chương 4
Chương IV
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
I. CÔNG NGHIỆP HÓA THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI:
1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa:
a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa:
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của
Đảng (9/1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công
nghiệp hóa qua 2 giai đoạn: từ 1960 – 1975 triển khai ở miền Bắc và từ 1975 – 1985
thực hiện trên phạm vi cả nước.
Ở miền Bắc: Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm miền Bắc, trong
đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đại hội III của
Đảng khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con
đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng
định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Đại hội cũng chỉ rõ, để thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề quan trọng
có tính chất quyết định là thực hiện trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động.
Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng đã xác định công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều lần trong tất cả các Đại hội
của Đảng.
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được Đại hội III xác
định là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài,
phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp, hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa III)
nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng.
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương đồng thời đẩy mạnh phát
triển công nghiệp địa phương
Trên phạm vi cả nước: Sau Đại thắng mùa xuân 1975, cả nước độc lập, thống
nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc
điểm, tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (12/1976) đề ra đường
lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công
56
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp thành một cơ cấu kinh tế công – nông
nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp
kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất”. Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản về công nghiệp hóa ở
miền Bắc trước đây đồng thời có sự phát triển thêm.
Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976 – 1981), Đảng rút ra kết
luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi
của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường.
Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982) đã xác định trong
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt
trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng
và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức,
nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội
V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây
là sự điều chỉnh đúng đắn bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan
trọng này.
b. Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới:
Nhìn chung trong thời kỳ 1960 -1985, chúng ta đã nhận thức và tiến hành
công nghiệp hóa theo kiểu cũ với các đặc trưng chủ yếu sau:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên
về phát triển công nghiệp nặng.
- Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất
đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Chủ lực thực hiện
công nghiệp hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước. Việc phân
bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện thông qua cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, không tôn trọng các quy luật
của thị trường.
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn không
quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.
2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân:
a. Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa:
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, những tiền đề vật chất cần thiết cho công nghiệp hóa còn hết sức hạn chế và
trong điều kiện có chiến tranh phá hoại. Mặc dù vậy, quá trình công nghiệp hóa vẫn
đạt được những kết quả quan trọng.
So với năm 1955, số xí nghiệp tăng 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn đã
hình thành, có nhiều cơ sở đầu tiên của công nghiệp nặng quan trọng như điện, than,
cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng.
57
Có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề
đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so
với năm 1960 là thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa.
Trong điều kiện đi lên từ xuất phát thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề thì
những kết quả đạt được trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng – tạo cơ sơ ban đầu
để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo.
b. Hạn chế và nguyên nhân:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới
còn nhiều hạn chế:
- Cơ sở vật chất – kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành công
nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ
sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
- Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển,
nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho
xã hội. Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển,
rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:
Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu,
nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không
thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
Về chủ quan, chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định
mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất, kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư,
v.v… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí trong nhận thức và chủ
trương công nghiệp hóa.
II. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA THỜI KỲ ĐỔI MỚI:
1. Quá trình đồi mới tư duy về công nghiệp hóa:
a. Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ
trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960 – 1985:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI cùa Đảng (12/1986) với tinh thần “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những
sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960 – 1985, mà trực
tiếp là 10 năm từ 1975 – 1985. Đó là:
- Chúng ta đạ phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý
kinh tế, v.v… Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua
những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công
nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư,
thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý,
58
thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn,
không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng
hiệu quả thấp.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V, như:
vẫn chưa thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp
nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại
hội X:
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung
chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được 3 chương trình mục
tiêu: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (1/1994) có bước đột phá mới trong nhận
thức về công nghiệp hóa. Bước đột phá này thể hiện trước hết ở nhận thức về khái
niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản
lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao”.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) nhìn nhận lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã
có nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ
đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp
hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội tiếp tục khẳng định quan niệm về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nêu ra ở hội nghị Trung ương 7 khóa VII.
Đại hội nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và định hướng
những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại
của thập kỷ 90. Các quan điểm và định hướng này đến nay về cơ bản vẫn đúng và có
giá trị chỉ đạo thực tiễn.
Đến Đại hội IX (4/2001) và Đại hội X (4/2006), Đảng tiếp tục bổ sung và
nhấn mạnh một số quan điểm mới về công nghiệp hóa:
- Con đường công nghiệp hóa: ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian
so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm
sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những
kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước,
tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.
Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn so với các nước đi
trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: phát triển kinh tế và công
59
nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy
những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng
bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của con người Việt Nam. Đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta: phải phát triển nhanh
và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp
ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải
tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.
- Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,
hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, sản phẩm nông nghiệp.
2. Mục tiêu, quan điềm công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể.
Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền
tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
b. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong
nước và quốc tế, Đảng nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm này được
hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ
sung qua các Đại hội VIII, IX và X của Đảng. Dưới đây khái quát lại những quan
điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới:
Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa. Khi
đó công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động
sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay, Đại hội X nhận định: “khoa học
và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật
trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó,
60
xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng
như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến
hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát
triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri
thức đã phát triển. Chúng ta có thể và cần thiết không trải qua các bước tuần tự từ
kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là
lợi thế của các nước đi sau, không phải nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X chỉ
rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi
kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Kinh tế tri thức là gì? Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra
định nghĩa : kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải,
nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có
tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các
thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên
công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh
tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học,
công nghệ cao.
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khác với công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, được tiến hành trong nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lực lượng làm công nghiệp hóa chỉ có nhà nước, theo
kế hoạch của nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lện. Thời kỳ đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải
chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ
nguồn lược để công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung
của nhà nước, còn thời kỳ đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường không những
khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế mà còn sử dụng chúng có
hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vì, khi
đầu tư vào lĩnh vực nào, ở đâu, quy mô thế nào, công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính
toán, cân nhắc kỹ càng, hạn chế đầu tư tràn lan, sai mục đích, kém hiệu quả và lãng
phí thất thoát.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên
61
tiến của thế giới… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh
tế quốc tế còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước
ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nói riêng được nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh, bền vững.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố
con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ
yếu là : vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và
quản lý nhà nước trong đó con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực
con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần đặc biệt chú ý đến
phát triển giáo dục, đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và đội
ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có
khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế
giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động,
giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói
chung. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm
lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu
cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế
kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình
độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu
mới.
Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đan dạng
sinh học.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu
đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ có như vậy
mới có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa
các vùng… Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi con người đều được
hưởng thành quả của sự phát triển.
62
Sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững có quan hệ chặt chẽ với việc bảo vệ
môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Môi trường tự nhiên và sự đa dạng
sinh học là môi trường sống và hoạt động kinh tế của con người. Bảo vệ môi trường
tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học chính là bảo vệ điều kiện sống của con người
và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.
3. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức :
a. Nội dung :
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: ‘Chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Phải coi trọng kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa’.
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao
dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con
người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước
phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh
tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh
thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các
ngàn, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
b. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức :
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Một là, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn cùa quá trình
công nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi
vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn, gia tăng
khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và đô thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp
lương thực, nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng
lớn cho công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm ki bắt
đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là
vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa. Trong những năm
tới, định hướng phát triển cho quá trình này là:
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra
giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy
nhanh tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao sản
63
xuất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm từng
vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và
dịch vụ ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Hai là, về quy hoạch phát triển nông thôn.
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông nghiệp, thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống
no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh.
Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ
như thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế,
bưu điện, chợ…
Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao
trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh,
trật tự an toàn xã hội.
Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn.
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng
có sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông,
các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông nghiệp theo hướng giảm
nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng lao động làm công
nghiệp, dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu
vực nông thôn, kể cả đi lao động nước ngoài.
Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ:
Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỳ trọng của nông nghiệp
giảm còn công nghiệp, dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển
nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Một là, đối với công nghiệp và xây dựng.
Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác,
công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản
phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc
khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khuyến
khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan
trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn của
nước ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.
Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan
trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất
cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô.
Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt định
cư ở nước ngoài.
64
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay
quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới cung
cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thủy lợi, cấp
thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng
lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính – viễn thông.
Hai là, đối với dịch vụ.
Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có
chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ phát triển của ngành
dịch vụ cao hơn với tốc độ tăng GDP. Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế
để tạo bước phát triển ngành ‘công nghiệp không có khói’ này. Tiếp tục mở rộng và
nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân
hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công
cộng. Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo hàng lang pháp lý, môi trường
thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh trạnh
bình đẳng trên thị trường dịch vụ.
- Phát triển kinh tế vùng:
Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế quốc
dân. Xác định đúng đắn cơ cấu vùng có ý nghĩa quan trọng, nó cho phép khai thác
có hiệu quả các lợi thế so sánh của từng vùng, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các
vùng trong cả nước. Để phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng trong những năm tới, cần
phải :
Một là, có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong nước cùng phát triển
nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của
mỗi vùng và liên vùng, đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm đem lại hiệu
quả cao, khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính.
Hai là, xây dựng 3 vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung, miền
Nam thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này
đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước. Trên cơ sở phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm, tạo ra động lực và sự lan tỏa đến các vùng khác và trợ
giúp các vùng khó khăn, đặc biệt các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nguyên, Tây Nam,
Tây Bắc. Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng khó
khăn. Bổ sung chính sách, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh tại các vùng khó khăn.
- Phát triển kinh tế biển :
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng
tâm, trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong
khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải
biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch
65
biển, đảo. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển, đồng thời hình
thành một số hành lang kinh tế ven biển.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ :
Để chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức cần phải :
Phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2010 có nguồn nhân lực
với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao, tỷ lệ lao động trong khu vực
nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội.
Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt
của cách mạng khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công
nghệ hiện đại ở một số ngành, lĩnh vực then chốt. Chú trọng phát triển
công nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để
giải quyết việc làm. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa
học và công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu
quả, trong từng ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và
đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách, hàng đầu, tạo động lực
thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri
thức. Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu
ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và
công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ
chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt
động khoa học và công nghệ.
- Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự
nhiên:
Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng
tài nguyên và cải thiện môi trường tự nhiên được xác định:
Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất,
nước, khoáng sản và rừng. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô
nhiễm môi trường, khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường ở các
lưu vực sông, đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nơi đông dân cư và
có nhiều hoạt động kinh tế. Quan tâm đầu tư cho lĩnh vực môi trường,
nhất là các hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải, phát triển và
ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường.
Hoàn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải
thiện môi trường tự nhiên. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải xử lý ô nhiễm hoặc chi trả cho việc xử lý ô nhiễm.
Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng, thủy
văn, chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
66
Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa
với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.
Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên
thiên nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên
nước.
4. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân:
a. Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩa :
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước đã thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trong đó có những thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một là, cơ sở vật chất – kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả
năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, đến nay cả nước đã có hơn 100
khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả; tỷ lệ
ngành công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng.
Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây
dựng, hóa chất cơ bản, khai thác và hóa dầu đã và đang có những bước phát triển
mạnh mẽ. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và
ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân thời kỳ 2001 – 2005 đạt
16,7%/năm, năng lực xây dựng tăng nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng hiện
đại. Việc xây dựng đô thị, nà ở đạt nhiều kết quả. Hàng năm đưa thêm vào sử dụng
hàng triệu m2 nhà ở (bình quân thời kỳ 2001 – 2005 tăng 20 triệu m2/năm). Công
nghiệp nông nghiệp và miền núi có bước tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình của
cả nước. Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng: sân bay,
cảng biển, đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính – viễn thông… theo hướng hiện
đại.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đạt được những kết quả quan trọng, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng
nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm (thời kỳ 2001 – 2005, tỷ trọng công nghiệp và
xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005; còn tỷ trọng của nông, lâm
nghiệp và thủy sản giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,9% năm 2005). Trong
từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công
nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với thị trường.
Cơ cấu kinh tế vùng đã có sự điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh
của từng vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh đóng góp quan
trọng vào sự tăng trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục dịch chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Từ năm 2000 – 2005, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và
xây dựng tăng từ 12,1% lên 17,9%; dịch vụ tăng từ 91,7% lên 25,3%; nông lâm
67
nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%; lao động qua đào tạo tăng từ
20% lên 25%.
Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan
trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 – 2005
đạt trên 7,51%/năm, các năm 2006 – 2007 đạt 8%/năm. Điều đó đã góp phần quan
trọng vào công tác xóa đói, giảm nghèo. Thu nhập đầu người bình quân hàng năm
tăng lên đáng kể. Năm 2005, đạt 640 USD/người, năm 2007 đạt trên 800 USD/người.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng là cơ sở phấn đấu để sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020.
b. Hạn chế và nguyên nhân:
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, nổi bật là:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiề
nước trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Quy mô nền kinh tế
còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp5. Tăng trưởng kinh tế chủ
yếu theo chiều rộng, tập trung vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao
vật chất cao, sử dụng nhiều nguồn tài nguyên, vốn và lao động. Năng
suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực.
- Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao; tài nguyên,
đất đai và các nguồn vốn của nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát
nghiêm trọng. Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát huy.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các ngành
sản phẩm có hàm lượng tri thức cao còn ít. Trong nông nghiệp sản xuất
chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường. Nội dung công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn thiếu cụ thể. Chất lượng nguồn
nhân lực của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp
còn cao, tỷ trọng lao động qua đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm,
không việc làm còn nhiều
- Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh
vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ,
hiệu quả thấp và chưa được quan tâm đúng mức.
- Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,
chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả
năng phát triển của các thành phần kinh tế.
- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản
lý kém, chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
5. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, năm 2004, GDP và GDP/người của Trung Quốc là 1.677 tỷ USD và
1.290 USD/người. Tương tự con số này của Malaisia là 117 tỷ USD và 4.650 USD/người, của Thái Lan là
159 tỷ USD và 1.540 USD/người, của Việt Nam là 45 tỷ USD và 562 USD/người
68
- Nhìn chung, mặc dù đã cố gắng dầu tư nhưng kế cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ
quan như:
- Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng
được tốt nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội.
- Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả. Công tác tổ chức, cán
bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu.
Ngoài các nguyên nhân chung nói trên còn có các nguyên nhân cụ thể, trực
tiếp như: công tác quy hoạch chất lượng kém, nhiều bất hợp lý dẫn đến quy hoạch
‘treo’ khá phổ biến gây lãng phí nghiêm trọng; cơ cấu đầu tư bất hợp lý làm cho đầu
tư kém hiệu quả, công tác quản lý yếu kém.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro