
Màn khói 3 : Duyên - quyết định
Màn khói 3 : Duyên - quyết định
Chiều hôm ấy, cơn mưa vừa dứt. Ngoài con đường đất lầy lội bùn, đám trẻ con ùa ra, tranh nhau những vũng bùn còn đọng lại trên con đường đất gồ ghề, nước bùn bắn tung tóe, bỗng chốc làm bọn trẻ trở lên lấm lem đất cát, chúng cười đùa, reo hò, vang vọng cả con đường làng. Bầu trời sau mưa vẫn phủ một màu xám xịt chưa tan, những đám mây chồng chéo lên nhau , kéo dài đến tận đường chân trời vô định như ụp xuống ngôi làng Yên Đán. Từng tia nắng yếu ớt cũng không xuyên nổi qua tầng mây dày, ánh sáng mờ nhạt phủ lên những mái nhà tranh xơ xác, nồng mùi ấm mốc càng làm không khí ngôi làng thêm nặng nề.
Ngôi nhà ba gian nhà họ Lê vẫn mang vẻ ảm đạm như vậy. Mái ngói đỏ mốc xám, loang lổ rêu phong, vỡ mẻ, nhuốm đậm màu của thời gian. Hàng cau trước nhà cao gầy, lá héo dài rủ xuống, đọng đầy nước, cũng không che được thân cau xám bạc, khô khốc những vết nứt. Hiên nhà còn ướt sũng sau cơn mưa, giọt nước từ mái ngói tí tách rơi xuống nền sân gạch đỏ xô lệch, vỡ mẻ, vang lên khô khốc giữa khoảng lặng. Lá cây sưa rụng xuống, che lấp cả một khoảng sân...Vẫn khung cảnh quen thuộc đó, căn nhà vốn đã cũ nay lại như oằn mình trước sự mất mát của gia đình họ Lê.
Trong gian nhà tối om, chỉ có ánh sáng lờ mờ của trời chiều hắt vào, soi lên hàng khói trầm hương đang chầm chậm bay, quyện thành từng dải mỏng rồi tan dần trong khoảng không nặng nề. Trên án thờ cũ, đôi chân đèn bằng đồng đã xỉn màu, ánh sáng lửa nhỏ lay lắt, khi tỏ khi mờ. Bát hương sứ cũ kĩ, thành đã sứt mẻ, cắm đầy những chân hương cháy dở, đỏ rực lên vài tàn lửa âm ỉ. Di ảnh ông Ân hiện lên chập chờn, khung gỗ bao lấy tấm ảnh, làm nổi lên nụ cười nhẹ của ông, một nụ cười hiền lành, ấm áp chỉ còn biết đến trên di ảnh lạnh ngắt. Đĩa hoa quả ngày tết vẫn để trước án thờ , chỉ thêm thắt vài quả na xanh, như một cách giữ lại hơi ấm cuối cùng cho ông Ân.
Bà Phương ngồi thẫn thờ trên bộ trường kỷ cũ, Mái tóc bà đã điểm sợi bạc, búi gọn sau gáy. Đôi tay gầy gò, chai sạn sau bao năm làm lụng vẫn mân mê tà áo, mắt bà không rời tấm di ảnh ông Ân - người chồng mà bà chưa một ngày nguôi nhớ. Nhìn tần khói mỏng lượn lờ tựa dải sương mỏng, lại khiến tâm trí bà Phương như chợt lạc về năm ấy - cái năm bà và ông Ân gặp nhau lần đầu giữa thời loạn.
Hồi đó, ông Ân còn là một thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng, đang trên đường lẩn trốn sau một trận vây ráp của lính khố xanh. Đêm ấy, trời mưa tầm tã, làng Yên Đán ngập trong bùn nước, khắp làng chỉ nghe được tiếng mưa tầm tã và từng đợi sấm chớp sáng trên bầu trời. Bà Phương lúc đó mới là cô gái đôi mươi, con gái của một gia đình nhà nho, đang ngồi đọc sách bên khung cửa gỗ, nghe tiếng động lạ ngoài ngõ, Phương nén sợ, mặc mảnh áo mưa bạt bước chậm chậm ra ngoài. Tối đó chỉ có mình Phương ở nhà, bố mẹ đã đi làm xa, gia nhân trong nhà cũng đã về hết. Dưới màn mưa rả rích, ánh đèn dầu yếu ớt hắt sáng lên mảnh thân rách nát của một người đàn ông gục ngã bên gốc ổi - đó chính là Ân , người dính đầy máu , ướt sũng , bàn tay vẫn nắm chặt một mảnh gì đó. Phương hoảng hốt, liền đưa Ân vào trong , lặng lẽ thắp đèn, rửa vết thương cho anh bằng thứ thuốc tự sắc . Khi tỉnh lại, giọng Ân khàn đặc mà vẫn vững vàng:
“Nếu cô sợ, cứ giao tôi cho lính… Tôi chỉ xin giữ lại mảnh giấy này.”
Phương nhìn người đàn ông xa lạ, trong mắt anh là ngọn lửa kỳ lạ — không phải sợ hãi, mà là niềm tin. Bà khẽ đáp, giọng không biết vì sao mà run run:
“Nhà tôi có ai đâu mà sợ, anh cứ nằm yên, tôi lo được.”
Phương vừa nói dứt câu, từ bên ngoài truyền đến tiếng vó ngựa lộp cộp xen lẫn tiếng giày đinh dẫm mạnh trên nền đất ướt. Tiếng quát tháo bằng thứ tiếng Pháp lẫn tiếng Việt the thé vang lên giữa đêm mưa:
“Lục kỹ! Thằng đó không đi xa được đâu! Tìm cho ra, nhanh lên!”
Phương giật mình, ánh đèn dầu trên tay khẽ rung, bóng Ân đổ nghiêng trên vách tường. Phương vội tắt đèn, đưa tay ra hiệu cho anh nằm yên.
“Cứ im, họ đi qua ngay thôi,” - Phương thì thào, tim đập mạnh đến mức nghe rõ trong lồng ngực.
Tiếng chân lính mỗi lúc một gần, tiếng chó sủa inh ỏi vọng lại từ đầu ngõ. Mùi bùn, mùi mưa, mùi khói ẩm quyện thành thứ mùi ngai ngái, nặng trĩu cả hơi thở. Phương cúi xuống, nắm chặt tay Ân, bàn tay anh lạnh toát nhưng vẫn giữ chặt tờ giấy trong lòng. Phương vừa chùm tấm chăn lên Ân thì ngoài cổng vang lên tiếng gậy gõ chan chát:
“Có ai trong nhà không?”
Phương lau vội nước mưa trên mặt, bước vội ra cổng, cố giữ giọng bình tĩnh:
“Dạ… có tôi thôi, tôi ở một mình, có chuyện gì vậy ạ?”
Một tên lính Pháp trẻ, mặt đỏ gay vì rượu, ló đầu vào soi đèn, nói thứ giọng ngòng ngọng bằng tiếng việt nhưng đầy hách dịch:
“Chúng tôi đang truy bắt phản loạn. Cô có thấy ai lạ mặt chạy qua đây không?”
Phương cúi đầu, hai tay nắm chặt vạt áo:
“Dạ… trời mưa thế này, tôi có ra ngoài đâu mà thấy ai.”
Tên lính nhìn quanh, ánh đèn lia quanh nhà, rồi hắt lên gương mặt người phụ nữ còn vương nước mưa. Hắn cười khẩy, toan nói gì đó thì một tiếng quát từ xa vọng lại:
“Đi thôi! Bên kia có dấu chân!”
Bóng đèn pin tắt phụt. Tiếng vó ngựa xa dần trong đêm. Phương thở phào, lưng áo ướt đẫm mồ hôi. Bà quay lại, thấy Ân kia vẫn trong nhà, tựa vào vách, ánh mắt lặng lẽ nhìn Phương - sâu, mệt, nhưng chan chứa lòng biết ơn.
“Cảm ơn cô,”- anh khẽ nói, giọng khàn đặc
“tôi nợ cô một mạng.”
Phương chỉ khẽ đáp, bàn tay vẫn còn run:
“Giữ lấy mạng ấy mà làm điều có ích cho nước. Tôi không cần anh trả ơn.”
Ánh mắt Phương và Ân chạm nhau , cả hai như thoáng xững lại , có gì đó cũng vừa được gieo. Ngoài kia, mưa lại bắt đầu rơi lất phất như thể đêm chưa muốn dứt, và số phận hai con người ấy cũng vừa bắt đầu rẽ chung một lối. Sau này, ông Ân hay đùa rằng, mối nhân duyên của họ bắt đầu bằng một vết thương và một bát nước lá ổi, tờ giấy mà ngày ấy ông Ân khư khư giữ lại là bức thư của mẹ gửi cho ông.
Bà Phương bất giác mỉm cười nhưng khóe mắt bà đã cay cay. Bà luôn thắc mắc không hiểu vì sao tối hôm đó bà lại có đủ dũng cảm bước ra cổng khi nghe thấy tiếng động lạ trong một đêm mưa tầm tã như vậy , bà lại có thể không suy nghĩ mà đưa một người đàn ông lạ vào nhà,...mọi thứ thật vô lí nhưng cũng thật hợp lí , có lẽ đó là cái duyên của hai người. Bao năm qua, hình ảnh đêm mưa năm ấy vẫn chưa một lần phai mờ. Cái đêm mà bà cứu một người đàn ông xa lạ - rồi sau này, chính người ấy trở thành chồng mình, cha của Thanh Hạ, Thanh Hoài, Thanh Hùng và là người đã chọn con đường không lối về cho Tổ quốc.
Cánh cửa gỗ cũ “kẽo kẹt” kêu, Thanh Hạ bước chậm vào nhà, áo cô vẫn ẩm sương, tóc lòa xòa trước trán. Cô cúi đầu, đặt nón lên chõng tre, rồi khẽ rót chén nước chè cho mẹ. Đôi tay trắng nhỏ run nhẹ vì lạnh, và cũng vì điều cô sắp nói ra. Chén nước chè nóng hổi , bốc khói nghi ngút, phản chiếu ánh hoàng hôn đang hạ xuống trên những quả đồi xa xa. Hạ ngồi lại xuống ghế, tay cô nhau chặt vào vặt áo, môi cô mấp máy mãi vẫn không thành lời. Bà Phương biết Hạ có điều muốn nói, bà nhấp một ngụm chè nóng, ánh mắt hiền sâu nhìn Hạ :
“Con muốn nói gì phải không?”- giọng bà Phương thanh thoát cất lên
Hạ giật mình, cô lúng túng không biết lên nói gì, trong một khoảng khắc nhỏ, cô đã định từ bỏ nhưng lại ngay lập tức gạt phắt đi ý nghĩ ấy. Ánh mắt Hạ chạm phải ánh mắt bà Phương, ánh mắt mềm mại phảng phất nỗi buồn ấy như đã nhìn thấu cô. Ngoài kia, hoàng hôn đang dần tắt. Ánh nắng cuối ngày loang qua hàng cau trước hiên, vỡ vụn thành từng vệt vàng trên nền sân gạch còn ẩm nước mưa. Khói bếp nhà ai bay lên, quện trong gió, thoảng mùi rơm khô cháy dở, mùi thân thuộc của một buổi chiều làng quê sau mưa. Cả căn nhà phủ trong ánh sáng vàng lịm, lặng lẽ đến nao lòng.
Hạ hít một hơi thật sâu, giọng cô run khẽ, như sợ chính lời mình thốt ra sẽ làm vỡ bầu không khí ấy:
“Mẹ… con có chuyện muốn thưa với mẹ”.
Bà Phương đặt chén nước xuống bàn gỗ, đôi tay gầy chậm rãi vuốt tà áo nâu. Ánh sáng hắt lên gương mặt bà, làm rõ từng nếp nhăn hằn nơi khóe mắt.
“Ừ, con nói đi”.
Hạ mím môi, tay cô càng bấu chặt vào tà áo hơn, chiếc áo bỗng chốc chở nên nhăn nhún, Hạ cảm thấy nhịp tim mình đập nhanh, người cũng đang nóng lên:
“Con... đã đi gặp bác Tá...”
Bà Phương không phản ứng, bà vẫn điềm tĩnh như vậy, nhưng đôi tay gầy guộc lại đang run lên, ánh mắt bà cũng đỏ lên vài phần, bà nâng chén nước, uống liền một mạch, có vẻ bà đang nén giận. Bà nhìn xa ra ánh hoàng hôn đang nấp dần sau mấy quả núi, bà nhẹ nhàng nên tiếng, gióng nói vẫn nhẹ nhàng thanh thoát nhưng đã lạc đi:
“Con ... tại sao lại lưạ chọn như vậy...?”
Hạ cúi mặt, mắt cô cũng mờ đi, nhưng giọng cô lại kiên định hơn bao giờ hết :
“Con sợ chứ mẹ ...Con rất sợ một ngày nào đó sẽ không thể gặp được mẹ và các em, con không muốn xa quê, con lại càng không muốn cầm súng đối mặt với kẻ địch. Nhưng mẹ ơi, nếu ai cũng giống con thì ai sẽ đỡ lấy đất nước đây mẹ ? không đi thì sẽ không mất mạng, nhưng nước mất thì tất cả mất hết, con thà chết với danh dự là người cứu nước còn hơn là nhưng kẻ hèn nhát mẹ ạ”.
Hạ nói một hơi dài, nước mắt cũng đã thấm vào vạt áo. Bà Phương siết chặt vạt áo, đôi mắt long lanh phản chiếu ánh đỏ của hoàng hôn, từng hạt nước nóng hổi lăn chậm trên má bà. Bà Phương không nói gì, bà đứng dậy ôm lấy cô con gái nhỏ của mình, Hạ không mấy bất ngờ, ôm chầm lấy bà khóc không thành tiếng, bà xoa đầu Hạ thì thầm :
“Mẹ sẽ theo con, sẽ ủng hộ con, mẹ rất tự hào với quyết định của con...”
Ánh hoàng hồn lịm đi, để lại một màu tối mờ trên bầu trời, từng đàn chim nhỏ bé bay vút qua những rặng tre đầu làng, để lại những tiếng kêu khàn khàn lẫn vào tiếng gió chiều. Giọng nói của ông Ân vào tối hôm ấy, lại vang lên trong đầu bà Phương:
“Nếu cô sợ, cứ giao tôi cho lính… Tôi chỉ xin giữ lại mảnh giấy này”.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro