Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

chinh sach thuong mai quoc te 6

79.

a. Có 2 cách xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực:

·         Hàng xuất khẩu chủ lực trước hết được hình thành qua quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài, qua những cuộc cọ sát cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường thế giới. Và cuộc hành trình đi vào thị trường thế giới ấy kéo theo việc tổ chức sản xuất trong nước trên quy mô lớn chất lượng phù hợp với đòi hỏi của người tiêu dung. Nếu đứng vững được thì mặt hang đó lien tục phát triển.

·         Các cơ quan quản lí, chính phủ dự báo và đánh giá tiềm năng các mặt hang hội đủ 3 điều kiện, đặc điêm cơ bản của một mặt hang chủ lực thì tiến hành xây dựng thành mặt hang xuất khẩu chủ lực.

b. Nhìn chung cơ cấu xuất khẩu đã có xu hướng chuyển dịch tích cực, xây dựng được nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và thực hiện thành công một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu, tuy nhiên cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiệu quả, hiện đại:

·         Tích cực:

-          Tỉ trọng của nhóm hàng chế biến, chế tạo đã tăng được 8,3 điểm phần trăm trong 10 năm qua, từ 46,7% trong năm 2001 lên 55% trong năm 2010, tỉ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế đã giảm từ 53,3% xuống 45% trong thời gian tương ứng; riêng tỉ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản đã giảm từ 29,5% xuống 22,5%. Năm 2001, có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD (gồm dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản), với tổng giá trị 8,4 tỉ USD, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2010, đã có 17 mặt hàng và nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực (thủy sản, gạo, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ, than đá, dầu thô, xăng dầu, sắt thép và sản phẩm thép, dệt may, giày dép, đá quí và kim loại quí, máy vi tính và linh kiện, máy móc thiết bị, dây điện và cáp điện, phương tiện vận tải), với tổng giá trị khoảng 45 tỉ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất khẩu.

-          Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực đã vượt mục tiêu Chiến lược đề ra, hoạt động xuất khẩu đã cơ bản theo định hướng Chiến lược thị trường xuất khẩu từng mặt hàng. Thủy sản đã thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt 4,2 tỉ USD và năm 2010 ước đạt 4,8 tỉ USD (mục tiêu Chiến lược là 3,5 tỉ USD), tỉ trọng của 4 thị trường xuất khẩu chính (Nhật Bản, Mỹ EU, Trung Quốc) đã giảm từ 79% trong năm 2000 xuống 62% năm 2008 và dưới 60% trong năm 2010. Chúng ta đã bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu gạo từ 0,62 tỉ USD trong năm 2001 lên 1,4 tỉ USD trong năm 2005 và vượt mức 3 tỉ USD trong năm 2010 (mục tiêu Chiến lược là khoảng 1 tỉ USD), thị trường Châu Á vẫn chiếm khoảng 90%. Dệt may và giày dép đã thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng chế biến, chế tạo. Tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may đạt bình quân 18,2%/năm trong 10 năm qua (mục tiêu Chiến lược là 14%/năm), năm 2010 kim ngạch có thể đạt 10,5 tỉ USD, tăng 16% so với năm 2009, vượt xa mục tiêu Chiến lược đề ra 7,5 tỉ USD, tạo việc làm cho 2,5 triệu lao động. Tăng trưởng xuất khẩu giày dép tuy chỉ đạt bình quân 13,0%/năm trong 10 năm qua (mục tiêu Chiến lược là 15 – 16%/năm), nhưng qui mô kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước đạt 5 tỉ USD, gấp 3,4 lần năm 2000. Đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hai mặt hàng dệt may và giày dép ước đạt 15,5 tỉ USD, chiếm 21,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (chỉ tiêu này của năm 2000 là 23,2%)

·         Hạn chế, yếu kém:

-          Hàm lượng kỹ thuật công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu còn thấp, tăng chậm. Tỉ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao và trung - cao chỉ tăng từ 7,1% trong năm 2000 lên 11,3% trong năm 2005 và ước khoảng 14 – 15% trong năm 2010, còn lại là hàng công nghệ thấp và trung - thấp. Đến năm 2010, riêng nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm khoảng 8 – 9% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều các nước trong khu vực (năm 2008, chỉ số này của Trung Quốc: 34%, Thái Lan: 30%, Malayxia: 58%). Khoảng 27% kim ngạch xuất khẩu là hàng công nghiệp chế tạo công nghệ thấp. Chi phí xuất khẩu cao gấp 1,7 lần mức trung bình của khu vực (năm 2007, chi phí xuất khẩu của Việt Nam là 701 USD/container 20 ft, mức trung bình của khu vực là 500 USD).

-          Cơ cấu xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiện đại, tỉ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo tăng rất chậm từ 46,7% trong năm 2001 lên 50,7% trong năm 2005, 53,4% trong năm 2009, ước đạt 55% trong năm 2010 (bình quân mỗi năm chỉ tăng được gần 1 điểm phần trăm), thấp xa so với mục tiêu Chiến lược là 69% và mục tiêu của Đề án là 76,7%.

-          Tỉ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế giảm rất chậm, từ 45,3% trong năm 2001 xuống 46,6% trong năm 2009 và ước còn 45% trong năm 2010, chưa đạt mục tiêu Chiến lược đề ra là 31% và mục tiêu Đề án là 23,3%.

-          Riêng tỉ trọng của nhóm nguyên nhiên liệu không giảm mà lại tăng từ 23,9% trong năm 2001 lên 24,5% trong năm 2009, chưa đạt mục tiêu đề ra là giảm còn 9,6% vào năm 2010.

-          Khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu của nhóm hang nông sản là sản phẩm chưa qua chế biến. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu rất thấp. Giá trị tăng của hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu chỉ đạt khoảng 25 – 30%, hang nông sản và khoáng sản xuất khẩu khoảng 50% (nếu tính giá trị gia tăng quốc gia, tức là phần giá trị tăng thêm người Việt Nam thực tế được hưởng thì tỉ lệ này còn thấp hơn, do các doanh nghiệp FDI chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu, và một phần không nhỏ giá trị gia tăng này được nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước).

-          Ta chưa thực hiện thành công một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu. Hàng điện tử và tin học chưa thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng của nhóm sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, năm 2009 chỉ đạt kim ngạch 2,76 tỉ USD, năm 2010 ước đạt khoảng 3,2 tỉ USD, bằng khoảng 50% mục tiêu Chiến lược đề ra (6 – 7 tỉ USD). Hàng thực phẩm chế biến cũng chỉ đạt khoảng 300 triệu USD trong năm 2010, bằng khoảng 42% mục tiêu Chiến lược (700 triệu USD).

-          Trong nhóm hàng chế biến, chế tạo xuất khẩu, tỉ trọng của hàng gia công còn chiếm phần lớn, tỉ lệ nội địa hóa rất thấp. Một số ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực còn phụ thuộc phần lớn vào nguyên vật liệu, phụ liệu của nước ngoài: sản phẩm điện tử khoảng 90%, sản phẩm gỗ khoảng 75%, sản phẩm dệt may và da giày khoảng 70%, sản phẩm nhựa khoảng 55%, sản phẩm hóa chất khoảng 80%, sản phẩm thép khoảng 50%. Giá trị ngoại tệ thực thu của phần lớn các ngành sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu chỉ khoảng 20 - 30% doanh thu xuất khẩu; một số ngành rất thấp như điện tử, tin học chỉ khoảng 5%.

-          Qui mô xuất khẩu dịch vụ còn nhỏ, tăng trưởng chậm. Thời kỳ 2001 – 2010, tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ chỉ bình quân 10%/năm, đạt 66% mục tiêu Chiến lược (15%/năm). Trong năm 2009 và 2010 xuất khẩu dịch vụ đã giảm mạnh so với năm 2008 (năm 2009 đạt 5,76 tỉ USD và năm 2010 ước đạt 7 tỉ USD). Trong đó, các sản phẩm dịch vụ có giá trị gia tăng cao chỉ chiếm 5 – 6%.

80.

Khái niệm của gia công xuất khẩu:

-          Theo quan niệm Việt Nam: Gia công xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên liệu) từ nước ngoài về để sản xuất hàng hóa, nhưng không phải để tiêu dung trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do tiền công đem lại.

-          Theo quan niệm Cộng hòa Dân chủ Đức: Gia công là sự cải tiến đặc biệt các thuộc tính riêng của đối tượng lao động (vật liệu) được tiến hành một cách sáng tạo và có ý thức nhằm đạt được một giá trị sử dụng mới nào đó.

Các hình thức gia công xuất khẩu hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang áp dụng:

-          Một là, bên đặt gia công cung cấp nguyên liệu hoặc bán thành phẩm (không chịu thuế quan) cho người nhận gia công để chế biến sản phảm và giao trở lại cho bên gia công.

+Ưu điểm:

ü  Qua gia công xuất khẩu, không những chúng ta có điều kiện giải quyết công ănn việc làm cho nhân dân mà còn góp phần tăng thu nhập quốc dân và đặc biệt tăng nguồn thu ngoại tệ.

ü  Thúc đẩy các cơ sở sản xuất trong nước, nhanh chóng thích ứng đòi hỏi của thị trường thế giới, góp phần cải tiến các quy trình sản xuất trong nước theo kịp trình độ quốc tế.

ü  Tạo điều kiện thâm nhập thị trường các nước tránh những biện pháp hạn chế nhập khẩu do các nước đề ra.

ü  Khắc phục khó khăn do thiếu nguyên liệu để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là trong ngành công nghiệp nhẹ, tranh thủ vốn và kỹ thuật nước ngoài.

+Nhược điểm:

ü  Chưa có sự chuyển giao quyền sở hữu đối với nguyên liệu

ü  Thực chất đây là hình thức “làm thuê” cho bên đặt gia công, bên nhận gia công không có quyền chi phối sản phẩm làm ra.

ü  Hiệu quả gia công thấp

-          Hai là, nguyên liệu hoặc bán thành phẩm được xuất đi nhằm gia công chế biến và sau đó nhập thành phẩm trở lại.

+Ưu điểm:

ü  Qua gia công xuất khẩu, không những chúng ta có điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân mà còn góp phần tăng thu nhập quốc dân và đặc biệt tăng nguồn thu ngoại tệ.

ü  Thúc đẩy các cơ sở sản xuất trong nước, nhanh chóng thích ứng đòi hỏi của thị trường thế giới, góp phần cải tiến các quy trình sản xuất trong nước theo kịp trình độ quốc tế.

ü  Tạo điều kiện thâm nhập thị trường các nước tránh những biện pháp hạn chế nhập khẩu do các nước đề ra.

ü  Khắc phục khó khăn do thiếu nguyên liệu để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là trong ngành công nghiệp nhẹ, tranh thủ vốn và kỹ thuật nước ngoài.

ü  Quyền sở hữu đối với nguyên liệu đã được chuyển giao

ü  Bên đặt gia công giao nguyên vật liệu, giúp đỡ kĩ thuật cho bên nhận gia công và bao tiêu sản phẩm

+Nhược điểm:

ü  Vẫn còn phụ thuộc vào bên đặt gia công, chưa được kinh doanh và sản xuất một cách độc lập.

81.

Phân tích lợi ích chi phí của việc sản xuất gia công:

Lợi ích

Chi phí

Nước nhận gia công

-          Tạo công ăn việc làm cho nhân dân

-          Góp phần tăng thu nhập quốc dân và đặc biệt là tăng nguồn thu ngoại tệ

-          Tăng kim ngạch xuất khẩu

-          Cải tiến công nghệ và quy trình sản xuất trong nước

-          Tạo điều kiện thâm nhập thị trường các nước.

-          Tạo nguồn hàng xuất khẩu chủ lực => chuyển dịch cơ cấu KT

-          Tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật, khắc phụ khó khăn do thiếu nguyên liệu

-          Gây ô nhiểm môi trường

-          Tiếp nhận công nghệ cũ, lạc hậu.

Nước đặt gia công

-          Lao động rẻ

-          Giảm ô nhiễm môi trường trong nước

-          Giảm chi phí sản xuất => Tăng lợi nhuận

-          Tăng chuyên môn hóa sản xuất những ngành có chi phí sản xuất thấp

-          Việc làm cho lao động trong nước giảm

-          Sản xuất trong nước giảm

-          Rò rỉ bí quyết sản xuất

-           

·         Liên hệ với Việt Nam: Làm tương tự với mặt hàng dệt may, nước nhận gia công là Việt Nam và nước đặt gia công là Hàn Quốc

·         Kết luận, nhận xét:

Nêu lợi ích của nước này là chi phí của nước kia thì nên tìm cách ngăn chặn và hạn chế điều này

82.

KN Khu Kinh tế mở: Là khu vực hoạt động theo quy chế phi thuế quan, có ranh giới xác định

Các hình thức của Khu Kinh tế mở:

+ Khu bảo thuế: là khu vực kho bãi dung để lưu giữ hàng hóa nhập khẩu của nước ngoài sau đó tái xuất, ở đó không áp dụng chế độ thuế quan.

+ Cảng tự do: Là việc một quốc gia thực hiện quy chế tự do đối với các cảng biển quốc tế. Cho phép tàu thuyền các quốc gia khác được tự do ra vào không phải chịu thuế.

+Khu mậu dịch tự do: Là một khu vực địa lý riên biệt trong đó được thực hiện quy chế tự do thương mại.

+ Khu chế xuất: Là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống.

+ Đặc khu kinh tế: Đây là khu vực địa lý được áp dụng những chính sách kinh tế đặc biệt.

+ Thành phố mở: Là kết quả nhân rộng của Đặc khu kinh tế, trên một phạm vi địa lý và nền tảng rộng hơn với những chính sách ưu đãi tương tự như Đặc khu kinh tế.

+ Tam giác phát triển hoặc Nhị-Tứ phát triển: Mô hình mang tính quốc tế, có sự kết hợp KT của 2,3 hoặc 4 nướcc làng giềng có các nguồn tài nguyên, lợi thế khác nhau nhưng cùng nhau hợp tác xây dựng nên nhằm thu hút đầu tư, công nghệ, và kinh nghiệm quản lí từ nước ngoài phát huy lợi thế từ mỗi quốc gia đẩy mạnh phát triển kinh tế.

·         Các loại hình Việt Nam áp dụng: Khu bảo thuế, Khu mậu dịch tự do, Khu chế xuất

·         Nhận xét chung: Nhìn chung thì các khu kinh tế mở thường được ưu tiên xây dựng ở các vùng có điều kiện Kinh tế thấp để góp phần phát triển Kinh tế vùng, phát triển KT-XH, ổn định CT…..

83.

·         Khu chế xuất: Là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống.

·         Vai trò của KCX đối với sự phát triển của Ngoại Thương:

+ Thu hút vốn và công nghệ.

+ Tăng mạnh khả năng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.

+ Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động.

+ Góp phần làm cho nền kinh tế nước chủ nhà hòa nhập với nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực.

·         So sánh khu chế xuất và khu Công nghiệp:

+Giống nhau: Đều là khu vực tập trung sản xuất, chuyên sản xuất hàng hóa phục vụ cho các mục tiêu kinh tế nhất định và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất các hàng hóa đó; điều kiện về cơ sở sản xuất và ưu đãi cao hơn bên ngoài; có ranh giới địa lí xác định và được thành lập theo qui định của chính phủ.

+Khác nhau:

Khu chế xuất

Khu công nghiệp

Các đặc điểm về cơ sở hạ tầng và ưa đãi cao hơn

Các đặc điểm về cơ sở hạ tầng và ưa đãi thấp hơn

Là loại hình KT mở

Không phải là loại hình khu KT mở

Có biên giới hải quan

Không có biên giới hải quan

Mua bán với nước ngoài thì được miễn thuế xuất nhập khẩu

Mua bán với nước ngoài không được miễn thuế XNK

Thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu

Phục vụ cho tiêu dung trong nước và xuất khẩu

Đối tượng: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài

Đối tượng: Mọi thành phần kinh tế

Chỉ còn 2 KCX hoạt động hiệu quả: Tân Thuận và Linh Trung

Số lượng Khu CN nhiều hơn

·         Định hướng: Việt Nam hiện nay khuyến khích phát triển KCN chứ không khuyến khích phát triển KCX vì các xí nghiệp ở KCN có ưu thế hơn KCX ở chỗ sản phẩm sản xuất ở KCN được bán vào thị trường nội địa không phải qua thủ tục nhập khẩu; bên cạnh đó, vì KCX thời gian qua không đạt được những mục tiêu đề ra dù được hưởng nhiều ưu đãi. Các mặt hàng chủ yếu trong KCX thường là hàng gia công được bán với giá thấp nên dễ bị kiện bán phá giá. Vì thế mô hình KCN tập trung thích hợp hơn với trào lưu phát triển kinh tế chung hiện nay trên thế giới hơn là KCX biệt lập.

84. 1.  Nhà nước bảo lãnh tín dụng xuất khẩu:

-  Nhà nước bảo lãnh trước ngân hàng cho nhà xuất khẩu: Để ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà không cần thế chấp thì Nhà nước sẽ đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp vay, nếu có rủi ro gì đối với khoản tín dụng đó nhà nước sẽ chịu.

     Ưu điểm:

+ Thúc đẩy xuất khẩu.

          Nhược điểm:

+ Có xu hướng vi phạm các quy định của WTO

+ Đặt gánh nặng lên nhà nước nếu doanh nghiệp kinh doanh, hoạt động xuất nhập khẩu không hiệu quả.

-          Nhà nước bảo lãnh trước khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu thực hiện cấp cho nhà nhập khẩu: Để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng bằng cách bán chịu nhằm chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, Nhà nước đứng ra bảo lãnh, đền bù nếu bị mất vốn (do nguyên nhân kinh tế hoặc chính trị). Tỷ lệ đền bù có thể lớn đến 100% vốn bị mất, nhưng thường tỷ lệ đền bù có thể lớn đến 60-70% khoảng tín dụng để các nhà XK phải quan tâm đến việc kiểm tra khả năng thanh toán của các nhà NK và quan tâm đến việc thu tiền bán hàng sau khi hết thời hạn tín dụng.

Ưu điểm:

+ Thúc đẩy xuất khẩu.

+ Nâng được giá bán hàng vì giá bán chịu bao gồm cả giá bán trả tiền ngay và phí tổn đảm bảo lợi tức.

Nhược điểm:

+ Có xu hướng vi phạm các quy định của WTO

+ Đặt gánh nặng lên nhà nước nếu doanh nghiệp kinh doanh, hoạt động xuất nhập khẩu không hiệu quả.

2. Nhà nước cấp tín dụng xuất khẩu:

- Nhà nước cấp tín dụng cho nước ngoài: Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để sử dụng số tiền đó mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách nhà nước. Việc cho vay này thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi cho nước cho vay.

Ưu điểm:

+ Đẩy mạnh xuất khẩu nhờ có sẵn thị trường.

+ Giải quyết được tình trạng dư thừa hàng hóa ở nước cho vay

Nhược điểm:

+ Nền sản xuất trong nước đi vay có thể bị ảnh hưởng và phải chịu những rang buộc chính trị bất lợi.

-          Nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: Nhà nước cấp các loại tín dụng ngắn hạn trước và sau khi giao hàng (có thể theo mức lãi suất ưu đãi) để người xuất khẩu có đủ vốn thực hiện một số hợp đồng xuất khẩu hoặc bán chịu hàng hóa cho nước nhập khẩu.

Ưu điểm:

+ Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất khẩu.

+ Tăng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu nhờ giảm chi phí về vốn do đó giảm giá thành xuất khẩu.

+ Tăng khả năng bán hàng theo điều kiện dài hạn của người xuất khẩu, do đó hàng hóa có sức cạnh tranh cao hơn so với các đối thủ.

Nhược điểm:

+ Có xu hướng vi phạm các qui định của WTO.

+ Để có thể được cấp tín dụng, các nhà xuất khẩu cần phải có khả năng và uy tín để có được các loại đảm bảo về tài chính của phía ngân hàng. Điều này làm một số doanh nghiệp nhỏ e ngại khi tham gia hoạt động xuất khẩu vì họ không đủ khả năng và uy tín để có thể được ngân hàng đảm bảo về mặt tài chính.

·         Ưu và nhược điểm của biện pháp Nhà nước cấp tín dụng xuất khẩu so với biện pháp bảo lãnh tín dụng xuất khẩu là:

+ Ưu điểm:

-          Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa do giảm chi phí hàng hóa, từ đó giảm giá thành.

-          Có thể cho phép bán hàng theo điều kiện dài hạn vì người xuất khẩu ít bị sức ép trả khoản tín dụng trong thời gian ngắn từ ngân hàng.

-          Việc cấp tín dụng xuất khẩu cho nước nhập khẩu có thể mang lại cho nước xuất khẩu những lợi ích không chỉ về kinh tế mà còn về mặt chính trị.

+ Nhược điểm:

-          Có xu hướng vi phạm các qui định của WTO nhiều hơn vì hàng hóa bán ra nước ngoài với giá rẻ hơn, và do đó tăng sức cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài.

 

85.

Bảo hiểm tín dụng: Mặc dù có đủ điều kiện được các ngân hàng cho vay, nhưng nhiều doanh nghiệp còn lo lắng khi xuất khẩu sang một số thị trường có nhiều biến động, dễ gặp rủi ro. Nhà nước sẽ khuyến khích thông quan nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng. Nếu có rủi ro gì trong quá trình đi vay hay bán chịu, sẽ được các cơ quan bảo hiểm đền bù theo mức phí bảo hiểm mà doanh nghiệp mua.

Đây là hình thức dễ vi phạm quy định của WTO, vì đây chính là những hành vi can thiệp tài chính của các nhà nước.

Việt Nam trong những năm qua có thực hiện song rất hạn chế vì tiềm lực tài chính có hạn chủ yếu sử dụng trong những trường hợp xuất khẩu sang thị trường mang ý nghĩa đối ngoại như: Lào, Nam Tư,…

86.

·         Khái niệm: Trợ cấp xuất khẩu chính là những ưu đãi mà CHính phủ một nước dành cho các doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.

·         Các hình thức trợ cấp xuất khẩu:

+    Trợ cấp trực tiếp: Là việc nhà nước trực tiếp dành cho doanh nghiệp những thuận lợi khi xuất khẩu hàng hóa như: Trực tiếp cấp tiền (cấp vốn, cho vay ưu đãi hoặc góp cổ phần hoặc chính phủ bảo lãnh các khoản vay,…

+    Trợ cấp gián tiếp: là nhà nước gián tiếp hỗ trợ cho các doanh nghiệp gia tăng xuất khẩu như: giới thiệu, triển lãm , quảng cáo, đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu. Hoặc nhà nước giúp đỡ kĩ thuật và đào tạo chuyên gia.

·         Tác dụng tích cực:

+ Một công cụ đẩy mạnh xuất khẩu.

+ Trợ cấp xuất khẩu góp phần phát triển công nghiệp nội địa và thúc đẩy xuất khẩu.

+  Trợ cấp xuất khẩu góp phần điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế. Trợ cấp xuất khẩu kích thích lan truyền hiệu ứng tích cực và khắc phục hiệu ứng tiêu cực.

+  Trợ cấp xuất khẩu còn được sử dụng như một công cụ để “mặc cả” trong đàm phán quốc tế

·         Tác dụng tiêu cực:

+  Trợ cấp bóp méo sự tín hiệu thị trường trong môi trường thương mại tự do.

+  Chi phí cơ hội của trợ cấp rất lớn và xét về dài hạn, trợ cấp có thể cản trở sự phát triển của chính ngành được trợ cấp, do tạo nên sự độc quyền ỷ lại do có được sự ưu đãi của Nhà nước.

+  Trợ cấp không hiệu quả về mặt tài chính ngân sách.

+  Xác suất không hiệu quả về mặt tài chính ngân hàng.

+  Trợ cấp có thể dẫn đến hàng động trả đũa.

·         Quan điểm của WTO:

WTO không khuyến khích nhưng cũng không hoàn toàn cấm Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM), đưa ra 3 loại trợ cấp Hộp màu đỏ - Hộp màu vàng (trợ cấp mà ko gây ảnh hưởng đến các nước đối tác – Hộp màu xanh hoặc Hiệp định nông sản (AoA) đưa ra Hộp màu Hổ phách – Hộp xanh da trời – Hộp Xanh lá cây tương ứng với 3 mức độ Cấm – Được phép trợ cấp nhưng có thể bị điều kiện – Được phép trợ cấp.

 

 

 

87. Sơ đồ phân tích lợi ích và chi phí của trợ giá xuất khẩu:

4

3

2

1

Giả sử khi không có trợ giá, cân bằng cung cầu của sản phẩm X có giá là 3.500đ và lường cầu là Q3, lượng cung sản phẩm là Q4, lương sản phẩm xuất khẩu là Q4 – Q3. Khi có trợ giá xuất khẩu là 500đ cho một đơn vị sản phẩm để nhà xuất khẩu bán bằng giá quốc tế (tức là trong điều kiện có mậu dịch tự do). Khi giá tăng lên 4000đ/sản phẩm nhà sản xuất sẽ sản xuất Q5 sản phẩm, thay vì chỉ sản xuất Q4 sản phẩm như trước có trợ cấp, trong đó tiêu thụ là Q2­ sản phẩm và xuất khẩu là Q5-Q2 sản phẩm.

Giá lên do trợ giá làm cho nhà sản xuất tăng thêm sản xuất để xuất khẩu kiếm lời và làm giảm tiêu thụ trong nước có hại cho người tiêu dùng.

Trong trường hợp này, chi phí và lợi ích của trợ cấp được thể hiện như sau:

+ Nhà sản xuất được lợi nhuận diện tích hình (1+2+3)

+ Người tiêu dùng trong nước bị thiệt là diện tích hình (1+2)

+ Chi phí bảo hộ là diện tích hình (2+4)

+ Trợ giá xuất khẩu của chính phủ là diện tích hình (2+3+4)

Như vậy lợi ích của nhà sản xuất nhỏ hơn thiệt hại của người tiêu dùng cộng với trợ giá của chính phủ. Vì vậy trợ giá xuất khẩu cần có điều kiện và có thời hạn. Mức trợ giá để khuyến khích xuất khẩu cũng gắn với chi phí và lợi ích của nó.

Mức trợ giá phụ thuộc vào:

+ Chính sách của nhà nước đối với từng mặt hàng

+ Mức độ cạnh tranh trên thị trường.

·         Quan điểm của WTO:

-          Do trình độ của các nước thành viên khác nhau, do áp lực cả về kinh tế lẫn chính trị của các tập đoàn sản xuất, kinh doanh trong nước do vậy hầu hết các nước đều trợ cấp cho xuất khẩu kể cả nước giàu lẫn nước nghèo.

-          WTO không khuyến khích nhưng cũng không hoàn toàn cấm Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM), đưa ra 3 loại trợ cấp Hộp màu đỏ - Hộp màu vàng (trợ cấp mà ko gây ảnh hưởng đến các nước đối tác – Hộp màu xanh hoặc Hiệp định nông sản (AoA) đưa ra Hộp màu Hổ phách – Hộp xanh da trời – Hộp Xanh lá cây tương ứng với 3 mức độ Cấm – Được phép trợ cấp nhưng có thể bị điều kiện – Được phép trợ cấp.

88.

·         Khái niệm:

- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là giá cả tại đó ngoại hối được mua và bán.

- Tỷ giá hối đoái chính thức

- Tỷ giá hối đoái thực tế: một tỷ giá hối đoái chính thức được điều chỉnh theo các quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái thực tế (HĐTT). Tỷ giá này cho phép các nhà xuất khẩu cạnh tranh một cách thành công.

              CÔNG THỨC:

Tỷ giá hối đoái thực tế ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp nhiều hơn.

Tỷ giá hối đoái chính thức không phải là một yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước về các mặt hàng có khả năng thương mại, đối với hàng nhập khẩu và trên các thị trường xuất khẩu. Vấn đề đối với nhà xuất khẩu và những người cạnh tranh với hàng nhập khẩu là có được hay không một tỷ giá chính thức, được điều chỉnh theo lạm phát trong nước và lạm phát xảy ra tại các nền kinh tế của các bạn hàng của họ. Vì vậy cần phải tính toán đến tỷ giá hối đoái thực tế

Ảnh hưởng của tỷ giá HĐTT tăng, trong trường hợp này có thể hiểu thực tế đông tiền Việt Nam mất giá so với ngoại tệ sẽ có nhiều ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư và du lịch. Tỷ giá HĐTT tăng do 2 nguyên nhân sau:

- Khi chỉ số giá trong nước tăng nhưng chỉ số giá cả ngoài nước và tỷ giá HĐCT không thay đổi. Khi đó:

+ Nhập khẩu sẽ tăng do hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với sản phẩm nội địa vốn phải chịu chi phí tăng do lạm phát.

+ Xuất khẩu giảm do các nhà sản xuất phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán lại cho các ngân hàng với tỷ giá HĐCT, không được tăng lên để bù lại chi phí sản xuất cao hơn.

+ Thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm do chi phí của hàng hóa trong nước tăng, trong khi đó tỷ giá HĐCT vẫn giữ nguyên không được điều chỉnh. Ngược lại đầu tư ra nước ngoài lại tăng.

+ Tương tự như vậy dòng du lịch từ nước ngoài vào trong nước cũng giảm. Nhưng du lịch ra nước ngoài lại tăng.

- Trường hợp: Chỉ số giá cả trong và ngoài nước không thay đổi, nhưng tỷ giá HĐCT tăng (Chính phủ một quốc gia giảm giá đồng nội tệ so với ngoại tệ). Trong trường hợp này tác dụng sẽ ngược lại: Nhập khẩu giảm, xuất khẩu, thu hút đầu tư, du lịch vào trong nước đều tăng.

89.

·         Phá giá tỷ giá hối đoái: là đồng tiền của một quốc gia bị phá giá hay chính xác hơn bị giảm giá, khi tỷ giá chính thức mà Ngân hàng Trung ương của nước đó sẵn sàng đổi nội tệ lấy ngoại tệ được tăng lên.

·         Hai điều kiện cơ bản để phá giá tỷ giá hối đoái thành công:

+ Mất giá đối ngoại phải lơn hơn mất giá đối nội (Lạm phát phải nhỏ hơn phá giá hối đoái)

+ Các nước không dùng biện pháp đối kháng như: thuế, hạn ngạch, quán lý ngoại hối,…

·         Tác động của việc phá giá hối đoái đối với nền kinh tế:

+ Tác động tích cực:

- Khi một quốc gia cần giảm xuất khẩu để làm dịu tốc độ tăng kinh tế tránh phát triển quá nóng, nhà nước có thể nâng giá đồng tiền của mình so với ngoại tệ.

- Về phân phối lại thu nhập, phá giá hối đoái sẽ có lợi cho một nhóm người. Chỉ những nhà kinh doanh xuất khẩu lớn, cũng như những hoạt động gắn với xuất khẩu là có lợi.

+ Tác động tiêu cực:

- Mặt khác Phân phối lại thu nhập, phá giá hối đoái lại đem lại sự thiệt thòi của những nhóm khác. Nhìn chung, những người lao động, các nhà sản xuất kinh doanh nhỏ, những người cung cấp dịch vụ,… không tham gia và khu vực xuất khẩu sẽ bị tổn thất về tài chính bởi lạm phát trong nước (thường xảy ra sau khi phá giá). Như vậy, nếu trong một quốc gia mà ở đó các hoạt động xuất khẩu tập trung vào những tư nhân hay nước ngoài có thu nhập về xuất khẩu càng nhiều, thì khả năng phá giá có tác động xấu đến phân chia thu nhập càng lớn. Vì vậy, do nhiều  lý do chính sách thương mại, đặc biệt là phá giá tiền tệ không thể tách rời các vấn đề kinh tế xã hội trong nước.

90.

·         Xúc tiến xuất khẩu là công cụ chính sách nhằm thúc đẩy trực tiếp hay gián tiếp đến các hoạt động xuất khẩu ở cấp độ doanh nghiệp, một ngành công nghiệp hay cấp độ quốc gia. Là các hoạt động được thiết kế để tăng xuất khẩu của một quốc gia hay một công ty.

·         Các hình thức của xúc tiến xuất khẩu:

+ Ở cấp vĩ mô:

- Xây dựng chiến lược, định hướng xuất khẩu.

- Ban hành các biện pháp, chính sách hỗ trợ xuất khẩu.

- Lập các Viện nghiên cứu cung cấp thông tin cho các nhà xuất khẩu.

- Đào tạo cán bộ, chuyên gia giúp các nhà xuất khẩu.

- Lập các cơ quan nhà nước ở nước ngoài để nghiên cứu tại chỗ tình hình thị trường hàng hóa, thương nhân và chính sách của chính phủ nước sở tại.

            + Ở cấp vi mô (doanh nghiệp):

            - Tiến hành quảng cáo để bán hàng ra nước ngoài.

            - Tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài.

            - Cử các đoàn cán bộ ra nước ngoài nghiên cứu thị trường hàng hóa, thương nhân và chính sách nhập khẩu của nước mua hàng.

            - Lập văn phòng đại diện ở nước ngoài hay ở các trung tâm thương mại quốc tế lớn.

·         Quan điểm của WTO: WTO cho phép sử dụng biện pháp xúc tiến xuất khẩu vì nó không vi phạm qui định của WTO. Xét về bản chất, nó nằm thuộc nhóm trợ cấp xuất khẩu, nhưng do trợ cấp khá nhạy cảm nên biện pháp này được tách riêng thành 1 nhóm và được áp dụng thường xuyên, đều đặn.

·         Liên hệ với các hoạt động xúc tiến xuất khẩu mà Việt Nam thường áp dụng:

- Ở cấp doanh nghiệp: Đại đa số các doanh nghiệp sửu dụng biện pháp nghiên cứu thị trường (75%) và quan hệ cá nhân, gia đình (65%) để thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Tham gia các hội chợ, triển lãm là cách thức được một bộ phận đáng kẻ doanh nghiệp sử dụng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp còn sử dụng các hình thức khác như: qua sự giới thiệu của bạn hàng, khách hàng, thuê dịch vụ, quảng cáo trực tiếp tới khách hàng trong và ngoài nước, tìm khách hàng và trực tiếp giới thiệu, sử dụng web hoặc thư điện tử. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn sử dụng nhiều kênh khác nhau để phân phối sản phẩm của mình trên thị trường xuát khẩu. Phân phối trực tiếp hoặc qua bên đặt hàng là các kênh phân phối sản phẩm phổ biến được các doanh nghiệp sử dụng, và chỉ có 1 tỉ lệ không lớn là phân phối qua đại lí.

- Ở cấp quốc gia: Nhìn chung, tình hình xúc tiến xuất khẩu có nhiều tiến bộ qua các năm. Các biện pháp được áp dụng có hiệu quả bao gồm các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu như ban hành các chỉ số về hàng rào phi thuế quan, các loại thuế quan riêng biệt, sự hiệu quả trong thông quan và chi phí, tài liệu xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nhiều sai sót trong việc quản lí đường biên giới và cơ sở hạ tầng thông tin. Thành lập quĩ xúc tiến thương mại và đầu tư để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.

91.

·         Để đẩy mạnh và khuyến khích xuất khẩu các quốc gia thường áp dụng 3 nhóm biện pháp:

-          Nhóm chính sách và biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất khẩu:

+ Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực

+ Gia công xuất khẩu

+ Các biện pháp đầu tư liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất khẩu.

+ Xây dựng các khu kinh tế mở

-          Các biện pháp chính sách tài chính nhằm khuyến khích sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu:

+ Tín dụng xuất khẩu

+ Trợ cấp xuất khẩu

+ Chính sách tỷ giá hối đoái

+ Thuế xuất khẩu và các ưu đãi về thuế:

-          Các biện pháp về thể chế và xúc tiến xuất khẩu:

+ Các biện pháp về thể chế

+ Thực hiện xúc tiến xuất khẩu

·         Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay thì Nhóm biện pháp và chính sách liên quan đến tổ chức nguồn hàng và cải biến cơ cấu xuất khẩu là quan trọng nhất, bởi vì:

+ Đây là nhóm biện pháp nhằm tạo nguồn hàng cho Việt Nam

+ Nhóm biện pháp chiến lược có tác dụng lâu dài.

+ Đây là nhóm biện pháp không vi phạm các quy định của WTO.

+ Tuy nhiên có tác dụng chậm, mất nhiều thời gian và khó đánh giá được rủi ro ngay.

92.

·         Các công cụ quản lý xuất khẩu:

-          Nhóm thuế quan gồm:

·         Thuế xuất khẩu nhưng rất ít được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển.

·         Các chính sách ưu tiên về thuế đối với các đầu vào nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Hầu hết các nguyên liệu và bán thành phẩm phục vụ cho xuất khẩu đểu không bị đánh thuế hoặc đánh rất thấp. Đồng thời để khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước qui định việc miễn giảm và hoàn lại thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản xuất hàng xuất khẩu.

-          Nhóm phi thuế quan:

+ Cấm xuất khẩu

+ Hàng hóa thuộc diện quản lý chuyên ngành của các Bộ -  cấp giấy phép xuất khẩu

+ Thủ tục hải quan – xuất khẩu hàng hóa

·         Các công cụ này không mâu thuẫn với chương trình xuất khẩu của Việt Nam vì không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài dạng xuất khẩu, như sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu, hoặc có ý nghĩa chiến lược đối với đất nước. Những nguyên nhân chủ yếu phải kiểm soát xuất khẩu của các Nhà nước thường là do:

+ Cấm vận buôn bán

+ Bảo vệ tài nguyên

+ Bảo vệ di sản văn hóa, đồ cổ

93.

·         Về cơ bản, không nên đánh thuế xuất khẩu, đặc biệt đối với các nước đang phát triển.

·         Bởi vì theo điều kiện chấp nhận giá là tình trạng bất lợi của một nước có nền kinh tế mở quy mô nhỏ thường phải chấp nhận giá khi XK or NK hàng hóa. Vì vậy khi các nước đang phát triển đánh thuế xuất khẩu lên một mặt hàng thì do giá cả xuất khẩu trên thị trường không thay đổi theo giá cả quy định của các nhà sản xuất trong nước cho nên các nhà xuất khẩu không thể tăng giá bán để chuyển một phần thuế suất ra bên ngoài để giám gánh nặng về thuế mà hầu như nhà sản xuất trong nước phải chịu gánh nặng hoàn toàn do đó gây thiệt hại đến sản xuất kinh doanh.

-          Mặt khác có thể nói, cố gắng xuất khẩu thuế sang người tiêu thụ nước ngoài là rất khó khăn, đặc biệt là các nước “nhỏ” trên thị trường thế giới. Theo tác giả Malcolm Gillis, có 5 yếu tố cơ bản cho thấy mộ nước nhỏ trên thị trường có thể mong đợi thành công trong việc cố gắng xuất khẩu thuế (đánh vào tài nguyên) sang các nước tiêu thụ các nguồn tài nguyên đó.:

1.      Sản phẩm xuất khẩu phải giữ tỷ trọng lớn trong thị trường xuất khẩu loại khoáng sản này

2.      Khả năng co giãn trong mức cung của nước đó phải cao.

3.      Khả năng co giãn về mức cung của các nước xuất khẩu khác phải thấp

4.      Mức dao động chung về cung cho tất cả các cơ sở sản xuất trên thị trường phải cao

5.      Mức dao động về giá cầu trên thị trường thế giới thấp.

·         Trong một số trường hợp đặc biệt, Chính phủ vẫn có thể sử dụng thuế để hạn chế xuất khẩu những mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu (nguyên vật liệu thô, tài nguyên...) hoặc để điều tiết giá cả, cung – cầu của một số mặt hàng nhạy cảm

·         Ví dụ như: Biểu thuế XK cho thấy các mặt hàng gỗ tròn và gỗ xẻ đánh thuế là 20%, sắt thải phế liệu 35%, Nhôm phế liệu mảnh vụn là 45%, quặng gan, thiết là 10%, dầu thô là 4%,…

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: