Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 2

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

21

Chương II:

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Thời lượng: 9 giờ tín chỉ (6 lý thuyết, 2 thảo luận, 1 tự học)

Mục tiêu của người học cần đạt được về kiến thức và kĩ năng:

- Nắm được khái niệm phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng

- Hiểu được các nguyên lý, các cặp phạm trù, các quy luật của phép biện chứng

- Nắm được các khái niệm thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

- Hiểu được con đường biện chứng của nhận thức chân lý

- Vận dụng phép biện chứng trong việc giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra một cách

sáng tạo, linh hoạt, mềm dẻo và hiệu quả

I. Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật

1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng

a) Phép biện chứng

- Sự đối lập giữa hai quan điểm biện chứng và siêu hình trong nhận thức và cải tạo

thế giới

+ Phương pháp siêu hình: là một trong những phương pháp nhận thức và hoạt

động của con người. Phương pháp này là quá trình tập trung trí tuệ và nguồn lực để giải

quyết triệt để một vấn đề cụ thể nhằm tạo nên bước phát triển cơ bản phù hợp mục tiêu

nào đó. Tư duy siêu hình là quá trình nhận thức đối tượng cô lập, tĩnh tại, không vận

động, không biến đổi, không chuyển hoá.

Đặc điểm của tư duy siêu hình là: "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không

nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự

vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn

thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy,

chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng"1. Nhưng, phương pháp siêu hình lại rất cần

thiết cho quá trình nhận thức và hoạt động của con người. Mặc dù khả năng của con

người là vô hạn, nhưng trong một thời gian và không gian cụ thể lại hữu hạn. Vì vậy, việc

tập trung trí tuệ và vật lực để giải quyết một vấn đề cụ thể phù hợp mục tiêu nào đó chính

là tạo nên động lực cho sự phát triển là hết sức cần thiết. Trong xây dựng kinh tế - xã hội

của một quốc gia cũng không vượt khỏi qui luật đó.

1 Sđd, t.20, tr. 37.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

22

+ Phương pháp biện chứng hay còn gọi là tư duy biện chứng: là phương pháp

nhận thức đối tượng trong mối liên hệ, vận động, phát triển, biến đổi và chuyển hoá

không ngừng.

- Khái niệm phép biện chứng

Trong triết Mác- Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ,

tương tác chuyển hóa và vận động, phát triển theo qui luật của các hiện tượng quá trình

trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Theo Ph.Ăng ghen biện chứng bao gồm chủ quan và khách

quan: "Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng

gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ

giới tự nhiên"1.

b) Các hình thức cơ bản của phép biện chứng

Phép biện chứng thời cổ đại

Các tư tưởng biện chứng trong triết học phương Đông cổ đại

- Thuyết Âm-Dương: Hai thế lực Âm, Dương không tồn tại biệt lập mà quan hệ

với nhau theo các nguyên lý sau:

+ Âm-Dương thống nhất thành Thái cực: Tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng

của cái đa và cái duy nhất. Tư tưởng về sự thống nhất vừa bất biến vừa biến đổi.

+ Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm: Khả năng biến đổi của Âm-

Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.

- Tư tưởng biện chứng của Lão Tử cho rằng, toàn thể thế giới bị chi phối bởi hai

luật phổ biến là luật quân bình và luật phản phục, trong đó luật quân bình luôn giữ cho

sự vận động của các sự vật, hiện tượng được cân bằng theo một trật tự điều hoà trong tự

nhiên, không có gì thái quá, không có gì bất cập.

Luật phản phục cho rằng: cái gì phát triển tột độ thì sẽ trở thành cái đối lập với nó.

Ngoài ra, phản phục còn có nghĩa là trở về với đạo tự nhiên, Vô Vi, tức là trở về với cái

gốc của mình. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt đối

lập vừa xung khắc nhau, vừa nương tựa và bao hàm lẫn nhau.

Các tư tưởng biện chứng trong triết học Hy lạp - La mã cổ đại.

- Thuật ngữ "phép biện chứng" (dialecticka) có nguyên gốc là dialektike được

Xôcrát (469-399 tr.c.n) sáng tạo và sử dụng theo nghĩa là nghệ thuật dẫn dắt đàm thoại,

đối thoại, tranh biện các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm với mục đích đạt được chân lý

bằng con đường đối lập các ý kiến của họ với nhau. Platôn cho rằng phép biện chứng

chính là đối thoại, là "mổ xẻ" lôgíc chia và kết hợp các khái niệm đang tồn tại trực tiếp

1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2004, t.20, tr.694.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

23

trong các câu hỏi và các câu trả lời (hỏi-đáp) và dẫn các khái niệm đó tới chân lý.

Hêraclít (540-480 tr.c.n) đã thể hiện tương đối rõ quan niệm của mình về phép biện

chứng, ông cho rằng, phép biện chứng là môn khoa học nghiên cứu về sự vận động và

phát triển: "Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không

ngừng chảy trên sông" và "ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới".

Các quan niệm trên của các triết gia Hy Lạp cổ đại về phép biện chứng dần dần

đem lại cho phép biện chứng những quan niệm về sự vận động và phát triển của những

mâu thuẫn để đi tới những tri thức đúng, tức là đi tới chân lý. Phép biện chứng cổ đại

mang tính tự phát, mộc mạc mà phép biện chứng trong triết học Hy Lạp, Trung Hoa cổ

đại là một trong những hình thức điển hình.

Như vậy, phép biện chứng cổ đại là hình thức đầu tiên, là cơ sở để phép biện

chứng duy vật xuất hiện. Những tư tưởng đó đã đóng góp vai trò của mình trong việc

chống lại những tư tưởng siêu hình và tôn giáo lúc bấy giờ.

Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức

Phép biện chứng duy tâm xuất hiện vào thời cổ đại và cùng với sự phát triển của

cuộc sống, của khoa học, phép biện chứng ngày càng được bổ sung thêm những nội dung

mới, phong phú hơn, phát triển thành hệ thống vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX

trong triết học cổ điển Đức. Cantơ (1724-1804) là người sáng lập và Phíchtơ (1762-

1814), Selinh (1775-1854), Hêghen (1770-1831) là những người kế thừa, phát triển:

- Sự thống nhất biện chứng giữa các mặt đối lập là sự thống nhất và thâm nhập lẫn

nhau của các mặt đối lập, là động lực của sự vận động và phát triển của vật chất. Động

lực là sự thống nhất và thâm nhập lẫn nhau của sức hút và sức đẩy. Động lực này có

trước vật chất và sự vận động của động lực đó là sự vận động tách rời vật chất (Cantơ).

- Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của các sự vật, hiện tượng, mối

liên hệ phổ biến, sự thống nhất, sự phát triển của tự nhiên (Selinh).

- Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển nhưng chúng chỉ tồn tại trong ý thức

con người. Mâu thuẫn thể hiện sự vận động đi lên của tư duy trong quá trình nhận thức

(Phíchtơ).

Phép biện chứng của Hêghen đã bao quát cả ba lĩnh vực, bắt đầu từ các phạm trù

lôgíc thuần tuý cho đến lĩnh vực tự nhiên, tinh thần và kết thúc bằng biện chứng của toàn

bộ quá trình lịch sử. Trong phép biện chứng của mình, Hêghen đã thể hiện được những

hình thức chung của sự vận động. Ông cũng là nhà triết học đầu tiên khái quát lên những

qui luật cơ bản của phép biện chứng, mà trước hết là qui luật lượng - chất, qui luật phủ

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

24

định của phủ định. Sai lầm có tính nguyên tắc của Hêghen là ở chỗ, theo ông biện chứng

của ý niệm (ý thức) sản sinh ra biện chứng của sự vật (vật chất).

Tuy vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê-nin đánh giá rất cao phép biện

chứng của Hêghen. C.Mác viết về phép biện chứng của Hêghen trong tư bản, quyển I, tập

1. Lời tựa cho bản tiếng Đức, in lần thứ hai: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng mắc

phải khi nằm trong tay Hêghen không ngăn cản ông trở thành người đầu tiên trình bày

một cách bao quát và có ý thức những hình thức vận động chung của phép biện chứng. Ở

Hêghen, phép biện chứng đi ngược đầu xuống đất; chỉ cần đảo xuôi lại lên hai chân thì sẽ

phát hiện ra các hạt nhân hợp lý ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó".

C.Mác và Ph. Ăngghen trên cơ sở kế thừa có phê phán và phát triển chủ nghĩa

duy vật và phép biện chứng trong lịch sử triết học đồng thời dựa vào các thành tựu của

khoa học đã sáng tạo ra phép biện chứng duy vật. V.I Lênin là người bảo vệ và phát triển

đem lại cho phép biện chứng một hình thức mới về chất. Vì vậy, phép biện chứng duy vật

không những chỉ là thế giới quan mà còn là phương pháp luận khoa học để nhận thức và

cải tạo thế giới.

2. Phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng

Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã định nghĩa: "Phép biện chứng là

môn khoa học về những qui luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên,

của xã hội loài người và của tư duy"1.

Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật

- Đặc điểm của phép biện chứng là tính mềm dẽo, linh hoạt. thừa nhận cái khẳng

định và cái phủ định vừa loại trừ nhau, vừa gắn bó nhau. Phương pháp biện chứng phản

ánh phù hợp hiện thực khách quan. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành

công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.

- Các nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng tạo nên nội dung của nó là mối liên

hệ chung, sự hình thành và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy được nhận thức nhờ

sự trợ giúp của toàn bộ hệ thống phạm trù và qui luật có trong lịch sử tư tưởng của nhân

loại

II. Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng

1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

1 C. Mác - PH. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hànội 1995, t. 3, tr. 235.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

25

a) Khái niệm về mối liên hệ phổ biến

Quan điểm biện chứng duy vật về sự tồn tại của sự vật, hiện tượng là khoa học về

mối liên hệ phổ biến, khảng định rằng, thế giới thống nhất ở tính vật chất được tạo thành

từ những sự vật, hiện tượng cụ thể khác nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng,

thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành

nên thế giới đó tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, qui định lẫn nhau, thâm nhập,

chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau.

"Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến"1.

Khái niệm mối liên hệ phổ biến nói lên rằng, mọi mối liên hệ hay tác động qua lại

giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các mặt đối lập trong một thể thống nhất chính là sự vận

động, đồng thời là nguyên nhân tạo ra sự vận động, chuyển hoá của thế giới vật chất.

b) Những tính chất của mối liên hệ phổ biến

- Tính khách quan.

Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác động

của bản thân thế giới vật chất: Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật

chất với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với cái tinh thần. Có cái liên hệ

giữa những hiện tượng tinh thần với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức

của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động đó, suy cho đến cùng, đều là sự phản

ánh mối liên hệ và sự qui định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách

quan.

- Tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến.

Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau không những

diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra

đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. Trong tự nhiên có

mối liên hệ giữa thực vật và động vật, giữa cơ thể sống và môi trường. Trong xã hội có

mối liên hệ giữa các cá nhân, giữa các tập đoàn người, giữa các quốc gia. Trong lĩnh vực

nhận thức có mối liên hệ giữa các hình thức và các giai đoạn của quá trình nhận thức với

nhau.

- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ phổ biến:

Giữa các giai đoạn, các quá trình khác nhau trong sự phát triển của bản thân một

sự vật, hiện tượng cũng có mối liên hệ với nhau. Có mối liên hệ về mặt không gian và

cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung

tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng

1 Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.5.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

26

chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực

tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp, trong đó

các sự vật, hiện tượng tác động lẫn nhau thông qua nhiều khâu trung gian. Có mối liên hệ

tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất đóng vai trò quyết

định sự tồn tại, phát triển của sự vật và cũng có mối liên hệ không bản chất chỉ đóng vai

trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu.

2. Nguyên lý về sự phát triển

Quan điểm biện chứng đối lập với siêu hình về sự phát triển ở chỗ: Nó coi sự phát

triển như là một quá trình tiến lên thông qua những bước nhảy vọt, cái cũ mất đi, cái mới

ra đời, vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận động và phát triển, đó là sự đấu tranh giữa

các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Vì thế, V.I. Lênin cho rằng, học thuyết về

sự phát triển của phép biện chứng duy vật là "hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến

diện".

- Khái niệm về sự phát triển

Sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ

thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật,

hiện tượng.

- Phân biệt vận động và phát triển.

+ Sự phát triển không bao quát toàn bộ sự vật, hiện tượng nói chung, mà chỉ

khái quát xu hướng chung: xu hướng vận động đi lên của sự vật, hiện tượng mới thay thế

sự vật, hiện tượng cũ.

+ Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động.

+ Sự phát triển thể hiện khác nhau, tuỳ thuộc vào các hình thức tồn tại của các

tổ chức vật chất cụ thể.

- Tính chất của sự phát triển.

+ Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong chính bản thân sự

vật, hiện tượng.

+ Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư

duy.

+ Tính kế thừa.

Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ cái cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô, vì vậy

trong sự vật, hiện tượng mới giữ lại, có chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

27

sự vật, hiện tượng cũ để chuyển sang cái mới, gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu

của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở cho sự phát triển.

Sự tự thân phát triển là sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định

tuyệt đối, phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với cái cũ, mà là sự phủ

định có tính kế thừa.

+ Tính đa dạng, phong phú.

Tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng

mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau.

Tính đa dạng và phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và

thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.

c) Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nghuyên lý về mối liên hệ phổ biến và về sự

phát triển

Quan điểm toàn diện.

- Mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với

nhau chứ không tách rời, cô lập nhau. Do vậy, khi xem xét sự vật, hiện tượng cụ thể

chúng ta phải có quan điểm toàn diện.

- Quan điểm toàn diện là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của phương

pháp biện chứng Mác-Lênin. Quan điểm toàn diện yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu tất

cả các mối liên hệ, mọi sự tác động qua lại của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu với

các sự vật, hiện tượng khác. Phải nghiên cứu các mối liên hệ của các mặt, các yếu tố cấu

thành sự vật, hiện tượng đó.

Quan điểm phát triển.

- Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta nhận thức được rằng, muốn

thực sự nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển

của chúng thì phải có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ.

- Quan điểm phát triển yêu cầu chúng ta, khi phân tích một sự vật, hiện tượng phải

đặt nó trong sự vận động, phải phát hiện được các xu hướng biến đổi, chuyển hoá của

chúng. V.I.Lênin cho rằng, "Lôgíc biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển,

trong sự "tự vận động"..."trong sự biến đổi của nó"1.

Quan điểm lịch sử-cụ thể.

Quan điểm lịch sử-cụ thể yêu cầu phải đặt sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu vào

trong không gian và thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của

sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.

1 V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Matxcơva 1977, t.42, tr.364.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

28

III. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

Khái niệm về phạm trù và phạm trù triết học

Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,

những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất

định.

Phạm trù triết học và các phạm trù của các khoa học cụ thể.

- Mỗi bộ môn khoa học đều có hệ thống phạm trù riêng. Các phạm trù rộng nhất

phản ánh các mối liên hệ phổ biến ở cả ba lĩnh vực tự nhiên và tư duy gọi là phạm trù

triết học.

- Giữa các phạm trù của triết học và của các khoa học cụ thể có mối liên hệ với

nhau. Đó là quan hệ giữa cái chung với cái riêng.

1. Cái chung và cái riêng

a) Phạm trù cái chung và cái riêng

Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một

quá trình riêng lẻ nhất định.

Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính

chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà nó còn được lặp lại trong

nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.

Cần phân biệt "cái riêng" với "cái đơn nhất". Cái đơn nhất là phạm trù triết học

dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính v.v. chỉ có ở một sự vật, một kết cấu

vật chất nhất định mà không lặp lại ở sự vật hay kết cấu vật chất khác.

b) Khái quát tính chất và quan hệ giữa "cái riêng","cái chung; cái đơn nhất.

Trong lịch sử triết học đã từng có các quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa

cái riêng, cái chung:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả cái chung, cái riêng đều tồn tại khách

quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau, thể hiện ở chỗ:

Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại

của mình.

Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Nghĩa là không có cái

riêng tồn tại độc lập không liên hệ với cái chung.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

29

Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ phận,

nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm

chung nó còn bao hàm cái riêng.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn

tại của mình, nên chỉ có thể tìm ra cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ

những sự vật và hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con

người bên ngoài cái riêng.

- Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất, chi phối cái riêng, nên trong nhận thức

phải tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái

riêng.

- Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, "cái đơn

nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và

cần phải tạo điều kiện thuận lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái

chung", và "cái chung" bất lợi cho con người trở thành "cái đơn nhất".

2. Bản chất và hiện tượng

a) Phạm trù bản chất và hiện tượng

Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp của tất cả những mặt, những

mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát

triển của sự vật.

Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ những biểu hiện bên ngoài bản chất.

Lưu ý: Bản chất chính là mặt bên trong, măt tương đối ổn định của hiện thực

khách quan. Nó ẩn đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ qua những hiện

tượng ấy. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi của hiện thực khách

quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất; Phạm trù bản chất gắn bó chặt chẽ với

phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với phạm trù cái chung. Cái chung là cái bản

chất, song cũng có cái chung không phải là bản chất; Phạm trù bản chất cũng đồng thời là

cái có tính quy luật. Tuy nhiên, chúng không đồng nhất với nhau. Phạm trù bản chất rộng

hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật.

b) Khái quát tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại

khách quan là cái vốn có sự vật không do ai sáng tạo ra. Giữa bản chất và hiện tượng có

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

30

mối quan hệ biện chứng, vừa thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập

nhau.

- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ: 1) Bản chất luôn luôn

bộc lộ ra thông qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là hiện tượng của bản chất. 2)

Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra thông

qua những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì hiện tượng ấy, bản chất khác nhau thì

sẽ bộc lộ những hiện tượng khác nhau Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó

cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng biến mất theo.

- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất của bản chất và hiện tượng . Không phải

bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm sự mâu thuẫn nhau.

+ Mâu thuẫn thuẫn này thể hiện ở chỗ, bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu,

quyết định sự tồn tại phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.

Cùng một bản chất biểu hiện ra nhiều hiện tượng khác nhau tuỳ theo sự thay đổi của điều

kiện hoàn cảnh. Vì vậy, hiện tượng thường phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc

hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên

biến đổi.

+ Mâu thuẫn này còn thể hiện ở chỗ, bản chất là mặt bên trong là cái sâu xa của

hiện thực khách quan, còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản

chất không bộc lộ ra hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở nhiều hiện tượng khác

nhau. Hiện tượng không biểu hiện ra hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện ra một khía

cạnh của bản chất, biểu hiện dưới một hình thức của bản chất đã biến đổi, nhiều khi

xuyên tạc bản chất.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Bản chất không tồn tại thuần tuý mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện ra thông

qua hiện tượng. Vì vậy, muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ sự

vật, hiện tượng, từ quá trình thực tế. Hơn nữa, bản chất của sự vật thường không được

biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào đó và cũng biến đổi trong quá trình

phát triển của sự vật. Do vậy, cần phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện

tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới có thể hiểu rõ được bản chất của sự vật.

Có thể nói, nhận thức bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp, đi từ hiện tượng đến

bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.

- Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong, quy định sự vận

động và phát triển của sự vật và hiện tượng, vì vậy nhận thức sự vật không nên chỉ dừng

lại ở hiện tượng mà cần phải đi sâu vào bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

31

tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật,

không dựa vào hiện tượng.

3.Tất nhiên và ngẫu nhiên

a) Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

Tất nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên

trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng

như thế chứ không thể khác.

Ngẫu nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái không do bản thân kết cấu của sự

vật, mà do nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của hoàn cảnh bên ngoài quyết định;

do đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, có thể

xuất hiện như thế khác.

b) Khái quát tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên

- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người

và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật.

- Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng đều không tồn tại biệt lập

dưới dạng thuần tuý.

- Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống

nhất hữu cơ ấy thể hiện ở chỗ, tất nhiên bao giờ cũng cũng thể hiện sự tồn tại của mình

thông qua vô số ngẫu nhiên. Còn ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện của tất nhiên.

- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể thay thế lẫn nhau, theo nghĩa thay đổi theo thời

gian, hoặc trong các điều kiện khác nhau có thể thay thế vị trí cho nhau.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì tất nhiên gắn liền với bản chất của sự vật, là cái nhất định xảy ra theo quy luật

nội tại của sự vật, còn ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có

thể xảy ra, có thể không xảy ra. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải dự

vào tất nhiên. Vì ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó lại có

ảnh hưởng tới sự phát triển của sự vật, đôi khi có sự ảnh hưởng khá sâu sắc. Vì vậy, trong

hoạt động thực tiễn, ngoài các phương án chính, người ta còn cần chủ động đặt ra các

phương án dự phòng để chủ động đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.

- Vì tất nhiên không tồn tại thuần tuý mà bộc lộ ra thông qua vô vàn cái ngẫu

nhiên, do vậy muốn nhận thức tất nhiên phải thông qua việc thực hiện nghiên cứu, phân

tích, so sánh với rất nhiều ngẫu nhiên. Vì không phải cái chung nào cũng là cái tất yếu,

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

32

nên khi nghiên cứu ngẫu nhiên không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung, mà cần phải

tiến sâu hơn nữa trong việc tìm ra cái chung tất yếu.

- Ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển thành tất nhiên, do vậy trong

nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không được xem nhẹ bỏ qua

ngẫu nhiên, mặc dù trong những trường hợp cụ thể nó không quyết định sự phát triển của

sự vật.

4. Nguyên nhân và kết quả

a) Phạm trù nguyên nhân và kết quả

Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một

sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.

Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn

nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.

Lưu ý: Không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật hoàn toàn khác

nhau. Cũng cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ, nguyên nhân với điều kiện.

Nguyên cớ là dấu hiệu trực tiếp làm cho nguyên nhân chuyển thành kết quả. Điều kiện là

yếu tố, môi trường cần có để nguyên nhân có thể chuyển hoá thành kết quả.

b) Khái quát tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả

- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả, còn

kết quả bao giờ cũng chỉ xuất hiện khi nguyên nhân đã xuất hiện.

Lưu ý: Không phải hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là thể hiện

mối quan hệ nhân quả; Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc

vào nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau.

- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân: Kết quả do nguyên nhân

sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện kết quả lại có ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự

ảnh hưởng đó diễn ra theo hai chiều hướng: thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân (tích

cực), hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân (theo hướng tiêu cực).

- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Điều này có nghĩa là một

sự vật hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan

hệ khác lại là kết quả và ngược lại.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự

tồn tại của sự vật và hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

33

Cần phải tìm hiểu nguyên nhân từ trong bản thân thế giới hiện thực chứ không phải từ

trong thế giới tinh thần chủ quan.

- Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm hiểu nguyên nhân của một

hiện tượng nào đó cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện

tượng đó xuất hiện.

-Vì kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra, những nguyên nhân này lại có

vai trò khác nhau trong việc hình thành kết quả, nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta

cần phải biết phân loại các nguyên nhân. Phải biết phân biệt đâu là nguyên nhân cơ bản,

nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan v.v. Đồng thời,

phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có các biện pháp thích

hợp tạo điều kiện cho các nguyên nhân tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự

hoạt động của các nguyên nhân có tính chất tiêu cực.

- Kết quả tác động trở lại đối với nguyên nhân, vì vậy trong hoạt động thực tiễn

chúng ta cần phải biết tận dụng khai thác các kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên

nhân phát huy tác dụng để đạt được các mục đích đề ra.

5. Nội dung và hình thức

a) Phạm trù nội dung và hình thức

Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ tất cả những mặt, những yếu tố, những

quá trình tạo nên sự vật.

Hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ những phương thức tồn tại và phát

triển của sự vật, là hệ thống trong các mối liên hệ tơng đối bền vững giữa các yếu tố của

các sự vật đó.

Lưu ý: Trong cặp phạm trù nội dung và hình thức, phép biện chứng duy vật chủ

yếu muốn nói đến hình thức bên trong gắn liền với nội dung, là cơ cấu của nội dung chứ

không phải là hình thức bên ngoài của sự vật.

b) Khái quát tính chất và mối quan hệ của nội dung và hình thức

Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức

- Nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất.

Không có hình thức nào tồn tại thuần tuý không chứa đựng nội dung, ngược lại cũng

không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung nào hình

thức đó.

- Nội dung và hình thức tồn tại không tách rời nhau, nhưng không phải vì thế mà

lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

34

- Không phải một nội dung bao giờ cũng được thể hiện ra trong một hình thức nhất

định và không phải một hình thức bao giờ cũng chứa một nội dung nhất định, mà một nội

dung trong quá trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện, một hình thức có thể

được thể hiện nhiều nội dung khác nhau.

- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức

Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật: khuynh hướng chủ đạo chung

của nội dung là luôn biến đổi, còn khuynh hướng chủ đạo chung của hình thức là tương

đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung. Trong quá trình phát triển của sự vật

thì nội dung biến đổi trước đến một độ nhất định sẽ làm cho hình thức biến đổi theo cho

phù hợp.

- Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát

triển của sự vật, do vậy trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối giữa nội dung và

hình thức. Đặc biệt, cần chống chủ nghĩa hình thức.

- Cùng một nội dung trong quá trình phát triển có thể có nhiều hình thức, ngược lại

một hình thức có thể có nhiều nội dung khác nhau. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cải

tạo xã hội cần phải chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng các yêu cầu

thực tiễn của hoạt động cách mạng trong những điều kiện khác nhau.

- Nội dung quyết định hình thức, do vậy để nhận thức và cải tạo sự vật trước hết

cần phải căn cứ vào nội dung. Tuy nhiên, do hình thức có tính độc lập tương đối và tác

động trở lại đối với nội dung, do vậy trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên đối

chiếu giữa nội dung và hình thức, làm cho hình thức luôn phù hợp với nội dung để thúc

đẩy nội dung phát triển.

6. Khả năng và hiện thực

a) Phạm trù khả năng và hiện thực

Khả năng và hiện thực là hai phạm trù triết học dùng để phản ánh mối quan hệ

biện chứng giữa những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự (hiện thực) với những gì hiện

chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng (khả năng).

Dấu hiệu để phân biệt khả năng và hiện thực là ở chỗ, khả năng là cái hiện chưa

có, chưa tới, còn hiện thực là cái hiện đã có, đã tới. Nếu không phân biệt được dấu hiệu

này có thể dẫn tới việc đồng nhất giữa khả năng với hiện thực, hoặc đồng nhất giữa khả

năng với tiền đề, khả năng với các điều kiện của một cái gì đó.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

35

Không nên đồng nhất khả năng với cái ngẫu nhiên, hoặc đồng nhất khả năng với

sác xuất.

b) Khái quát tinh chất và mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực

- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách

rời nhau, thường xuyên chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.

- Cùng trong điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng

chứ không phải chỉ có một khả năng.

- Ngoài một số khả năng vốn có sẵn trong sự vật trong những điều kiện nào đó, khi

có thêm những điều kiện mới bổ sung thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm khả năng mới, từ đó

làm cho khả năng tương tác của sự vật trở nên phức tạp hơn.

- Ngoài ra, ngay bản thân mỗi khả năng cũng không phải là không thay đổi. Nó

tăng lên hay giảm đi tuỳ thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.

- Để cho khả năng biến thành hiện thực thường cần không chỉ có một điều kiện,

mà tập hợp nhiều điều kiện. Tập hợp đó được gọi là điều kiện cần và đủ, nếu có nó thì

khả năng nhất định sẽ biến thành hiện thực, sự biến nhất định sẽ xuất hiện.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì hiện thực là cái tồn tại thật sự, còn khả năng là cái chưa có, nên trong hoạt

động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không dựa vào khả năng để định ra chủ trương,

phương hướng hành động của mình. Trong hoạt động thực tiễn nếu chỉ dựa vào những

khả năng sẽ rơi vào ảo tưởng.

- Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng là biểu hiện của khuynh

hướng phát triển của sự vật trong tương lai, do đó tuy không dựa vào khả năng song

chúng ta cũng phải tính đến các khả năng làm cơ sở để việc đề ra các chủ trương, kế

hoạch hành động sát hợp hơn.

- Việc chuyển khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực hiện một

cách tự động, nhưng trong xã hội điều đó còn phụ thuộc vào các họat động có ý thức của

con người, vì vậy trong xã hội chúng ta cần chú ý đến việc phát huy nguồn lực con

người, tạo ra nhưng điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động, sáng tạo của

con người để biến khả năng thành hiện thực nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

IV. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi

về chất và ngược lại

a) Khái niệm chất, lượng

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

36

Khái niệm "chất"

Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính khách quan vốn có của sự vật và

hiện tượng, là sự thống nhất giữa các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái

khác.

Chất của sự vật được hình thành bắt đầu bằng các thuộc tính. Thuộc tính của sự

vật là những chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn

có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong quá trình vận động và

phát triển của nó.

Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất nhất định

của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật và hiện tượng có vô vàn chất. Chất và sự vật có mối quan

hệ chặt chẽ không tách rời nhau.

Chất của sự vật được biểu hiện qua các thuộc tính của nó. Nhưng không phải

thuộc tính nào cũng biểu hiện thành chất của sự vật. Sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc

tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính

chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng mất đi

thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.

Những thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật

khác. Do đó, việc phân chia thành thuộc tính cơ bản và không cơ bản chỉ có tính chất

tương đối.

Chất của sự vật, hiện tượng không những được quy định bởi chất của các yếu tố

tạo thành, mà còn bị quy định bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố, các kết cấu của

sự vật. Trong hiện thực, các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của

chúng lại khác.

Ngoài ra, khi xem xét sự vật trong tính xác định về chất của nó, chúng ta thấy có

sự khác biệt về mặt giới hạn giữa nó với sự vật khác. Sự khác biệt đó, trước hết do sự

khác biệt về chất giữa các sự vật tạo ra. Điều đó có nghĩa là chất của sự vật đồng nhất với

tính có giới hạn nó.

Khái niệm " lượng"

Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật được

biểu thị về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự

vật cũng như của các thuộc tính của nó.

Cũng như chất, lượng cũng là cái vốn có của sự vật, quy định nên sự vật ấy là

chính nó. Sự tồn tại của lượng cũng mang tính khách quan.

- Lượng của sự vật biểu thị đa dạng, phong phú:

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

37

+ Dưới dạng là các thông số cụ thể: kích thước dài hay ngắn, nhiều hay ít, quy

mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm.

+ Dưới dạng trừu tượng và khái quát: trình độ nhận thức tri thức khoa học của

một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân, trong những trường hợp

đó, chúng ta chỉ nhận thức được chúng bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.

- Sự phân biệt giữa chất và lượng mang tính tương đối.

b) Mối quan hệ giữa sự biến đổi về lượng và sự thay đổi về chất

- Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại

- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa hai mặt chất và lượng.

Chúng tác động qua lại lẫn nhau quy định cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng.

- Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát

triển của sự vật. Trong đó, sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi

về chất của sự vật và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về

lượng của nó.

- Ở một giới hạn nhất định, khi lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật

chưa thay đổi cơ bản. Giới hạn mà ở đó sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về

chất được gọi là "độ".

+ Độ là phạm trù triết học để chỉ khoảng giới hạn trong đó có sự thay đổi về

lượng của sự vật mà chưa làm thay đổi về chất của sự vật ấy.

+ Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất

giữa lượng và chất của sự vật. Trong giới hạn của độ, sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến

thành cái khác.

- Tại thời điểm mà ở đó diễn ra sự thay đổi về chất do lượng của sự vật tích luỹ đã

đủ gọi là "điểm nút".

+ Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà ở đó sự thay đổi về

lượng đã đủ làm cho thay đôỉ về chất của sự vật.

+ Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới.

Sự thống nhất giữa lượng và chất mới sẽ tạo thành độ mới... Có thể hiểu sự phát triển của

các sự vật, hiện tượng dưới dạng một đường nút của những quan hệ về độ.

+ Điểm nút của quá trình phát triển của sự vật không cố định mà có thể có

những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định.

- Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi được gọi là "bước nhảy".

+ Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự

vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

38

+ Bước nhảy kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu

của một giai đoạn phát triển mới.

+ Bước nhảy cũng nói lên sự gián đoạn trong quá trình vận động động và phát

triển liên tục của sự vật.

- Khi chất mới ra đời, nó sẽ tác động ngược trở lại đối với quá trình tích luỹ của sự

vật. Chất mới làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát

triển của sự vật.

Các hình thức của bước nhảy: dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản

thân sự vật mà người ta chia ra bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.

+ Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong thời gian ngắn làm

thay đổi chất toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.

+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách

tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất

đi.

Quá trình thực hiện bước nhảy dần dần của sự vật là một quá trình phức tạp, trong

đó có cả những tuần tự, lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.

Bước nhảy dần dần khác với sự thay đổi dần dần (một đằng là chuyển hoá về

chất, một đằng là là tích luỹ liên tục về lượng để đến giới hạn nhất định sẽ nhất định

chuyển hoá về chất).

- Dựa trên quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật mà người ta chia ra bước nhảy

toàn bộ và bước nhảy cục bộ.

+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất của toàn bộ các mặt, các

yếu tố cấu thành sự vật.

+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, các yếu tố

riêng lẻ của sự vật.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Tích luỹ về lượng để thay đổi về chất, chống tư tưởng chủ quan, duy ý chí, đốt

cháy giai đoạn.

- Tích luỹ đủ về lượng thì kiên quyết thực hiện bước nhảy, chống tư tưởng bảo

thủ, trì trệ.

- Vận dụng linh hoạt quy luật theo những quan hệ và điều kiện thực tiễn cụ thể.

2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

a) Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

39

Mâu thuẫn và mâu thuẫn biện chứng

Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất,

đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng hoặc giã các sự vật

hiện tượng với nhau. Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là những mặt đối lập. Mặt đối lập là

những mặt có đặc điểm, thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái

ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên xã hội và tư duy.

Sự thống nhất các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời

nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền

đề.

- Sự thống nhất của hai mặt đối lập còn được hiểu là tính không thể tách rời của

hai mặt đó.

Sự đồng nhất các mặt đối lập các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau mà giữa

chúng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự "đồng nhất"

của các mặt đối lập.

- Sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong đó sự triển khai của mâu thuẫn đến

một lúc nào đó các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau - khi xét về một đặc trưng nào

đó.

- Sự thống nhất các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng.

Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra

sự cân bằng của các mặt đối lập.

Khái niệm về sự đấu tranh của các mặt đối lập: Đấu tranh giữa các mặt đối lập là

sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập.

Không nên hiểu đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đó.

Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra trong thực tế hết sức phong phú và đa dạng.

Tính khách quan phổ biến và đa dạng của mâu thuẫn

Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài

- Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối

lập của cùng một sự vật.

- Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra ở bên ngoài sự vật đối với sự vật khác.

Giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau.

Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản

- Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát

triển của tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật.

Khi mâu thuẫn được giải quyết thì sự vật được thay đổi về chất.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

40

- Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó

của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải

quyết sẽ không làm thay đổi bản chất của sự vật.

Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu

- Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất

định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu

thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện để sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển

mới.

- Mâu thuẫn thứ yếu là là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nào đó

của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối.

Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng

- Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn có lợi

ích cơ bản đối lập nhau.

- Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các lực lượng xã hội có lợi ích cơ

bản thống nhất với nhau.

b) Quá trình vận động của mâu thuẫn

- Với tư cách là hai trạng thái đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối

lập có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sự thống nhất giữa các mặt đối lập

là tương đối, còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối.

- Diễn biến mâu thuẫn lúc đầu: với tư cách là một tổng thể thống nhất (đồng nhất

của các mặt đối lập) chỉ mới là sự khác nhau căn bản (là sự tồn tại của các mặt, các

khuynh hướng trái ngược nhau).

- Sự khác nhau đó ngày càng phát triển làm cho các mặt đối lập chuyển thành

mâu thuẫn và xung đột lẫn nhau (xung đột mâu thuẫn).

- Khái quát quá trình diễn biến của mâu thuẫn:

Thống nhất (đồng nhất)  khác nhau  khác nhau căn bản  mâu thuẫn  xung

đột mâu thuẫn  chuyển hoá mâu thuẫn

- Vai trò của mâu thuẫn đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật

+ Khi hai mặt đối lập xung đột ngày càng gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ

chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

41

+ Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật

cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế nó. V.I Lênin cho rằng: "Phát triển là cuộc đấu tranh

của các mặt đối lập"1. Mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Đứng trước bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng phải thấy sự tác động của hai mặt

đối lập.

- Phải nắm được phát sinh, tồn tại của mâu thuẫn, phải phân tích cụ thể mâu thuẫn.

- Không được điều hoà mâu thuẫn.

- Phải biết sử dụng và giải quyết mâu thuẫn trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

- Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng với không đối kháng có ý nghĩa quan trọng

trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Cần tránh các khuynh hướng "tả"

hoặc "hữu" khuynh trong việc giải quyết các mâu thuẫn, nhất là các mâu thuẫn trong lĩnh

vực xã hội.

3. Quy luật phủ định của phủ định

a) Khái niệm về phủ định và những đặc trưng cơ bản của nó

Khái niệm phủ định

Trong quá trình vận động và phát triển, một sự vật cũ mất đi tất yếu sẽ có một sự

vật mới ra đời thay thế nó. Sự thay thế lẫn nhau đó triết học gọi là sự phủ định.Trong lịch

sử triết học, có nhiều quan niệm khác nhau về phủ định: Quan niệm của Pitago (cho rằng

chu kỳ vận động lặp lại của thế giới là 76 vạn năm); Quan niệm về "luân hồi" của Phật

giáo; Quan niệm của Hêghen về chu kỳ vận động là sự lặp lại của ý niệm tuyệt đối (Sự

"tha hoá" của ý niệm tuyệt đối); Quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt vong

hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Họ đi tìm nguyên nhân của sự phủ định

và phát triển ở ngoài sự vậtvà hiện tượng.

Phủ định biện chứng và đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng

Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự

phát triển tự thân, là "mắt khâu" trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn

so với sự vật cũ.

- Đặc trưng của phủ định biện chứng:

+ Phủ định biện chứng có tính khách quan

+ Phủ định biện chứng có tính kế thừa

b) Phủ định của phủ định

1 V.I Lênin: Toàn tập. Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1981, t. 29, tr.122.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

42

- Vai trò cuả phủ định biện chứng với quá trình vận động, phát triển

Khi sự vật ra đời và tồn tại, đã khẳng định chính nó (sự tồn tại đó là hợp lý). Trong

qúa trình vận động của sự vật ấy, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố

cũ, sự phủ định diễn ra. Sự vật này lại bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác

dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó được bổ

sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực thích hợp với sự phát triển

tiếp tục của nó. Sau khi thực hiện hai lần phủ định, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ

phát triển. Quá trình phát triển của sự vật thông qua hai lần phủ định được gọi là phủ định

của phủ định.

Theo Ph. Ăngghen: "Hãy lấy ví dụ về hạt đại mạch. Có hàng nghìn triệu đại mạch

giống nhau được xay ra, nấu chín và đem làm rượu, rồi tiêu dùng. Nhưng nếu một hạt đại

mạch như thế gặp những điều kiện bình thường đối với nó, nếu nó rơi vào một vào một

miếng đất thích hợp, thì nhờ ảnh hưởng của sức nóng và độ ẩm, đối với nó sẽ diễn ra một

sự biến hoá riêng, nó nảy mầm: hạt đại mạch bíên đi không còn là hạt đại mạch nữa, nó

bị phủ định, bị thay thế bởi cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự phủ định hạt đại mạch. Nhưng

cuộc sống bình thường của cây này sẽ như thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối

cùng sinh ra những hạt thóc mới, và khi hạt đại mạch đó chín thì thân cây chết đi, bản

thân nó bị phủ định. Kết quả của sự phủ định này là chúng ta lại có hạt đại mạch như ban

đầu nhưng không chỉ là một hạt thóc mà nhiều gấp mười, hai mươi, ba mươi"1.

Sơ đồ quá trình phủ định biện chứng: Khẳng định (hạt thóc ban đầu)  Phủ định

lần 1 (cây lúa)  Phủ định lần 2 (những hạt thóc mới).

Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự

thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do

vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát

triển.

- Hình thức phủ định của phủ định của các quá trình vận động và phát triển

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn. Mỗi lần phủ

định là kết quả của sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong bản thân sự vật -

giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một

chu kỳ phát triển. Phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối

lập với mình. Phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật mới

1 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, t.20 tr. 195.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

43

này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định lần thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân

tố mới.

Phủ định biện chứng đã thể hiện một số đặc điểm sau:

+ Quá trình phủ định là sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ nhưng trên cơ

sở cao hơn. Phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả các nhân

tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ

định tiếp theo. Do vậy, với tư cách là là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung

toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần

thứ nhất.

+ Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật -

xu hướng phát triển. Sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thằng mà theo

đường "xoáy ốc" (thể hiện tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại, tính chất

tiến lên của sự phát triển).

Quy luật phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định

và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, nó bảo tồn

nội dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc tính mới làm cho

sự phát triển đi theo đường "xoáy ốc".

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Trong sự phát triển của sự vật, cái mới sẽ ra đời thay thế cái cũ, chống thái độ

phủ định sạch trơn.

- Khắc phục tư tưởng bảo thủ.

- Phải biết kế thừa có chọn lọc, có phê phán, biết giữ lại những tinh hoa, những

mặt tích cực, mặt tốt của cái cũ, bổ sung hoàn chỉnh những mặt mới phù hợp với hiện

thực khách quan.

V. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng

1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức

a) Khái niệm và các hình thức cơ bản của thực tiễn

Khái niệm thực tiễn.

Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội

của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Các hình thức cơ bản của thực tiễn.

- Hoạt động sản xuất vật chất.

- Hoạt động chính trị - xã hội.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

44

- Hoạt động thực nghiệm khoa học.

b) Nhận thức và các trình độ của nhận thức

Khái niệm nhận thức : Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và

sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn nhằm tạo ra tri thức

về thế giới khách quan (Quan điểm này xuất phát từ 4 nguyên tắc cơ bản).

Các trình độ của nhận thức:

Nhận thức kinh nghiệm là quá trình hình thành tri thức kinh nghiệm thông qua

quan sát sự lặp đi, lặp lại của các sự, vật hiện tượng để giúp con người vận dụng vào hoạt

động khi các yếu tố và điều kiện chưa thay đổi.

- Các trình độ của tri thức kinh nghiệm:

+ Tri thức kinh nghiệm thông thường

+ Tri thức kinh nghiệm khoa học

- Vai trò của tri thức kinh nghiệm:

+ Cơ sở để hình thành tri thức lý luận.

+ Giúp con người giải quyết nhanh chóng, hiệu quả những vấn đề đơn giản

trong hoạt động.

Nhận thức lý luận: là quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá về bản chất và quy

luật của sự vật và hiện tượng.

Tính chất của nhận thức lý luận:Tính gián tiếp; tính trừu tượng, tính khái quát và

hệ thống tri thức.

Nhận thức thông thường là quá trình phản ánh tự phát những đặc điểm, những sự

biến đổi của các sự vật, hiện tượng xung quanh của các cá nhân.

- Tính chất của nhận thức thông thường:Tính phong phú, đa dạng.tính cá nhân

- Vai trò của nhận thức thông thường:

+ Chi phối hoạt động thường xuyên của mọi người trong xã hội.

+ Cơ sở và nhu cầu để hình thành tri thức khoa học.

Nhận thức khoa học là quá trình phản ánh sự vật, hiện tượng dưới dạng trừu

tượng lôgíc để hình thành khái niệm, hình thành qui luật khoa học.

- Tính chất của tri thức khoa học: Tính khách quan, trừu tượng; tính hệ thống, có

căn cứ và chân thực; ngôn ngữ sử dụng chặt chẽ, sâu sắc.

- Vai trò của tri thức khoa học:

+ Phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng.

+ Tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cho khoa học, công nghệ.

c) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

45

Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức

- Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nắm bắt được cấu trúc, tính chất và

các mối quan hệ của các trạng thái vật chất để hình thành tri thức về đối tượng.

- Hoạt động thực tiễn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được

khái quát. V.I Lênin cho rằng: " Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm

thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức"1.

- Thực tiễn đề ra nhu cầu để quá trình nhận thức thực hiện.

Thực tiễn là động lực của nhận thức

- Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các cơ quan cảm giác của con người tạo

khả năng phản ánh nhạy bén hơn, chính xác hơn, nhanh hơn; hoạt động thực tiễn còn tạo

ra những phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên.

- Những tri thức mà con người áp dụng vào quá trình hoạt động đã đưa lại hiệu

quả cao hơn trước là nguồn động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo. Nhờ vậy

mà con người càng ngày càng đi sâu nhận thức bản chất thế giới để tạo nên tri thức chân

lí về thế giới.

- Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết của con người mà còn đáp ứng

nhu cầu nâng cao năng lực hoạt động của con người trước hiện thực khách quan để đưa

lại lợi ích cao hơn, thoả mãn nhu cầu của cá nhân và xã hội.

- Tự thân ý thức không thể tạo nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con

người. Quá trình đó chỉ thực hiện được trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ

biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của cá nhân và cộng đồng. Đó là mục đích của

nhận thức.

- Nhận thức phải nhằm phục vụ hoạt động thực tiễn.

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí

- Mọi giả thuyết, mọi kết luận của quá trình nhận thức có đạt đến chân lí hay

không phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. C. Mác khẳng định :Vấn đề tìm hiểu

xem tư duy của con người có thể đạt đến chân lí khách quan hay không, hoàn toàn không

phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người

phải chứng minh chân lí.

- Thông qua thực tiễn, những tri thức nào đạt đến chân lí thì đưa vào ứng dụng,

những phản ánh nào chưa đạt đến chân lí thì điều chỉnh, bổ sung hoặc loại bỏ.

- Giá trị của các tri thức phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.

1 V.I Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bô, M.1980, t.18, tr167.

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

46

- Thông qua quá trình chứng minh tính chân lí để tiếp tục quá trình nhận thức hiện

thực khách quan.

Ý nghĩa phương pháp luận

- Thấy rõ mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức.

+ Hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức có tính thống nhất; trong hoạt

động nhận thức đã bao hàm cả hoạt động thực tiễn; trong hoạt động thực tiễn đã bao hàm

hoạt động nhận thức. Do đó, sự phân biệt giữa hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận

thức mang tính tương đối.

+ Hoạt động nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở của thực tiễn, vì

thực tiễn để tiến hành quá trình nhận thức hiện thực khách quan. Hoạt động thực tiễn

nhằm thoã mãn nhu cầu của con người, do đó, phải thông qua hoạt động thực tiễn để khái

quát thành tri thức.

- Quán triệt quan điểm thực tiễn. Tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ

nghĩa thực dụng.

+ Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển, biến đổi. Cần bám sát thực tiễn để

điều chỉnh, bổ sung những tri thức phù hợp với thực tiễn.

+ Biết vận dụng những tri thức phù hợp trong hoạt động thực tiễn để đem lại

hiệu quả cao hơn.

+ Hoạt động thực tiễn không có tri thức đã khái quát dễ đi đến thất bại hoặc

kéo dài quá trình đi đến thắng lợi, đẫn đến lãng phí.

- Không thấy được vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, chủ quan

duy ý chí.

+ Mọi tri thức đều được khái quát từ thực tiễn, tuy vậy, thực tiễn luôn biến đổi

nên chỉ dựa vào lý luận thuần tuý, tri thức thuần tuý có thể dẫn đến sai lầm hoặc thiệt hại.

+ Trong quá trình hoạt động, phải luôn kết hợp chặt chẽ giữa thực tiễn và lý

luận, giữa thực tiễn với tri thức, không được tuyệt đối hoá tri thức hay thực tiễn. Điều đó

dễ dẫn đến cực đoan trong quá trình hoạt động.

2. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý

a) Quan điểm của V.I Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý

Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính và mối quan hệ giữa chúng

Nhận thức cảm tính là quá trình phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan thông qua

các giác quan chuyển đến bộ não người làm cơ sở hình thành tri thức.

- Các hình thức nhận thức cảm tính

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

47

+ Cảm gác: là sự phản ánh trực tiếp hình ảnh sự vật, hiện tượng nhưng chưa

đầy đủ, không theo hệ thống.

+ Tri giác: là tổng hợp đầy đủ các cảm giác về sự vật theo hệ thống nhất định.

+ Biểu tượng: là hình ảnh gián tiếp phản ánh dưới dạng trừu tượng hoá về sự

vật, hiện tượng mà trước đó các giác quan đã trực tiếp tiếp xúc.

- Vai trò của nhận thức cảm tính

+ Giai đoạn đầu tiên, giai đoạn tất yếu của quá trình nhận thức.

+ Là cơ sở của nhận thức lí tính

Nhận thức lý tính là quá trình xử lí thông tin từ giai đoạn nhận thức cảm tính bằng

thao tác của tư duy để hoàn thành quá trình nhận thức, hình thành chân lí.

- Các hình thức nhận thức lí tính

+ Khái niệm: Quá trình sử dụng ngôn ngữ để phản ánh những thuộc tính,

những mối quan hệ bản chất của sự vật, hiện tượng.

+ Phán đoán: Là mối quan hệ giữa các khái niệm thông qua một số hệ từ để

khẳng định hay phủ định những thuộc tính, những mối quan hệ bản chất của sự vật, hiện

tượng. Có các loại phán đoán: phán đoán khẳng định, phán đoán phủ định; giả thuyết

cũng có thể trở thành phán đoán.

+ Suy lí: Từ những phán đoán tiền đề dựa theo những qui luật của lôgíc hình

thức để tạo ra những phán đoán mới mang tính chân lí. Có các loại suy lí: suy lí trực tiếp

và suy lí gián tiếp.

Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

- Vai trò của nhận thức cảm tính đối với nhận thức lý tính.

+ Cung cấp những hình ảnh chân thực, bề ngoài của hiện thực khách quan cho

quá trình nhận thức.

+ Cơ sở để hình thành chân lí

+ Cơ sở để kiểm tra chân lí

- Vai trò của nhận thức lý tính đối với nhận thức cảm tính.

+ Tạo cơ sở hữu ích cho nhận thức cảm tính

+ Cung cấp phương pháp để các giác quan phản ánh cơ bản và bản chất sự vật,

hiện tượng.

Vai trò của nhận thức lí tính đối với thực tiễn

- Là giai đoạn tất yếu tiếp theo của quá trình nhận thức.

- Hoàn thành quá trình nhận thức

- Hình thành chân lí

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

48

- Cơ sở để đi sâu nghiên cứu bản chất của hiện thực khách quan.

- Cơ sở để cải tạo hiện thực khách quan.

Trong Bút ký triết học, V.I Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận

thức chân lý: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến

thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện

thực khách quan.

Ý nghĩa phương pháp luận

- Quá trình nhận thức bao gồm hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.

- Phải thấy được vai trò của các giai đoạn nhận thức trong quá trình hình thành chân lí.

- Không được tuyệt đối hoá giai đoạn nhận thức cảm tính như trường phái "Duy cảm",

cũng không được tuyệt đối hoá giai đoạn nhận thức lí tính như trường phái "Duy lí".

- Nhận thức nhất thiết phải đạt đến chân lí và diễn ra thường xuyên để đạt đến chân lí

tuyệt đối.

b) Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn

- Khái niệm chân lý: là tri thức có nội dung phù hợp với khách thể mà nó phản

ánh và được thực tiễn kiểm nghiệm.

- Chân lí là sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới.

- Chân lí được hình thành và phát triển từng bước phụ thuộc vào sự phát triển của

sự vật khách quan, vào những điều kiện lịch sử, cụ thể của nhận thức và của hoạt động

thực tiễn.

- Các tính chất của chân lí

+ Tính khách quan của chân lí : Là tính phản ánh độc lập về nội dung của nó

đối với ý thức của con người và loài người (chân lí khách quan).

+ Tính tuyệt đối và tương đối của chân lí: Tri thức phản ánh đúng đắn, đầy đủ

và hoàn chỉnh về thế giới khách quan là chân lí tuyệt đối. Tri thức phản ánh đúng đắn

hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện là chân lí tương đối.

+ Tính cụ thể của chân lí: Nội dung của chân lí bao giờ cũng gắn liền và phù

hợp với một đối tượng nhất định cùng với các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó.

Không có chân lý trừu tượng. Chân lý luôn là cụ thể.

- Vai trò của chân lý đối thực tiễn

Hoạt động thực tiễn đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức. Thực tiễn

là con đường làm giàu tri thức, là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.Tuy vậy, hoạt động thực

tiễn chỉ có thể thành công và hiệu quả khi con người vận dụng những tri thức đúng đắn

GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009

49

về thực tế trong hoạt động của mình. Chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết

đảm bảo sự thành công và hiệu quả đó.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Quan điểm biện chứng giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi nhận thức phải xuất phát

từ thực tiễn, coi chân lý là một quá trình. Vận dụng chân lý để phát triển thực tiễn, nâng

cao hiệu quả trong cải tạo thế giới khách quan. Trong thời đại mà kinh tế tri thức đang

phát triển cần đặc biệt coi trọng và vận dụng sáng tạo những tri thức khoa học vào thực

tiễn.

Câu hỏi ôn tập

1. Phân tích các nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lí về mối liên hệ

phổ biến và nguyên lí về sự phát triển?

2. Phạm trù là gì? Phân tích vai trò của phạm trù trong quá trình tư duy?

3. Phân tích mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả? Ý nghĩa phương pháp luận

của việc nghiên cứu quan hệ nhân quả?

4. Phân tích nội dung quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành

những thay đổi về chất và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ quy luật

này?

5. Phân tích quá trình vận động của mâu thuẫn? Ý nghĩa phương pháp luận được

rút ra từ quy luật này?

6. Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #chanlee