
Chương 4
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
70
Phần thứ hai
HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa không chỉ bao gồm học thuyết của C.Mác về giá trị và giá trị thặng dư mà còn bao
gồm học thuyết kinh tế của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước.
Nội dung ba học thuyết này bao quát những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa
Mác-Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chương IV:
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
Thời lượng: 7 giờ tín chỉ (5 lý thuyết, 1 thảo luận, 1 tự học)
Mục tiêu của người học cần đạt được về kiến thức và kĩ năng:
- Nắm vững các khái niệm sản xuất hàng hóa, hàng hóa, giá trị sử dụng và giá trị
- Nắm được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, lượng giá trị hàng hóa,
các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
- Nêu được lịch sử hình thành phát triển của các hình thái giá trị, bản chất, chức
năng của tiền tệ
- Hiểu được sự hình thành, phát triển của sản xuất hàng hóa
- Hiểu được bản chất, sự vận động và tác dụng của các quy luật giá trị
- Phân tích được tính ưu việt và hạn chế của sản xuất hàng hóa
I. Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
a) Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội một cách tự phát, thành
các ngành, nghề khác nhau, tạo ra chuyên môn hóa về lao động, do đó dẫn đến chuyên
môn hóa về sản xuất. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất sẽ làm một
công việc cụ thể tạo ra một vài loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng,
họ phải có mối quan hệ phụ thuộc, phải trao đổi sản phẩm cho nhau. C.Mác đã chỉ rõ:
"Sự phân công lao động xã hội này là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hóa, mặc dù
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
71
ngược lại, sản xuất hàng hóa không phải là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động
xã hội"1.
b) Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hay tính chất tư nhân của quá trình lao động
Là sự tách biệt do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, đã xác định
người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Nhờ vậy mà người sản
xuất được độc lập với nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội, phụ thuộc lẫn nhau
về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy, người này muốn dùng sản phẩm của người
khác phải thông qua trao đổi, mua bán dưới hình thức hàng hóa.
2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
a) Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là bước ngoặt căn bản trong lịch sử sự phát triển loài người,
đưa loài người thoát khỏi tình trạng mông muội, xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển
nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.
b) Ưu thế của sản xuất hàng hóa
So với nền sản xuất hàng hóa tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa có 3 ưu thế sau
đây:
- Thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng: Kinh tế hàng hoá thúc đẩy
phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất phát triển. Đồng thời, kinh tế hàng hoá
tạo tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ, tạo điều kiện phát huy lợi thế so
sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần hình
thành và mở rộng các mối quan hệ kinh tế trong nước và quốc tế.
Do tác động của các quy luật của kinh tế hàng hoá, quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất được đẩy nhanh. Các hình thức tổ chức sản xuất có quy mô lớn, hiệu quả cao
như công ty tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác cổ phần... xuất hiện.
Như vậy, kinh tế hàng hoá thúc đẩy xã hội hoá cả lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất.
- Năng động, hiệu quả: Trong nền kinh tế hàng hoá, sự di chuyển của các nguồn
lực giữa các ngành, các địa phương khá dễ dàng. Do đó, bất kỳ nhu cầu mới nào xuất
hiện, nền kinh tế sẽ nhanh chóng hướng tới thoả mãn các nhu cầu đó. Điều này làm cho
nền kinh tế trở nên rất năng động và việc đáp ứng các nhu cầu của dân cư tốt hơn rất
nhiều so với kinh tế tự nhiên, cơ chế quản lý kinh tế hành chính - bao cấp. Do sự tác động
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H.1993, tập 23, tr 72.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
72
của các quy luật thị trường, hoạt động kinh tế ở các ngành, địa phương nào có hiệu quả
cao thì các nguồn lực sẽ tập trung vào đó. Điều đó sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng các
nguồn lực. Bên cạnh đó, do sự tác động của quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh, những
nhân tố lạc hậu, không hiệu quả được loại bỏ. Bởi vậy, tính hiệu quả của kinh tế hàng hoá
cao hơn so với các nền kinh tế khác.
- Tạo và duy trì động lực mạnh mẽ thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng
sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội. Trong kinh tế hàng hoá sự tác động của quy
luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu... buộc người sản xuất hàng hoá phải năng động và sáng
tạo, luôn cải tiến và đổi mới kỹ thuật- công nghệ, sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất,
nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức của hàng hoá phù hợp với
nhu cầu xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị
hiếu người tiêu dùng. Giá trị, lợi nhuận tối đa trở thành động lực bên trong chi phối các
hoạt động kinh tế. Động lực này hết sức mạnh mẽ, bền vững và do đó thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất nhanhchóng, bền vững.
Với những ưu việt trên đây, kinh tế hàng hoá là cơ sở thực hiện tiến bộ xã hội. Với
năng suất và hiệu quả cao, kinh tế hàng hoá tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển các mặt
của đời sống kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế hàng hoá trở thành đòi hỏi khách quan đối
với tất cả các quốc gia trên thế giới.
c) Nhược điểm của nền kinh tế hàng hoá
- Tăng trưởng kinh tế không ổn định. Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo chu kỳ.
Điều này gây ra những hậu quả cả về kinh tế, xã hội. Sự không ổn định về kinh tế có thể
là nguyên nhân dẫn đến mất ổn định về chính trị, xã hội.
- Nền kinh tế hàng hoá không có khả năng đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp
về các hàng hoá công cộng. Nền kinh tế hàng hoá là nền kinh tế sản xuất cho người khác,
là đáp ứng các nhu cầu của xã hội. Do đó, các hoạt động kinh tế phải dựa trên sự phát
triển đến mức độ nhất định của kết cấu hạ tầng của nền kinh tế: hệ thống đường xá, cầu
cống, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin, điện nước... Nhưng những người sản xuất
hàng hoá, các doanh nghiệp lại không đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng. Do đó, kinh tế
hàng hoá không thể tự phát phát triển ở trình độ cao.
- Độc quyền làm xuất hiện xu hướng trì trệ kỹ thuật. Nền kinh tế hàng hoá ngay
khi còn ở trình độ thấp đã có hiện tượng độc quyền. Đó là độc quyền tự nhiên, do đặc
điểm kinh tế - kỹ thuật của một số ngành quy định (ngành điện, đường sắt ...). Những
ngành độc quyền không cần cải tiến kỹ thuật vẫn thu được lợi nhuận cao. Do đó, trong
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
73
những ngành này, kỹ thuật có xu hướng bị trì trệ, làm thiệt hại tới lợi ích xã hội va lợi ích
người tiêu dùng.
- Kinh tế hàng hoá làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội khủng hoảng, thất nghiệp, sự
phân hoá giàu nghèo và hàng loạt những tệ nạn xã hội. Những vấn đề xã hội lại trở thành
những nhân tố cản trở quá trình tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
Việc khắc phục các nhược điểm của sản xuất hàng hoá là đòi hỏi khách quan, xuất
phát từ chính yêu cầu phát triển của sản xuất hàng hoá. Vì vậy, sự can thiệp của nhà nước
vào nền kinh tế để khắc phục những nhược điểm đó là hết sức cần thiết.
II. Hàng hóa
1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá
a) Khái niệm hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nhất định của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản:
Giá trị sử dụng
- Là công dụng của một vật, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
- Do thuộc tính tự nhiên của vật quyết định.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng là cho người khác
- Là phạm trù vĩnh viễn
Giá trị: Là lao động xã hội của hàng hóa kết tinh trong hàng hóa là tỷ lệ trao đổi
giữa những hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau, là phạm trù mang tính lịch sử.
Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc.
Trao đổi 1m vải lấy 10 kg thóc chẳng qua là trao đổi hai giờ lao động làm ra vải
với hai giờ lao động sản xuất thóc. Lao động kết tinh trong hàng hoá được gọi là giá trị.
b) Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa:
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính này cùng tồn
tại và thống nhất với nhau ở một hàng hoá, nhưng đây là sự thống nhất của các mặt đối
lập. Trước khi thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá cần phải thực hiện giá trị của nó;
muốn thực hiện giá trị hàng hoá thì phải có giá trị sử dụng.
2. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị vì lao động của người
sản xuất hàng hoá có tính hai mặt, đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
74
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp
chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, công cụ lao động, đối
tượng lao động, phương pháp lao động và kết quả lao động riêng.
- Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định. Trong xã hội, giá trị sử
dụng muôn hình, muôn vẻ do lao động cụ thể muôn hình muôn vẻ tạo ra.
- Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh
viễn.
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình
thức cụ thể của nó, hay nói cách khác lao động trừu tượng là sự hao phí sức lực của con
người nói chung không kể hình thức cụ thể của nó như thế nào. Đó là sự tiêu hao cơ bắp,
thần kinh, trí óc của con người sau một quá trình lao động.
- Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hoá. Lao động trừu tượng là phạm trù
lịch sử nên giá trị hàng hoá là phạm trù lịch sử.
Không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hoá, mà chỉ là lao động của
người sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt mà thôi. Tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hoá phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động.
Lao động tư nhân: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai là công
việc cá nhân của chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, họ tự quyết định.
Lao động xã hội: lao động của người SX HH là một bộ phận của lao động xã hội
nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội.
Sự phân công lao động xã hội làm nảy sinh mối liên hệ giữa những người sản
xuất. Người này sản xuất ra sản phẩm để cho người khác dùng; và ngược lại, họ cần sản
phẩm của người khác. Sự phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
những người sản xuất hàng hoá thông qua trao đổi hàng hoá. Việc trao đổi hàng hoá
không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy về lao động trừu tượng.
Lao động của người sản xuất hàng hoá bao hàm sự thống nhất giữa hai mặt đối lập
là tính chất xã hội và tính chất tư nhân của lao động. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và
tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hoá là mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất
hàng hoá giản đơn, mâu thuẫn đó được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa lao động trừu
tượng và lao động cụ thể, giữa giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá. Mâu thuẫn trên bộc
lộ rõ khi sản xuất thừa, cung vượt quá cầu, lao động tư nhân không dược xã hội thừa
nhận, giá trị sử dụng không đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng sản xuất
"thừa" và là nguồn gốc của mọi mâu thuẫn của kinh tế hàng hoá.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
75
3. Lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
a)Thước đo lượng giá trị hàng hóa là thời gian lao động
Giá trị cá biệt là hao phí thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá.
Giá trị xã hội: được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao
động xã hội cần thiết là thời gian lao động để sản xuất ra hàng hoá với một cường độ
trung bình, trình độ thành thạo trung bình, trong những điều kiện bình thường của sản
xuất xã hội để sản xuất ra tuyệt đại bộ phận hàng hoá.
Quan hệ giữa năng suất lao động và lượng giá trị:
- Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng
sản phẩm/đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra sản phẩm.
- Quan hệ giữa năng suất lao động và lượng giá trị hàng hóa là quan hệ tỷ lệ
nghịch.
b) Các nhân tố sau ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá
- Năng suất lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến lượng giá trị hàng hoá. Năng suất
lao động phụ thuộc vào trình độ lành nghề của người lao động; trình độ công nghệ;
phương pháp tổ chức, quản lý lao động; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; các
điều kiện tự nhiên.Tăng năng suất lao động làm cho số lượng sản phẩm được tạo ra trong
một đơn vị thời gian tăng lên, tổng giá trị hàng hoá tạo ra trong một đơn vị thời gian
không thay đổi, do đó giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm xuống.
- Cường độ lao động là mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian, nói
lên mức độ khẩn trương, căng thẳng của lao động. Tăng cường độ lao động cũng giống
như kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động tăng lên có nghĩa là hao phí sức lao
động cũng tăng lên, làm cho số lượng sản phẩm được chế tạo trong một đơn vị thời gian
tăng lên nhưng giá trị một hàng hoá không thay đổi. Tăng cường độ lao động làm cho số
lượng sản phẩm được tạo ra trong một đơn vị thời gian nhiều hơn, tổng giá trị hàng hoá
tạo ra trong một đơn vị thời gian cũng tăng lên, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hoá
không thay đổi.
- Mức độ phức tạp của lao động: Lượng giá trị hàng hoá không chỉ bao gồm hao
phí lao động sống, mà còn bao gồm hao phí lao động qua khứ đã vật hoá trong tư liệu sản
xuất (như máy móc, nguyên vật liệu, năng lượng ...). Do đó, lượng giá trị hàng hoá gồm
cả giá trị cũ, tức là giá trị của những tư liêụ sản xuất đã hao phí để sản xuất hàng hoá (ký
hiệu là c) và giá trị mới do lao động sống của người sản xuất tạo ra (ký hiệu là v+m).
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
76
III. Tiền tệ
1. Lịch sử phát triển của hình thái giá trị và bản chất của tiền tệ
a) Lịch sử phát triển của hình thái giá trị
Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị
Trong hình thái này, một hàng hoá được trao đổi một cách ngẫu nhiên với một
hàng hoá khác, chẳng hạn: 10 kg thóc = 2 m vải
Cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất có sự phát triển nhất định
làm xuất hiện sản phẩm thặng dư, do đó bắt đầu có trao đổi. Nhưng vì lực lượng sản xuất
còn ở trình độ rất thấp nên sản phẩm thặng dư còn rất ít ỏi và do đó trao đổi mang tính
chất ngẫu nhiên và trực tiếp.
Trong hình thái này, hàng hoá ở vế trái của phương trình (10 kg thóc) ở vào vị trí
hình thái tương đối, giá trị của nó được biểu hiện ra bên ngoài. Hàng hoá ở vế phải của
phương trình (2 m vải) ở vào vị trí hình thái ngang giá, dùng để biểu hiện giá trị của thóc.
Trong hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị, giá trị sử dụng của một hàng
hoá đã trở thành hình thức biểu hiện của giá trị. Và vì thế, C.Mác cho rằng, ngay trong
hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị đã có mầm mống của tiền tệ.
Hình thái mở rộng của giá trị
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển, sản phẩm thặng
dư nhiều hơn thì xuất hiện hình thái này.
Hình thái này bao gồm nhiều phương trình trao đổi và việc phân tích mỗi phương
trình cũng giống như trong hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị. Hình thái này
khác hình thái trên ở chỗ: hình thức biểu hiện giá trị của một hàng hoá đã được mở rộng,
không cố định ở một hàng hoá.
Hình thái chung của giá trị
2 m vải , hoặc
10 kg thóc = 1 cái bàn, hoặc
0,1 gr. vàng, hoặc
v...v..
10 kg thóc
hoặc 2 m vải
hoặc 1 cái bàn = 1 con cừu
hoặc 1 gr. vàng
v...v...
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
77
Lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội tiếp tục phát triển cao hơn, trao
đổi hàng hoá trở nên thường xuyên và ngày càng mở rộng hơn nữa. Một hàng hoá có thể
trao đổi được với nhiều loại hàng hoá khác nhau. Nhưng cũng vì thế, những người có sản
phẩm dư thừa không dễ gì đổi ngay được những sản phẩm mà họ cần.
Quá trình trao đổi hàng hoá dần dần làm xuất hiện hàng hoá trung gian trong trao
đổi. Những hàng hoá trung gian phải mang tính thông dụng, có ý nghĩa kinh tế đối với
một địa phương, một bộ tộc, bộ lạc. Khi đã có hàng hoá trung gian, người ta dễ dàng đổi
được hàng hoá mà họ cần. Khi đó, hình thái mở rộng của giá trị phát triển thành hình thái
chung của giá trị.
Hàng hoá đóng vai trò vật ngang giá chung trở thành môi giới, thành phương tiện
để trao đổi các hàng hoá với nhau. Lúc đầu, vật ngang giá chung khác nhau ở mỗi địa
phương, mỗi bộ tộc, bộ lạc vì ở mỗi nơi sản phẩm thông dụng, có ý nghĩa kinh tế khác
nhau, có nơi dùng thóc, có nơi dùng vỏ sò, vỏ ốc v...v...
Hình thái tiền tệ
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển cao hơn nữa, trao
đổi hàng hoá đòi hỏi phải có vật ngang giá chung thống nhất giữa các vùng, các địa
phương.
Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một hàng hoá độc tôn và phổ biến thì
hình thái tiền tệ xuất hiện. Hàng hoá đóng vai trò tiền tệ phải thoả mãn các yêu cầu:
Một là, thuần nhất, dễ chia nhỏ
Hai là, dễ vận chuyển và bảo quản, trọng lượng nhỏ, giá trị cao.
Thuộc tính tự nhiên của bạc và vàng đáp ứng tốt nhất các yêu cầu đó, nên vàng và bạc đã
trở thành tiền tệ. Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hoá phân làm hai cực: một cực là
những hàng thông thường đại biểu cho những giá trị sử dụng; cực khác là hàng hoá đóng
vai trò tiền tệ, đại biểu cho giá trị.
b) Bản chất của tiền tệ
Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung thống nhất cho tất
cả hàng hoá. Tiền tệ ra đời là kết qủa tất yếu của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng
hoá. Tiền tệ là hình thức thể hiện lao động xã hội. Về bản chất, tiền tệ là quan hệ xã hội,
quan hệ giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Với tư cách là hàng hoá, vàng và bạc cũng có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá
trị. Giá trị sử dụng của các hàng hoá này thể hiện ở chỗ, nó được sử dụng trong việc chế
tạo một số chi tiết sản phẩm công nghiệp và làm đồ trang sức. Giá trị của hàng hoá vàng,
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
78
bạc cũng do hao phí thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn của người khai thác, sản
xuất vàng, bạc kết tinh trong nó quyết định.
2. Chức năng của tiền tệ
Trong điều kiện kinh tế hàng hoá phát triển, tiền tệ có năm chức năng sau đây:
a) Thước đo giá trị
Trong chức năng này, tiền được dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các
hàng hoá. Tiền tệ có thể đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hoá vì bản thân tiền tệ có
giá trị.
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị thì tiền tệ không cần phải là tiền mặt, mà
chỉ cần là tiền tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì trong thực tế giá trị của
vàng và giá trị của hàng hoá đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở khoa học của tỷ lệ đó là thời
gian lao động xã hội cần thiết phải hao phí để sản xuất ra chúng.
Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá, hay ngược lại,
giá cả hàng hoá là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả do các nhân
tố: giá trị hàng hoá; giá trị tiền tệ; quan hệ cung-cầu hàng hoá quyết định...
Giá cả hàng hoá thay đổi tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá và tỷ lệ nghịch với
giá trị của tiền tệ.
Quan hệ cung - cầu hàng hoá làm giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Cung lớn
hơn cầu làm giá cả xuống thấp hơn giá trị; còn ngược lại, cung nhỏ hơn cầu sẽ làm cho
giá cả lên cao hơn giá trị hàng hoá.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ phải được đo lường. Do đó,
phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn
giá cả. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo
lường các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường số lượng của bản thân kim
loại dùng làm tiền tệ. Sự thay đổi giá trị của hàng hoá tiền tệ (vàng) không ảnh hưởng
đến "chức năng'' tiêu chuẩn giá cả của nó.
Khi cả vàng và bạc thực hiện chức năng đo lường giá trị của các hàng hoá thì luôn
phải xác định quan hệ tỷ lệ giữa vàng và bạc. Nói cách khác, giá trị hàng hoá phải được
đo lường bằng một thước đo thống nhất, không thể có hai thước đo. Thuộc tính tự nhiên
của vàng đáp ứng tốt hơn yêu cầu đối với hàng hoá đóng vai trò tiền tệ nên dần dần chỉ
còn vàng là tiền tệ, bạc bị loại ra khỏi vai trò tiền tệ.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
79
b) Phương tiện lưu thông
Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ là môi giới trong lưu thông hàng
hoá. Công thức lưu thông hàng hoá khi có sự tham gia của tiền tệ là: H - T - H (hàng -
tiền - hàng). Khi hàng chuyển từ tay người bán sang tay người mua thì tiền chuyển từ tay
người mua sang tay người bán, do đó đòi hỏi nhất thiết phải có tiền. Làm chức năng
phương tiện lưu thông, tiền tệ phải là tiền thật (không phải tiền tưởng tượng).
Thực hiện chức năng này, lúc đầu người ta dùng vàng thoi, bạc nén. Điều đó gây
nên một số khó khăn: phải chia nó thành nhiều mảnh nhỏ, phải xác định số lượng, độ
nguyên chất... Tiền tệ bằng vàng thoi, bạc nén dần dần được thay thế bằng tiền đúc. Tiền
đúc là khối kim loại đúc có hình thức, trọng lượng và giá trị nhất định, nó được dùng làm
phương tiện lưu thông. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một
phần giá trị của nó, do đó xuất hiện tình trạng tiền đúc không còn đủ giá trị ban đầu của
nó. Nhưng trong thực tế, những đồng tiền bị mòn, không đủ giá trị đó vẫn được chấp
nhận làm phương tiện lưu thông như tiền đúc đủ giá trị. Làm phương tiện lưu thông dần
dần tiền tệ chỉ còn là ký hiệu giá trị. Đó chính là cơ sở ra đời của tiền giấy. Nhà nước có
chức năng phát hành và quản lý lưu thông tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị,
mà chỉ là ký hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia.
Khi tiền làm chức năng phương tiện lưu thông, việc trao đổi hàng hoá trở nên
thuận lợi, hành vi mua bán có thể tách rời nhau cả về không gian lẫn thời gian. Có thể
bán mà chưa mua, có thể mua ở nơi này bán ở nơi kia. Như thế, tiền tệ tham gia vào quá
trình trao đổi đã tạo ra sự không nhất trí giữa mua và bán, gây ra khả năng khủng hoảng
kinh tế.
c) Phương tiện cất trữ
Tiền là hiện thân của giá trị, đại biểu cho của cải xã hội, nên nó có thể thực hiện
được chức năng phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tiền được rút khỏi lưu
thông và được cất trữ lại. Cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải, cất trữ giá trị.
Chỉ có tiền đủ giá trị như tiền vàng mới làm chức năng cất trữ.
Sự cất trữ tiền làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu
cầu tiền cần thiết cho lưu thông hàng hoá. Nếu sản xuất hàng hoá giảm sút, hàng hoá ít
thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông và được cất trữ. Ngược lại, nếu sản xuất hàng
hoá tăng lên tức là hàng hoá nhiều thì những đồng tiền đó lại quay trở vào lưu thông. Do
vậy, cất trữ tiền không chỉ là cất trữ của cải mà còn là dự trữ cho lưu thông tiền tệ.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
80
d) Phương tiện thanh toán
Kinh tế hàng hoá phát triển đến một trình độ nào đó, tất yếu sẽ nảy sinh việc mua -
bán chịu, do đó tiền có chức năng phương tiện thanh toán. Với chức năng này tiền dùng
để chi trả sau khi công việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành. Ví dụ, trả tiền mua hàng
chịu, trả nợ, nộp thuế...
Phương tiện thanh toán của tiền tệ gắn liền với chế độ tín dụng, trong đó có tín
dụng thương mại là mua - bán chịu hàng hoá. Trong hình thức mua - bán chịu, trước tiên,
tiền làm chức năng thước đo gíá trị. Nhưng vì mua bán chịu nên đến kỳ hạn trả tiền mới
thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Sự phát triển hình thức mua bán chịu, một
mặt, tạo khả năng trang trải nợ nần bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng
tiền mặt, nên giảm được lượng tiền cần thiết phát hành trong lưu thông. Mặt khác, trong
việc mua bán chịu, người mua biến thành con nợ, người bán biến thành chủ nợ, khi hệ
thống con nợ và chủ nợ phát triển rộng rãi, nếu một khâu nào đó không thanh toán được
sẽ ảnh hưởng đến các khâu khác và phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế lại
tăng lên.
Quá trình thực hiện chức năng phương tiện thanh toán sẽ làm xuất hiện một loại
tiền mới - tiền tín dụng, dưới các hình thức như: giấy bạc ngân hàng, tiền ghi sổ, tài
khoản có thể phát hành séc, tiền điện tử, thẻ thanh toán...
Tiền tín dụng phát sinh từ chức năng phương tiện thanh toán của tiền. Mặt khác,
tiền tín dụng phát triển thì chức năng phương tiện thanh toán của tiền càng mở rộng và
các hình thức của tiền cũng phát triển.
e) Tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hoá mở rộng ra bên ngoài biên giới quốc gia và hình thành quan
hệ buôn bán giữa các nước, thì tiền tệ làm chức năng tiền tệ thế giới. Thực hiện chức
năng tiền tệ thế giới thì tiền tệ là phương tiện trao đổi, thanh toán và dự trữ quốc tế, là
công cụ di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Làm chức năng tiền tệ thế giới,
tiền tệ phải có giá trị thật sự, phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận trên
phạm vi quốc tế.
Tuy nhiên, sử dụng vàng làm tiền tệ thế giới gặp không ít trở ngại như: vận
chuyển, bảo quản, đánh giá chất lượng vàng. Do vậy, trong thực tế những đồng tiền giấy
của những quốc gia có nền kinh tế mạnh cũng được sử dụng làm đồng tiền quốc tế. Khi
đó, quan hệ giữa các đồng tiền được thiết lập. Việc đổi tiền nước này ra tiền của nước
khác được tiến hành theo tỷ lệ nhất định, phụ thuộc vào sức mua của các đồng tiền. Tỷ lệ
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
81
trao đổi giữa các đồng tiền gọi là tỷ giá hối đoái, là giá cả đồng tiền của quốc gia này
được tính bằng đồng tiền của quốc gia khác.
Nhưng tiền giấy chỉ là ký hiệu của giá trị và các quốc gia thực thi chính sách tiền
tệ trước hết vì lợi ích của mình nên việc sử dụng đồng tiền quốc gia làm tiền tệ thế giới
làm cho người sử dụng phải chịu những rủi ro nhất định. Sự ra đời của những đồng tiền
chung có tác dụng to lớn trong việc hạn chế những rủi ro đó.
Tóm lại, tiền tệ có năm chức năng, những chức năng này ra đời cùng với sự phát
triển của sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá. Năm chức năng đó có quan hệ mật
thiết với nhau, thông thường tiền làm nhiều chức năng cùng một lúc.
III. Quy luật giá trị
1. Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Nội dung của quy luật giá trị:
- Do yêu cầu đối với sản xuất: Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi
hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Do yêu cầu đối với lưu thông: Giá trị hàng hoá biểu hiện bằng giá cả. Giá cả phụ
thuộc vào giá trị và lên, xuống xoay quanh giá trị của hàng hoá trên thị trường. Đó là cơ
chế tác động của quy luật giá trị.
2. Tác động của quy luật giá trị
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
+ Điều tiết sản xuất:
Cung= cầu -----> giá cả = giá trị
Cung > cầu -----> giá cả
người sx thiệt --- > thu hẹp sản xuất
Cung giá cả > giá trị
người sx lợi --- > mở rộng sản xuất
+ Điều tiết lưu thông:
Hàng hóa di chuyển từ nơi có giá cả thấp --- > giá cả cao
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động phát
triển lực lượng sản xuất.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
82
- Thực hiện lựa chọn và phân hoá những người sản xuất hàng hoá thành giàu
nghèo.
+ GTCB giàu lên
+ GTCB > GTXH --- > nghèo đi
Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích những điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá?
2. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa hai thuộc tính của hàng hóa?
3. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa? Ý nghĩa của vấn
đề này ở Việt Nam hiện nay?
4. Nguồn gốc, bản chất và các chức năng của tiền tệ?
5. Phân tích nội dung và tác động của quy luật giá trị?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro