Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

chính hiện đại

10.2.1. Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp

(Là tư tưởng trung tâm của kinh tế học trường phái chính hiện đại)

"Nền kinh tế hỗn hợp" là nền kinh tế kết hợp trong đó kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước,

nó được điều hành bởi cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.

Nội dung của lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp (được trình bày rõ trong cuốn "Kinh tế học"

của P.A.Samuelson), cụ thể là:

10.2.1.1. Ba vấn đề của tổ chức kinh tế

Mọi xã hội, mọi nền kinh tế đều phải đối phó với ba vấn đề:

+ Sản xuất hàng hóa gì? với số lượng bao nhiêu?

+ Sản xuất hàng hóa như thế nào? Ai là người sản xuất, sản xuất bằng nguồn lực nào, sử

dụng kĩ thuật sản xuất nào?

+ Sản xuất cho ai? Ai là người được hưởng các thành quả của những nỗ lực kinh tế, hay sản

phẩm quốc dân được phân chia như thế nào?

(Do sản xuất của nền kinh tế bị hạn chế bởi các nguồn lực và kiến thức công nghệ, mỗi xã

hội dù giàu hay nghèo đều phải lựa chọn).

Trong lịch sử đã có hai phương thức Chính phủ đưa ra hầu hết các quyết định kinh tế

Các quyết định kinh tế đều do thị trường xác định

Cả hai phương thức đều có ưu điểm và hạn chế, không nên tuyệt đối hóa một phương thức

nào mà cần kết hợp: cơ chế thị trường và điều tiết của Nhà nước.

10.2.1.2. Cơ chế thị trường

Theo Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người

tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm

của tổ chức kinh tế.

Cơ chế thị trường là cơ chế tinh vi, phối hợp một cách không tự giác mọi người, mọi hoạt

động và mọi doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường.

Những đặc trưng của cơ chế thị trường là:

+ Không phải là sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế

+ Là phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác

nhau. Không có bộ não trung tâm, nó vẫn giải được những bài toán mà máy tính lớn nhất ngày

nay không thể giải nổi (giải quyết những vấn đề sản xuất phân phối).

+ Không ai thiết kế ra, xuất hiện tự nhiên và cũng thay đổi (luôn luôn thay đổi) như xã hội

loài người. Không cá nhân hay tổ chức đơn lẻ nào có trách nhiệm sản xuất, tiêu dùng, phân phối

hay định giá.

Thị trường: Là cơ chế trong đó người mua và người bán tương tác với nhau để xác định giá

cả và sản lượng hàng hóa hay dịch vụ. Trong thị trường bao gồm:

+ Các yếu tố: hàng hóa, tiền tệ, người bán, người mua, giá cả hàng hóa.

+ Sự hoạt động của giá cả hàng hóa là tín hiệu đối với người sản xuất và tiêu dùng, giá là

quả cân trong cơ chế thị trường là biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị.

Quan hệ cung - cầu: Là khái quát của hai lực lượng cơ bản người bán và người mua ở trên

thị trường. Sự biến đổi của giá cả dẫn đến biến đổi cung - cầu.

Cơ chế thị trường chịu sự điều khiển của "hai ông vua" là người tiêu dùng và kĩ thuật

(Người tiêu dùng thống trị, điều khiển thị trường nhưng lại bị kĩ thuật hạn chế vì kinh tế không thể

vượt qua giới hạn của khả năng sản xuất) Do đó chỉ người tiêu dùng không quyết định được sản

xuất cái gì mà còn thêm còn thêm: chi phí sản xuất, các qui định kinh doanh.

Vì thế thị trường đóng vai trò trung gian hòa giải sở thích người tiêu dùng và hạn chế của kĩ

thuật.

"Sản xuất cái gì phải do cả chi phí kinh doanh lẫn các qui định cung và cầu của người tiêu

dùng quy định" Vì vậy trong khi nghiên cứu không chỉ có vai trò của cầu mà còn có vai trò của

cung.

Động lực của cơ chế thị trường là lợi nhuận (Chi phối hoạt động của người sản xuất kinh

doanh).

Môi trường của cơ chế thị trường là cạnh tranh.

Cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng đưa tới kết quả tối ưu mà có những khuyết tật

nhất định, nhiều vấn đề thị trường không giải quyết nổi (độc quyền, ô nhiễm môi trường, khủng

hoảng, thất nghiệp, sự phân phối bất bình đẳng). Do đó theo Samuelson cần có sự can thiệp của

chính phủ (Nhà nước) để khắc phục các khuyết tật.

10.2.1.3. Vai trò kinh tế của chính phủ

Chính phủ (nhà nước) có 4 chức năng:

+ Thiết lập khuôn khổ pháp luật: đề ra các quy tắc mà doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả

chính phủ cũng phải tuân theo. Bao gồm: các quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt

động kinh doanh, các trách nhiệm hỗ trợ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và các luật lệ để

xác định môi trường kinh tế.

+ Sửa chữa, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường.

- Can thiệp hạn chế độc quyền (phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo, cho phép một cá nhân hay tổ

chức đơn lẻ có thể quy định giá cả hàng hóa từ đó làm biến dạng cầu và sản xuất, xuất hiện lợi

nhuận siêu ngạch độc quyền và có thể được sử dụng vào những hoạt động vô ích, do đó làm giảm

hiệu quả nền kinh tế).

- Can thiệp vào các tác động bên ngoài.

VD: sự ô nhiễm môi trường, sự khai thác bừa bãi tài nguyên...

- Đảm nhiệm việc sản xuất các hàng hóa công cộng: cần thiết, có ý nghĩa quan trọng, mà tư

nhân không muốn hoặc không thể sản xuất (quốc phòng, an ninh, ...)

- Thu thuế: để đảm bảo hoạt động của Chính phủ.

+ Đảm bảo sự công bằng: cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến sự phân hóa và bất bình đẳng

(Về thu nhập, sự bất công,...) do nhiều nguyên nhân.

- Công cụ quan trọng nhất: Thuế lũy tiến (thu nhập), người có thu nhập cao (giàu) thuế lớn

hơn người có thu nhập thấp (nghèo).

- Công cụ thứ hai: Hỗ trợ thu nhập (trợ cấp người cao tuổi, tàn tật, thất nghiệp,...) bằng hệ

thống thanh toán chuyển nhượng.

- Công cụ thứ ba: Trợ cấp tiêu dùng cho nhóm người có thu nhập thấp bằng cách phát tem

phiếu mua thực phẩm, chăm sóc y tế có trợ cấp, giảm tiền nhà,...

+ Tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô: Chính phủ sử dụng các chính sách tiền tệ, tài chính

tác động tới chu kỳ kinh doanh, giải quyết nạn thất nghiệp, chống trì trệ, lạm phát,...

Nhận xét: Trong nhiều trường hợp, sự can thiệp của Nhà nước cũng có những hạn chế như

có nhiều vấn đề Nhà nước không lựa chon đúng, sự tài trợ của Chính phủ có lúc kém hiệu quả (do

chương trình quá lớn, thời gian quá dài), sự ảnh hưởng của chủ quan (Chính phủ bị chi phối bởi

thiểu số người, hoặc bởi những người bất tài, tham nhũng,...) dẫn đến việc đưa ra những quyết

định sai lầm, không phù hợp với quy luật khách quan, không phản ánh đúng sự vận động của thị

trường. Vì vậy theo Samuelson sự can thiệp của Nhà nước chỉ nên giới hạn "trong khuôn khổ

khôn ngoan của cạnh tranh".

Tóm lại, phát triển kinh tế có hiệu quả là phải dựa vào cả "hai bàn tay":

+ Cơ chế thị trường(bàn tay vô hình): xác định giá cả, sản lượng trong nhiều lĩnh vực.

+ Sự điều tiết của Chính phủ (bàn tay hữu hình): bằng các chương trình thuế, chi tiêu và

luật lệ.

10.2.2. Lý thuyết giới hạn khả năng sản xuất và sự lựa chọn

Theo Samuelson: do tính chất hạn chế của toàn bộ tài nguyên có thể sản xuất ra hàng hóa

buộc xã hội chỉ được lựa chọn trong số hàng hóa tương đối khan hiếm để sản xuất.

10.2.3. Lý thuyết thất nghiệp

Theo các nhà kinh tế học trường phái chính hiện đại thì thất nghiệp là vấn đề trung tâm của

các xã hội hiện đại. Các vấn đề cơ bản về thất nghiệp được nghiên cứu là:

∗ Các khái niệm về thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp (Các loại thất nghiệp)

∗ Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên

∗ Ảnh hưởng của thất nghiệp.

10.2.4. Lý thuyết về lạm phát

Theo các nhà kinh tế học trường phái chính hiện đại trong nền kinh tế hiện đại hạn chế lạm

phát là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách kinh tế vĩ mô. Từ đó họ nghiên cứu các

vấn đề về liên quan đến lạm phát như sau:

∗ Các khái niệm về lạm phát

∗ Nguồn gốc của lạm phát

∗ Tác động của lạm phát

∗ Những biện pháp kiểm soát lạm phát.

10.2.5. Lý thuyết về tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng khoán

Các nội dung cơ bản được nghiên cứu là:

* Lý thuyết tiền tệ: Vấn đề quan trọng trong lý thuyết tiền tệ hiện đại là xác định thành phần

của mức cung tiền tệ.

* Ngân hàng: Trong lý thuyết kinh tế học quan tâm đến "sự mở rộng nhiều lần của tiền gửi

ngân hàng hay quá trình tạo nguồn tiền gửi ngân hàng.

* Thị trường chứng khoán: Để phát huy tính tích cực và hạn chế tiêu cực của thị trường

chứng khoán, các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra lý thuyết về "thị trường có hiệu quả". Trong thị

trường này giá cả chứng khoán hoạt động rất thất thường mà các nhà kinh tế học gọi là "cuộc đi

lang thang không có chủ định". Từ việc nghiên cứu. các nhà kinh tế học đưa ra nhiều lời khuyên

về chiến lược đầu tư trên thị trường này.

10.2.6. Một số lý thuyết tăng trưởng kinh tế đối với các nước đang phát triển

10.2.6.1. Thuyết "Các vòng luẩn quẩn" và "Cú huých từ bên ngoài" của Samuelson

Theo ông, để tăng trưởng kinh tế cần có bốn nhân tố là: Nhân lực lao động, tài nguyên, cấu

thành tư bản và kỹ thuật công nghệ. Ở các nước kém phát triển thì bốn yếu tố trên và việc kết hợp

chúng đang gặp nhiều trở ngại lớn.

Khó khăn càng tăng thêm trong "một vòng luẩn quẩn" của sự nghèo khổ.

Để phá vỡ cần có "cú huých từ bên ngoài" về vốn, công nghệ, chuyên gia... vì thế phải có

đầu tư nước ngoài, phải tạo điều kiện thuận lợi để kích thích đầu tư nước ngoài.

Có thể biểu thị "vòng luẩn quẩn" trong mô hình sau:

thu nhập bình quân thấp - S và I thấp - tốc độ tích lũy thấp - năng suất lao động thấp

10.2.6.2. Thuyết "Cất cánh" của Rostow (Mỹ)

Theo lý thuyết này thì quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước trải qua năm giai đoạn là:

+ Xã hội truyền thống cũ: sản xuất nông nghiệp thống thị, năng suất lao động thấp, đời sống

vật chất và tinh thần thiếu thốn, xã hội kém linh hoạt

+ Chuẩn bị cất cánh: Đã xuất hiện các chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới kinh tế, kết cấu hạ

tầng được quan tâm, đặc biệt là giao thông. Xuất hiện nhiều trung tâm kinh tế làm chỗ dựa cho sự

tăng trưởng.

+ Giai đoạn cất cánh: Đã hội tụ đủ các điều kiện như đầu tư tăng 5 - 10% trong GNP, công

nghiệp phát triển, xuất hiện một số ngành mũi nhọn đạt hiệu quả kinh tế cao, tăng trưởng kinh tế,

lợi nhuận tăng, tư bản, năng suất lao động bình quân tăng vọt, kinh tế phát triển, quan hệ kinh tế

đối ngoại phát mở rộng.

+ Giai đoạn chín muồi: đầu tư đạt 10 - 20% GNP, xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới

và hiện đại. Cơ cấu xã hội biến đổi, đời sống dân cư được cải thiện rõ nét.

+ Kỷ nguyên tiêu dùng cao: sản xuất đạt trình độ xã hội hóa cao, quốc gia thịnh vượng,

nhưng cũng có hiện tượng giảm sút sự tăng trưởng kinh tế (Là bài toán cho chính phủ).

Trong năm giai đoạn thì giai đoạn cất cánh là quyết định nhất.

Điều kiện để cất cánh là (3 điều kiện):

+ Tỷ lệ đầu tư tăng từ 5 - 10%.

+ Xây dựng được những lĩnh vực đầu tàu (thị trường xuất nhập khẩu phát triển nhanh hoặc

công nghiệp có khả năng phát triển mạnh, hiệu quả theo quy mô lớn). Khi các lĩnh vực đầu tàu

tăng nhanh thì quá trình tăng trưởng tự duy trì xuất hiện.

+ Phải có bộ máy quản lý năng động, biết sử dụng kỹ thuật và tăng cường quan hệ kinh tế

đối ngoại.

10.2.6.3. Lý thuyết phát triển kinh tế dựa vào công nghiệp hóa (CNH)

Theo đó, có hai phương pháp thực hiện CNH:

∗ CNH thay thế nhập khẩu: phát triển sản xuất trong nước để thay thế các sản phẩm

nhập khẩu.

Ưu điểm: Tận dụng nguồn lực trong nước, mở rộng thị trường nội địa, tạo nhiều việc làm,

tăng thu nhập. Kích thích lòng tự tôn dân tộc thành động lực phát triển kinh tế.

Hạn chế: Do chính sách bảo hộ có thể gây sự ỷ lại của các nhà sản xuất trong nước, sản xuất

không được đổi mới, quy mô thị trường nhỏ bé hạn chế phát triển sản xuất (Không đồng nghĩa với

"đóng cửa" nền kinh tế).

Đối với những mặt hàng cần thiết vẫn nhập khẩu (một mặt hạn chế, thậm chí ngăn cấm đối

với hàng hóa trong nước có khả năng sản xuất, mặt khác cho phép nhập khẩu các yếu tố để sản

xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu). Mối giao lưu kinh tế giữa các nước vẫn phát triển.

∗ CNH theo hướng xuất khẩu: Bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XX.

Nội dung cơ bản: tập trung phát triển sản xuất các sản phẩm để xuất khẩu. Lấy thị trường

nước ngoài làm trọng tâm. (Dựa vào lí thuyết "Lợi thế so sánh" của D.Ricardo).

Các nhóm ngành sản xuất chủ yếu của mô hình này:

+ Phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ

+ Khai thác và sản xuất sản phẩm thô

+ Ngành chế biến và lắp ráp thu hút nhiều lao động sống

+ Chế biến nông sản

+ Một số ngành kĩ thuật cao: chế tạo máy, điện tử.

Phụ thuộc vai trò Chính phủ để phối hợp hài hòa thị trường trong nước và quốc tế.

∗ Trong thực tế: Cả hai loại đều có ưu và nhược điểm Vì thế trong thực tế cần kết hợp hài

hòa hai chiến lược "thay thế nhập khẩu" và "hướng về xuất khẩu", vừa thỏa mãn nhu cầu trong

nước vừa phát huy lợi thế so sánh trên thế giới.

10.2.6.4. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế ở châu Á gió mùa

Do nhà kinh tế Haroy Toshima (Nhật) đưa ra cho các nước có nền nông nghiệp lúa nước,

trong đỉnh cao thời vụ vẫn thiếu lao động.

Nội dung chủ yếu của lý thuyết này là:

+ Giữ nguyên lao động nông nghiệp, song phải tạo nhiều việc là trong những tháng nhà

rỗi (tăng vụ, đa dạng hóa vật nuôi cây trồng, mở mang nhiều ngành nghề mới để tạo việc làm

tăng thu nhập).

+ Thực hiện CNH nông nghiệp: xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất (điện, nước, giao thông,

thông tin liên lạc), phát triển công nghiệp chế biến và cơ sở hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, văn

hóa) cho nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thay thế lao động thủ công bằng

lao động máy móc năng suất lao động cao...

Từ đó sẽ cải thiện đời sống nông dân, văn minh hóa nông thôn và kinh tế sẽ tăng trưởng, lại

tránh được sức ép về nhiều mặt đối với đô thị.

Kết luận về các lý thuyết:

+ Đã chú ý phân tích, đánh giá đặc điểm, điều kiện và các nguồn lực để phát triển kinh tế ở các

nước đang phát triển để đưa ra lời khuyên và những giải pháp cho các nước hay mỗi nhóm nước.

+ Đã có nước khai thác vận dụng thành công (NICs) nhưng là số ít. Thực chất đều nhằm phục

vụ lợi ích các nước tư bản trong điều kiện mới (thống trị, bóc lột, nô dịch các nước kém phát triển).

+ Đòi hỏi sự thận trọng, sáng suốt của Chính phủ các nước kém phát triển để đạt tăng

trưởng kinh tế, phát triển kinh tế và độc lập tự chủ.

10.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG

10.3.1. Những tiến bộ

Các lý thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại đã đạt được những thành tựu là:

- Có sự kế thừa, vận dụng và phát triển các lý thuyết kinh tế của nhiều trường phái trong

lịch sử.

- Với mô hình kinh tế hỗn hợp: một mặt nhận thức được yếu tố tích cực của cơ chế thị

trường tự do cạnh tranh, mặt khác vạch ra sự cần thiết phải điều tiết vĩ mô của nhà nước (thông

qua các chức năng và công cụ) để phát huy mặt tích cực và khắc phục khuyết tật của cơ chế thị

trường. Bên cạnh đó cũng chỉ ra những hạn chế của nhà nước khi điều hành nền kinh tế.

- Đưa ra một số lý thuyết làm cơ sở cho sự điều tiết kinh tế của nhà nước.

- Có sự nghiên cứu để dưa ra lý thuyết phát triển kinh tế đối với các nước chậm phát triển.

10.3.2. Những hạn chế

Trong nghiên cứu các nhà kinh tế thuộc trường phái chính hiện đại còn có nhiều hạn chế, đó là:

- Mô tả các hiện tượng và quá trình kinh tế trong các giai đoạn lịch sử khác nhau và đưa ra

những tiêu chí phân loại (nước giàu - nghèo, phát triển - đang phát triển,...) nhưng chưa chỉ ra

được bản chất và nguyên nhân thật sự của các hiện tượng và quá trình đó.

- Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay các nước phát triển vẫn giữ lợi thế về vốn, công

nghệ, thị trường,... nên sự bình đẳng trong quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay khó có thể đạt được.

Vì thế lý thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại không thể áp dụng cho mọi nơi, mọi lúc,

mọi quốc gia.

Tóm lại, tuỳ từng điều kiện, khả năng và nguồn lực của mình, các nước có thể tiếp thu các

nhân tố hợp lý để đề ra phương hướng, chính sách giải pháp phù hợp đảm bảo tốc độ phát triển

cao và bền vững.

TÓM TẮT

Trong chương này cần chú ý nắm vững các vấn đề cơ bản sau:

Về hoàn cảnh lịch sử ra đời và đặc điểm của học thuyết kinh tế của trường phái chính

hiện đại

Đặc điểm:

Trường phái chính hiện đại đã vận dụng một cách tổng hợp các lí thuyết và phương pháp

của các trường phái kinh tế trong lịch sử nhằm đưa ra lí thuyết làm cơ sở cho các hoạt động của

doanh nghiệp và chính sách kinh tế của Nhà nước tư sản. Theo đó, nền kinh tế thị trường cần có

sự điều tiết của Nhà nước: "Muốn vỗ tay phải vỗ bằng cả hai bàn tay".

Về nội dung:

Cần nắm được các nội dung cơ bản sau:

1. Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp

(Là tư tưởng trung tâm của kinh tế học trường phái chính hiện đại)

"Nền kinh tế hỗn hợp" là nền kinh tế kết hợp trong đó kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước,

nó được điều hành bởi cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Trong lịch sử đã có hai phương thức Chính phủ đưa ra hầu hết các quyết định kinh tế

Các quyết định kinh tế đều do thị trường xác định

Cả hai phương thức đều có ưu điểm và hạn chế, không nên tuyệt đối hóa một phương thức

nào mà cần kết hợp: cơ chế thị trường và điều tiết của Nhà nước.

+ Phân tích về cơ chế thị trường:

Cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng đưa tới kết quả tối ưu mà có những khuyết tật

nhất định, nhiều vấn đề thị trường không giải quyết nổi (độc quyền, ô nhiễm môi trường, khủng

hoảng, thất nghiệp, sự phân phối bất bình đẳng). Do đó theo Samuelson cần có sự can thiệp của

chính phủ (Nhà nước) để khắc phục các khuyết tật.

+ Phân tích vai trò kinh tế của chính phủ (nhà nước):

Trong nhiều trường hợp, sự can thiệp của Nhà nước cũng có những hạn chế như có nhiều

vấn đề Nhà nước không lựa chon đúng, sự tài trợ của Chính phủ có lúc kém hiệu quả (do chương

trình quá lớn, thời gian quá dài), sự ảnh hưởng của chủ quan (Chính phủ bị chi phối bởi thiểu số

người, hoặc bởi những người bất tài, tham nhũng,...) dẫn đến việc đưa ra những quyết định sai

lầm, không phù hợp với quy luật khách quan, không phản ánh đúng sự vận động của thị trường.

Vì vậy theo Samuelson sự can thiệp của Nhà nước chỉ nên giới hạn "trong khuôn khổ khôn ngoan

của cạnh tranh".

Tóm lại, phát triển kinh tế có hiệu quả là phải dựa vào cả "hai bàn tay" là Cơ chế thị

trường (bàn tay vô hình): xác định giá cả, sản lượng trong nhiều lĩnh vực. Sự điều tiết của Chính

phủ (bàn tay hữu hình): bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ.

2. Lý thuyết giới hạn khả năng sản xuất và sự lựa chọn

Theo Samuelson: do tính chất hạn chế của toàn bộ tài nguyên có thể sản xuất ra hàng hóa

buộc xã hội chỉ được lựa chọn trong số hàng hóa tương đối khan hiếm để sản xuất.

Đưa ra quan điểm về hiệu quả sử dụng tài nguyên. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên

đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF).

Thực chất lí thuyết "sự lựa chọn" nhằm đưa ra được mô hình số lượng cho người tiêu dùng

trong điều kiện kinh tế thị trường và trên cơ sở đó dự đoán được sự thay đổi của nhu cầu xã hội.

3. Lý thuyết thất nghiệp, lý thuyết về lạm phát, lý thuyết về tiền tệ và ngân hàng, thị trường

chứng khoán: Nắm vững một số khái niệm

4. Một số lý thuyết tăng trưởng kinh tế đối với các nước đang phát triển

Đã chú ý phân tích, đánh giá đặc điểm, điều kiện và các nguồn lực để phát triển kinh tế ở

các nước đang phát triển để đưa ra lời khuyên và những giải pháp cho các nước hay mỗi nhóm

nước.

Đã có nước khai thác vận dụng thành công (NICs) nhưng là số ít. Thực chất đều nhằm

phục vụ lợi ích các nước tư bản trong điều kiện mới (thống trị, bóc lột, nô dịch các nước kém

phát triển).

Đòi hỏi sự thận trọng, sáng suốt của Chính phủ các nước kém phát triển để đạt tăng trưởng

kinh tế, phát triển kinh tế và độc lập tự chủ.

Về đánh giá khái quát:

Lý thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại có sự kế thừa, vận dụng và phát triển các lí

thuyết kinh tế của nhiều trường phái trong lịch sử.

Hiện nay mọi nước trên thế giới đều có mô hình kinh tế hỗn hợp song lý thuyết kinh tế của

trường phái chính hiện đại không thể áp dụng cho mọi nơi, mọi lúc, mọi quốc gia. Tuỳ từng điều

kiện, khả năng và nguồn lực của mình, các nước có thể tiếp thu các nhân tố hợp lý để đề ra

phương hướng, chính sách giải pháp phù hợp đảm bảo tốc độ phát triển cao và bền vững.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro