Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chuong 1

Sáng hôm đó Ăngtoan Xécvê không tự mình tiến hành phẫu thuật. Mấy hôm trước anh bị dao mổ khía vào ngón tay, ngón trỏ sưng tấy lên, nên anh đã thận trọng không dám mó vào da thịt đang bị hoại của người tội phạm bị hành hình mà tử thi đang đặt trên bàn mổ. Trời nóng làm cho thi thể chóng rữa kèm theo hai hậu quả là gây mùi hôi thối khó chịu trong giảng đường giải phẫu và tăng thêm nguy cơ bị thương phẫu thuật cho người tiến hành và những người phụ mổ.

Phía dưới bục giảng cao mà nhà giải phẫu học trẻ tuổi đang đứng, giáo trình ngày hôm ấy để trước mặt các sinh viên đang xúm quanh người tiến hành phẫu thuật là cụ Ghintêriut, những ngón tay sứt sẹo biến dạng vì dao mổ, đang thong thả thao tác. Vốn quen với những động tác nhanh và chính xác của Ăngtoan, các sinh viên có vẻ sốt ruột, động đậy luôn. Ánh sáng chói chang rọi qua khung kính trên mái làm loé sáng ánh thép của con dao mổ trong bàn tay chậm chạp vụng về của người thợ cạo già kiêm phẫu thuật viên.

Một làn gió nhẹ lùa qua khung cửa sổ ở phía sau Ăngtoan và vuốt ve chiếc gáy nóng hổi, nhớp nháp mồ hôi dưới chiếc cổ áo dày cộm của bộ y phục giáo sư. Làn gió lật lung những trang sách giáo khoa đặt trước mặt anh, lần lượt mở ra những bức vẽ tuyệt tác của Canca, những bức tranh khắc gỗ in đối diện với trang chữ La tinh ngắn gọn và cô đọng mà Ăngtoan đã thuộc lòng từ sáu năm nay, khi anh đến trường Đại học Pađu(1) để vừa học giáo luật vừa học ngành y. Thuộc đến nỗi anh có thể đọc lại những câu có âm thanh vang vang ấy mà không cần nhìn sách.

Một tờ giấy bằng da cừu được đặt bên cuốn sách, với bàn tay có vẻ như lơ đãng nhưng khéo léo, Xécvê phóng những nét bút mềm mại phác họa chỗ cụ Ghintêriut đang tiến hành giải phẫu. Trên bức phác họa này, các bắp thịt được đánh bóng nhẹ, những dây chằng tô đậm hơn, dây thần kinh và huyết quản hằn lên thành những đường nổi đậm.

Ăngtoan ngắm nghía bức phác hoạ bằng cặp mắt phê phán, lông mày cau lại và trong khoảnh khắc, anh ngừng giọng đều đều đọc giáo trình. Ngay tức thì, giảng đường giải phẫu trầm lặng hẳn. Thực ra, khó có thể gọi căn phòng nhỏ ngổn ngang đồ đạc này là "giảng đường giải phẫu". Ở đây, ngoài bục giảng, bàn mổ và các chậu đất ở bốn góc phòng để đựng các mảnh thịt và xương, thùng dấm ở một góc để ngâm các bộ phận dị thường, đáng giữ lại nghiên cứu sau này, còn lại rất ít chỗ dành cho học sinh. Họ đứng chen chúc nhau, mồ hôi nhễ nhại và thở có vẻ khó khăn.

Ngạc nhiên vì sự im lặng đột ngột, các sinh viên ngẩng nhìn về phía Ăngtoan, những gương mặt sáng sủa nổi trên các bộ áo màu sẫm.

Hai con người lúc đó đang bận giải phẫu với những danh vị khác nhau trong căn phòng nhỏ bé này đại diện cho lịch sử y học ở nửa phần cuối thế kỷ XVI sáng ngời trí tuệ.

Ăngtoan hai mươi lăm tuổi, người cao lớn, chắc nịch, lại càng có vẻ cao lớn hơn trong chiếc áo chùng dành cho các giáo sư, các nhà giải phẫu học và các nhà bào chế. Đầu anh cân đối, tóc đen và hơi quăn, da nâu hơi ánh vàng, hai má đôi khi thoáng ửng đỏ, tất cả những điều đó chứng tỏ cha anh là người Tây Ban Nha và mẹ anh là người Ý. Nhưng cái làm cho ta đặc biệt chú ý là cặp mắt màu nâu thẫm rực cháy nhiệt tình và sự tận tuỵ của nhà bác học chân chính, nhà khoa học bẩm sinh, của con người luôn nhìn sâu vào tương lai. Đôi môi linh hoạt, hay mỉm cười, làm sinh động gương mặt đầy nhân đạo và cởi mở nồng nhiệt. Những ngón tay cầm bút chì khoẻ và thon, anh có đôi tay nhạy cảm của một người nghệ sĩ, vừa của một nhà phẫu thuật.

Ghintêriut thuộc công hội đã có từ lâu của những người vừa làm thợ cạo vừa làm nghề mổ xẻ. Phần lớn họ là những người vô học, chỉ mù quáng làm theo những quy tắc mà Galiêng(2) và một số vị lão thành khác đã đề ra, họ chưa thể thấy rằng trong đà phát triển mới của khoa học, nghệ thuật, văn học, ngành y nhảy lên hàng đầu với tư cách là giai đoạn mới và quan trọng của kiến thức loài người.

Còn Ăngtoan Xécvê, anh thuộc những người kiên quyết đoạn tuyệt đoạn tuyệt với những tập quán cũ, sự đoạn tuyệt bắt đầu từ Paraxen, Cácđăng (3)với mấy người nữa và thể hiện rõ rệt nhất ở Ăngđơrê Vêdan, mà văn bản của ông ta đang đặt trên giá trước mặt anh. Vê đan đã dám mổ thi thể con người. Các phát minh của ông đe doạ sẽ đốt thành tro bụi những nền móng cũ đang lung lay mà một số nhà bào chế và thợ cạo vẫn còn đang dựa dẫm để thay bằng những tri thức mới đầy sức mạnh, làm cho ngành y vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật.

Làn gió đã ngỗ ngược lật hết các trang sách. Cúi nhìn xuống Xécvê chỉ còn thấy trang tên sách, nhưng trí nhớ của anh không hề phản bội anh, anh vẫn tiếp tục đọc không thiếu một câu. Và như ở trong toà lâu đài cổ có phép lạ của truyện tiên, tất cả đều linh hoạt lên ngay: Hai tay cụ Ghintêriut hoàn thành nốt động tác đang làm dở, các sinh viên lại cúi xuống tiếp tục theo dõi vết rạch của con dao mổ.

Trên những trang đầu của cuốn sách lớn ấy, màu đen nổi bật trên nền trắng ở chỗ có chữ in trên giấy: Ăngđơrê Vêdan, giáo sư đại học, về cấu tạo cơ thể con người.

De Humani Corporis Fabrica, những từ ấy thấm vào óc Ăngtoan một cách dễ dàng. "Cấu tạo cơ thể học con người ", đây là một văn bản chính thức đầu tiên về giải phẫu người kể từ buổi sơ khai của lịch sử. Galiêng, uy quyền duy nhất trong hơn mười thế kỷ về vấn đề này đã mổ xẻ lợn, đôi khi mổ một con khỉ của nước Cathay(4), nhưng hiếm có trường hợp mổ cơ thể người... Cho nên, không có gì là lạ khi con dao mổ chú ý và tìm tòi của Vêdan vạch ra bao nhiêu sai lầm mà Galiêng đã mắc phải. Tuy nhiên, không phải vì thế mà các học thuyết của Galiêng bớt bám chắc tư tưởng của các thầy thuốc và giới tăng lữ. Mười bảy năm sau khi cuốn Fabrica của Vêdan xuất bản, cuộc tranh cãi vẫn tiếp diễn. Vêdan đã tạo ra một thời kỳ mới trong lĩnh vực nghiên cứu về cơ thể con người ở ngay đây, ở Pađu này cũng như một số lớn nhà trường trên thế giới. Nhưng Rôma(5) và các trường trực thuộc vẫn gắn bó với các học thuyết lỗi thời của Galiêng, vì vậy giữa các trường ấy và các trung tâm học đường tự do như ở Pađu, cuộc luận chiến bền bỉ vẫn diễn ra gay gắt. Có khi luận chiến vượt qua lĩnh vực ngôn ngữ chuyển thành hành động. Chẳng hạn như hôm các sinh viên trường Đại học Pađu xung đột dữ dội trong những phố hẹp của thành phố với sinh viên trường Đại học giáo sĩ dòng Tên ở gần đấy.

Ăngtoan biết rõ mọi chi tiết của cuộc tranh cãi nổ ra chung quanh Vêdan sau khi cuốn Fabrica được xuất bản. Người chiến sĩ tiên phong lớn của khoa giải phẫu học ấy đã từng giảng ở bục giảng này, chính chiếc bục mà hiện anh đang đứng giảng - hay nói cho đúng hơn là ông đã đứng ở chỗ cụ Ghintêriut đang đứng, vì rằng Vêdan luôn luôn tự tay mình hoàn thành các phẫu thuật - về vấn đề này Ăngtoan cũng nghĩ như người thầy của mình.

Các cuộc công kích gay gắt, hùng hồn đến nỗi nhà giải phẫu học ấy chán chường vì những phê phán bất công của nhà thờ, trong một hành động nông nổi vì tức giận, đã đốt cháy phần lớn các tác phẩm của mình trước khi trốn khỏi Pađu để trở thành thầy thuốc riêng cho Hoàng đế Sáclơ Canh, rồi mới đây, cho hoàng tử kế vị là Philíp II của Tây Ban Nha.

- Bác sĩ Xécvê!

Ghinteriut ngẩng lên, rời mắt khỏi vết mổ ở cánh tay tử thi.

- Hình như ở chỗ này có cái gì khác thường.

Ăngtoan bước xuống dưới bục giảng, các sinh viên giãn ra nhường chỗ cho anh xuống gần bàn. Mùi thịt đang thối rất khó chịu, nặng nề chỉ thoang thoảng ngửi thấy ở chỗ bục giảng bốc đến buồn nôn ở chỗ bàn này, thứ hơi độc ấy gần như sờ thấy được vì dày đặc quá. Vốn quen với mùi cơ thể thối, Ăngtoan không cảm thấy gì cả

- Cái tĩnh mạch này đây, - Ghinteriut đưa mũi dao mổ chỉ - nó sẽ đi vào tĩnh mạch sâu phải không?

Ăngtoan lấy tay gạt khối bắp đã thâm và gần nát sang một bên nhưng sực nhớ đến ngón tay đang viêm, anh ngừng lại.

- Giáo sư Phalôpiut đã nói đến một dị trạng loại này - anh thừa nhận như miễn cưỡng vì anh cảm thấy như bất kính mỗi khi anh tìm thấy ở một cơ thể nào đó một chi tiết mà Vêdan chưa nói đến - Vấn đề là đáng lẽ chảy vào tĩnh mạch sâu thì nó lại nhập với tĩnh mạch nông.

- Tôi nhớ ra điều đó rồi đấy - Ghinteriut nói và cụ hài lòng cầm lại dao mổ.

Ăngtoan về chỗ mình, cầm lại bút chì vẽ cái tĩnh mạch ở vị trí bất bình thường và hoàn thành bức phác hoạ. Khi kết thúc, anh giơ bức vẽ lên ngang tầm mắt rồi lắc đầu, cắn môi lại, vẻ bực bội. Các cấu tạo giải phẫu rất đúng vị trí, được vẽ một cách điêu luyện nhưng bức phác hoạ chưa thể hiện được đầy đủ sự cân xứng và sức sống như anh muốn truyền đạt cho nó.

Ghintêriut đã mổ xong và lúc ấy trời đã trưa, Ăngtoan cho sinh viên ra về.

Bài giảng ngày hôm nay của anh thế là kết thúc, anh có thể tự do trở về tu viện Đôminích dưới bóng Thành Mác, nơi anh ở và làm nhiệm vụ thủ thư để trả tiền ăn. Đã năm năm nay, anh sống ở đây cuộc sống êm ả của nhà bác học giữa những cuốn sách bụi bặm và các tập bản thảo. Lánh mình trong tu viện, cuộc sống tu hành hay gần như tu hành của anh, giữa những cuốn sách và xa cách mọi người, có những hấp dẫn khiến anh gần như quyết định sẽ chọn cuộc sống này. Anh dự định sẽ thụ giới vào mùa thu, nhưng quyết tâm không để cho nhiệm vụ giáo sĩ đó cản trở tiền đồ giảng dạy của mình, vì rằng nhiều giáo sư thực thụ cũng đồng thời là giáo sĩ.

Ở đây, việc tìm tòi kiến thức được coi trọng hơn tất cả, việc tìm tòi này đã được thành phố đỡ đầu thừa nhận và khuyến khích, thành phố ấy là Vơnidơ, là đất thánh, nữ hoàng của miền Ađơriatích.

Tuy vậy, gần đây, sự yên tĩnh của thư viện, mùi thơm thoảng thoảng và tiếng sột soạt êm ái của những trang giấy thân mến đã mất đi một phần nào sức quyết rũ đối với anh. Đây là một cảm giác khó tả nhưng có thật.

Sự luyện tập và trình độ y học của anh bảo rằng đó là tội của những ám khí đã tích tụ trong anh suốt mùa đông. Theo Hypôcơrát và Arixtốt(6) thì một liều thuốc tẩy sẽ chấn chỉnh lại tình trạng ấy. Nhưng trong thâm tâm anh, Ăngtoan nghi ngờ rằng, lần này các phương thuốc của những vị thầy xưa kia sẽ không có tác dụng gì hết đối với mình.

Ăngtoan ra khỏi trường đại học bằng chiếc cửa thấp, khi đi qua hơi cúi xuống theo thói quen. Bộ áo giáo sư sẫm màu phấp phới quanh mắt cá chân, chiếc mũ nồi dẹp bằng nhung, dấu hiệu để phân biệt các nhà giáo, đặt trên mái tóc đen hơi quăn. Anh rảo bước, cuốn Fabrica quý báu cặp chặt ở cánh tay. Con sư tử thành Vơnidơ khắc trên vòm cửa đá hoa cương như thông báo với thiên hạ rằng học đường này chỉ thần phục nước Cộng Hoà, Đất Thánh, hòn đảo duy nhất có tự do về học đường cũng như về dân sự ở trong một nước Ý mà đâu đâu cũng đều dưới quyền tăng lữ và là một trong những thành phố giàu nhất địa cầu.

Hai chục nhân vật nổi danh đã lần lượt đi qua vòm cửa này trong những thế kỷ mà trường Đại học Pađu không ngừng phát triển. Chắc chắn có Vêdan và có thể cả Leona, người thanh niên xứ Phlorenxơ vì anh đã sống ở Vơnidơ, cách đây không quá hai mươi lăm dặm. Rồi Misen Xécvê, người thầy thuốc tương lai đầy hứa hẹn nhưng đã sớm kết thúc cuộc đời mình trên giàn lửa của Giăng Canvanh. Rồi Giôn Caiơ, người nước Anh cùng ở một toà nhà với Vêdan ở phố Vali, gần cầu qua sông Pôgơlia.

Đang thẫn thờ với những kỷ niệm rất gần gũi, sống động về những người bất tử đã đi trước mình ở nơi này, Ăngtoan nhìn thấy một người nổi danh khác của ngành y cũng đang đi ra: giáo sư Gabơrien Phalôpiô mà các sinh viên quen gọi một cách thân thiết theo chữ Latinh là "Phalôpiut". Với danh nghĩa giáo sư giải phẫu ông là cấp trên của Ăngtoan, nhưng vì tuổi cao sức yếu, ông đã trao một phần lớn công việc giảng dạy cho người trợ giáo của mình và Ăngtoan rất vui mừng về việc ấy.

- Chào anh Ăngtôniô, - Phalôpiút nói và mỉm cười thân mật. - Đi đâu thế?

- Thưa giáo sư, tôi về tu viện ạ. Tôi bị thương ở ngón tay nên cụ Ghintêriut đã mổ thay tôi sáng nay.

- Ghintêriut là người thợ cạo khéo tay đấy, - Phalôpiút thừa nhận và gật gù bộ râu dài.

Ăngtoan thu ngắn bước chân lại đi theo bước người tiền bối của mình. Mặt trời mùa hè nóng bức lên cao. Một mùi rát hắc thốc vào mũi khi họ đi qua những dãy phố hẹp bao quanh các khu nhà của trường đại học, đó là mùi thối các lò luyện kim kết hợp mùi thối của giảng đường giải phẫu. Một nhà khoa học khác chắc chắn sẽ tìm công thức xác định tỉ lệ và điểm hoà tan chất độc trong không khí trong lành, nhưng ý nghĩ của Ăngtoan thì đang mông lung.

Phalôpiút đưa cặp mắt sắc nhìn anh bạn trẻ:

- Ngón tay đau làm anh khó chịu lắm sao?

- Thưa không. Chỉ vài hôm nữa là tôi sẽ lại tự tay mình làm phẫu thuật được - Ăngtoan vội trở về với thực tại.

- Tôi cảm thấy hình như trong thời gian gần đây anh không thực sự là anh nữa.

Ăngtoan mỉm cười hồn nhiên:

- Thưa giáo sư, ngài quá quan tâm đến sức khoẻ của tôi. Không có gì đâu ạ. Tôi chỉ khó chịu thôi ạ!

- Hay là, - Phalôpiút gợi ý - Lá lách bị đau nhẹ chăng?

- Rất có thể ạ. Bệnh này thường phát vào mùa xuân.

Bộ râu của giáo sư gật gù vẻ đắc ý về lời chẩn đoán.

- Đừng quên dùng hạt mẫu đơn mật ong nhé!

Ăngtoan hứa:

- Thưa giáo sư, tôi xin nhớ!

- Trích huyết thường có tác dụng tốt, dù ốm bệnh gì cũng vậy.

- Chiều hôm qua tôi đã trích chút ít.

- Thế ư? Trích cùng một bên chứ, phải không?

- Tất nhiên như thế ạ, đó là điều giáo sư thường căn dặn.

Phalôpiút nói, vẻ hoàn toàn vững vàng:

- Ai nấy đều biết rằng các thầy thuốc đã giết hoàng thân Prêmông cách đây mấy năm vì đã trích tĩnh mạch khuỷu tay đối lập với chỗ viêm.

Ăngtoan cười:

- Điều đó khó lòng xảy ra với tôi trong lúc này. Tôi chỉ có thể dùng tay trái để cầm dao.

- Anh cũng vẫn làm tốt đấy! Trong khi tranh luận về trích máu tĩnh mạch Vêdan cũng đã phát biểu ý kiến như thế.

Sự thiên vị của Ăngtoan đối với những điều giảng dạy của người thầy nổi tiếng này không phải là điều bí mật đối với Phalôpiút. Người thanh niên nén một nụ cười. Câu trả lời của Vêdan vẫn rất rõ trong tâm trí anh: "Phải chăng chúng đã cắn quần nhau như những con chó?". Theo anh, cách miêu tả ngắn gọn những cuộc tranh cãi gay gắt giữa những người thầy thuốc như vậy thật khó có thể thích hợp hơn và xác đáng hơn. Nghĩ đến Vêdan, người môn đồ này hỏi:

- Thưa giáo sư, ở Tây Ban Nha người ta cấm trích huyết cùng bên với chỗ đau có phải không ạ?

Các thầy thuốc Tây Ban Nha nổi tiếng chống đối mạnh mẽ những điều mà Phalôpiút bảo vệ. Ông nhún vai:

- Phải đấy. Theo như chỗ tôi biết, họ học hỏi một cách chậm chạp. Pie Bơrixông đã bị trục xuất khỏi trường Đại học Y khoa ở Pari cũng vì đã kiên quyết bảo vệ nguyên lý ấy.

Ăngtoan nêu vấn đề một cách tinh quái:

- Tuy nhiên, khi một kiến giải đã liên kết được những người danh tiếng như vậy thì kiến giải ấy phải đúng.

Phalôpiút mỉm cười:

- Có lẽ anh đã nêu ra một nguyên lý mới, một hệ luận. Anh sẽ phải viết thành sách đấy.

- Điều rủi ro là tôi không được khá về môn luận văn viết.

- Anh thích thể hiện bằng minh hoạ hơn phải không? Theo tôi biết thì môn vẽ được anh ưa chuộng.

Ăngtoan đỏ mặt:

- Tôi cho rằng một nhà cơ thể học phải có chút ít khả năng về môn này. Thưa giáo sư, ngài có nghĩ như thế không?

- Tất nhiên là có chứ. Anh nói hoàn toàn đúng, tôi cũng rất mong có tài năng ấy như anh. Và cũng đúng đã đến lúc anh phải công bố một điều gì đó. Đã đến lúc rồi! Điều đó sẽ rất có ích đối với anh khi tôi phải chỉ định người kế tục mình.

- Tôi cầu Chúa cho thời gian ấy còn lâu mới đến. Thưa giáo sư, trường đại học rất cần đến ngài.

Phalôpiút lắc đầu:

- Không anh ạ, không phải như thế đâu. Y học là một nghề cần những trí thức trẻ. Còn biết bao nhiêu và bao nhiêu điều phải học trước khi đưa ra giảng dạy cho nên rất cần đến những người thông minh, trẻ tuổi, đầy nhiệt tình. Hãy bắt tay vào việc đi. Bắt đầu viết cuốn sách của anh ngay từ bây giờ đi. Hay ít ra cũng là một chuyên đề. Tôi có thể đề tựa cho anh. - Ông quả quyết hứa. - Lời tựa ấy sẽ nói đến tầm quan trọng của tuổi trẻ.

Trong khi vị giáo sư già diễn thuyết về đề tài quen thuộc ấy thì Ăngtoan nghĩ đến... điều khác. Anh nghĩ đến bức tranh treo trong phòng của mình ở tu viện, sắc đẹp ấy thuộc loại mà con mắt của nhà nghệ sĩ cũng như mắt chàng thanh niên đều chiêm ngưỡng. Phalôpiút ngắt quãng dòng mơ tưởng của anh:

- Anh có đồng ý rằng đấy là một đề tài tốt không?

- Tất nhiên ạ, - Ăngtoan ấp úng nói - Giáo sư nói rõ ràng là đúng.

- Thế ra anh không hề nghe tôi nói gì sao? - Phalôpiút phản đối và hơi bực mình.

Đỏ bừng mặt vì lúng túng. Ăngtoan thừa nhận rằng tâm trí anh đang vẩn vơ.

- Một tiểu thư xinh đẹp chăng? - Vị giáo sư già tinh quái hỏi.

Ăngtoan cực lực phản đối ngay:

- Ồ không phải như thế ạ! Tôi đã có ý định thụ giới...

- Nhưng theo như tôi biết thì anh chưa làm như thế. - Phalôpiút vội ngắt lời anh khi hai người rẽ vào góc phố, trường đại học lùi lại phía sau họ - Tôi không có ý thuyết phục anh từ bỏ dự định ấy, nhưng tôi cho rằng một thầy thuốc không cần phải tuyệt đối không biết đến những cám dỗ của da thịt, nếu anh muốn chữa được tốt các bệnh nảy sinh ra từ da thịt.

- Thưa giáo sư, tôi đã nghiên cứu về sự cám dỗ đối với các thánh.

- Cái đó không đúng như điều tôi đang suy nghĩ, - Phalôpiút lạnh lùng trả lời.

- Có phải đấy là một quan niệm mới không ạ?

- Đúng thế. Và có thể đem lại cho tôi những điều phiền phức từ phía Nhà thờ, dù ở ngay trong Cộng hoà Vơnidơ tự do và sáng suốt này. - Phalôpiút thừa nhận với một nụ cười mệt mỏi. - Thôi, đừng quan tâm đến lời nói dông dài của một lão già Ăngtoan ạ, hãy yên tâm đi theo con đường anh đã chọn, nếu đúng là sự lựa chọn ấy phù hợp với ý muốn của anh.

Đường đi của họ phải qua một trong những chiếc cầu cũ kĩ bằng gỗ bắc ngang qua dòng sông hẹp Bakigơliôn, một con sông nhỏ chảy ngoằn ngoèo xuyên qua thành phố. Lên đến giữa dốc cầu, Phalôpiút dừng lại để nhìn xuống phía dưới, dòng nước chậm chạp, đen ngòm, loáng dầu, đó đây nổi bồng bềnh một thứ rác rưởi gì đó, một nắm bọt xám xịt, vì con sông này đồng thời là một thứ mương thoát nước, nói cho đúng thì nó là một thứ cống. Về phía dưới một chút, một dòng nước chảy mỏng mảnh bắt nguồn từ con suối nhỏ ở sau những ngôi nhà trên cao đang rì rào, sủi bọt vượt qua cát, đá để nhập vào sông Bakigơliôn, nước của dòng nhỏ này trong suốt và long lanh ánh mặt trời.

- Nhìn xem kìa, - Phalôpiút kêu lên và giơ ngón tay chỉ - Hãy nhìn chỗ dòng nước nhỏ nhập vào dòng lớn.

Một vùng bán nguyệt nhỏ nước trong đã tìm được lối tiến vào chỗ nước đen bẩn của sông Bakigơliôn, hình như dòng nước trẻ trung, tươi mát đang cố đẩy dòng nước thối tha, bẩn thỉu, hôi hám đi để chiếm lấy dòng sông. Nhưng ý đồ ấy không có kết quả, sức cố gắng ấy bị thất bại vì vùng bán nguyệt nước trong chỉ loang ra được một thước, theo bán kính, trước khi chất tươi mát của nước suối bị môi trường nước thải tham lam vô độ kia hút hết, nuốt chửng đi. Nếu người khách nhỏ tươi vui ấy đã thêm cho sông Bakigơliôn một cái gì đó thì cũng chẳng còn gì nữa sau chỗ hai dòng nước tiếp xúc nhau mười bước.

- Thấy không anh - Phalôpiút buồn rầu nói. - Dòng nước lớn, đó là tổng số kiến thức của chúng ta hiện nay, đang cáu bẩn bởi các sai lầm, bị nhiễm độc vì hoài nghi và dốt nát, kể cả sự cố chấp của những người không nhìn vào sự thực, dù sự thực ấy nổi bật lên trước mắt họ.

- Và dòng nước nhỏ, - Ăngtoan tiếp lời, - đó là tổng số những phát hiện mới của chúng ta, như phát hiện của ông Côlông chẳng hạn, phải không, thưa giáo sư?

- Tôi không hề nghĩ đến sự phát hiện ra Tân thế giới, - Phalôpiút lạnh lùng nói, - nhưng tôi nói đến những phát hiện của chính anh và của một vài trí tuệ năng động khác đã rót vào dòng sông kiến thức của loài người. Ăngtoan ạ, dòng nước trong sáng của tài năng con người thường không được tự do toả rộng, dòng chảy của nó bị những con đê chặn đứng làm cho kiệt sức. Vì thế dù cho nó có nhập được với dòng chính của kiến thức chung thì tác dụng của nó đã bị xoá bỏ trước rồi.

Ông chỉ tay về phía con sông Bakigơliôn nhơ bẩn đang chảy dưới cầu:

- Đừng cho phép sự việc như vậy đến với mình, anh ạ. Dù phải trả bằng giá nào cũng không cho phép như thế. Đừng để cho đà tiến của mình bị kìm hãm, đừng để cho nguồn nước của mình bị cạn khô.

Ông chia tay anh, qua sông là mỗi người rẽ một ngả.

- Chào anh.

- Xin chào giáo sư. - Ăngtoan lặp lại như máy và nhìn theo ông già đang cẩn thận bước xuống dốc cầu.

Phải chăng người thầy đã có ngụ ý khuyên anh phải dè chừng khi quyết định khoác áo tu sĩ? Ằngtoan tự hỏi mình khi anh rời cầu đi về phía tu viện. Đã bao nhiêu năm nay, từ lâu rồi, cha mẹ anh mong muốn để anh có thể theo đuổi việc học hành và tốt nghiệp về giáo luật ở Pađu, nhưng các cụ không hề phản đối khi anh hướng về ngành y. Vì rằng đa số các thầy thuốc nổi danh cũng là giáo sĩ, như các bậc thầy được ai nấy đều tôn kính là Girôlamô Cácđanô(7) và Têôphơrát Bôngbaxơtút vôn Hôhơnhaimơ, người đã chọn bí danh là Paraxen, vì ông không thừa nhận sự ngang hàng với bất cứ ai, ngoài nhà văn Xendut(8).

Ở Pađu, không có gì ngăn cản các giáo sĩ học tập, dù sự việc Vêdan nhất thiết cho rằng con người có mười hai cặp xương sườn - chứ không phải là mười ba cặp như Galiêng đã khẳng định và được Nhà thờ ủng hộ - đã làm cho Nhà thờ không hài lòng về ông. Ở những nơi khác của nước Ý và ở khắp Châu Âu, Ăngtoan biết rõ rằng không ở đâu tự do tư tưởng như ở Vơnidơ và khi không được giới tôn giáo tán thành là một điều đe doạ đáng sợ đối với những người không đồng tình với những đạo luật của Rôma. Cũng đã có lúc ở ngay Pađu, những người Giêduýt(9) cố làm cho sứt mẻ vấn đề tự do ngôn luận trong trường đại học bằng nhà trường riêng và hình thức giáo lý riêng của họ. Ý đồ của họ đã bị thất bại do sự chống đối dũng cảm của trường Đại học Y khoa và sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo trường nhân danh Hội đồng mười vị rất quyền thế ở Vơnidơ.

Khi còn là sinh viên, Ăngtoan đã nhiều lần choảng nhau với sinh viên trường Giêduýt. Anh vẫn chưa quên những cuộc đánh lộn hăng hái ấy, chưa quên nắm đấm chắc nịch của mình nện vào da thịt mềm nhẽo của họ, nỗi lo lắng của chiếc mũi đẫm máu và niềm hân hoan khi thoát khỏi tay bọn gác đang cố gắng nện văng mạng vào một anh chàng giơ đầu chịu báng nào đó.

Nhưng hành vi ấy không còn phù hợp với phẩm chất của anh hiện nay, cũng như với ý đồ khoác áo tu hành của anh, cho nên đã một thời gian anh chỉ qua lại trên con đường từ tu viện đến các lớp học của mình và chỉ rẽ ngang khi có người trong trường đại học bị ốm cần anh chăm sóc.

Ngoài Pađu và Vơnidơ, việc đi thăm bệnh nhân của thầy thuốc cũng như phương pháp điều trị của họ đều phải theo quy tắc rất chặt chẽ do Toà thánh lập ra coi như giáo lý, nếu không sẽ bị coi như theo tà giáo.

Toà án tôn giáo xuất hiện ở Tây Ban Nha đã thâm nhập vào nước Ý làm cho bất cứ ai không tuân theo quy cách cư xử đã đề ra lâm vào cảnh vô cùng nguy khốn. Người ta đã nói đến việc đưa Vêdan ra trước pháp luật và chỉ nhờ chuyến ra đi vội vã của ông mới cứu ông thoát khỏi giàn thiêu. Còn Misen Xécvê, tốt nghiệp ở Pađu và là một trong những thầy thuốc xuất sắc nhất của thời đại, thì đã bị hoả thiêu theo lệnh của tên tà giáo Canvanh đúng vào lúc Rôma cũng kết án anh. Anh đã chẳng xem xét một cách phê phán quan niệm thần học về Thần thánh hay sao?

Hơn nữa, anh đã đi tới mức dám tuyên bố rằng không có lỗ ở các vách ngăn của trái tim, khi Galiêng còn khẳng định như thế, - và máu chỉ chảy từ bên phải qua bên trái tim bằng một đường vòng qua phổi.

Ăngtoan xua đuổi khỏi tâm trí mình những vấn đề mà Phalôpiút đã đề ra, anh lại qua sông Bakigơliôn, rẽ sang một con đường rộng hơn và rảo bước, y như một chàng si tình đến gặp người yêu. Qua một lối rẽ nữa anh đến quảng trường có pho tượng người kỵ sĩ oai nghiêm đứng sừng sững ở ngay trung tâm Pađu náo nhiệt. Mùi rau tươi ngon lành, sạch sẽ bốc lên từ khu chợ gần đấy. Không khí âm vang tiếng rao hàng của người trồng rau, người bán hàng rong, người bán rượu nho. Những con lừa chở các hũ rượu đầy giống như những con vật huyền thoại trong kinh thánh.

Trước mặt anh là những bức tường trắng toát đến chói mắt của toà thị chính, trụ sở của thành phố chư hầu, ngay bên cạnh là toà án, nơi mà hàng sáng vị quan toà mở cuộc họp trọng thể để giải quyết các việc xích mích và trừng phạt những ai dám xâm phạm đến sự oai nghiêm của Đất thánh.

Ăngtoan rảo bước qua bên kia quảng trường rộng, dài, bước đi qua quãng trống, dừng lại một giây để làm dấu thánh dưới bóng gác chuông của nhà thờ Thánh Mác, ngoặt vào lối rẽ cuối cùng, về đến tu viện, nơi anh đang ở.

Ở đây bóng râm dày đặc và thanh thản nhưng anh không dừng lại dù người đẫm mồ hôi vì đã đi nhanh. Anh đẩy cánh cửa gỗ sồi nặng nề và ngay lập tức bước sang một thế giới khác, một thế giới của yên tĩnh, của tươi mát, của bóng tối và suy tư. Tiếng ồn ào của thành phố bị chết lặng ngay dưới chân những bức tường cũ kỹ. Mọi ồn ào hình như lạc lõng trong khu nhà dành cho sự lặng lẽ chiêm ngưỡng lòng tư vi thần thánh và sự vinh quang của Chúa. Ăngtoan bất giác chậm bước lại, nhẹ chân đi dọc theo hành lang. Theo thói quen, chân anh đặt vào những vết mòn mà hàng ngàn đôi dép qua bao nhiêu năm đã mài lõm vào đá.

Một tu sĩ trẻ đi ngược lại phía anh mỉm cười chào:

- Thầy Ăngtôniô, xin chúc thầy bình yên.

- Chúc thầy bình yên, - Ăngtoan trả lời. Thấy người ấy muốn đứng lại để chuyện gẫu, anh nhẹ nhàng bước nhanh hơn và tiến vào thư viện đang mở cửa.

Mùi sách bụi bặm và ẩm mốc đón anh ngay trước cửa gian phòng trần lát xà ngang dày màu sẫm. Mùi gáy sách bằng da dê, mùi mực các bản thảo mà các tu sĩ đã tô màu tối hôm trước tạo cho gian phòng lớn yên tĩnh này một không khí đặc biệt. Ăngtoan đi qua gian phòng vào căn buồng riêng của mình, có cửa mở thông vào thư viện. Anh nhìn phía sau thấy không có ai bèn lén khoá cửa phòng - đây là điều cấm.

Vẫn như mọi khi, anh nín thở trước vẻ đẹp kỳ lạ của người trong bức tranh kê trên một chiếc giá gỗ thô sơ và chiếm cả bức tường. Tia mặt trời từ chiếc cửa sổ cao của căn phòng rọi sáng người phụ nữ lúc nàng đang rời chiếc vỏ ốc lớn. Hình thuyền đu đưa nhè nhẹ do nàng đang đưa bàn chân trần bước lên bãi cát bờ biển. Ấn tượng về sức sống và sự chuyển động mạnh vẽ vì cặp má của những thần biển đẩy thuyền vào bờ căng phồng gió. Đứng bên cạnh nữ chủ của mình, một người hầu gái ôm chiếc áo choàng dệt những bông hồng đỏ thắm mà nàng sắp choàng ngay lên tấm thân tuyệt mĩ để không một con mắt trần tục nào có thể chiêm ngưỡng vẻ khoả thân trinh khiết ấy.

Có người phụ nữ trần thế nào có được nhan sắc không một chút gì là trần thế này không nhỉ? Ăngtoan tự hỏi mình. Da thịt con người đã bao giờ toả sáng hài hoà với những màu sắc dịu dàng của bình minh như thế này chưa? Một suối tóc vàng như thế, chỉ có tiên mới kéo được thành sợi.

Điều mà anh hiểu biết về cơ thể con người, những bẩm năng nghệ sĩ của anh, tất cả đều nói với anh rằng trước mắt anh là sự hoàn hảo tuyệt đối của cơ thể con người. Đường thẳng, bình diện, đường cong, màu sắc, tất cả đều đạt tới một vẻ đẹp lí tưởng. Cái cổ mảnh dẻ và mềm mại đỡ lấy cái đầu nhỏ và duyên dáng. Đường cong của vai và hai cánh tay cũng hoàn hảo một cách tinh khiết như những ngón tay thanh tú của bàn tay phải đang che lên vú để tránh những cặp mắt sỗ sàng. Đường nét của cơ bắp ẩn dưới làn da đã tạo cho thân trên tròn trặn và mềm mại, bình diện dưới eo lưng hài hoà một cách tinh tế với cái duyên dáng của hai bên hông, với đường cong đầy đặn nhưng dịu dàng của hai đùi. Sự cân đối đến tuyệt mĩ của đầu gối và bắp chân đang ngưng đọng ở tư thế động được hoàn chỉnh bằng nét cong tao nhã của bàn chân nhỏ nhắn. Tất cả ở nàng đều là tinh hoa của sắc đẹp, một sắc đẹp mà chỉ một nghệ sĩ vô song hay bản thân tạo hoá mới đạt tới.

Ăngtoan nhanh nhẹn mở ngăn kéo chiếc bàn nhỏ kê sát giường ngủ rút ra tập giấy làm rơi ra những phác hoạ đùi, bắp chân, cánh tay hay là vai. Có những tờ bị xé ngang và những tờ chi chít những vệt bút chì gạch đậm, nói lên sự thất vọng của người mô phỏng, bất lực, làm méo mó cái sắc đẹp rất gần gũi nhưng hoàn toàn không với tới được.

Anh lại lấy một tờ giấy trắng, cầm thỏi than chì và mặc dù từng nét của bức tranh đã khắc sâu trong tâm trí anh đến nỗi có thể vẽ lại theo trí nhớ, anh vẫn nhìn bức tranh thật lâu và đinh ninh rằng vẽ không đạt.

Từ khi tìm thấy bức tranh trong một cuộn tranh ai đó bỏ ở trong nhà để đồ của tu viện, hàng trăm lần Ăngtoan đã thử mô phỏng lại bằng những phác hoạ cái sắc đẹp luôn luôn trốn lánh anh. Hàng trăm lần, anh đã phải rút lui, lòng đầy bực bội.

Lại một lần nữa, anh chăm chú nhìn bầu vú bên trái để trần. Anh thử ghi lại đường vòng dịu dàng và hoàn hảo, sự nở nang phù hợp, đầu núm vú nhô ra và bao quanh là một vùng tròn nhỏ sẫm màu hơn. Anh cầm thỏi than chì run run vì xúc động dữ dội, còn hơn sự xúc động tự nhiên thúc đẩy người nghệ sĩ vẽ bức tranh người đẹp ngay khi họ gặp. Trong khi anh thử lại bằng những đường nét - luôn lừa dối anh - sự tráng lệ về ánh sáng, bóng tối, đường cong, bình diện, cơ bắp và làn da thì một ý muốn khác, một nhu cầu sâu xa, kỳ lạ, ồn ào, đòi hỏi, rạo rực trong anh, về làn da thịt vẽ trên tranh, hình như chỉ cần chạm đầu ngón tay vào là anh có thể truyền vào đầy sức sống đang sẵn sàng tràn ra...

Cố ghìm sự vội vàng nóng nảy, anh phác những nét chì phóng khoáng làm hiện lên đường vòng quanh bầu vú trên giấy trắng. Nhưng khi muốn dùng những nét bóng nhẹ tạo các chi tiết, thể hiện cảm giác về khối lượng, gợi lên đường nổi, tay anh bỗng trở nên nặng trĩu và ngón tay cứng đờ. Lầm lì, nghiêm chỉnh anh cố vẽ tiếp, lại xoá đi, vẽ lại để rồi lại xoá đi và cuối cùng, anh kêu lên đầy thất vọng. Xé đôi tờ giấy, giận dữ và buồn rầu về sự bất lực của mình, anh ném thỏi than chì vào tường và hằn học nhìn nó tan thành bột đen rơi trên sàn...

Ăngtoan ăn tối tại phòng ăn lớn của tu viện. Trên một chiếc bệ đặt bàn ăn dành cho tu viện trưởng và những chức sắc khác. Còn Ăngtoan, anh khiêm tốn ngồi ở bàn những người giúp việc của tu viện, ở đầu kia phòng ăn. Sau này, khi anh đã thụ giới, anh sẽ được ngồi ở chiếc bàn kê giữa phòng. Khi anh được lên chức giáo sư chính thức về giải phẫu học ở Pađu, nếu anh vẫn ở tu viện, anh sẽ được ngồi vào bàn ăn của những chức sắc, như thế mới xứng đáng với vị trí cao của một giáo sư đại học.

Chiều nay ghế của tu viện trưởng vẫn còn trống như một tuần nay. Cha Mariô Belacmi, người phụ trách cộng đồng này, có thể sẽ không bao giờ ngồi ở ghế ấy nữa. Bệnh phù thũng cộng với chứng suy tim - đã bị mỏi mệt sau nhiều năm thoả mãn thoải mái các đòi hỏi của một cơ thể to béo - đang âm mưu đưa vị tu viện trưởng ra khỏi cuộc sống thể chất, dù rằng thầy thuốc của người đã cố làm chậm cái kết thúc bất hạnh ấy.

Ăngtoan rầu rĩ nhìn bát xúp đậu đặc sánh. Thông thường, anh ăn ngấu nghiến, nhưng gần đây anh cảm thấy kém ngon. Anh dùng thìa vào món súp, nếm rồi đẩy bát ra. Chung quanh anh, các người giúp việc cho tu viện đáng lấy cùi bánh mì đen hăm hở quệt sạch nước súp dính thành bát. Sau đó người phục vụ mang ra các đĩa bằng gỗ đầy món thịt cừu quay mà người ăn sẽ dùng tay xé để ăn - vì dĩa và dao chỉ được dùng ở bàn ăn của người quý tộc. Họ chuyền tay nhau những hũ nhỏ rượu nho hơi chua và nhẹ. Ở bàn ăn của tu viện trưởng rượu nho chắc phải là loại Made thanh lịch nếu không là loại Poóc-tô hảo hạng. Các vị quyền cao chức trọng của giới tăng lữ cho rằng không có lí do gì buộc họ phải từ chối những thú vui của bàn ăn.

Sau bữa ăn, tu sĩ và thầy dòng giúp việc nhà thờ xếp thành hàng dài đi đến giáo đường cầu kinh buổi tối. Ăngtoan nối bước họ. Khi anh đi qua nhà ăn, cha Phêlíp Xăngtốt, hiện là trợ lý của tu viện trưởng cai quản tu viện cũng vừa bước xuống vừa lau cặp môi mỏng bằng chiếc khăn vải rất sang.

- Xin chào cha - Ăngtoan cúi chào.

- Cầu chúa ban phúc cho anh, Ăngtôniô, - Người mục sư nói - Ngón tay anh thế nào?

- Ơn chúa, đã gần khỏi.

- Nếu vậy thì anh có thể đến thăm bệnh cho Đức Cha tối hôm nay chứ?

- Thưa vâng. Tôi cũng định đến chỗ ngài ngay sau khi cầu kinh.

- Anh sẽ được miễn đọc kinh - cha Philíp nói. - Cha Mariô chiều nay cảm thấy rất khó thở.

Giọng nói tỏ vẻ quan tâm đúng mức, nhưng Ăngtoan không nhìn thấy trong ánh mắt lạnh lùng của vị phó tu viện một chút thương xót gì đối với cấp trên của ông ta.

- Có thể tình trạng ứ huyết lại tăng lên. - Ăngtoan nói.

Tuy đã được trích huyết thường xuyên, nhưng từ mấy tháng nay tu viện trưởng vẫn bị ứ huyết, đến nỗi thở khó khăn và gần như nằm liệt giường.

- Tôi cũng chắc như thế. - cha Philíp đồng ý.

- Tôi đi lấy dao mổ và xin gặp lại cha ở phòng của ngài.

Cha Mariô Belacmi tất nhiên là không ở trong các khu vực tồi tàn của cộng đồng này. Ăngtoan đi theo một người giúp việc có bộ mặt xấc xược và bước trên một tấm thảm lịch sự khi qua phòng họp đầy đồ đạc sang trọng, nơi tu viện trưởng thường giải quyết các công việc của nhà tu. Ăngtoan đến một phòng ngủ lớn kề ngay đấy. Cha Philíp Xăngtốt gầy gò trong bộ áo trắng muốt của dòng Đôminich, đứng ở phía cuối giường.

Chỉ cái giường đồ sộ của tu viện trưởng cũng to bằng cả căn phòng của Ăngtoan, vải trải giường đắt tiền có thêu các sự tích tôn giáo bằng chỉ lam và kim tuyến. Trên giường đầy gối dài, gối ngắn. Một chiếc bàn tròn chạm trổ bằng gỗ phương đông quý vô giá, đầy chai, lọ, hũ chứng minh rằng Đức Cha chỉ tin tưởng có giới hạn vào đơn của thầy thuốc của ngài, còn ngài dùng thuốc theo ý muốn, uống mọi thứ mà ngài hi vọng khỏi bệnh.

Cha Belacmi là một người to lớn, hai má xệ rung rung và vầng trán nặng nề làm cho Người giống như một khối thịt dày hiền hậu. Hai gò má húp híp với những tia máu đỏ sẫm tương phản với nước da ốm yếu xanh xạm. Đôi môi sưng phồng xám như chì. Mạch máu trên trán nổi hằn lên, tĩnh mạch ở bàn tay cũng vậy, hai cánh tay đầy lông hiện rõ dưới lần vải mịn và cửa tay áo ngủ đính đăng ten.

Trong gian phòng rộng chỉ nghe thấy tiếng thở khó khăn, khò khè, nặng nề của người bệnh. Ánh mắt của Người đầy lo lắng, rất xa cách với sự tiếp nhận tự nguyện và hoàn toàn ý muốn của Chúa mà Người thường thuyết giáo một cách hùng hồn trên bục giảng. Từ chiều sâu của lồng ngực vang ra một thứ tiếng lép bép xen với tiếng rít gió. Người ngồi trên giường, thân trên gần như thẳng vì được đệm bằng một đống gối.

Ăngtoan quỳ xuống cạnh giường, những ngón tay sưng vù của tu viện trưởng đặt nhẹ lên tóc anh, ban phúc một cách lơ đãng. Người thanh niên đứng lên và khẩn trương khám cho người bệnh. Bệnh phù thũng thể hiện rất rõ ràng: bụng phồng, chân to gấp đôi lúc bình thường làm cho da xanh xao căng bóng, những triệu chứng ấy chứng tỏ rằng việc chẩn đoán không nhầm. Khi Ăngtoan ấn vào mắt cá chân của bệnh nhân, đầu ngón tay anh lút qua thịt mềm chạm vào khớp xương, vết lõm còn trông thấy khá lâu sau khi ấn.

Mỗi ngày Đức Cha hô hấp càng nặng nề hơn, mỗi ngày thân thể người càng phù nề hơn.

- Bác sĩ thấy thế nào, bác sĩ Xecvêtut? - Cha Mariô hỏi.

- Bệnh phù thũng rất nghiêm trọng. - Ăngtoan nói một cách khéo léo - Nhưng tôi nghĩ rằng trích huyết sẽ làm cho Đức Cha nhẹ nhàng hơn đấy ạ.

- Trích huyết! - Cha Mariô nóng nảy kêu lên - Trích huyết ư? Anh không thể làm cách gì khác trích huyết hay sao?

Ăngtoan biết rõ rằng Đức Cha ác cảm với dao mổ. Anh kín đáo gợi ý:

- Nhưng kết quả là nó sẽ làm lui bệnh phần nào.

- Vậy thì làm đi, - tu viện trưởng rên rỉ - Làm đi, nhưng nhẹ tay thôi, anh bạn ạ, nhẹ tay thôi nhé.

- Tôi đã mài một lưỡi dao dành để dùng riêng cho Đức Cha: đau ít và nhẹ nhàng thôi ạ.

Ăngtoan mở hộ đồ. Mắt của tu viện trưởng sáng lên:

- Tốt lắm! Được đấy!

Ăngtoan trải dưới khuỷu tay người bệnh một chiếc khăn to, vén tay áo ngủ lên để trần cả cánh tay trái và đặt gần khuỷu tay một chiếc bát bằng đá mã não.

Anh chọn một lưỡi dao cong bằng thép Đama tốt nhất, bén như lưỡi dao cạo. Mũi dao hẹp và mỏng, hơi cong, không to hơn chiếc kim, chắc chắn sẽ không thô bạo như lưỡi dao thẳng mà nhiều thầy thuốc sử dụng. Bàn tay trái anh nắm lấy cánh tay của tu viện trưởng và xiết mạnh cho đến khi các tĩnh mạch nổi phồng lên gần như muốn vỡ. Tu viện trưởng nghiến răng, bắp thịt căng ra, rùng mình vì sợ đau.

Rất nhanh, Ăngtoan đâm mũi dao qua da và thành tĩnh mạch, ngay tức thì, một dòng máu đen vọt ra và chảy vào bát. Tu viện trưởng thở ra một hơi dài dễ chịu và nhìn thứ chất lỏng sẫm màu đang tăng dần trong bát.

- Ta là cái gì đây nhỉ? - Người lẩm bẩm nói - Một xưởng chế tạo máu ư?

- Với bệnh phù thũng thì đúng như thế ạ, - Người thầy thuốc giải thích. - Máu sản xuất ra nhiều đến nỗi không lưu thông kịp, sau khi rút ra một số lượng nào đó, tim bớt nặng nề ngay.

- Anh nói đúng, - tu viện trưởng thừa nhận - Ta cảm thấy khá hơn rồi đấy.

Thông thường, Ăngtoan dừng lại sau khi máu chảy được nửa bát, nhưng nhận thấy tu viện trưởng đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng nên anh cho chảy thêm cho đầy bát, như vậy là đến một panh(12) máu và còn hơn thế nữa.

Không còn nghi ngờ gì nữa: trích huyết đã làm cho tình hình khá hẳn lên: cha Mariô thở bớt khó nhọc, mạch máu trên mặt và cánh tay Người bớt căng phồng, tiếng lép bép từ phổi đưa ra giảm nhẹ gần như mất hẳn.

Cha Phêlíp Xăngtốt xác nhận điều đó và nói một cách nhẹ nhàng thành kính:

- Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Chúa đã vui lòng thực hiện một phép lạ qua bàn tay của người thầy thuốc trẻ tuổi của chúng ta.

Khi bắt đầu trích huyết, vị phó tu viện đã trám xuống phía cuối giường, ngoài tầm những vệt bắn bất thần có thể làm bẩn chiếc áo trắng tinh đang bận.

- Đúng thế! - Tu viện trưởng nói và làm dấu.

Ăngtoan có ý nghĩa riêng của anh về cách thức và thời gian kéo dài của phép lạ này. Anh cúi đầu nhận thêm sự ban phúc của bề trên và thu gọn dụng cụ trước khi rời căn phòng.

- Thưa Cha, tôi nghĩ rằng trích huyết sẽ giúp cho người ngủ được, - anh nói. - Nhưng để đảm bảo được chắc chắn hơn sự nghỉ ngơi cần thiết ấy, tôi xin khuyên người dùng ngay rượu nho nóng, có thể nóng bỏng cũng được.

Mắt cha Mariô hơi sáng lên: Người ưa rượu nho dưới mọi hình thức, nhưng có người đã khuyên không nên dùng trong tình hình hiện tại. Người nghĩ rằng anh thầy thuốc trẻ tuổi này thực sự là người hiểu biết và gọi người hầu sai sửa soạn thứ rượu ấy.

Cha Phêlíp tiễn Ăngtoan ra ngoài phòng.

- Một việc làm tốt như vậy xứng đáng được khen thưởng, - ông vui vẻ nói.

Ăngtoan đang vội trở về phòng với bức tranh của mình, nên từ chối.

- Thôi, thôi! Đừng khiêm tốn nữa. Tôi biết anh thích Made và tôi có mấy điều muốn hỏi anh.

Ăngtoan đành theo cha Phêlíp đến nơi ông ta ở, bài trí tuy không sang trọng như phòng của tu viện trưởng, nhưng cũng rất lịch sự. Chiều nay, cha Phêlíp có vẻ vui tính. Ông rót hai cốc đầy thứ rượu nho đặc biệt danh để dùng riêng và đặt xuống bàn một chiếc đĩa bằng bạc đựng đầy bánh ngọt. Ăngtoan chua chát tự hỏi: phải chăng sự vui vẻ này xuất phát từ tình hình gần như chắc chắn là cái chết khó lòng tránh thoát của tu viện trưởng sẽ đưa ông ta, Xăngtốt lên đứng đầu tu viện?

Ăngtoan không có một chút thiện cảm riêng nào với người tu viện phó gầy gò này.

- Thật đáng buồn, tình trạng của Đức Cha ấy mà, - cha Phêlíp bình luận và ngồi thoải mái trong chiếc ghế dựa lót nệm. - Cách đây bốn tuần lễ tôi đã gửi một bức thư cho họ hàng của người ở Phlôrăngxơ. Anh phỏng đoán xem người có thể sống được bao lâu nữa.

- Không thể nói chắc chắn được ạ. Nhưng không lâu nữa, thật đáng tiếc!

- Anh có tin rằng trích huyết sẽ làm cho người thường xuyên khá lên không?

- Thường xuyên ư? Chắc chắn là không được, - Ăngtoan lắc đầu nói. - Tôi chưa bao giờ thấy chứng phù thũng như vậy bình phục cả!

- Tôi cũng vậy

Cha Phêlíp trầm ngâm nhấm nháp rượu nho.

- Tôi thấy anh trích huyết ở tay trái của người. Anh có thể cho tôi biết tại sao không?

- Tim ở về bên trái...

- Đồng ý. Nhưng điều thiết yếu của căn bệnh hình như ở phổi. Người thở khó khăn...

- Đây là một vấn đề chưa rõ ràng, - Ăngtoan thừa nhận.

Anh cũng đã ngạc nhiên về việc trích máu ở cánh tay hình như làm giảm nhẹ tình hình phù phổi và anh đang tìm hiểu vấn đề ấy. Men rượu đã kích thích suy nghĩ của anh. Anh trầm ngâm nói tiếp.

- Có lẽ có sự liên quan nào đó giữa phổi và tuần hoàn?

- Trong quá trình mổ xẻ, anh có phát hiện được điều gì làm anh suy nghĩ như thế không?

- Thưa không. Nhưng tôi nhận thấy rằng trong những trường hợp tương tự, tim to lên một cách khác thường và nhất là tâm thất trái.

- Một quan sát lí thú đấy, - cha Phêlíp nói. - Anh ngờ rằng có thể có sự giao lưu phải không?

Ăngtoan lật đi lật lại vấn đề trong đầu, bỗng nhiên ánh sáng bừng lên như một đám mây phủ vừa bay qua. Câu trả lời rất đơn giản, đơn giản một cách kỳ lạ, đến với anh như bật ra từ một sự va chạm bất thình lình, nên anh đã vô tình kêu lên:

- Vậy thì Misen có lẽ đúng rồi!

Trong khi hào hứng vì vấn đề được khám phá, anh đã quên rằng anh không ngồi một mình.

- Misen nào? - Cha Phêlíp vội vàng hỏi.

Ăngtoan ngay lập tức tỏ ra cảnh giác. Anh kêu lên do vô tình, nhưng đã phạm một sai lầm vì sự phát hiện chân lí.

- Tôi nói đến Misen Xécvê, - anh thận trọng giải thích - Trước đây anh ấy là nhà giải phẫu học ở Pađu. Và, - Ăngtoan nói thêm như vừa nghĩ đến, - anh ấy là người bà con họ xa của tôi.

- Tại sao anh nói có lẽ anh ta nói đúng?

Câu hỏi trực tiếp vào vấn đề làm Ăngtoan bối rối. Anh biết rõ cha Phêlíp khi đã nắm được một ý nghĩ nào là y như chồn săn thỏ, như mèo săn chuột.

- Tôi nghĩ đến học thuyết của anh ấy về sinh hoạt tổ thâm nhập cơ thể, - anh nói.

- Ồ, sinh hoạt tổ à?

Mũi của ông tu viện phó hít không khí giống như mũi con chó đánh hơi tìm dấu vết. Đây là một vấn đề có thể có đôi chút liên quan đến thần học, điều ông hết sức say mê.

- Anh nói thêm nữa đi.

Ăngtoan nặn óc nghĩ nhưng không tìm được lời thích hợp để sửa lại sự vụng dại của mình. Trong lúc thất vọng, anh đâm liều:

- Có lẽ tôi nhớ lại được nguyên văn, như Xécvê đã viết. Điều đó có thể gần như thế này: sinh hoạt tổ được tạo ra do không khí hít vào phổi hoà lẫn với máu làm cho máu từ tâm thất phải đưa vào được tinh khiết lên rồi chảy qua tâm thất trái.

Người mục sư cau mày và xoa chiếc cằm nhọn:

- Xem nào, - ông ta thong thả nói, - theo Galiêng, các văn phẩm của ông đã được Đức Mẹ Thánh Đường của chúng ta tán thành, thì các tâm thất của tim là những căn buồng bằng cơ bắp vốn thường co bóp khi máu duy trì trong các mạch máu một hoạt động qua lại thường xuyên. Galiêng cũng tuyên bố rằng máu vào tim do các tĩnh mạch lớn và thoát ra bằng các lỗ thủng ở thứ vách gọi là vách ngăn, tách riêng bên trái và bên phải tim, rồi vào các động mạch. Sự việc đúng như thế có phải không?

Ông có vẻ say sưa nói với những kiến thức về y học của mình.

- Học thuyết của Galiêng đúng như thế. - Ăngtoan thừa nhận, - nhưng Xécvê không xác nhận sự tồn tại của các lỗ thủng ở giữa bên phải và bên trái tim.

- Anh muốn bác lại Galiêng à?

Để tỏ ý rằng như vậy có thể là tà giáo, tiếng của cha Phêlíp lạnh lùng hẳn đi.

Ăngtoan cố bắt trí nhớ của mình tìm ra các công thức chính xác.

- Đây là điều anh ấy nói về vấn đề máu tuần hoàn qua phổi và tôi nghĩ rằng điều ấy giải thích bệnh phù ta đã khám phá ra trong trường hợp của cha Mariô.

Trước khi Phêlíp kịp tỏ ý kiến phản đối, Ăngtoan đã đọc tiếp những câu rất quen thuộc với anh:

"Sự giao lưu giữa các tâm thất không thực hiện qua vách ngăn giữa tim, dòng máu được dẫn dắt một cách tuyệt vời bằng một đường vòng dài, từ tâm thất phải qua phổi, phổi tác động và máu tốt đến nỗi máu lấy lại màu đỏ và đi vào tĩnh mạch phổi. Ở đây, nhịp bóp của tim sẽ hút máu vào tâm thất trái"

- Tôi thấy hình như anh hiểu biết sâu về học thuyết này. Thật vậy, - cha Phêlíp nói giọng gắt gao, - dù rằng học thuyết ấy mâu thuẫn với bậc thầy của anh là Galiêng.

- Tôi là nhà giải phẫu học, - Ăngtoan đáp lại, - và vì vậy tôi nghiên cứu tất cả những gì liên quan đến cơ thể con người.

- Tuy nhiên, Nhà thờ không thừa nhận một học thuyết nào đối lập với Galiêng.

- Nhưng cha đã thấy rằng các tĩnh mạch của cơ thể và phổi đều bị sung huyết, điều đó chỉ có thể giải thích bằng việc máu chảy không được đẩy ra thích đáng.

- Có thể, - cha Phêlíp nói, vẻ ương ngạnh hiện lên nét mặt. - Nhưng rất có thể có một cách giải thích khác.

Ăngtoan tiếp:

- Và nếu đúng như thế thì không thể có lỗ thủng ở trong tim và sự lưu thông giữa các ngăn, vì nếu có như vậy thì máu thừa sẽ tự động thoát vào tĩnh mạch. Còn như cách diễn biến của sự việc hiện nay, máu thừa trong cơ thể cha Mariô bị đẩy vào phổi, và từ đấy không lưu thông đi, cho nên đã tạo ra bệnh phù ở nơi này. Vâng. Điều đó giải thích được tất cả, hợp luân lí và đầy đủ.

- Galiêng phán đoán theo cách khác, - cha Phêlíp phản đối vẻ cố chấp.

- Hãy để mặc kệ Galiêng! Ăngtoan kêu lên, bực bội vì có sự ngu xuẩn đến như vậy. - Vêdan đã nhiều lần nêu rõ sai lầm của ông ta rồi.

Cha Phêlíp đỏ mặt lên vì giận dữ. Ông gay gắt nói:

- Anh hãy giữ gìn lời nói của anh, bác sĩ ạ. Đức Mẹ Thánh Đường của chúng ta ủng hộ Galiêng. Điều đó đủ cho anh hiểu rồi đấy.

- Nhưng Xécvê...

- Xécvê à? Ma qu...

Người mục sư ngừng lại không thốt hết lời chửi thề. Trong đôi mắt xanh và lạnh lùng của ông bỗng loé lên một ánh sáng quỷ quyệt.

- Xécvê à? Anh muốn nói Misen, hay Misaen, hay Mighen Xecvêtut(13)?

- Vâng.

- Anh có nói với tôi rằng anh ta là bà con với anh, phải không?

- Bà con họ xa. Anh em họ, đại loại như thế.

Ăngtoan ấp úng vì anh không quen nói khác sự thật.

- Phải chăng đó chính là cái anh Misen Xécvê, Misaen Xecvêtut, người đã bị hoả thiêu như một tên tà giáo?

Lúc này Ăngtoan tái mặt.

- Vâng. Nhưng do Giăng Canvanh, thưa cha.

Cha Phêlíp ngoan cố lắc đầu.

- Nếu tôi có trí nhớ tốt thì anh ta đã bị cả Đức Mẹ Thánh Đường của chúng ta kết tội là tà giáo?

- Đó là toà án tôn giáo.

Cha Phêlíp nhún vai:

- Thì cũng như vậy. Anh đã biết tất cả sự việc ấy, và các phát hiện trong lĩnh vực y học?

Mắt của cha Phêlíp rực cháy một ánh lửa cuồng tín, ông xỉa ngón tay xương xẩu gần tận mặt Ăngtoan:

- Chỉ nhắc lại những lời nói của một tên bị kết tội tà giáo cũng đã bị cấm rồi. Cấm cả đọc bất cứ một văn phẩm nào của hắn.

Ông cố bình tĩnh lại và uống một hớp rượu nho.

- Tôi tin rằng anh mắc lỗi do sơ suất, - Một lúc sau ông nói như vậy. - Đã có biết bao nhiêu người trẻ tuổi mắc phải sự việc tương tự như thế. Nhưng bây giờ anh đã được báo trước rồi đấy. Vậy thì đừng có đọc hay là nghĩ đến những lời nói của tên Xecvêtut, tên tà giáo ấy! Đừng bao giờ cả!

Ăngtoan định phản đối, nhưng cha Phêlíp giơ tay lên, báo cho anh biết là đừng nói thêm nữa.

- Anh hãy đến giáo đường ngay. Cầu xin Đức Chúa của chúng ta tha thứ cho anh. Cầu chúa xoá bỏ trong ký ức và tâm hồn anh những lời nói bị ngăn cấm và hãy nhớ rằng văn phẩm của tà giáo không thể có chỗ đứng trong khoa học về con người...

- Nhưng thưa cha...

- Đừng lạm dụng lòng nhẫn nại của tôi, ông Ăngtôniô ạ. Tôi thực đã rất rộng lượng, vì rằng nhiều người đã bị kết án do những tội còn nhẹ hơn tội của ông. Ông hãy đi đi. Và phải sám hối ngay lập tức đi.

Toà giáo đường, với ánh sáng mờ mờ đang lặng lẽ, yên tĩnh và êm ả. Nhưng không có sự yên tĩnh và êm at nào trong lòng Ăngtoan trong khi anh quỳ gối dưới chân bàn thờ.

Ở phía trên mái tóc nâu của anh, Đức Thánh Mẹ bế Đức Chúa Hài Đồng trong tay mỉm cười thương xót anh. Nhưng anh biết rằng sự buộc tội của cho Phêlíp không bao hàm một chút xót thương nào. Và anh tự hỏi rằng những người kết án hỏa thiêu Misen Xécvê có cảm thấy thương xót chút nào không. Lần đầu tiên trong đời anh, Ăngtoan bắt đầu nghi ngờ tôn giáo của mình, lòng tin của mình và sự ngờ vực ấy làm anh nao núng tận đáy lòng.

Những lời quen thuộc từ miệng tuôn ra như máy, do thói quen, trong khi tư tưởng của anh là chỗ xoáy của những luồng nước đang sôi sục: - Lạy Đức Mẹ Maria đầy nhân từ, xin hãy ban phước lành...

Anh đã mắc tội như thế nào nhỉ? Phần luận lý? Óc khoa học của anh bướng bỉnh đặt câu hỏi và tìm câu trả lời. Như thế nào nhỉ? Do thừa nhận chân lý chăng? Do gắn bó với chân lý chăng? Vì như vậy mà Vêdan đã là người tà giáo! Rồi Phalốp nữa! Và cả một chòm thất tinh những con người mà trí thông minh và tính táo bạo đã mở ra những triển vọng mới cho sự hiểu biết về con người. Nếu anh tiếp thu lời tuyên án của cha Phêlíp, nếu anh thừa nhận rằng mọi xác nhận trái với những lời nói của Arixtốt và của Galiêng đều thuộc về tà giáo thì làm thế nào để có thể học tập được hàng ngàn sự việc mà trí tuệ của anh đang khát khao hiểu biết?

- Lạy Đức Thánh Mẫu, lạy Chúa, xin hãy tha thứ cho tội lỗi của con...

Trong khi miệng anh đọc lên những câu kinh theo thói quen thì tâm trí anh càng nghĩ đến vấn đề bị cấm đoán nhiều hơn và cố đánh giá tầm quan trọng cả sự phát hiện liên quan đến tuần hoàn của máu trong phổi. Sự hiển nhiên do riêng cơ thể của cha Mariô cung cấp để làm sáng tỏ vấn đề này. Điều hiển nhiên ấy lại do một cơ thể đã cống hiến cho sự phụng sự Chúa cung cấp lại coi là tà giáo được? Các đạo luật và các điều cấm đoán của quyền lực tôn giáo có thể nào thay đổi những sự thực trong cơ thể con người? Làm sao chúng có thể biến những điều xác thực về cơ thể như mạch máu, máu chảy bên trong đó, những điều mà con dao mổ của anh phơi bày, thành điều giả hay không? Như vậy thì cũng như phủ nhận các tuần trăng, vị trí của các vì sao, chân lý bất di bất dịch của các định lý của Ơcơlít hay là mưa rơi từ trên trời xuồng. Luân lý nói với anh rằng sự thực là sự thực, dù miệng ai nói ra cũng vậy. Nhưng giáo lý đảm bảo một cách quả quyết rằng không phải như thế. Và nhà thờ, để củng cố giáo lý, đã đi đến chỗ thiêu cháy trên giàn lửa những người nào không được họ tán đồng mà lại công bố những sự thực vật chất và có thể kiểm tra được. Chính vì thế mà Misen Xécvê đã bị thiêu trên giàn lửa vào buổi sáng tháng Mười ấy, mười năm trước đây... Misaen Xecvêtut... Misen Xécvê... anh ruột của anh!

... Bây giờ và đến giờ lâm chung của chúng con... Tiếng anh im bặt, nhưng tâm trí anh vẫn tiếp tục hoạt động. "Giờ lâm chung của chúng con" ...Anh như nhìn thấy mình cùng với cha lang đang bước loạng choạng trên những mỏm đá ở eo biển, trên đường đi Thuỵ Sĩ, vào buổi sáng mùa thu lạng lẽo ấy. Người gầy rộc đi vì mệt nhọc và nỗi buồn vô tận nung nấu trong lòng người cha đã dựa vào vai anh, và tìm ở anh nguồn nương tựa... Là một chàng trai mười lăm tuổi, khỏe mạnh, nghiêm nghị hơn lứa tuổi, đã biết suy tư, vậy mà anh vẫn chưa hiểu nổi tấm bi kịch vô biên mà cả hai cha con chỉ được báo tin một cách đơn giản trong làng quê của họ, ở giữa những quả núi vùng Bắc Ý.

Mới hôm trước đây, cha anh còn tràn ngập một niềm kiêu hãnh nông nổi vì ông là cha của một nhà bác học nổi danh, Misen Xécvê, người thầy thuốc được ngưỡng mộ trong rất nhiều thành phố. Thứ bảy tuần trước, khi vui vẻ uống rượu với bạn bè, mọi người đã nghe ông khoe thành tích khoa học của con trai cả của ông, người anh mà Ăngtoan ít gặp và cũng không nhớ rõ lắm nữa. Các vua chúa đã chăm chú nghe những điều Misen nói. Các phòng lớn ở các trường đại học chật ních người, khi anh thuyết trình về khoa học của ngành y, về giải phẫu học, về toán học hay gần đây nhất là về thần học.

Sau đây mấy hôm, một tin đồn khủng khiếp đã truyền đến làng miền núi của họ. Misen đã dám nghi ngờ giáo lý của Đấng ba ngôi và về sự vĩnh hằng của Đức Chúa. Tuy còn chưa biết đích xác rằng điều đó có ý nghĩa như thế nào, nhưng Ăngtoan đã mặc cảm thấy học thuyết ấy trực tiếp đe doạ nền tảng của đạo Tin lành và đạo Gia tô, và như thế sẽ bị coi là tà giáo.

Misen Xécvê bị cầm tù ở Giơnenơ đã hai tháng, vụ án của anh sắp kết thúc khi những tiếng vang đầu tiên của thảm kịch này lan đến gia đình anh. Misen không gửi thư mà dư luận công chúng đã thông báo cho gia đình Xécvê biết. Chỉ một ngày mà người cha, vốn khỏe mạnh đã thành một bộ khung trống rỗng, rã rời. Đem theo người con trai thứ hai, ông lập tức tiến hành chuyến đi gian khổ về phương Bắc.

Hai cha con quá chậm nên không giúp gì được cho Misen Xécvê; thực ra không một ai trên thế giới này và vào bất cứ lúc nào, có thể giúp đỡ được anh, vì anh kiên quyết bảo vệ những lời anh đã nói và viết, ngay cả khi anh biết rõ số phận đang chờ đợi anh.

Khi Ăngtoan và cha anh thất thể mệt nhọc, ra khỏi eo núi đi vào làng Sampen thì ở đó đang diễn ra lễ rước của giáo hội. Trong không khí mát lạnh của sáng tháng Mười, ánh sáng của chiếc áo chùng trắng (áo người đàn ông gầy gò đi đầu thêu vàng nặng trĩu) làm cho cậu con trai gần lóa mắt "Canvanh đấy" những người chung quanh cậu thì thầm trong khi họ cố chen vai thích cánh để vượt lên hàng đầu của những kẻ tò mò. Nếu lòng tôn kính và vị nể làm cho tiếng nói hạ thấp xuống thì nối lo sợ rõ rệt, lộ ra trong nhiều khóe mắt, vì Giăng Canvanh, như một ác thần, đánh gục không ngần ngại bất cứ ai dám nêu thành nghi vấn chân lý của giao thuyết mà ông ta diễn giảng hoặc về quyền thế của vị Chúa trời mà tự ông ta coi như người đại diện trên trái đất.

Phía sau Canvanh, đội quân những người quan trọng của Tân giáo tiến bước, áo họ mầu sẫm, điều đó không có gì đáng nói, vì rằng nơi này không phải là chỗ của các màu sắc tươi vui và các trang trí đắt tiền của nghi lễ Gia tô giáo. Các tin đồ Tân giáo và đặc biệt là giáo phái Thuỵ Sĩ khó tính, cứng nhắc tán thưởng sự giản dị và khắc khổ, trong đức tin cũng như trong y phục.

Ăngtoan nghe tiếng cha rên rỉ bên anh, anh sợ đám người ồn ào, đông đúc, vội vã, đã xô đẩy làm ông bị thương. Nhưng rồi ông hiểu rõ.

Đằng sau các mục sư, sau các vị có chức quyền quan trọng và lâu đời tạo thành đội quân thứ hai của đám rước, một người đàn ông đang đi một mình. Anh gầy kinh khủng, hốc hác đến nỗi gần như trông thấu qua cơ thể được và trong thời gian hai tháng của vụ án, tóc anh gần như bạc trắng nhưng gương mặt vẫn trẻ trung. Anh bước đi một cách rất kiêu hãnh, đầu ngẩng cao, cặp mắt rực lửa nhìn thẳng về phía trước, một nơi rất xa, có lẽ anh nhìn về quả đồi ở cuối chân trời và trên ngọn đồi ấy đã chất đầy củi khô để lát nữa...

Ăngtoan sẽ không nhận ra anh mình nếu không bắt gặp cặp mắt của anh ấy, anh không thể nhận nhầm cái nhìn nóng bỏng, linh cảm ấy được.

- Mighen!... Mighen!

Ăngtoan nghe thấy tiếng kêu nghẹn ngào của cha mình. Mighen là tên mà người con trai cả đã được gọi trong suốt thời thơ ấu, thời gian ấy trôi qua ở miền Đông Tây Ban Nha.

Người đàn ông gầy gò không cần quay lại. Ăngtoan cũng trông thấy cặp mắt rực cháy ấy đã dừng lại ở anh một lát, dù không lộ ra dấu hiệu quen biết nào. Do sự cảm thông trong tư tưởng, Ăngtoan bỗng cảm thấy rất gần gũi người anh mà anh hiểu còn rất ít nhưng anh biết rõ ràng người đang đi qua ấy lo cho sự an toàn của hai cha con anh. Tai vạ sẽ đến với Ăngtoan và cha anh nếu có kẻ nào đó đoán được rằng hai người là người nhà của tên tà giáo bị tội hoả thiêu.

Đoàn người vượt qua họ, và họ phải vùng vẫy trong đám người tạp nham đang muốn tranh thủ để xem quang cảnh kia không thiếu một chút nào.

Điều ấy xảy ra nhanh kinh khủng. Đứng trên một chiếc xe, bên cạnh làn sóng người nhấp nhô, Ăngtoan hoảng sợ đến cứng người khi thấy anh mình lắc đầu từ chối cơ hội cuối cùng để cho anh tự phủ nhận điều mình đã nói và thừa nhận là mình có tội. Sự từ chối ấy là cho đám đông thốt ra một tiếng thở dài vì như thế là người tù không còn may mắn được thắt cổ chết trước khi ngọn lửa cháy vào da thịt để hành hạ anh ta.

Tiếng của Giăng Canvanh căng thẳng và run run khi đọc to bản án khốc liệt, vì ông ta không phải không biết rằng luật của Thuỵ Sĩ cấm không được dùng lửa để hành hạ vào lúc cuối cùng để trừng phạt tội xâm phạm đến tôn giáo. Mãi sau này, khi học giáo luật ở Pađu, Ăngtoan mới hiểu rõ Canvanh đã cố gắng một cách cuồng tín phục hồi lại đạo luật Giuxtiniêng khi ấy đã bị huỷ bỏ để có thể tuyên án tử hình. Ngay nhà thờ Gia tô giáo khi xét xử, buộc tội Misen Xécvê cũng không yêu cầu tử tội. Chỉ có Canvanh yêu cầu án ấy và đã được chấp thuận.

Trông thấy Mighen đứng đấy, kiêu hãnh, không cúi đầu trước cái chết khủng khiếp nhất, Ăngtoan cảm thấy lòng tràn nhập một niềm tự hào vô biên vì anh là em của một người trung thành với những điều mình đã vững tin cho đến lúc chết.

Tiếng rền rĩ hoảng sợ nổi lên từ đám đông khi ngọn đuốc được châm vào đám củi khô. Trong sự trầm lặng tiếp theo, ai nấy đều nghe rõ tiếng khóc nghẹn ngào của một người đàn bà. Ăngtoan cảm thấy cha quay đi và giấu mặt vào vai anh, còn anh, như bị mê hoặc, anh không thể rời mắt khỏi những ngọn lửa đang bùng lên. Anh thấy rõ ngọn lửa bò lan ngày càng nhanh trên củi khô nổ lách tách rồi bén vào thân hình mảnh dẻ đang bị trói vào một chiếc cột. Anh thấy rõ, những sợi khói lượn lờ và xoắn lại khi thiêu cháy quần áo rách rưới của nạn nhân trước lúc đốt vào da thịt.

Họng căng lên những tiếng kêu cố hãm lại một cách khó khăn, Ăngtoan muốn ném những lời thách thức và căm ghét của mình vào bộ mặt ghê gớm và lì lợm của Canvanh, nhưng cha anh đã đưa tay kéo anh đi:

- Lại đây, Ăngtoan, lại đây con, chúng mình đi ngay bây giờ.

Khi xuống đồi, người con đỡ cha trong cánh tay khoẻ mạnh của mình. Ăngtoan không thể ngăn mình ngoái qua vai nhìn lại lần cuối cùng quang cảnh khủng khiếp ở phía sau họ. Lúc ấy những ngọn lửa đã chồm lên đến tóc của người tuẫn tiết, bao anh mọi phía, nhưng anh luôn đứng thẳng bên chiếc cột, vững vàng và thách thức những tên đao phủ cho đến lúc cuối cùng, không chịu gục xuống khi cơ thể còn đôi chút sức lực để chống đỡ.

Và Ăngtoan Xécvê biết rất chắc chắn, với một niềm kiêu hãnh không tả rằng ngay trong cái chết, và bằng cái chết ấy, người anh tuẫn tiết của mình vẫn thắng bọn đã giết anh.

Mấy giờ sau, khi họ đi khá xa cái thành phố đáng nguyền rủa, nguy hiểm cho họ hơn đối với bất cứ ai, hai cha con ngồi trong một cánh đồng cỏ, bên một dòng nước nhỏ, và thong thả nhai pho mát cứng với bánh mì đen. Lúc ấy Ăngtoan mới dám nói đến điều sục sôi trong đầu anh từ khi hai người bắt đầu đi:

- Con hãnh diện, cha ơi! Ôi! Con hãnh diện vì anh ấy biết chừng nào! Cha có thế không?

Cha Xécvê thong thả lắc đầu:

- Tôniô(14) của cha, cha đã dạy con thành người ngoan đạo. Đừng bao giờ quên rằng anh con đã mắc tội theo tà giáo.

- Có thể là anh ấy đã đúng, - người con nói vẻ bướng bỉnh. - Cha có trông thấy mắt anh ấy không?

Lúc ấy, giọng người cha nghiêm khắc lại:

- Tà giáo không bao giờ đúng cả, Tôniô ạ. Không một ai có quyền nêu thành vấn đề ngờ vực các quyết định, các sắc luật của Đức Mẹ Thánh Đường của chúng ta. Ngay từ hôm nay, con có bổn phận phải quên đi rằng trong một thời gian, con đã có một người anh tên là Misen Xécvê.

- Nhưng thưa cha...

- Cha đã nói rồi. Chúng mình không bao giờ nói đến vấn đề này nữa. Hãy đặt tay lên trái tim con và thề đi... - Thế là Ăngtoan thong thả nhắc lại những lời cha anh đã đọc cho anh: "Con xin thề nhân danh Đức Mẹ đồng Trinh Maria rất thánh rằng không bao giờ đọc đến tên Misen Xécvê và cũng không bao giờ chấp nhận hay thừa nhận bất cứ quan hệ họ hàng nào với người ấy".

- Con là đứa con trai tốt, Tôniô ạ. Cha hy vọng rằng con sẽ hiến dâng cuộc đời mình cho Nhà thờ.

Cha anh đã ôm anh vào lòng và người thanh niên hiểu rõ rằng sự sống và cái chết của anh đều sẽ phải dùng để sửa lại tội lỗi của người anh. Nhưng đêm hôm ấy, nằm không ngủ trên bãi cỏ bên bờ suối, anh không nghĩ đến Nhà thờ, cũng không nghĩ đến tội lỗi của người anh. Anh đã nghĩ đến giàn thiêu, đến cặp mắt cháy rực, thân hình kiêu hãnh, dù lửa bao quanh cũng không chịu ngã xuống...

Có thể cho rằng anh của anh đã đúng trong khi tất cả những người khác sai không? Khi ấy Ăngtoan chưa tìm thấy câu trả lời. Phải chăng anh đã tìm thấy nó ngày hôm nay, bên cạnh thân hình to lớn, suy nhược của tu viện trưởng?...

Ăngtoan thong thả đứng lên, rời giáo đường và trở về với sự yên tĩnh của căn phòng nhỏ của mình. Anh đã không tìm thấy sự tha thứ mà cha Phêlíp bảo anh đi tìm. Ngược lại, những ngờ vực của anh được tôi luyện trong ký ức lại mạnh hơn lên, mạnh đến mức có thể tự chúng biến thành niềm tin. Phải rồi, lúc này Ăngtoan đã chắc chắn hẳn. Hẳn Misen Xécvê đã đúng về vấn đề tuần hoàn máu. Và trí tuệ của con người đã có phát hiện quan trọng ấy, một trí tuệ sáng suốt và quả quyết, tại sao lại không thể có được những phát hiện khác trong lĩnh vực thần học? Tà giáo hay không, chân lý vẫn là chân lý.

Đầy bối rối, Ăngtoan đi qua thư viện vắng tanh và mở cửa phòng mình. Anh lấy bùi nhùi ở trong chiếc hộp nhỏ móc ở cạnh cửa, dùng đá lửa đốt lên và nhìn tia sáng yếu ớt lan thành ngọn lửa. Có lẽ chỉ cần một mẩu chân lý bé nhỏ như vậy cũng đủ làm cháy rực lò lửa khoa học.

Anh đốt những cây nến đặt trên các giá gắn liền vào tường và căn phòng đầy ánh sáng. Trên giá vẽ, trong ánh sang lung linh, bức tranh sinh động lên, đầy sức sống và tinh thần. Sự hiện diện của nó bỗng nhiên được cảm thấy như sự hiện diện ấm áp của người thật.

Ngắm vẻ đẹp mờ ảo, thanh thản và tươi cười, Ăngtoan cảm thấy tâm trạng bối rối của anh yên tĩnh dần. Anh thấy lại cảm giác quen thuộc từ hồi bé, khi bừng tỉnh giấc mơ, mẹ đang đứng bên chiếc giường nhỏ của mình và cặp mắt ngái ngủ của anh nhìn thấy mẹ như qua một lớp sương mù. Sự hiện diện thực sự của mẹ đủ làm anh yên tâm. Và anh ngủ lại một cách bình yên. Lúc này bức tranh đang toả ra trong phòng anh một sự êm ả, ấm áp, yên tĩnh giống như vậy.

Quỳ bên giường, Ăngtoan nhiệt thành cầu Chúa ban cho sự giúp đỡ của người để dẫn dắt tâm trí rối bời của anh vào con đường tốt.

- Trời ơi! Cậu tập dượt để làm anh đồ tể đấy à, Ăngtoan?

Ăngtoan rời mắt khỏi xác con lợn còn thoi thóp đặt trên chiếc bàn nhỏ trong căn phòng thực nghiệm của giảng đường giải phẫu và mặt rạng niềm vui khi trông thấy người thanh niên đang dừng bước trước khung cửa mở.

- Giăng! - Anh hân hoan kêu lên. - Vào đi rồi khoá cửa lại, chúng mình quên không khoá đấy.

Bên cạnh Ăngtoan mình trần và hai vai rộng mồ hôi đang chảy ròng ròng, cụ Ghintêriút miệng khẽ càu nhàu, tay đang làm một thứ máy móc bí mật gì đó: một cây sậy rỗng ruột với chiếc lông ngỗng vót nhọn gắn vào đấy bằng sáp đã hơ chảy. Cụ đang đổ vào cây sậy một chất lỏng xanh sẫm trong khi dùng đầu ngón tay sứt sẹo bịt chỗ mở vát nhọn của lông ngỗng.

Chú ý tránh để khỏi bẩn giày vì rác rưởi bừa bãi trên đất, Giăng thận trọng đi qua căn phòng nhỏ. Giày anh bằng da mềm Tây Ban Nha và mũi giày hơi cong điểm những chiếc chuông bạc nhỏ xíu rung leng keng theo mỗi bước đi.

Người tầm thước, hơi thô một chút, tóc vàng rủ trên khuôn mặt tròn, Giăng trông rất dễ ưa. Tuy là con một nhà nhập khẩu giàu sự ở Vơnidơ, anh đã kết bạn thân thiết với Ăngtoan, người không có một xu dính túi, khi anh từ Vơnidơ đến Pađu từ mấy năm trước đây để học giải phẫu cơ thể, vì anh cho rằng khoa học này rất cần cho người hoạ sĩ nào xứng đáng với danh hiệu ấy.

Giăng Xavarinô là hoạ sĩ, mặc dầu cuộc sống của anh không có điều gì làm anh gần gũi Ăngtoan Xécvê, tình bạn của họ đối với nhau vẫn vững chắc.

- Cậu âm mưu quỷ quái gì thế này? - Anh chàng người Vơnidơ vừa hỏi vừa trèo lên một chiếc ghế đẩu để nhìn cho rõ, anh cẩn thận vén gọn các vạt áo nhung và ngồi xa để tránh tầm máu bắn tới.

Người bác sĩ trẻ tuổi đưa cánh tay quệt mồ hôi trán. Ngực anh để trần lấm tấm những giọt máu đỏ thẫm và những ngón tay dài nhớp nháp máu.

- Cậu thấy đấy, mình đang mở lồng ngực của con vật này để tiếp cận tim của nó, - anh trả lời.

- Lạy chúa! Bây giờ cậu không còn đợi được các nạn nhân của cậu chết rồi hãy mổ xẻ hay sao?

- Nó chết rồi đấy chứ, coi chừng thí nghiệm này làm đông và tắc huyết quản lại mất.

Nói xong Ăngtoan tiếp tục công việc, anh cắt chỗ sụn mềm liên kết các xương sườn và lật mảng trước ngực xuống như mở chiếc cửa sập: những lá phổi hiện ra, bóng và xám xanh, ở giữa, quả tim còn đang phập phồng trong cơn co bóp cuối cùng lúc hấp hối.

- Chúng tôi đang thử kiểm tra và khẳng định học thuyết của Misen Xécvê về tuần hoàn máu qua phổi, - anh giải thích nhưng không ngừng lại phút nào. Anh lấy một chiếc lông đã cắt nhọn trong bó để trên bàn và bằng một động tác chính xác cắm nó qua thành trái của quả tim, thẳng vào bên tâm thất vẫn đẩy máu qua các huyết quản lớn. Cơ tim run lên và co bóp lan truyền rất rõ trên khắp bề mặt quả tim. Lập tức máu từ đầu chiếc lông ở phía ngoài chảy ra đỏ tươi và nhỏ xuống mặt bàn gỗ.

- Lúc này, ống dẫn đặt và tâm thất trái. Tôi sẽ cắm một chiếc vào tâm nhĩ trái, nơi tĩnh mạch phổi chảy vào tim. Vách tâm nhĩ mỏng hơn và dễ đâm xuyên qua hơn.

- Thế còn dụng cụ này? - Giăng hỏi. - Dùng nó để làm gì?

- Cậu sẽ thấy ngay đây! Cụ Ghintêriut ơi, cụ làm ơn giữ nó cho thẳng.

Cụ già làm theo, vẫn lẩm bẩm. Ăngtoan cầm chiếc ống dẫn bằng lông ngỗng gắn ở đầu cây sậy và thận trọng đưa đầu sắc nhọn vào thành bên phải tim. Qua thành mỏng của cây sậy, trông thấy rất rõ mức nước xanh rút thấp xuống dần theo đà nó chảy vào tim và hoà với máu trong đó.

- Chúng tôi cho phẩm xanh chảy thẳng vào bên phải của tim. Bây giờ tôi sẽ bóp vào cơ và kích thích cho tim co bóp: chắc cậu hiểu rằng phải làm rất nhanh, khi máu còn loãng, cơ còn ấm và mềm, có thể đáp ứng với sự kích thích từ bên ngoài.

- Tinh xảo thật! - Giăng thốt lên, khâm phục. - Nhưng điều đó chứng mình cái gì?

- Nếu phẩm xanh không từ tâm thất trái chảy ngay ra ngoài, ta sẽ biết rằng Galiêng đã lầm và không có lỗ thủng ở màng ngăn, giữa hai bên tim.

- Trời ơi chính cậu tự gây những chuyện phiền phức ấy sao? Hãy nhớ rằng người ta đã làm khổ Vêdan và làm cho đời sống của ông ta không thể chịu đựng được nữa đấy!

- Thưa ông, chính tôi đã nói với ông ta điều ấy - Cụ Ghintêriut lầu bầu. - Nhưng ông ấy có nghe đâu.

- Khi hắn đã bám vào một ý nào đó thì hắn không nghe điều gì và cũng chẳng nghe ai cả đâu! Hắn cứng cổ và dai dẳng lắm, cụ ạ.

Ăngtôniô chăm chú vào công việc nên không hề lưu ý đến những lời bình luận của họ. Đặt các ống dẫn đúng vị trí xong, anh bóp vào cái cơ hình quả lê bằng những ngón tay khoẻ mạnh, bắt chước một cách cơ giới nhịp đập tự nhiên của quả tim. Các động mạch dẫn máu vào phổi phồng lên rất rõ khi sự co bóp đẩy máu trào vào đấy. Màu của những động mạch ấy bình thường hơi xanh nay sẫm rõ rệt khi phẩm hoà vào máu.

- Cậu thấy chưa! - Ăngtoan kêu lên - Mình cho đầy phẩm vào bên phải và không có gì chảy ra từ bên trái cả, điều ấy sẽ xảy ra nếu thực sự vách ngăn ở giữa có những lỗ thủng nhỏ như tất cả các nhà giải phẫu trên thế giới đã tin tưởng hàng nghìn năm nay và hiện nay vẫn còn tin như thế.

- Lạy Chúa tôi. Vêdan nói đúng à?

- Và trước ông là Misen Xécvê! - Ăngtoan đắc chí thốt lên. Vào thời cụ, cụ Ghintêriut đã biết Misen Xecvê và không phải không biết số phận bi thảm của anh ấy. Cụ làm dấu như đứng trước điều ác.

- Thật là việc làm của quỷ dữ! - Cụ thì thầm.

- Chân lý không thể là việc làm của quỷ dữ. - Ăngtoan nhận xét và buông tay đang bóp. - Ngay tức thì, quả tim nở ra như khối lượng bình thường và các tĩnh mạch nối với tim trút máu vào tim, tim hút vào trong nó máu do các tĩnh mạch đưa đến.

Ăngtoan lại làm động tác ấn cơ bắp, máu tràn ra làm phồng những động mạch đi từ tim đến phổi, như thế là anh đã đưa một luồng máu mới đến phổi.

- Nếu máu thực sự tuần hoàn qua phổi, chúng ta sẽ sắp sửa thấy phẩm xanh đi ra và chảy qua ống lông ngỗng cắm ở bên trái tim.

Lúc này cả ba người đều cúi xuống bàn, thở hổn hển, theo dõi những giọt máu đỏ rỏ vào chiếc ống cắm ở tâm nhĩ trái, nơi đầu tiên máu ở phổi sẽ đẩy đến. Vẫn chỉ thấy máu đỏ bình thường ở đầu lông ngỗng...

Bỗng màu máu sẫm lại, lúc đầu gần như không rõ rệt. Ăngtoan lấy một mẩu giẩy giơ vào dưới dòng chảy để các giọt máu từ đầu ống rơi vào tờ giấy trắng. Và, nổi bật lên trên màu giấy trắng tinh, máu chảy xuống lúc này xanh, xanh một cách rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa!

Ngón tay Ăngtoan run lên vì bị khích động.

- Phẩm đây rồi! Phẩm đã đi vòng qua phổi và đã đi ra bằng phía bên trái.

Giăng khẽ chửi thề, cụ Ghintêriut cũng không giữ nổi tiếng kêu ngạc nhiên và tiến lại gần để xác nhận phép lạ ấy. Không còn nghi ngờ gì nữa, lúc này máu đang chảy thành dòng từ ống lông bên trái và màu nó xanh, màu xanh của phẩm. Nó chỉ có thể đến chỗ này sau khi nhờ những nhịp đập của tim được tái tạo một cách cơ giới, đi một vòng trọn vẹn qua hai phổi, chính vòng tuần hoàn mà máu đã thực hiện thường xuyên, cố định, bình thường theo mỗi lần đập vào quả tim sống.

- Phải như thế chứ! Phải như thế, vì Misen đã nói đúng và cha Phêlíp đã sai! - Ăngtoan kêu lên.

- Cha Phêlíp ư? - Giăng hỏi - Ai thế?

Ăngtoan không nghe lời anh hỏi.

- Cả hai vị, các người đã xác nhận việc này bằng chính mắt mình, - anh nói, run lên vì phấn khích. - Các vị sẽ có thể làm chứng sau khi thề, để làm tin.

- Rất vui lòng! - Giăng Xavarinô trả lời.

Nhưng cụ Ghintêriut lắc đầu:

- Tôi không biết gì về việc này cả. Bác bỏ Galiêng là việc làm của quỷ dữ.

- Chúng ta còn bác bỏ nhiều người khác nữa trước khi kết thúc - Ăngtoan nóng nảy nói. - Nếu Galiêng có thể nhầm về sự việc này, ông ta cũng có thể nhầm về nhiều điểm khác. Cả Arixtôt, cả Ptôlêmê(15) và còn nhiều người khác nữa.

Bộ mặt vui vẻ của Giăng trở nên lo âu. Mặc dù thời kỳ này Vơnidơ là nơi duy nhất trên thế giới mà khoa học có thể ngự trị không bị trở ngại, nhưng không ai không biết rằng quyền hànhh của Giáo Hoàng không dừng lại ở biên giới của nước Cộng hoà tối quang minh này và Ngài luôn có những biện pháp đụng tới những người dám chống lại sắc lệnh của La Mã. Nhà thờ đã coi những điều giảng dạy của Galiêng là của Nhà thờ. Về mặt y học, không thể động đến những điều ấy được, cũng như về mặt thần học không thể động được đến Thánh Kinh.

- Cậu định làm gì bây giờ, Tôniô?

- Thông báo không chậm trễ phát hiện của mình với Trường đại học Y khoa. Nó chứng minh một cách không thể chối cãi được rằng Misen Xécvê đã đúng về vấn đề tuần hoàn qua phổi.

Anh đến góc buồng, chỗ có thau nước, rửa tay và rửa ngực.

- Cụ dọn dẹp được rồi đấy, cụ Ghintêriut ạ. Hôm nay chúng ta xong việc rồi.

- Tôi làm ngay đây.

Cụ già sốt sắng ưng thuận.

- Càng thấy việc làm quỷ quái này kết thúc sớm chừng nào tôi càng bằng lòng chừng ấy.

Nhưng Ăngtoan chỉ mỉm cười và lau ngực bằng một chiếc khăn ráp, anh cảm thấy muốn ca hát đến phát điên lên. Các vị thành viên của trường đại học sẽ có thái độ như thế nào đây nhỉ! Họ sẽ mở to mắt như thế nào khi anh làm lại thí nghiệm trước mắt họ! Thí nghiệm ấy đã thành công một lần thì sẽ thành công mãi mãi và sẽ không còn nghi ngờ gì về khả năng anh được giữ chiếc ghế giáo sư của cụ Phalôpiút. Nhưng còn hơn thế nữa. Cùng một lúc, Ăngtoan đã đem lại chứng cớ là Misen Xécvê đã nói đúng và những người kết tội anh đã mắc sai lầm.

- Hãy kể lại từ đầu đi nào! - Giăng nói, người ngả trong chiếc ghế bành trong khi Ăngtoan đi đi, lại lại, không thể tự trấn tĩnh được. Ý kiến ấy đã đến với cậu như thế nào nhỉ?

Khi Ăngtoan thuật lại xong việc anh thực nghiệm bên giường của Mariô Belacmi và cuộc đối thoại giữa anh và cha Phêlíp, Giăng lo lắng ra mặt.

- Việc không đơn giản đâu, - anh nói - Bây giờ thì tôi biết Xăngtốt rồi đấy. Ông ta thuộc dòng Đôminich và tôi nhớ khá chắc chắn, là một trong những nhân viên của Tôn giáo pháp đình.

- Nhưng tôn giáo pháp đình có liên quan gì đến việc này?

- Toà án tôn giáo can thiệp đến bất cứ nơi nào họ muốn và họ muốn can thiệp đến mọi nơi. Nếu Xăngtốt biết rằng cậu đã không tuân theo lời ông ta, cậu sẽ trả giá đắt đấy, Tôniô ạ.

- Nhưng ông ta sẽ biết vì chính mình định nói chuyện này với ông ta. Ông ta sẽ bắt buộc phải tiếp nhận sự thực, thấy sự thực ở chỗ nào, khi tôi chứng minh kết quả của việc thực nghiệm cho ông ta biết.

- Đừng có ngốc, Tôniô! Cậu há không biết rằng khi đụng tới tà giáo thì không khó tiếp cận với chân lý bằng việc anh mục sư bướng bỉnh à?

- Đừng nói với tôi rằng tất cả sự việc này phải giữ bí mật! - Ăngtoan tức giận kêu lên. - Đừng có nói rằng tôi phát hiện ra ánh sáng để rồi tự tôi lại che giấu nó đi.

- Như thế thực ra mới là khôn ngoan hơn đấy. Nhưng này, Misen Xécvê là ai mà câu quan tâm đến như vậy, dù rằng cậu có cùng họ đi chăng nữa?

Ăngtoan ngẩng mặt nhìn anh và nói một cách kiêu hãnh:

- Misen Xécvê là anh ruột mình

Giăng lặng đi trong mấy giây, rất sửng sốt. Rồi anh đứng vùng lên đi đi lại lại:

- Trời đất ơi! Mình ngốc thật! Ngu xuẩn một cách mù quáng. Thậm ngu, chí ngu! Tại sao mình lại không ngờ đến chuyện này nhỉ?

- Thế cậu vẫn giữ ý kiến rằng tôi cần giữ bí mật phát hiện của mình chứ?

Giăng nghiêm nghị lắc đầu.

- Không. Trường hợp này thì không. - Mặt anh bỗng sáng lên - Nhưng mình không rõ tại sao cậu lại phải nhắc đến anh cậu...

- Nói rõ hơn một chút, Giăng.

- Nghe đây, Tôniô. Hãy công bố điều này như sự phát hiện của riêng cậu và tương lai cậu thế là được đảm bảo! Vấn đề tự bản thân nó đã khá quan trọng để cậu xứng đáng với chiếc ghế giáo sư giải phẫu học rồi.

- Nhưng đây không phải là phát hiện của mình! Nó không thuộc sở hữu của mình.

Giăng giơ hai tay lên trời.

- Cậu nhất định muốn cho thân cậu cũng bị thiêu như một tên tà giáo à? Cậu biết rằng các văn bản của những người đã bị kết án là tà giáo đều thuộc loại tài liệu cấm. Nếu cậu cố ý muốn công bố phát minh của cậu với mục đích phục hồi danh dự cho anh cậu thì cầu tự chui đầu vào thòng lọng rồi đấy. Những bài viết cảu cậu cũng bị buộc tội và sự phát hiện ra chân lý sẽ một lần nữa bị mất đi, đối với khoa học.

Ăngtoan cúi đầu trước nhận định hợp lý dễ sợ của Giăng, nhưng anh chưa chịu khuất phục. Tự gán cho mình toàn bộ giá trị của phát minh này là một sự bất chính đối với người thanh niên tiều tuỵ, dũng cảm đã ngạo nghễ đương đầu với cái chết tàn khốc nhất trong buổi chiều thu ấy ở Sampen.

- Mình phải về Vơnidơ chiều nay, Hãy hứa với mình là không tiến hành việc gì khi chúng ta chưa bàn lại với nhau, - Giăng năn nỉ.

- Nhưng cậu làm gì được ở đây?

- Mình có những người bạn được gần gũi với Giáo Hoàng và họ phóng khoáng hơn các mục sư thông thường. Hãy cho phép mình đặt vấn đề với họ coi như một giả thuyết thôi, không nhắc đến tên cậu, để nghe xem ý kiến của họ ra sao.

Ăngtoan miễn cưỡng hứa, hứa nhưng lòng cay đắng. Hôm qua, và mới sáng hôm nay, anh đã cảm thấy lâng lâng vui sướng, phấn khởi do các đã phát hiện ra và cả sự hãnh diện về anh mình, dù cho Nhà thờ đã nghĩ như thế nào về anh ấy. Ngay bây giờ, mặc dù những lời dè chừng của Giăng, một tiếng nói ở đáy lòng anh đang bảo anh rằng nếu như Misen Xécvê ở vị trí của anh lúc này thì anh ấy sẽ không lưỡng lự chút nào. Và rồi bỗng nhiên anh nhớ đến bức tranh, sự khao khát muốn nói ra nung nấu trong anh. Giăng, bản thân là hoạ sĩ và là bạn thân của anh, đúng là người anh cần tâm sự.

- Trước khi cậu đi, Giăng ạ, mình cần cậu góp ý cho mình vài lời về mấy bức hoạ của mình, - anh lúng túng nói.

- Thật ư? Mình tưởng cậu đã từ bỏ rồi... Thế là nghệ thuật lại làm cậu thú vị rồi đấy?

- Nếu cậu đến tu viện được, mình sẽ đưa cậu xem mấy bức phác hoạ mới đây.

- Được lắm. - Giăng nói và anh đã cảm thấy có điều bí mật gì đây. - Nhưng, nếu cậu đồng ý thì chúng mình dừng lại ở một quán ăn nào đó để ăn điểm tâm bằng bánh mì và pho mát. Mình thực không muốn động đến thứ cám lợn mà họ cho tu sĩ của họ ăn, trong tu viện của cậu.

Họ ăn trong một quán ăn ở quãng giữa trường đại học và tu viện, rồi đi về căn phòng của Ăngtoan. Giăng sửng sốt nhìn bạn rút trong nếp áo ra chiếc chìa khoá nặng trĩu,

- Có thể như thế này được ư? Một chiếc cửa khoá trong một nhà tu?

- Lặng im!... - Ăngtoan nói và đưa mắt nhìn quanh mình.

- Tại sao vậy?

- Bởi vì trong phòng mình có một thứ có giá trị lớn. Cậu sẽ tự mình nhận xét thấy.

- Mình đoán rằng cậu đang đến một nơi hò hẹn nào đấy? - Giăng chế giễu, trong khi người thầy thuốc trẻ cẩn thận khép cửa lại.

Rồi đến cạnh cửa sổ, anh kéo tấm rèm che để tránh những cặp mắt tò mò sang một bên.

Mặt trời như một làn sóng ào vào người phụ nữ duyên dáng đang bước từ chiếc thuyền nhỏ bằng xà cừ xuống

- Trời ơi! - Giăng khàn giọng nói. - Bức tranh Thần vệ nữ của Bôtixeli.

Cặp mắt anh đầy thán phục và tôn kính.

- Cậu chắc như thế chứ? - Ăngtoan sửng sốt nói.

- Không một chút nghi ngờ nào cả về vấn đề này, bạn ạ. Chỉ có bậc thầy như Bôtixeli, chỉ có chính Bôtixeli mới có thể vẽ được kỳ quan này.

- Mình đã chắc rằng đây là một tác phẩm nghệ thuật thực sự. - Tôniô hớn hở kêu lên - Trước đây cậu đã trông thấy nó chưa?

- Thấy một lần, ở Phlôrăngxơ. Nhưng thế quái nào mà nó lại ở đây?

- Một người nào đó đã bỏ cả một cuộn tranh trong kho chứa đồ của tu viện. Khi tìm mấy cuốn sách mình đã phát hiện ra bức tranh này.

- Mình biết bức tranh Thần vệ nữ đã bị lấy cắp ở Phlôrăngxơ. Tu viện trưởng có biết không?

- Người ốm nặng nên mình không muốn làm phiền. - Ăngtoan nói, rồi anh lúng túng nói tiếp: - Mình đã thử mô phỏng lại từng phần của bức tranh... thành những phác hoạ...

Giăng lặng lẽ nghiên cứu những bức vẽ, nhất là bức sau cùng, bầu vú mới hình thành một nửa, xoá đi một nửa, và con mắt thành thạo của anh thoáng qua đã thấy ngay sự vụng về của đường nét, những nét sửa bất lực bằng than chì, không thể hiện được nét dịu dàng và đường cong của bộ ngực.

- Mình không thể nào vẽ đạt được, - Ăngtoan phân trần.

Giăng khịt mũi vẻ ngao ngán:

- Đủ rồi đấy! Cậu làm thế nào có thể hy vọng mô phỏng đúng được bâầ vú của người đàn bà khi mà cậu chưa bao giờ trông thấy nó, thưa ngài tu sĩ?

Ăngtoan đỏ mặt:

- Mình đã giải phẫu phụ nữ rồi mà!

- Việc ấy mới quan trọng chứ! Vậy thì cậu cũng có thể so sánh một góc thịt rừng với một con nai đang tự do chạy nhảy! Cậu sẽ không bao giờ biết hội hoạ là gì, anh bạn tội nghiệp của tôi ơi, khi cậu chưa hiểu về cái mà cậu muốn vẽ.

- Cha! Cụ Phalôpiút cũng đã nói với mình gần đúng như thế trong lĩnh vực y học - Ăngtoan thở dài

- Sự minh mẫn lên tiếng qua miệng cụ Phalôpiút đấy. Mình nghe nói cụ là một người quả cảm trong thời đại cụ.

- Nhưng... - Ăngtoan lầm bầm nói. - Dù sao thì... không thể, trong một bức tranh như thế này... có ở đây cái... cái mà cậu nói...

Đối với anh, nhân vật trong sáng của anh là sắc đẹp không vết bợn, quá trinh khiết, chắc chắn rằng vẻ đẹp này không bao giờ bị các ham mê làm cho ô uế... những ham mê mà người ta dạy anh rằng chúng là tiếng gọi ti tiện của quỷ Xatăng

- Đúng là tiếng nói của một thầy tu! - Giăng vừa trả lời vừa cười.

- Tại sao cậu lại cười? - Ăngtoan mếch lòng nói. Anh chàng người Vơnidơ lau mắt bằng chiếc khăn vải mịn viền đăng ten rồi nhét vào trong ống tay rộng thùng thình của chiếc áo dài anh đang mặc.

- Thôi! Cậu say mê người đẹp biển cả của cậu rồi đấy! Điều ấy đã rõ ràng.

- Đừng có lố lăng! Đó chỉ là một bức tranh.

- Chính thế đấy. Tôniô của tôi ạ, chính thế đấy! Bi kịch nằm ở chỗ ấy. Ở vị trí như cậu đang ở hiện nay, rõ ràng cậu sẽ chọn một bức tranh để kết tinh các ham mê của cậu hơn là chọn một người đàn bà bằng da bằng thịt.

Ăngtoan nổi nóng:

- Không có vấn đề ham mê gì ở đây cả!

Nét mặt Giăng nghiêm nghị hẳn lên:

- Cậu hãy hiểu mình cho rõ, Tôniô ạ! Cậu không thể cư xử khác thế được vì cậu đang sống trong nhà tu. Nhưng có gì là thấp kém trong tình yêu trong sáng của một người đàn ông đối với một người đàn bà đâu nhỉ!

Giăng mỉm cười vẻ khoan dung, nói tiếp:

- Cậu chưa hề hiểu biết về đàn bà, anh bạn ạ! Hãy biết cho rõ rằng những người tồi tệ nhất trong bọn họ có thể giống như các vị nữ thánh, và hành động như thánh nếu như họ muốn thế.

- Tôi không tin như vậy một chút nào cả! - Ăngtoan quả quyết trả lời.

Giăng suýt nhún vai nhưng anh kìm được và lần lượt nhìn dáng dấp người trong tranh dưới ánh sáng dịu dàng của bộ mặt ngây ngất của bạn mình. Trong giây lát, một cái gì đó trong cái mà Ăngtoan cảm thấy qua người đàn bà mỉm cười trong bức hoạ kia, một chút gì của lòng thành kính, của tình yêu trong trắng của anh đã làm cho Giăng cảm động. Khi anh nói tiếp, giọng anh khàn lại:

- Thôi được, hãy tiếp tục nghĩ như vậy đi. Tôniô của tôi, - anh nói - Cậu sẽ không bao giờ tìm thấy một người đàn bà thực có thể tạo cho cậu sự rung cảm giống như vậy đâu.

Rồi anh chàng Giăng giễu cợt và lý luận lại xuất hiện.

- Bây giờ mình phải đi Vơnidơ, - anh nói bằng cái giọng vốn mau mắn của mình - Cậu chính thức hứa với mình là sẽ không nói đến thí nghiệm ấy trước khi gặp lại mình chứ?

- Mình hứa. - Ăngtoan nói - dù miễn cưỡng...

- Còn bức hoạ?

- Mình sẽ thử vẽ lại.

- Hãy tin mình, điều đó sẽ không đem lại cái gì tốt đâu. - Giăng mỉm cười nói, - nhưng cậu cứ việc làm theo ý muốn. Một ngày nào đó cậu sẽ thấy rằng lời khuyên của mình có giá trị.

- Mấy hôm nữa mình sẽ nói cho cha Phêlíp biết là bức tranh ở đây. Phlôrăngxơ sẽ rất vui mừng thấy lại nó.

- Úi chà! - Giăng nhăn mặt nói - Nếu như Vơnidơ thực sự muốn trả lại nó. Mình cam đoan rằng cái vị cha Xăngtốt tử tế ấy sẽ làm đủ cách để giữ nó ở lại đây, ở ngay tu viện này.

- Không thể như thế được. - Tôniô sôi nổi nói, - Như vậy sẽ là lấy cắp.

Lần này, Giăng nhún vai, vẻ thương hại.

- Mình thấy thực sự rằng cậu còn nhiều điều phải học hỏi đấy. Tôniô ạ, đã đến lúc mình phải tự xác định trách nhiệm giáo hoá cậu rồi.

- Vào giữa buổi chiều, trong khi Ăngtoan đang chuẩn bị cách trình bày cho thật rõ ràng với trường đại học y khoa thí nghiệm của anh về tuần hoàn phổi thì có người gõ cửa.

Anh ra mở cửa và thấy một tu sĩ giúp việc nhà tu.

- Đức Cha hình như nặng lên nhiều, thưa thầy Ăngtôniô, - người sứ giả nói. - Cha Phêlíp Xăngtốt mời thầy đến chỗ ngài ngay lập tức.

- Tôi đến ngay đây, chúng ta đi nhanh lên!

Ăngtoan lấy chiếc mũ nhung mềm và đi theo tu sĩ.

Đúng là tu viện trưởng đang hấp hối, Ăngtoan thấy rõ điều đó khi anh bước vào phòng. Người bệnh đang chìm trong trạng thái hôn mê, không thể nhầm lẫn được, đó là trạng thái báo trước cái chết. Mặt người đỏ gay, hơi thở khàn và khó khăn chỉ còn là những tiếng hổn hển ngắn, liên tục thoát ra từ một đáy sâu đầy tiếng thô ráp và lép bép. Cha Phêlíp Xăngtốt đang đứng một bên giường. Phía bên kia, một người đàn ông đang quỳ gối cầu kinh. Nét mặt như được khắc gọt tinh tế và mái tóc xám cắt ngắn bộc lộ rõ đây là một người Ý dòng quý tộc. Các ngón tay ông lần tràng hạt trong khi miệng ông liên tục thì thầm những tiếng Avê(16).

Gần bên người đàn ông đang đọc kinh, có một thiếu nữ với khuôn mặt nhỏ hoàn hảo rất quen thuộc với Ăngtoan đến nỗi anh giật mình khi vừa nhìn thấy. Anh chắc chắn rằng chưa bao giờ biết nàng, rằng mới gặp nàng lần đầu, nhưng mọi nét ở nàng đều quen thuộc, cặp mắt màu xám ánh lam, bộ tóc vàng trong chiếc mũ nhung lam thêu những hạt ngọc trai nhỏ xíu, đôi môi tươi thắm ôn hoà, nét lo âu nhẹ nhàng phảng phất trên trán và đến cả dáng người dong dỏng mặc bộ quần áo đi đường giản dị. Không, anh chưa bao giờ trông thấy nàng, nhưng hình như anh đã quen biết nàng suốt cuộc đời mình.

Người đang quỳ gối đứng lên và cha Phêlíp giới thiệu Ăngtoan với ông ta:

- Đây là bác sĩ Ăngtoan Xecvêtút, thầy thuốc của Đức Cha; Còn đây là ngài Girôlamô Belacmi ở Phlôrăngxơ, em trai Đức Cha.

Nghe giới thiệu, ông Girôlamô chào một cách khả ái. Ông rất giống cha Mariô, giống tới mức mà người em với nét mặt tinh tế có thể giống người anh có bộ mặt đang sưng phù, dị dạng, lốm đốm đen - mặt cha Mariô cũng giống như mặt em ngài trước khi bệnh tật làm cho dị dạng. Chiếc áo sẫm khoác trên vai người khách viền bằng lông thú, một sợi dây chuyền vàng đeo quanh cổ ông. Tất cả ở ông đều nói lên rằng ông là một thương gia giàu có hoặc là người thuộc dòng dõi tiểu quý tộc.

Ăngtoan cảm thấy mình sỗ sàng khi anh chăm chú nhìn thẳng vào mặt người thiếu nữ, nhưng anh lại thấy không thể rời mắt khỏi nàng được.

- Đây là cô Luxia Belacmi, cháu gái đồng thời là con nuôi của tôi.

Thiếu nữ nghiêng đầu khẽ gật chào. Má nàng bừng đỏ và hai môi mím chặt. Rõ ràng là sự chú ý xung quanh đã làm cho nàng rất khó chịu.

Ăngtoan xem mạch và xác nhận rằng người bệnh đang yếu đi nhanh chóng một cách đáng lo ngại, điều ấy phù hợp với toàn bộ trạng thái bên ngoài của tu viện trưởng. Anh lau bọt đỏ ngầu ứa trên miệng ngài. Các tĩnh mạch cổ của cha Mariô, một chiếc cổ bò mộng đang căng phồng máu, hình như sắp vỡ tung.

- Đức Cha mỗi lúc một yếu đi, - cha Phêlíp nói, giọng cảm động. - Tôi không muốn làm phiền anh khi anh ở trường đại học, bác sĩ Xecvêtút ạ, nhưng tôi thấy rất cần mời anh để chăm sóc ngài.

- Ngài đang hấp hối, - Ăngtoan nói nhỏ.

- Không còn cách gì nữa sao? - Người thiếu nữ khẽ hỏi.

- Tôi có thể trích huyết cho ngài... như vậy sẽ làm cho ngài dịu đi được chút ít. Nhưng cũng không làm chậm phút trăng trối lại được bao lâu.

- Có lẽ một thầy thuốc lớn tuổi và giàu kinh nghiệm hơn sẽ cứu chữa tốt hơn chăng? - Luxia quay về phía cha Phêlíp nói.

Đến lượt Ăngtoan đỏ mặt trước thái độ ngạo mạn cố tình ấy. Ông Girôlamô nhiệt thành xin lỗi anh:

- Xin ông thứ lỗi cho lời nói hơi hấp tấp của cháu gái tôi. Nó còn trẻ quá...

- Cháu đã đủ trưởng thành để nhìn rõ người thân của mình đang chết mà họ không tìm cách gì để cứu. - Luxia nóng nảy cãi lại.

Ông chú càng cao giọng nói:

- Im ngay! Chúng ta đã để cho bác sĩ Xecvêtut có thì giờ tìm cách cứu chữa chưa?

Cha Phêlíp xen vào bằng giọng dàn hoà:

- Bác sĩ Xecvêtut được đánh giá cao ở trường đại học, anh là học trò ưu tú của giáo sư Phalôpiút, giáo sư bảo đảm về khả năng của anh.

- Tôi sẽ trích huyết cho ngài đấy! - Ăngtoan nói và mở hộp dụng cụ ở trên giường.

- Ở Phlôrăngxơ, những người thợ cạo làm công việc trích huyết, - Luxia nói một cách nhẹ nhàng nhưng thâm trầm. - Người thầy thuốc này cũng làm nghề thợ cạo hay sao mà tự tay mình trích máu?

Cha Phêlíp mím môi, rõ ràng là ông tức giận vì những lời xấc xược ấy.

- Bác sĩ Xecvêtut là một nhà phẫu thuật nổi tiếng, Đức Cha luôn muốn rằng anh phải tự tay trích máu cho người.

Ăngtoan khéo léo mở một tĩnh mạch ở cánh tay người bệnh và máu chảy xuống bát. Khi dòng máu chảy đều và mạnh, anh ngước mắt về phía Luxia, thấy nàng mặt tái xanh, môi trắng bệch, người như co rúm lại, mắt nhìn như bị thôi miên bởi dòng máu đỏ thẫm hầu như đó là một con rắn độc. Ăngtoan thấy nàng lảo đảo tựa vào cột giường.

- Có lẽ tiểu thư cần thuốc an thần chăng? - Anh hỏi. Nàng có vẻ như sắp ngất đi.

Hai người đàn ông quay về phía nàng, nhưng lời nói châm biếm của Ăngtoan đã đủ làm chất kích thích vì má nàng ửng lên ngay và nàng cắn môi. Ăngtôniô quay lại với việc trích máu, với tâm trạng bình thản vì đã trả miếng.

Tình trạng của người ốm không khá hơn chút nào và Ăngtoan xếp dao mổ vào hộp. Cái chết của tu viện trưởng đã đến gần, quá gần, đến nỗi phương kế tuyệt vọng thể hiện bằng trích máu không thể có một chút hiệu nghiệm gì cả.

Cha Phêlíp và những người ruột thịt của tu viện trưởng rời gian phòng người hấp hối và Ăngtoan kính cẩn đi theo họ.

Anh lại lấy làm lạ về ý nghĩ quen thuộc, thân mật là khác, đã khơi lên trong anh khi nhìn thấy người thiếu nữ. Kể cả lưng, hai bả vai, cần cổ mảnh dẻ khi nàng kiêu hãnh ngẩng cái đầu bé nhỏ cân đối lên và chuyển động những làn sóng tóc vàng, tất cả ở nàng đều kỳ diệu và quen thuộc, anh phải cưỡng lại một sức mạnh thôi thúc nah đưa tay ra để tin chắc rằng da thịt là thực, rằng đây không phải là một con người từ các giấc mơ của anh đi ra. Cha Phêlíp hỏi:

- Ngài có ở lại đây chiều nay không, cả cô Luxia nữa, thưa ngài Belacmi?

- Bá tước Vôpi, một người họ xa của chúng tôi đã mời chúng tôi đến Vơnidơ, ở lâu đài Pêdarô và cho mượn cả cỗ xe khi chúng tôi cần đến.

- Nhưng Vơnidơ ở cách Pađu hai mươi lăm dặm. - Cha Phêlíp lưu ý.

Ông Girôlamô quay về phía Ăngtoan:

- Anh tôi có thể sống hết đêm nay được không?

- Tôi không chắc, thưa ngài. Tôi sẽ trông nom Đức Cha cẩn thận.

- Vậy thì ngài và cô cháu nên ở lại đây là tốt hơn cả. - Cha Phêlíp gợi ý. - Thật là một dịp may mắn đã đưa ngài đến thăm Vơnidơ đúng vào thời kỳ này.

Ăngtoan quay bước định đi đến căn phòng tu viện trưởng đang hấp hối, nhưng vừa đặt tay lên cửa anh đã dừng lại, sửng sốt, khi nghe câu trả lời của người xứ Phlôrăngxơ:

- Vâng. Khi chúng tôi nhận được thư của ngài, tôi đã quyết định sẽ đi Vơnidơ vì cháu gái tôi và tôi đang tìm một bức tranh có giá trị của gia đình đã bị mất ở Phlôrăngxơ, bức tranh Thần vệ nữ của Bôtixeli. Có những tin đồn truyền miệng làm chúng tôi đoán chừng bức tranh ấy ở Vơnidơ.

- Nhưng chắc chắn là ngài sẽ không thấy nó ở đây, - cha Phêlíp mỉm nụ cười trên cặp môi mỏng.

Ăngtoan đã định nói với ông Belacmi rằng bức tranh ông tìm hiện anh đang có nhưng anh bắt gặp cặp mắt của Luxia và đã nhìn trả lại. Mắt nàng nhìn anh đầy khinh bỉ đến nỗi một làn sóng bất bình tràn đầy và nhớ lại cách nàng phá rối anh trong phòng người ốm, anh quyết định để cho nàng phiền muộn thêm một thời gian về vấn đề bức tranh.

Luxia đang đứng ở nguyên chỗ cũ trong hành lang, mặt nàng lộ rõ vẻ băn khoăn. Khi thấy Ăngtoan nhìn mình, nàng ngẩng cao đầu vẻ ngạo mạn rồi quay đi, dáng kiêu hãnh và quả quyết, nàng đến chỗ ông chú và cha Phêlíp.

- Vào lúc chập tối, cha Mariô ngủ li bì, Ăngtoan để bệnh nhân cho một tu sĩ trong nom rồi ra ngoài tu viện và đi dạo để suy nghĩ trong một khu vườn xây kín. Anh yêu nơi yên tĩnh ấy, chỗ lánh mình ưa thích nhất của anh trong buổi chiều cuối xuân này thơm nức mùi hoa, những bông hoa mà thầy dòng Phrăngxi, một người gần loà, làm vườn cho tu viện, đã chăm nom một cách trìu mến.

Giữa một vườn hoa, pho tượng Đấng cứu thế bằng đồng đỏ mỉm cười dịu dàng với căn nhà hiến dâng cho sự việc phụng sự người. Mọi lối đi trong vườn kín đều quy tụ về chỗ bức tượng này và bước chân Ăngtoan đưa anh đến đây như thường lệ. Chân anh vấp phải bệ tượng Chúa, một sức mạnh bất thường làm anh quỳ gối trên sỏi ở lối đi và anh cúi đầu, lặng lẽ cầu khẩn để xin Chúa ban cho một dấu hiệu trong cơn bối rối của mình.

Trong bóng tối có cái gì động đậy, tim Ăngtoan đập nhanh một dáng dấp phụ nữ mờ ảo trong chỗ tối. Đức Mẹ rất thánh phải chăng đã nghe thấy lời cầu khẩn của con trai Người nên chính Người đã đến đây để làm cho tâm trạng bối rối của ngưòi thầy thuốc được êm dịu đi chăng? Nhưng không, đây chỉ là Luxia Belacmi, đứng trong bóng đêm, khoác một chiếc áo choàng dài, chỉ để lộ khuôn mặt mờ mờ, một vệt sáng trong đêm tối.

- Thưa tiểu thư, - anh ấp úng - tôi không biết là tiểu thư ở đây.

Người thiếu nữ tiến lại gần anh và khi nàng nói, giọng nàng dịu dàng:

- Tôi rất tiếc đã làm ông bị đột ngột, thưa ông thầy thuốc. Ông cầu Chúa cho bác tôi đấy ư?

- Không, - anh thú thực - Tôi cầu xin sự cứu giúp... trong một việc riêng.

Không hỏi thêm nữa, nàng ngồi xuống và nhìn anh rất dịu dàng đến nỗi Ằngtoan ngạc nhiên thấy nàng có thái độ khác hẳn lúc chiều.

- Tại sao khi ở trong phòng của bác tôi anh lại nhìn tôi như vậy? - Nàng hỏi một cách giản dị.

- Tôi rất tiếc đã có vẻ thiếu lễ độ đối với tiểu thư, - anh khẽ nói.

- Đây là lời xin lỗi. Không phải lời giải thích.

Ăngtoan thoáng đỏ mặt

- Tôi có cảm tưởng đã trông thấy tiểu thư, hơn nữa, đã được biết tiểu thư từ rất... rất lâu rồi.

Nàng không trả lời ngay, nhưng đến lúc nàng nói, giọng nàng êm ái một cách kỳ lạ.

- Vậy thì, anh có thể giải thích được không?

- Đáng tiếc là không, - anh nói và cúi đầu. - Không thể giải thích được. Tôi chắc rằng chưa bao giờ được trông thấy tiểu thư trước buổi chiều hôm nay.

- Chưa bao giờ đâu, đúng như thế.

Nàng đột ngột đổi đề tài:

- Anh định sẽ thụ giáo phải không, cha Phêlíp nói với chúng tôi như thế. Vì lẽ gì mà một người trẻ tuổi - một thanh niên như anh - lại trở thành tu sĩ?

Ngạc nhiên vì câu hỏi, Ăngtoan không trả lời.

- Nếu tôi là nam giới, - Luxia Belacmi nói thêm, - tôi mong muốn, trên hết mọi sự, là tạo cho mình một địa vị.

- Có lẽ trong thế giới này còn nhiều điều quan trọng hơn là tạo cho mình một địa vị, thưa tiểu thư, - anh mỉm cười nói.

- Có thể. Nhưng một trong những điều quan trọng ấy chắc chắn không phải là trốn tránh khó khăn trong cuộc sống để ẩn mình trong một nhà tu.

- Tiểu thư có còn quá trẻ để tranh luận về những việc này không, thưa tiểu thư? - anh hỏi một cách nhã nhặn.

Nhưng nàng kiêu hãnh giậm chân trên sỏi.

- Tôi đã hai mươi tuổi. Ở tuổi anh, ông tôi đã tìm ra Tân Thế Giới!

- Ông của tiểu thư sao? Tiểu thư có họ với ông Côlông à?

- Ông tôi là Amêrigô Vexpucxi, - nàng sửa lại một cách tự hào. - Ông cụ không sợ đấu tranh, không nấp sau những bức tường. Ông đã vượt qua các biển khơi xa xôi và liều mình để tìm ra những miền đất lạ.

- Nhưng họ tiểu thư là Belacmi?

- Tôi là Vexpucxi, theo họ của mẹ tôi. Trước đây chúng tôi là chủ ngân hàng của nhà Mêđixi.

- Vậy mà bác tiểu thư đã chọn nhà tu?

Chiếc miệng xinh đẹp đanh lại:

- Bác Mariô vốn vẫn là người lạc lõng trong gia đình. Bác ấy thích trở thành người của Nhà thờ hơn là bị cầm tù. Hơn nữa đây là một việc tốt cho nhà Belacmi, khi có một người trong gia đình thuộc giới tăng lữ cao cấp.

Đó là lời bộc lộ đáng sợ khi nghe nó thốt ra bởi cái miệng còn trẻ măng như vậy. Cô Luxia này trí tuệ sắc sảo và miệng lưỡi cũng sắc bén, Ăngtoan thầm nghĩ như vậy?

- Tiểu thư kiêu hãnh về gia đình mình lắm phải không?

- Tại sao lại không? Bà Belacmi là một trong những nhà quý tộc có tiếng nhất của toàn nước Ý.

Ăngtoan bắt đầu nhắc nàng lời dạy của kinh thánh: "Sự kiêu căng đi trước sự huỷ diệt..." nhưng nàng tức giận ngắt lời anh:

- Đó là tiếng nói của tu sĩ! Ông là người như thế nào nhỉ, ông thầy thuốc, mà ông phải tách rời khỏi thế giới và chọn lấy con đường yên tĩnh, chắc chắn ấy?

Nàng đứng lên, giận giữ giậm chân, đá mạnh vào nền đường làm bụi bốc lên, phủ cho Ăngtoan một làn mưa sỏi, sạn.

- Nếu tôi là đàn ông, sẽ không ai cần đi tìm tôi ở một chỗ ẩn núp nào cả đâu. Tôi chúc ông ngủ ngon, ông thầy tu. Hãy về phòng tu sĩ của ông đi, chúc ông ngủ ngon giấc.

Ăngtoan nín lặng, anh nhìn cái hình dáng dong dỏng cao đi xa dần và biến mất. Một lúc sau, tiếng cánh cửa sập mạnh như đặt một dấu chấm hết cho câu chuyện. Ăngtoan ngồi một lát nữa trên ghế đá. Luxia Belacmi vừa tóm tắt gọn trong mấy lời nỗi bối rối đang ở trong anh. "Nơi này là nơi quyết định, là điểm mà hai con đường mở ra đằng trước mình", anh nghĩ như vậy. Ngay trước khi rời khỏi nơi này anh phải chọn được hướng đi.

Một bên là cuộc sống suy ngẫm, cuộc sống mà hơn năm năm nay từ anh ở Pađu anh đã hết sức yêu mến. Trong cuộc sống này, chắc chắn anh sẽ được sự tôn trọng của đồng nghiệp, được vinh dự là giáo sư đại học, cũng có thể, biết đâu đấy, sẽ được chiếc mũ giám mục hay chiễc mũ đỏ của giáo chủ. Bên kia, anh đã thấy những mạo hiểm, những sự xỉ vả, các vụ truy tố không còn nghi ngờ gì, có thể cả cái chết, cái chết sau cực hình, cho xứng đáng với những kẻ nào dám bảo vệ một luận đề mang tính chất tà giáo, những kẻ nào tán thành học thuyết của một tên tà giáo, những kẻ ấy sẽ bị cả luật đạo và luật đời buộc tội.

Có một người khác đã đứng trước sự lựa chọn như thế này trên một quả núi gọi là núi Gôngôta. Người ấy đã không lùi bước trước gánh nặng của chân lý, dù gánh nặng ấy là do Thánh giá tạo ra, dù sự lựa chọn ấy đưa anh ta đến cái chết vì Thánh giá. Tâm hồn Ăngtoan êm ả hẳn lại khi anh suy nghĩ đến điểm này và trong niềm tự hào mới, vừa bột phát, anh vươn thẳng hai vai đang trĩu xuống. Bây giờ anh đã hiểu một cách sâu sắc, anh hiểu rằng không thể hoà hoãn, thoả hiệp trước chân lý.

Chính cái ấy, cái điều duy nhất ấy, con người phải dựa vào nó - dù con người có bị chiến bại, ngã xuống chiến trường và bị giày xéo lên mà chết.

- Cha Mariô Belacmi tạ thế đêm hôm ấy.

Ăngtoan đã gần người cho đến phút cuối cùng nhưng không thể trao đổi được vài lời với ông Girôlamô cũng như với cô cháu vì cha Phêlíp đã đưa họ ra khỏi giường ngay sau khi thầy thuốc thông báo tu viện trưởng từ trần. Còn Ăngtoan, anh phải ở lại đây để giúp đỡ việc chuẩn bị cho thi thể người có thể được an táng nhanh chóng, đây là điều bắt buộc.

Hôm sau, sau lễ tang cực kỳ tốn kém và long trọng, Ăngtoan đợi ở giáo đường cùng với các thầy dòng giúp việc trong khi đám tang rời khỏi Nhà thờ. Từ chỗ ngồi của anh ở gian bên, anh thấy tiểu thư Luxia và chú nàng thong thả đi ra phía cửa, theo sau một hàng dài các tăng lữ: giáo chủ từ Vơnidơ đến làm lễ, cha Phêlíp cao lớn, người vươn thẳng, tinh khiết trong chiếc áo trắng rồi đến nhóm giáo sĩ cỡ kém hơn. Về tang phục, tiểu thư Luxia vẫn mặc chiếc áo choàng dài sẫm màu nàng đã mặc tối hôm trước khi ở khu vườn kín, chiếc áo choàng ấy trùm qua áo chùng của nàng cho tới chân và quệt xuống đất sột soạt mỗi khi nàng bước. Mũ của áo được kéo lên đầu và buộc lại để che ánh vàng rực rỡ của bộ tóc, trông nàng có vẻ khiêm nhường một cách ngây thơ, vẻ ấy - Ăngtoan biết rõ vì đã có kinh nghiệm cay đắng - còn xa mới đúng với tính cách thực của nàng.

Mắt nàng bắt gặp mắt người thầy thuốc khi nàng đi qua và dù anh đã gật đầu chào một cách lịch sự nàng vẫn đưa mắt thơ thẩn nhìn về phía trên đầu anh, coi như anh là người lạ và cái gật đầu chào lại chỉ là sự ngạo mạn. Tuy Ăngtoan đã quyết định không để cho nàng thấy rõ những ý nghĩ đang khích động anh, anh vẫn không thể ghìm lại sự bực bội làm cho mặt anh cau có. Anh trông thấy đôi mắt đẹp lơ đãng và lạnh lùng bỗng bừng lên và rực ánh giễu cợt, rồi nàng đi qua.

Ông Girôlamô đi cạnh cháu gái, ông trông thấy người thầy thuốc trẻ tuổi và trịnh trọng cúi chào khi đi qua trước mặt anh.

Một bệnh nhân khác của Ăngtoan, một giáo sư bị chứng viêm da do liên cầu đã giữ anh bên giường đến lúc quá khuya. Trong đêm mùa xuân ngát hương thơm, khi trở về anh đã gặp nhiều cặp người yêu đang đi, tay nắm tay và thì thầm vào tai nhau những lời âu yếm. Trong một khung cửa tối, vẳng đến tiếng của một cái hôn và tiếng cười khẽ của người phụ nữ đang bối rối. Hai bóng người rời nhau rất nhanh nhưng Ăngtoan cảm thấy, ở phía sau anh, họ lại sát gần nhau cũng rất nhanh. Thứ cảm giác khó chịu mơ hồ quấy rối anh đã mấy tuần nay lại tràn ngập, khó hiểu. Có lẽ một chuyến thay đổi không khí và khung cảnh sẽ phù hợp với anh chăng? Năm học kết thúc đã hai ngày rồi, anh có thể đi thăm Giăng ở Vơnidơ. Cha Mariô đã mất, người bệnh nhân mắc chứng viêm da đã qua nguy hiểm, Ăngtoan có đủ thì giờ để tranh luận với Giăng về vấn đề công bố việc anh bảo vệ Misen.

Nằm trên giường ngủ trong căn phòng tu sĩ Ăngtoan hưởng không khí ban đêm lùa qua khung cửa sổ hẹp. Nến đã tắt, vị nữ thần tắm trong ánh trăng hiện lên rất rõ và ý nghĩ sắp phải xa rời bức tranh này làm anh đứt ruột. Nhưng anh biết rằng nếu giữ bức tranh ở đây thì thật là điên cuông, và điên cuồng không kém nếu muốn đem nó đi... đến bất cứ đâu... ở một chỗ khác nơi này. Không thể nào đem nó ra khỏi tu viện mà không bị trông thấy, trừ khi đem đi ban đêm, điều mà lương tâm anh nghiêm cấm.

Chỉ sáng mai thôi, anh sẽ làm cho lương tâm được thanh thản bằng cách tìm ông Girôlamô Belacmi. Lương tâm anh nói rằng dù sao thì anh cũng không được giữ một bức tranh mà lúc này anh đã biết giá trị, biết rõ người sở hữu chính thức của nó. Anh có quyền gì mà giữ để thoả mãn riêng mình bức hình hoàn hảo này, bức hình sẽ đưa đến cho các nghệ sĩ những hân hoan lớn, tạo cho họ niềm vui lâu dài và nguồn cảm hứng vô tận.

Tuy nhiên, Ăngtoan biết mình sẽ đau khổ vì sự xa cách này vì anh đã đi đến chỗ coi bức tranh Thần vệ nữ như sự có mặt của người đang sống thực sự mà đời sống đó gắn bó với đời sống của anh. Nằm dài trong bóng tối và yên lặng, nửa thức nửa ngủ, anh tự hỏi rằng những lạc thú của hôn nhân có thể so sánh được không với sự thư thái đã đến với anh do sự bầu bạn cao quý của thanh tịnh này, do sắc đẹp lặng lẽ và làm cho vững tâm này, tình bạn và sắc đẹp ấy luôn giúp cho những ý nghĩ bối rối, lo lắng, xao động của con người được thanh thản.

Trong khi anh nằm dài ở đay, hai mắt nhắm lại, những bức tường trong phòng bỗng xa dần, tan đi, biến mất và anh thấy mình đang nằm uể oải trên bãi cát bên bờ biển, dưới bóng cây xanh tươi, như anh thường nằm xưa kia ở trên bờ biển Ligurien, tóc còn ướt nước biển trong suốt, tinh thần và thể chất thoải mái, hài lòng.

Và bỗng nhiên nàng đã ở đây rồi, nữ thần "Vệ nữ" ấy, nàng đang duyên dáng, tao nhã, bước ra khỏi chiếc thuyền bằng vỏ ốc lớn và đặt lên bờ bàn chân hồng hồng, nhỏ nhắn nhẹ nhàng, kiều diễm đến nỗi hầu như không để lại dấu chân trên cát. Làn tóc quấn quanh đầu giống như một chiếc mũ vàng. Nàng đến tận lùm cây mà anh đang nằm dưới bóng và chìa tay cho anh hôn. Anh nhổm dậy và thấy một cách lạ kỳ cảm giác thanh khiết của cội nguồn, anh không thấy lúng túng vì mình đang khoả thân.

- Tôniô, người yêu của em!

Giọng nàng êm ái như nhạc điệu của một cây thất huyền cầm xa xôi, tiếng vừa vẳng ra đã bị nén lại.

- Tiểu thư, - anh khẽ nói, cảm thấy mình bối rối lạ lùng.

- Không, Tôniô, không phải là tiểu thư.

Nàng ở sát gần anh, hai cánh tay khoanh trước ngực một cách trong trắng.

- Không phải tiểu thư, caro mio! Người yêu của tôi...

- Người yêu của tôi, nữ thần biển cả của tôi...

Nàng đứng gần đến mức một bầu vú sát vào ngực Ăngtoan và hơi nóng trong người nàng khiến anh nóng sực người, anh run lên trong một ước muốn điên cuồng được ôm trong vòng tay thân hình mảnh dẻ đó.

Nàng kiễng chân lên, vòng tay qua cổ Ăngtoan:

- Tôniô, hôn tôi đi, - nàng ra lệnh.

Anh cố đẩy nàng ra, đấu tranh với lòng ham muốn ngày càng mạnh, nhưng nàng kéo đầu anh lại gần và môi họ gặp nhau.

Bỗng nhiên chớp loé lên chung quanh anh, sấm gầm thét quanh hai người, sét bửa đứt cái cây mà họ đang đứng ở dưới. Sửng sốt, Ăngtoan cảm thấy mình không thể chống cự được khi những bàn tay trần tục giằng lấy người yêu của mình. Anh nghe thấy tiếng kêu lo sợ và kinh hãi của nàng "Tôniô! Tôniô!", thấy tiếng kêu ấy xa dần và mất hẳn. Tiếng sét và những bàn tay to lớn đã tách rời họ ấy đã ném anh, chính anh, quỳ xuống đất. Còn nàng, nàng lúc này đã ở xa, đang vùng vẫy trong tay một nhân vật kỳ lạ có cái đầu đười ươi. Con quỷ hiện từ đáy sâu của địa ngục lên ấy, nó đang cười vui một cách ma quỷ, con quỷ bi đát này chính là sự hiện hình của cha Phêlíp Xăngtốt.

Trông thấy bộ mặt ấy, sức khoẻ Ăngtoan hồi phục ngay và anh phóng theo dấu vết của tên cướp đoạt phụ nữ, hơi thở anh dồn dập, mồ hôi tràn xuống gần loá mắt, tim đập mạnh đến nỗi như muốn bật khỏi lồng ngực. Loạng choạng, hổn hển, kiệt sức, anh ngã xuống đất, vất vả mới quỳ lên được và cứ lết như thế khoảng vài thước rồi lại ngã xuống, mặt úp xuống cát. Khi anh có thể, không phải là nâng người lên mà là ngẩng mặt lên, anh chỉ còn trông thấy ở đằng xa, rất xa, con đười ươi đang chạy trốn, đem theo cái mồi của nó. Một lúc sau, chỉ còn lại một khối lờ mờ ở chân trời, một khối vừa mờ vừa nhỏ đi từng giây phút. Rồi không còn gì hết. Chân trời trống rỗng.

Và chỉ còn lại nỗi xa vắng, lặng lẽ và đau đớn.

Bỗng hai tai như bừng tỉnh vì một giọng nói khác, rất gần:

- Loã thể! Hắn loã thể kìa! Thật hổ thẹn! hổ thẹn cho hắn...

Tiếng nói quen thuộc, lanh lảnh mà sự khinh mạn chua chát nện vào tai anh. Anh nhận ra Luxia Belacmi đang đứng trên cây, người trùm kín trong chiếc áo choàng dài nàng đã mặc khi ở trong vườn và chỉ để hở bộ mặt trái xoan mờ mờ. Nàng giơ ngón tay đe doạ anh trong khi miệng nhắc lại những lời xỉ vả không kém gay gắt. Vô cùng hổ thẹn vì những gì nàng nhìn thấy, Ăngtoan đứng lên muốn tìm cái gì đó để che đậy tình trạng loã thể của mình nhưng không tìm được gì cả. Khi ấy nhịp độ nói càng nhanh hơn, lời xỉ mắng càng mạnh hơn và không bao lâu giọng nói cay chua càng kịch liệt đến mức như khoan vào nhĩ tai anh và xé óc anh một cách đau đớn.

Mồ hôi đầm đìa nhưng người lại lạnh giá, tay bám vào chăn, nệm, tim đập thình thịch, Ăngtoan tỉnh hẳn và thấy người vô cùng nhẹ nhõm vì mình vừa qua một giấc mơ khủng khiếp.

Anh với vội chiếc áo mặc vào người đang giá lạnh, tay ôm đầu, anh đợi cho tim đập bớt mạnh và tay hết run, rồi anh lấy một ít than hồng đựng trong chiếc bình nhỏ, thổi cho bùng lên, khi lửa đã cháy sáng, anh thắp nến và xem xét lại bức tranh.

Tất cả vẫn nguyên vẹn. Nàng vẫn gợi lên sự kỳ vọng toàn thiện và vẫn xinh đẹp. Nhớ lại rằng mình đã ôm ghì lấy nàng, cảm giác bối rối ấy lại trỗi lên trong anh, nhưng anh quả quyết bắt ý nghĩ của mình đi đường khác, tránh xa sự cám dỗ xác thịt như vậy, anh tắt đèn và nằm xuống, kéo chăn đắp lên người.

Giấc mộng kỳ lạ ấy phải chăng nhằm thông báo cho anh một sự gì? Một sự cảnh báo chăng? Hay mệnh lệnh trả thật sớm bức tranh cho người chủ chính thức của nó? Ăngtoan tự cam đoan rằng ngay sáng ngày mai sẽ tìm ông Belacmi và trả lại ngay tài sản cho ông.

- Hôm sau, cha Phêlíp Xăngtốt niềm nở tiếp Ăngtoan trong phòng tiếp kiến, ở đây ông đã ngồi vào ghế của tu viện trưởng đặt trên một chiếc bục nhỏ. Giáo chủ đã hứa một cách chính thức với Xăngtốt rằng ông chắc chắn được nâng lên vị trí của tu viện trưởng ngay sau khi bức thư gửi đi La Mã và thư trả lời về tới đây. Cho nên ông đã không để mất giây lát nào để đảm nhiệm đặc quyền của một nhiệm vụ mà lúc này ông được hưởng nhưng chưa có sự bổ nhiệm chính thức. Kiểu cách của ông cao ngạo và nghiêm khắc hơn, cách nói của ông vắn tắt hơn.

- Có việc gì thế ông Xecvêtut? - Ông hỏi sau khi Ăngtoan đã kính cẩn hôn đường viền của chiếc áo thêu lộng lẫy của ông.

- Tôi xin phép được gặp ông Girôlamô Belacmi.

- Anh đến chậm rồi. Ông Girôlamô và cô cháu sáng hôm nay đã đi Vơnidơ sớm. Ông ấy nói với tôi về anh bằng những lời nồng nhiệt. - Xăngtốt nói tiếp và mỉm cười một cách dễ dãi.

Nhưng môi ông mím lại khi ông kết luận:

- Còn cô cháu gái, cô ta xinh đẹp thật đấy, nhưng là một ác phụ.

Ăngtoan hoàn toàn đồng ý với nhận định sau nhưng việc ra đi của ông Girôlamô đã cản trở dự định của anh. Khi nào anh mới trả lại ông bức tranh được? Nếu cách suy diễn về giấc mộng của anh đúng với sự thật, anh không nên nói cho cha Phêlíp biết bức tranh hiện có trong nhà tu. Rồi Ăngtôniô nhớ lại ông Girôlamô có nói rõ địa chỉ của ông ở Vơnidơ, tâm trí anh sáng sủa lên. Anh hết sức mong muốn gặp Giăng thật sớm và thoáng thấy khả năng đạt được hai mục đích một lúc.

Tiếng cha Phêlíp kéo anh về thực tại:

- Tôi tin rằng anh đã sám hối xứng đáng vì đã có những ý nghĩ phiến loạn về vấn đề tuần hoàn qua phổi, phải không bác sĩ?

Ăngtoan cúi đầu:

- Tôi đã cầu nguyện xin được tha thứ như cha đã truyền lệnh.

- Tốt lắm! Anh có một tương lai tốt đẹp, tôi rất tiếc nếu như có tình huống nào cản trở nó.

Ăngtoan ngẩng đầu sung sướng vì đã dễ dàng tránh khỏi cái bẫy đó.

- Nếu được cha cho phép, tôi xin đi Vơnidơ vài tuần. - Anh nói.

Nếu anh thuyết phục được Giăng giúp anh công bố phát minh, thì cũng cần đến mấy tuần lễ để ấn hành xong bản phát minh đó.

- Đi Vơnidơ à? Nhưng anh giảng dạy ở trường đại học kia mà?

- Bài giảng của tôi đã kết thúc vào dịp hè này.

- Thật vậy nhỉ. Thế anh định làm gì ở Vơnidơ?

Ăngtoan lưỡng lự. Thú nhận sự thực là điều tai hại. Nhưng anh lại không thể nói dối được. Anh nhớ đến điều Giăng đã gợi ý là cần học vẽ trên mẫu sống động để nâng cao sự hiểu biết về các tỷ lệ trong môn phác hoạ. Đây là một lý do tốt để ở lại Vơnidơ, chắc cha Phêlíp cũng thừa nhận không bàn cãi vì họ đã thường nói về nghệ thuật với nhau. Người mục sư biết rõ hứng thú đối với môn hội hoạ của người thầy thuốc trẻ tuổi.

- Tôi có ý định theo học một số buổi đặc biệt về hội hoạ, thưa Đức Cha, - anh vội vàng trả lời.

Bản thân sự việc làm xiêu lòng cha Phêlíp, một người vốn kỵ không cho ai thoát khỏi quyền mình một thời gian dài, hay việc đảm nhiệm rất tình cờ, không toan tính trước một chức vụ chưa phải là của mình, đã làm cho ông có thái độ nhiệt tình? Dù sao đi nữa, ông đã mỉm cười thân ái và trả lời:

- Vậy thì anh cứ ở cả mùa hè Vơnidơ. Tôi ghen với anh về làn gió mát của sông Liđô đấy. Có lẽ sang năm anh sẽ vẽ được những bức bích hoạ ở giáo đường mới của chúng ta.

- Cầu Chúa cho sẽ được như thế. - Ăngtoan thành kính nói, và nhẹ nhõm, anh rời chiếc bục cao.

- Đến ranh giới của Vơnidơ, hành khách từ các miền lân cận tới phải xuống xe đi thuyền, loại thuyền con rộng và chậm chạp, có thể chở được đến tám người.

Ngay sau hôm tiếp kiến với cha Phêlíp, vào lúc quá trưa, Ăngtoan đã nhập bọn với những hành khách người đầy bụi bậm đi xe ngựa từ Pađu đến. Chiếc thuyền chở nặng chậm chạp xuôi dòng con sông đào lớn cắt đôi thành phố. Người chèo thuyền vạm vỡ, rám nắng, đầm đìa mồ hôi vì phải dùng sức và cái nóng tháng sáu. Đá hoa cương nhiều màu ở mặt trước các lâu đài sáng rực rỡ dưới ánh nắng mặt trời chói lọi. Ở ngay giữa thành phố, đối diện với toà lâu đài lộng lẫy của các vị thống đốc, khách thay thuyền sang những chiếc gông đôn nhẹ nhàng, thon dáng, nhiều màu sắc tươi vui với mũi thuyền vươn cao như cổ thiên nga. Chúng từ mọi phía chạy đến, luân lưu trên mạng lưới các sống đào và hồ của thành phố xây trên những dòng nước chảy duyên dáng này, thoải mái như loài chim nước. Với con mắt nghệ sĩ, Ăngtoan chọn một chiếc thuyền có tán viền tua xanh phủ trên khung gỗ, cửa mở về phía những làn gió mát của sống Liđô gần đấy. Các tấm rèm lúc đó được cuộn lên buộc bằng dây trắng có thể thả xuống nếu trời xấu hay người ngồi thuyền muốn không ai nhìn thấy, chuyện bình thường trong thành phố đáng yêu đầy tình ca và tình yêu này.

Người chèo thuyền là một người bé nhỏ tóc nâu có miệng cười quá rộng để lộ ra nhiều chỗ sứt ở bộ lợi màu hồng dị thường. Nhìn y phục sẫm màu, đoán rằng người qua sông là người của Nhà thờ, anh ta nói năng một cách kính trọng:

- Ngài đi đâu, thưa linh mục?

- Đến lâu đài Pêdarô. Cách đây có xa không?

Trước tiên, Ăngtoan muốn đến nơi ông Belacmi ở để báo không chậm trễ cho ông biết chỗ có bức Bôtixeli của ông.

- Không xa mấy.

- Vậy thì đến lâu đài.

Ăngtoan lên thuyền và ngồi trong lều, trên một chiếc ghế có nệm rất êm.

- Anh có biết Galêatxa Vaxca không?

- Tất nhiên là có ạ. Nhưng (anh ta nhướng lông mày lên tỏ vẻ ngạc nhiên vì một người của Nhà thờ lại muốn đến nơi đây) đó là phố các nghệ sĩ.

- Khi chúng ta rời lâu đài Pêdarô, anh sẽ đưa tôi đến đấy, số nhà mười bốn.

Người chủ thuyền giương to mắt:

- Đấy là nhà ông Giăng Xavarino sang trọng. Thuyền tôi vẫn chở ông ấy! Rèm cả hạ thấp - anh nói tiếp một cách ý nhị. - Ông ta là một con người thật tuyệt.

Ăngtoan không ngạc nhiên về tiếng tăm phóng túng của bạn anh. Cũng không ngạc nhiên vì người chèo thuyền biết Giăng. Tại sao lại không biết nhỉ? Cha của Giăng là một trong những chủ ngân hàng và nhà buôn giàu nhất tỉnh, và Giăng lại là chúa tể của giới trẻ tuổi của Vơnidơ.

- Ông Xavarinô là bạn tôi. - Xécvê tuyên bố với vẻ đắc chí khá ngây ngô.

- Đi nào!

Người chèo thuyền kêu lên một cách lanh lảnh để báo hiệu cho những lái thuyền khác rồi đẩy mũi chiếc thuyền nhẹ nhàng của anh lướt trên nước hồ xanh nhạt và loáng dầu.

Sự giao lưu trong trung tâm thành phố rất náo nhiệt và chiếc thuyền này tiến lên rất khó khăn vì thuyền bè san sát với nhau. Nhưng Ăngtoan lại thích thú về chuyến du ngoạn này. Anh đi nghỉ hè kia mà, lần đầu tiên sau bao nhiêu tháng ròng, với tiền lương cả năm trong túi. Dưới ánh mặt trời chói chang, giữa những quần áo trang sức sang trọng và các thuyền gông đôn nhiều mày sắc, anh nhận thấy y phục của mình thật tồi tàn.

Ở đây có biết bao nhiêu lụa, nhung, lông thú và dây chuyền vàng. Nếu y phục lịch sự không cần đến ở Pađu thì ở Vơnidơ không như thế, và Ăngtoan tự bảo mình phải nhờ Giăng chỉ cho một hiệu thợ may.

Thuyền đi chậm chạp đã tạo điều kiện cho người thầy thuốc trẻ không bỏ sót một cảnh tượng nào, anh ngắm nghía sự lộng lẫy của những toà lâu đài với những hàng cột thẳng đứng, kinh ngạc trước những bến thuyền, ở đó có những gông đôn riêng sang trọng đang đợi chủ nhân và bập bềnh suốt dọc bến có lát đá chung quanh các hình chạm bằng hoa cương nhiều màu sắc.

Xa xa, thoảng có một bà y phục sang trọng đang mơ mộng trên những mái bằng dùng làm sân thượng mát mẻ vì các làn gió nhẹ từ sông Lidô thổi đến. Thực ra, Ăngtoan thán phục nghĩ, Vơnidơ mang hình dung từ Đất Thánh cũng không uổng, vì đây chính là thành phố giàu có và đẹp nhất thế giới, đồng thời cũng là ngã tư của những con đường kinh doanh từ khắp nơi trên trái đất đến.

Nơi giao dịch thương mại quan trọng nhất là quảng trường trước phố Giacômeta và Riantô. Từ đấy đưa ra một thứ tiếng ồn ào, hỗn độn, trầm trầm và nổi rõ hẳn lên là tiếng leng keng của những đồng đuca(17), vàng của những người đổi tiền. Tiếng những chiếc búa nhỏ của người thợ kim hoàn đập nhịp nhàng khắp chung quanh hoàn chỉnh bản hoà tấu đậm đà ấy. Phía sau họ, dãy nọ sau dãy kia, - cao hơn hẳn những nhà kho đầy nứt các sản phẩm phong phú của phương Đông: ngà voi, hương liệu, lụa, gỗ hiếm - những gian hàng hấp dẫn mọc lên: một số lượng sản phẩm nói trên được lưu thông ở đây, hàng bán buôn tạo ra một thị trường xuất khẩu duy nhất không đâu bằng.

Phía bên kia cầu, Ăngtoan trông thấy các cửa hàng của người Đức với nhà ở và kho của họ, đối diện với các bến có những tàu ở bên ngoài đến biển hồ bỏ neo sát cạnh nhau, đầy căng các kho báu làm cho những hành khách đang thèm muốn hoặc chất đầy hàng xuất khẩu chứng tỏ sự giàu có của Vơnidơ. Xa hơn nữa, trên sông đào, những chiếc tàu lớn đang đứng mơ màng, chở đầy thức ăn, dầu, rượu vang, từng dòng phu khuân vác đang từ các kho dự trữ lớn của những người buôn, khuân trèo tàu những kiện hàng nặng, họ như một đạo quân kiến không biết mệt mỏi.

- Tránh nào! - Người lái thuyền kêu to để những lái thuyền khác giãn thuyền họ sang một bên. Chiếc bơi chèo lớn đẩy một cái làm cho thuyền quay nửa chiều dài và vút thẳng vào một trong những nhánh sông phụ. Ở đây, hai bờ gần nhau hơn, hồ đẹp hơn; giữa những ngôi nhà và nước chỉ có bến đá chạy dài. Các lâu đài trang trí kém tráng lệ hơn và dù nắng lúc quá trưa, ở đây vẫn có những khoảng râm mát, thêm vào đó là bóng của bao lơn các nhà ở, gần như sát với nhau trên mặt nước.

- Lâu đài Pêdarô kia rồi! - Người lái thuyền nói.

Ở nơi này của Vơnidơ, con sông đào hẹp hẳn lại, bóng râm dày hẳn lên. Một vài người đi dạo dang thơ thẩn trên bến. Cặp mắt sắc của Ăngtoan nhận ra ngay một dáng người thanh tú và lịch sự có vẻ quen thuộc lạ lùng. Còn một quãng bằng hai chiều dài của chiếc gông đôn thì Ăngtoan không còn nghi ngờ gì nữa: mớ tóc vàng ấy chỉ có thể của Luxia Belacmi và đúng là Luxia Belacmi đang đi về lâu đài Pêdarô, ở cách đấy mấy khung cửa lớn.

Thuyền của Ăngtoan đến ngang tầm người thiếu nữ khi một tên có vẻ gian xảo từ một hẻm nhô ra. Ánh sáng dao găm loáng lên trong tay phải hắn. Trước khi Ăngtoan kịp kêu lên thì tên kẻ cắp đã nắm lấy cái túi nhỏ đeo ở dây lưng Luxia định cắt lấy rồi lẩn trốn. Bọn kẻ cắp nhiều vô kể trong thành phố giàu có này.

- Kìa! Có kẻ cắp! - Ăngtoan kêu to và nhảy dựng lên.

Cái nhảy của anh làm cho thuyền đột ngột mất thăng bằng và người chèo thuyền thiếu chút nữa thì nhào xuống nước. Ăngtoan giằng lấy bơi chèo của anh ta và đẩy mạnh, đưa thuyền áp dọc bến rồi nhảy lên bờ, mọi việc diễn ra trong giây phút.

Trong trạng thái khích động và vội vàng rời khỏi thuyền, Ăngtoan không trông thấy rằng Luxia Belacmi được tiếng kêu của anh báo trước đã tránh khỏi đà của tên kẻ cắp tự thoát khỏi tình huống. Nàng cướp lấy chiếc gậy ngắn của tên gian đang cầm ở tay trái và ra sức phang đúng ngay vào sọ hắn, khiến hắn khuỵu xuống. Vừa dũng cảm tự bảo vệ nàng vừa kêu to:

- Giúp tôi với! Có kẻ cướp! Giúp tôi với!

Trong đám hỗn độn ấy, Ăngtoan đã chạy đến và kêu lên:

- Tôi đến đây, tiểu thư! Tôi đây!

Hoặc Luxia không nghe tiếng anh, hoặc nàng tưởng anh là một tên kẻ cướp khác, nàng nện vào đầu anh một gậy làm anh ngã quay lơ, anh lăn xuống rãnh nước và nằm không động đậy.

Tên cắt túi lợi dụng lúc lộn xộn do sự có mặt bất ngờ của Ăngtoan để thoát khỏi chỗ hiểm nghèo mà hắn vừa chui vào. Mềm như một con lươn, hắn đứng dậy và biến vào ngõ hẹp.

Đờ đẫn, Ăngtoan loạng choạng đứng dậy để đương đầu với một cơn thịnh nộ thực sự.

- Đần độn! Ngu si! Ngốc nghếch! - Luxia Belacmi hét lên.

Vì rằng tên cướp lợi dụng sự can thiệp không đúng lúc của Xécvê đã lấy được túi tiền của Luxia khi hắn trốn.

Đến lúc ấy Luxia mới nhận ra người đến cứu không may mắn của mình.

- Ôi, ông đấy ư, ông thầy thuốc. Tôi thật không ngờ lại chính là ông!

Giọng cô cay đắng và khinh bỉ.

- Tôi định đến để giúp cô! - Ăngtoan ấp úng, anh định phân trần, - nhưng khốn thay, không đạt hiệu quả.

Cô giậm chân, bàn chân nhỏ nhắn đập mạnh xuống bến:

- Tôi cần đến sự giúp đỡ của anh ư? Phải là cái khác một tên cướp túi tầm thường mới làm được cháu gái Amêrigô Vexơpucxi lùi bước.

Ăngtoan hơi lảo đảo đưa tay sờ vào đầu đang nhức nhối. Cơn thịnh nộ dịu đi, cô ra lệnh:

- Để tôi xem đầu anh nào.

Rồi lùa các ngón tay vào mớ tóc đen, cô sờ nắn, Ăngtoan không ghìm nổi cơn rùng mình.

- Hừ! Chẳng làm sao cả, - nàng nói, da cũng không bị sứt.

Tiếng gọi khi nãy của Luxia đã được nghe thấy, có tiếng ồn ào và bước chân tiến lại gần.

- Trời ơi! Người chèo thuyền la lên. Cảnh sát! Họ sắp bắt và đưa tất cả chúng ta đến quan toà đấy!

Một lần nữa, tiểu thư Luxia lại tỏ ra làm chủ tình thế, chứng tỏ sự nhanh nhẹn trong suy nghĩ và hành động như nàng đã có dịp phải đối phó.

- Anh đưa ông ta đi đâu? - Cô hách dịch hỏi người chèo thuyền.

- Đến phố Galêatxa Vaxca.

- Kéo ông ta vào thuyền và đi đi. Nhanh lên!

Cô đẩy Ăngtoan đến gần thuyền. Choáng váng không kịp kháng cự, anh tụt xuống thuyền và ngã lên đống nệm trong khi người chèo thuyền ra sức đẩy mạnh bơi chèo.

- Đầu anh vẫn đau nhức nhưng tâm trí anh đã bắt đầu sáng suốt đôi chút khi người lái thuyền đưa anh đến gần chỗ ở của Giăng Xavarinô. Hình như Luxia đã chẩn đoán đúng, anh chỉ có một cục bươu, nhưng khá to ở phía thái dương. Chiếc mũ của anh đã rơi mất trong khi lộn xộn.

- Lạy Chúa tôi! - Người lái thuyền kêu lên khi nhìn Ăngtoan đang cúi xuống lấy tiền để trả tiền thuyền.

- Ngài có một quả trứng khá đẹp ở một bên đầu!

- Cũng may mà cái đầu của tôi không bị nứt đấy, tôi có cảm giác như nó đã bị bửa ra. - Ăngtoan càu nhàu nói.

Anh chèo thuyền nói thêm, vẻ thán phục:

- Cô tiểu thư ấy mới cương quyết chứ! Cứng rắn thật! Lại đẹp nữa chứ!

- Điều ấy có gì là quan trọng! Về phần tôi, tôi cho rằng không gặp lại cô ta là điều may mắn, - Xécvê nói một cách chắc chắn, - Chào anh!

- Xin tạm biệt ngài.

Người thanh niên vắt cái túi lên vai, thong thả lên hai tầng gác để đến xưởng vẽ và là phòng ở của Giăng. Đã nhiều lần anh đến đây, nhưng cái vui ầm ĩ, tính nết thất thường, phóng túng của các nghệ sĩ, họ ở nhiều nhà trong phố này, không phù hợp với những sở thích yên tĩnh của anh cho nên anh không bao giờ ở lại lâu. Đimát, người hầu của Giăng, đưa anh vào phòng đợi, miệng bĩu môi tỏ vẻ chẳng tôn trọng gì các tập quán của ông chủ.

Anh nghe tiếng Giăng hỏi vọng từ cuối xưởng:

- Ai đấy, Đimát?

- Thưa ông, bác sĩ Xecvêtut.

- Tôniô! Một sự bất ngờ thú vị biết chừng nào. Vào trong này nhanh lên Tôniô.

Ăngtoan đưa chiếc túi của anh ra, thấy nó quá nhẹ, Đimát chun mũi khinh khỉnh, rồi anh đi qua phòng ngủ đến phòng vẽ ở phía bên kia. Đây là phòng rộng ở cuối căn nhà. Khung cửa kính lớn ở trên mái mở suốt từ đầu nọ đến đầu kia dọc theo một bên phòng toả ánh sáng xuống chói lọi, thuận tiện cho người hoạ sĩ làm việc.

- Tôniô!

Mặc chiếc áo choàng loang đầy vết màu sặc sỡ, bảng pha màu trong tay, Giăng đón anh ở cửa. Họ thân ái ôm choàng lấy nhau, trong lúc tình cảm chan hoà ấy, nhà nghệ sĩ đã bôi một phần các vệt màu lên chiếc áo sẫm màu của nhà phẫu thuật.

- Cơn gió nào đưa bạn đến Vơnidơ đây, Tôniô?

- Mình muốn nói với cậu về...

Câu nói dừng lại nửa chừng và Ăngtoan mở to mắt không dám tiến lên. Trước mặt anh, trên một chiếc bục nhỏ, một thiếu phụ rất đẹp đang đưa tay nâng bộ tóc lên như người đang quấn đầu. Tuy nhiên, không phải sự có mặt của cô ta làm Xécvê sợ hãi mà là việc cô hoàn toàn khoả thân, một sự khoả thân đẹp mê hồn, điều mà Ăngtoan mới thoáng qua đã không thể dù không muốn, mắt anh lại quay lại nhìn cái cơ thể mỹ lệ đang đứng trên bục làm người mẫu.

Ăngtoan không phải không biết rằng bạn anh thường vẽ khoả thân nhưng cho đến bây giờ anh chưa hề gặp người mẫu ở phòng vẽ. Anh chưa bao giờ trông thấy phụ nữ khoả thân, từ trên bàn mổ. Người ở đây hoàn toàn khác hẳn. Mắt hai người bỗng gặp nhau và anh thấy trong mắt người thiếu phụ thoáng ánh lên một tia vui vẻ tinh quái.

Về phần mình, Giăng không phải không nhận thấy hai má anh bạn lúc thường nhẵn và nâu, lúc này rất dậy màu. Anh phá lên cười:

- Đẹp đấy chứ, Tôniô?

Thế là Ăngtoan im bặt, lưỡi anh cứng lại vì bối rối đến cùng cực. Nhà hoạ sĩ cười đến đứt hơi và người gập làm đối mất một lúc. Sau cùng anh trấn tĩnh lại, ít ra cũng đủ để giới thiệu hai người với nhau, nhà bác học trẻ và cô gái khả ái.

- Đây là Cơlarit Xtơrôdi. Còn em, Cơlarit, đây là ông Ăngtôniô Xécvêtut, bạn anh, nghệ sĩ và nhà giải phẫu đầy triển vọng mà anh đã nhiều lần nói với em.

Người thiếu phụ mỉm cười và Ăngtoan biết tại sao cô không ngượng nghịu trước mặt anh: đối với cô, anh cũng là một nghệ sĩ nữa. Khi cô nói, anh say sưa nghe giọng nói êm ái và rất trầm của cô với những tiếng rung từ cổ họng:

- Vâng, ông Giăng nói về ông luôn, thưa bác sĩ.

Ăngtoan nghiêng đầu chào. Sự lúng túng của anh tiêu tan, và anh nói một cách giản dị chứng tỏ anh đã lấy lại được thăng bằng.

- Cô Xtơrôdi đẹp đến nỗi có thể đem lại ngọn lửa cảm hứng cho bất cứ nghệ sĩ nào.

- Thế mới đúng là cách nói của người quý tộc thực sự chứ! - Giăng kêu lên và giơ tay vỗ vào lưng anh một cách thân ái. - Tôi vẫn bảo rằng cậu có thớ của một hiệp sĩ phong nhã mà.

Rồi quay về phía người mẫu:

- Nghỉ một lúc đi em, Cơlarit. Có rượu nho ở tủ thức ăn, làm ơn rót cho ba cốc.

Người thiếu phụ nhặt ở dưới chân chiếc áo choàng mỏng mặc trong nhà choàng vào người trước khi đi đến tủ thức ăn lấy chai và cốc. Ăngtoan và Giăng ngồi cạnh nhau trên đi văng.

Cơlarit Xtơrôdi đưa cho họ hai cốc đầy, cô vươn vai hơi mệt mỏi và ngồi trên chiếc ghế đẩu.

- Thật là một công việc khó khăn, thưa bác sĩ Xecvêtut, khi ngồi làm mẫu cho nghệ sĩ đòi hỏi cao ở mình, khảo khát tự hoàn hảo như ông Giăng. Nhưng, ông là nhà phẫu thuật học, ông đã biết tất cả những gì thuộc về con người.

- Cũng không đúng hẳn như thế đâu. Tôi chỉ là người nghiên cứu về giải phẫu thôi.

Giăng cười và ngắt lời hai người:

- Lần này thì cậu có dịp nghiên cứu vấn đề không như là nhà giải phẫu mà như nhà nghệ sĩ. Tôniô ạ. Cậu có thấy rằng cơ thể Cơlarit khá đủ hoàn hảo để xứng đáng với việc nghiên cứu ấy không?

Máu lại dồn lên má Ăngtoan, rồi lại tản đi.

- Tôi biết chỉ có một cơ thể đẹp thôi, - anh thành thực nói.

- Trời! Cậu thật kém lịch thiệp, Tôniô ạ! Kém cả thủ đoạn nữa. Đừng bao giờ nói với một người phụ nữ rằng họ không phải là người đẹp nhất trên đời.

Nhưng Cơlarit chăm chú nhìn Ăngtoan một cách nghiêm trang.

- Tôi có cảm tưởng rằng, - cô nói, - bác sĩ Xecvêtut trước hết là một người bản tính thành thật. Hãy nói, với chúng tôi về người phụ nữ đẹp ấy đi, bác sĩ.

- Không phải là người phụ nữ, đó là một bức tranh - Tôniô thú thực.

- Bức tranh của Bôtixeli! - Giăng thốt lên.

- Đúng, Giăng ạ. Thần vệ nữ của Bôtixeli.

Nhà hoạ sĩ giơ hai tay lên trời giải thích:

- Tôniô đã say mê Thần vệ nữ của Bôtixeli rồi đấy.

Cơlarit mỉm cười một nụ cười ấm áp hưởng ứng:

- Tôi đã được thấy thần vệ nữ của Bôtixeli nên tôi không thể cho rằng anh ấy có lỗi. Nhưng bức tranh ấy đã bị mất cắp ở Phlôrăngxơ kia mà?

- Có người nào đã bỏ nó ở tu viện Pađu nơi tôi ở.

- Và Ăngtoan đã đem nó về phòng mình rồi nhốt kín ở đấy để mơ mộng trước nó, dưới ánh trăng, như một anh chàng si tình phong nhã.

Ăngtoan đỏ mặt vì câu chế giễu, nhưng Cơlarit đã trầm ngâm nói:

- Anh đã đúng, bác sĩ ạ. Như tôi nhớ lại hình ảnh ấy trong ký ức của mình thì người đàn bà này đúng là người tao nhã nhất và người đẹp nhất đời.

- Tôi không nghĩ như thế, - Giăng nhăn mặt, quả quyết. - Những người phụ nữ vẽ trong tranh của các vị chỉ hoàn hảo để tạo ra những bức tượng. Hãy nói với tôi về một người phụ nữ bằng thịt và bằng máu. Đó là vấn đề khác.

Ăngtoan cúi xuống đặt chiếc cốc xuống bàn thì Cơlarit Xtơrôdi kêu lên:

- Anh bị thương ư, bác sĩ? Thái dương anh bươu lên đây này.

- Ừ nhỉ! Có đau lắm không, Tôniô? - Giăng kêu lên - Tên vô lại nào đã chơi xấu với cậu phải không?

- Đó là một cô gái, - Ăngtoan thở dài.

- Cậu đánh nhau với con gái sao? Có việc gì thế?

Ăngtoan thuật lại câu chuyện. Nghe kể xong thì Cơlarit nói:

- Con người mới tàn nhẫn làm sao! Tại sao cô ta biết rằng anh không bị thương nghiêm trọng?

- Vì tôi còn đi được và lúc ấy cảnh sát đến.

Xécvê biết rằng anh đã bênh vực Luxia, anh cắn môi bực tức.

- Nhung ít ra thì cô ấy cũng có thể đưa anh về lâu đài cùng với mình, - Cơlarit nhấn mạnh.

- À này, lâu đài Pêdarô không ở trên đường cậu đến đây. Cậu đến chỗ ấy làm gì thế, Tôniô?

Ăngtoan nói ý định đi gặp Belacmi ở Vơnidơ trước khi đến tìm Giăng.

- Nhưng cậu có thể nói với ông ta tất cả những điều ấy ở Pađu, - Giăng ngạc nhiên. Ăngtoan vui vẻ thừa nhận:

- Mình chưa làm thế chính vì tiểu thư Luxia đã làm mình quá tức giận!

Giăng cười:

- Cậu có muốn biết mình sẽ hành động như thế nào ở địa vị cậu không? Mình sẽ kéo cái con mụ lắm mồm ấy vào một cái xó tối nào đó và sẽ hôn mụ cho khoá được miệng mụ lại...

Ăngtoan cố mỉm cười:

- Chắc cô coi tôi như một anh chàng ngốc bỏ đi, cô Xtơrôdi, nhưng lối sống của tôi luôn luôn khác với lối sống của Giăng...

- Có đủ các loại người trên đời này, thưa bác sĩ, - Cô ngọt ngào nói. - Và tôi tin rằng có vị trí riêng cho từng người. Tôi nghĩ rằng anh là một người có giá trị và tôi tin chắc một ngày nào đó tôi và cả Giăng nữa sẽ không đáng kể gì bên cạnh anh.

Giăng cau mày một cách thân ái:

- Này, đây là cuộc họp mặt của bạn bè hay là nhóm thảo luận triết học?

Anh rót thêm rượu vào các cốc và nói tiếp:

- Chúng ta uống đi. Uống để chúc mừng Ăngtôniô Xecvêtut, người sẽ là nghệ sĩ và bác sĩ, nhưng là giáo sĩ thì không bao giờ!

Họ uống và chuyện vãn một lúc nữa. Rồi Cơlarit Xtơrôdi đứng lên:

- Tôi đã nghỉ đủ lắm rồi, - cô nói, - và ánh sáng sẽ không còn tốt lâu nữa đâu. Nếu anh muốn vẽ xong cánh tay hôm nay anh phải làm việc đi thôi.

- Cô nói đúng! Tiếp tục nào!

Giăng cầm lấy bảng pha màu và đến giá vẽ, anh đang trau chuốt một công trình nghiên cứu tuyệt mỹ về cơ thể của Cơlarit.

Ăngtoan thấy choáng váng vì rượu nho và vì bị đánh, anh đứng lên và nói:

- Tôi xin lỗi. Tôi cảm thấy cần nghỉ ngơi chút ít.

- Bảo Đimát đưa cậu đến phòng cậu. Mình sắp xong việc ngay hôm nay rồi đây.

Ăngtoan ngả đầu chào và mỉm cười trước người mẫu đang ngồi trở lại tư thế làm mẫu:

- Nếu cô cho phép?

- Chào anh, anh Ăngtôniô, - cô trả lời. - Tôi hy vọng sáng mai đầu anh sẽ đỡ hơn.

- Giấc mơ bắt đầu cũng như lần trước. Bãi cát biển, bóng cây xanh, nước vỗ nhẹ. Nữ thần từ chiếc thuyền xà cừ bước xuống, vinh quang trong vẻ đẹp tinh khiết, miệng chỉ mỉm cười một cách êm ái.

Nàng đưa tay ra cho anh, những ngón tay nàng ướt và mát, và anh cảm thấy cơ thể mình rung lên từ đầu đến chân, rùng mình một cách ngây ngất.

Cũng như lần đầu tiên những bàn tay thô bạo đã chia rẽ họ và bây giờ anh đang chạy, cố đuổi kịp con quỷ. Con quỷ ấy vẫn có bộ mặt tái xám, nét mặt xảo quyệt của cha Phêlíp Xăngtốt và Ăngtoan ngã xuống, kiệt sức, tay bấu vào cát không thể đứng lên được, trong khi tiếng thét của Luxia Belacmi vang lên, giống như lần trước, khinh bỉ, chế giễu và lảnh lót:

- Thật xẩu hổ! Xấu hổ cho hắn!... Loã thể! Hắn loã thể kìa!...

Nhưng trong khi anh cố tìm cách che thân thể không quần áo trước cái nhìn tàn nhẫn của Luxia, anh thấy Luxia cả dáng điệu và khuôn mặt đang mờ dần, tan ra, biến hẳn đi và ngay tức thì được thay thế bằng một người phụ nữ khác cao lớn hơn. Tim Ăngtoan đập rộn ràng, anh cho rằng mình đã lý hội được bằng cách nào đó rằng nữ thần đã thoát khỏi sự theo đuổi của con quỷ. Nhưng khi cái bóng ấy rõ nét, dày đặc và hình thành hẳn, anh lại thấy đó là Cơlarit Xtơrôdi đang ra hiệu cho anh. Anh chỉ cách cô chưa đến một thước nhưng anh không sao nhúc nhích được dù là nửa tấc, người anh nặng như chì. Anh kinh hoàng khi nhìn thấy nét mặt nàng mờ nhạt dần như khi người ta nhìn một bức tranh dưới ánh sáng gần tắt của hoàng hôn. Anh cố gắng vùng vẫy để thoát ra, trong khi ấy...

- Tôniô! Tôniô!

Đây không phải là giọng dịu dàng của tiếng nói phụ nữ mà là âm thanh rắn rỏi của Giăng Xavarinô. Trong mấy giây, nhà phẩu thuật trẻ cảm thấy mình bồng bềnh trong một thế giới vô định, không ngủ, cũng không thức, hình như anh không muốn xa rời hứa hẹn của giấc mơ. Tuy nhiên tiếng gọi liên tiếp của Giăng, nắm tay chắc nịch của Giăng đang lắc vai anh đã làm anh tỉnh giấc.

Lúc này anh vẫn nằm trên giường và thấy rõ tiếng tim đập dữ dội trong lồng ngực, cổ họng thắt lại như nghẹt thở và hai thái dương vẫn đau như bị mũi khoan đâm.

- Cậu làm gì thế? - Anh lắp bắp khi thấy mặt Giăng hiện ra như còn bao phủ trong sương mù của giấc mộng.

- Mình làm gì à? Mình đánh thức cậu. Cậu đang mê hoảng.

Ăngtoan ngồi dậy và giụi mắt:

- Mình mê ngủ.

- Mình biết rồi, - Giăng nói - Cậu không ngừng gọi tên nàng.

Hai má Xécvê nóng bừng và Giăng cười thích thú vì thấy anh lúng túng:

- Mình thường tự hỏi các thầy tu mơ thấy gì nhỉ! Nàng tiên hay thiên thần?

Ăngtoan tìm cách đánh trống lảng:

- Mình đang đói đây, Giăng ạ!

- Cậu đã để quá bữa ăn chiều mà. Nhưng mình chắc Đimát đã chuẩn bị sẵn cho trường hợp này ở nơi gần buồng ăn. - Và Giăng dẫn anh qua phòng vẽ vắng vẻ đến một góc nhỏ, đúng là có thịt nguội, bánh mì và rượu nho.

Không để bị đánh lạc hướng, Giăng vừa rót rượu vừa hỏi:

- Cậu chưa nói với mình ai là người yêu trong mộng của cậu. Cậu không ngừng gọi tên Lucrêxia, Luxia?... Cái mụ lắm điều đã đánh cậu một cách duyên dáng và kiến hiệu ấy à, nếu mình có trí nhớ đúng.

- Đúng cô ta đấy

- Lý thú thật! Hay nói với mình nhiều hơn đi.

Ăngtoan kể lại hai giấc mơ; Khi anh kể xong câu chuyện, Giăng nghiêm trang hỏi:

- Thế cậu kết luận như thế nào?

- Mình suy luận giấc mơ là một sự báo trước, hình như nó muốn báo cho mình là cha Phêlíp muốn giữ bức tranh lại cho ông ta, như cậu đã tỏ ý nghi ngờ.

- Có thể, - Giăng thừa nhận, - Nhưng còn cô Luxia kia?

- Mình chịu, không giải thích nổi vai trò của cô ta.

- Còn Cơlarit?

- Cũng không hơn gì. Cậu thấy thế nào?

Giăng gượng gạo mỉm cười:

- Mình không tiên đoán được, nhưng câu trả lời đã rõ ràng rồi.

- Lại một sự tưởng tượng điên rồ khác của cậu chứ gì? - Ăngtoan nghi ngờ lẩm bẩm.

- Không tưởng tượng một chút nào cả. Đó là luân lý mộc mạc, trần trụi và đơn giản thôi.

- Nói đi, - Ăngtoan đành chịu đựng.

- Thế này nhé, sự việc đó xác nhận điều mình thường nói với cậu. Cậu là một thằng đàn ông, Tôniô ạ, thật là vô ích nếu định làm giáo sĩ. Cậu có mơ thấy những người đàn bà đẹp ôm cậu sát vào ngực họ không nếu trong thâm tâm cậu thực sự mong muốn giáo chức?

- Chính các vị thánh cũng còn có lúc bị cám dỗ, Giăng ạ.

- Cũng vẫn là những con quỷ ấy cám dỗ tất cả chúng ta thôi, nhưng điều người trong chúng ta đã có lý trí khá minh mẫn để không cưỡng lại sự cám dỗ của chúng.

- Điều cậu nói đó chính là giáo lý của quỷ dữ.

- Dù sao thì cũng có một điều rất đơn giản không chối cãi được. Cậu đã say mê Thần vệ nữ của Bôtixeli. Ít ra thì cậu phải thừa nhận điều đó, đồng ý chứ?

- Đó là sự chiêm ngưỡng rất tự nhiên và bình thường của một nghệ sĩ đối với một tác phẩm hội hoạ.

- Cậu cãi bướng, lý sự cùn và thiếu thành thực. Cậu thừa biết rằng một nghệ sĩ không chỉ nghếch mắt lên để nhìn một bức hoạ như cậu đã từng làm trước Thần vệ nữ của cậu.

- Nhưng, giấc mơ kia thì sao?

- Hãy đợi một chút! Cậu là người tôn sùng các văn bản của Paraxen, ông ta đã chẳng viết một điều gì đó về vấn đề này là gì.

Bước ba bước, người hoạ sĩ đến trước ngăn tủ sách phủ kín một bức tường.

- Đây rồi!

Anh lấy từ ngăn trên cao một cuốn sách dày gáy đóng bằng da dê.

- Mình chắc sẽ tìm thấy đoạn ấy ngay lập tức, - anh nói và giở mấy trang. - Đây rồi... Hãy nghe cho rõ điều Paraxen nói về con người.

"Nên chăm chỉ ghi chú về cái gọi là tính chất của con người, mà thực ra có hai con người, đều được bẩm sinh. Vì điều này thực ra rất đúng: con người là hình ảnh của Chúa cho nên đã có trong mình tính chất thần thánh; nhưng về phía khác, con người cũng là một động vật, cho nên có ở trong mình tính chất con vật. Hai tính chất này đối lập với nhau, tuy nhiên tính chất này phải làm dịu được tính chất kia".

Giăng gấp mạnh cuốn sách lại:

- Anh bạn tốt của tôi ơi, vấn đề tóm tắt lại như thế đấy và thu gọn trong một chiếc vỏ hạt dẻ thôi.

- Nhưng điều ấy vận dụng vào mình như thế nào?

- Đơn giản như thế này: phần duy tâm trong cậu yêu bức tranh, còn phần khác muốn người phụ nữ.

- MÌnh vẫn cứ coi giấc mơ như sự cám dỗ của xác thịt do quỷ Xatăng đem đến để thử thách tâm hồn mình.

- Và mình vẫn cứ nói rằng thằng đàn ông trong cậu cảm thấy sự ham muốn rất tự nhiên một người đàn bà. Có thể là cái cô Luxia Belacmi chăng?

- Cầu chúa đừng có việc ấy! - Ăngtoan thốt lên một cách nhiệt thành.

- Điều ấy cũng rất có thể thành sự thực. Cô ta có đẹp không?

Hình ảnh Luxia Belacmi hiện lên rất rõ ràng trong trí nhớ của Ăngtoan, còn sinh động hơn ở trong giấc mơ, cái đầu nhỏ nhắn, bộ tóc vàng, dáng dấp kiêu hãnh của một vóc người dong dỏng cao. Tuy nhiên, chưa bao giờ anh thực sự nhận thức về sắc đẹp của nàng. Khi trông thấy nàng, điều làm anh kinh ngạc nhất là cảm giác chắc chắn đã gặp lại một người quen thuộc, anh đã quen với mọi đường nét của người ấy. Chính cảm giác lạ lùng này đã làm anh sửng sốt khi mới gặp nàng lần đầu bên giường cha Mariô, và đến ngày hôm nay, cảm giác ấy về nàng lại càng mạnh mẽ trong anh.

- Mình cũng không biết cô ta có đẹp hay không, - anh đành thú nhận.

- Cậu không biết à? - Giăng tức giận thực sự quát lên. - Cậu có mù không đấy?

Ăngtoan cố giải thích:

- Mình cảm thấy như gặp lại một người em gái... hay một người họ hàng. Tuy mình chưa bao giờ thấy cô ta.

- Hay là cô ta giống người nào rất quen thuộc?

- Có thể là như thế. Nhưng, vậy thì giống ai? Mình chẳng thấy ai...

- Cậu phải tự phát hiện ra điều đó chứ. Dù thế nào đi nữa, mình vẫn chắc rằng điều mình suy diễn về giấc mơ là đúng.

- Cậu không giải thích về cha Phêlíp ư?

- Ông ta tượng trưng cho lương tâm tôn giáo mà cậu đang trau dồi. Hãy nhớ lại đi: chính ông ta đã giằng nữ thần của cậu ra lúc cậu đang ôm nàng.

- Phi lý! Lố lăng! - Ăngtoan cau có trả lời, rồi anh đứng lên đi về phía cửa sổ. Trong thâm tâm, một mối nghi ngờ đang cắn rứt anh vì anh nhớ đến làn sóng ấm áp đã làm xao xuyến cơ thể mình khi anh trông thấy Cơlarit, lộng lẫy và khoả thân đứng trên bục của người mẫu. Trạng thái hồi hộp, kích thích mơ hồ ấy làm máu trong người anh như nóng bỏng. Sự bồng bột ấy, tất cả những sự việc ấy đúng là có thể do ham muốn của cơ thể gây ra. Ý nghĩ này làm cho anh vô cùng hổ thẹn và cảm thấy rõ là mình có tội. Anh đã cương quyết gạt bỏ sự cám dỗ khi cám dỗ đến với mình? Anh lại gần như thích thú với nó, đúng, thích thú với nó! Anh quay lại phía Giăng và nói một cách hối hận:

- Cậu nói đúng. Cha xưng tội của cậu là ai? Mình phải đến tìm người ngay sáng mai.

- Linh mục xưng tội của mình biết làm gì với cái tội ấu trĩ ấy. Hãy đợi khi thực sự có điều gì đáng xưng tội hãy đi tìm ông ta. Cơlarit có thể dạy cậu nhiều điều mà những cám dỗ của Nhà thờ không bao giờ đem đến cho cậu được.

- Cơlarit là...

Anh dừng lại, Giăng khẽ lắc đầu:

- Cơlarit là một người mẫu tuyệt vời, nhưng chỉ có thế thôi... Một nghệ sĩ phải khách quan... trừu tượng... không say mê người mẫu. Vì chính vì như thế mà cậu, chính cậu, cần đến một người đàn bà thực sự, Tôniô ạ, không phải chỉ một bức phác hoạ.

Anh vun gọn các mẩu vụn bánh và đổ vào trong cái lu đựng rác.

- Mình quên không hỏi cậu, hay đúng hơn là hỏi lại, vì cậu chưa trả lời câu hỏi đầu tiên: Cậu đến Vơnidơ làm gì?

- Đến vì mình mong muốn rằng cậu sẽ giúp mình xuất bản chuyên khảo của mình về tuần hoàn qua phổi.

Giăng há hốc miệng. Rồi nóng nảy hỏi:

- Cậu xuất bản như tác phẩm của bản thân thôi chứ?

- Không, mình muốn phục hồi danh dự cho anh mình.

- Lạy Thánh Maria! Tại sao cậu lại quyết định như vậy?

- Đó là một phần việc cần phải làm, - Xécvê trả lời một cách đơn giản.

Giăng nhìn vào mặt bạn như mới trông thấy anh lần đầu. Sau đó, anh nói, giọng buồn hẳn đi:

- Đáng lẽ mình phải thấy trước rằng điều này sẽ đến, Tôniô, khi đã hiểu cậu như mình hiểu! Cậu đã nhận thức rõ điều đó có thể có ý nghĩa như thế nào rồi chứ?

- Mình hiểu đầy đủ. Mình đã suy nghĩ về điều này rất cẩn thận và sẵn sàng chịu nguy hiểm một cách tỉnh táo.

Hai vai Giăng trĩu xuống như chịu đựng một gánh nặng:

- Được rồi. Nếu sự việc đã như thế thì sáng mai chúng mình sẽ cùng đến gặp Ghiđôbanđô Anđini. Đó là người xuất bản tốt nhất nước Ý.

- Không, bạn ạ! Để tôi đi một mình. Để cậu bị liên luỵ có ích gì, dù sự việc xảy ra như thế nào cũng vậy.

- Cậu sẽ cần sự giúp đỡ có thế lực lớn và hiệu nghiệm nhiều hơn là những cố gắng nhỏ mọn của mình - Giăng buồn bã nói - Nhưng mình sẽ ở bên cậu cho đến lúc kết thúc cay đắng.

Anh khẽ cười như ngượng nghịu, hơi hổ thẹn... Rồi anh kết luận, rụt rè hơn bao giờ hết, với một thứ gì như hoài niệm:

- Cậu thấy không, có lẽ đây là dịp may mắn duy nhất đến với mình để làm một việc gì có vẻ như trọng đại...

- Việc Giăng làm đầu tiên sáng hôm ấy là đi chọn cho Ăngtoan mấy bộ quần áo để phù hợp với sinh hoạt của anh hiện tại dù là tạm thời hơn là chiếc áo cũ bạc màu lấm đầy bùn ở rãnh nước mà tiểu thư Luxia đã đánh anh ngã lăn xuống phía trước lâu đài Pêdarô.

- Nhưng mình phải đi gặp ông Girôlamô, - nhà cơ thể học phản đối.

- Với bộ quần áo bỏ đi này ư? Cậu không nói nghiêm trang đấy chứ? Cậu sẽ làm cho bất cứ một cô gái tế nhị nào cũng phải khó chịu đấy!

Ăngtoan chấp nhận ngay vì anh không bao giờ mong muốn đến gặp ông Belacmi khi anh không chỉnh tề: dù cháu gái ông là mụ lắm điều, vị thương gia xứ Phlôrăngxơ vẫn làm cho anh có thiện cảm.

- Thế có tốt không nào. Mình có nhờ Cơlarit đi cùng với chúng ta. Cậu phải quen giao thiệp với giới phụ nữ trẻ nếu cậu định ở Vơnidơ một thời gian.

- Nhưng mình...

- Mọi sự đã sắp xếp xong cả rồi, đừng phản đối nữa. Cách tốt nhất để tránh những điều rắc rối, hay một phần nào rắc rối ít ra cũng như thế khi tác phẩm của cậu được xuất bản, là kết bạn với những nhân vật có thế lực. Hãy cứ làm như mình nói, cậu sẽ có đôi chút may mắn để tự cứu mạng... ít ra cũng ở Vơnidơ!

Ăngtoan thở dài. Như thường lệ, Giăng nói đúng. Ăngtoan đã sẵn sáng và chỉ đợi lúc khởi hành thì Cơlarit Xtơrôdi xuất hiện, mặc rất giản dị, một chiếc khăn vàng rực quấn quanh bộ tóc đen. Không thể chối cãi được rằng lúc mặc áo cũng như lúc khoả thân, cô đều gợi ham muốn.

Cả ba người lên một chiếc gông đôn đang đợi khách ở bến và Ăngtoan nhận ra người lái thuyền hôm trước.

- Chào Matêi, - Giăng nói trong khi anh giúp Cơlarit ngồi xuống. - Chúng tôi đến hiệu may Acnônphô, ở phổ Gacmôni.

Người lái thuyền cúi chào:

- Thật là hân hạnh và vui thích khi được phục vụ ngài, - rồi sau khi gật chào về hướng Xécvê - ... và ngài linh mục...

Ăngtoan ngồi gần Cơlarit, Giăng nằm dài trên nệm dưới chân hai người. Chiếc thuyền nhẹ chạy dọc theo sông đào và không bao lâu Ăngtoan thấy mình lạc giữa các ngã tư và các nhánh sông chảy cắt ngang, ồn ào đông đúc, đúng vào giờ giao dịch buôn bán trong thành phố phồn thịnh nhất trong buổi sáng. Họ rời thuyền ngay trước cửa hiệu của Acnônphô và Ăngtoan mở to mắt, chưa bao giờ anh ngờ tới rằng một chủ hiệu may có thể điều khiển một cửa hàng xa hoa đến như thế, đầy ắp gấm vóc đắt tiền và dạ các màu, ở giữa những đống vải ấy các thợ phụ đang đi lại mang những chiếc áo may dở và áo để thử.

Mặc quần áo toàn màu đen kín đáo nhưng cắt may rất khéo, Acnônphô mỉm cười với Giăng và chào đón niềm nở.

- Thưa ngài, - ông ta cúi đầu trước Giăng - chắc ngài đã nghe nói về thứ dạ vừa về cửa hàng tôi từ những xưởng dệt của nước Pháp?

- Ta chưa nói đến chuyện đó hôm nay vội, ông Acnônphô ạ. Bạn tôi, bác sĩ Xecvêtut đây, cần quần áo. Có lẽ ông có thứ gì đó may sẵn có thể hợp với ông ấy chăng?

Người thợ may đưa mắt khinh khỉnh nhìn cái áo bạc màu của Ăngtoan và búng ngón tay:

- Ở đằng kia tôi có một chiếc áo chẽn ngắn bằng nhung xanh với quần cộc và áo choàng đồng màu có lẽ phù hợp?... Tôi cắt may những thứ ấy cho một viên chức Tây Ban Nha nhưng ông ta rủi ro đã chết khi đấu kiếm.

Ăngtoan phản đối: các nhà cơ thể học và các nhà bào chế thường mặc áo dài theo nghề nghiệp của mình, nói về nguồn gốc thì áo ấy được chọn để phân biệt các công hội khác nhau nhưng ngày nay phần đông những người làm nghề tự do và nghề giảng dạy đều sử dụng. Tuy vậy, mới đây cũng có nhiều nhà cơ thể học đã tán thành loại áo ngắn hơn như loại mà các nhà buôn và chủ ngân hàng vẫn dùng, họ cho rằng như thế thích hợp hơn với địa vị ngày càng lớn của họ.

- Tôi thuộc giới những người áo dài.

Càng có vẻ khinh thị hơn, Acnônphô nhún vai:

- Rất tiếc, thưa bác sĩ. Chúng tôi không có loại ấy dự trữ.

Giọng nói khinh bỉ của ông ta đã chứng tỏ rằng những người thuộc giới áo dài không quen đến may mặc ở một hiệu như hiệu ông ta.

- Vậy thì, trong trường hợp này, cậu phải tán thành cách lựa chọn của người viên chức kia thôi, Tôniô. Rõ ràng, cậu không thể tiếp tục mặc bộ quần áo này nữa.

Cơlarit tham gia ý kiến, giọng dịu dàng:

- Có lẽ ông Acnônphô có bộ áo ngắn khác hợp với bác sĩ Xecvêtut hơn. Tôi thấy rất nhiều ở quầy hàng đằng kia.

Dù anh có phần nào tán thành với sự gợi ý khôn ngoan của Cơlarit, Giăng vẫn không thể ghìm lại không nhún vai để tỏ ý tiếc rẻ:

- Với bộ chân được tạo ra như chân anh ta, thật uổng biết chừng nào nếu không mặt áo chẽn ngắn và quần cộc! Thật hoài phí một tặng phẩm trời cho. Thôi cho qua. Ông có loại áo của thương nhân không Acnônphô?

Người thợ may bật ngón tay:

- Có chứ ạ. Cô đây vừa làm tôi nghĩ đến. Chúng tôi có nhận may cho một nhà buôn kim hoàn đúng thứ ấy đấy. Người ông ta cũng tương tự khổ người của bác sĩ. Xin mời đi ra đằng này.

Giăng và Cơlarit tự lựa chọn tất cả những thứ cần thiết cho Ăngtoan dù anh phản đối. Rốt cuộc là khi Ăngtoan rời khỏi buồng thử áo bước ra, đổi mới từ đầu đến chân, Cơlarit không hề ngượng ngùng vỗ tay khen ngợi:

- Hay lắm! Hay lắm! Anh có một người bạn thật là lịch sự kìa, anh Giăng!

Áo của Ăngtoan bằng nhung sẫm ánh ra những tia ấm áp, viền lông thú và có đai buộc ở lưng. Bộ quần áo chẽn màu đen bó sát hai bắp chân nở nang, đầy đặn và buộc dây sát người, Giăng đã nài nỉ và quàng vào cổ anh một chiếc dây chuyền ngắn bằng vàng và cắm trên chiếc mũ nồi dẹt của anh một chiếc lông xanh.

Ăngtoan hỏi:

- Giá bao nhiêu tất cả?

Giăng không để cho anh tự do hỏi giá, nhưng Ăngtoan cảm thấy không một thứ gì có thể rẻ trong một cửa hiệu như thế này.

Trước khi ông Acnônphô kịp nói tổng số tiền, Giăng đã xen vào:

- Tính tất cả vào sổ của tôi. Cậu trả mình sau, Ăngtoan ạ. Lúc này phải đi đã.

Trong khi họ đi khỏi cửa hàng, anh nói thêm:

- Lúc này cậu đã ra dáng một nhà quý tộc rồi đấy, anh bạn ạ. Không còn là anh tu sĩ kiết xác nữa.

Cơlarit nhướng cao cặp lông mày có đường cong rất đẹp:

- Một người đẹp trai chứ! Bất cứ một người phụ nữ nào cũng lấy làm hãnh diện được đi bên cạnh anh.

Nói xong cô nắm cánh tay nhà giải phẫu trẻ rồi khoác chặt. Từ một gác chuông bên cạnh, tiếng chuông vắng xuống thành phố báo giờ buổi trưa và Xécvê hơi giật mình, hổ thẹn, anh biết rằng việc thử áo quần của anh đã mất đứt đi hai tiếng đồng hồ.

- Tôi phải đi gặp ông Belacmi ngay lập tức, - anh lo lắng nói.

Anh bị Giăng phản đối ngay:

- Ồ! Không đi bây giờ được đâu, anh bạn ơi! Trưa rồi, phải đi ăn đã chứ!

Rồi đưa tay nhấc thử chiếc túi lụa đeo ở dây lưng, anh nhăn mặt:

- Có lẽ thuận tiện hơn là tôi phải qua ngân hàng của ông bố danh tiếng của tôi trước đã. Nếu không chúng mình sẽ không có tiền trả tiền ăn. Này Matêi!

Người lái thuyền đang đợi, đưa tay bắt lấy đồng tiền bằng bạc.

- Matêi, anh biết cái hiệu ăn đối diện với ngân hàng của cha tôi chứ, ở phía bên kia hồ ấy mà?

- Có chứ ạ. Tôi vẫn đưa ngài đến đấy luôn.

- Vậy thì anh đưa bà và ông đây đến đấy, sau đó anh qua hồ và đợi tôi ở trước ngân hàng.

- Vâng, xin đi ngay lập tức, - người lái thuyền nói và đặt tay lên ngực.

Anh ta găm thuyền cho khách xuống và Giăng vui vẻ kêu:

- Cơlarit! Gọi các thứ giải khát nhé. Em biết anh thích món gì rồi đấy. Mình sẽ gặp lại các bạn sau mấy phút nữa thôi.

- Ở đây anh được thay đổi không khí trường đại học, có đúng thế không, anh Ăngtôniô? - Cơlarit mỉm cười hỏi.

- Đúng! Và cả không khí tu viện, nơi tôi ở.

- Tại sao anh lại ở tu viện? Các giáo sư đều ở đấy cả hay sao?

- Ồ, không phải thế! Tôi dự định sẽ quy giáo ở đấy, tôi có chỗ ở và chỗ ăn và tôi giữ thư viện để bù lại

- Vậy thì anh nghèo ư, thưa bác sĩ? - Cơlarit ngạc nhiên nói.

Ăngtoan nhún vai một cách ung dung:

- Chắc là thế, dù rằng đến nay, tôi vẫn không hề quan tâm đến vấn đề tiền bạc.

Và anh thầm nghĩ rằng mới chỉ một thời gian ngắn mà anh đã có cảm giác rất mới về của cải vật chất. Trời! Thay đổi biết chừng nào! Vả lại, làm thế nào có thể khác được trong không khí tưng bừng của Vơnidơ, đầy xa hoa, buôn bán, tráng lệ và khác xa không khí yên tĩnh của học đường ở Pađu.

- Vậy anh sẽ làm gì, khi anh đã rời trường đại học như hiện nay, bác sĩ?

- Nhưng tôi có rời bỏ nhà trường đâu! Tôi sẽ trở về đấy sau kỳ nghỉ hè.

- Như vậy thì anh hưởng thời gian nghỉ rất xứng đáng.

- Tôi hưởng một cách đầy đủ, nhưng đây không phải là thời gian nghỉ. Tôi đang viết một luận đề và Giăng chịu trách nhiệm đưa xuất bản.

Vắn tắt, anh kể lại cho cô nghe sự phát hiện của mình và cô nói một cách tư lự:

- Anh nhất định thanh minh cho sự việc của anh ruột mình sao?

- Cô cho rằng tôi nên làm khác như thế ư?

Cô nhìn anh một lúc lâu, thẳng thắn, chăm chú, rồi cô mỉm cười:

- Không. Anh sẽ không còn là anh nữa nếu anh làm khác đi, và anh sẽ kém đáng mến hơn. Nhưng bởi tôi nghĩ rằng anh sẽ không bao giờ trở lại nhà tu nữa.

Ngạc nhiên, anh hỏi:

- Tại sao vậy?

- Tôi linh cảm được các sự việc sắp đến, đôi khi như vậy. Có lẽ là trực giác. Và tôi chắc chắn rằng việc dành cho anh sẽ là: thực hiện cái gì đó tốt hơn lần tràng hạt và cầu kinh.

Mấy tuần lễ trước đây, Ăngtoan sẽ tức giận đến ngạt thở trước giả thuyết này, vì còn vì đẹp hơn, lớn lao hơn là phụng sự Chúa qua sự trung gian của Thánh đường. Thế mà trong lúc này, từ trong lòng anh, anh không hề muốn chê trách Cơlarit vì anh biết rằng nàng nói với anh do lòng tốt của bạn bè. Anh buồn rầu nói:

- Thật kỳ lạ. Giăng cũng nói như thế. Nhưng tôi vẫn chưa làm sao quyết định được.

- Số phần sẽ chịu trách nhiệm với anh về việc ấy, - cô đặt bàn tay lên tay anh. - Số phận thay đổi dự định và ý nghĩ của chúng ta. Đây nhé, mới hôm qua thôi, anh đã chẳng coi như một con người vô giá trị là gì?

- Nhưng cô đâu có phải là người như thế, - anh cực lực phản đối.

Nhưng cô nhấn mạnh với một nụ cười buồn bã:

- Sẽ có những người nói như thế đấy, tuy nhiên...

- Họ sẽ lầm. Một cơ thể đẹp như cơ thể của cô... - Anh đừng lại, mặt đỏ bừng bừng.

Bàn tay Cơlarit xiết chặt bàn tay anh một cách biết ơn và cô nói:

- Tôi hiểu anh muốn nói gì, anh Tôniô ạ. Nhưng, - cô nhìn anh cười một cách đáng yêu, - anh hãy tự nhận xét xem có phải anh đã xa cách với nhà tu biết chừng nào rồi không?

Thuyền chạm nhẹ vào bến đá trước một hàng ăn rất đông đúc. Bàn kê gần sát mặt nước và rất đông người mặc quần áo lịch sự đang thưởng thức các món giải khát dưới ánh nắng mặt trời nóng bức của Vơnidơ. Khi Cơlarit và Ăngtoan đi vào, người quản lý cúi đầu chào người thiếu phụ, rồi đưa nhanh mắt quan sát Ăngtoan, thấy ao anh mặc bằng thứ vải đắt tiền, giày anh bằng da Coócđu mềm mại và chiếc dây chuyền vàng ngắn nhưng nặng, ông ta cúi đầu thấp hơn:

- Một bàn ăn cho ba người, gần sông, ông Bênêđetô ạ, - Cơlarit nói. -Ông Giăng Xavarinô sắp đến với chúng tôi.

Bênêđetô dẫn họ đến một bàn dưới bóng cây ô liu trồng trong chậu, và Cơlarit tránh cho Ăngtoan khỏi lộ ra là người không biết gì về thực đơn nên đã gọi một món phomát mềm với bánh kẹp, sà lách trộn các thứ quả và nêm gia vị theo cách nổi tiếng của ông Bênêđetô, hành củ nhỏ ngâm muối và giấm, bánh ngọt và rượu nho trắng ướp lạnh.

- Giăng thích những thứ ấy và chắc anh cũng đồng ý.

- Trời ơi! Tất cả những thứ này khác biết chừng nào với sinh hoạt thông thường của các tu sĩ giúp việc tu viện! - Ăngtoan nói.

- Nào, bây giờ anh hãy nói một chút về Bôtixeli, - Cơlarit hỏi, tựa cái đầu xinh đẹp và bàn tay.

Lúc đầu, ấp úng, vụng về, Ăngtoan tả lại bức tranh. Dần dần, hào hứng lên anh trở nên lưu loát. Anh dừng lại đột ngột. Cơlarit nói một cách ao ước.

- Anh yêu nàng biết chừng nào!

- Ai vậy?

- Nữ thần "vệ nữ". Anh nói ý như nàng là một phụ nữ thực sự.

- Nàng là thực sự. Ít ra cũng với tôi. Tôi... tôi không thể giải thích rõ được... nhưng...

- Tôi cho rằng tôi đoán được. Và, vài ngày nữa, tôi hy vọng anh tìm được nàng trong đời sống thực. Anh xứng đáng được như thế.

- Không thể được đâu, thưa cô. Bức tranh được vẽ cũng vào khoảng sáu chục năm rồi, - Ăngtoan bối rối nói.

Cơlarit nói tiếp, hết sức nghiêm trang:

- Điều đó chẳng chứng tỏ được gì cả. Ai bảo rằng anh không thể tìm thấy người giống như thế. Nếu chú ý ta thường thấy mình gặp những người giống nhau đến nỗi tưởng họ là một người.

Cô cười, giọng thân ái và vui vẻ:

- Biết đâu đấy? Có thể một ngày nào đó, trong hành trình của anh, anh sẽ thấy một người phụ nữ làm cho anh nghĩ như sau: "Trời! Cơlarit Xtơrôdi kìa!" Nhưng nếu anh chạy theo cô ta, anh sẽ phát hiện rằng đó là một người khac, do có vài nét đặc biệt nào đó, đã làm cho anh nhớ đến tôi...

- Trong trường hợp đó, - Ăngtoan nói, - người phụ nữ ấy phải thực sự rất đẹp.

- Câu trả lời đẹp biết chừng nào, Tôniô! - Cô kêu lên một cách sung sướng.

Một lần nữa, anh đỏ mặt như một cô gái và đưa nhanh mắt nhìn chung quanh. Chắc chắn không ai nghe thấy anh nói.

Cách mấy bàn, anh thấy một người đàn ông đang nhìn hai người chằm chặp và anh cảm thấy người đó có vẻ thâm hiểm. Mặt người đó rất nâu, có thể do da vốn rám nắng, cũng có thể do ông ta đã sống nhiều thời gian ở ngoài trời. Nét mặt sắc, lông mày rậm, mắt sẫm và có một sức mạnh kỳ lạ. Dù mặc quần áo sẫm màu, kín đáo và chỉnh tể, vẫn có một cái gì lạ lùng phảng phất quanh ông ta, một vẻ gì không biết, làm cho ông ta khi vừa thoạt nhìn cũng đã thấy khác một cách không thể giải thích được với những người đang ngồi trong hiệu ăn.

Ăngtoan nhìn người lạ mặt rồi Cơlarit và hiểu rằng cô cũng chú ý người ấy, vì má cô tái xanh đi như có một bức màn bỗng phủ lên nguồn vui của cô, cô cắn môi mạnh đến nỗi nhợt đi. Rồi cô chào người ấy và mỉm cười với ông ta.

- Người quen của cô đấy à? - Ăngtoan hỏi.

- Lôđôvixi Anhôlô đấy, một nhà ảo thuật. Khi tôi không được thuê làm mẫu, tôi thường làm người phụ việc cho ông ta.

Ăngtoan định qua đầu nhìn lại nhưng anh giật mình kinh ngạc vì thấy tiếng chân bước lại gần. Anh muốn đứng lên để chào nhưng người kia, cao vượt hẳn anh, đã đặt lên vai anh một bàn tay nặng nề làm anh như bị đóng đinh vào ghế.

- Xin đừng đứng dậy, bác sĩ Xecvêtut.

Tiếng của nhà ảo thuật oang oang, vang lên một cách đáng sợ.

- Ông biết tên tôi sao? - Xécvê ấp úng.

Anhôlô mỉm cười để lộ răng to, đều và khỏe, to đến nỗi làm cho Ăngtoan nhớ đến những chiếc răng nanh của con lợn rừng anh đã mổ để thử lại thuyết tuần hoàn qua phổi của anh.

- Chắc rồi! - Tiếng nói oang oang trả lời. - Tôi đã dự ở Pađu nhiều buổi thuyết minh về giải phẫu của ông. Một ngày gần đây chúng ta sẽ phải nói chuyện lâu với nhau, bác sĩ ạ, tôi rất quan tâm đến y học.

- Ông không phải là nhà lý học sao?

Anhôlô cười cùng cục một cách khoái trá, như đã nghe một câu nói đù lý thú mà chỉ mình ông ta hiểu.

- Không, không hẳn là nhà lý học. Dù rằng cuộc sống... và cái chết rất quan tâm đến tôi. Nghề của bản thân tôi ấy mà, đó là nghiên cứu các ngôi sao. Những ngôi sao ấy cho chúng ta biết nhiều sự việc và nhiều vấn đề. Ông có biết điều ấy không?

Ăngtoan lịch sự trả lời:

- Tôi nghĩ rằng có thể có điều đó. Nhưng tôi là nhà giải phẫu học, do tôi tự lựa chọn, tôi không phải là nhà lý học. Và tôi cũng không hiểu biết gì về chiêm tinh học.

- Có lẽ, - Anhôlô gợi ý, - chúng ta có thể có ích cho nhau đấy.

Ông ta quay lại phía Cơlarit và Ăngtoan thấy cô nhìn nhà ảo thuật bằng một cái nhìn chăm chú lạ lùng cũng như anh thấy ông ta đã nhìn lúc nãy.

Cúi xuống gần cô, người kia nói nhỏ:

- Tối hôm nay ta có việc làm đấy, thưa cô.

Cô gật đầu như máy, Ăngtoan ngạc nhiên về các cử động không điều hoà, kỳ lạ của cô, giống như cử động của con rối.

- Được, - cô nói tiếng cô chỉ còn là tiếng thì thầm, - được, tôi hiểu...

- Tạm biệt, bác sĩ, - Anhôlô nói to. - Được gặp ông là vinh dự.

Xécvê chào nhưng không rời mắt khỏi cặp mắt của Cơlarit Xtơrôdi, bị huyễn hoặc bởi cái nhìn kỳ lạ của cô khi cô đưa mắt theo Anhôlô đang đi qua các bàn ăn. Bỗng cô như trở về với thực tại, cô chớp mắt mỉm cười và hỏi:

- Hình như anh đã nói gì với tôi thì phải?

- Không đâu. Công việc tối nay mà ông Anhôlô nói là việc gì thế?

- Tôi đã nói với anh rằng thỉnh thoảng tôi làm phụ cho ông ta. Tối nay ông ta biểu diễn một trò ảo thuật cần tôi giúp đỡ.

- Những buổi biểu diễn ấy như thế nào nhỉ? - Ăngtoan nói, tính tò mò khoa học của anh đột ngột thức tỉnh.

- Ồ, tôi biết giải thích cho anh như thế nào đây. Nhưng chắc không có gì đáng cho anh quan tâm đâu.

Cô cúi đầu gần anh hơn nữa và nhắc lại bằng một giọng nói lạ lùng:

- Hãy tin tôi. Không có gì đáng làm anh quan tâm đâu, thật đấy, anh Ăngtôniô ạ.

Có một cái gì khó chịu phảng phất nhưng tiếng nói vui vẻ của Giăng Xavarinoo làm tan đi. Vừa vỗ cái túi đựng tiền đã căng tròn buộc ở dây lưng, anh vừa nhìn vào bàn một cách hài lòng:

- Đây rồi! Mấy món ăn mình thích đây!

Anh kéo một chiếc ghế và ngồi xuống.

- Nhưng chưa ai ăn gì đây mà, cả hai người?

- Chúng tôi mải nói chuyện và không biết rằng bữa ăn đã dọn!

Mắt Giăng sáng ngời lên:

- Cậu đã trở thành một người bạn lịch sự đối với phụ nữ rồi đấy, Tôniô ạ!

Ăngtoan đỏ mặt:

- Ông Anhôlô cũng vừa lại nói chuyện một lúc.

- Lôđôvixi ấy à? Mẹ kiếp!

Giăng văng ra tiếng chửi thề rồi cau mày nhìn Cơlarit:

- Hắn nói gì thế?

Ăngtoan đã trả lời trước:

-Chúng tôi nói về chiêm tinh học. Ông ta cũng rất quan tâm đến môn giải phẫu học.

- Trời ơi!

Cơlarit lắc đầu và Giăng chuyển sang vấn đề khác.

- Chà! Mình đã rút quỹ của gia đình đầy căng túi đây. Chiều nay chúng ta sẽ chén tốt, Tôniô ạ!

Tuy nhiên, dù Giăng vui nhưng có cái gì đó làm Cơlarit không vui. Cô không còn là người bạn tươi cười, duyên dáng lúc trước nữa. Giăng hình như không nhận thấy gì cả, như thường lệ, anh nói như khướu, và Ăngtoan bắt đầu ăn ngấu nghiến. Đĩa thức ăn ngốn hết, anh ngả người trên ghế và thích thú ngắm cảnh tượng màu sắc đang diễn ra trước mắt mình.

Giữa những gông đôn lịch sự đang vạch những vệt dài trên làn nước xanh lcụ, một chiếc thuyền rộng chở nặng những hành lý và hàng hoá đang lướt qua. Ăngtoan cố kìm để không kêu lên vì những người khách ngồi trên ghế nệm kia không phải ai khác Luxia Belacmi và ông chú cô. Giăng nhìn theo mắt bạn và anh sửng sốt.

- Trời ơi! Một kỳ quan nhỏ tuyệt diệu!

- Đâu? - Cơlarit hỏi, tò mò như tất cả những người con gái của nữ thần Eva.

- Kia kìa, trong chiếc thuyền kia, gần ông già ấy.

Tiếng nói oang oang của Giăng vẳng tới thuyền. Luxia quay đầu lại và không nghi ngờ gì nữa, cô nhận ra người thầy thuốc trẻ, vì cái miệng xinh đẹp của cô đanh lại, hai má đỏ bừng kêu hãnh, cô quay đầu đi. Còn ông Girôlamô, trong khi ấy, lại mỉm cười lịch sự.

- Cô ta nhìn một người trong chúng ta, - Giăng khích động nói. - Có thể là ai đây?

Anh đưa mắt quanh mình và nhìn đến Ăngtoan, anh kêu lên:

- Cậu! Đúng là cậu! Cậu quen cô ta à, Tôniô?

- Ôi! - Ăngtoan nói nhỏ như với riêng mình và đưa tay sờ vào chỗ bướu.

- Ai thế? Trong đời mình, mình chưa từng trông thấy một bộ tóc lộng lẫy như thế bao giờ.

- Đấy là tiểu thư Luxia Belacmi và chú cô ta.

Quai hàm Giăng giật giật. Mãi sau anh mới lắp bắp được:

- Như... ưng... c... cậu... cậu bảo rằng cô ta không đẹp kia mà, Ăngtôniô?

- Không, mình chỉ nói một cách đơn giản là mình không biết cô ta có đẹp hay không?

- Cậu không thể ngu ngốc hay là mù đến như thế! - Giăng hét to và quay lại Cơlarit, anh yêu cầu cô phán đoán:

- Em trông thấy cô ta chứ Cơlarit? Có phải rằng không thể tưởng tượng được có người nào mê hồn hơn thế không?

- Cô ấy đẹp lắm, - Cơlarit thừa nhận và mỉm cười, - Nhưng anh Ăngtoan hình như chưa đặt cô trong trái tim mình.

Giăng giơ hai tay lên trời nói kiểu cách:

- Thật là những người cùng quê kệch và đần độn như nhau!

Bỗng nhiên mắt anh sáng lên:

- Nhưng cậu phải đi gặp ông Belacmi hôm nay kia mà, Tôniô?

- Có chứ. Để nói với ông ấy về bức tranh trước khi ông ấy đi... Nhưng họ đã chẳng xuống thuyền rồi còn gì?

- Đúng rồi. Họ đang trên đường đến chỗ đi xe trạm.

Cùng một lúc, cả hai người kia đứng dậy:

- Chúng mình phải đuổi kịp họ... Để tôi có thể báo cho ông Belacmi biết, ngay lập tức, - Ăngtoan nói. Giăng đã ném tiền lên bàn:

- Em đi chứ, Cơlarit?

- Không... Lôđôvixi muốn em đến chỗ ông ta chiều nay. Em sẽ về nhà và nghỉ ngơi. Họ nhảy lên nhưng thuyền của ông Belacmi đã biến mất.

- Ta đến lâu đài Pêdarô, - Giăng gợi ý.

Chuyến đi của họ uổng công. Ở lâu đài, người ta chỉ có thể báo cho họ biết rằng ông Belacmi và người cháu gái đã đi Phlôrăngxơ bằng thuyền và bằng xe trạm.

- Thôi được! Mình vẫn có thể viết thư đến Phlôrăngxơ cho ông ta và báo cho ông ta biết rằng bức tranh của ông ta hiện có mặt ở Pađu, - Ăngtoan tự an ủi khi họ về tới phòng vẽ.

- Chà! Nhưng mình, mình mất dịp làm quen với một cô gái đẹp! - Giăng than thở.

- Hãy tạ ơn trời đi. Cô ta đánh đau đấy, - Ăngtoan nói một cách hằn học.

- Cậu chẳng biết gì về phụ nữ cả, Tôniô ạ! Trong cánh tay mình, họ sẽ hiền như con cừu non.

Ăngtoan lắc đầu nghi ngờ rồi hỏi:

- À này, cậu có biết gì về thực chất mối quan hệ giữa Cơlarit Xtơrôdi và Anhôlô không, Giăng?

- Cô ấy giúp việc hắn. Chính cô ấy đã nói với cậu như thế.

- Nhưng còn gì nữa?

Giăng nhún vai, vẻ bàng quan:

- Ồ! Chắc cô ta là tình nhân của hắn nữa, có thể như thế. Mình chắc rằng...

Điều kỳ lạ, Ăngtoan không cảm thấy có một ý nghĩa chê trách nào về phía Cơlarit. Anh có trực giác rằng phải có một mối liên hệ sâu sắc gắn bó cô ta với Anhôlô, nhưng dù không có một chút kinh nghiệm gì về tình yêu cảu anh, anh cũng cảm thấy mối liên hệ ấy không chỉ hạn chế sự chiếm hữu xác thịt.

- Chỉ có thế thôi à?

Giăng nhìn anh, sửng sốt:

- Đôi lúc cậu làm mình ngạc nhiên thực sự đấy, Tôniô ạ! Vậy cậu cũng có cái gì khác ư? Một cái gì không giải thích nổi phải không?

- Đúng thế. Nhưng cái gì mới được chứ?

- Mình vẫn thường tự hỏi điều đó nhưng mình vẫn chưa biết nó. Anhôlô hình như có một uy quyền gì rất lạ đối với cô ta. Khi mình hỏi, cô ta lặng thinh. Cô ấy nói với mình một cách đơn giản rằng cô là tình nhân của hắn đã nhiều năm. Nhưng rõ ràng là...

Anh dừng lại và nghiêm nghị nhìn Ăngtoan:

- Tôniô, phải chăng cậu đang sắp say mê cô ta?

- Không, - Ăngtoan tư lự nói, - Mình yêu cô ta lắm, thực sự là yêu lắm. Tuy nhiên, đó không phải là cái mà người ta gọi là ái tình.

- Chiếc xe trạm bon bon chạy trên đường, đưa ông Belacmi và người cháu gái về phía Phlôrăngxơ.

- Chú rất vui sướng được trở về nhà, - ông Belacmi nói và tựa lưng thoải mái vào nệm. - À này, có phải đúng ông bác sĩ trẻ Xecvêtut mà lúc nãy chú trông thấy, ngồi ăn với một người đàn bà đẹp ở cái hiệu ăn trên bờ hồ không nhỉ?

Luxia khịt mũi một cách khinh khỉnh, mắt cô loé sáng.

- Đẹp ư? Bà ta quá lớn tuổi để có thể gọi được là đẹp!

Cô có vẻ rất khó tính mà ông Belacmi vốn ưa hoà bình cho rằng dựa theo ý cô ta là khôn ngoan hơn cả.

- Đúng! Chưa quá hai mươi lăm tuổi! Cái anh chàng bác học trẻ tuổi ấy gây cho chú một ấn tượng tốt, Luxia ạ. Nếu vừa qua chúng ta có thêm chút ít thì giờ, chú thú thực là chú sẽ vui lòng nhờ anh ta khám cho mình.

- Thôi đi chú! Chú đã có những thầy thuốc tốt nhất Phlôrăngxơ rồi là gì!

- Chà! Nhưng anh này có vẻ hiểu biết nhiều và thành thạo trong công việc của anh ta, - ông Belacmi nói và xoa mũi.

- Với cháu thì hắn là thằng ngốc, - Luxia tuyên bố, giọng chanh chua.

Ông Belacmi nhún vai. Ông đã nuôi cháu gái và thương yêu cháu và thương yêu cháu rất sâu sắc, nhưng phải thừa nhận rằng cháu gái ông cũng như những người phụ nữ khác, có tật là hay phát biểu ra những ý kiến rất khó chịu do tính cách chuyên quyền rõ rệt của họ.

- Chú e rằng, - ông đổi sang chuyện khác, - Chúng mình vĩnh viễn phải từ bỏ hy vọng tìm lại Thần vệ nữ.

Luxia mỉm cười, nụ cười thoáng qua và bí mật, cười với mình mà thôi.

- Ý cháu không như thế, - cô trả lời - trái lại, cháu chắc rằng chúng mình sẽ tìm thấy nó.

Chú cô nhướng mắt lên:

- Ai làm cho cháu nghĩ như thế, cháu yêu của chú?

- Cháu tin chắc rằng bức tranh Thần vệ nữ đang ở Pađu.

- Ở Pađu! - Ông nói tiếp như một tiếng vang. Ở Pađu ư? Tại sao lại ở Pađu?

- Vì bác sĩ Xecvêtut đã thấy bức tranh ấy.

Ông Belacmi giật mình:

- Ông ấy bảo cháu như thế à?

- Không hẳn như thế.

Luxia mỉm cười một cách khó chịu.

- Thôi cái trò đánh đố ấy đi, Luxia, - Ông Belacmi sốt ruột nói. - Hay đây là một kiểu mới của cái mà cháu gọi là trực giác của cháu?

Cô lắc cái đầu tóc vàng:

- Đúng và không. Chú có nhớ anh ta đã nhìn cháu như thế nào khi mọi người gặp nhau lần đầu bên giường bác Mariô không?

- Có. Nhớ chứ.

Ông Girôlamô gật đầu nói tiếp:

- Có. Rất nhớ. Nhưng cháu là người con gái có một sắc đẹp không tầm thường.

- Không phải như thế. Về sau anh ta đã bày tỏ với cháu rằng anh ta không thể ngăn mình đứng nhìn cháu một cách chăm chú như thế bởi vì mọi cái ở cháu hình như quen thuộc với anh ta một cách lạ kỳ. Hình như anh ấy đã biết cháu trong cả cuộc đời mình.

- Anh ta có thể quen thân một người nào giống cháu lắm, và, ồ! ... (mắt ông bỗng sáng lên vì đã hiểu ra) ồ!... Ximôneta chăng?

- Hiển nhiên rồi, - Luxia trả lời với đôi chút tự kiêu. - Ngay từ lúc anh ấy nói với cháu là mặt cháu hình như rất quen thuộc với anh ấy, cháu đã chắc chắn rằng anh đã nghiên cứu kỹ bức tranh Thần vệ nữ Bôtixeli.

- Nhưng tại sao anh ta lại có thể so sánh?

- Anh ấy không thể! Anh ấy không hề làm sự so sánh nào cả. Anh ta mong muốn trở thành giáo sĩ và chẳng hiểu biết gì ở ngoài đời. Và nếu anh ta có nghe kể lại rằng Bôtixeli đã vẽ Thần vệ nữ dựa theo Ximôneta Vexpucxi, em gái của ông Amêrigô của cháu, thì anh ấy cũng chẳng rút ra một kết luận nào cả!

Không thể tin ở tai mình được, ông chú lắc đầu:

- Luxia, cả Phlôrăngxơ biết rằng cháu là hình ảnh sống của Ximôneta và Thần vệ nữ của Bôtixeli cũng là hình ảnh của bà. Điều ấy rõ ràng và đơn giản như một định lý của Ơcơlít.

- Hay là như câu chuyện kể của người hát rong cũng vậy!

- Điều này sẽ đưa chúng ta thẳng tới Vơnidơ và tới Pađu theo dấu vết của bức tranh bị mất.

Mắt ông sáng lên, ông vùng ngồi thẳng lại, rồi nói:

- Này, anh đánh xe! - Ông gọi to. - Anh đánh xe! Quay xe lại. Chúng tôi trở lại Vơnidơ.

Chiếc xe dừng lại ngay. Luxia ngó qua cửa và gọi anh đánh xe đang ngồi trên đầu cô:

- Đợi một tý, anh đánh xe! Đợi nhé. Đừng quay xe vội.

- Thế nghĩa là thế nào? - Ông Belacmi mắng - Lần này thì cháu đã vượt qua giới hạn rồi đấy, Luxia ạ!

- Cháu không thích trở lại Vơnidơ, - Luxia phụng phịu nói.

- Nhưng bức tranh?...

- Nó sẽ là của cháu, phải không?

- Chắc chắn là như thế rồi. Cha cháu để lại nó cho cháu vì sự giống nhau lạ lùng giữa cháu và Ximôneta Vexpucxi...

- Được rồi chú ạ. Vậy thì cháu quyết định để nó ở Pađu. Tạm thời thôi, ít ra là như thế.

Ông Girôlamô giơ hai tay và ngước mắt lên trời:

- Trời ơi, Luxia! Thật là điên rồ. Dù rằng nó là của riêng cháu, chúng ta cũng sẽ không để mất một bức tranh như vậy vì tính khí thất thường của một đứa con gái nhỏ! Luxia, chú từ chối không...

- Đợi một chút, chú ơi. Hãy đợi một chút, cháu xin chú... Bác sĩ Xécvê biết rõ rằng bức tranh ấy của chúng ta. Anh ấy đã nghe rất rõ chú nói điều ấy với ông giáo sĩ Phêlíp Xăngtốt kinh khủng ấy.

- Chúng ta đồng ý với nhau ít nhất cũng ở một điểm, - Belacmi thở dài, - giáo sĩ Phêlíp thật kinh khủng.

- Anh thầy thuốc này ngay thẳng một cách quá đáng, cháu chắc chắn như thế vì trước đây anh ta đã dự định trở thành giáo sĩ.

- Trước đây? Vậy bây giờ anh ta không muốn phụng sự chúa nữa sao?

- Cháu không tin như thế. Bây giờ thì càng không rồi...

Ý nghĩ của người thương nhân bắt đầu sáng tỏ:

- Có lẽ chú thấy rõ rồi đấy. Cháu nghĩ rằng ông Xecvêtut biết rõ bức tranh ở chỗ nào và có thể lấy nó về, định đoạt về nó, nếu ông ta thực sự muốn thế.

- Cháu nghĩ như thế này. Anh ta phải biết nó một cách rất... thân thuộc... mới có thể kinh ngạc về sự giống nhau.

- Nhưng chưa biết rõ sự thực là Thần vệ nữ cũng có thể là chân dung của cháu, là cả hai giống nhau?

- Anh ta sẽ biết, với thời gian. Đàn ông rất ngốc về những việc như thế này và anh ta thì lại càng đặc biệt ngốc, - Luxia nói một cách mỉa mai.

- Ừ. Hình như chú đã nghe cháu bảo anh ta là ngu ngốc, - Belacmi thở dài. - Tuy nhiên, vì anh ta là người ngay thẳng, nên cháu cho rằng không bao lâu nữa anh ta sẽ xuất hiện ở Phlôrăngxơ với bức tranh?

- Đấy không phải là lý do duy nhất, - Luxia nói giọng nho nhỏ và ngoan ngoãn, mắt nhìn xuống khiêm tốn.

- Nếu chú hiểu đúng thì cháu làm như thế coi như một cách thử thách phải không?

- Cũng có thể nói điều đó là như thế, - Luxia thừa nhận. - Và như vậy thì cháu sẵn sàng liều mất bức tranh quý ấy?

- Cháu sẵn sàng như vậy... Cháu không liều gì cả! - Luxia nói một cách thanh thản.

Ông Girôlamô đành chịu và gọi qua cửa sổ:

- Anh đánh xe ơi, chúng tôi đã thay đổi ý kiến. Đi thẳng đến Phlơrăngxơ đi!

Ông lại ngồi tựa vào nệm và bật cười. Cười thầm, lúc đầu rất khẽ thôi. Rồi ông cười to dần. Và không bao lâu, không thể nhịn được nữa, ông phá lên cười và vỗ bụng mà cười, những giọt nước mắt vui vẻ chảy xuống má. Luxia bắt đầu ngồi rất trang nghiêm. Rồi cô cũng cười khẽ và không bao lâu cô đồng thanh với chú, cười chảy nước mắt về tính độc đoán của mình.

Trên cao, anh đánh xe ngồi trên ghế khẽ nhún vai và quật dây cương vào mông ngựa. Anh nghe nói rằng người xứ Phlôrăngxơ gàn dở, nhưng bây giờ anh mới có bằng chứng về chuyện ấy. Đi Phlôrăngxơ! Đi Vơnidơ! Và rồi thẳng đường Phlôrăngxơ! Sau đó họ bật cười... cười... như nắc nẻ... Và vì lẽ gì? Không có gì! Không có gì hết.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: