chứng khoán 12345
Câu 1. Tôi muốn hỏi về khái niệm thị trường chứng khoán, nguyên tắc hoạt động của TTCK?
Thị trường chứng khoán (TTCK) trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. TTCK có những chức năng cơ bản sau:
1. Chức năng cơ bản của TTCK
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
2. Các chủ thể tham gia TTCK
Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành các nhóm sau: tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
a) Tổ chức phát hành
Tổ chức phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Tổ chức phát hành là tổ chức cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của TTCK.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ
và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu,
chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.
b) Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
c) Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
- Công ty chứng khoán
- Quỹ đầu tư chứng khoán
- Các trung gian tài chính
d) Các tổ chức có liên quan đến TTCK
- Cơ quan quản lý Nhà nước
- Sở giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm...
3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK
TTCK hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc công khai
- Nguyên tắc trung gian
- Nguyên tắc đấu giá
4. Cấu trúc và phân loại cơ bản của TTCK
TTCK là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng... có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản:
a) Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang tổ chức phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
- Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
b) Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
TTCK được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).
c) Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
TTCK cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
- Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
- Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
- Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn...
Câu 2. Xin cho biết việc phát hành chứng khoán được thực hiện như thế nào?
1. Khái niệm về phát hành chứng khoán
Việc chào bán lần đầu tiên của một loại chứng khoán mới được gọi là phát hành chứng khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng khoán mà chỉ những chủ thể phát hành mới có được quyền này.
2. Phương thức phát hành chứng khoán
Có 2 phương thức phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
2.1. Phát hành riêng lẻ
Phát hành riêng lẻ là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài) như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc phát hành cổ phiếu thường - cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này.
2.2.Phát hành chứng khoán ra công chúng
Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định.
2.3.Ý nghĩa cơ bản của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện để xây dựng một TTCK an toàn, công khai và có hiệu quả.
Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty. Chứng khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên TTCK sơ cấp.
3.Bảo lãnh phát hành chứng khoán
3.1 Khái niệm
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư thường là những tổ chức đứng ra làm bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng hoa hồng.
3.2 Các phương thức bảo lãnh phát hành
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo "cam kết chắc chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng (POP) và bán lại các chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức bảo lãnh thông dụng nhất.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
Câu 3. Tôi muốn hỏi một số hệ số tài chính cơ bản?
1. Hệ số tổng lợi nhuận: cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào (vật tư, lao động) trong một quy trình sản xuất của doanh nghiệp.
Hệ số tổng lợi nhuận = (Doanh số-Trị giá hàng đã bán tính theo giá mua) / Doanh số bán
Trong thực tế khi muốn xem các chi phí này có cao quá hay không là đem so sánh hệ số tổng số lợi nhuận của một công ty với hệ số của các công ty cùng ngành, nếu hệ số tổng lợi nhuận của các công ty đối thủ cạnh tranh cao hơn, thì công ty cần có giải pháp tốt hơn trong việc kiểm soát các chi phí đầu vào.
2. Hệ số lợi nhuận hoạt động: cho biết việc sử dụng hợp lý các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Mức lãi hoạt động = Thu nhập trước thuế và lãi ( EBIT)/doanh thu
Hệ số này là thước đo đơn giản nhằm xác định đòn bẩy hoạt động mà một công ty đạt được trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hệ số biên lợi nhuận hoạt động cho biết một đồng vốn bỏ ra có thể thu về bao nhiêu thu nhập trước thuế. Hệ số lợi nhuận hoạt động cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay có nghĩa là doanh thu tăng nhanh hơn chi phí hoạt động.
3. Hệ số lợi nhuận ròng: phản ánh khoản thu nhập ròng (thu nhập sau thuế) của một công ty so với doanh thu của nó.
Hệ số lợi nhuận ròng = Lợi nhuận ròng/Doanh thu.
Trên thực tế mức lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong bản thân một ngành thì công ty nào quản lý và sử dụng các yếu tố đầu vào (vốn, nhân lực..) tốt hơn thì sẽ có hệ số lợi nhuận ròng cao hơn.
4. Hệ số thu nhập trên vốn cổ phần (ROE): phản ánh mức thu nhập ròng trên vốn cổ phần của cổ đông.
ROE = Lợi nhuận ròng/Vốn cổ đông hay giá trị tài sản ròng hữu hình.
Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu khác nhau trên thị trường. Thông thường, hệ số thu nhập trên vốn cổ phần càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn, vì hệ số này cho thấy cách đánh giá khả năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty khi đem so sánh với hệ số thu nhập trên vốn cổ phần của các công ty khác.
5. Hệ số thu nhập trên đầu tư (ROI): được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của biên lợi nhuận so với doanh thu và tổng tài sản.
ROI = (Thu nhập ròng/Doanh số bán) * (Doanh số bán/Tổng tài sản).
Mục đích của việc sử dụng hệ số ROI là để so sánh cách thức tạo lợi nhuận của một công ty và cách thức công ty sử dụng tài sản để tạo doanh thu. Nếu tài sản được sử dụng có hiệu quả, thì thu nhập và thu nhập trên đầu tư sẽ cao.
6. Hệ số giá trên thu nhập (P/E): là một trong những chỉ số phân tích quan trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price - PM) và thu nhập của mỗi cổ phiếu (Earning Per Share - EPS) và được tính như sau:
P/E = PM/EPS
Trong đó giá thị trường PM của cổ phiếu là giá mà tại đó cổ phiếu đang được mua bán ở thời điểm hiện tại; thu nhập của mỗi cổ phiếu EPS là phần lợi nhuận ròng sau thuế mà công ty chia cho các cổ đông thường trong năm tài chính gần nhất. P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu. P/E được tính cho từng cổ phiếu một và tính trung bình cho tất cả các cổ phiếu và hệ số này thường được công bố trên báo chí.
Nếu hệ số P/E cao thì điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến tốc độ tăng cổ tức cao trong tương lai; cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu tư thoả mãn với tỷ suất vốn hoá thị trường thấp; dự đoán công ty có tốc độ tăng trưởng trung bình và sẽ trả cổ tức cao. Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử người đầu tư có cổ phiếu XYZ không được giao dịch sôi động trên thị trường, vậy cổ phiếu đó có giá bao nhiêu là hợp lý? Chúng ta chỉ cần nhìn vào hệ số P/E được công bố đối với nhóm các loại cổ phiếu tương tự với cổ phiếu XYZ, sau đó nhân thu nhập của công ty với hệ số P/E sẽ cho chúng ta giá của loại cổ phiếu XYZ.
Câu 4. Xin hướng dẫn cho tôi biết các bước để tham gia mua bán chứng khoán niêm yết tại Trung tâm GDCK Hà Nội?
Để tham gia giao dịch mua, bán chứng khoán đang niêm yết tại Trung tâm GDCK Hà Nội bạn cần đến công ty chứng khoán để làm thủ tục mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Khách hàng và công ty chứng khoán sẽ ký hợp đồng mở tài khoản và mỗi khách hàng sẽ được công ty chứng khoán mở một tài khoản riêng để theo dõi tiền và chứng khoán của khách hàng. Để mua chứng khoán bạn phải có tiền hoặc để bán chứng khoán bạn phải có chứng khoán trong tài khoản này. Vì vậy, bạn phải gửi tiền vào tài khoản đó hoặc nếu đã có chứng khoán thì bạn phải lưu ký chứng khoán cho công ty chứng khoán nơi bạn đã mở tài khoản. Sau đó, bạn có thể thực hiện giao dịch (mua/bán) chứng khoán trên tài khoản của mình thông qua công ty chứng khoán bằng việc viết phiếu lệnh và chuyển cho công ty chứng khoán nhập lệnh vào hệ thống giao dịch. Kết thúc phiên giao dịch công ty chứng khoán sẽ thông báo kết quả giao dịch cho bạn. Bạn sẽ nhận được chứng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là người bán) trên tài khoản của mình tại công ty chứng khoán sau 3 ngày làm việc kể từ ngày giao dịch (mua/ bán) thành công (đối với giao dịch thỏa thuận có khối lượng cổ phiếu giao dịch dưới 100.000 cổ phiếu hoặc báo giá trung tâm hoặc theo lựa chọn của hai bên tham gia giao dịch).
Câu 5. Xin cho biết phương pháp xác định giá tham chiếu của chứng khoán niêm yết tại Trung tâm GDCK Hà Nội được xác định như thế nào?
Theo Quyết định số 244/QĐ-BTC ngày 20/1/ 2005 của Bộ trưởng BTC ban hành Quy chế tạm thời tổ chức giao dịch chứng khoán tại Trung tâm GDCK Hà Nội;và Quyết định số 245/QĐ-UBCK ngày 4/5/2005 của UBCK về việc ban hành Hướng dẫn qui định đăng ký, giao dịch chứng khoán và công bố thông tin bất thường của tổ chức đăng ký giao dịch chứng khoán tại Trung tâm GDCK Hà Nội, giá tham chiếu được xác định như sau:
a. Giá tham chiếu của cổ phiếu đang giao dịch là bình quân gia quyền của các giá giao dịch của ngày có giao dịch gần nhất;
b. Trường hợp cổ phiếu mới đăng ký giao dịch hoặc trường hợp chứng khoán bị tạm ngừng giao dịch (do tổ chức đăng ký giao dịch vi phạm nghiêm trọng chế độ công bố thông tin theo qui định của pháp luật hoặc bị tạm ngừng trong trường hợp cần thiết để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư hoặc đảm bảo hoạt động ổn định của thị trường), thì trong ngày giao dịch đầu tiên hoặc ngày giao dịch trở lại, không áp dụng biên độ dao động giá;
c. Trường hợp giao dịch cổ phiếu không hưởng cổ tức và các quyền kèm theo, giá tham chiếu tại ngày không hưởng quyền được xác định theo nguyên tắc lấy giá bình quân gia quyền của các giá giao dịch của ngày có giao dịch gần nhất điều chỉnh theo giá trị cổ tức được nhận hoặc giá trị các quyền kèm theo;
d. Trường hợp tách, gộp cổ phiếu, giá tham chiếu tại ngày giao dịch trở lại được xác định theo nguyên tắc lấy giá bình quân gia quyền của các giá giao dịch của ngày có giao dịch trước ngày tách, gộp điều chỉnh theo tỷ lệ tách, gộp cổ phiếu.
Câu 6. Xin cho biết ngày giao dịch không hưởng cổ tức là gì?
Ngày giao dịch không hưởng cổ tức là ngày mà nếu cổ phiếu được giao dịch (mua/bán) vào ngày đó thì người mua (người sở hữu) sẽ không được hưởng cổ tức. Cổ tức sẽ được trả cho người có tên trong danh sách hưởng cổ tức sở hữu cổ phiếu đó được lập vào ngày đăng ký cuối cùng.
Câu 7. Xin vui lòng hướng dẫn chi tiết về Bản cáo bạch ?
1. Bản cáo bạch là tài liệu hoặc dữ liệu điện tử công khai những thông tin chính xác, trung thực, khách quan liên quan đến việc chào bán hoặc niêm yết chứng khoán của tổ chức phát hành.
Khi phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty phát hành phải công bố cho người mua chứng khoán những thông tin về bản thân công ty, nêu rõ những cam kết của công ty và những quyền lợi cơ bản của người mua chứng khoán...để trên cơ sở đó người đầu tư có thể ra quyết định đầu tư hay không. Bản cáo bạch chính là một lời mời hay chào bán để công chúng đầu tư đăng ký hoặc mua chứng khoán của công ty phát hành. Bản cáo bạch bao gồm mọi thông tin liên quan đến đợt phát hành. Do đó, thông tin đưa ra trong Bản cáo bạch sẽ gắn với các điều khoản thực hiện lời mời hay chào bán.
Thông thường, một công ty muốn phát hành chứng khoán phải lập Bản cáo bạch để Sở Giao dịch Chứng khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng khoán xem xét, gọi là Bản cáo bạch sơ bộ. Bản cáo bạch sơ bộ khi đã được chấp thuận sẽ được coi là Bản cáo bạch chính thức. Khi thực hiện chào bán chứng khoán, ngoài Bản cáo bạch chính thức, công ty phát hành thường cung cấp Bản cáo bạch tóm tắt. Nội dung Bản cáo bạch tóm tắt là tóm gọn lại những nội dung chính của Bản cáo bạch chính thức nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ theo các quy định của Luật Chứng khoán.
2. Tại sao cần phải đọc Bản cáo bạch
Bản cáo bạch là một tài liệu rất quan trọng.Với tư cách là một nhà đầu tư, Bản cáo bạch là phương tiện giúp bạn đánh giá mức độ sinh lời và triển vọng của công ty trước khi bạn quyết định có đầu tư vào công ty hay không. Một quyết định thiếu thông tin có thể làm bạn phải trả giá đắt.
Bởi vậy, bạn nên đọc Bản cáo bạch một cách kỹ lưỡng và tìm hiểu rõ những may rủi thực sự của công ty trước khi ra quyết định đầu tư. Bạn nên đánh giá cẩn thận những yếu tố cơ bản của công ty đăng ký niêm yết thông qua nghiên cứu các thông tin trong Bản cáo bạch. Mặc dù những đợt chào bán lần đầu ra công chúng thường là cơ hội đầu tư tốt vì chúng thường mang lại lợi nhuận ban đầu cao, do cổ phiếu tăng giá, nhưng rủi ro vẫn tồn tại.
3. Bản cáo bạch bao gồm những thông tin gì?
Bản cáo bạch thường gồm những nội dung sau:
- Thông tin tóm tắt về tổ chức phát hành bao gồm mô hình tổ chức bộ máy, hoạt động kinh doanh, tài sản, tình hình tài chính, Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc và cơ cấu cổ đông (nếu có);
- Thông tin về đợt chào bán và chứng khoán chào bán bao gồm điều kiện chào bán, các yếu tố rủi ro, dự kiến kế hoạch lợi nhuận và cổ tức của năm gần nhất sau khi phát hành chứng khoán, phương án phát hành và phương án sử dụng tiền thu được từ đợt chào bán;
- Báo cáo tài chính của tổ chức phát hành trong hai năm gần nhất theo quy định tại Điều 16 của Luật này;
d) Các thông tin khác quy định trong mẫu Bản cáo bạch
4. Cách sử dụng bản cáo bạch
Bạn nên bắt đầu phân tích một công ty phát hành bằng Bản cáo bạch của công ty. Trong quá trình thực hiện bạn nên tự đặt ra cho mình một số câu hỏi quan trọng. Ví dụ, việc kinh doanh của công ty đó có tiến triển hay không?, doanh số bán hàng tăng có nghĩa là lợi nhuận cũng tăng và dẫn tới giá cổ phiếu tăng. Nhưng các con số chưa phải nói lên tất cả. Do vậy, bạn nên nghiên cứu kỹ Bản cáo bạch để tìm ra những dấu hiệu tăng trưởng của công ty.
5. Những thông tin cần xem
- Tình hình và đặc điểm của tổ chức phát hành, các hoạt động kinh doanh, tóm tắt về vốn cổ phần.
- Các thông tin về đợt phát hành chứng khoán: thời gian chào bán, số lượng chứng khoán phát hành, giá bán chứng khoán, phương án sử dụng tiền thu được từ đợt phát hành
- Thông tin về ngành kinh doanh
- Thông tin tài chính
- Thông tin về cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc
- Các đối tác liên quan tới đợt phát hành
- Các nhân tố rủi ro liên quan đến ngành kinh doanh và triển vọng của công ty
- Phụ lục
Ngoài ra bạn nên đối chiếu với các phần tương ứng khác trong Bản cáo bạch để có được các thông tin chi tiết mà bạn cần quan tâm.
Thông tin về ngành kinh doanh - công ty đang có những hoạt động kinh doanh gì?
Thông tin đưa ra thường bao gồm:
- Tình hình (các) ngành kinh doanh chính mà công ty phát hành tham gia;
- Triển vọng của (các) ngành liên quan có ảnh hưởng tới hoạt động ngành kinh doanh chính của công ty phát hành;
- Loại sản phẩm, dịch vụ kinh doanh chính của công ty;
- Khách hàng và nhà cung cấp của công ty phát hành;
- Công nghệ, phương thức sản xuất và kênh phân phối sử dụng;
- Các nhân tố thương mại như hệ thống bán lẻ, đại lý, hệ thống phân phối, nhãn hiệu sản phẩm, giấy phép kinh doanh, bằng sáng chế và khả năng nghiên cứu và phát triển.
Đối với các công ty đăng ký niêm yết được hưởng chính sách ưu đãi thì phần thông tin về ngành kinh doanh này trong Bản cáo bạch cũng cần phải công bố chi tiết các vấn đề về công nghệ của những công ty này.
6. Thông tin tài chính - công chúng đầu tư tham gia có làm lợi nhuận giảm?
Thông tin tài chính là một phần quan trọng trong Bản cáo bạch và thường được chia thành 2 phần:
- Thông tin tài chính trong quá khứ;
- Thông tin tài chính trong tương lai.
a) Phần thông tin tài chính trong quá khứ
Thường bao gồm tóm tắt các bản báo cáo tài chính đã được kiểm toán, và bảng cân đối kế toán (trên cơ sở tổng hợp) theo mẫu, được trích ra từ Báo cáo của kiểm toán trong phần phụ lục của Bản cáo bạch. Một số ngành kinh doanh còn yêu cầu cung cấp cả thông tin về luồng thu nhập. Việc công bố thông tin tài chính trong quá khứ thường được tính từ 2 năm tài chính trước. Thông tin phải đi kèm với phần giải thích và phân tích hoạt động tài chính trong quá khứ. Nếu có bất cứ một sai sót nào trong các thông tin tài chính được công bố mà Uỷ ban Chứng khoán phát hiện được thì tổ chức kiểm toán cũng như tổ chức bảo lãnh phát hành phải chịu trách nhiệm liên đới trước pháp luật cùng với tổ chức phát hành.
b) Phần thông tin tài chính tương lai
Gồm các dự tính về:
- Doanh thu
- Lợi nhuận trước thuế trước và sau khi tính lãi cho cổ đông thiểu số ngoài công ty
- Lợi nhuận sau thuế
- Tổng cổ tức và cổ tức ròng.
Từ dự tính về lợi nhuận và giá chào bán cổ phiếu của công ty phát hành, bạn có thể tính ra các mức giá thị trường của một cổ phiếu tính theo thu nhập trên mỗi cổ phiếu trong năm của công ty phát hành (được ký hiệu là P/E). Hệ số này cho thấy khi nào thì giá cổ phiếu phù hợp với thu nhập. Tức là các công ty có nhiều cơ hội tăng trưởng thường có P/E cao hơn các công ty có ít cơ hội tăng truởng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý trường hợp P/E cao có thể là do mức thu nhập (E) thấp. Căn cứ vào hệ số P/E, cùng với sự phân tích về mặt chất lượng của công ty phát hành, bạn có thể đánh giá đợt phát hành, chào bán cổ phiếu của công ty so với các mức cổ phiếu đã được niêm yết của các công ty trong cùng ngành.
7. Cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc - những ai là người điều hành đợt phát hành
Bạn nên đọc danh sách các cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Mặc dù các dữ liệu đưa ra không phải là con dấu đảm bảo về chất lượng kỹ năng quản lý của họ, nhưng bạn vẫn có thể biết được trình độ chuyên môn và kinh nghiệm quản lý của những con người này.
Bạn cần chú ý các quyền lợi của các cổ đông lớn, Hội đồng quản trị và đội ngũ lãnh đạo chủ chốt trong các ngành tương tự hoặc các ngành cạnh tranh nếu chúng được nêu trong Bản cáo bạch. Bạn cũng nên chú ý các giao dịch trong quá khứ hoặc trong tương lai với các công ty liên quan. Bản cáo bạch sẽ cung cấp đầy đủ các nhóm thành viên sau:
- Cổ đông lớn và các nhà sáng lập của công ty phát hành, kể cả tên và cổ phần của các cá nhân đứng đằng sau công ty;
- Hội đồng quản trị bao gồm cổ phần mà họ đại diện, chi tiết về trình độ, kinh nghiệm và phần trách nhiệm của mỗi giám đốc, và họ có phải là các giám đốc điều hành hay không;
- Đội ngũ cán bộ quản lý dưới cấp uỷ viên Hội đồng quản trị, chi tiết về trình độ, kinh nghiệm và phần trách nhiệm của họ;
- Tỷ lệ sở hữu cổ phiếu, trái phiếu của từng thành viên nói trên.
8. Các yếu tố rủi ro
Các rủi ro chung bao gồm:
- Việc tăng, giảm giá chứng khoán phụ thuộc vào các điều kiện của TTCK nói chung, của tình trạng kinh tế đất nước và thế giới;
- Những thay đổi trong chính sách của Chính phủ;
- Những rủi ro về ngoại hối;
- Những thay đổi về tỷ lệ lãi suất;
Những rủi ro có thể xảy ra của công ty bao gồm:
- Sự phụ thuộc vào những cán bộ chủ chốt;
- Sự phụ thuộc vào một số ít các khách hàng, nhà cung cấp hoặc các dự án trong nội bộ công ty;
- Những thay đổi về giá nguyên liệu thô;
- Sự hợp nhất giưã các đối thủ cạnh tranh hoặc các công ty mới tham gia vào ngành;
- Tranh chấp cụ thể đã bắt đầu phát sinh hoặc bị mang ra toà.
Trong phần này bạn cần tìm hiểu xem Hội đồng quản trị của công ty định giải quyết hoặc làm giảm ảnh hưởng của các nhân tố rủi ro đã xác định như thế nào.
Câu 8. Xin cho hỏi giá cổ phiếu của một công ty khi niêm yết phụ thuộc vào điều gì?
Trước hết có thể khẳng định rằng câu hỏi giống như câu hỏi của bạn hay tương tự, đã làm đau đầu các nhà học giả, các nhà đầu tư chứng khoán hàng mấy trăm năm kể từ khi TTCK ra đời, nếu bạn là một fan bóng đá, bạn cũng thấy khó khăn như thế nào để dự đoán kết quả của một trận cầu, thì ở đây khó khăn cũng chẳng kém, nếu bạn cho là khó hơn thì cũng không sao. Và ở trong hầu hết mọi trường hợp, câu trả lời có một điểm chung thống nhất là giá cổ phiếu dường như là một điều gì đó rất bí ẩn, rất khó nắm bắt.
Dưới đây xin trích đăng tóm tắt những kết luận, ý kiến của các nhà kinh tế, các nhà hoạt động thị trường trên thế giới về những nhân tố chủ yếu có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu để bạn tham khảo. Tuy nhiên, cũng xin lưu ý bạn rằng, tác động của các nhân tố này tới giá cổ phiếu như thế nào cũng còn rất nhiều tranh luận. Các yếu tố này có thể chia thành 3 nhóm yếu tố, đó là: các yếu tố kinh tế, các yếu tố phi kinh tế, và các yếu tố thị trường.
1. Nhóm yếu tố kinh tế
Về tăng trưởng kinh tế, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và giảm khi nền kinh tế kém phát triển; tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm cổ phiếu và tình hình biến động của từng cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt động cụ thể của từng công ty.
Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh.
Thu nhập công ty, những người theo trường phái này cho rằng, thu nhập hay lợi nhuận của công ty được coi là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập; vào những thời điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu.
Cổ tức, những người theo trường phái này cho rằng cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu thứ hai sau thu nhập, trong việc xác định giá chứng khoán. Thực chất điều này không khác gì một câu thành ngữ cổ xưa "1 con chim trong nhà có trị giá bằng 2 con chim trong rừng". Tuy nhiên, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tìm kiếm cơ hội đầu tư. Trong tất cả các nhân tố báo chí sử dụng để giải thích về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu.
Lãi suất, mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Để giải thích rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức.
Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng, do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.
Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Hoặc là người ta có thể hình dung thời kỳ lạm phát trong đó chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất tồi tệ. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.
Đối với những trường hợp ngược lại so với các trường hợp trên, bạn có thể hình dung ra một loạt các khả năng ngược lại khi lạm phát và lãi suất giảm. Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm và ảnh hưởng của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lãi suất.
Giá cả hàng hoá (lạm phát), Lịch sử TTCK Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin về sự bất cập của giá chứng khoán trong mối quan hệ với giá hàng hoá. Từ năm 1923 tới 1929 là một giai đoạn đáng ghi nhớ khi giá bán buôn ổn định và giá hàng hoá có xu hướng giảm nhẹ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó, giá chứng khoán theo thống kê tăng vọt phổ biến trên các thị trường đầu cơ giá lên. Ngược lại, giá hàng hoá tăng vào năm 1940, 1941, và 1942, nhưng giá cổ phiếu lại hạ. Vào mùa xuân năm 1946, việc kiểm soát giá hàng hoá đã bị bãi bỏ, và lạm phát về giá hàng hoá đã lên tới đỉnh điểm cho đến hết năm và tiếp tục tăng cho đến đến giữa năm 1948, giá cả tăng đều trong hai năm. Giá cổ phiếu bắt đầu biến động gần như vào đúng ngày giá hàng hoá bắt đầu tăng vào năm 1946; giá cổ phiếu giảm mạnh từ tháng 8 cho tới cuối năm. Nói cách khác, giá chứng khoán sụp đổ vào năm 1946 đúng vào thời điểm nguy cơ lạm phát tăng mạnh nhất do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới lần thứ II.
Sự không nhất quán trong các phản ứng của giá cổ phiếu trước sự thay đổi giá hàng hoá đã làm nhà phân tích ngày càng chán nản bởi vì giá cổ phiếu trước đây thường có xu hướng biến động trước khi giá hàng hoá biến động tới vài tháng. Do vậy, dường như giá hàng hoá với tư cách là một chỉ số của giá chứng khoán tỏ ra không đáng tin cậy và có lẽ là không có giá trị.
Các yếu tố kinh tế khác
Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng khoán nhắc tới bao gồm số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và những biến động về lượng cung tiền. Lãi suất cơ bản (thường là lãi suất trái phiếu chính phủ) trong những năm gần đây đã thu hút sự chú ý đáng kể cho dù từ lâu nó chỉ được coi là một nhân tố không đáng kể chứ không phải là nhân tố hàng đầu. Bởi vì giá chứng khoán là một trong những chỉ số được coi trọng nhất trong 12 chỉ số hàng đầu, nên các nhà dự báo cho rằng tốt nhất nên dự tính lãi suất cơ bản theo giá chứng khoán hơn là dự đoán giá chứng khoán theo những thay đổi của lãi suất cơ bản.
Các chỉ số quan trọng khác bao gồm vốn vay liên ngân hàng, các khoản vay thương mại và dịch vụ, giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ, và các số liệu về giao dịch và thanh toán của quỹ tương hỗ.
2. Nhóm yếu tố phi kinh tế
Nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu tiếp theo là những yếu tố phi kinh tế, bao gồm sự thay đổi về các điều kiện chính trị, ví dụ chiến tranh hoặc thay đổi cơ cấu Chính phủ, thay đổi về thời tiết và những nhân tố tự nhiên khác, và thay đổi về điều kiện văn hoá, như tiến bộ về công nghệ v.v Tuy nhiên, những yếu tố này chỉ có ảnh hưởng lớn đối với giá chứng khoán ở những nước có nền kinh thế thị trường phát triển, thị trường sẽ đánh giá những chính sách này. Trong điều kiện Việt Nam, nền chính trị ổn định, mặt khác TTCK còn chưa phát triển, thì yếu tố này ít có tác động.
3. Nhóm yếu tố thị trường
Các yếu tố thị trường, là những nhân tố bên trong của thị trường, bao gồm sự biến động thị trường và mối quan hệ cung cầu có thể được coi là nhóm yếu tố thứ ba tác động tới giá cổ phiếu. Sự biến động thị trường là một hiện tượng chờ đợi thái quá từ việc dự tính quá cao giá trị thực chất của cổ phiếu khi giá cổ phiếu cao nhờ sự phát đạt của công ty, và ngược lại do dự đoán thấp giá trị tại thời điểm thị trường đi xuống. Mối quan hệ giữa cung và cầu được trực tiếp phản ánh thông qua khối lượng giao dịch trên thị trường, hoạt động của những nhà đầu tư có tổ chức, giao dịch ký quỹ v.v cũng có ảnh hưởng đáng kể. Mặc dù số lượng giao dịch ký quỹ tăng khi mà giá cổ phiếu tăng, nhưng một khi giá cổ phiếu giảm số lượng cổ phiếu bán ra tăng và làm cho giá càng giảm.
Như vậy, dao động giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của nhiều nhân tố khác nhau, hạt nhân chính là các yếu tố về khả năng thu nhập công ty.
Đối với TTCK Việt Nam, theo quan điểm cá nhân của tác giả bài viết này, thì giá cổ phiếu của công ty niêm yết về cơ bản cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố nói trên nhưng mức độ không rõ ràng. Có thể thống kê những yếu tố chủ yếu sau:
Yếu tố tâm lý "bầy đàn", thuộc nhóm yếu tố thị trường nói ở trên, thể hiện tương đối rõ nét nhất là ở trong giai đoạn đầu thị trường mới thành lập. Bạn có thể thấy rõ hiện tượng này qua biểu hiện giá của đa số các cổ phiếu đều lên hoặc đều xuống, giá cổ phiếu biến động tăng /giảm không phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, mà chủ yếu do yếu tố tâm lý của người đầu tư trên thị trường. Sau này mới có sự phân hoá về biến động giá giữa các loại cổ phiếu khác nhau, tuy nhiên, hiện nay yếu tố này vẫn chiếm xu thế chủ đạo.
Thu nhập công ty, yếu tố này có tác động tương đối rõ rệt tới giá cổ phiếu, chẳng hạn vừa qua giá cổ phiếu của CTCP Chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng "kịch trần" nhiều phiên bởi Công ty công bố lợi nhuận sau thuế quý III /2004 đạt 8, 6 tỷ đồng tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài những yếu tố nói trên, có thể tính đến các yếu tố khác như mức trả cổ tức, thông tin mua bán cổ phiếu của các thành viên trong ban lãnh đạo công ty, thông tin tách gộp cổ phiếu, thông tin về việc phát hành thêm cổ phiếu, tin đồn...Những người đầu tư chuyên nghiệp hơn có thể còn tìm hiểu các thông tin liên quan đến chính sách của Chính phủ đối với TTCK, chính sách cổ phần hoá DNNN, tình hình quản trị của công ty niêm yết, tên tuổi của CTCK bảo lãnh phát hành hay tư vấn niêm yết cho công ty niêm yết.
Để kết thúc bài viết này, tác giả cho rằng lời khuyên sau đây của các nhà đầu tư nổi tiếng trên TTCK thế giới đáng để bạn quan tâm, đó là từng nhà đầu tư cần phải có những phân tích, suy xét của riêng mình trước khi đưa ra quyết định mua hay bán, tránh bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tâm lý trên thị trường. Có như vậy thì từng nhà đầu tư mới có thể tìm kiếm được cho mình những cơ hội đầu tư sinh lời bất kể tình hình giá cả thị trường biến động lên hay xuống. Chúc bạn thành công.
Câu 9. Cách tính chỉ số HASTC - INDEX?
Chỉ số chứng khoán được xây dựng để phản ánh sự biến động giá của toàn bộ hoặc một nhóm các chứng khoán được giao dịch trên thị trường. Mỗi thị trường chứng khoán đều công bố một hoặc một vài chỉ số chứng khoán, ví dụ như thị trường Mỹ có chỉ số DJIA, S&P500, NASDAQ-100..., thị trường Đức có chỉ số DAX, thị trường Pháp có chỉ số CAC...
Hiện nay, Trung tâm GDCK Hà Nội đang công bố chỉ số cổ phiếu HASTC-Index và biểu đồ Hastc index trực tuyến. Mục tiêu xây dựng và sử dụng chỉ số này là: giúp cho NĐT thấy được sự biến động của tất cả các chứng khoán trong suốt phiên giao dịch qua diễn biến của HASTC-Index, qua đó có sự nhìn nhận khách quan và tổng thể đối với thị trường, lựa chọn thời điểm thích hợp nhằm có quyết định nhanh để đầu tư.
Chỉ số HASTC-Index được tính toán bắt đầu từ ngày chính thức mở cửa phiên giao dịch đầu tiên của thị trường (ngày 14/7/2005), được gọi là thời điểm gốc. Chỉ số này tính toán mức biến động giá của tất cả các cổ phiếu giao dịch trên Trung tâm GDCK Hà Nội. Phương pháp tính chỉ số bằng cách so sánh tổng giá trị thị trường hiện tại với tổng giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết tại thời điểm gốc. Cụ thể: tại thời điểm gốc, chỉ số có giá trị = 100.
Công thức tính chỉ số thị trường:
Tổng giá trị thị trường hiện tại (GTn)
HASTC-Index = --------------------------------------------------- x 100
Tổng giá trị thị trường gốc (GTo)
Hoặc:
å Pit x Qit
HASTC-Index = ------------------------------- x 100
å Pio x Qit
Trong đó,
Pit: Giá thị trường của cổ phiếu I vào thời điểm hiện tại
Qit: Số lượng cổ phiếu niêm yết của cổ phiếu I vào thời điểm hiện tại.
Pio: Giá thị trường của cổ phiếu I vào ngày cơ sở (gốc)
i : 1,......, n
Trong phiên giao dịch, chỉ số HASTC-Index sẽ được tính mỗi khi có một giao dịch cổ phiếu được thực hiện. Như vậy, khi giá thực hiện của mỗi giao dịch cổ phiếu thay đổi thì chỉ số HASTC-Index sẽ thay đổi theo. Chỉ số HASTC-Index phản ánh sự biến động giá trong suốt phiên giao dịch và tạo nên biểu đồ Hastc-Index trực tuyến. Chỉ số HASTC-Index đóng cửa là chỉ số được tính bởi các mức giá đóng cửa của các cổ phiếu.
Ví dụ :
a. Tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch thứ nhất ngày 14/7/2005:
#
Mã CK
Giá đóng cửa
SL Đăng ký giao dịch
Giá trị thị trường
01
CID
17.800
541.000
9.629.800.000
02
GHA
16.500
1.289.480
21.276.420.000
03
HSC
55.000
580.000
31.900.000.000
04
KHP
15.000
15.252.260
228.783.900.000
05
VSH
13.000
122.500.000
1.592.500.000.000
06
VTL
22.000
1.800.000
4.050.000.000
Tổng
1.924.590.120.000
1.924.590.120.000
=> HASTC-Index = ------------------------- x 100 =100
1.924.590.120.000
Giá trị thị trường thời điểm gốc = 1.924.590.120.000
b. Tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch thứ hai ngày 18/7/2005:
#
Mã CK
Giá đóng cửa
SL Đăng ký giao dịch
Giá trị thị trường
01
CID
16.000
541.000
8.656.000.000
02
GHA
18.200
1.289.480
23.468.536.000
03
HSC
53.600
580.000
31.088.000.000
04
KHP
14.500
15.252.260
221.157.770.000
05
VSH
13.000
122.500.000
1.592.500.000.000
06
VTL
21.000
1.800.000
37.800.000.000
Tổng
1.914.670.306.000
1.914.670.306.000
=> HASTC-Index = --------------------------- x 100 =99,48
1.924.590.120.000
Một số trường hợp đặc biệt về mức thay đổi
Chỉ số HASTC - INDEX
I. Chỉ số HASTC - INDEX công bố cuối phiên giao dịch là chỉ số tại thời điểm đóng cửa thị trường của phiên giao dịch đó, tính theo mức giá đóng cửa của các cổ phiếu.
Khi so sánh chỉ số 2 phiên, mức tăng giảm của chỉ số đóng cửa là mức thay đổi của chỉ số đóng cửa phiên này với chỉ số đóng cửa phiên trước đó. Mức thay đổi của chỉ số phụ thuộc vào mức biến động giá đóng cửa của các cổ phiếu trong phiên này so với giá đóng cửa của phiên trước.
Trong cùng 1 phiên, mức tăng giảm của chỉ số là mức thay đổi của chỉ số hiện tại so với chỉ số đóng cửa của phiên trước đó.
Đối với biên độ giao động giá của các mã cổ phiếu là +/-7%, chênh lệch phần trăm chỉ số (đóng cửa hoặc trong phiên) vẫn có thể lớn hơn (>) +7% và nhỏ hơn (<) -7%. Cụ thể, về mặt lý thuyết, phần trăm chênh lệch chỉ số HASTC-Index trong phiên có thể giao động trong khoảng từ -19,16% đến +23,1%.
Hai trường hợp đặc biệt sau đây chỉ ra khoảng giới hạn mà chênh lệch phần trăm chỉ số dao động trong đó.
Trường hợp 1: chênh lệch phần trăm chỉ số tăng mạnh nhất: 23,1%
- Giá đóng cửa hôm trước là giá sàn nhưng giá trung bình là trần (do khối lượng khớp tại thời điểm đóng cửa rất ít so với tổng khối lượng thực hiện trong phiên)
- Giá giao dịch hôm sau lại tiếp tục là trần.
Giả sử giá tham chiếu của ngày T là P, giá đóng cửa là 0,93xP; giá trung bình ngày T là 1,07xP;
Giá tham chiếu của ngày T+l là 1,07xP, và giá trần của ngày T+1 là 1,07xP+0,07x1,07xP = 1,1449xP;
Giá tham chiếu ngày T
Giá đóng cửa ngày T
Giá tham chiếu ngày T+1
Giá đóng cửa ngày T+1
KL Giao dịch
P1
0,93xP1
1,07xP1
1,1449xP1
Q1
P2
0,93xP2
1,07xP2
1,1449xP2
Q2
...
...
...
...
...
Pn
0,93xPn
1,07xPn
1,1449xPn
Qn
Phần trăm chênh lệch chỉ số được tính như sau:
å Pi(T+1) x Qi(T+1) - å PiT x QiT
% chênh lệch = --------------------------------------------------- x 100%
å PiT x QiT
(1,1449xP1xQ1 + 1,1449xP2xQ2 + ... + 1,1449xPnxQn) -
(0,93xP1xQ1 + 0,93xP2xQ2 +... + 0,93xPnxQn)
= -----------------------------------------------------------------------------------------x 100%
0,93xP1xQ1 + 0,93xP2xQ2 +... + 0,93xPnxQn
( P1xQ1 + P2xQ2 + ... + PnxQn ) x (1,1449 - 0,93)
= ---------------------------------------------------------------x 100% = 23,1%
( P1xQ1 + P2xQ2 + ... + PnxQn ) x 0,93
Trường hợp 2: chênh lệch phần trăm chỉ số giảm mạnh nhất: -19,16%
- Giá đóng cửa hôm trước là trần nhưng giá trung bình là sàn (do khối lượng khớp tại thời điểm đóng cửa rất ít so với tổng khối lượng thực hiện trong phiên)
- Giá giao dịch hôm sau lại tiếp tục là sàn
Giả sử giá tham chiếu của ngày T là P; giá đóng cửa sẽ là 1,07xP; giá trung bình của ngày T là 0,93xP;
Giá tham chiếu của ngày T+l là 0,93xP, và giá sàn của ngày T+1 là 0,93xP-0,07x0,93xP = 0,8649xP; chỉ số tính theo giá đóng cửa;
Giá tham chiếu ngày T
Giá đóng cửa ngày T
Giá tham chiếu ngày T+1
Giá đóng cửa ngày T+1
KL Giao dịch
P1
1,07xP1
0,93xP1
0,8649xP1
Q1
P2
1,07xP2
0,93xP2
0,8649xP2
Q2
...
...
...
...
...
Pn
1,07xPn
0,93xPn
0,8649xPn
Qn
Phần trăm chênh lệch chỉ số được tính như sau:
å Pi(T+1) x Qi(T+1) - å PiT x QiT
% chênh lệch = ------------------------------------------- x 100%
å PiT x QiT
(0,8649xP1xQ1 + 0,8649xP2xQ2 + ... + 0,8649xPnxQn) -
(1,07xP1xQ1 + 1,07xP2xQ2 +... + 1,07xPnxQn)
= ------------------------------------------------------------------------------------------------x 100%
1,07xP1xQ1 + 1,07xP2xQ2 +... + 1,07xPnxQn
( P1xQ1 + P2xQ2 + ... + PnxQn ) x (0,8649 - 1,07)
= -----------------------------------------------------------------------------x 100% = -19,16%
( P1xQ1 + P2xQ2 + ... + PnxQn ) x 1,07
II. Một số trường hợp thường gặp khác:
a. Trường hợp giá cổ phiếu tăng trần (+7%) suốt phiên mà chênh lệch phần trăm chỉ số không tăng theo tỷ lệ tương ứng: đây là trường hợp chỉ số đóng cửa hôm trước được tính với giá đóng cửa của các mã cổ phiếu là trần, tuy nhiên, giá trung bình của ngày hôm đó lại không đạt trần.
Cụ thể:
Giả sử giá tham chiếu của ngày T là P; giá đóng cửa là 1,07xP; giá trung bình của ngày T là 1,03xP;
Giá tham chiếu của ngày T+l là 1,03xP, và giá trần của ngày T+1 là 1,03xP + 0,07x1,03xP = 1,1021xP; chỉ số tính theo giá đóng cửa;
Giá tham chiếu ngày T
Giá đóng cửa ngày T
Giá tham chiếu ngày T+1
Giá đóng cửa ngày T+1
KL Giao dịch
P1
1,07xP1
1,03xP1
1,1021xP1
Q1
P2
1,07xP2
1,03xP2
1,1021xP2
Q2
...
...
...
...
...
Pn
1,07xPn
1,03xPn
1,1021cxPn
Qn
Phần trăm chênh lệch chỉ số được tính như sau:
å Pi(T+1) x Qi(T+1) - å PiT x QiT
% chênh lệch = ------------------------------------------- x 100%
å PiT x QiT
(1,1021xP1xQ1 + 1,1021xP2xQ2 + ... + 1,1021xPnxQn) -
(1,07xP1xQ1 + 1,07xP2xQ2 +... + 1,07xPnxQn)
= ------------------------------------------------------------------------------------------------x 100%
1,07xP1xQ1 + 1,07xP2xQ2 +... + 1,07xPnxQn
( P1xQ1 + P2xQ2 + ... + PnxQn ) x (1,1021 - 1,07)
= ---------------------------------------------------------------------------x 100% = 3,00%
( P1xQ1 + P2xQ2 + ... + PnxQn ) x 1,07
b. Trường hợp giá cổ phiếu giảm sàn (-7%) suốt phiên mà chênh lệch phần trăm chỉ số vẫn không giảm theo tỷ lệ tương ứng, đây là trường hợp chỉ số đóng cửa hôm trước được tính với giá đóng cửa của các mã cổ phiếu là sàn, tuy nhiên, giá trung bình của ngày hôm đó lại không chạm sàn.
Cụ thể:
Giả sử giá tham chiếu của ngày T là P; giá đóng cửa là 0,93xP; giá trung bình của ngày T là 0,98xP;
Giá tham chiếu của ngày T+l là 0,98xP, và giá sàn của ngày T+1 là 0,98xP - 0,07x0,87xP = 0,9114xP;
Giá tham chiếu ngày T
Giá đóng cửa ngày T
Giá tham chiếu ngày T+1
Giá đóng cửa ngày T+1
KL Giao dịch
P1
0,93xP1
0,98xP1
0,9114xP1
Q1
P2
0,93xP2
0,98xP2
0,9114xP2
Q2
...
...
...
...
...
Pn
0,93xPn
0,98xPn
0,9114cxPn
Qn
Phần trăm chênh lệch chỉ số được tính như sau:
å Pi(T+1) x Qi(T+1) - å PiT x QiT
% chênh lệch = ------------------------------------------- x 100%
å PiT x QiT
(0,9114xP1xQ1 + 0,9114xP2xQ2 + ... + 0,9114xPnxQn) -
(0,93xP1xQ1 + 0,93xP2xQ2 +... + 0,93xPnxQn)
= ------------------------------------------------------------------------------------------x 100%
0,93xP1xQ1 + 0,93xP2xQ2 +... + 0,93xPnxQn
( P1xQ1 + P2xQ2 + ... + PnxQn ) x (0,9114- 0,93)
= -----------------------------------------------------------------x 100% = -2,00%
( P1xQ1 + P2xQ2 + ... + PnxQn ) x
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro