô Bốn nói phải có truật, cùng bàn nhau châm chước. Một lúc có tiếng cô Chín lấy bút nghiên, tiếng xé giấy soàn soạt, tiếng đặt cán bút canh cánh, tiếng mài mực rí rách, tiếng cầm bút viết, tiếng chân chạm ghế, rồi tiếng gói thuốc loạt soạt.

Lát sau, cô hàng thuốc vén rèm gọi con bệnh nhận thuốc lấy đơn. Khi cô ta quay vào buồng, tức thì tiếng bà cô cáo biệt, tiếng bà thị tì cáo biệt, tiếng cô bé bi bô, tiếng con mèo meo meo, tất cả lại rộ lên. Giọng cô Chín trong, hơi cao. Giọng cô Sáu chậm mà buồn. Giọng cô Bốn mềm mại dịu dàng. Gịong ba ả thị tì đều có sắc thái riêng nghe thường có thể phân biệt.

Dân làng tin là thần giàng thật, song uống thuốc thử không kiến hiệu.

Đó gọi là thuật mồm, dùng nó để bán thuốc cho chạy. Song ở đời cũng khối việc kỳ như vậy!

Kiếm Khách

Đổng sinh, người Từ Châu ưa thích kiếm thuật thường hay khoe khoang tự phụ. Một hôm đi cùng đường với một người lạ. Sinh gợi chuyện làm quen tuôn ra toàn giọng an hùng quá đáng. Được biết người ấy họ Đổng ở đất Liêu Dương, Sinh hỏi ông ta đi đâu. Người ấy đáp:

- Tôi xa nhà lang bạc đã hai mươi năm nay, vừa từ hải ngoại về.

-Ông ngao du bốn bể, gặp người cũng nhiều, có thấy bậc dị nhân nào không?

- Dị nhân về mặt nào?

Đổng kể sở thích của mình và lấy làm tiếc không được bâc dị nhân nào truyền cho kiếm thuật. Người lại hỏi:

- Ở đâu mà chẳng có dị nhân. Song phải là tôi trung, con hiếu thì mới mong được dị nhân truyền cho.

Đổng hứng chí huênh hoang là mìn sẽ làm được như thế. Rồi rút gươm ra, vỗ vào gươm mà hát. Nhân đà hưng phấn, Đổng phạt một cây nhỏ bên đường để khoe kiếm sắc. Khách vuốt râu mỉm cười, tiện thể mượn gươm ngắm xem, Đổng đưa cho xem lấy lệ. Khác chê:

- Đây là thứ kiếm xoàng, thép đã non lại ám mồ hôi. Kẻ hèn này tuy chưa nghe về kiếm thuật nhưng cũng sẳn có một thanh dùng được.

Nói rồi ông rút trong áo ra một thanh đoản kiếm chừng một thước, lấy nó gọt gươm của Đổng ngọt như cạo khoai. Tiện tay lại phạt một ô đất chằn chặn như tiện. Đổng phát khiếp nằng nặc đòi xem, rồi lại ngứa ngáy nghề cầm lấy múa máy trông như phủi bụi. Rồi Đổng mời người nọ về nhà cố lưu lại một đêm, lân la hỏi han về kiếm pháp. Khách một mực tạ từ không biết. Đổng phải quỳ gối xin, lời lẽ vẫn hùng hồn trống rỗng. Khách chỉ kính cẩn lặng im ngồi nghe.

Đêm đã khuya. Bỗng ở nhà bên-nhà cha mẹ Đổng ở- có tiếng ồn ào mã bắt. Đổng sợ hãi không biết chuyện gì, vội chạy đến sát tườnội giámnghe. Có tiếng quát tháo:

- Gọi con mày ra chịu tội chết. Nếu không sẽ bắt mày.

Rồi tiếng đánh đập tới tấp. Tiếng rên rỉ không dứt. Đúng là tiếng cha của Đổng.

Đổng vớ lấy ngọn mác muốn xông sang. Khách ngăn lại:

- Ra khỏi đây, e anh khó thóat chết. Hãy nên xét kỹ được vẹn toàn.

Đổng đâm hoảng xin chỉ giáo cho, khách nói:

- Quân cướp tìm bắt anh là rắp tâm muốn giết anh. Anh không còn ai là cốt nhục ở đây, vậy nên dặn dò trối trăn lại vợ con đã. Tôi sẽ mở cửa giúp anh trị tội bọn ấy.

Đổng theo lời, vào nói với vợ. Vợ níu lấy áo khóc. Thế là bao "hùng khí" ở Đổng bỗng chốc xẹp hết. Anh ta theo khách lên lầu, tìm cung, tìm tên để đề phòng bọn cướp đánh sang. Anh ta còn hoảng hốt đã nghe tiếng khách trên mái lầu cười ha hả:

- May quá, cướp chạy rồi!

Đổng vội đốt đuốc lên, thì khách đã biến đâu mất, thập thò cổ ngó sang nhìn nhà bên thì Đổng ông đang ở hàng xóm uống rượu. Đốt đèn mời ông về nhà chỉ thấy trên sân đầy cỏ may và than bụi.

Mới biết ông khách lạ đó chính là dị nhân.

Trung hiếu là quý tính của người xưa. Xưa nay những kẻ là con không thể xả thân vì cha, lúc đầu há không có một chút toan cầm mác xông ra như Đổng ư? Cuối cùng chỉ cần trong nháy mắt lại nhầm lẫn u mê. Ngày xưa Giả Đại Thân và Phương Hiếu Nhu đã thề cùng nhau sống chết thế mà sau lại nuốt lời (1). Biết đâu khi về nhà lại nghe tiếng bạn cầu cứu ở đầu giường.

Làng ta có một anh lính thuộc loại vô lại. Một hôm đi đâu trở về, hắn bắt gặp một chàng trai trẻ từ trong buồng vợ mình ra. Ngờ vực, căn vặn vợ, vợ khăng khăng chối. Sau hắn bắt được tang chứng gã trai kia để lại ở đầu giường, vợ không chối được quỳ xuống khóc lóc xin tha tội. Hắn giận lắm, vứt cho cuộn dậy bắt phải thắt cổ chết. Vợ xin vào buồng trang điểm, hắn ngồi đợi ngoài, vừa rót rượu uống vừa chửi mắng thúc giục. Lát sau, cô vợ lộng lẫy trong y phục choáng lộn bước ra, nuốt lệ trách:

- Anh nhẫn tâm quá, nỡ bắt tấm thân xấu xa hèn mọn này chết thật ư?

Hắn vẫ làm vẻ tức giận, đùng đùng quát tháo ầm ĩ. Vợ không làm thế nào được đành trở vào buồng, vừa định tròng dây vào cổ thì chồng nâng chén rượu giật giọng gọi ra cười hềnh hệch:

- Thôi ra đây ta bảo: Một thằng khăn xanh (2) như ta lẽ nào bắt người khác chết được ư?

Rồi lại ăn ở với nhau khắn khít nồng nàn như thuở ban đầu.

Anh này cũng loại Đại Thân, Đổng Sinh. Đáng buồn cười vậy.

(1) theo Minh sử: Giả Đại Thần thời Hồng Vũ (Minh Thái Tổ, từ năm 1368) kết nghĩa cùng với một số danh sĩ trong đó có Hiếu Nhu, thề sống chết hoạn nạn có nhau. Sau Hiếu Nhu bị phanh thây ngoài chợ, có vài người bạn chết theo, còn phần lớn nuốt lời làm ngơ.

(2) thời Xuân Thu, ở TQ có những kẻ chuyên buôn bán đổi chác vợ kiếm lời, gọi là "xuớng phu". Bọn này phải lấy khăn xanh bịt đầu để phân biệt với các loại người sang. Sau gọi chung những kẻ bịt đầu xanh (lục đầu cân) là loại ti tiện.

Lấy Vợ Công Chúa

An Đại Nghiệp, người Lô Long, mới lọt lòng đã biết nói, bà mẹ phải lấy máu chó đổ cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai, chẳng ai bì kịp, lại thông minh học giỏi, nhiều nhà giàu sang muốn gả con gái cho.

Lúc trước, bà mẹ thường chiêm bao thần dạy:

- Con mụ sẽ lấy công chúa.

Trong bụng rất tin. Nhưng con đến mười lăm, mười sáu tuổi, chưa thấy linh nghiệm, khiến bà lần hồi ăn năn mình tin thần mộng quàng xiên.

Bữa nọ, An ngồi một mình, chợt có mùi thơm lạ sực nức, rồi một thị nữ đẹp chạy vào nói:

- Công chúa đến.

Vừa nói vừa trải chiếu dài trên mặt đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà, khít bên giường chàng ngồi. Chàng đang kinh ngạc hốt hoảng, thấy một thiếu nữ vịn vai gái hầu lững thững bước vào, y phục dung nhan sáng chiếu khắp nhà. Gái hầu lấy gối thêu, nệm gấm lót trên giường, rồi đỡ thiếu nữ ngồi xuống.

An luýnh quýnh không biết làm sao, vòng tay nói rất cung kính:

- Ngài là thần tiên ở núi nào, động nào, có lòng đoái tưởng, chịu dời gót giáng lâm nhà tôi?

Nàng mỉm cười, lấy tay áo che miệng không nói gì. Thị nữ nói:

- Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh Hậu. Vì Thánh Hậu để ý tới lang quân, muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự đến xem nhà cửa đó.

Chàng mừng quá không nói ra lời. Nàng cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau làm thinh.

Bình nhật chàng vốn thích đánh cờ, bàn cờ thường để bên cạnh. Một thị nữ lấy khăn đỏ lau bụi sạch sẽ, đem ra đặt trên bàn và nói:

- Thường ngày công chúa ưa cuộc tiêu khiển này, thử chơi với lang quân xem ai thắng nào?

Chàng dời ghế gần. Công chúa cười và gật đầu ưng thuận. Hai người qua lại độ ba chục nước, thị nữ thò tay xoá bàn cờ và nói:

- Thôi phò mã thua rồi.

Lượm quân cờ bỏ vào hộp, nói tiếp:

- Có lẽ phò mã là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ có thể nhường sáu con thôi.

Liền chọn sáu con cờ đem ra bày lại bàn cờ, công chúa cũng gật đầu.

Lúc nàng ngồi đánh cờ, sai thị nữ ngồi dưới, đưa lưng cho nàng gác cẳng, còn cẳng kia thõng xuống đất, thì một thị nữ khác phục xuống mà đỡ. Hai bên hai con bé đứng hầu. Mỗi lúc An ngẫm nghĩ nước cờ khó khăn, nàng co một cánh tay gác lên vai, ngồi đợi.

Ván cờ đánh mãi chưa phân thắng phụ, con hầu nhỏ cười nói:

- Phò mã thua một con.

Nhân dịp, thị nữ xen vào, thưa:

- Công chúa đã mệt mỏi, nên dẹp đi thôi.

Nàng nghiêng mình nói nhỏ bên tai thị nữ điều gì không rõ. Thị nữ chạy ra, giây lát trở lại, đặt ngàn vàng trên giường và bảo chàng:

- Mới rồi công chúa nói nhà cửa ẩm thấp, chật chội, vậy phiền lang quân dùng số tiền này sửa sang lại, sửa xong thì sum họp đó.

Một thị nữ khác nói:

- Tháng này phạm vào sao Thiên Hình, không nên xây dựng gì cả. Qua tháng sau tốt lắm.

Công chúa đứng dậy, chàng ra trước mở cửa. Thị nữ lấy ra một vật trông giống như cái túi bằng da, liền gõ tại đó, tức thì có mây ở bên trong toả ra tứ phía rồi thì hợp lại, mù mịt chẳng trông thấy công chúa và bọn tuỳ tùng đâu nữa.

Mẹ chàng hay chuyện, ngờ là yêu quái. Nhưng chàng mơ tưởng mẩn mê, không sao quên được, lo gấp công việc cất nhà bất chấp ngày tháng kiêng kị. Chàng hối thúc thợ làm, không mấy ngày mà cửa nhà mới hẳn.

Nguyên trước có người học trò Loan Châu, tên là Viên Đại Dụng, đến trọ ở xóm bên, đưa danh thiếp vào tận nhà chàng để xin ra mắt. Chàng vốn ít giao du bè bạn, cho nên thác cớ đi vắng không tiếp, lại dò được hồi Viên không có ở nhà tọ, mà đến chơi đáp lễ.

Hơn tháng sau, thình lình gặp nhau ngoài cửa, té ra Viên là chàng thiếu niên mới ngoài đôi mươi, y phục thanh nhã. An đứng nói chuyện qua loa, thấy người rất đứng đắn, trong bụng khoái lắm, liền mời vào nhà đánh cờ tướng chơi, mỗi bên đều có hơn thua. Sau đó bày rượu ra uống liên miên, chuyện vãn cực tương đắc.

Ngày hôm sau, Viên mời chàng đến nhà trọ mình, cũng đãi tiệc rượu ân cần tử tế. Có thằng tiểu đồng lối mười hai, mười ba gõ nhịp ca hát và nhảy múa giúp vui.

Chàng say quá bước đi không nổi, Viên sai tiểu đồng cõng về. Chàng thấy nó nhỏ con, yếu đuối, sợ không cõng mình đặng, nhưng Viên một hai bảo cứ để nó cõng xem. Quả nhiên nó chàng về nhà khoẻ re. Chàng lấy làm kì. Hôm sau đem tiền đến thưởng nó, nó chối từ đôi ba phen rồi mới chịu lãnh.

Từ đó, Viên với chàng giao tình thân mật, cách đôi ba ngày lại đến nhà nhau một lần.

Viên có tính sơ sài, lặng lẽ, mà khảng khái hay giúp đỡ người ta. Trong chợ có kẻ mắc nợ phải bán con gái đi, Viên trút túi ra chuộc giùm, không có vẻ tiếc của chút nào. Vì thế An càng kính trọng.

Cách mấy hôm sau, Viên đến từ giã chàng, tặng những đũa ngà, kì nam, cả thảy mười món, lại thêm năm trăm đồng bạc để giúp chàng chữa nhà. Chàng trả bạc lại, chỉ lấy đồ vật, và đưa vải lụa tặng lại.

Vài tháng sau đó, ấp Lạc Đình có người đi làm quan xa về, hòm xiểng đầy nhóc của cải. Đêm khuya, cướp vào nhà, bắt trói chủ nhân mà nung sắt nướng kìm, tra tấn thảm độc, rồi vơ vét sạch sành sanh.

Người nhà biết họ Viên làm vụ đó, bèn trình báo quan sở tại. Quan tư giấy khắp nơi tróc nã.

Lối xóm An có nhà họ Đồ, ngày thường vốn xích mích với nhà chàng, nay thấy chàng xây dựng cửa nhà to tát, trong bụng âm thầm ghen tức. Sẵn dịp có thằng nhỏ ở của chàng lấy trộm đũa ngà, đem đến nhà Đồ dạm bán. Đồ biết là vật của Viên tặng, liền báo quan huyện.

Huyện sai lính kéo về bao vây nhà chàng, nhằm lúc chàng với tôi tớ vắng mặt, liền bắt mẹ chàng đi. Bà cụ già yếu lại bị kinh khủng, thở không ra hơi, luôn hai ba bữa không ăn uống gì cả, quan huyện thả cho về.

Chàng nghe tin mẹ, vội vã trở về nhà, thì mẹ đã bệnh nguy rồi, hôm sau qua đời. Thu liệm vừa xong còn chưa kịp chôn, thì chàng đã bị lính huyện áp giải đi.

Quan huyện thấy bộ tịch trẻ trung nho nhã, thầm nghĩ chàng bị vu oan, nhưng bề ngoài cũng làm ra nạt nộ. Chàng nói thật nguyên do kết bạn với Viên, không giấu một chút nào. Quan lại hỏi tự nhiên phát giàu là của ở đâu, chàng đáp:

- Mẹ tôi có chôn giấu được ít nhiều tiền của, nay tôi sắp sửa lấy vợ, cho nên sửa sang nhà cửa, thế thôi.

Quan huyện tin lời, liền viết tờ bẩm và cho lính đưa chàng lên quận xét nghỉ. Thằng cha hàng xóm là họ Đồ kia, biết thế nào lên quận chàng cũng vô sự, bèn đem nhiều tiền hối lộ cho tụi lính áp giải để chúng giết chàng ở dọc đường là xong.

Đường đi lên quận, phải qua núi sâu, lính kéo chàng đến sườn núi lởm chởm, rồi đấy xuống vực sâu là rồi đời. Giữa lúc thiên nguy vạn cấp đó, bỗng dưng một con cọp từ trong bụi rậm nhảy ra, cắn hai tên lính chết rồi tha chàng đến một nơi có lâu đài nguy nga, bỏ nằm ở đó.

Chàng hồi tỉnh, mở mắt thấy Vân La công chúa vịn vai thị nữ đi tới, nức nở chia buồn với chàng rồi nói:

- Thiếp muốn giữ lang quân ở lại đây, nhưng nghĩ lại chàng còn việc tang bà cụ chưa chôn cất xong, mà dính với quan nha cũng đang lỡ dở, nên ở lại đây không tiện. Vậy chàng nên cầm lấy tờ bẩm, lên quận tự nạp mình, chắc chắn là vô sự đó.

Nói đoạn lấy sợi dây lưng trước bụng chàng, thắt lại hơn mười nút, dặn dò chàng khi đứng trước mặt quan cứ lần mở những nút này, tức thì tia qua nạn khỏi.

Chàng nghe lời khuyên bảo, một mình đến quận, tự đầu. Quan thái thú mừng là người thành thực, lại xem tờ bẩm, hiểu rõ oan tình, liền phê cho chàng về.

Về nửa đường gặp Viên, xuống ngựa cầm tay, kể lể tình trạng rắc rối bấy lâu. Viên nghe tức giận xám mặt, làm thinh không thốt lời. Chàng nói:

- Vẻ người như anh, làm chi tới chuyện trộm cướp để tự nhơ xấu danh tiếng.

Viên đáp:

- Tôi giết toàn hạng người bất nhân, tôi lấy toàn là tiền của phi nghĩa. Không vậy thì của bỏ rơi ở đường cũng không thèm lượm. Điều anh khuyên răn tôi rất phải, nhưng xin hỏi thứ người như thằng cha lối xóm nhà anh, có nên để nó sống ở trên đời không chớ?

Nói xong chào biệt, thúc ngựa đi thẳng.

Chàng về chôn cất mẹ rồi, đóng cửa tạ khách. Bỗng một đêm, trộm vào nhà hàng xóm, cha con trên mười người, đều bị giết sạch, chỉ chừa lại một con ở. Giết xong cuốn gói tiền của đồ vật, chia bớt cho tiểu đồng mang xách. Lúc ra đi, lấy đèn soi mặt và bảo con ở:

- Mi nhìn cho kĩ nghe. Giết người nhà này là tao đây, chứ không dính dấp tới ai.

Nói đoạn không cần mở cửa, hai thầy trò vọt lên mái nhà, nhảy qua vách tường đi mất.

Hôm sau, vụ án này đến quan. Quan ngờ An sinh hay biết, lại bắt chàng đi, trừng mắt xem hỏi cực nghiêm. Chàng đứng giữa công đường, tay rờ vào dây lưng thắt nút, vừa tranh biện vừa cởi nút ra, quan không có chỗ nào buộc tội, lại tha cho về.

Lần này được về, chàng lại càng giữ gìn, chỉ ở nhà đọc sách, không đi đầu nửa bước, nội nhà chỉ có một vú già khập khiễng lo việc cơm nước mà thôi. Mãn tang mẹ rồi, ngày ngày quét dọn nhà cửa chờ đợi tin lành.

Một hôm, mùi hương lạ thơm ngát trong nhà. Chàng leo lên gác xem, thấy trong ngoài đã bày biện khác hăn, cuốn rèm lên thì thấy công chúa đã ngồi chững chạc từ hồi nào rồi. Chàng vội vàng vái chào, nàng nắm lấy tay và nói:

- Chàng không tin số, thành ra xây dựng nhà cửa lỗi thời gây nên tai vạ, lại thêm tang tóc, làm trễ cuộc sum họp của chúng ta mất ba năm.

Muốn gặp, té ra lại chịu trì hoãn, ấy việc đời đại khái như thế cả.

Chàng tính lấy tiền cho mụ vú đi chợ, nàng gạt đi bảo không cần. Thị nữ lấy trong rương ra các món đồ ăn nóng sốt, như mới xào nấu dưới bếp đem lên, rượu cũng thơm ngon lạ lùng. Hai người uống rượu nói chuyện một lúc thì trời đã sẩm tối, mấy con hầu đưa lưng cho nàng gác cẳng đều tản mát đi hết. Nàng uể oải tay chân, co duỗi bắp đùi, dường như không che đậy gì cả. Chàng liền ôm nàng hôn hít. Nàng nói:

- Khoan đã! Chàng hãy buông tay ra, em giao hẹn câu này. Bây giờ có hai cách, chàng muốn chọn cách nào?

Chàng ôm cổ nàng và hỏi hai cách nào. Nàng đáp:

- Em với chàng, nếu kết bạn chén rượu cuộc cờ, thì được tụ họp đến ba chục năm, còn nếu kết bạn thú vui chăn gối, thì chỉ được sum họp sáu năm thôi. Chàng chọn cách nào?

Chàng cao hứng quá, nói đại:

- Hãy được sáu năm rồi sau lại tính.

Nàng làm thinh. Hai người giao hoan. Nàng nói:

- Em vốn biết chàng không sao tránh khỏi thú vui phàm tục, âu cũng là số mạng khiến vậy.

Rồi đó khuyên chàng nuôi thêm vú già con hầu, cho ở riêng căn nhà phía nam, lo việc thổi nấu cơm nước và kéo sợi dệt vải làm sinh kế. Còn ở căn nhà phía bắc tịnh không khói lửa, bên trong chỉ có bình rượu bàn cờ mà thôi, cửa đóng kín tối ngày. Chàng đẩy nhẹ thì cửa tự mở ra, ngoài chàng, không ai được tới đó. Tuy thế những người ở căn nhà phía nam làm việc chăm chỉ hay trễ nải, nàng đều biết rõ, thường khi bảo chàng qua rầy mắng người nào, thì người ấy phải chịu lỗi ngay.

Nàng không nói nhiều lời, không cười nói lớn tiếng, cùng chàng nói chuyện gì, chỉ cúi đầu cười nụ, hễ sánh vai ngồi thì ưa nghiêng mình dựa vào chàng. Có khi chàng ẵm nàng lên đầu gối, thấy nhẹ như ẵm trẻ thơ. Chàng nói:

- Nàng nhẹ thế này, có thể đứng trên bàn tay người ta múa được.

Nàng trả lời:

- Chuyện đó có khó khăn gì đâu, có điều chỉ là phần việc của mấy con thị nữ, tôi không thèm làm đó thôi. Ví dụ con Phi Yến mà sách vở trần gian vẫn ca tụng đó, nguyên là thị nữ của chị Chín tôi, hay lẳng lơ mà bị tội, đày xuống trần gian, lại không biết giữ trinh tiết, cho nên bây giờ đang bị nhốt kín một nơi.

Trên gác trải đầy đệm gấm, mùa đông chẳng thấy lạnh, mùa hạ chẳng thấy nóng. Giữa mùa đông lạnh lẽo cắt ruột, nàng cũng mặc áo mỏng và nhẹ. Chàng may áo mới, ép nàng phải mặc, nàng vì nể, mặc vào chốc lát, cởi ra nói:

- Vật phàm ô trọc đè nặng vào xương cốt đến thành bệnh lao chết.

Một hôm chàng ẵm nàng trên gối bỗng thấy nặng khác mọi ngày, lấy làm lạ. Nàng cười trỏ vào bụng:

- Trong này có giống phàm tục rồi.

Cách mấy hôm sau, nàng ngỏ ý muốn ăn đồ nấu nướng, chàng liền mua sắm những món lạ cho nàng ăn. Từ đó nàng ăn uống không khác gì người thường. Một bữa, nàng nói:

- Em vốn ốm yếu, không kham nổi việc sinh sản, con thị nữ Phàn Anh khoẻ mạnh, vậy để nó thay em.

Nói đoạn cởi áo lót mình, mặc vào cho Phàn Anh rồi nhốt nó trong phòng. Giây lát nghe tiếng trẻ khóc, mở cửa ra coi té ra con trai. Nàng mừng và bảo:

- Thằng con này có phúc tướng, chắc sau thành người khá to, nên đặt tên là Đại Khí.

Nàng ẵm con trao cho chàng đưa về căn nhà phía nam cho vú sữa nuôi. Từ khi nàng thoát nợ sinh sản, vóc vạc lại nhỏ thó như cũ và không ăn vật thực phàm trần nữa. Bỗng từ biệt chàng để về thăm nhà. Hỏi bao giờ trở lại, nàng đáp là ba ngày. Lúc đi, lại có túi da tuôn mây rồi biến đi như bận trước.

Đến kì hẹn, không thấy nàng về. Hơn một năm bặt luôn tin tức, chàng đã tuyệt vọng, bèn đóng cửa đọc sách, thi đậu cử nhân, song không chịu lấy vợ, mỗi đêm nằm ngủ một mình ở căn nhà phía bắc, tắm gội với hương thừa hãy còn phảng phất.

Đêm nọ, thao thức trên giường không ngủ, chợt thấy đèn lửa sáng trưng, rọi qua cửa sổ, rồi thì cửa giữa tự mở, bọn thị nữ xúm đỡ công chúa bước vào. Chàng mừng hết sức, vùng dậy chào hỏi và trách lỗi sai hẹn. Nàng nói:

- Em có sai hẹn đâu nào. Trên trời mới có hai ngày rưỡi đó thôi.

Chàng khoe khoang thi đâu, ý hẳn nàng mừng. Không dè nàng buồn rầu và nói:

- Ôi! Cái thứ danh vọng thoảng qua đó có nghĩa lí gì đâu. Chẳng qua làm tội người ta tổn thọ thì có. Ngờ đâu vắng mặt có ba bữa mà chàng đã vương phải tục luỵ sâu thêm một lớp nữa rồi.

Chàng nghĩ lời vợ nói phải, cho nên từ đó không muốn học hành thi cử gì hơn nữa. Cách mấy tháng nàng lại đòi về thăm nhà. Chàng bịn rịn không muốn cho vợ đi, nhưng nàng năn nỉ bằng được:

- Chuyến này em trở về mau, không để cho chàng trông đợi như kì trước. Vả lại, đời người biệt li đều có định số, mình xem trọng quá thì thấy nó dài, mặc kệ nó thì thấy nó ngắn mà.

Nàng ra đi, hơn tháng trở lại. Từ đấy thành lệ một năm hay nửa năm, có đi một kì, chừng vài tháng lại về, chàng thấy sự thường, không lạ gì nữa.

Vợ chồng ăn ở với nhau, lại sinh hạ thêm đứa con trai. Nàng ẵm lên và nói:

- Thằng này sài lang, nên bỏ đi, chớ nuôi.

Nhưng chàng không nỡ lòng bỏ, cứ để lại nuôi, đặt tên là Khả Khí. Vừa mới đầy năm, nàng đã gấp tìm nơi hỏi vợ sẵn sàng cho nó. Các bà làm mai mách mối, tới lui liền liền. Nàng hỏi tuổi đứa con gái kĩ lưỡng, đứa nào cũng chê không hợp, than thở rằng:

- Ta có ý muốn mưu sẵn một cái chuồng sắt để nhốt thằng con hùm beo này, mà mưu không thành, âu cũng là số.

Đoạn, dặn dò chồng:

- Chàng nhớ bốn năm sau, Hầu thị sinh đứa con gái, sườn bên tả có cái bướu nhỏ, chính là vợ của thằng Khả Khí đó. Chàng nên dạm hỏi cho nó, bất chấp nhà gái sang hèn gì cả.

Nàng nói rồi, buộc chàng chép vào giấy tức thời cho khỏi quên. Sau đó nàng lại về thăm nhà. Bận này đi luôn không trở lại nữa.

Chàng nhớ lời vợ căn dặn, thường cậy bạn thân đi hỏi, quả có Hầu thị sinh ra đứa con gái mọc bướu cạnh sườn, nhưng Hầu thị là người hèn hạ mà tính tình rất xấu, không ai thèm chơi với. Chàng mặc kệ, cứ việc cậy mối lái đi hỏi con gái Hầu thị cho thằng Khả Khí.

Con trưởng là Đại Khí mười bảy tuổi thi đậu, cưới vợ họ Vân. Hai vợ chồng đều hiếu hạnh, chàng rất yêu chuộng. Còn Khả Khí càng ngày lớn lên, xem chừng không thích học, chỉ lén ăn cắp tiền nhà đi cờ bạc với bọn vô lại, dần dà lấy trộm cả đồ vật đem bán để trả nợ chơi bời. Cha giận đánh đòn nhiều trận, nhưng chứng nào vẫn giữ tật ấy không chừa. Thế rồi cả nhà bảo nhau đề phòng, không thể lấy gì được nữa, bèn đi đêm ăn trộm lặt vặt của người ta, bị chủ nhà bắt trói dẫn lên huyện. Quan huyện xem rõ tên họ, viết danh thiếp cho lính đưa trả về nhà, nhưng cha và anh cùng trói lại. Cha lại đánh suýt chết, anh phải lạy lục năn nỉ hộ, cha mới chịu tha.

Vì đó cha phẫn uất sinh bệnh, kém ăn, bèn làm tờ chia của cho hai con. Những nhà lầu, ruộng tốt đều về phần Đại Khí. Thấy vậy Khả Khí tức tối, nửa đêm xách dao vô buồng toan giết anh, nhưng chém lầm phải chị dâu. Nguyên trước công chúa có để lại chiếc áo cũ, nhẹ và mềm nhuyễn, anh giữ làm áo ngủ, giờ Khả Khí chém vào áo nảy lửa, cháy lập loè tứ tung làm hắn ta sợ hãi chạy mất.

Cha hay việc này, bệnh nặng thêm, mấy tháng sau thì mất. Khả Khí nghe tin cha qua đời mới mò về. Anh đối đãi tử tế, nhưng hắn ngày càng hư, chỉ hơn một năm, phá hết điền sản của cha chia cho, rồi làm đơn thưa anh tại quận. Quận thừa biết là người thế nào cho nên xé đơn đuổi về không xét. Tình nghĩa anh em thành ra đoạn tuyệt từ vụ đó.

Cách hơn năm sau, Khả Khí hai mươi ba tuổi. Hầu nữ mười lăm rồi, anh nhớ lời mẹ dặn dò, muốn gấp cưới vợ cho xong, liền kêu Khả Khí về nhường toà nhà đẹp cho ở. Khi cưới vợ về nhà, anh lại đem bao nhiêu ruộng tốt cha để lại, toàn số giao cho và nói với em dâu rằng:

- Mấy đám ruộng này, bấy lâu anh cố sống cố chết giữ gìn hộ, ngày nay anh giao lại hết đó. Em tôi vốn mất nết, dù cho nó nhiều ít gì cũng đều như của bỏ. Từ đây về sau, nên hay là hư cốt ở nơi thím. Nếu chú nó biết sửa nết, chịu khó làm ăn, thì chả phải lo đói rét, không vậy thì anh đây cũng chịu phép không lấy gì mà lấp đầy cái vực sâu không đáy kia đặng.

Hầu nữ tuy là con nhà hèn mọn, nhưng thông minh, có sắc. Khả Khí vừa yêu vừa sợ, nàng bảo gì cũng không dám trái ý. Đi đâu, hẹn giờ khắc mà về không đúng thì nàng nhiếc mắng, không thèm ngồi ăn uống chung.

Nhờ vậy, Khả Khí cũng chừa bớt lêu lổng ít nhiều. Hơn năm sau, sinh đứa con trai, Hầu nữ nói:

- Từ nay, chẳng cầu gì ai. Mấy đám ruộng tốt đó, ta lo cày cấy, mẹ con no ấm có thừa, bây giờ chẳng có chồng cũng chẳng cần.

Có hôm Khả Khí xúc trộm lúa đi bán để đánh bạc, vợ hay, cầm cung tên đứng chặn ở cửa để chống cự. Khả Khí sợ quá, lẩn trốn mất mặt. Chừng dòm thấy vợ vào trong nhà rồi, lại mon men trở vào, định lấy lúa cho bằng được. Không ngờ vợ xách dao rình sẵn. Khả Khí bỏ chạy, vợ rượt theo chém trúng mông, máu tuôn đẫm ướt giày tất, liền đến mách với anh, nhưng anh mặc kệ, đành hổ thẹn ra đi.

Sáng hôm sau lại bò về, quỳ trước mặt chị dâu mà khóc lóc kêu ca, nhờ chị nói giùm để vợ cho về nhà. Vợ nhất định không nghe. Khả Khí nổi xung định giết chết vợ. Anh cũng mặc kệ, không nói gì. Khả Khí càng phẫn, xách ngọn mác hầm hầm ra đi. Chị sửng sốt, toan chạy theo ngăn lại, nhưng anh đưa mắt ra hiệu bảo đừng, chờ cho Khả Khí đi rồi, mới cắt nghĩa:

- Nó làm bộ tịch vậy đó, cho ăn kẹo cũng không dám vác mặt về.

Nói rồi, sai người theo dõi, thì Khả Khí đã bước vào trong nhà rồi. Bấy giờ anh mới đâm lo tính, chạy theo can gián cho kịp, chẳng dè đến nơi, thì Khả Khí đã cúi mặt nín thít đi ra. Té ra chàng vào nhà, vợ đang đùa giỡn với con, thoáng trông thấy, liền đặt con trên giường, vào bếp xách con dao bổ củi ra. Chàng hết hồn hết vía, kéo lê ngọn mác chạy mất. Vợ rượt theo tới ngoài cổng mới chịu lui.

Anh biết rõ sự tình như vậy, nhưng làm bộ như không biết, cố ý gạn hỏi đã đâm vợ chết rồi chưa. Khả Khí chỉ úp mặt vào tường mà khóc nức nở, hai mắt đỏ ngầu. Anh động lòng thương, tự dắt Khả Khí vào nhà, vợ mới chịu tiếp. Chờ anh đi rồi, phạt chàng quỳ dưới đất, buộc phải thề độc, bấy giờ mới lấy cơm đựng vào tô xấu cho ăn.

Từ đó chàng sửa nết làm lành, vợ lại chịu khó chăm nom công việc làm ăn, thành ra nhà được phong túc. Chàng chỉ có việc ngồi ăn sẵn mà thôi. Đến năm bảy mươi tuổi, con cháu đầy nhà, còn có lúc bị vợ nắm râu bạc và bắt quỳ./.

Thiên Cung

Quách sinh, người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều tà có bà già mang đến cho một chén rượu. Sinh hỏi duyên cớ, bà già cười bảo: "Không phải hỏi, uống đi, sẽ thấy cảnh tuyệt vời". Nói rồi đi, Sinh nâng chén khẽ nhấp, thấy hương thơm tỏa khắp. uống vào rồi, say lịm đi không biết gì nữa.

Tỉnh ra Quách thấy mình nằm với một người. Sờ soạng thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, thì ra là con gái. Hỏi không nói, chẳng cần biết sấp tẻ. Quách cứ làm tới luôn. Xong rồi, lấy tay sờ mó xung quanh thấy bức vách toàn đá, không khí âm ấm hơi đất như ở trong mộ vậy. Hoàng quá, Quách nghi là quỷ bẫy. Thủ thỉ với cô gái là thần gì, cô gái đáp:

- Ta không phải là thần mà là tiên. Đây là động phủ. Ta với anh vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Vào qua một lần cừa nữa, nơi có ánh sáng lọt vào có thể đại tiểu tiện được.

Dặn rồi cô gái trờ dậy, đóng cửa đi mất. lâu sau, bụng Quách đã đói, một cô gái mang bánh bao canh vịt cho ăn. Xung quanh vẫn cứ đen như mực, không biết sớm tối. Chỉ khi cô gái vào ngủ mới đoán là đêm. Quách bực dọc bảo:

- Ngày không ánh nắng mặt trời, đêm không tia đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu. Cứ thứ này, nàng Hằng Nga có khác gì mụ La Sát, thiên đường không phân biệt với địa ngục.

Cô gái cười an ủi:

- Vì anh là người trần tục hay bép xép cho nên ta không muống lộ mặt. Vả lại ăn nằm trong bóng tối, méo tròn đẹp xấu cũng có thể phân biệt, hà tất phải đèn đuốc làm gì?

Ở mấy ngày buồn quá, Quách đòi về. Cô gái bảo:

- Đêm mai cùng chàng lên thiên cung rồi sẽ chia tay.

Hôm sau cô tiểu hoàn xách đèn lồng vào bảo:

- Nương tử đợi chàng lâu rồi.

Quách đi theo, trong ánh sao vằng vặc, thấy vô số lầu gác. Qua mấy khúc hành lang chạm vẽ thì đến một nơi: trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng tựa như ban ngày. Bước vào thấy một mỹ nhân tuổi trạc hai mươi, ngồi quay hướng nam, trang sức cự kỳ hoa lệ, đầu đính minh châu, áo gấm hoa mắt, quần sa bóng lộn, đúng là người trời. Quách bối rối, người như mụ đi, bất giác quì xuống. Mỹ nhân sai nữ tì đỡ dậy, dìu vào ghế. Lát sau các món sơn hào hải vị bày la liệt. Mỹ nhân rót rượu mời:

- Nâng chén rượu này để tiễn chàng về.

Quách gập mình thưa thốt:

- Trước đây giáp mặt mà không biết người tiên, thực lấy làm xấu hổ. Xin cho chuộc lỗi, được làm kẻ bầy tôi suốt đời không hai lòng.

Mỹ nhân đưa mắt nhìn tì nữ cười mủm mỉm, sai thu tiệc soạn giường.

Trong nội thất cũng thướt tha trướng gấm,, chăn gối nức hương. Mỹ nhân bảo Quách ngồi vào giường. Trong lúc uống nàng nhắc mấy lần:

- Chàng xa nhà lâu, nay về cũng được.

Đã hết canh một, Quách vẫn chưa ngõ lời từ biệt. mỹ nhân gọi nữ tỳ xách lồng đèn đưa tiễn. Quách nín thít giả vờ say rượu nằm lăn ra giường, lay gọi không dậy. Nàng sai các tì nữ cởi quần áo. Một cô gí vào chỗ kín của Quách giỡn:

- Anh chàng mặt mũi có vẻ ôn nhã mà cái của này lại chẳng "văn vẻ" tí nào!

Họ đưa Quách vào trong giường khúc khích đi ra. Mỹ nhân cũng lên giường. Quách trở mình. Nàng hỏi:

- Say à?

- Tiểu sinh có say đâu! Chỉ mới thấy người tiên, thần hồn đã nghiêng ngửa.

Mỹ nhân dặn:

- Đây là thiên cung, gần sáng phải ra. Vào trong động phủ nếu hiềm không vừa ý, chi bằng sớm từ biệt.

Quách gạ khéo:

- Nay có người ban đêm nhặt được đóa hoa đẹp, chỉ cầm cánh ngửi hương mà không thấy sắc màu thì tình cảnh ấy làm sao chịu được?

Nàng cười lấy đủ đèn đến, sáng trưng.

Vừa sang canh tư, mỹ nhân đã gọi nữ tì mang đèn lồng, ôm áo, đưa Quách vào động ngủ. ở đây các đồ trang sức màu hồng tinh xảo, nơi ngủ thì nệm da, thảm lông dày dặn. Quách cởi giày ôm chăn, ả nữ tì còn bần thần quanh quẩn chưa đi. Quách để ý nhìn kỹ thất phong tươi tốt, liền cợt nhả:

- Có phải cô bảo tôi cái của ấy không "văn vẻ" phải không?

Ả cười, lấy chân đá cái gối nói:

- Thôi anh cứ nằm đờ ra đi cho được việc, đừng lắm lời nữa.

Nhìn đôi giày của ả có đính ngọc châu long lanh, to như hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo ả vào, ả ngã vào lòng Quách, rồi ôm lấy nhau, hú hí rên rỉ mãi. Quách hỏi:

- Bao nhiêu tuổi rồi?

Đáp:

- Mười bảy.

- Xử nữ đã biết thế nào là tình chưa?

- Em không còn là xử nữ, song hoang vắng đã ba năm nay rồi.

Quách hỏi dò họ tên, tông tích tiên nữ bấy lâu chung đụng, ả nữ tì dọa:

- Chớ hỏi! Không phải là tiên nữ trên thượng giới thì cũng là dị nhân ở trần gian. Nhược bằng muốn biết tỉ mỉ chuyện đó thì e rằng không có đất mà chôn.

Thấy nói thế, Quách không dám hỏi thêm.

Đêm sau nữa nữ nhân lại mang đèn tới, cùng nhau ăn ngủ liền liền như vậy. Một tối, nàng bảo:

- Những ước được cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay phải quét dọn thiên cung, cho nên không thể ăn nằm với nhau được nữa. Xin cùng chuốc chén từ biệt.

Quách khóc, xin một vật gì làm kỷ niệm ái ân. Cô gái không cho, chỉ tặng một cân vàng, trăm hạt ngọc châu.

Hết canh ba, Quách bỗng say lịm, tỉnh dậy thấy tứ chi bị trói rất chặt, chân không thể duỗi, đầu không thể thò ra, hết sức giãy giụa thì lăn xuống chân giường. Quách lấy tay sờ đoán thì biết mình bị nhét vào trong túi chăn gấm, ngoài nịt chặt dây. Ngồi dậy đắn đo suy gẫm, thoáng thấy cái giường mới biết đây là nhà mình.

Tính đến bây giờ, Quách biệt tích đã ba tháng, người nhà đều cho là anh ta đã chết. Giải thoát được rồi, lúc đầu Quách chưa dám ngỏ chuyện cùng ai, chỉ sợ bị tiên trừng phạt. Song mối ngờ vực vẫn day dứt trong lòng, dần dà anh ta thuật lại với bạn. Không ai biết duyên cớ ra sao. Cái chăn bọc anh ta vẫn gấp để đầu giường mùi hương sực nức, giở ra xem kỹ thì đó là loại vải Hồ Châu tẩm hương liệu, liền trân trọng giấu đi. Sau có một quý quan biết chuyện ấy, hỏi căn hỏi vặn đến điều rồi cười mà bảo:

- Đó là ngón chơi của Giả hậu (1) bắt đĩ đực về đấy. Tiên nào lại như thế. Tuy nhiên phải hết sức giữ kín chuyện, lộ ra là chết cả họ. Có người thầy bói thường ra vào các nhà quyền quý, nói rằng hình dạng các lầu gác như Quách kể đúng là dinh Nghiêm Đông (2) rồi không sai.

Quách nghe thấy vậy, vô cùng sợ hãi, vội đưa cả gia đình đi nơi khác, ít lâu sau Nghiêm bị giết mới dám mon men trở về.

(1) Giả hậu: hoàng hậu của Tấn Huệ Đến, là người vô cùng dâm đãng, thường sai các mụ hầu ra ngoài tìm kiếm các trai tơ khỏe đẹp mang vào trong cung cấm để thỏa mãn lòng dục.

(2) Nghiêm Đông là tên hiệu của Nghiêm Thế Phan, con Nghiêm Tung đời Minh. Nhà này ỷ thế làm quan to người quyền thế, cho nên nhà cửa vô cùng xa hoa, đời sống hết sức phóng đãng, dâm dật.

Giấc Mộng Đắc Chí

Vương Tử An, danh sĩ đất Đông Xương, trầy trật hoài trong sự lều chõng Khoa ấy, vào trường thi hương xong rồi, Vương rất mực tin tưởng. Gần đến ngày treo bảng xướng danh, uống rượu say mèm về nằm ở buồng trong.

Bỗng có người đến bẩm:

- Ngựa đã tới!

Vương chồm dậy bảo:

- Thưởng cho người báo mười nghìn!

Người nhà biết là say, nói theo đà để cho Vương yên:

- Xin ngủ cho! Thưởng rồi.

Vương nằm ngủ yên.

Lát sau có người vào bẩm:

- Ngài đỗ tiến sĩ rồi!

Vương nói rằng mình chưa về Kinh thi Hội làm sao đỗ tiến sĩ? Người ấy nói:

- Ngài quên rồi ư? Đã qua tam trường rồi.

Vương mừng quá, trỗi dậy gọi:

- Thưởng người báo mười nghìn!

Người nhà lại nói gạt:

- Xin cứ ngủ đi! Đã thưởng rồi.

Không lâu, một người vội vã vào bẩm:

- Ngài được bổ vào viện Hàn Lâm, ông trưởng ban cũng đã đến.

Nhìn ra, quả có hai người, áo mũ chỉnh tề đang sụp lạy dưới giường. Vương gọi dọn rượu khoản đãi. Người nhà lại nói lừa cho ngủ và cứ cười mãi sao ông ta say quá thể như thế.

Vương lại nghĩ không thể không đi ra ngoài cho vẻ vang làng xóm, liền cất tiếng gọi to trưởng ban. Gọi đến hơn chục lần, không thấy ai thưa. Người nhà cười mà bảo:

- Xin tạm nằm đợi một chút, đã sai người đi tìm ông ta rồi.

Rồi trưởng ban tới thật. Vương đập giường giậm chận mắng:

- Đồ rùa!

Trưởng ban nổi giận cãi lại:

- Thực là đồ vô lại! Tôi chỉ muốn đùa ông một chút mà ông mắng thật à?

Vương tức lắm vùng dậy tát cho ông ta một cái làm rơi cả mụ xuống đất. Vương cũng ngã theo. Bà vợ đỡ dậy bảo:

- Trời ơi! Sao mà say thế này?

Vương lẩm bẩm:

- Tên trưởng ban ăn hại, tôi phải trị nó. Say đâu mà say!

Bà vợ cười:

- Trong nhà chỉ có bà lão giúp việc, ngày thổi cơm, đêm đốt lò cho ông, làm gì có trưởng ban, trưởng biếc gì? Thôi, đến khi ông rạc xương ra.

Con cái trong nhà đều cười phá.

Cơn say của Vương rồi cũng dần phai đi. Vương như vừa tỉnh mộng mới biết những việc xảy ra vừa qua đều là ảo cả. Song ông ta vẫn nhớ việc trưởng ban rơi mũ. Tìm ở sau cửa thì thấy một cái núm dải mũ to như cái chén. Mọi người đều lấy làm lạ.

Vương tự cười rằng:

- Xưa thì người bị quỷ trêu cợt, còn nay ta bị hồ báng bổ sỉ nhục.

LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ

Tú tài của trường thi có bảy cái "giống như":

* Lúc mới vào trường, chân trắng vác chõng giống như ăn mày.

* Lúc gọi tên, quan thét lệ mắng giống như tù nhân.

* Lúc về nhà trọ, hốc vách rút đầu, buồng buồng thò cẳng, giống như ong lạnh cuối thu.

* Lúc ra khỏi trường thi, tâm thần thản thốt, trời đất đổi màu giống như chim ốm rời lồng.

* Lúc đợi yết bảng thì cây cỏ đều kinh, mộng tưởng cũng ảo. Nếu đỗ ư, thì khoảnh khắc đã này lầu này gác! Nếu trượt ư, thì nháy mắt xương cốt mục ra. Lúc ấy thôi đứng ngồi không yên giống như con khỉ bị bắt.

* Lúc xướng danh không có tên thì tinh thần đổ sụp người chết lặng đi giống như con nhặng nhả bả,có ai trêu đùa cũng thây kệ.

*Sau đó bất đắc chí mắng quan trường mù, bút mực không thiêng. Mọi vật dụng học hành đều đem đốt. Đốt không hết thì đập vỡ. Đập không hết thì đem ném xuống nướcbẩn. Từ đó xõa tóc vào núi tu tiên, úp mặt vào vách đá. Nếu có người thương tình bảo sẽ tiến cử, nhất định giơ dao dọa đuổi. Rồi thánh ngày qua mau, cơn uất hận tạm lắng, tài cũng dần mòn đi, chẳng khác gì con chim cưu vỡ trứng, thôi thì đành lại cõng rác làm tổ, ôm ấp trứng mà thôi.

Tình cảnh đến như vậy, người trong cuộc khóc thương tưởng chết mà người ngoài cuộc đứng nhìn chỉ thấy thật là đáng cười.

Tấc lòng Vương Tử An ngổn ngang muôn nỗi, chắc rằng quỷ, hồ cười trộm đã lâu mới nhân bị say mà đùa trêu như thế. Con người trên giường tỉnh rượu, há không phá lên mà tự cười mình sao? Thử xem cái ý vị khoa bảng đắc chí chẳng qua trong một lát, các ông nên danh nên giá chỉ trong đôi ba lát. Thế mà mới trong một sớm Vương Tử An đã được nếm hết. Cái ơn của hồ đáng là ơn bậc thầy vậy.

Người Học Trò Phượng Dương

Một người học trò ở Phượng Dương (thời Minh Thanh là phủ Phượng Dương, tỉnh An Huy) đi du học xa, hẹn vợ nửa năm sẽ về. Thế rồi hơn mười tháng qua mà vẫn tuyệt vô âm tín, chị vợ ở nhà mỏi mắt chờ trông.

Một đêm, chị ta lên giường nghỉ, bóng trăng lung linh ve vuốt tấm rèm the cửa sổ, càng làm thổn thức thêm nỗi nhớ nhung. Còn đang trằn trọc thì một cô gái đẹp, bím tóc cài trâm ngọc, vai quàng khăn hồng, vén rèm bước vào, nhoẻn miệng cười bảo chị ta:

- Thế nào, chị tôi có muốn gặp anh tôi không?

Chị ta hớn hở vùng dậy. Người đẹp rủ cùng đi, chị ta còn e ngại đường xa xa xôi, hiểm trở. Người đẹp khuyên nhủ đừng lo rồi dắt tau nhau, gội ánh trăng suông lên đường.

Mới độ tầm tên bắn, chị ta thấy người đẹp đi nhanh quá mà đôi giày của mình siết vào chân khó đi, liền gọi hãy đợi một chút, mình trở về thay đôi giày đế cao khác. Người đẹp kéo ngồi xuống bên đường rồi cởi giày của mình cho mượn. Chị vợ mừng quá, xỏ vào may mà vừa khít, liền đứng dậy đi theo, chân bước cứ thấy thoăn thoắt như gió lướt.

Chẳng bao lâu, họ gặp anh học trò đang cưỡi con la trên đường trở về. Anh ta trông thấy vợ ngạc nhiên, vội nhảy xuống hỏi:

- Mình đi đâu đó?

Chị vợ đáp:

- Tôi đi thăm mình chứ còn đi đâu?

Anh ta quay về phía người đẹp, rồi hỏi vợ là ai? Chị vợ chưa kịp trả lời.

Người đẹp đẽ bưng mìệng cười:

- Thôi, anh chẳng phải hỏi nữa. Chị đây thì đi đốc thôi đốc hồi chẳng nghỉ. Còn anh thì rong duổi suốt đêm, người ngựa đều mệt mõi. Chi bằng nhà em cũng không xa đây, xin mời vào tạm nghỉ ngơi, sáng mai hãy đi cũng không muộn.

Hai vợ chồng nhìn quanh, cách đó ít bước quả có một xóm, liền nhận lời cùng vào. Vào đến một ngôi nhà, người đẹp gọi con hầu đang ngủ trở dậy sửa soạn cơm nước cho khách và bảo:

- Đêm nay trăng sáng vằng vặc thế này, chẳng cần phải đốt đèn nữa. Ngồi ngay trên sạp đá ở căn nhà nhỏ này cũng được..

Anh học trò buộc la vào gốc cây ngô đồng bên mé nhà rồi ngồi ngay xuống.

Người đẹp nói với chị vợ:

- Đi giày to không vừa chân, trên đường về chắc sẽ phiền anh ấy đấy! Nhưng dù sao đã có vật đỡ chân, xin chị cho em xin lại.

Chị vợ cảm ơn, rút giày trao trả.

Lát sau, rượu quả bày ra, người đẹp nâng chén mời:

- Loan phượng xa lâu, đêm nay chắp cánh, xin có chén rượu nhạt kính mừng!

Anh học trò cũng nâng chén mời lại, bên trên, chủ khác nói cưòi, bên dưới giày dép lẫn lộn. Anh học trò cứ đăm đăm nhìn người đẹp, luông buông những lời chọc ghẹo cợt nhả, còn chẳng thèm nói một lời với chị vợ bao lâu mới gặp lại. Người đẹp cũng sáng mắt đưa tình, thả lời bả lả. Còn chị vợ cứ ngồi câm lặng giả như kẻ ngu đần.

Lâu sau, hơi men đều ngấm, điều đối tiếng đáp ý tình hai người lại càng xoắn xuýt. Người đẹp rót rượu vào chén lớn mời khách, khách từ đã say, ả càng cố sức nài ép. Anh học trò cười mà rằng:

- Em hát cho nghe một khúc, tôi sẽ xin uống.

Người đẹp chiều ý ngay, liền dùng tre ngà voi gẩy đàn cầm mà hát rằng:

Bóng hoàng hôn ngã màu son phấn nhạt

Gió lạnh ngoài song ngăn ngắt thấu màn the

Thánh thót tàu tiêu mưa từng trận não nề

Mà nơi ấy, cùng ai mãi mê chi lắm

Trông mòn mắt chẳng về, một thân quạnh bóng

Lệ cạn đôi hàng những ngóng cùng mong

Nhớ vô chừng mà càng giận vô chừng

Thử lấy giày thêu tung quẻ bói (1)

Ca xong còn cười mà bảo:

- Đó là khúc hát ở chỗ đầu đường xó chợ, chẳng bõ làm bẩn tai anh. Song do thói đời hiện nay đang ưa chuộng, em mới học đòi bắt chước mà thôi.

Giọng hát của ả ta đậm đà, điệu bộ lả lơi làm cho anh học trò mê mẩn cả tâm thần dường như không còn tự chủ được nữa. Lát sau ả ra vẻ say sưa đi ra, anh học trò cũng đứng dậy theo.

Lâu lắm không thấy họ trở về, đứa con hầu mệt mõi nằm lăn ra ngủ ngoài hành lang. Còn chị vợ ngồi trơ trọi một mình, trong lòng vừa buồn vừa giận không thể nào chịu được. Chị ta đã định bỏ ra về, song đêm tối mịt mờ, không nhớ đường đi lối về nên lại thôi. Lòng dạ cứ trăn trở khôn nguôi, chị ta mới đứng dậy thử lần dò xem anh chồng với cô ả ở đâu. Vừa đến gần cửa sổ một căn buồng, đã nghe phản phất tiếng cuộc mây mưa rả rích trên giường. Lại gần nghe rõ hơn thì mới biết mọi trò anh chồng vẫn thường giãi bày với mình trong chốn buồng the nay đến giở ra hết với ả nọ. Lúc đó tim chị ta đập mạnh, tay run bắn lên, vừa giận vừa tức, nghĩ chi bằng ra ngoài kia đâm đầu xuống rãnh ngòi mà chết đi cho khuất mắt.

Đang định đi thì cậu em thứ ba cưỡi ngựa đi tới. Cậu ta trông thấy vội vã xuống ngựa. Nghe chị kể lể mọi nỗi nguồn cơn, cậu Ba giận quá bảo chị cùng quay vào. Nhà đã đóng cửa cài then chặt chẽ, song vẫn có thể nghe thấy tiếng nói cười rúc rích trên gối. Cậu Ba vác luôn một hòn đá to tướng như cái đấu ném mạnh vào cửa sổ, làm cho mấy cái chấn song gãy gập. Bỗng bên trong vọng ra tiếng kêu thất thanh:

- Thôi anh ấy vỡ sọ rồi. Làm thế nào đây?

Chị vợ nghe thấy thế, kinh hoảng khóc lớn, mếu máo bảo em:

- Tôi có bảo cậu giết anh ấy đâu. Làm thế nào bây giờ?

Người em trợn mắt lên nói:

- Chị đã chẳng hu hu giục tôi vào, nay vừa mới tiêu xong cái hận trong bụng, đã lại vì chồng mà oán trách anh em. Tôi là tôi không có quen mà ngón tay trỏ cho hạng con đòi đâu.

Nói rồi ngoắt mình bỏ đi. Chị níu áo bảo:

- Cậu chẳng đưa chị về còn đi đâu?

Người em dứt áo ra làm chị ngã lăn xuống đất, rồi bỏ đi mất. Chị giật mình tỉnh dậy thì ra vừa rồi là giấc mộng .

Ngày hôm sau, quả nhiên anh học trò cưỡi con la trắng trở về. Chị vợ kinh ngạc nhưng chưa nói gì về chuyện mộng mị. Người chồng kể trước, đêm qua cũng nằm mộng, mọi chi tiết đều y như vợ đã nghe đã thấy. Cả hai đều cho là quái lạ.Rồi cậu Ba nghe tin anh rể đi xa về cũng đến chơi thăm hỏi. Cậu ta bảo anh rể:

- Đêm qua em nằm mơ thấy anh về, nay quả nhiên như thế. Thật lạ quá!

Anh học trò cười bảo:

- Cũng may mà tôi không bị đá choảng chết.

Cậu Ba ngạc nhiên hỏi tại sao anh biết? Anh nói là nằm mộng thấy. Cậu Ba càng kinh ngạc, hóa ra cậu ta cũng nằm mơ gặp chị khóc lóc tố giác chuyện bờm xơm của anh rể, tức giận quá cậu có ném đá thật.

Ba giấc mộng hợp nhau, song không biết người đẹp là thế nào?

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

(1) nguyên văn:

Hoàng hôn xã đắc tàn trang bãi

Song ngoại tây phong lãnh thấu sa

Thinh tiêu thanh, nhất trận nhất trận tế vũ hạ

Hà xứ dữ nhân nhà hạp nha

Vọng xuyên thu thủy, bắt kiến hoàn gia

Tiềm tiềm lệ tự ma

Hựu thị tưởng tha,hựu thị hận tha

Thử nã chước hồng tú hài chi chiêm qủy quái.

Ngày xưa phụ nữ có chồng đi xa, muốn biết sắp về hay chưa thường bói bằng cách lấy giày đang đi tung lên cho rơi xuống đất. Hễ giày úp sấp là chồng sắp về.

Trộm Đào

( Du đào)

Thời còn trẻ, đang dịp tết lập xuân ta lên quận thi. Theo lễ cũ, trước lập xuân một ngày, mỗi nhà treo đèn kết hoa chiêng trống vang lừng, người ta đi mua bán và đến trước đình quan Tuần dự hội "xuân diễn". Ta cũng theo bè bạn đi xem.

Đúng ngày lập xuân, người ta nô nức kéo nhau đi chơi đông như kiến cỏ. Trên công đường, bốn vị quan lớn đều mặt áo đỏ, đối diện theo bốn hướng đông tây. Lúc ấy ta còn nhỏ không biết là những quan gì, chỉ nghe tiếng nói cười ồn ã, chiêng trống rát tai.

bỗng có người đàn ông dắt một đứa trẻ còn xỏa tóc, vai vác hòm nặng, tiến thẳng lên công đường, tựa như có việc gì muống bẩm báo. Thế là muôn ngàn tiếng hò reo sôi động, không còn nghe rõ là gì, chỉ thấy trên công đường, các quan nhìn nhau trao đổi. Viên nha lại hỏi giỏi về trò gì. Người ấy thưa: trò "đảo lộn vật sống". Viên nha lại bẩm quan, lát sau hạ lệnh diễn trò "hái đào".

Người biễu diễn tiếng dạ ran, cởi luôn áo trùm lấy cái hòm, cất tiếng làm bộ than oán:

- Bậc trưởng quan sao chẳng thấu tình! Trời rét băng chưa tan, đào đâu ra đào? Không hái thì sợ quan giận, vậy làm sao đây?

Đứa bé nói:

- Cha đã xin nhận, từ chối sao được?

Người cha rầu rầu suy nghĩ hồi lâu:

- Ta tính kỹ: đầu xuân băng tuyết, tìm đâu được đào trên cõi đời này. Chỉ có trên vường Tây Vương Mẫu bốn mùa hoa lá xanh tươi. Phải lấy trộm trên trời mới được.

- Úi chà! Trời chứ có phải cái thang đâu mà lần bậc lên được.

- Đã có phép chứ!

Nói rồi người cha mở hòm lấy ra một cuộn dây ước vào trăm thước, thắt nút thòng lọng một đầu rồi tung lên không trung. Sợi dây dựng đứng lên y như được treo móc vào một vật gì đó. Không lâu, càng ném càng cao, dây cứ lẩn dần vào mây cho đến khi hết.

Lúc ấy người đàn ông mới gọi con:

- Lại đây! Cha già thân nặng, lóng ngóng khó lên. Con đi giúp cha! Cứ bám lấy dây mà leo.

Con cầm lấy đầu dây, tỏ vẻ khó khăn ngao ngán:

- Cha thật là bất nhẫn. Một sợi dây mỏng manh thế này, bảo tôi bám vào để leo lên trời cao muôn trượng. Ngộ nhỡ chừng dây đứt thì còn gì xương thịt nhà tôi.

Người cha lại giục:

- Cha lỡ mồm nhận với quan trên, hối không kịp nữa. Nhờ con đi một chuyến, đừng có phàn nàn, nếu lấy được đào ắt có thưởng trăm đồng tiền vàng, thế nào cũng cưới cho mấy con vợ đẹp.

Thằng con có vẻ bùi tai, cầm đầu dây, bám lấy leo lên, tay co đến đâu, chân quấn đến đấy y như con nhện leo tơ. Cứ thế khuất dần trong đám mây trời không trông thấy đâu nữa.

Lâu sau có quả đào rơi xuống to như cái bát. Người nha hớn hở nhặt lấy dâng lên công đường. Trên ấy các quan truyền tay nhau xem xét hồi lâu, cũng không biết là thật hay giả.

Chợt, sợi dây từ trên trời bỗng rơi tuột xuống đất. Người cha kinh hoàng:

- Chết rồi! Trên ấy có người cắt dây. Con tôi biết tựa vào đâu?

Lát sau,. Có một gì rơi bịch xuống . Không bao lâu chân tay mình mẩy đều lần lượt rơi xuống đủ cả. Người cha buồn rũ rượi, thu thập tất cả bỏ vào hòm đậy lại ca thán:

- Lão này chỉ có một thằng bé hàng ngày cùng lên bắc xuống nam. Nay phải vâng nghiêm lệnh quan trên chẳng dè chuốc lấy vạ thảm thương kỳ lạ này. Tôi phải đi chôn nó thôi.

Rồi bước lên công đường, quỳ xuống kêu:

- Vì chuyện đào mà giết mất con tôi. Các quan thương đến kẻ hèn mọn mà cấp cho chút đỉnh tiền chôn cất thì tôi xin kết cỏ ngậm vành báo đền ơn ấy.

Quan khách ngồi xem rùng mình khen ngợi, đều bỏ tiền ra cho. Người cha tu lấy giắt vào thắt lưng rồi ra gõ vào cái hòm, gọi:

- Cu Bút! Bút ơi! Không ra ta thưởng còn đợi gì nữa.

Bỗng cái đầu bù đội nắp hòm lên, cả người nhoài ra, hướng về phia bắc, cúi đầu bái tạ. Thì ra thằng bé vừa leo dây.

Thật là một thuật lạ, mãi đến bây giờ ta vẫn nhớ. Sau nghe nói phái Bạch Liên (1) còn có người làm được thuật ấy, ý giả là dòng dõi chăng?

(1) tức Bạch Liên giáo. Đó là một tổ chức bí mật của quần chúng ở TQ, xuất hiện vào thế kỷ 13, 14. Thông qua các hình thức tín ngưỡng tôn giáo. Hội đó đã tổ chức đoàn kết để mọi người tiến hành đấu tranh chống ách thống trị ngoại tộc Nguyên- Mông. Đến đời Thanh- thời tác giả- nó phát triển thành một tổ chức dân gian với mục đích chống ngoại tộc Mãn Thanh thống trị. Cuộc khởi nghĩa đã diễn ra hơn mười năm ở nhiều tỉnh. Sau bị triều Thanh trấn áp rất khốc liệt.

Từ đó có thể thấy ý nghĩa sâu xa của câu chuyện này.

Ba Ngày Làm Diêm Vương

(Lý Bá Ngôn)

Lý Bá Ngôn, quê huyện Hàn Thủy tỉnh Sơn Đông, là người nghĩa khí cương trực. Một hôm bỗng nhiên mắc bệnh nguy cấp, người nhà đem thuốc đến ông ta không chịu dùng bảo:

- Bệnh ta không thể uống thuốc mà khỏi được, dưới âm phủ hiện nay khuyết Diêm vương cho nên ta được tạm cử thay thế. Ta chết rồi, nhất thiết không được mai táng, cứ để đấy, đợi sau này sẽ hay.

Thế rồi ông ta chết luôn ngày hôm đó. Còn đang trong cơn mơ mơ hoảng hoảng thì một đoàn hộ tống đã đến đón ông đi, vào một tòa cung điện, đem mũ áo ra mời mặc. Hai bên nha dịch đứng hầu, mười phần cung kính, nghiêm túc. Trên bàn đã xếp đống nhiều án tờ, trong đó có vụ án tên mỗ ở Giang Nam. Tra ra sinh thời hắn đã tư thông với 82 cô gái lương thiện. Xét hỏi đều có chứng cứ không chút oan uổng. Lý bèn theo đúng pháp luật dưới âm ty xử tội "nướng"

Dưới thềm có một cột dây đồng rỗng ruột cao khoảng 8-9 thước, chu vi đầy một ôm, trong ngoài cùng đốt than củi, cột đỏ rực. Một bầy quỷ sứ vác gậy đánh phạm nhân, xua phải leo cột đồng. Y hai tay ôm cột níu lên, hai chân quặp lấy cột đẩy tới, cứ từng nấc từng nấc choài lên. Vừa lên đến đỉnh cột bỗng một làn khói phun vọt, một tiếng nổ uỳnh như pháo đại. Phạm nhân ngã lộn xuống, sõng soài trên mặt đất, một hồi lâu mới tỉnh dậy. Quỉ sứ lại vác gậy đánh, bắt phải leo nữa. Một tiếng nổ ùng. Y lại bắn xuống đất giống như lần trước. Ba lần như thế, phạm nhân chỉ còn như một đụn khói lan tỏa trên mặt đất rồi tan đi, không khôi phục lại hình người.

Một vụ khác: Vương mỗ người cùng huyện Hàn Thủy, bị cha vợ bé anh ta tố cáo tội cưỡng đoạt con gái của ông. Nguyên trước đây có một người bán một cô gái, Vương biết do lại lịch song chính vì ham giá bán rẻ liền chuốc lấy. Đến giờ Vương chết đột nhiên. Một ngày sau bạn anh là Chu mỗ gặp ở đường biết anh là ma, vội chạy về thư phòng nằm, Vương theo hút vào. Chu sợ lắm hai con mắt cứ chằm chằm nhìn anh, hỏi cần gì? Đáp:

- Phiền anh xuống âm ty làm chứng cho.

Chu cả kinh hỏi việc gì. Đáp:

- Cái cô vợ bé nhà tôi, thực tôi bỏ tiền mua, nay bị họ vu cáo. Việc này chính anh đã thấy tận mắt, nay chỉ xin nhờ anh làm chứng, nói một câu sự thực. Ngoài ra không có việc gì khác nữa.

Chu kiên quyết không đi. Vương đành quay ra miện lẩm bẩm:

- Chỉ sợ anh không thể tự theo ý anh thôi.

quả nhiên lát sau Chu chết, hồn được dẫn đên trước Diêm vương đối chất, Lý vốn là thân thích của Vương nay trông thấy anh ta, tâm tư hơi ngầm có ý thiên vị. Bỗng trên nóc điện bùng cháy, Lý vội vọt dậy. Một viên thư lại bảo riêng Lý:

- Âm ti và dương thế khác nhau. Ở dưới này không dùng một chút lòng riêng. Xin ngài mau bỏ những tư tình không thẳng thắn, lửa kia sẽ tắt.

Lý nghe theo, quả nhiên ngọn lửa lập tức tắt ngấm.

Đến khi thẩm án, Vương và người bố cô gái tranh biện qua lại. Hỏi đến Chu, Chu cứ thực tình trình bày. Luận án: Vương vì đã biết trước có sự không minh bạch mà vẫn cố pạm, phải phạt đòn. Xử xong, Lý phái quỷ sứ dẫn Chu và Vương trở về dương thế. Hai người đã chết mấy ngày đều sống lại.

Lý Bá Ngôn làm việc công ở dưới âm phủ xong hạn, ngồi xe ngựa trở về nhà. Giữa đường thấy một đoàn mấy trăm người, kẻ cụt đầu, kẻ mất cẳng, bò lê bò càng trên mặt đất mà kêu gào thê thảm. Ông ta dừng xe, hỏi thăm cặn kẻ mới biết đó là những hồn ma chết ở nơi đất khách, nay muốn trở về quê nhà lại sợ các cửa quan ngăn trở không cho đi, mới kêu khóc khẩn cầu ông ta cấp cho giấy thông hành. Lý khuyên giải:

- Ta chỉ thay mặt Diêm vương có ba ngày, nay đã hết nhiệm kỳ còn có quyền gì để giúp các ngươi việc ấy được? Các hồn ma lại thưa:

Ở thôn nam có ông họ Hồ đang muốn làm chay cứu độ chúng sinh. Nhờ ngài thay chúng tôi nói giúp với ông ra để có thể sớm làm được.

Lý nhận lời. Về đến nhà, ông cho những người tùy tùng quay về hết, còn ông sống trở lại. Hồ sinh ở nam thôn, hiệu Thủy Tâm, là bạn thân của Lý. Ông ta nghe Lý hồi sinh liền đến thăm viếng. Lý hỏi ông ta chuẩn bị bao giờ lập bàn làm chay, Hồ kinh ngạc:

- Vừa trải qua một cơn binh hỏa lớn, gia quyến tôi may được chu toàn, vì thế tôi và bà vợ từ lâu đã có ý nguyện mở một đàn chay. Song chúng tôi chưa hở cùng ai, sao ông anh lại biết?

Lý thuật lại lời khẩn cầu của các hồn ma. Hồ than thở:

- Chỉ bàn một câu chuyện trong buồng mà dưới âm đã lan truyền khắp. Thật đáng sợ!

Do vậy ông thuận lập ngay đàn tràng.

Hôm sau, Lý đến nhà Vương, Vương còn đang mệt mỏi nằm trên giường, thấy Lý đến vội cung kính cảm tạ ông ta đã hạ cố. Lý bảo:

- Pháp luật không thể khoan thứ bất kỳ ai có tội. Bay giờ anh còn đau không?

- Không còn đau đớn gì khác, chỉ đợi những vết đòn liền miệng là khỏi.

Hơn hai mươi ngày sau Vương bình phục. Trên bắp vế đùi còn hằn những vết sẹo như những rằn roi. .

Mối Tình Già

Thôn Chúc, huyện Tế Dương, có ông họ Chúc, tuổi hơn năm mươi ốm chết.

Người nhà đang tất bật sửa soạn làm tang, bỗng nghe tiếng ông gọi gấp, vội chạy đến chỗ đặt thi thể thì ông đã sống lại. Mọi người mừng quýnh xúm quanh hỏi han. Ông chỉ bảo riêng bà vợ:

- Tôi vừa mới đi, đâu tính chuyện trở lại. Nhưng đi được mấy dặm đường, nghĩ đến cái thân già mình còn ở lại phải nhờ vả lũ con, khi nóng nực, lúc rét mướt đều trông cậy ở người, sống như thế còn thú gì, chẳng thà cùng đi với tôi thì hơn. Bởi vậy tôi phải trở về rủ cả mình cùng đi nốt.

Ai cũng cho là ông mới sống lại nói mê nói sảng, không tin. Ông lại nhắc lại. Bà vợ nể lời đáp:

- Kể như thế cũng hay. Nhưng đang sống khoẻ mạnh trờ trờ thế này, chết ngay sao được.

Ông lấy tay vẫy, giục đi nói:

- Có khó gì! Những việc nhỏ nhặt trong nhà, xếp đặt qua loa chốt lát nhanh thôi!

Bà vợ cười nấn ná không đi.

Ông ta lại giục.

Bà chiều ý, ra ngoài cửa chốc lát quay vào, nói quấy nói quá:

- Đã thu xếp ổn cả rồi.

Ông bảo đi thay quần áo tử tế. Bà chần chừ, ông lại giục gấp.

Bà không nỡ trái ý cũng phải làm theo.

Con cái trong nhà, con gái con dâu đều bịt miệng cười.

Ông đặt đầu mình lên gối, vỗ vỗ tay bảo bà nằm xuống bên cạnh. Bà sượng sùng:

- Con cái đứng cá đó chúng nó cười cho, nằm sóng đôi nhau sườn sượt còn ra cái gì!

Ông đập mạnh tay xuống giường gắt:

- Cùng chết với nhau, cười cười, có cái gì đáng cười!

Con trai con gái thấy bố nổi nóng quá cũng khuyên mẹ tạm chiều.

Bà đành phải nghe theo, ghé mình nằm xuống cạnh nhau gối chung gối.

Cả nhà cùng phì cười mà không dám cười lên.

Lát sau nụ cười bà dịu đi, mắt nhắm dần lại. Chút nữa, nằm im bằn bặt lịm dần như ngủ hẳn.

Các con thấy lạ, lại gần để coi thì da thịt bà đã lạnh, hơi thở tắt hẳn. Thăm đến ông cũng thế.

Năm Khang Hi thứ 21, người em dâu ông Chúc đến làm thuê ở nhà ông thứ sử họ Tất, kể lại chuyện rõ rành lắm.

Xấu Người Đẹp Nết

Ông Kiều ở Bình Nguyên có cô con gái vừa đen vừa xấu, khuyết mũi thọt chân. Cho nên tuy cô đã hai lăm, hai sáu cái xuân xanh mà chưa ai đến hỏi. Trong huyện có chàng họ Mục hơn bốn mươi tuổi đầu, vợ chết mà nghèo quá không có tiền cưới vợ kế, mới chịu phép cưới chị ta. Ba năm sau chị ta sinh con trai. Sau đó ít lâu Mục chết. Gia cảnh túng quẫ, phải ngửa tay xin mẹ đẻ cưu mang, song mẹ cũng không cán đáng được. Chị ta đành ở lại nhà chồng, trông vào nghề canh cửi, lần hồi sinh sống.

Mạnh sinh cũng goá vợ, đứa con trai Ô Đầu mới tròn tuổi tôi. Thiếu người bú mớm cho con, chàng phải gấp nhờ người mối lái cho mấy đám nhưng chưa vừa ý. Bắt gặp Kiều thị chàng ta ưng lắm, nhờ người đánh tiếng. Kiều thị từ chối:

- Tôi đói rét thế này, nương bóng quan nhân sẽ được ăn no, sao lại chẳng muốn. Song tôi tàn tật xấu xí chẳng được bằng người. Điều còn đáng tin ở tôi là chữ đức, thế mà lại để mắc tiếng thờ hai chồng, vậy còn đi bước nữa làm gì?

Mạnh phục là hiền đức, càng đem lòng mến mộ, nhờ mối đem tiền bạc, vải lụa đến nói lót với bà mẹ. Bà mẹ thân đến nơi chị ta ở, cố khuyên nhủ nhưng không lay chuyển nổi. Bà mẹ xấu hổ vì trót nhận lời, định đem con gái út thế cho Mạnh. Người trong gia đình đều vừa ý, song Mạnh nhất quyết không chịu.

Chẳng bao lâu, Mạnh bị bệnh nặng chết. Kiều thị đến viếng tang, kêu khóc hết sức thảm thiết. Mạnh không có người thân thích gì đáng kể nên bọn vô lại trong thôn thừa gió bẻ măng, tìm cách lừa bịp lấy hết mọi vật dụng trong nhà và còn mưu tính chia nhau chiếm đoạt cả điền sản. Gia nhân cũng thừa cơ bỏ trốn. Trong nhà chỉ còn một bà vú ẳm đứa con nhỏ của Mạnh đang khóc ngằn ngặt trong màn.

Nghe chuyện đó, Kiều thị rất bất bình. Biết Lâm sinh bạn thân với Mạnh, chị ta tìm đến tận nhà mà bảo:

- Tình vợ chồng, nghĩa bạn bè là nhân luân lớn của con người. Tôi xấu xí bị người đời coi rẻ, chỉ có Mạnh sinh là hiểu biết tôi. Trước đât tuy bề ngoài tôi từ chối song bên trong đã có ý bằng lòng. Nay chẳng may anh ấy thiệt phận, con còn trứng nước tôi tự thấy phải đền đáp ơn tri kỷ. Song việc nuôi dưỡng con côi cút cho anh ấy thì dễ, chống chọi lại sự cướp đoạt mới là khó. Anh không có cha mẹ anh em, nếu chỉ ngồi đó mà nhìn con bạn chết, nhà bạn tan mà không ra tay cứu giúp thì trong ngũ luân hóa không còn tình nghĩa bạn bè. Về phía tôi, tôi không góp sức được gì nhiều nhặn với anh, song đầu một lá đơn tố cáo với quan huyện, chăm sóc đứa con côi thì tôi không dám ngại khó.

Lâm hứa làm theo. Lúc ấy chị ta mới về. Lâm đang tìm cách giúp nhà bạn thì bọn vô lại biết, tức lắm, định thí cho một nhát dao. Lâm sợ quá đóng chặt cửa không dám đi nữa. Kiều thị đợi mấy ngày rồi mà chẳng có tin tức gì. Hỏi ra, điền sản nhà Mạnh đã bị cướp sạch trơn.

Kiều phẫn uất quá, bọc dao nhọn trong người, tức tốc lên quan. Quan vặn hỏi chị ta là người thế nào với Mạnh? Đáp:

- Ngài là quan tể một huyện. Cái căn cứ của ngài là có lý. Nếu như nói càn thì kẻ chí thân cũng không trốn được tội. Nếu không phải là nói càn thì tiếng nói của người qua đường cũng cần phải nghe.

Lời nói cương trực ấy đã làm quan nổi giận thét đuổi Kiều thị ra ngoài. Không còn đâu giãi bày nỗi oan phẫn, Kiều thị tìm đến cửa quan một thân sĩ. Ông Mỗ nghe chuyện ấy, cảm tấm nghĩa khí của người đàn bà, giúp đỡ đề bạt lên quan trên. Quan trên tra cứu quả điều tố cáo của chị ta là đúng, liền bắt bọn vo lại trừng trị nghiêm khắc, bắt phải haòn lại tài sản cho khổ chủ.

Có người bàn là Kiều nên chuyển sang ở hẳn nhà Mạnh để chăm sóc con côi, nhưng Kiều không chịu. Chị ta khóa chặt cửa nhà Mạnh, bảo bà vú ẵm thằng bé Ô Đầu cùng về nhà mình, để cho ở một căn riêng. Phàm những vật dụng cần thiết hàng ngày cho Ô Đầu, Kiều cùng bà vú đến nhà Mạnh mở cửa lấy để chi dùng dần. Còn mẹ con thì vẫn giữ phận nghèo, rau cháo hàng ngày như xưa, chứ không mảy may đụng đến con của Mạnh.

Khi Ô Đầu lớn, Kiều tìm thầy cho học, còn con đẻ của mình phải tập nghề nhiệp tay chân. Bà vú khuyên cho cả hai trẻ cùng học với nhau cho vui. Nàng đáp:

- Mọi phí tổn học hành là của cậu ta. Nếu tôi hao phí của người mà để cho con tôi học, sự tình ấy làm sao có thể coi là sáng tỏ được.

Mấy năm sau, Kiều đã để dành cho Ô Đầu được mấy trăm thùng thóc. Liền hỏi con gái nhà dòng dõi cho nó, tu sửa nhà cửa, thu xếp cho nó trở về nhà cũ. Ô Đầu khóc lóc xin mẹ Kiều cùng về ở chung. Nể tình Kiều cũng nghe theo song vẫn giữ nghề dệt vải như trước. Hai vợ chồng Ô Đầu đem giấu hết đồ nghè canh cửi đi. Nàng bảo:

- Mẹ con tôi chỉ ngồi ăn thì sao yên tâm được?

Rồi sớm chiều Kiều chăm sóc việc trong nhà, lại sai con tuần hành đồng ruộng nhà Ô Đầu như kẻ làm thuê vậy. Vợ chồng Ô Đầu có làm sai điều gì dù nhỏ bé, nàng khiển trách luôn không nương nhẹ. Nếu có chút nào không có ý sửa lỗi, nàng lập tức thu xếp đòi đi. Hai vợ chồng phải quì xuống ăn năn xin lỗi lúc ấy nàng mới nguôi.

Ít lâu sau, Ô Đầu vào học trường quận, Kiều đòi trở về nhà mình. Ô Đầu nhất định không nghe. Chàng ta lại góp tiền cưới vợ cho chàng con họ Mục. Kiều cho con đẻ về ở nhà riêng cũ. Ô Đầu lưu thế nào cũng không được mới ngầm mua một trăm mẫu đất thôn để cho Mục làm phương tiện sinh sống.

Sau khi Kiều ốm lại đòi trở về nhà mình. Ô Đầu nhất định không nghe. Bệnh nguy kịch, bà trăng trối: thế nào cũng phải đưa về chôn nơi cũ. Ô Đầu nhận lời. Song đến khi bà mất, Ô Đầu đem vàng nói lót với con Mục, xin cho hợp táng với ông Mạnh. Đến khi đưa đám, cỗ quan tài tự nhiên quá nặng, ba chục người khiêng không nổi. Còn con Mục tự nhiên ngã lăn đùng ra đất, máu mũi hộc ra, tự miệng thốt lên:

- Đứa con bất hiếu! Sao được bán mẹ mày như thế.

Ô Đầu sợ quá, lễ lạy cầu khấn mãi hắn ta mới khỏi. Việc tống tánh phải đình lại mấy ngày để kịp sửa sang lại phần mộ ông Mục rồi hợp táng bà vào đó.

LỚI BÀN CỦA TÁC GIẢ

Cảm ơn tri kỷ mà đem hi sinh thân mình đền đáp, đó là việc làm của trang nam nhi nghĩa liệt. Người đàn bà kia hỏi có hiểu biết gì nhiều lắm mà lại hành động cao cả lạ lùng đến thế? Nếu Phương Cửu Bình (1) còn sống mà gặp Kiều nữ ắt hẳn đánh giá ngay chị ta là "ngựa cự quý"

Truyện này ý nói: Phải coi trọng cái tinh thần bên trong và không nên chú ý đến những hình thức bên ngoài.

(1) Tức Cửu Phương Cao- một người xem tướng ngựa cực giỏi thời xuân thu- được Tần Mục Công sai đi tìm ngựa quý. Tìm được ngựa như ý ông ta về báo đó là ngựa cái màu vàng. Đến khi người khác đi lấy về thì đó là một con ngựa đực màu đen song rất cực tốt.

Mũi Dao Kinh Kha

Võ Thừa Hưu người Liêu Dương, thích giao du, phàm bạn chơi đều là người có tiếng. Đêm nằm chiêm bao, thấy một người đến nói rằng:

- Anh kết giao hầu khắp trong nước, nhưng toàn là bạn chơi phiếm. Duy có một người có thể cùng chia hoạn nạn, thì lại không hay.

- Người đó là ai?

- Điền Thất Lang chứ ai!

Võ tỉnh giấc lấy làm lạ, sáng ngày gặp bạn nào quen, cũng hỏi thăm Thất Lang là ai. Có người nói cho biết Thất Lang là thợ săn ở thôn Đông. Võ thân hành đến tận nhà, cầm roi ngựa gõ cửa; giây lát một người ở trong bước ra, độ hai mươi tuổi, lưng ong mắt báo, vận áo chẽn quần cụt, nhiều chỗ mạng vá, đứng chắp tay ngang trán, hỏi khách ở đâu tới. Võ tự khai tên họ và mượn cớ đi đường thấy khó chịu, muốn vô nghỉ nhờ cho đỡ mệt, nhân dịp hỏi Thất Lang. Người ấy đáp:

- Thất Lang là tôi đây.

Đoạn mời khách vào trong nhà. Võ thấy mấy gian nhà nát chống đỡ bằng cây. Vào một căn nhà nhỏ, trên vách treo đầy những da hổ báo, mà không có giường ghế chi để ngồi. Thất Lang trải tấm da cọp dưới đất, cùng Võ ngồi đàm đạo, lời lẽ thật thà. Võ nghe rất ưng bụng, liền đưa ra một món tiền, gọi là giúp chàng sinh kế.

Chàng không chịu lãnh. Võ nài ép mãi, chàng cầm tiền vô nhà trong nói cho mẹ hay. Lúc trở ra, lại đưa trả, nhất định không lấy. Võ ép đôi ba phen, chợt cụ già lọm khọm từ trong nhà bước ra, nghiêm sắc mặt nói:

- Già chỉ có vẻn vẹn thằng con đó, không muốn nó chơi với khách sang.

Võ thẹn ra về,, dọc đường suy nghĩ tới lui không hiểu ý bà cụ ra thế nào. Lúc nảy kẻ tùy tùng có dịp ra sau nhà nghe lõm được những lời bà cụ nói, giờ kể lại cho Võ hay.Nguyên lúc Thất Lang cầm tiền vô thưa mẹ, mẹ nói:

- Tao vừa dòm mặt công tử thấy có nám đen, tất sẽ gặp tai vạ lớn. Mẹ nghe cổ nhân có nói: được người ta biết đến thì chia sẻ điều lo, mang ơn của người ta thì phái gánh đỡ tai nạn. Giàu báo đáp bằng tiền, nghèo báo đáp bằng nghĩa. Nay vô cớ mà người ta cho được nhiều tiền, ấy là điềm chẳng lành. Mẹ e người ta sẽ đòi con đem cái chết ra báo đền ơn nghĩa đó.

Vì thế bà cụ khuyên con đừng nhận tiền.

Võ nghe chuyện, khâm phục bà cụ là người giỏi, lại càng dốc lòng hâm mộ Thất Lang, qua hôm sau làm tiệc mời nhưng Thất Lang không đến, Võ đến tận nhà đòi uống rượu. Thất Lang mua rượu về thết đãi với nộm thịt nai, hết sức niềm nở theo lễ.

Cách ngày hôm sau, Võ lại mời tiệc, bấy giờ Thất Lang mới đến. Hai người uống rượu nói chuyện cực vui vẻ. Nhưng đem tiền ra tặng chàng vẫn không chịu lấy. Võ kiếm cớ đặt tiền để mua da cọp, chừng đó chàng mới chịu nhận, rồi từ biệt ra về.

Về nhà xem lại những tấm da cọp để dành, không đủ gán với số tiền, bèn nghĩ sự vào núi săn cọp mới có thể đủ số đem nạp cho Võ.

Vào núi luôn ba ngày không săn được gì. Lại nhằm hồi vợ lâm bệnh, phải ở chăm sóc thuốc men chẳng nghĩ tới việc săn bắn gì được. Ngót tuần vợ lại chết. Thất Lang phải lo việc ma chay, số tiền nhận phải đem tiêu xài gần hết. Võ đến nhà điếu tang, lễ phúng rất hậu.

Chôn cất vợ xong xuôi, Thất Lang lại mang nỏ đeo gươm lần mò vào núi, trong trí thiết tha về việc trả món nợ cho Võ. Nhưng rốt cuộc vẫn không săn được con cọp nào.

Võ dò biết ý tứ khuyên bảo đừng gấp, chỉ mong mời Thất Lang đến nhà chơi là vui, song Thất Lang băn khoăn về món nợ còn thiếu chưa trả được, nên chi nhất định không chịu tới.

Muốn buộc chàng phải đến. Võ đòi giao trước những tấm da để dành ở nhà cũng được. Thất Lang kiểm điểm da cũ, thấy mối mọt làm hư, lông rụng mất sạch, trong lòng càng buồn.

Võ biết thế vội vàng đến nhà ân cần an ủi, rồi vào xem những tấm da cũ và nói:

- Da này cũng được, bản ý tôi không cần đủ cả lông mà.

Nói đoạn gỡ những tấm da xuống đem về, mời Thất Lang cùng đi chơi một thể. Chàng không chịu đi. Võ đành về một mình.

Luôn suy nghĩ về sự chưa trả đu số da cân với số tiền, lấy thế làm tấm tức, chàng lại gói lương khô, mang khí giới vào tận núi sâu. Rình mò mấy ngày đêm, hạ sát được một con cọp, để nguyên lông da, đưa nộp cho Võ.

Võ mừng, bày tiệc khoản đãi nài Thất Lang ở lại chơi luôn ba bữa với mình. Chàng khăng khăng từ chối. Võ sai gia nhân khóa chặt cửa ngõ để cầm chân chàng ở lại cho kỳ được.

Khách khứa bạn bè trông thấy Thất Lang thô kệch, thầm chê Võ công tử chọn bạn sai lầm, nhưng Võ săn sóc chiêu đãi Thất Lang hơn cả mọi người. Lại mang y phục mới nguyên cho chàng thay đổi, chàng không chịu. Võ thừa lúc chàng ngủ đem áo mới để bên, mà lấy áo cũ giấu đi. Cực chẳng đã chàng phải dùng mặc áo mới. Sau khi về nhà, vâng lời mẹ dạy, sai người đem áo mới trả lại và đòi áo cũ của mình về.Võ cười và nói với người thừa sai:

- Chú về thưa dùm với cụ rằng áo cũ đã lỡ cắt ra may lót giày rồi!

Từ đó, thường ngằy Thất Lang sai mang thịt thỏ, hoặc thịt nai đến biếu Võ, duy có mời đến chơi thì không đến nữa.

Một hôm Võ đến nhà Thất Lang, nhằm lúc chàng đi săn vắng, bà mẹ ra đứng tựa cửa nói:

- Từ nay xin ông chớ rủ rê con tôi nữa! Có ác ý gì đó vậy?

Võ rất kính lễ bà cụ, tự thẹn ra về.

Cách chừng nửa năm, gia nhân báo tin, Thất Lang vì tranh giành con heo săn được, mà đánh chết người ta, hiện đã bị giải lên quan rồi.

Võ nghe báo cả kinh, tức tốc đến quận nghe ngóng, khi chàng đã bị giam vào ngục rồi. Chàng thấy mặt Võ, không nói gì nhiều, chỉ dặn dò chăm nom giúp đỡ mẹ mình. Về nhà, Võ liền lấy ra nhiều tiền đút lót quan huyện, lại đem trăm bạc nhét cho bên trên, cầu xin bãi nãi. Hơn tháng, xử vô tội, thả Thất Lang ra về. Bà cụ khẳng khái bảo con:

- Da thịt tánh mạng của con nhờ có Võ công tử mà còn, mẹ không có quyền chi nữa. Mẹ chỉ trông mong công tử suốt đời yên ổn không vướng họa chi, tức là cái phước cho con đó.

Thất Lang muốn đến tạ ơn Võ, bà mẹ lại nói:

- Con đến thì đến chớ có tạ ơn làm chi. Cái ơn nhỏ còn tạ được, chứ ơn to thì không tạ được đây!

Thất Lang đến nhà Võ, Võ tiếp rước niềm nở, Thất Lang chỉ vâng dạ lơ là, không đả động chi tới chuyện vừa qua. Người nhà Võ đều lấy làm lạ, cho là chàng sơ tình. Trái lại, Võ mừng tình ý thành đạt, càng đối đãi tử tế hơn.

Sau đó thường cách vài ba ngày, chàng lại ở chơi nhà công tử, hễ tặng món chi cũng nhận liền, không chối từ mà cũng không nói sự báo đáp.

Gặp ngày mừng sinh nhật của Võ khách khứa và bọn phục dịch tùy tùng đông quá, căn nhà chứa khách ngủ đêm đầy ứ. Võ và Thất Lang nằm trong căn nhà nhỏ. Ba người gia bộc lót rơm nằm ngay dưới chân giường. Qua canh hai, chúng đều ngủ kỹ, còn hai người vẫn nói chuyện chưa thôi.

Con dao của Thất Lang treo trên vách bỗng thò đầu ra ngoài vỏ đến mấy tác, nghe tiếng khua loảng xoảng, mà lưỡi dao lóe sáng như điện. Võ thất kinh, Thất Lang cũng chồm dậy hỏi ai nằm dưới giường.

Võ trả lời chúng nó đều là tôi tớ trong nhà. Thất Lang nói:

- Nội trong nhà này tất có đứa hung ác.

- Tại sao anh biết?

- Con dao này của tôi mua ở ngoại quốc. Nó giết người chưa từng thấm máu, họ nhà tôi đeo nó đã ba đời rồi, tính lại chặt đầu có tới số ngàn, mà vẫn bén tốt như mới rèn. Hễ có kẻ ác thì nó reo và nhẩy lên chắc chắn phải giết người đến nơi. Xin công tử nên thân người quân tử , xa kẻ tiểu nhân, họa chăng tránh khỏi tai vạ đến mình.

Võ gật đầu, Thất Lang vẫn ngậm ngùi chằng vui, cả đêm trằn trọc không ngủ. Võ nói:

- Chuyện lành chuyện dử đều do số cả, việc gì phải lo quá thế?

- Bất cứ chuyện nguy hiểm tới đâu tôi cũng chẳng sợ, chỉ băn khoăn còn có mẹ già thôi.

- Có lý đâu tai vạ đến nơi mà lo?

- Tôi trông đừng đến càng may.

Ba đứa gia bộc ngủ dưới giường là: Lâm nhi ở trong nhà đã lâu, Võ rất vừa ý; một thằng nhỏ sai vặt mới mười hai mười ba tuổi; một đứa nữa là Lý Ứng rất bướng bỉnh, thường vì chuyện nhỏ mà cãi cọ với công tử luôn, khiến công tử phát giận vì nó.

Đêm ấy công tử nghĩ thầm có lẽ ác nhân là nó: cho nên tảng sáng gọi nó đến nói khéo dỗ về rồi đuổi nó đi.

Người con trường của công tử tên là Than, lấy Vương thị làm vợ. Một hôm công tử đi vắng, sai Lâm nhi ở coi nhà học giữa mùa cúc đang trổ hoa rực rỡ. Vợ Thân nghĩ cha chồng đi khỏi nhà học vắng vẻ không ai, liền đến hái bông cúc. Lâm nhi chạy ra chòng ghẹo, nàng toan kêu lên, thì nó ôm đại vào trong nhà toan cưỡng hiếp. Nàng kêu khóc chống cự, đến nỗi xám mặt khản tiếng, Thân nghe chạy vào, Lâm nhi mới chịu buông nàng, rồi trốn đi mất.

Võ về nhà hay chuyện, nổi giận tìm Lâm nhi, nhưng không biết nó đi đằng nào. Qua hai ba bữa mới biết nó đã tới làm bộ hạ trong nhà ông Ngự sử nó. Ông ta làm quan ở kinh đô, việc nhà giao phó cho người em, Võ lấy tính thanh khí nói với nhau, viết thư đòi trả Lâm nhi. Người em ngự sử không trả, Võ càng tức, làm đơn lên huyện thưa.

Ông huyện có thảo trát đi bắt mà lính không bắt, quan cũng không hỏi đến. Bấy giờ công tử cho người đến thăm dò tận nhà Thất Lang, thấy cửa đóng then cải, tứ bề vắng ngắt. Xóm giềng cũng đều không rõ tăm hơi của chàng.

Một hôm, người em Ngự sử đang ngồi trong tư thất ông huyện cùng nhau bàn chuyện riêng. Người chức việc đem hương bổng đến nộp. Bỗng dưng một người tiều phu xông tới trước mặt, đặt gánh củi xuống, rút dao nhọn ra chạy tới trước mặt Mỗ (tức là người em ông ngự sử) mà đâm. Mỗ hoảng sợ, đưa tay ra đỡ dao, dao chặt đứt cánh tay, tiều phu chém thêm nhát nữa đầu rơi xuống đất.

Ông huyện cả kinh chạy trốn. Tiều phu ngó dáo dác xem ông huyện chạy đường nào. Trong lúc đó bọn lính tráng và bọn chức dịch trong huyện, kịp đóng cửa ngõ, cầm dao vác gậy xúm lại vây bọc. Chú tiều phu tự biết khó thoát thân liền trở mũi dao tự đâm vào cổ chết.

Ai nấy xúm quanh nhìn mặt. Có kẻ nhìn biết đó là Điền Thất Lang.

Ông huyện lúc đó mới hoàn hồn hết sợ, trở ra phúc nghiệm, trông thấy Thất Lang nằm chết cứng giữa vũng máu lênh láng, tay vẫn nắm chặt dao nhọn.

Đột nhiên tử thi chồm dậy chém bay đầu ông huyện rồi lại ngã xuống.

Lính đến bắt bà mẹ Thất Lang nhưng bà mẹ đã trốn đi từ mấy bữa trước rồi.

Võ nghe Thất Lang chết, vội vàng đến nhìn mặt bạn khóc lóc cực thảm. Ai cũng bảo chính Võ chủ ý cho Thất Lang làm ra thảm sát này Võ bán hết điền sản để lo chạy quan, mới được vô sự.

Xác Thất Lang khiêng bỏ ngoài đồng, dầu dãi hơn ba chục ngày, các loài chim muông thay nhau canh giữ, Võ xin quan cho đem về tống táng rất hậu.

Đứa con Thất Lang trốn tránh đến Đặng Châu, đổi ra họ Đông, lớn lên đi lính, có nhiều công trận, được thăng dần dà tới chức đồng tri tướng quân. Khi ấy mới trở về Liêu Dương. Võ đã ngoài tám mươi, trỏ cho biết mồ mả thân phụ.

Hoá quạ, lấy vợ thần

Ngư Dung, quê Hồ Nam (người kể chuyện quên mất quận, huyện). Nhà anh ta nghèo lắm, đi thi bị trượt trở về, tiền lưng không còn một đồng dính túi, đói quá phải đi ăn xin. Anh ta vào tạm trú trong miếu Ngô Vương, bi phẫn mà khấn vái trước bàn thờ thần. Ra nằm ngoài hè, bỗng có một người dẫn đến yết kiến Ngô Vương. Người ấy quỳ tâu:

- Đội Hắc Y hiện nay còn thiếu một lính, xin cho người này sung vào cho đủ.

Ngô Vương phán được. Ngư được trao một tấm áo đen, mặc vào biến ngay thành quạ, vỗ cánh bay lên. Ra đến ngoài thấy bạn quạ tụ tập thành đàn theo nhau bay đi, phân ra từng bầy đậu trên các cánh buồm. Người trên thuyền tranh nhau ném thịt cho ăn, đàn quạ lượn lờ trên không trung, đón đợi tranh thịt. Anh ta cũng bắt chước làm thế, lát sau đã no bụng, bay đậu trên ngọn cây, cũng tạm lấy làm mãn nguyện.

Qua hai ba ngày, Ngô Vương thương tình Ngư Dung còn lẻ bạn, ghép cho một con mái tên gọi Trúc Thanh. Đôi vợ chồng mới thương yêu nhau lắm. Ngư mỗi khi đi kiếm mồi không hề đề phòng nguy hiểm. Trúc Thanh nhiều lần nhắc nhở khuyên lơn nhưng Ngư đâu có chịu để vào tai. Một hôm có một người lính đi thuyền qua, bắn cho một phát trúng bụng. May có Trúc Thanh kịp cứu, quắp mang đi, Ngư mới thoát nạn. Đàn quạ nổi giận vỗ cánh quạt nước, sóng cuồn cuộn nổi lật úp con thuyền. Còn Trúc Thanh thì công mồi mớm cho Ngư. Ngư bị thương nặng, một ngày sau thì chết.

Ngư Dung thốt nhiên bừng tỉnh mộng, mở mắt ra thấy mình nằm trong miếu. Số là, trước đó dân chung quanh thấy Ngư chết, không biết là ai, sờ người thấy còn nóng chưa cứng, liền cử người thay nhau xoa bóp. Đến khi Ngư tỉnh dậy, họ hỏi rõ căn do liền góp tiền bạc giúp đỡ cho về quê.

Sau đó ba năm, Ngư lại qua chốn cũ, vào bái yết Ngô Vương. Rồi soạn bữa, gọi đàn quạ xuống ăn, khấn rằng:

- Trúc Thanh có đây, xin ở lại gặp!

Ăn no nê xong, đàn quạ bay đi mất.

Sau Ngư đỗ cử nhân trở về qua đây, lại vào bái yết miếu Ngô Vương, dâng cỗ thịt dê thịt lợn. Xong lại bày cỗ lớn mời tất thảy các bạn quạ, lại khấn như trước.

Tối hôm ấy, thuyền Ngư dừng chèo trên hồ. Chàng đang chong đuốc ngồi chơi, bỗng thấy như có một con chim sa xuống trước ghế, nhìn ra thì là một nữ nhân khoảng hai mươi tuổi. Nàng tươi tỉnh hỏi thăm:

- Từ khi chia tay đến nay, chàng vẫn mạnh giỏi?

Ngư kinh ngạc hỏi là ai? Đáp:

- Chàng không nhận ra Trúc Thanh ư?

Ngư mừng quá hỏi nàng từ đâu đến? Đáp:

- Ngày nay thiếp làm thần nữ sông Hán, ít khi có dịp về cố hương. Trước đây, bạn quạ hai lần kể lại tấm tình luyến ái của chàng, cho nên hôm nay đến họp mặt.

Ngư càng bồi hồi cảm động như đôi vợ chồng xa cách lâu ngày, vui thú yêu thương nồng nàn khôn xiết.

Hai người bàn chuyện, Ngư muốn đưa nàng xuôi Nam về quê mình. Nàng lại muốn cùng nhau sang Tây nơi nàng đang làm thần nữ. Ý kiến chưa ngã ngũ. Khi Ngư tỉnh ngủ, thấy nàng đã trở dậy rồi, chung quanh không còn là cảnh chật hẹp trên thuyền mà là một ngôi nhà lớn, đèn đuốc sáng trưng. Chàng kinh ngạc trở dậy hỏi:

- Đây là đâu?

Nàng cười:

- Đây là Hán Dương. Nhà thiếp là nhà chàng, hà tất phải xuôi Nam.

Trời dần sáng. Kẻ hầu người hạ tề tựu. Rượu thịt đã bày. Hai vợ chồng lên giường cao cùng nhau ăn uống. Ngư hỏi về người đầy tớ theo hầu mình ở đâu? Nàng đáp:

- Còn ở thuyền.

Ngư lo nhà thuyền không đợi được lâu. Nàng cho biết:

- Chàng đừng ngại. Thiếp phải giúp chàng bảo cho họ biết.

Thế là từ đó vợ chồng ngày đêm vui thú. Ngư quên cả chuyện về.

Lại nói, nhà thuyền tỉnh mộng bỗng thấy mình đã ở Hán Dương, hoảng sợ quá. Người đầy tớ của Ngư đi tìm chủ cũng chẳng thấy chủ đâu. Nhà thuyền muốn giong thuyền đi nơi khác thì chèo lái tự nhiên đã bị cột chặt, chỉ còn cách ngồi đấy trông thuyền.

Qua đi hơn hai tháng, Ngư bỗng động tình quê mới bảo nàng rằng:

- Tôi ở đây tuyệt đường thân thích. Vả tôi với nàng tiếng là vợ chồng mà chưa một lần nhận nhà cửa, họ hàng, vậy nên như thế nào đây?

Nàng đáp:

- Không nói đến chuyện thiếp không thể nào đi được, giả sử có đi được thì ở nhà chàng ắt phải có vợ, vậy sẽ xử sự với thiếp như thế nào? Chi bằng cứ để thiếp ở đây thành một phòng khác của chàng là được.

Ngư e ngại đường sá quá xa xôi, không thể năng lui tới. Nàng đưa ra một bộ áo đen, bảo chồng:

- Tấm áo cũ của chàng hãy còn đây. Khi chàng nhớ đến thiếp, cứ mặc áo này vào là có thể phút chốc đến được. Rồi thiếp sẽ cởi giúp ra cho.

Đoạn nàng sai bày tiệc lớn hoan tiễn, đủ các thức ngon lành, quý giá. Say rồi đi ngủ, khi tỉnh dậy Ngư đã thấy mình ở trong thuyền. Nhìn ra cảnh vật thì bến cũ Động Đình là đây. Nhà thuyền và người đầy tớ đều còn đủ ở đó. Thấy chàng bất chợt trở về họ cả kinh, xúm vào hỏi chuyện. Ngư nhớ lại việc vừa xảy ra, cũng không khỏi bàng hoàng.

Nhìn quanh, chàng thấy bên gối có cái bọc, giở ra xem thì đủ cả áo mới, giày thêu Trúc Thanh gói tặng, trong đó có tấm áo đen đã một thời thân thuộc. Lại thấy có cả một cái túi thêu có dây buộc thắt ngang, mở ra thấy đầy tiền bạc. Cứ thế giong buồm xuôi Nam, khi cập bến Ngư trả công cho nhà thuyền khá hậu.

Về nhà được mấy tháng chàng lại cháy lòng nhớ tới Hán Thuỷ, liền kín đáo giở tấm áo đen ra mặc. Tức thì đôi tay biến thành đôi cánh bay vút lên không. Chỉ độ vài khắc đồng hồ đã đến nơi mong nhớ. Bay liệng nhìn xuống dưới thấy giữa hòn đảo nhỏ đơn độc có một toà lâu đài, chàng liền hạ cánh xuống. Một thị tì nhanh mắt trông thấy đã vội reo lên:

- A! Quan nhân đã đến!

Loáng sau, Trúc Thanh đi ra, vội sai những người xung quanh cởi "áo" cho chàng, bộ lông bộ cánh đều trút ra hết. Hai vợ chồng nắm tay nhau bước vào nhà, nàng nhanh nhảu bảo:

- Chàng đến vừa khéo. Chỉ nay mai thiếp ở cữ.

Ngư hỏi đùa:

- Nàng đẻ thai hay đẻ trứng?

- Thiếp nay đã là thần, xương da đều đổi khác xưa kia rồi.

Mấy ngày sau quả nhiên nàng sinh nở. Bọc thai to như một quả trứng lớn. Xé vỏ ra là một cậu con trai. Ngư mừng lắm, đặt ngay tên là Hán Sản làm kỉ niệm. Ba ngày sau, các thần nữ Hán Thuỷ đem các vật quý lạ đến mứng. Đó là những cô nàng xinh đẹp, không quá ba mươi. Họ đều vào buồng, lấy ngón tay gí lên mũi thằng bé, gọi như thế là "tăng thọ". Họ ra rồi, Ngư hỏi vợ:

- Đó là những ai vậy?

Đáp:

- Đều là bạn thiếp cả.

Ngư lưu lại vài tháng. Trúc Thanh sai đánh thuyền đưa chàng về quê. Thuyền không phải dùng buồm hoặc mái chèo mà cứ rẽ nước phăng phăng. Cập bờ, đã có người giữ ngựa đứng đợi sẵn, đưa cho chàng cưỡi về. Vì thế chàng cứ qua lại luôn luôn.

Mấy năm sau, Hán Sản lớn lên càng dĩnh ngộ. Ngư yêu quý lắm. Bà vợ họ Hoà ở quê khổ tâm vì nỗi không sinh nở, cứ khao khát được nhìn thấy Hán Sản. Ngư thuật lại nguyện vọng ấy cho Trúc Thanh nghe, nàng liền sắm sửa hành trang cho con theo bố về quê, hạn ba tháng phải quay lại.

Về đến nơi, Hoà thị yêu quý Hán Sản quá con đẻ, để hơn mười tháng không chịu cho về. Một hôm đứa bé đột nhiên mắc bệnh mất. Hoà thị xót thương tưởng chết. Ngư phải đi Hán Thuỷ báo tin, vừa bước vào nhà đã thấy Hán Sản chân trần nằm chơi trên giường, mừng quá vội hỏi Trúc Thanh. Nàng trả lời:

- Chàng lỗi hẹn lâu quá. Thiếp nhớ con không chịu được, phải tìm cách đưa nó về đây.

Ngư giãi bày, chậm là do Hoà thị quá mến con. Nàng hẹn:

- Thôi, đợi thiếp sinh nở tiếp rồi cho Hán Sản về hẳn quê.

Quả nhiên, hơn một năm sau nàng đẻ sinh đôi, một trai một gái. Trai đặt tên là Hán Sinh, gái là Ngọc Bội. Ngư bèn dẫn Hán Sản về. Song mõi năm ba bốn lần đi lại thăm nom không được tiện, cho nên Ngư chuyển nhà luôn tới Hán Dương.

Hán Sản 12 tuổi vào học trường quận. Nàng cho là ở trần thế không có người đẹp, gọi con về Hán Thuỷ cưới vợ - tên là Hỗ Nương - cũng là con gái thần nữ, rồi mới cho trở về quê.

Sau Hoà thị mất, Hán Sinh và em gái đều tới chịu tang như mẹ đẻ. Tang lễ xong xuôi, Hán Sản lưu lại quê cũ còn Ngư Dung dắt Hán Sinh và Ngọc Bội đi hẳn không thấy trở về nữa.

Nam Nam Thành Thần

Họ Hứa làm nghề đánh cá, nhà ở bắc thành Tuy Châu. Đêm đêm anh ta đem bầu rượu ra bờ sông kéo cá, mỗi lần uống rượu lại rưới một chén xuống đất lầm rầm khấn:

- Mời nam nam (ma chết đuối) uống rượu cùng ta.

Như thế trở thành thường lệ và hôm nào Hứa cũng đầy giỏ cá. Còn những người khác thì không được mấy.

Một đêm vừa giở rượu ra, có một chàng trai lảng vảng đi tới bên. Hứa sốt sắng gọi vào cùng uống. Tuần rượu có bạn, cảm khái say sưa kéo dài suốt đêm, nên không được con cá nào. Hứa có ý buồn phiền. Chàng trai đứng dậ nói:

- Để tôi xuống mạn dưới sông xua cá lên.

Nói rồi lãng đãng bước đi, lát sau trở lại bảo Hứa:

- Cá đã đến đấy!

Quả nghe có tiếng cá quẫy roàn roạt dưới sông. Hứa vội kéo vó lên, được liền mấy con cá dài hơn một thước (thước ta bằng 0,4m).

Hứa mừng quá, cảm tạ và muống đưa cá tặng chàng trai. Nhưng chàng ta không nhận:

- Đã từng mang ơn rượu ngon, kẻ hèn này chưa có gì báo đền, đâu dám nhận tạ. Nếu ông không ghét bỏ, xin cứ cho như thế này luôn luôn.

Hứa nói:

- Mới vừa mời nhau một chén rượu, sao nói là "đã từng"? Còn nếu anh có lòng muốn gặp gỡ lâu dài thì đó cũng là điều tôi mong muốn. Song tôi cũng lấy làm thẹn vì không có gì đáng kể để bày tỏ mối giao tình.

Hỏi đến tên họ, chàng ta nói:

- Tôi họ Vương, không có tên. Muốn gặp nhau, xin cứ gọi là "Vương Lục Lang".

Từ biệt nhau, sáng ra Hứa đem bán cá, mua nhiều rượu hơn mọi khi. Tối đến, Hứa ra bờ sông đã thấy chàng trai lởn vởn ở đó. Hai người lại khề khà, chén chú chén anh. Được một chén, chàng ta đứng dậy đi xua cá cho Hứa.

Cứ thế nửa năm, một hôm Vương rầu rầu rầu bảo Hứa:

- Được quen biết nhau, mối thanh giao thân thiết như ruột thịt, ngày càng gắn bó. Nay sắp đến ngày phải từ biệt, nói ra mà đau lòng!

Hứa sửng sốt hỏi vì sao? Vương ngập ngừng định nói lại thôi, mãi sau mới bày tỏ được.

- Thân tình thế này có điều gì đáng ngại? Nay đến lúc từ biệt tôi xin nói rõ: tôi là ma nam nam. Thuở sinh thời tôi rất thích rượu, chết đuối vì say, hồn ma lẫn quất ở đây đã mấy năm rồi. Anh kéo được cá hơn mọi người là do tôi đuổi cá đến để đền ơn hàng đêm đổ rượu xuống đất cho. Ngày nay sắp có người làm ma ở đây, tôi được thác sinh làm người. Chúng ta chỉ còn gặp nhau đêm nay, cho nên không khỏi động lòng.

Hứa nghe nói là ma, trong bụng đã có ý kinh, song vì gần cận lâu ngày cho nên không thấy sợ, chỉ còn thương cảm, sụt sịt khóc, rót rượu mời:

- Lục lang! Anh hãy cạn chén rượu này cũng đừng cảm động quá làm gì. Hợp mặt với nhau chưa được mấy mà đã chia ly đôi ngả, ai chẳng buồn. Song anh đã mãn nghiệp chướng, chính là điều đáng mừng. Buồn vậy không nên!

Rồi cùng nhau nâng chén. Hứa hỏi kỹ:

- Người thay anh sắp tới đây là ai?

- Anh cứ ra bờ sông, trưa mai sẽ thấy, trưa mai sẽ thấy một người đàn bà qua sông rồi chết đuối. Người ấy thế chân tôi đấy!

Gà trong làng gáy sáng. Hai người nhỏ lệ chia tay.

Hôm sau Hứa ra bờ sông xem lời nói của Vương có ứng nghiệm không? Quả nhiên có một người đàn bà ẵm đứa bé sảy chân ngã xuống sông. Đứa bé văng lên bờ, quẫy chân, quờ tay, xệch mồm kêu khóc. Nguời đàn bà vật vờ chìm nổi mấy lần bỗng vùng vẫy mạnh tạt được vào bờ, trèo lên nằm vật ra đất. Chị ta thở mạnh một lúc, trở dậy bế đứa bé đi.

Lúc người đàn bà ngã xuống sông Hứa động lòng đã muốn nhảy xuống cứu. Chợt nhớ tới Lục lang, người này thế chân cho anh ta mãn kiếp, cho nên lại thôi. Khi người đàn bà tự lên được. Hứa cho là lời Vương không nghiệm. Đến tối, Hứa ra chỗ kéo vó thấy người bạn trẻ lò mò tới nói:

- Từ nay lại cùng nhau họp mặt tiếp không phải ly biệt nữa.

Hứa hỏi vì sao?

Đáp:

- Người đàn bà ấy sắp sửa thay tôi nhưng tôi cám cảnh cho chị ta còn đứa bé. Một người thay mà hại cả hai mạng thật không nỡ. Từ nay không biết đến bao giờ mới có người thế. Âu duyên hội ngộ hai ta chưa đến ngày dứt chăng?

Hứa cảm động than thở:

- Thật là một tấm lòng nhân hậu, có thể cảm thông đến thượng đế.

Hai người lại càng thân thiết chuốc ché. Chỉ vài ngày sau. Lục lang đến lại từ biệt. Hứa hỏi, đã có người thay chăng?

Đáp:

- Không phải. Việc nhỏ mọn hôm trước cảm động đến trời, nên nay có mệnh vời tôi đi xa làm thổ thần ở Ổ Trấn thuộc huyện Chiêu Viễn. Mai, tôi phải về châu nhậm chức. Vì anh không quên tình bạn cũ, xin mời anh đến thăm một chuyến, chớ hiềm đường xa cách trở.

Hứa lấy làm mừng cho bạn, song lại phân vân:

- Anh chính trực mà làm thần, thế đủ yên lòng thần dân. Còn việc tôi đi thăm thì thần với người cách xa trời vực, dù tôi không kiêng sợ song làm thế nào đến mà gặp mặt nhau cho được?

- Nếu có lòng đừng ngại điều đó.

Vương dặn kỹ càng năm bảy lượt mới chia tay. Hứa về nhà sắm sửa hành trang. Vợ cười bảo:

- Chiêu Viễn cách đây vài trăm dặm. Nhưng chỉ e đến nơi tượng đất không nói ra tiếng để mà nhận thì phiền.

Hứa bỏ ngoài tai, cứ đi, thẳng đến huyện Chiêu Viễn. Hỏi thăm, quả có ấp Ổ Trấn. Tìm đến nơi, mang hành lý gửi nhà trọ, hỏi thăm miếu thổ địa ở đâu, chủ nhà kinh ngạc hỏi ngay:

-Chắc hẳn ông khách họ Hứa?

- Đúng nhưng sao chủ biết?

Chắc hẳn khách đến chơi thăm ấp chúng tôi?

Hứa lại hỏi sao biết? Chủ nhà không trả lời, vội vã ra ngoài. Lát sau, một người đàn ông bế con tới, đàn bà con trẻ lấp ló đứng ngoài nhòm vào. Rồi cơ man nào là người tấp nập kéo đến đứng đông đặc ngoài cửa. Hứa lo sợ không hiểu ra sao. Họ cung kính thưa rằng:

- Trước đây mấy đêm. Thần bản địa đã báo mộng có người bạn họ Hứa ở Tuy Châu sắp đến thăm, phải sửa soạn đón tiếp giúp đỡ mọi thứ vật dụng hàng ngày. Vì vậy chúng tôi đã chờ từ bấy.

Hứa lấy làm lạ, liền tới miếu làm lễ khấn rằng:

- Từ sau khi chia tay tôi thức ngủ không yên cho nên không dám ngại đường xá, cho tròn hẹn trước. Thần còn báo mộng cho dân, nghĩa tình ấy ghi tạc trong dạ, riêng thẹn lễ vật không có chi đáng kể, chỉ xin có chén rượu này. Ví còn không ghét bỏ, xin lại cùng uống như những đêm cạn chén ở bờ sông.

Hứa khấn xong, đốt vàng đổ rượu. Liền đó, một trận gió nổi lên cuốn lễ vật đi mất. Đêm ấy Hứa nằm mộng thấy Lục lang tới, mũ áo óng ánh khác hẳn ngày trước, vái tạ Hứa rằng:

- Đường xa dặm thẳm, vất vả thăm nhau, thực là khó phân mừng tủi. Tôi nay ở vào chức mọn không tiện giáp mặt, thành ra chỉ trong gang tấc mà như cách trở núi sông thật là buồn dạ. Song đã có dân ấp khoản tặng lễ vật thay tôi đón tiếp. Khi nào trở lại nhà, tôi sẽ xin theo tiễn.

Được vài ngày Hứa muốn về. Dân làng khẩn khoản lưu lại, ân cần ngày đêm thay phiên nhau túc trực khoản đãi. Hứa cố từ tạ trở về. Họ truyền tin cho nhau tranh nhau đến gặp. Chưa tới nửa buổi, vật biếu mang tặng đã đầy túi. Từ người đầu bạc cho đến đứa trẻ để chỏm tụ tập đông nghịt tiễn đưa.

Hứa vừa ra khỏi thôn, một trận gió lốc nổi lên, cuốn theo đến mười dặm. Hứa đứng lại vài dặm mà khấn:

- Lục lang trân trọng quá, đừng phải mất công tiễn nhau xa thế. Lòng thần nhân ái có thể dành phúc cho cả một vùng không cần đến lời dặn dò của cố nhân nữa.

Trận gió còn quanh quất một hồi rồi mới tan đi. Dân làng thấy cũng bàng hoàng quay về. Từ đó gia tư nhà Hứa dần dần dư dật ít nhiều, không phải làm nghề đánh cá sinh sống như trước nữa.

Về sau, khi gặp người huyện Chiêu Viễn, Hứa hỏi thăm. Họ nói vị thần ấy linh thiêng lắm.

Lại có người nói đó chính là thổ thần ở tràng Thạch Thanh ấp Chương Khâu.

Chuyện thực ở đâu chưa rõ.

LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ

Thanh vân nhẹ bước mà không quên bạn nghèo hèn như thế mới là thần vậy. Ngày nay những kẻ cưỡi xe há có nhớ đến người bạn nón lá xưa cũ.

Quê tôi có người tên là Lâm hạ, nhà nghèo lắm. Có người bạn từ nhỏ nay giàu chức lớn, anh ta muốn đến thăm, cố sức lắm mới chê biện được hành trang, bôn ba hơn nghìn dặm. Đến nơi thất vọng về bạn thù tiếp, anh ta phải dốc túi bán ngựa mới trở về được nhà. Anh em họ hàng làm bài hát đùa rằng:

Tuần trăng đã đến, bác vừa về

Mũ lông đã mất dù che không còn

Hỏi đâu cái nghẽo * gầy mòn

Đôi giày há mõm có còn ở chân?

* cái nghẽo: tiếng lóng chỉ ngựa

Trương Thành

Người họ Trương ở đất Dự , tổ tiên là người nước Tề, cuối đời Minh, nước Tề có loạn to, vợ bị quân giặc cướp đem về Bắc. Trương vẫn thường lui tới làm khách đất Dự, bèn làm nhà luôn ở đó. Lấy vợ người Dự, sinh con trai tên là Nột.

Không bao lâu vợ chết, lại lấy vợ kế, sinh con trai nữa tên là Thành. Vợ kế họ Ngưu, rất hung tợn, thường ghét Nột, nuôi Nột như đứa ở. Cho ăn toàn rau dưa hẩm hút. Sai đi chặt củi thì đòi hỏi cho được mỗi ngày một gánh. Nếu không thì roi vọt mắng chửi, không thể chịu nổi. Chỉ cất giấu những thứ ăn ngon ngọt cho Thành, lại cho vào trường tư để học.

Thành dần lớn lên, tính hiếu nghĩa, không nỡ thấy anh vất vả, lén khuyên an mẹ, mẹ chẳng chịu nghe. Một hôm, Nột vào núi lấy củi, chưa xong việc thì gặp mưa to gió lớn, phải ẩn mình dưới vách núi. Hết mưa thì trời đã tối, bụng đói cồn cào, bèn gánh củi về. Mẹ xem củi thấy ít, giận dữ không cho ăn. Lửa đói đốt lòng, vào nhà nằm vật ra. Thành đi học về, thấy anh thờ thẫn, thì hỏi:

- Ốm sao?

Nột đáp:

- Đói thôi mà.

Thành hỏi nguyên do. Nột nói hết sự tình. Thành buồn rầu rồi đi ra. Một lúc sau đem bánh về cho anh. Anh hỏi bánh ở đâu ra. Thành nói:

- Tôi lấy trộm bột, mướn chị hành xóm làm cho, hẵng cứ ăn đi, chớ nên nói gì cả.

Nột ăn xong dặn em rằng:

- Từ sau chớ làm như thế nữa, việc lộ thì liên lụy đến em. Vả lại, ngày ăn một bữa thì đói chức không chết đâu!

Thành nói:

- Anh đã yếu sẵn rồi, sao có thể hái nhiều củi được?

Ngày hôm sau, ăn xong, lén vào núi, đến tận chỗ anh làm củi. Anh trông thấy giật mình hỏi:

- Định làm cái gì thế?

Đáp:

- Định hái củi giúp anh.

Hỏi:

- Ai bảo em?

Đáp:

- Tự tôi đến mà thôi.

Anh nói:

- Không cứ là em không hái được, ví phỏng có hái được cũng không nên.

Thế rồi giục Thành về ngay. Thành không nghe cứ lấy tay bẻ củi giúp anh. Lại nói:

- Ngày mai em phải đem búa đi!

Anh đến gần bảo thôi, thì thấy ngón tay bị toạt, giày bị rách, buồng rầu bảo em rằng:

- Mày không về nhanh thì tao lấy búa tự chặt cổ chết đấy.

Thành bèn ra về. Anh đưa đến nửa đường, mới quay lại. Khi gánh củi về qua trường, dặn thấy học rằng:

-Em tôi còn nhỏ tuổi, nên răn cầm nó, kẻo trong núi nhiều hổ beo lắm!

Thầy nói:

- Trước giờ ngọ không biết nó đã đi đâu, đã cho ăn đòn rồi!

Nột về bảo Thành:

- Không nghe lời anh nên bị phạt roi rồi đấy!

Thành cười rằng:

- Không có đâu!

Ngày hôm sau, lại xách búa đi. Anh sợ hãi nói:

- Anh vẫn bảo em chớ đến đây, sao lại cứ thế?

Thành không trả lời, hối hả chặt củi, mồ hôi đầm đìa hai bên má vẫn không chịu nghỉ lấy một lúc, chừng đủ một bó, không nói năng gì trở ra về.

Thầy lại trách mắng Thành, bèn nói hết tình thực. Thầy khen là hiền, rồi cũng không ngăng cấm nữa.

Anh nhiều lần bảo thôi, cuối cùng Thành cũng chẳng nghe.

Một hôm đang cùng mấy người làm củi trong núi, bỗng có hổ đến. Mọi người sợ hãi trốn nấp hết cả, hổ liền tha Thành đi. Hổ mang người nên đi thong thả, bị Nột đuổi kịp. Nột ra sức giáng một búa trúng vào đùi. Hổ bị đau chạy lồng lên, không sao đuổi kịp nữa, đành chỉ đau đớn khóc lóc mà trở lại. Cả bọn khuyên dỗ an ủi, khóc càng thảm hơn, nói:

- Em tôi chẳng phải như em người khác; huống chi nó vì tôi mà chết, tôi sống làm sao được?

Bèn lấy búa tự chặt vào cổ. Mọi người vội cứu thì đã ngập vào thịt đến gần một phân, máu vọt ra lênh láng, mắt hoa muốn chết. Ai cũng khiếp, bèn xé áo buộc cho anh ta, rồi cả bọn cõng về.

Bà mẹ khóc lóc mắng rằng:

- Mày giết con ta, lại muốn chặt cổ, để liếm lấp hay sao?

Nột rên rỉ nói:

- Xin mẹ chớ phiền não, em chết, nhất định tôi chẳng sống nào!

Đặt lên giường, vết thương đau đớn không sao ngủ được. Ngày đêm chỉ ngồi dựa vào tường mà khóc. Cha sợ con cũng chết nốt, thường đến bên giường bón cho ăn chút ít, Ngưu thị liền nhiếc mắng. Nột không chịu ăn nữa, ba ngày thì chết.

Trong làng có thầy đồng rí (3); vong hồn Nột đi trên đường gặp thầy, bèn tỏ bày nông nỗi khổ sở mấy ngày trước đây, nhân hỏi chổ ở của em. Thầy đồng nói: "Không nghe tin gì". Thế rồi quay lại đưa đường cho Nột đi. Đến một nơi đô hội, thấy một người mặc áo đen từ trong thành đi ra. Thầy đồng đón đường rồi thay Nột hỏi thăm Thành. Người áo đen xem kỹ lại tập trát ở trong túi đang treo, đàn ông đàn bà có hơn trăm, nhưng không có tội phạm nào họ Trương. Thầy đồng ngờ rằng ở tập trác khác chăng. Người áo đen nói:

- Con đường này thuộc về tôi, sao có thể bắt lầm được!

Nột không tin, ép thầy đồng đưa vào thành. Trong thành ma mới, ma cũ qua lại nộn nhạo. Cũng có người quen biết cũ, đến hỏi, không ai biết cả.

Bỗng nhiên ai nấy cùng nhao nhao lên: "Bồ Tát đến!" Ngẩng lên nhìn, thấy trong mây có một người to lớn, ánh hào quang rực rỡ từ trên xuống dưới, vụt cảm thấy như thế giới trong trẻo sáng bừng.

Thầy đồng mừng nói rằng:

- Cậu cả có phúc thay! Bồ Tát mấy mươi năm mới xuống âm ty một lần để nhổ sạch mọi khổ não. Vừa đúng hôm nay được gặp!

Liền kéo Nột quỳ xuống. Bọn quỷ lúc nhúc ngổn ngang, chắp tay nhất tề tụng niệm: "Từ bi cứu khổ". Tiếng vang chấn động mặt đất.

Bồ Tát lấy cành dương, rưới nước cam lộ khắp mọi nơi, hạt li ti như bụi. Một lát, sương mới tan, hào quang thu lại, thì không thấy đâu nữa. Nột cảm thấy trên cổ thấm nước cam lộ, chỗ vết búa không còn đau. Thầy đồng lại theo đường cũ đưa Nột về. Trông cổng làng, thầy mới từ biệt mà đi.

Nột chết đã hai ngày, bỗng nhiên sống lại, bèn thuật hết những gì mình đã gặp, vào bảo rằng Thành chưa chết. Bà mẹ cho rằng đặt điều nói láo, lại chửi mắng Nột. Nột mang oan mà không thể tự giải bày. Sờ đến vết thương thì đã lành. Đành gượng dậy, lạy cha mà nói rằng:

-Con băng mây vượt biển tìm em. Như mà không thấy, thì thân này hết mong trở lại, xin cha cứ coi như là con đã chết.

Ông đưa con ra chỗ vắng, cùng nhau khóc lóc không dám giữ con lại. Nột ra đi, thường đến những con đường lớn để hỏi tin tức em. Giữa đường tiền ăn hết sạch, phải ăn mày mà đi. Hơn một năm đến Kim Lăng, quần áo rách xơ, buộc túm trăm múi lọm khọm trên đường. Ngẫu nhiên trông thấy hơn mười người cưỡi ngựa đi qua, Nột tránh sang bên đường. Trong đó có một người như quan lớn, tuổi chừng bốn mươi trở lại, lính hầu lực lưỡng, ngựa hung hăng rộn rịp trước sau. Một thiếu niên cưỡi ngựa nhỏ, nhìn Nột nhiều lần. Nột cho là một vị công tử con quan, chưa dám ngẩng nhìn, thì thiếu niên dừng roi ghìm ngựa, rồi bỗng xuống ngựa gọi to:

- Có phải anh ta đó không?

Nột ngước đầu nhìn kỹ thì ra là Thành. Liền nắm lấy tay em, đau đớn quá, khóc lạc cả tiếng. Thành cũng khóc và nói:

- Anh sao phải xiên bạt đến nỗi này?

Nột kể hết sự tình, Thành càng thêm âu sầu. Những người cưỡi ngựa đều xuống, hỏi duyên cớ rồi bẩm lại với quan lớn. Quan lớn truyền bớt ra một con ngựa để chở Nột, dong cương về đến nhà, rồi mới hỏi chuyện tường tận.

Trước đây, hổ tha Thành đi, đặt ở bên đường lúc nào không biết, nằm giữa đường suốt một đêm. Vào lúc ông Trương Biệt Giá từ kinh đô đi đến, ngang qua chỗ Thành nằm, thấy mặt mày nho nhã, thương xót đến vực lên, vỗ về, Thành dần dần sống lại. Nói nhà cửa quê quán, thì đã đi quá xa. Vì thế bèn chở Thành cùng về, lấy thuốc đắp vào chỗ bị thương, vài ngày thì khỏi. Biệt Giá không có con trai bèn nhận Thành làm con. May hôm đó gặp buổi Thành theo bố nuôi đi dạo chơi ngắm cảnh.

Thành kể lại với anh đầy đủ mọi việc; vừa xong. Biệt Giá đi vào. Nột lạy tạ không thôi. Thành vào nhà trong, mang áo lụa ra biếu anh, rồi bày tiệc rượu, trò chuyện tự tình.

Biệt Giá hỏi:

- Họ nhà ta, ở tại Dự có bao nhiêu đinh?

Nột nói:

- Không ạ, cha tôi lúc bé người đất Tề, đến cư ngụ ở đất Dự.

Biệt Giá nói:

- Tôi cũng người Tề, quê nhà ta thuộc làng nào?

Nột đáp:

- Từng nghe cha tôi nói thuộc hạt Đông Xương.

Biệt Giá kinh ngạc hỏi:

- Thế tôi cũng cùng làng, vì sao lại dời đến Dự?

Nột nói:

- Cuối đời nhà Minh, quân Thanh vào biên giới bắt cóc bà mẹ già đem đi. Cha tôi gặp loạn đao binh, trôi dạt không nhà không cửa. Trước đây từng buôn bán ở miền Tây, qua lại đã quen, vì thế mà ở lại đó.

Biệt Giá kinh sợ hỏi:

- Cụ nhà ta tên là gì?

Nột nói cho biết, Biệt Giá tròn mắt nhìn, rồi cúi đầu như nghi ngờ, rảo bước mau vào nhà trong. Không bao lâu, thái phu nhân ra, tất cả đều lạy chào. Xong hỏi Nột rằng:

- Maỳ có phải là cháu của Trương Bỉnh Chi chăng?

Nột đáp: "Phải"

Thái phu nhân khóc lớn, bảo Biệt Giá rằng:

- Đây là em của mày.

Anh em Nột chưa hiểu thế nào. Thái phu nhân nói:

- Ta lấy cha chúng mày ba năm, lưu lạc sang bắc, thân mình thuộc về Hắc Cố Sơn, được nửa năm, sinh anh mày, lại nửa năm nữa, Cố Sơn chết, anh mày nhờ bổ trật trong quân ngũ mà chuyển dần lên chức quan này. Bây giờ không làm quan nữa, không một giờ khắc nào là không tưởng nhớ quê hương. Bèn ra sổ tịch lấy lại họ cũ. Đã nhiều lần cho người đến đất Tề, mà không chỗ nào tìm thấy âm hao gì cả. Nào có biết đâu cha chúng mày đã dời sang miền tây.

Rồi nói với Biệt Giá rằng:

- Mày nuôi em làm con thì giảm phúc mà chết thôi.

Biệt Giá nói:

- Hồi trước có hỏi Thành, Thành chưa từng nói là người Tề, cứ nghĩ còn bé dại, nên không nhớ.

Bèn dựa vào tuổi để xếp đặt lại: Biệt Giá bốn mươi mốt tuổi, làm anh cả, Thành mười sáu tuổi là út, Nột hai mươi hai tuổi là anh cả mà thành anh hai.

Biệt Giá được hai em mừng quá, nằm ngồi cùng có nhau, nên biết tận cội nguồn mọi nguyên do chia lìa lưu lạc, và toan tính chuyện trở về. Thái phu nhân sợ bà vợ kế không dung chăng. Biệt Giá nói:

- Dung được thì ở cùng nhau, nếu không thì ở riêng ra, chứ trong thiên hạ, có nước nào mà lại không có tình cha con?

Rồi đó bán đất, bán nhà sắm sửa hành lý, định ngày đi về tây. Khi đến đầu làng, Nột và Thành dong ruổi về trước, báo tin cho bố biết. Ông bố từ lúc Nột bỏ đi, vợ cũng chết. Chỉ còn trơ trọi một ông lão góa, người và bóng đối nhau.

Bỗng nhiên thấy Nột vào, bội phần mừng rỡ, thảng thốt giật mình. Lại thấy Thành thì mừng quá đỗi, không nói được gì, nước mắt ràn rụa. Lại được tin mẹ con Biệt Giá cũng đến. Ông dừng khóc ngạc nhiên không ra vui, cũng không ra buồn, đứng ngây như phỗng. Không bao lâu Biệt Giá vào, lạy chào xong thái phu nhân nắm lấy tay ông nhìn nhau cùng khóc. Đã thấy con hầu vú già, người giữ ngựa đầy tớ trong ngoài chật ních, đứa đứng đứa ngồi không còn biết như thế nào.

Thành không thấy mẹ liền hỏi, mới biết mẹ đã chết, gào khóc muốn đựt hơi, một lúc tỉnh lại.

Biệt Giá đem tiền của ra xây dựng lầu gác, mời thầy dạy học cho hai em.

Ngựa nhảy trong tàu, người ồn ào trong nhà, nghiễm nhiên là một đại gia.

Nối Giấc kê Vàng

Mới đỗ ông nghè đã tự kiêu

Càng nghe tâng bốc lại như diều

Nồi kê tích cũ không chi lạ

Giấc mộng giàu sang só bấy nhiêu.

Ông cử họ Tăng, người Phúc Kiến, lúc vào kinh đô thi đỗ tiến sĩ vừa xong, cùng hai ông bạn tân khoa đi chơi ngoài thành. Chợt nghe trong chùa Bi Lô có một thầy xem số tử vi ở trọ, liền rẽ ngựa tới đó bói một quẻ.

Tăng vào, nghênh ngang tự ngồi chẳng đợi ai mời chào. Thầy tướng thấy người có vẻ tự đắc, bèn kiếm lời nịnh hót thâm. Tăng cầm quạt phe phẩy, mỉm cười hất hàm hỏi thầy tướng coi mình có số mệnh mặc mãng bào, đeo đai ngọc triều phục của tể tướng không?

Thầy tướng nghiêm trang nói Tăng sẽ làm Tể tướng yên ổn trong hai mươi năm. Tăng mừng lắm, vẻ mặt càng kiêu. Nhằm lúc trời mưa nhỏ bèn nhủ bạn vào trong chùa nhà thầy tạm ẩn. Một vị sư già, mũi cao mắt lõm, ngồi trên nệm cỏ, ngạo mạn không chào hỏi gì. Mấy người giơ tay chào qua loa, rồi tự leo lên giường ngồi nói chuyện với nhau. Ai nấy đều mừng Tăng là tể tướng. Tăng càng nở mũi tự kiêu trỏ bạn đồng du mà nói:

- Lúc nào tôi làm tể tướng, tôi cử Trương huynh làm tuần phủ một tỉnh miền nam; ông anh cô cậu với tôi làm chức tham du; lão bộc nhà tôi cũng được chức thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện.

Mọi người cười vang. Kế bên ngoài mưa như trút nước, Tăng mệt mõi, ngã người lên giường mà ngủ.

Bỗng thấy hai vị trung sứ đem tờ chiếu chỉ của thiên tử viết tay, đến vời Tăng tể tướng vào triều bàn định việc nước. Tăng khoái chí lật đật vào chầu. Ngài Ngự bước ra nghênh tiếp hỏi han niềm nở giây lâu, rồi truyền cho Tăng được tự quyền bổ các quan tam phẩm trở xuống; lại ban cho mãng ngọc và ngựa quý. Tăng mặc áo mãng bào, mang đai ngọc cúi đầu lạy tạ ơn rồi đi ra.

Về nhà thì thấy nhà mình ở cũ bây giờ là dinh thự, cột chạm cửa sơn, rất mực lộng lẫy, đến nỗi chính Tăng cũng không hiểu vì đâu mình chóng vinh hiển đến thế này. Chỉ biết giờ phút này cất tiếng khẽ gọi, đã nghe những tiếng vân dạ vang như sấm dậy. Rồi thì các quan công khanh đem biếu sơn hào hải vị, tấp nập ngoài cổng. Các quan lục khanh (tức lục bộ thượng thư) tới thăm thì Tăng còn đứng dậy chào mời; hạng thị lang thì xá và nói chuyện với, còn từ hạng đó trở xuống, Tăng chỉ trả lời bằng cái gật đầu mà thôi.

Tuần phủ Sơn Tây gửi tặng một phường nữ nhạc mười người đều là gái mỹ miều son trẻ. Đẹp nhất Niễu Niễu và Tiên Tiên, hai người càng được yêu quý, hầu hạ vấn tóc gội đầu, ngày ngày đàn hát làm vui.

Một hôm nhớ lại hồi còn hàn vi, thường được một thân sĩ trong làng là Vương Tử Lương giúp đỡ nay mình đã chót vót mây xanh, mà ông còn lênh đênh trên đường sĩ hoạn, sao không đưa tay dìu dắt ông ấy một phen?

Sáng hôm sau, Tăng dâng sớ tiến cử Vương làm chức Gián nghị, liền được vua giáng chỉ bổ dụng ngay.

Lại nghĩ Quách thái bộc từng trợn mắt gây gổ với mình liền mời bọn Lữ cấp gián và thị ngự Trần Xương tới, mách bảo ý tứ; rồi ngày hôm sau bọn ấy kế tiếp nhau dâng sớ kể tội Quách Thái bộc làm cho ông này bị cách chức và bị đuổi về vườn.

Xong việc ân đền oán trả, Tăng hơi mát lòng khoái ý.

Bữa nọ quan tể tướng đi chơi ngoài thành, một anh chàng say rượu đi loạng choạng thế nào đụng vào cờ quạt giàn hầu của ngài, ngài liền thét lính trói cổ và giải đến dinh phủ doãn kinh thành. Lập tức anh ta bị đánh đòn đến chết.

Những người có nhà cửa nguy nga, ruộng nương bát ngát đều sợ quyền thế mà dâng đất đai màu mỡ. Từ đó Tăng càng trở nên giàu có.

Không bao lâu Niễu Niễu và Tiên Tiên kế tiếp nhau qua đời. Tăng khuya sớm bâng khuâng, chợt nhớ lại năm nọ, mình trông thấy cô gái ở xóm đông tuyệt đẹp, thường ao ước mua nàng về làm hầu thiếp nhưng vì hồi đó còn nghèo nàn chẳng được như nguyện. Bây giờ có địa vị cao sang, muốn sao được vậy, liền sai mấy đứa tôi tớ giỏi đem tiền đến ấn đại vào nhà nàng mà bắt nàng đi. Một lúc, võng khiêng nàng về dinh. Tăng trông thấy so sánh với khi mình trông thấy ngày trước, giờ nàng càng đẹp hơn. Nghĩ lại bình sinh như vậy đủ mãn nguyện.

Hơn một năm, xem ra các quan trong triều có ý thầm thì bàn tán, trong bụng chê bai, nhưng chẳng ông nào dám nói ra miệng.

Tăng thấy vậy càng vênh váo nghênh ngang, chẳng thêm bận lòng chú ý.

Có quan long đồ học sĩ họ Bao, dâng sớ hạch tội Tăng đại lược như sau:

- "Thiết nghĩ: Tăng mỗ nguyên là một đứa rượu chè cờ bạc đàng điếm tiểu nhân, một lời nói hợp ý mà được hoàng thượng tin dùng, cha con vẻ vang, ơn huệ tột bậc. Thế mà chẳng nghĩ làm sao dốc lòng hiến thân, báo đáp ơn vua trong muôn một; lại dám lòng dạ buông lung, tự tiện làm điều oai, phúc, cái tội đáng chết, nhổ tóc mà đếm không đủ.

"Danh vị quý báu của triều đình coi như món hàng đem bán lấy tiền làm giàu, tha hồ so đo gầy béo, đánh giá hơn thua, vì đó mà công khanh tướng sĩ đều phải luồn lọt tới lui nhà hắn, tính toán lo lót, như tuồng bán buôn, núp bóng nhờ hơi kể sao cho xiết. Hoặc có người là hạng kiệt sĩ hiền thần, không chịu a dua theo hắn, nhẹ thì đuổi về vườn còn nặng thì giáng xuống làm lính. Rối đổi không về hùa với hắn, liền bị buộc tội hươu vượn không đâu, đày đi những chốn hùm beo xa lắc. Nhân sĩ thấy mà lạnh mình, triều đình hóa ra cô lập.

"Lại còn máu mỡ của dân, tha hồ bóc lột, con gái lương thiện ép uổng làm hầu; đến nỗi tiếng oán than dậy, khí uất xông lên, mặt trời cũng phải vì đó mà u ám.

"Tôi tớ của hắn đi tới đâu, thì quan lại địa phương phải nể mặt, thư từ của hắn gửi tới đâu thì người cầm quyền tư pháp ở đó phải làm trái phép cho được chiều lòng. Có khi con cái bọn nấu ăn, giữ ngựa cho hắn, hoặc là bà con đi đâu cũng hạch sách ngựa trâu, hò hét như sấm vang gió bão, hễ điạ phương cung cấp hơi trễ, là roi vọt lập tức ra oai. Thôi thì chúng ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, thầy trò đi tới chỗ nào thì đồng ruộng chỗ ấy không còn một ngọn cỏ xanh.

"Trong khi đó, Tăng mỗ vênh mặt ỷ mình đác thế, không chút ăn năn; khi ở trong triều đình thì giả dối xảo trá trước mặt nhà vua, chưa về tới nhà thì đàn ngọt hát hay đã chờ sẵn. Thanh sắc cẩu mã ngày đêm hoang dâm, quốc kế dân sinh không chút lo nghĩ, ở đời há có thứ tể tướng nhu vậy ư?

"Vì thế, trong ngoài xôn xao, nhân tâm hồi hộp, nếu không kịp trị bệnh bằng hình phạt búa rìu, thể tất gây nên cái họa Tháo Mảng cướp nước. Hạ thần sớm tối lo lắng, không dám có lúc nào ăn ngon ngủ yên, liều chết đề ra các khoản trên đây, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong thánh thượng ra lệnh chém đầu gian nịnh, tịch của tham ô, hầu trên hợp ý trời, dưới khoái lòng dân. Nếu xét ra thần bày đặt chuyện, thì dao búa vạc dầu xin làm tội thần lập tức. v.v...."

Sớ này dâng lên vua, Tăng nghe hồn xiêu phách lạc, lạnh mình như uống băng; nhưng may nhờ vua khoan dung, xem sớ bỏ đó, không hỏi gì cả.

Tiếp đến các quan trong triều, ngoài quận thi nhau dâng sớ hạch tội trạng của Tăng. Ngay bọn xưa kia xin làm đồ đệ, thờ kính bằng cha, nay cũng đổi lòng trở mặt, theo hùa hạch tội như thường.

Bấy giờ vua mới giáng chỉ tịch thu gia sản và bắt Tăng đi làm lính Vân Nam. Người con y làm thái thú quận Bình Dương, triều đình cũng sai quan ra tận nơi xét hỏi.

Tăng ở nhà nghe tin con, đang kinh hoảng đau xót thấy có mấy người võ sĩ, nách gươm tay mác, vào thẳng buồng, lột áo mão cũa Tăng, trói chung với vợ. Tiếp thấy bọn lính chuyển vận của cải trong nhà ra ngoài sân, vàng bạc tiền nong đến mấy trăm vạn; hột châu ngọc quý có đến mấy trăm hộc, những thứ chăn màn giường chiếu cũng mấy ngàn món. Đến nỗi những áo lót trẻ con và giày tất đàn bà rơi vãi lung tung ở trên thềm. Tăng nhất nhất trông thấy như đâm vào tim vào mắt.

Giây lát một người lính túm cổ nàng hầu đẹp của Tăng lôi ra, đầu bù miệng mếu, mặt ngọc tái xanh khiến Tăng càng bi thảm như lửa đốt ruột gan, nhưng nén tủi nuốt thương mà không dám nói.

Rồi thì lâu đài kho vựa, niêm phong đâu đó xong xuôi, võ sĩ mới thét Tăng ra đi. Người cầm đầu toán áp giải lôi kéo bắt đi thật mau.

Vợ chồng Tăng thổn thức lên đường; lúc này cầu lấy một con ngựa xoàng, cỗ xe xấu cho đỡ mỏi chân cũng không thể được.

Đi được ngoài mười dặm vợ mỏi chân, đuối sức loạng choạng muốn ngã, Tăng đưa một tay ra nâng đỡ vợ. Lại đi hơn mười dặm nữa, chính mình cũng mổi mệt hết hơi; xa trông thấy những ngọn núi cao ngất mây xanh, tự lo không thể trèo nổi. Chốc chốc lại nắm tay vợ nhìn nhau khóc sướt mướt nhưng chủ cai trợn mắt ra oai, không cho ngừng một tí nào khả dĩ ngủ đỡ, cực chẳng đã, vợ chồng níu nhau, cà nhắc đi từng bước.

Khi đến sườn núi vợ đã kiệt sức, ngồi phịch bên đường mà khóc. Tăng cũng đánh liều ngồi nghỉ, mặc kệ chủ cai mắng chửi.

Bỗng nghe trăm tiếng nổi lên ồn ào, một tốp trộm cướp vác giáo dài , dao nhọn nhảy qua lề đường mà tiến đến trước mặt. Chủ cai hoảng sợ bỏ chạy, Tăng quì mọp nói với bọn chúng rằng mình làm quan bị cách chức và đi đày xa, trơ trọi một thân, trong hành lý chẳng có tài vật gì đáng giá, năn nỉ chúng tha cho làm phúc.

Bọn cướp trợn mắt nói:

- Tụi tao là bọn lương dân bị hại, chỉ lấy cái đầu thằng nghịch tặc mà thôi, ngoài ra không đòi hỏi gì hết.

Tăng nổi giận:

- Tao dù mắc tội cũng là quan lớn của triều đình, lũ bay là lâu la giặc cỏ, sao dám hỗn xược như thế?

Bọn cướp nổi xung, huơ búa lớn chặt cổ Tăng, nghe đầu rơi xuống đất một tiếng huỵch.

Hồn vía đang hãi hùng bỡ ngỡ liền có hai quỷ sứ đến nắm lấy tay lôi đi. Đi mấy khắc đồng hồ, vào một nơi đô hội. Giây lát trông thấy một tòa cung điện trang nghiêm, trên điện có một vị vương giả mặt mày dữ tợn, ngồi chiễm chệ xét xử tội phúc. Tăng khúm núm ngồi xuống đợi lệnh.

Vương giả mở tập hồ sơ ra xem qua mấy hàng, bỗng thịnh nộ thét lớn:

- Thằng này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu.

Lũ quỷ dạ ran, muôn miệng họa theo, tiếng như sấm sét.

Tức thời có những quỷ cao lớn chặn lại, túm cổ Tăng lôi xuống giữa sân, thấy cái vạc dầu cao chừng bảy thước bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run rẩy kêu gào, muốn chạy trốn cũng chẳng được, quỷ lấy tay trái nắm lấy tóc, tay mặt xách cẳng đưa bổng Tăng lên mà ném vào vạc dầu. Tăng thấy mình tùy theo dầu sôi mà nổi lên chìm xuống, da thịt cháy bỏng, đau buốt đến tận tim, dầu sôi vào miệng, phanh xé ruột gan, ý muốn cho mau chết nhưng lại không chết liền cho. Phỏng chừng xong xuôi bữa ăn, quỷ mới cầm cây nĩa lớn khều Tăng ra ngoài, lại đặt dưới thềm.

Bấy giờ Vương giả lại kiểm sổ sách, nổi giận và nói:

- Nó cậy thế hiếp người, phải xử phạt núi đao phanh thây xé các nó mới xứng.

Quỷ lại lôi Tăng đi, đến chỗ thấy một trái núi không to lớn lắm nhưng đá mọc dựng đứng chung quanh có đao nhọn đâm ra ngang dọc tua tủa, như những khóm măng dày kiến. Đã sẵn có có mấy người bị đâm bụng thọc ruột đang vướng trên đó, nghe tiếng họ kêu gào và trông thấy cảnh tượng mà thương tâm thảm mục. Quỷ giục Tăng leo lên. Tăng khóc rống lùi trở lại, quỷ cầm đùi nhọn đâm vào óc, Tăng đau quá, kêu lên van nỉ, khiến quỷ nổi giận, chụp lấy Tăng rồi ra sức tung bổng lên không.

Tăng thấy mình lơ lửng trên không, rồi rơi xuống một bụi gai, mũi dao nhọn đâm thẳng vào bụng, đau đớn không sao tả xiết. Giây lát vì thân thể nặng nề, thành ra lổ dao đâm dần dà khoét rộng, rồi mới rớt xuống đất, chân tay rúm lại.Quỷ lại dẫn vào trước mặt vương giả.

Vương giả sai người tính sổ coi một đời Tăng bán chức buôn danh, cướp đơạt của cải thiên hạ, cộng lại số tiền là bao nhiêu? Tức thời, cón 1 rậm râu đứng gảy con toán rồi đáp: "Hết thảy là ba trăm hai mươi tư muôn".

Vương giả nói:

- Nó đã chứa vào, giờ bắt nó phải uống đi.

Một lát, bầy quỷ khiêng vác tiền bạc ra xếp đống dưới thềm, cao như gò núi. Đoạn, bỏ lần vào trong nồi gang, chất lửa mà nấu cho hóa ra nước.

Mấy đứa quỷ sứ thay phiên nhau lấy gáo múc nước ấy đổ vào miệng Tăng tràn qua hai má thì da thịt cháy xèo xèo, vào tới cuống họng thì ruột gan sôi lên sùng sục. Sinh thời chỉ lo cái vật ấy thu vào ít, bây giờ lại sợ nó đến mình quá nhiều.

Công việc uống vàng bạc tới nửa ngày mới xong. Vương giả sai người áp giải Tăng đi Cẩm Khâu, chuyển sinh làm con gái.

Đi độ vài bước, thấy trên giàn cao, gác một cây dầm bằng sắt, chu vi độ mấy thước, buộc một bánh xe khổng lồ, rộng lớn không biết là mấy trăm dặm, sáng lòe năm sắc, chiếu rọi mây xanh. Quỷ cầm roi vụt Tăng, bắt phải leo lên bánh xe ấy. Tăng vừa nhắm mắt leo lên thì bánh xe quay tít, dường như bị té rơi xuống, khắp thân thể mát lạnh, té ra đã hóa làm đứa trẻ sơ sinh, mà lại là con gái.

Rồi nhìn tới cha mẹ, thì áo rách quần lành, ở trong lều tranh vách đất, bị gậy treo kia, bấy giờ Tăng mới tự biết mình đã chuyển sinh làm con kẻ ăn mày.

Lớn lên, ngày ngày đi theo lũ trẻ đồng bối ăn mày ăn xin khắp nơi. Cái bụng lép kẹp, không một bữa nào được ăn no, mình mặc áo rách tả tơi, gió thổi lạnh buốt thấu xương. Năm mười bốn tuổi, cha mẹ đem bán làm nàng hầu. Ông tú tài họ Cố, tuy cơm áo hơi đủ no ấm, nhưng phải người vợ lớn độc dữ, hàng ngày roi vọt đánh đập luôn tay, lại nung sắt đỏ mà đốt vú. May được ông chồng khá thương yêu, cho nên tự an ủi đôi chút. Xóm bên đông có một thiếu niên hung tợn leo tường sang nhà, ép phải giao hoan với nó. Nàng tự nghĩ kiếp trước của mình làm nên tội ác những gì, để bị quỷ sứ hình phạt đáo để rồi, có lý đâu kiếp này lại phải chịu nhơ nhuốc lép vế thế này nữa, nàng bèn kêu cứu ầm lên. Chồng và vợ lớn vùng dậy, tên thiếu niên kia mới chạy trốn.

Không bao lâu, một đêm ông tú qua buồng nà nằm ngủ, đầu ấp tay gối, nàng đang rủ rỉ kể nỗi oan khổ của mình cho chồng nghe, bỗng dưng có tiếng thét vang cửa buồng mở toang, hai tên côn đồ xách dao áp vào chặt đầu ông tú rồi vơ vét áo xống đồ vật mà đi. Nàng cuộn tròn trong chăn, không dám ho he. Bọn côn đồ đi rồi, mới kêu la ầm và chạy qua buồng vợ lớn. Chị này cả kinh, ôm thây chồng khóc lóc, nghĩ nàng đưa tình nhân đến giết chồng bèn làm đơn trình quan thứ sử bản hạt.

Nàng bị bắt và bị tra tấn đau quá, buộc phải nhận tội. Quan kết án lăng trì ( lóc từng miếng thịt) xử tử.

Lính trói ra chỗ hành hình, trong bụng nàng nghẹn ngào nỗi mình oan uổng, vừa đi vừa la trời cho rằng trên trần dưới âm, không có tình cảnh nào đen tối hơn thế này. Đang lúc kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn đồng du lay gọi:

- Anh bị ma đè hay sao mà la dữ thế.

Bấy giờ Tăng mới tỉnh giấc, thấy vị sư già vẫn ngồi xếp bằng tròn trên chiếu. Các bạn xúm lại hỏi: "Trời chiều bụng đói sao anh ngủ ngon thế?" Tăng buồn rười rượi đứng lên, vị sư già mỉm cười hỏi:

- Quẻ bói tể tướng đã thấy nghiệm chưa?

Tăng càng kinh hãi chắp tay vái sư và hỏi tại sao mà biết. Sư nói:

- Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có bóng sen nở ra chứ bần tăng có biết gì đâu.

Tăng vênh mặt khi đến, bây giờ xuôi xị trở về, cái ý nghĩ đài các từ đó nguội lạnh, rồi vào núi tu, về sau thế nào không rõ.

Phiên Chợ Giữa Biển

Mã Tuấn biểu thị Long Môi, con nhà buôn bán, đẹp trai tính phóng khoáng, thích múa hát, theo phường hát hội lấy khăn gấm bịt đầu trông mỹ miều như con gái, nhân đấy có biệt hiệu là Tuấn Nhân.

Hồi mười bốn tuổi, lên học trường quận, liền nổi tiếng học giỏi. Cha già yếu, nghỉ buôn bán ở nhà, bèn khuyên con:

- Mấy quyển sách khi đói không thể náu mà ăn, khi rét không thể may mà mặc, con ạ! Thôi thì con nghỉ học nối nghiệp theo cha, xoay ra thương mại thì hay hơn.

Từ đó, Mã tập buôn bán, lần hồi, theo người ta đi buôn ngoài biển. Một hôm, ghe bị gió bão thổi băng đi mấy ngày đêm, tới một nơi đô hội, người trên đảo xấu xí lạ lùng.

Vậy mà họ thấy Mã, lại cho là yêu ma, ồn ào bỏ chạy. Ban đầu, Mã sợ hãi quá, đến khi biết rõ người bản xứ sợ mình, bèn lợi dụng ngay tình trạng ấy mà nhát họ. Gặp họ đang ngồi ăn, Mã chạy càn đến; ai nấy đều sợ hãi chạy tán loạn, chàng được xơi những món ăn thừa.

Lâu dần vào mãi xóm làng chân núi, thấy ở đây cũng có kẻ mặt mũi giống y như người, duy có quần áo lam lũ rách rưới như lũ ăn mày. Chàng ngồi nghỉ dưới gốc cây, người ta không dám mon men đến gần, chỉ đứng xa xa mà ngó trầm trồ. Lâu rồi thấy chàng không phải là loài cắn xé ai, bấy giờ mới dần dà đến gần.

Chàng cười và nói với họ. Tiếng họ tuy khác, nhưng có thể hiểu được nửa phần. Chàng tỏ căn do vì sao mình lạc đến xứ này. Người làng mừng rỡ loan báo cho làng xóm biết rằng người khách lạ không phải đến vồ cắn ai đâu. Tuy nhiên những kẻ xấu xí nhất hạng chỉ đứng xa ngó, chẳng nỡ bỏ đi ngay, nhưng không dám đến gần.

Bọn đến gần chàng, nhận thấy vị trí mũi miệng cũng giống người Trung Quốc. Họ bày rượu thịt ra mời ăn. Chàng hỏi tại sao thấy mình lại sợ. Họ đáp:

- Chúng tôi thường nghe ông bà truyền lại rằng: Cách đây hai mươi sáu ngàn dặm, về phía tây có người Trung Quốc, người dân mặt mũi kỳ quái. Bấy lâu chỉ nghe đồn thôi, ngày nay mới tin là có sự thật.

Hỏi tại sao dân bản xứ nghèo, họ đáp:

- Điều quý chuộng ở nước chúng tôi, chẳng phải ở văn chương mà ở hình mạo. Người đẹp nhất hạng làm chức thượng khanh; thứ đến chức dân xã; hạng dưới chót nữa cũng được các bậc quý nhân thương yêu, cho nên có lương bổng để nuôi con. Còn như hạng chúng tôi đây, lúc mới oa oa chào đời, cha mẹ cho là vật bất thường, nhiều nhà quăng đi không nuôi. Trừ ra nhà nào vì sự nối dõi tông môn thì mới không đành lòng bỏ đi; miễn cưỡng mà nuôi thôi.

- Nước này tên là nước gì?

- Đây là nước Đại La Sát, kinh đô ở cách ba mươi dặm về hướng Bắc.

Mã yêu cầu họ dẫn đi xem kinh đô một phen cho biết. Gà gáy thức dậy cùng đi. Trời sáng đến kinh đô. Thành xây bằng đá đen như mực; lâu đài cao ngót trăm thước, nhưng có ít lợp ngói chỉ lấy những phiến đá đỏ úp lên trên, trông chẳng khác son đỏ.

Vừa gặp lúc bấy giờ bãi chầu, các quan nghênh ngang võng lọng từ trong triều ra về. Người nhà quê cùng đi với Mã, trỏ vào một vị quan nói:

- Quan lớn tướng quốc đó.

Mã nhòm thấy hình dung quan lớn mà thấy rùng mình, hai tay ngoẳng ra lưng, mũi có ba lỗ, lông mày úp lấy ba mắt như treo tấm màn. Đến mấy ngài cưỡi ngựa đi qua, người hướng đạo nói với Mã:

- Đó là quan đại phu. Lần lượt giới thiệu quan chức mỗi vị từ trong triều kế tiếp ra về. Mã trông mặt mũi người nào người nấy dị hợm quái kỳ, có điều quan chức càng thấp kém chừng nào thì diện mạo cũng bớt xấu xí chừng ấy.

Một lúc sau, Mã đi về qua các phố phường; người ta trông thấy vừa la vừa chạy, té lên ngã xuống làm như gặp phải quái vật chi vậy. Người quê hết sức phân phải, bấy giờ người chợ mới dám đứng ngó xa xa, không chạy tán loạn nữa.

Sau khi Mã trở về sơn thôn, khắp trong nước trẻ già lớn nhỏ, chẳng ai không nghe biết sơn thôn có một người quái cư trú. Từ đó các nhà quyền quý danh vọng muốn cho dân gian được rộng kiến văn cho nên tranh nhau bảo người sơn thôn luân phiên nhau mời Mã đến chơi.

Nhưng, Mã đến nha nào, nhà ấy sợ hãi vội vàng đóng chặt cửa ngõ, đàn ông, đàn bà, con gái lén lút dòm qua khe cửa, run sợ bàn tán nhau; hết trọn ngày ấy, ngày khác không có ai mới tới gặp mặt. Người trong làng nói:

- Chốn này có một vị quan chấp kích, xưa kia từng phụng mạng tiên vương đi sứ ngoại quốc, từng trông thấy thiên hạ nhiều, có lẽ chỉ ông ta dám tiếp kiến anh mà không sợ hãi thôi.

Mã nghe lời, đến nhà ông chấp kích. Thật quả ông này vui mừng tiếp rước, đãi như thượng tân. Mã ngó diện mạo ông, như một cụ già tám chín mươi tuổi, hai con mắt nổi bật ra bên ngoài, râu tua tuả như lông con chim.

Ông ung dung nói chuyện:

- Hồi lão còn trẻ tuổi, từng phụng mạng vua đi sứ ngoại quốc rất nhiều, chỉ tiếc chưa đi tới nước Trung Hoa lần nào. Nay đã một trăm hai chục tuổi lại được trông thấy thượng quốc nhân vật thế này, thật là có phước, không thể nào không tâu thiên tử hay biết. Nhưng lão về ở ẩn nơi rừng núi đã mười năm nay, không để gót tới sân rồng; vậy sáng ngày mai, lão xin vì ông, cố gắng đi chầu thiên tử một phen.

Laõ nói đoạn, sai dọn tiệc thết đãi. Sau vài tuần rượu, gọi phường nữ nhạc gồm mười mấy cô ra trước tiệc thay phiên nhau múa hát làm vui. Cô nào mặt mày cũng xấu xí như quỷ dạ xoa, bịt đầu bằng gấm trắng, mình vận áo đỏ quét đất, giọng hát nghe ồ ồ, chả biết là bản gì, mà nhịp nhàng cũng kỳ cục khó hiểu. Coi bộ lão quan vui sướng lắm, hỏi coi Trung Hoa có đờn nhạc xướng hát như vầy không? Mã đáp: có. Lão quan xin Mã hát thử một bài ca Trung Hoa cho nghe. Mã gõ nhịp trên bàn, ca một bài.Lão quan hớn hở nói:

- Lạ thay! Tiếng hát như hoàng kêu, phụng gáy, lão chưa từng nghe bao giờ.

Sáng bữa sau, lão lên đường, vào chào quốc vương, cốt tiến cử Mã.

Vua hân hoan xuống chiếu vời ngay. Song có ba quan đại thần, tau bày hình dạng Mã quái gở, nếu vời vào chầu, e làm kinh hãi thánh thể. Quốc vương nghe tâu liền bãi lệnh tuyên triệu quái nhân Trung quốc.

Lão quan tức tốc về nhà, thuật chuyện cho Mã nghe và tỏ ý rất tiếc. Mã ở nhà lão quan lâu ngày đâm buồn, có hôm cùng chủ nhân uống rượu say, bèn cầm gươm đứng dậy múa, lấy than lọ bôi mặt đen thủi đen thui, đóng vai Trương Phi. Chủ nhân trầm trồ khen thế là đẹp:

- Xin ông cứ để bộ mặt Trương Phi đến bái yết quan tể tướng, chắc ngài trọng dụng lo gì chẳng được chức cao lộc nhiều.

Mã lắc đầu nói:

- Trời ơi! Bôi nhọ thế này mà chơi đùa, còn có thể yêu thương được, có lý nào vác bộ mặt hát bội đi cầu lấy vinh hiển.

Chủ nhân cố nài ép mãi, Mã mới chịu nghe.

Hôm sau, ông làm tiệc lớn, mời các nhà đương quyền đến nhà yến ẩm, bảo Mã vẽ bộ mặt nhọ nồi sẵn sàng chờ đợi. Một chặp quan khách kéo đến đông đủ, ông kêu Mã ra trình diện. Khách đều sửng sốt, nói:

- Quái lạ, sao bữa trước xấu như ma lem, nay hóa mỹ miều xinh đẹp đến thế?

Rồi các quan cùng kéo Mã ngồi chung tiệc rượu, chén tạc chén thù hết sức vui vẻ. Mã đứng dậy múa may, hát ê a một khúc đúm, cử tọa tấm tắc khen hay. Qua ngày sau, các quan cùng dâng biểu tiến cử Mã với vua. Nghe nói Mã đã đổi xấu ra đẹp, vua lấy làm mừng rỡ sai đem cờ mao tiết đi vời chàng vào triều.

Khi làm lễ bái kiến xong, vua hỏi về đạo trị an của Trung !uốc, chàng cặn kẽ tâu bày, được vua khen thưởng đáo để, liền ban yến ở ly cung. Rượu ngà ngà say, vua hỏi:

- Nghe đồn khanh giỏi múa hát, có cho quả nhân được thưởng thức chăng.

Mã đứng lên bỏ bộ múa hát, cũng bắt chước trùm đầu bằng gấm trắng, hát giọng đò đưa. Vua nghe thích chí liền phong cho Mã chức hạ đại phu. Chàng thường được vua ban tứ yến riêng, hậu đãi khác cả mọi người.

Lâu dần, các quan lớn nhỏ trong triều biết cái mặt chàng bôi nhọ là bộ mặt giả, nhờ đó mà công danh phú quý. Chàng đi tới đâu cũng được người ta nói thì thầm với nhau, không niềm nở với mình nữa. Từ đó chàng hóa ra cô lập, trong lòng cắn rứt không yên, liền dâng biểu xin về hưu dưỡng. Vua không cho. Lại nằn nì xin nghỉ có hạn, vua cho nghỉ ba tháng.

Chàng dùng ngựa trạm, chở các món vàng bạc châu báu trở về sơn thôn. Dân sở tại kéo nhau ra quì đón bên đường. Chàng phân cấp tiền bạc cho những nhà tử tế với mình lúc nọ, tiếng chúc tụng hoan hô, vang dậy như sấm. Dân làng nói:

- Chúng tôi hèn mọn, mang ơn quan đại phu tặng cho tiền bạc, ngài mai có phiên chợ giữa biển, sẽ tìm mua vật quý để đền đáp quan đại phu.

Chàng hỏi chợ biển ở chỗ nào, dàn làng nói:

- Tức là chợ họp dưới biển, người cá (người sống dưới nước như cá) ở bốn biển, gom góp châu báu, bốn phương 1 hai nước, cùng tới trao đổi. Trong đó có nhiều thần nhân đến chơi, mây ráng đầy trời ba đào cuồn cuộn; vì thế những hạng quý nhân tự trọng, không dám xông pha hiểm nghèo, cứ trao lụa là cho chúng tôi, mua dùm các món đồ lạ đem về cho họ. Nay mai sắp đến phiên chợ ấy rồi.

Mã hỏi tại sao biết chắc ngày giờ nào đến phiên chợ biển họp. Dân chúng cắt nghĩa:

- Mỗi khi chúng tôi thấy có đàn chim đỏ bay liệng tới lui tức là bảy hôm sau có chợ.

Mã lại hỏi hành kỳ bao lâu, ý muốn cùng đi xem chợ cho biết nhưng dân làng ngăn bảo chàng phải tự trọng, vì đi chợ rất mạo hiểm, thường thường có đi không về. Chàng nói:

- Các ngươi đừng lo dùm tôi. Tôi vốn đi biển đã quen, sợ chi sóng gió.

Cách mấy ngày sau, quả thấy có người đến gửi tiền của để mua đồ. Tới kỳ chàng vận hành lý xuống thuyền cùng đi chợ biển với người ta. Thuyền chở được khoảng vài chục người, dáng thẳng lườn cao, mười tay bơi chèo, thuyền đi vùn vụt như tên.

Trải qua bốn ngày, xa trông khỏang mây nước giáp nhau, lâu đài lo nhô trùng điệp, những ghe buồm bán đậu dày như kiến. Một chặp đến dưới chành thành nhìn lên vách tường cao bằng đầu người, lầu gác trên mặt thành chót vót đụng mây xanh.

Buộc thuyền xong vào bờ, thấy các món châu báu la liệt trong chợ, ánh sáng lóng lánh chói mắt, nhiều thứcc trần gian không có. Một thiếu niên cưỡi ngưạ đi tới, người họp chợ đều dạt ra tránh đường, bảo nhau đó là Đông dương tam thái tử.

Thế tử đi ngang, liếc mắt thấy Mã, nói:

- Người này là người xứ lạ!

Lập tức, có kẻ tùy tùng đến hỏi Mã tên họ là gì, quê quán nơi nào. Chàng đứng bên đường, chắp tay vái chào thế tử và tự giới thiệu mình. Thế tử mừng và nói:

- Được ngài quá bộ tới đây, thật có duyên phận không ít.

Nói đoạn, trao một con ngựa cho chàng cưỡi, cùng nhau song song theo hướng tây một quãng, mới tới bờ đất cù lao.

Ngựa phăng phăng nhảy đại xuống nước, chàng khiếp đảm kêu lên thất thanh; bỗng thấy nước biển tách ra thành đường đi, hai bên chót vót như vách thành dựng đứng. Đi một lát thấy bày ra trước mắt những toà cung điện nguy nga, đồi mồi làm kèo, vẩy rồng làm ngói, bốn vách thủy tinh, lóng lánh chói mắt.

Chàng xuống ngựa, bước vào cung điện, ngó lên thấy Long vương ngồi trên. Thế tử kính tâu:

- Thần đi xem chợ, được gặp một hiền sĩ Trung Quốc, nên dẫn về đây ra mắt đại vương.

Chàng làm lễ bái yết xong, Long vương hỏi:

- Tiên sinh là bậc học sĩ, hẳn làm vă n hay, vậy quả nhân muốn cậy làm giùm bài phú chợ biển, xin đừng tiếc công nhả ngọc phun châu.

Chàng cúi đầu phụng mạng, liền có thị vệ đem ra nghiên thuỷ tinh, bút râu rồng, giấy trắng như tuyết, mực thơm như lan. Chàng tức thời viết thành bài văn hơn một nghìn chữ đưa trình. Long vương xem rồi khen không tiếc lời:

- Tài lớn của tiên sinh, làm cho thủy quốc vẻ vang biết mấy.

Rồi hội họp các thủy tộc, mở tiệc lớn ở cung Thế Hà. Sau vài tuần rượu, Long vương nâng chén hướng về phía khách nói:

- Quả nhân có đứa con gái cưng, hiện chưa lấy chồng, muốn gả cho tien sinh, thuận hay không?

Chàng tự thẹn không biết nói thế nào chỉ cúi đầu vâng dạ mà thôi, Long vương day lại tả hữu, nói gì chẳng rõ, giây lát mấy nàng cung nữ phò công chúa ra làm lễ, vàng ngọc leng kheng, đàn sáo inh ỏi. Chàng đáp lễ và liếc dòm công chúa, mỹ miều như tiên.

Công chúa chào khách xong trở vào hậu cung.

Sau khi bãi tiệc, hai thị nữ cầm đèn lồng, đưa chàng vào hậu cung.

Công chúa trang điểm ngồi đợi trong phòng kê giường san hô, chạm đồ bát bảo, tấm màn che ngoài kết bằng ngọc minh châu, viên nào viên nấy lớn như cái đấu; chăn mền nệm gối đều bằng thứ rêu mềm mại thơm tho. Trời mới bừng sáng, a hoàn cung nữ đã tấp nập trước mặt để chờ sai khiến.

Chàng ra triều đường bái tạ, Long vương phong chức phò mã đô úy, và sai chép bài phú gửi đi các biển xem.

Long vương ở các biển điều sai sứ đến mừng, nhân dịp gửi thiếp mời phò mã tới uống rượu.

Chàng vận đồ gấm vóc cưỡi rồng xanh ra đi, mấy chục võ sĩ cưỡi cá ngựa theo hộ vệ cùng mang cung sơn son, cầm hèo bịt bạc long lanh rầm rộ, lại có phường nhạc theo hầu, trên lưng ngựa gảy đàn tranh ngồi trong xe gõ phách ngọc.

Nội trong ba ngày, chàng dạo chơi khắp các biển, vì đó cái tên "Long môi" (rồng làm mai) vang dậy bốn biển. Trong cung có một cây ngọc, mình đầy một ôm sáng ngời và trong suốt như lưu ly trắng; giữa có rượu màu vàng lợt, nhỏ thua cánh tay, lá cây giống như bích ngọc dày bằng đồng tiền âm u rậm rạp. Thường ngày vợ chồng ngồi dưới bóng cây ngâm thơ thổi sáo làm vui. Đến mùa hoa nở chi chít, cứ mỗi lá rụng xuống đất, kêu lên một tiếng keng, lượm lên xem như mã não màu đỏ, có chạm trổ và trong sáng khác thường. Thỉnh thoảng có loài chim lạ, tới đậu trên cây hót vét von, lông vàng ánh, đuôi dài hơn mình, tiếng hót có khi não nùng tới gan ruột. Mỗi lần chàng nghe đều chạnh lòng tưởng nhớ quê hương, bèn thừa dịp nói với công chúa:

- Tôi lạc lõng đã ba năm, cha mẹ già bặt tin vắng bóng, lần nào tôi nghĩ đến cũng thắt lòng thắt ruột, muốn về thăm quê quán, khanh có vui lòng theo tôi về chăng?

Nàng nói:

- Tiên phàm cách trở em không thể nào đi theo. Tuy nhiên em cũng chẳng nỡ vì tình yêu cá nước mà để chàng lỗi đạo hiếu với cha mẹ, vậy thong thả, em tính cho.

Chàng nghe khóc vùi, nàng cũng than thở:

- Sự thế bắt buộc phải vậy, tình hiếu không thể lưỡng toàn.

Hôm sau chàng đi dạo, Long vương hỏi:

- Ta nghe phò mã muốn về thăm quê, vậy sớm mai khởi hành được chăng?

Chàng thưa:

- Thần bơ vơ lưu lạc may nhờ đại vương đoái tưởng,, bấy lâu mang ơn quá nhiều, vẫn ghi trong gan ruột, chỉ mong sẽ trở lại hầu đại vương.

Tối lại nàng đặt tiệc từ giã. Chàng hẹn sau lại gặp nhau, nhưng nàng thản nhiên nói:

- Tình duyên đôi ta đến đây là hết rồi.

Chàng xót xa khóc lóc cực thảm. Nàng an ủi và nói:

- Về nhà phụng dưỡng cha mẹ tỏ rõ lòng chàng hiếu thảo. Đời người ta tan hợp, trăm năm cũng như đầu hôm sớm mai, can chi khóc lóc như đàn bà? Miễn sao từ nay, em vì chàng mà giữ tiết trinh, cũng như chàng vì em mà giữ tín nghĩa, thì mỗi người một nơi, hai lòng như một, thế là vợ chồng gắn bó đấy; hà tất sớm tối ngồi ôm nhau, mới là bách niên giai lão ư? Nếu bên nào có ăn ở lỗi với thề nguyền, có lấy vợ lấy chồng cũng chẳng gặp tốt lành êm đẹp. Ví bằng chàng lo trong nhà không ai nội trợ thì có thể mua hầu cưới thiếp, không sao. Nhân dịp em còn một chuyện nói với chàng: từ ngày kết bạn đến nay, dường như em đã có thai, vậy xin chàng đặt tên sẵn cho con.

Chàng nói:

- Hễ con gái thì tên là Long Cung, con trai thì mang tên Phước Hải.

Nàng xin để lại một vật làm tin. Khi chàng ở nước La Sát được một cặp hoa sen bằng ngọc đỏ, nay đem trao cho công chúa giữ làm tin, nàng tính đốt tay căn dặn:

- Ba năm sau, đúng ngày mùng tám tháng tư, chàng nhớ bơi thuyền ra Nam đaả, em sẽ giao con.

Đoạn, nàng lấy một da cá làm túi, nhét đầy châu ngọc vào trong, đưa cho chồng và nói:

- Mình giữ kỹ túi này, mấy đời ăn xài cũng chẳng hết đâu.

Trời mờ sáng, Long vương thân đến từ biệt, tặng cho đồ vật cực nhiều. Chàng lạy tạ rồi ra khỏi cung vua. Nàng ngồi xuống xe dê trắng kéo,, đưa ra tận bờ biển. Chàng lên bờ, xuống ngựa. Nàn ngỏ lời chúc mong trân trọng rồi quay trở về thấm thoát đã thấy xa biệt. Nước biển khi ấy rẽ ra hai bên thành con đường đi, giờ khép lại cho nên không thấy công chúa đâu nữa. Chàng rầu rĩ xuống ghe, nhắm hướng về quê.

Từ ngày Mã sinh vượt biển, rồi mất tích, ai cũng bàn tán chết mất xác đâu rồi. Nay thấy lù lù trở về, cả nhà càng sửng sốt kinh ngạc.

Cũng may cha mẹ già còn khoẻ mạnh, tuy có người vợ đã đi lấy chồng khác. Chàng nhớ lại câu: "giữ vẹn tình nghĩa", của long nữ đã nói, thì ra nàng đã tiên tri vợ chồng cải giá vậy.

Cha mẹ muốn cưới cho vợ khác, nhưng chàng không nghe, chỉ mua một người về làm cô hầu để hầu hạc song thân, lo việc nội trợ.

Đúng kỳ hẹn ba năm và ngày tháng đính ước, chàng bơi thuyền ra tận hải đảo, thấy hai đứa trẻ ngồi lềnh bềnh trên biển, đang tạt nước đùa giỡn nhau, không động mà cũng không chìm. Chàng đến gần, hai đứa trẻ mừng rú lên, mỗi đứa nắm một cánh tay chàng, và nhảy vào lòng đòi ẵm. Một trong hai đứa bỗng khóc lớn tiếng, hình như giận dỗi cha không ẵm mình trước vậy. Nhìn kỹ té ra một trai, một gái diện mạo cùng tuấn tú, khôi ngô, đồi đội mũ hoa gắn ngọc, tức là bông sen đỏ làm tin. Trên lưng một đứa đeo túi gấm, chàng mở ra xem là bức thư nàng viết:

"Kính thăm chàng và song thân bình an.

Thấm thoát đã ba năm, bụi hồng cách tuyệt đôi nơi, chim xanh bề đi sứ; chẳng qua tơ tưởng trong giấc chiêm bao, nghểnh cổ xa trông nào thấy mênh mang trời biển, còn hận nào bằng?

Nhưng lại suy nghĩ: Chị Hằng còn để cung Quế vắng tanh, ả Chức còn bị sông Ngân cách trở, huống chi là đây là người gì mà hòng đoàn tụ mãi được. Em nghĩ tới đó, liền gạt nước mắt vui cười. Sau khi từ biệt được hai tháng thì em ở cữ sinh đôi. Nay hai đứa trẻ khỏi cần bồng ẵm, cười nói líu lo suốt ngày đòi táo đòi lê, dù xa mẹ cũng có thể sống được rồi cho nên em giao lại cho chàng. Đôi hoa sen bằng ngọc đỏ em gài trên mũ hai đứa trẻ để làm tin đó. Những chàng ôm con trên đầu gối, hôn hít nâng niu cũng như có em bên cạnh vậy.

Biết chàng đã giữ trọn lời nguyền với em, em rất vui lòng. Phần em cũng một lòng duy nhất, đến chết không rời, bấy lâu vẫn sống một cách mộc mạc đơn sơ, gấm vóc xếp xó trong giương, phấn son không hề thoa mặt, chàng như chinh phu đi trận phương xa, em như quả phụ ở nhà thủ tiết, vậy đó chẳng là nhân duyên gắn bó sắt cầm hảo hợp ư?

Có điều em nghĩ, bây giờ cha mẹ chồng đã được ẵm cháu nội, mà còn chưa thấy mặt nàng dâu ra sao, xét đến tình lý cũng là điểm khuyết. Vậy nếu năm tới bà cụ quy tiên, lúc đó, em sẽ đến mộ ai điếu cho tròn đạo dâu con.

Ngoài việc ấy ra, Long Cung vô sự, có lúc mẹ con bắt tay; Phước Hải trường sinh, tất sẽ tới lui ngoài biển. Trân trọng kính thư, chúc chàng mạnh giỏi".

Mã sinh đọc lại đôi ba lần, vừa đọc vừa khóc. Hai trẻ ôm cổ, nói: về nhà ta đi, khiến chàng đau đớn xót ruột, buồn lại thêm buồn, nựng con và hỏi: con có biết nhà ta ở đâu không nào?

Hai đứa cùng khóc rấm rức, một hai đòi về nhà. Chàng nhìn ra biển cả mênh mông, chân trời tít trong khoảng mây mờ sóng vỗ kia, có thấy đâu nhiều mình thương yêu tưởng nhớ ở đâu bèn buì ngùi ôm con, quay mũi thuyền trở về.

Theo lời nàng nói, chàng biết mẹ già không còn thọ lâu, cho nên lo việc tang sự sẵn sàng. Quanh nhà trồng hơn trăm cây tùng. Năm sau quả nhiên bà cụ qua đời, khi quan tài sắp sửa hạ huyệt, có người con gái mặt sô gai đến bên làm lễ. Mọi người đang nhìn có vẻ sửng sốt, bỗng dưng nổi cơn bão gió sấm sét, kế trời mưa to, trong nháy mắt nàng đã biến đi đằng nào mất. Những cây tùng bách mới trồng phần nhiều đã khô bây giờ trở lại tươi tốt.

Phước Hải lớn lên, nghĩ tới mẹ ruột, tự đi ra biển thăm viếng, mấy hôm mới về. Long Cung là phận nữ nhi, không thể mạo hiểm, thời thường đóng cửa ngồi khóc một mình. Bữa nọ đang giữa ban ngày, trời tự nhiên tối sầm lại, Long nữ chợt đến vỗ về con cái và nói: Con sẽ lập thành gia thất tốt còn ngồi khóc làm gì? Nói đoạn, cho nàng một cây san hô cao tám thước, một hộp long não hương, một hộp minh châu, một đôi vòng vàng chạm bát bảo, để làm của hồi môn khi lấy chồng.

Chàng nghe vợ tiên hiện về thăm con gái, tức tốc chạy đến nắm tay Long nữ mà khóc nức nở. Bỗng trời nổi mưa gió, sét đánh vang nhà, nàng biến đi mất.

Oan Nghiệt Trường Văn

Vương Tử Bình, người Bình Dương, đi thi trọ ơ chùa Báo Quốc. Trong chùa đã có Dư Hàng là học trò đến ở từ trước. Vương lấy tình lân cận liền nhà, gửi danh thiếp sang làm quen. Dư không đáp. Sớm tối gặp nhau, anh ta còn tỏ vẻ vô lễ. Vương giận anh ta quá lên mặt, không đi lại chơi bời nữa.

Một hôm, có một chàng trai trẻ đến chơi chùa, mũ mãng quần áo đều trắng bong, dáng vẻ đường hoàng, Vương lại gần bắt chuyện, thấy nói năng hòa nhã troChâu". Vương sai đầy tớ bày ghế mới ngồi, cùng nhau cười nói vui vẻ nhã nhặn. Đúng lúc Dư Hàng sang, ngồi tót lên cao, thái độ ngạo mạn. Thản nhiên, anh ta hỏi Tống:

- Anh cũng đi thi phải không?

Đáp:

- Không, tôi vốn tài hèn nên đã không có chí bay nhảy từ lâu rồi.

Lại hỏi:

- Ở tỉnh nào?

Tống kể rõ, Dư bảo:

- Đã không có chí tiến thủ, đủ biết là bậc cao minh. Cả Sơn Đông, Sơn Tây, không có ai đáng bậc "thông giả".

Tống đáp:

- Người phương Bắc (1) vốn ít kẻ thông tuệ. Nhưng người "không thông" chưa hẳn là kẻ tiểu sinh này, người phương nam vốn nhiều bậc thông tuệ, song bậc "thông giả"cũng vị tất là túc hạ.

Nói xong vỗ tay, Vương cũng phụ họa mà cười vang nhà. Dư Hàng xấu hổ vừa tức, trợn mắt phất tay áo, lớn tiếng:

- Có dám ra đề thi làm văn ngay bây giờ không?

Tống nhìn anh ta cười nhạt: "Có gì mà không dám", rồi lấy sách đưa cho Vương. Vương tiện tay giở ra, chỉ vào câu "Ở Khuyết Lý, trẻ con theo mệnh (2)". Dư đứng dậy tìm giấy bút. Tống ngăn lại bảo:

- Đọc luôn ra miệng thôi cũng được. Tôi đã có đoạn phá đề thế này: "Ở chỗ tân khách qua lại, mà thấy một kẻ không biết tí gì".

Vương ôm bụng cười lớn. Dư tức giận nói:

- Toàn là những kẻ không biết làm văn, bày trò để chửi xỏ, sao đáng là người!

Vương ra sức kêu là đố khó, xin tìm đề khá hay hơn. Lại lật trang khác đọc: "Thời Ân có ba vị vương giả (3)". Tống lập tức ứng khẩu đọc:

- "Ba vị tuy hành động không đồng thanh nhưng cùng theo một đạo. Đạo ấy là gì? Thưa rằng: đạo nhân. Người quân tử chỉ cốt đạo nhân mà thôi, cần gì phải đồng".

Dư thấy thế không làm nữa, đứng dậy nói: Đều là bọn tài xoàng. Rồi bỏ đi.

Từ đó, Vương càng trọng Tống, mời vào nhà chuyện phiếm suốt ngày, đưa hết văn thơ của mình ra xin Tống duyệt đọc. Tống lướt thật nhanh, một khắc đã hết trăm bài, nhận xét:

- Anh cũng đã sâu sắc trong nghiệp này, song cái bệnh của bút nghiên không cầu mà được. Văn anh còn gửi gắm cái lòng cầu may, do đó đã rơi xuống mức thấp kém.

Rồi lấy những bài đã duyệt nhất nhất giải thích rõ. Vương vừa ý lắm, tôn làm bậc thầy, sai nhà bếp lấy đường mía làm món bánh trôi. Tống ăn lấy làm thích lắm, khen:

- Bình sinh chưa được ăn món này, phiền hôm nào đó lại làm cho ăn.

Từ đó hai người càng tâm đắc. Cứ dăm ba ngày Tống lại đến. Vương lại sai người làm món bánh trôi. Dư Hàng thỉnh thoảng cũng bắt gặp, tuy không đàm luận đằm thắm nhưng cái thói ngạo nghễ cũng bớt. Một hôm anh ta cũng đem văn cho Tống xem. Thấy bạn bè anh ta phê son khuyên bình, tán thưởng chi chít, Tống chỉ nhìn qua rồi dẹp sang góc bàn, không nói một lời. Dư ngờ Tống chưa đọc, lại giục. Tống nói đã đọc rồi. Dư cho là không hiểu. Tống trả lời:

- Có gì mà không hiểu, chỉ không hay thôi.

Dư vặn:

- Mới nhìn qua những nét son khuyên điểm, sao đã biết là không hay?

Tống liền bình to lên như đã đọc kỹ lưỡng, vừa bình vừa chê. Dư sợ toát mồ hôi hột, bỏ đi không nói gì. Lát sau, Tống đi, Dư lại vào, nài nẵng Vương cho xem văn. Vương không chịu, Dư cố tìm được tập văn của Vương, thấy nhiều khuyên son, cười rằng:

- Những cái nàu to như cục bánh trôi vậy.

Vương cố ghìm bực tức, chỉ lừ mắt nhìn mà thôi. Hôm sau Tống đến, Vương kể lại hết. Tống giận nói rằng:

- Tôi cứ cho rằng thằng cha này được những bài học thích đáng đã tỉnh ra, thế mà sao lại vẫn dám vậy. Thế nào tôi cũng lại cho biết tay.

Vương cố lấy lời răn đừng khinh bạc để khuyên can Tống. Tống càng cảm phục.

Sau khi thi xong, Vương đem bài văn thi cho Tống xem. Tống hẹn sẽ xem. Ngẫu nhiên hôm ấy hai người đi chơi thăm thú các đền đài chùa miếu, thấy một ông sư mù ngồi ở hành lang, bày thuốc bán. Tống khen:

- Đây là bậc kỳ nhân, rất giỏi thẩm văn, không thể không xin lời chỉ giáo.

Theo lời, Vương về nhà lấy văn, giữa đường gặp Dư Hàng dẫn nhau cùng đến. Vương lựa lời nói với sư, sư tưởng mua thuốc liền hỏi bệnh tật. Vương nói rõ ý định. Sư cười:

- Ai mà nhiều lời vậy? Ta không có mắt lấy gì để bàn luận văn chương?

Vương xin dùng tai. Sư bảo:

- Ba bài hon hai nghìn chữ, ai mà kiên nhẫn nghe hết được. Chi bằng cứ đốt đi ta sẽ ngửi bằng mũi.

Một khi đốt một bài, nhà sư lại hít hà, rồi nhấm nháp nói:

- Anh mô phỏng các vị đại gia, tuy chưa đúng được nhưng cũng gần giống. Ta đang thưởng thức bằng tì vị. Hỏi:

- Có được không?

Trả lời:

- Cũng được.

Dư Hàng không tin lắm, lấy văn của các bậc đại gia cổ, đốt đi để thử. Nhà sư lại ngửi:

- Hay thật! Văn này bụng dạ ta chịu được. Phi ông Quy, ông Hồ (4) ai mà làm được.

Dư sợ quá, lúc ấy mới đốt đến văn của mình. Sư nói:

- Mới thấy được một, chứ chưa thấy toàn thể, sao lại bỗng có văn người khác vào đây?

Dư nói đổ:

- Đó là văn của bạn, chỉ có một bài. Còn đây mới là văn của tiểu sinh.

Sư ngửi các bài tiếp, phát ho mấy tiếng, bảo:

- Thôi đừng đốt nữa! Nó cứ tắc mãi không xuống được. Nếu đốt thì chứng ra mắt.

Dư xấu hổ rút lui.

Mấy ngày sau treo bảng, Dư đỗ hương cống, còn Vương trượt. Tống và Vương đến báo với nhà sư. Sư than rằng:

- Ta tuy mù mắt nhưng tai không mù. Còn các vị khảo quan đều mù cả tai.

Lát sau Dư Hàng vẻ hãnh diện hỏi sư:

- Này hòa thượng mù, người cũng ăn bánh trôi của người ta ư? Nay thế nào?

Sư cười trả lời:

- Điều ta bàn là về văn chứ không nói với anh về mệnh. Anh hãy tìm văn của các quan chấm trường đến đây, đốt đi mỗi thứ một bài, ta có thể biết ai là thầy anh.

Dư và Vương cùng đi tìm, chỉ được văn của tám chín người. Dư giao hẹn:

- Nếu đoán sai thì phạt gì? Sư giận đáp:

- Thì móc con mắt thong manh của ta đi!

Dư đốt văn, hết một bài, sư lại nói không phải. Đến bài thứ sáu, sư nghỏanh vào vách mà mửa, đánh rấm liên hồi. Mọi người cười ầm, nhà sư lau mắt, quay về phía Dư bảo:

- Đúng là thầy của anh rồi! Lúc đầu không biết ta vội hít vào, nó đâm vào mũi, chọc vào tai, không sao dung được phải tống ra khỏi hạ bộ.

Dư tức giận lắm, bỏ đi còn dọa:

- Ngày mai sẽ biết tay, đừng hối, đừng hối!

Hai ba ngày sau cũng không thấy hắn đến, xem lại thì hắn đã dọn đi rồi, lúc ấy mới biết đúng là hắn là học trò của ông quan chấm trường ấy thật.

Còng Tống an ủi Vương rằng:

- Phàm bọn đọc sách chúng ta không nên muốn hơn người mà cần nghiêm khắc với mình. Không muốn hơn người thì đức càng rộng. Biết nghiêm khắc với mình thì học mới tiến. Bận này anh không gặp may là do số chưa gặp. Nhưng bình tâm mà bàn thì văn anh cũng cũng chưa thành thục. Từ đây mà mài giũa, thiên hạ vẫn còn người không mù.

Vương cảm tạ lời dạy bảo. Nghe tin năm sau lại mở khoa thi hương, Vương không về quê mà ở lại để học. Tống khuyên:

- Ở chốn thị thành, gạo châu củi quế nhưng cũng chớ ngại việc tư cấp. Sau nhà tôi có cái hầm chứa tiền từ trước bị đổ lấp, có thể sửa sang lại ở tạm.

Rồi chỉ chỗ cho. Vương cảm tạ rằng:

- Ngày xưa ông Đậu ông Phạm (5) nghèo mà chó thể liêm. Nay tôi may còn được tư cấp, sao dám tự ô danh.

Một hôm Vương đang ngủ bỗng sực tỉnh nghe sau nhà có tiếng đào đất thình thịch. Vương lén dậy thì thấy người hầu và người làm bếp đang thừa cơ đào trộm, vàng đã bày trên mặt đất. Biết cơ sự đã lộ, họ đang định lấp đi. Vương đang định mắng họ thì thấy tấm kim bài, có khắc kim úy người ông cùa Vương. Nguyên là người ông ấy đã từng giữ chức Nam Bộ Lang (một chức quan như lang trung ở Nam kinh). Khi vào kinh nhậm chức ông ta đã từng ở đó, bị bệnh nặng mà mất. Vàng ấy là do ông cụ để lại. Vương mừng lắm, cân lên được hơn tám trăm lạng. Hôm sau Vương chuyện ấy nói với Tống, đưa cho xem cả tấm kiem bài và cũng muốn chia cho Tống một phần. Tống từ mãi mới thôi. Lại lấy một trăm lượng định tặng nhà sư mù thì ông đã đi đâu mất.

Suốt tháng Vương khổ công ôn luyện. Đến khi thi Tống bảo:

- Khoa này anh đỗ mới đúng là do mệnh.

Rồi vì phạm quy (6), Vương bị đánh hỏng. Vương còn chưa nói gì thì Tống đã khóc lớn, không cầm được. Vương lại phải an ủi ngược lại. Tống mới than thở:

-Tôi bị tạo vật ghen ghét, khốn đốn trọn đời, nay lại lụy đến bạn tốt. Đó là số mệnh vậy, là số mệnh vậy!

Vương bùi ngùi:

- Muôn việc vốn đều có số. Như tiên sinh không có chí tiến thủ, không phải là mệnh vậy.

Tống gạt lệ giãi bày:

- Lâu nay tôi có muốn nói, chỉ sợ anh kinh ngạc; tôi không phải là người sống mà là hồn quỷ phiêu bạt. Lúc nhỏ tuổi ôm mang ý khí tài danh, không được đắc chí nơi trường ốc, tôi giả cuồng lên đô thành, gặp người tri kỷ truyền cho cho trước tác. Lại gặp nạn Giáp Thân (7), năm tháng nổi trôi. Nay may mắn được anh yêu mến, cho nên định đem hết sức mọn ra giúp bạn để tuy cái ước nguyện bình sinh của tôi chưa đạt thì mượn bạn để thực hiện như một điều khoái riêng vậy. Nay cái tai ách của nghiệp văn tự là như vậy, có ai tránh được!

Vương cũng cảm động khóc mà hỏi:

- Nay lục dụng lại như thế nào?

- Năm trước đã có mệnh của Thượng Đế ủy cho đức Tuyên Thánh (Khổng tử) và Diêm La Vương tra soát lại các hồn ma, loại trên thì giao các tào bổ dụng, số còn lại cho đầu thai kiếp khác. Tên tôi đã được chọn bổ dụng, sỡ dĩ chưa kịp đi là vì còn muốn thấy được cái khóai tranh chiếm bảng vàng. Nay xin từ biệt.

- Tiên sinh được khảo chức gì?

- Phủ Tử Chàng còn khuyết chức Tư Văn Lang, tạm lĩnh triện ở nha Tủng Đồng (8). Nơi đó đã làm cho văn vận điên đảo, vạn nhất nay được chức ấy thì sẽ gắng làm cho thánh giáo minh thịnh.

Hôm sau, Tống hớn hở đến nói:

- Được, toại ý rồi. Đức Tuyên Thánh sai làm bài "Tinh đạo luận", người xem xong, vui hiện ra mặt, bảo tôi có thể làm tư văn. Diêm La xem sổ lý lịch đòi bo không dùng vì tội :khẩu nghiệt". Đức Tuyên Thánh tranh cãi mãi, tôi mới được duyệt. Khi tôi lạy tạ. Người còn gọi lại gần án dặn rằng: "Nay ta thương tài chọn sung chức thanh Bạch, vậy nên phải rửa lòng mà nhận chức, chớ mắc phải lỗi lầm cũ". Thế mới biết, ở cõi âm tăm tối còn trọng đức hạnh hơn cả văn học. Việc tu sửa đức hạnh ở anh ắt cũng chưa đến nơi. Vậy không nên quên làm điều thiện.

Vương nói:

- Quả vậy. Còn đức hạnh của Dư Hàng thì đến đâu?

Tống đáp:

- Điều đó tôi không biết. Âm ti thưởng phạt không có chút sai sót nhỏ nào. Còn ông sư mù ngày trước cũng là hiện thân của quỷ. Đó là bậc danh gia triều trước, lúc sinh thời hao phí giấy bút quá đà cho nên bị phạt mù. Ông ta muốn tự bán thuốc chữa bệnh cho người để chuộc lại lỗi lầm xưa, cho nên mới thác cớ đi các nơi.

Vương sai soạn tiệc rượu. Tống nói:

-Không cần. Cả năm tôi đã quấy nhiễu, hãy tận hưởng một giờ khắc lúc này. Xin hãy cho ăn bánh trôi là đủ.

Vương buồn quá không ăn chỉ ngồi nhìn Tống. Một lúc đã ăn hết ba bát to, Tống ôm bụng nói:

- Ăn bữa này no ba ngày, tôi xin ghi công đức của anh. Thóc lúa ăn của tôi ngày trước đều ở sau nhà, nay đã mọc nấm cả rồi. Lấy nấm ấy, cất làm thuốc có thể làm cho trẻ thông tuệ. Vương lại hỏi hậu vận. Tống đáp:

- Đã nhận quan chức hiềm không tiện hỏi.

Lại hỏi:

- Nếu đến phủ Tử Chàng cầu khấn gọi tiên sinh, có gặp được không?

Trả lời:

- Cái đó đều vô ích. Chín tầng trời xa lắm, nếu anh cố giữa mình trong sạch thì sẽ có tờ từ trên ấy xuống địa ty, lúc ấy tôi sẽ cho biết.

Nói xong từ biệt rồi biến mất. Vương xem đằng sau nhà quả có nấm tía liền hái cất đi. Bên cạnh nhà tự nhiên mọc lên ngôi mộ mới.

Vương trở về quê hết sức giữ mình nghiêm khắc. Một đêm nằm mộng thấy Tống đi xe có lọng che đến, bảo rằng: "Trước đây, do cơn bực dọc nhỏ, anh giết lầm một con gái hầu nên bị tước sổ lộc. Nay do gắn tu tỉnh nên đã trừ được bớt tội, song mệnh còn mỏng cho nên không đủ để tiến thân làm quan". Năm ấy Vương đỗ hương cống. Năm sau trúng tiến sĩ, nhưng không ra làm quan. Vươns sinh hai con, một đứa hết sức đần độn, liền cho ăn nấm thì thông minh rất mực. Sau đó có việc đi Kim Lăng, trên đường đi gặp Dư Hàng. Lão ta kể hết nguồn cơn xa cách, thái độ khiêm nhường, song đầu tóc đã bạc trắng cả.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

(1) cũng tức là vùng Sơn Đông , Sơn Tây

(2) câu này lấy trong sách luận ngữ, nguyên văn là: "Khuyết đảng, đồng tử mệnh". Khuyết đảng tức là Khuyết lý, nơi ở của Khổng tử. Khổng tử nhân thấy trẻ con không biết lễ tiết mới sai chúng đi truyền mệnh để luyện cho quen mà hiểu được một chút đạo lý. Vương và Tống kẻ hô người ứng, chọn đề bài, đọc câu "phá đề" (vào đề) như trên để ngầm chê trách Dư Hàng vừa dốt vừa vô lễ.

(3) nguyên văn trong sách luận ngữ: "Ân hữu tam nhân yên" (thời Ân có ba bậc nhân giả). Ba vị ấy là Vi Tử, Cơ Tử và Tỉ Can. Vua Trụ nhà Ân vốn là kẻ bạo ngược, vô đạo. Biết rằng không thể can ngăn nổi, Vi Tử bỏ đi để tránh tai họa. Cơ Tử cắt tóc giả người điên. Tỉ Can thề quyết chết đê can ngăn liền ba ngày, bị mổ bụng chết. KhổngTử cho rằng cách làm của ba ông không giống nhau, song là bậc nhân.

(4) Chỉ hai ông Quy Hữu Quang và Hồ Hữu Tín là những văn học gia thời Minh, nổi tiếng đương thời.

(5) Đậu tức là Đậu Nghi, người đời Tống, khi còn nghèo khó có giống Kim tinh hiện tình để đùa bỡn nhưng ông vẫn không động lòng.

Phạm tức là Phạm Trọng Yêm cũng người đời Tống. Lúc còn bần hàn đến trú nhờ ở miếu thờ để học. Một hôm phát hiện thấy có một hố giấu tiền, nhưng do là của phi nghĩa không lấy, lấp hố lại như cũ.

(6) Những quy định ngặt nghèo trong việc thi cử ngày xưa như kiêng huý nhà vua, cấm giập xoá, viết mất nét....

(7)nạn Giáp Thân: chỉ niên hiệu 17 của Sùng trinh nha Minh, năm cuộc khởi nghĩa nông dân do Lý Tự Thành lãnh đạo, đánh chiếm bắc kinh.

(8) Phủ Tử Chàng: Theo thần thoại TQ, Tử Chàng đế quân họ Trương tên A, chủ trì phủ Văn Xương, coi giữ sổ sách đỗ đạt, Tử Chàng đế quân có hai người thì hạ là Thiên Tủng (trời điếc) và Địa Á (Đất câm) Chữ Tủng đồng nghĩa đen với trẻ điếc.

Vợ Dữ Hơn Cọp

Cao sinh ở Lâm Giang, tên là Phồn, thông minh, dáng dấp xinh đẹp, mười bốn tuổi đã vào học trường quận, cho nên nhà giàu quanh miền tranh nhau gả con gái cho.

Nhưng chàng kén chọn khó khăn, thường trái ý cha.

Cha là Trọng Hồng, sáu mươi tuổi, chỉ có một cậu con trai nên hết sứ chiều chuộng, không muốn làm trái ý con.

Nguyên trước ở thôn Đông có họ Phàn, làm nghề gõ đầu trẻ ở chốn thị tứ, đem cả gia quyến lên mướn phố ở gần nhà chàng.Phàn ông có con gái tên Giang Thành, cùng tuổi với chàng, lúc đó cũng cỡ tám chín tuổi; hai trẻ ngây thơ ngày ngày quấn quít chơi giỡn với nhau.

Sau Giang Thành theo Phàn ông dời đi xứ khác, trải năm sáu năm không nghe tin tức.

Một hôm chàng đi trong hẻm, thấy một cô gái tuyệt đẹp, có con nhỏ sáu bảy tuổi theo hầu. Chàng không dám ngó ngay mặt chỉ đưa mắt liếc. Nàng nheo mắt nhường như muốn nói, lại thôi. Chàng nhìn kỹ té ra Giang Thành, chàng vừa sững sốt, vừa mừng rỡ. Hai người đứng trân trân ngó nhau không ai nói gì. Giây lát ai đi đường nấy mà tình ý xem chừng bịn rịn, không muốn rời nhau.

Chàng cố ý đánh rơi chiếc khăn rồi bỏ đi. Con nhỏ theo hầu nhặt lấy trao cho nàng. Tức thời nàng móc túi lấy khăn của mình ra, đưa cho con nhỏ và nói:

- Cao tú tài không phải là người nào lạ, chớ có lấy đồ vật của cậu ấy đánh rơi, vậy mi đuổi theo mà trả khăn lại cho cậu.

Con nhỏ đuổi theo đưa khăn trả chàng.Chàng vớ được khăn nàng, trong ý rất mừng, về thưa với mẹ, xin cậy mai mối hỏi Giang Thành cho mình. Bà mẹ nói:

- Nhà nó chẳng có đến cái túp lá để che mưa nắng, chỉ nay đây mai đó trôi nổi quanh năm, sao con lại muốn phối ngẫu với nó.

Chàng thưa mẹ rằng tự ý mình muốn vậy, về sau ra sao chịu vậy, cố nhiên không dám ăn năn gì hết.

tRong ý bà mẹ do dự không quyết, bàn tính với cha chàng. Cha chàng nhất định bảo không nên. Chàng nghe chuyện sinh buồn, bỏ cả cơm cháo. Mẹ chàng lo sợ quá, liền nói với cha chàng:

- Họ Phàn tuy nghèo, nhưng cũng là nhà nho, chứ không phải hạng vô loại. Vậy để tôi đến nhà xem mặt đứa con gái, nên thì dạm, bằng không thì thôi có hại gì đâu.

Ông bằng lòng. Bà liền mượn cớ đi trả lễ ở đền Hắc Đế, tiện đường ghé qua nhà Phàn, thấy con gái mặt mày xinh đẹp, lòmg rất vui mừng, rồi đem tiền lụa đến tặng và nói thiệt ý muốn. Phàn ông trước còn khiêm nhường, sau mới nhận lễ nhận lời. Bà về thuật lại, bấy giờ chàng mới tươi cười ăn uống như cũ.

Năm sau, chọn ngày lành tháng tốt, đón Giang Thành về. Hai vợ chồng trìu mến nhau rất vui vẻ. Duy Giang Thành hay có tính giận hờn, hơi một chút là trở mặt coi chàng y như người lạ. Miệng lưỡi la lối, chàng nghe vang tai nhức óc, nhưng vì thương yêu quá đỗi cho nên chuyện chi cũng cố nhịn.

Hai ông bà nghe phong thanh, lấy làm bất mãn, gọi con đến trách mắng. Nàng biết vậy, tức lắm, càng kiếm chuyện gây gổ nhục mạ chồng nhiều hơn nữa. Hễ chồng hơi trả lời nặng nhẹ, nàng giận dữ thêm, vac gậy đánh đuổi ra ngoài phòng đóng cửa lại.

Tội nghiệp chàng đứng co ro bên ngoài, chứ không dám gõ cửa, đành ngồi xổm ở mái hiên, ôm gối mà ngủ.

Từ đó nàng xem chồng như kẻ thù. Ban đầu còn có thể quì gối xin nàng hết giận làm lành, dần dà đến quì gối cũng hết hiệu nghiệm, thành ra lang quân khổ càng thêm khổ. Ông bà can thiệp trách nàngqua loa, nàng vung tay khoa chân, bộ điệu hỗn hào không thể tả xiết, đến nỗi ông bà phát giận đuổi nàng về nhà cha mẹ.

Phàn ông vừa thẹn vừa sợ, cậy người đến năn nỉ Trọng Hồng cho Giang Thành trở lại, nhưng Trọng Hồng không cho. Hơn một năm sau, chàng đi đường chạm trán ông nhạc, ông níu áo lôi về nhà ân cần tạ lỗi và bảo con gái ăn mặc đàng hoàng ra chào. Vợ chồng gặp mặt nhau cùng tỏ vẻ đau thương. Phàn ông bèn mua rượu về đãi chàng rể, khuyên mời niềm nở. Một lúc trời tối, ông cụ giữ chàng lại ngủ dêm. Giang Thành muốn nằm giường riêng , nhưng ông xếp hai vợ chồng nằm chung.

Sáng ngày, chàng về nhà, không dám nói chuyện thật với cha mẹ, chỉ tìm cách thêu dệt và che đậy cho qua. Từ đó, cách dăm ba ngày, chàng lại ngủ đêm tại nhạc gia một lần,, mà cha mẹ chàng không biết.

Một bữa Phàn ông đến nhà Trọng Hồng xin cho giáp mặt nói chuyện. Trọng Hồng không tiếp, Phàn ông năn nỉ mãi, Trọng Hồng mới ra mặt, Phàn quì gối làm lễ tạ tội, Cao ông (tức Trọng Hồng, họ Cao) không nhận, đổ trút cho con, Phàn nói:

- Đêm qua cậu nó ngủ tại nhà tôi có nghe chối từ cự nự gì đâu?

Cao sửng sốt, hỏi nó ngủ bao giờ. Phàn kể rõ đầu đuôi, Cao thẹn thùng xin lỗi và nói:

- Chuyện đó quả tôi không hay, vợ chồng nó đã thương yêu nhau, tôi há một mình thù hiềm cản trở nhân duyên của con ư?

Phàn ông về rồi, Cao gọi con ra nhiếc mắng. Chàng chỉ cúi đầu, không nói gì cả. Giữa lúc đó Phàn dẫn con gái đến. Cao nói:

- Tôi không thể nào gánh dùm lỗi lầm cho dâu con, chi bằng ở riêng ra, ai có nhà nấy.

Tức thời cậy Phàn làm chứng giám hộ cha con mình về cuộc riêng nhà chia bếp.Phàn khuyên lơn mãi, Cao nhất định không nghe, dọn căn nhà riêng cho vợ chồng ở , lại sai một con hầu chuyên việc hầu hạ.

Trong vòng hơn một tháng vợ chồng ăn ở với nhau hơi yên, chẳng nghe điều tiếng gì cả, ông bà đã mừng thầm trong bụng.

Nhưng cách đó không bao lâu, Gianh Thành lại dần dà hung dữ, trên mặt chàng thường có vết móng tay cào cấu, cha mẹ biết rõ là thế nhưng cũng ẩn nhẫn không hỏi đến.

Một hôm chàng bị vợ đánh dữ quá, không thể chịu nổi phải chạy tụt sang nhà cha mà trốn, run rẩy xanh xám giống như chim sẻ bị cò ó mổ vậy. Hai ông bà đang kinh ngạc, đã thấy nàng xách roi xồng xộc chạy vào đến ngay bên cạnh ông túm lấy chàng, vụt lấy vụt để. Ông bà rầy la rầm rĩ nàng cũng mặc kệ, cứ việc đánh chồng tới mấy chục roi mới hầm hầm bỏ đi.

Cao đuổi con đi và nói:

- Tao muốn tránh sự ồn ào, cho nên mới ở riêng, còn mày lấy thế làm vui thì ở đó mà hưởng, trốn đi đâu làm chi?

Chàng bị cha đuổi, bơ vơ không biết về đâu, Cao ông sợ con buồn tự tử, bèn cho căn nhà ở một mình, lại cấp dưỡng cho. Laị gọi Phàn đến, bảo dạy dỗ con gái thế nào, kẻo để lăng loàn quá đỗi. Phàn vô nhà, giảng dụ trăm phương ngàn cách nàng cũng chẳng thèm nghe, lại còn nói hỗn với cha. Phàn tức mình phủi áo ra đi, thề dứt tình cha con.

Không bao lâu, Phàn giận con quá sinh bệnh, cùng bà vợ kế tiếp nhau qua đời. Nàng bực tức, không về điếu tang đưa đám cha mẹ, tối ngày ngồi mắng chửi cách vách, cố ý lớn tiếng cho Cao ông Cao bà nghe. Cao mặt kệ không thèm đếm xỉa tới.

Chàng từ khi được ở riêng một mình thấy dường như thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, nhưng chỉ khổ vì nỗi quạnh hiu buồn bực. Muốn được khuây khỏa chàng bèn chi tiền mụ Lý, để mụ dẫn gái vô nhà học tiêu khiển, gái thường lui tới ban đêm.

Ít lâu sau, Giang Thành nghe biết, tới tận nhà học mắng chửi thậm tệ. Chàng hết sức phân trần nỗi oan và trỏ lên mặt trời mà thề nàng mới chịu lui.

Từ đó ngày ngày rình mò cử động chàng. Một hôm mụ Lý từ trong nhà học đi ra, nàng bắt gặp, kêu gọi rùm lên. Mụ Lý xanh xám mặt mày, nàng thêm sinh nghi, túm lấy mụ đe dọa:

- Có thế nào thì cứ việc nói thật, họa may còn tha thứ cho, nếu giấu giếm, tao vặt không còn một sợi lông đó!

Mụ vừa run vừa nói:

- Trong vòng nửa tháng nay duy có Vân nương, là gái ở nhà chứa đến đây hai bận mà thôi. Còn vừa rồi công tử lại nói bữa trước đi chơi núi Ngọc Ti dòm thấy cặp chân của người vợ Đào gia xinh đẹp, cho nên muốn cậy tôi làm manh mối, để dụ nó tới đây. Con đó tuy lẳng lơ nhưng chưa chắc chịu làm nhu gái nhà chứa. Công tử đã bảo tôi thử dụ nó coi, việc thành hay không thật chưa chắc.

Nàng thấy mụ nói thành thật, cho nên rộng lòng khoan thứ. Mụ sửa soạn đi, nàng cố giữ lại cho đến trời tối, buộc phải làm theo mưu kế của mình:

- Đến ngay nhà học làm bộ nói nhỏ với công tử bảo tắt đèn đi, cô ả Đào gia tới rồi đó.

Mụ làm y lời. Nàng theo chân bước vô, chàng mừng quá, nắm tay mời ngồi và tỏ lòng khát khao mộng ước. Nàng làm thinh, chàng mò trong bóng tối rờ cẳng nàng và nói:

- Sở nguyện ôm ấp bao lâu, nay mới được toại, lẽ nào không cho thấy mặt?

Nói xong, chàng tự thắp đèn lên soi mặt. Trời ơi! Chính là Giang Thành!

Chàng sợ hãi thất sắc, đánh rớt cây đèn xuống đất run rẩy quì mọp, dường như gươm dao đã kề trên cổ vậy.

Nàng xách tai kéo về buồng mình, lấy kim thật nhọn đâm vào hai bắp đùi khắp, rồi bắt nằm dưới gầm giường, hễ tỉnh giấc hồi nào thì kể tội và mắng chửi hồi đó. Chàng đã sẵn sợ như hùm beo, cho nên dù khi được nàng nguôi ngoai mơn trớn, cho nằm chung trên giường nhưng trong lúc đầu ấp tay gối, chàng vẫn run sợ hãi hùng, cơ hồ không phải là con người nữa. Nàng vả vào mặt và thét đuổi đi, tỏ ý khinh khi và chán ghét, không coi chàng là hạng người nữa. Thành thử hàng ngày chàng được ở trong khoảng hương xông xạ ủ, mà như ở tù, thấy bóng người canh ngục là chết khiếp.

Giang Thành có hai chị, cùng lấy chồng nho. Người chị lớn hiền lành ít nói, tính tình thường không hợp với nàng. Còn chị thứ hai lấy họ Cát, người giảo huyệt khéo nói, tuy dung mạo kém Giang Thành nhưng ghen tuông độc ác thì ngang vai sánh gót. Chị em gặp nhau không có việc gì khác hơn là đem những chuyện bắt nạt chồng ra khoe khoang đắc ý với nhau. Vì thế hai người đi lại với nhau rất thân. Chàng đến nhà bà con họ hàng nào, nàng cũng giận dữ trách mắng, duy chỉ đến nhà họ Cát thì nàng không nói gì.

Một hôm chàng đến nhà Cát uống rượu. Lúc sau ngà ngà, Cát chế giễu chàng:

- Sao chú sợ vợ quá thế?

Chàng cười đáp:

- Thiên hạ có nhiều việc không sao hiểu nổi anh ạ! Tôi sợ vợ tôi là sợ sắc đẹp. Vậy mà có cái đẹp thua xa vợ tôi, người ta cũng sợ cái ngang như tôi mới là kỳ chứ.

Cát thẹn đỏ mặt, không nói được câu gì. Con hầu nghe chuyện tọc mạch với chị hai (tức vợ Cát). Chị hai nổi giận, vác gậy chạy ra, chàng thấy bộ tịch hung dữ, toan bỏ cả giày mà chạy lấy thân. Nhưng gậy đã nện vào lưng, chàng bị ba gậy ngã quỵ ba lần không dậy nổi, đập cả đầu, máu tuôn như xối. Chừng chị hai đi rồi, chàng mới lom khom cà nhắc về tới nhà.

Nàng trông thấy cả kinh, gạn hỏi duyên cớ. Ban đầu chàng nghĩ mình chọc giận chị vợ mà bị trận đòn nên không dám nói. Đôi ba phen tra vặn, mới kể rõ đầu đuôi. Nàng lấy lụa rịt bó đầu chàng xong, nổi cơn tam bành:

- Chồng của người ta, ai mượn nó đánh giùm cho ra thân thể này chứ?

Lập tức mặc áo cụt, xắn cao quần, tay cầm chày gỗ, dắt một con hầu đi theo, hầm hầm đến thẳng nhà Cát.

Chị hai tưởng như mọi bận, tươi cười ra đón. Nàng chẳng nói chẳng rằng, đánh chị túi bụi, ngã gục, rồi xé bươm cả áo xống, lại đánh thêm nữa, chị hai bị đánh tới bể môi gãy răng, vãi cả cứt đái, nàng mới chịu bỏ đi.

Nàng đi rồi, chị hai mới lồm cồm trỗi dậy, vừa thẹn vừa tức sai chồng phải đi mách với Cao ông.

Cát đến cửa, chàng ra đón, kiếm lời êm dịu an ủi. Cát nói nhỏ bên tai:

- Tôi đến đây vì thế bắt buộc, không đi không xong. Lạ gì con đàn bà ấy hung dữ thuở nay, nhờ tay dì nó trừng trị cho một bữa là đáng kiếp lắm. Còn tôi với chú thì có hiềm gì với nhau đâu.

Bất đồ Giang Thành nghe lén, tức tốc chạy ra điểm mặt anh rể và mắng như tát nước:

- Thằng đểu giả kia! Vợ bị đòn đau điếng, không nghĩ cách nào rửa hận cho nó, lại còn nói vụng nói lén với người ta thế ư? Cái giống đàn ông thế đó, không đáng đánh cho chết còn để làm gì?

Rồi nàng tru tréo kêu đầy tớ:

- Bay đâu, đem gậy ra đây cho tao mau mau!

Cát sợ hoảng hồn, vội lách ra cửa, co giò chạy mất.

Từ hôm ấy trở đi, chàng sợ chị vợ theo dõi, không dám tới lui nhất định một chỗ nào cả. Có hôm bạn đồng học là Vương Tử Nhã đến chơi, chàng mời ở lại uống rượu cho vui. Trong khi chén tạc chén thù, đem chuyện khuê phòng ra nói bỡn, có hơi tục tằn. Chẳng dè nàng núp lén nghe rõ đầu đuôi, lén bỏ bã đậu vào cháo bưng ra cho khách ăn. Một chập, Vương thượng thổ hạ tả dữ dội nằm thở như hấp hối sắp chết. Nàng sai con hầu ra hỏi:

- Còn dám nói hỗn nữa thôi.

Bấy giờ Vương mới hiểu rõ vì sao mình lại mửa thốc mửa tháo bèn rên rỉ xin lỗi. Nàng đưa cháo đậu xanh nấu sẳn cho ăn để giải độc. Vương ăn cháo ấy mới hết bệnh. Nhân chuyện này bạn bè mách bảo nhau phải kiềng mặt, về sau không dám đến nhà ăn uống gì nữa.

Vương sinh có quán rượu, trong có nhiều hồng mai đua nở, đặt tiệc mời anh em bạn đến thưởng lãm. Chàng mượn cớ họp văn xã, tâu trình với vợ, xin phép đi dự. Chiều tối đã say, Vương sinh nói:

- Vừa mới có một cô đào non ở Nam Xương trôi nổi đến đây, ta nên gọi lại chuốc rượu cho vui nhé?

Mọi người vui vẻ tán thành, duy có chàng đứng dậy xin kiếu ra về. Anh em kéo lại lại và nói:

- Bà sư tử nhà anh có tai mắt dài đến đâu chăng nữa cũng không tài nào nghe thấy được tới chốn này. Anh ở lại cho vui, chúng tôi xin thề sẽ ngậm miệng, không nói lộ ra đâu mà sợ.

Chàng lại ngồi xuống. Giây lát đào mới tha thướt bước vào, tuổi độ mười tám mười chín, hỏi tên cô khai họ Tạ, tên là Phương Lan, nói năng cực lanh lợi thanh nhã, khiến cho ai nấy cùng mê say như cuồng. Xem ra cô ta để ý chàng hơn cả, thường liếc mắt dòm sang chàng luôn, anh em biết thế liền kéo hai người ngồi sánh vai nhau. Cô nắm lấy tay chàng viết trong lòng bàn tay một chữ "ngũ". Lúc đó chàng thật tiến thoái lưỡng nan, muốn đi thì không đành, muốn ở thì không dám, lòng rối rộn không sao nói xiết. Hai người ngồi dựa đầu cạnh nhau, nghiêng tai nói nhỏ, càng say chừng nào càng lả lơi chừng nấy, quên cả sư tử ở nhà.

Một chốc trống canh điểm khuya, khách trong quán rượu dần dà bỏ về gần hết, duy có một thiếu niên xinh đẹp ngồi dưới bóng đèn uống rượu một mình, bên cạnh có tiểu đồng cầm khăn đứng hầu hạ. Ai nấy khen thầm là người cao nhã. Giây lát, thiếu niên uống xong đứng dậy đi, tiểu đồng ra theo rồi trở lại, nói ngay với chàng:

- Thưa ngài, chủ tôi đợi ngài ngoài kia để nói một câu chuyện.

Không ai hiểu người đó thế nào, duy có chàng mặt mày thất sắc không kịp chào anh em, vội vàng sấp ngửa ra đi, vị thiếu niên ấy chính là Gianh Thành, tiểu đồng là con hầu, hai thầy trò giả dạng đi rình chàng vậy.

Chàng theo về nhà, chịu nằm mà nhận roi vọt. Từ đó chàng bị cấm cố gắt gao, mọi việc khách điếu cùng tuyệt. Chàng buồn bực lơ là việc học, kỳ hạch năm đó thi rớt, bị giáng làm thường dân và rút mất học bổng.

Một hôm thì thầm với con hầu thế nào chẳng rõ, nàng nghi là có tư tình liền lấy hũ rượu úp kín đầu con bé mà đánh lấy đánh để. Rồi lại trói chàng và con hầu chung nhau, cầm kéo cắt thịt bụng mỗi người miếng và đắp thịt của người nọ vào bụng người kia. Đoạn cởi trói ra để tự buộc lấy vết thương. Hơn tháng sau, chỗ vá thịt đó dính liền làm một.

Còn độc ác hơn nữa, nàng thường lấy cẳng chân chà đạp chiếc bánh nhão nhoét, lại ném đất cát bụi rồi thét bảo chàng phải lượm lên mà ăn. Những cử chỉ tàn nhẫn của Giang Thành đối với chồng đại khái như thế, bà mẹ thương con, ngẫu nhiên đến nhà chàng ở, trông thấy con gầy, ốm mà động lòng. Lúc trở về bà nghĩ đau đớn khóc lóc, muốn chết cho rảnh, đêm ấy, chiêm bao một cụ già hiện đến nói:

- Bà chớ nên lo phiền. Đó là nhân quả kiếp trước để lại, Giang Thành kiếp trước nguyên là Tinh Nghiệp hòa thượng có nuôi con chuột trường sinh. Còn công tử nhà bà tiền kiếp là học trò, một hôm đến chơi chùa vô ý đạp chết con chuột ấy. Vì thế kiếp này phải chịu ác báo về phía Giang Thành, chừng trả hết nợ mới yên, chứ không lấy sức người xoay đổi gì đặng. Tốt hơon là cứ thành tâm tụng niệm bài chú của quan Âm ( Nam Mộ Phật, Nam Mộ Pháp, Nam Mô Tăng v.v...) mỗi ngày một trăm lần tự nhiên sẽ có hiệu nghiệm.

Sáng hôm sau, bà thuật lại chiêm bao cho Trọng Hồng nghe, cùng lấy làm lạ. Vợ chồng tuân lời thầy dạy, ngày ngày niệm chú Quan Âm. Hơn hai tháng Giang Thành vẫn ngang ngược như cũ, lại có thêm điên cuồng, hễ nghe ngoài cửa có tiếng kèn trống thanh la, nàng liền xõa tóc chạy ra đứng dớn dác, cả ngàn người cùng chỉ trỏ chê bai, nàng cũng thây kệ. Ông bà thấy con dâu khất khùng như vậy, rất hổ thẹn nhưng không làm sao ngăn cấm được, lấy làm bực tức.

Chợt thấy một lão tăng đến trước cửa thuyết pháp, người ta đứng xem vòng trong vòng ngoài. Lão tăng thổi vào mặt trống, thành ra kêu như trâu rống, nàng vội chạy đến, thấy người đứng kín mít không có khe hở mà lách vào lọt, bèn gọi con ở đem ghế ra để nàng đứng lên cao mà xem. Bao nhiêu cặp mắt cùng họp vào mình nàng, nhưng nàng thản nhiên dường như không hay biết gì cả.

Một lát, lão tăng giảng sắp xong gọi lấy một tô nước lạnh cầm đến trước mặt nàng mà tuyên đọc:

Chớ nên hờn!

Chớ nên hờn!

Kiếp trước chẳng phải giả

Kiếp này chẳng phải chân

Ôi!

Con chuột rút cổ chạy!

Kẻo bị mèo xơi ngon!

Lão tăng đọc xong, ngậm nước phun vào mặt nàng, làm cho son phấn nhễ nhại, trôi xuống áo xiêm. Ai nấy sợ hãi đoán chắc nàng nổi cơn tam bành đánh bể đầu trọc không chừng. Chẳng dè nàng lặng lẽ chùi mặt mày rồi về, lão tăng cũng bỏ đi chỗ khác.

Về nhà, nàng ngồi ngây ngất, như người mất hồn. Trọn ngày không ăn, tự giũ giường chiếu đi nằm.

Bỗng dưng nửa đêm gọi chàng thức dậy. Chàng ngỡ vợ muốn đi tiểu, vội vàng bưng chậu tiểu dâng lên. Nhưng nàng lấy tay đẩy ra, kéo cánh tay chàng lôi vào trong mền nằm chung. Chàng phụng mạng mà chân tay run cầm cập, như ông quan khi tiếp kiến chỉ của vua ban xuống vậy.

Nàng khảng khái nói:

- Trời ơi! Tôi làm cậu ra thân thể này, còn đáng làm người sao đặng.

Rồi hai tay xoa khắp mình mẩy chàng, cứ tới chỗ vết tích dao bầm roi đánh thì khóc rấm rứt, lấy móng tay nhọn tự cào vào mình, muốn cho chết ngay tức khắc. Chàng thấy tình trạng động lòng bất nhẫn, ra sức khuyên lơn yên ủi vợ, nàng nói:

- Em nghĩ ông hòa thượng lúc ban ngày, tất là Bồ Tát hóa thân, một chén nước lạnh, như thay đổi cả gan ruột. Giờ em nhớ lại những việc làm lúc trước như việc ỏ kiếp nào khác vậy, có lẽ em chẳng phải giống người chăng? Có vợ chồng mà không biết vui vẻ, có cha mẹ mà không biết phụng dưỡng thờ phụng là nghĩa thế nào? Sáng mai vơ chồng ta phải dọn đến ở chung với cha mẹ, để chăm nom hầu hạ cho dễ.

Vợ chồng nói chuyện suốt đêm, như là cách biệt mười năm giờ mới gặp gỡ vậy.

Tảng sáng nàng trỗi dậy, thu xếp xống áo mâm chén, xon ở xách thúng mủng, nàng tự đội chăn mền, giục chàng đi trước kêu cửa. Bà mẹ hoảng sợ, mở cửa hỏi chuyện chi? Chàng tự bày tỏ ý muốn của vợ. Trong khi bà cụ còn đang ngần ngại, ý không muốn chứa, nàng với con ở đã tay xách nách mang bước vào.

Bà mẹ theo gót trở vào, nàng phục dưới đất khóc lóc thảm thương chỉ xin cha mẹ tha chết cho nàng để nàng đền tội. Bà xét ra ý nàng thành thật, cũng khóc và nói:

- Con ta sao thay đổi mau lẹ thế này?

Chàng thuật rõ câu chuyện đã qua, bây giờ bà cụ mới nhớ lại giấc chiêm bao, thật quả ứng nghiệm,. vội vàng bảo tôi tớ dọn dẹp căn nhà cũ cho hai vợ chồng ở.

Từ đó nàng thờ cha mẹ chồng còn hơn người con hiếu thảo. Cử chỉ đoan trang như cô dâu mới về nhà chồng. Có ai bỡn cợt nhắc lại chuyện cũ thì nàng đỏ mặt ra dáng hổ thẹn. Tính lại cần kiệm, khéo ăn nhịn để dành, trải ba năm, cha mẹ chồng không phải bận lòng vì sinh kế trong nhà, mà của để cũng có hàng vạn rồi.

Năm ấy chàng thi đậu cử nhân. Nàng thường hỏi chồng:

- Ngày nọ em thấy mặt cô Phương Lan một lần, nàng vẫn còn thương mình à?

Chàng trả lời rằng, bây giờ sung sướng thế này là mãn nguyện rồi,chả dám mơ tưởng gì nhiều chuyện nữa.

Rồi chàng vô kinh thi hội, mấy tháng mới trở về. Lúc bước vào nhà, thấy Phương Lan đang ngồi đánh cờ với Giang Thành, lấy làm sửng sốt. Hỏi ra thì do nàng tự xuất trăm đồng chuộc Phương Lan ra khỏi hồng lâu, vì là người năm xưa được chàng thương yêu.

Hồi ta đến chơi miền Tích Thiệu, được gặp ông Vương Tử Nhã, cả đêm kể cho nghe chuyện nàng rất rõ ràng.

Người nhỏ

Trong khoản đòi Khang Hy, có kẻ làm mẹo đem theo mình một cái hộp, trong cái hộp có để một thằng nhỏ, dài chừng một thước, hễ ai cho tiền thời nó mở hộp cho thằng nhỏ chui ra, hát xong rồi lại vào. Đến đất Dịch. Quan tể ở Dịch bắt đem nộp vào dinh để coi. Hỏi kỹ về chỗ thằng người nhỏ ở đâu mà ra, trước còn không dám nói. Cứ hỏi mãi mới chịu kể là ở làng nó, nguyên là đứa trẻ đi học về, ngang đường gặp nó cho thuốc mê, bốn chân tay tự nhiên co dúm ngay lại, bèn đem đi như thế, để dùng làm trò chơi. Quan tể nổi giận, giết chết thằng làm trò, giữ đứa bé ở lại muốn chữa cho, mà chưa tìm được cách chữa.

KHÚC HÁT ẾCH

Vương Tử Tôn nói: "Trong khi ở kinh đô, từng thấy một người làm trò chơi ở chợ,, đẩy một cái hộp gỗ có ngăn, có tất cả mười hai cái lỗ, trong mỗi lổ có phục một con ếch. Lấy cái que gõ vào đầu, thời liền kêu ì ộp cả. Có ai cho tiền thời khua gõ các đầu ếch một lượt như đánh dàn nhạc, cung, bực, từ khúc, nghe rất phân minh".

TRÒ CHUỘT

Lại nói: "Có một người ở trên chợ Trường An, bán trò chơi chuột. Trên lưng cõng một cái túi, trong có chứa hơn mười con chuột con, cứ gặp chỗ đông người thời để ra một cái giá gốc nhỏ như là cái lầu trong rạp hát tuồng, rồi bèn đánh nhịp trống, hát khúc tuồng cổ, tiếng hát vừa cất lên, thời có chuột ở trong cái túi ra, đeo mặt nạ, mặc đồ quần áo rất bé, từ ở vai đeo lên trên cái lầu đứng như người mà múa, trai và gái, thương cùng yêu, đúng hệt với tình tiết ở trong vở tuồng vậy".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: