Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

chien truong moi

I

Đi chiến trường

1

Bữa liên hoan nhẹ chia tay, gồm vài bạn thân và người trong gia đình tôi. Mọi người đều tỏ niềm hân hoan chúc mừng chuyến đi học nước bạn của tôi thành công. Thật lòng, được cấp trên cử sang Trung Quốc học quân sự lần này tôi rất phấn khởi, bởi đây cũng là lần đầu được đi học dài ngày. Khoảng gần chín giờ tối, khách đã về hết, tôi và nhà tôi đang kiểm tra lại hành lý lần cuối cùng xem thiếu đủ thế nào, để sớm mai ra tàu khỏi cập rập.

Nghe tiếng chuông điện thoại reo, tôi nghĩ "lại có anh bạn nào trong đoàn hỏi gì chăng?”, bởi số anh em đi học ở Trung Quốc được tổ chức thành đoàn, anh Hoàng {điếc) là đoàn trưởng, tôi là đoàn phó, khi cầm ống nghe đặt vào tai có tiếng nói:

- Anh An phải không? Tôi trực ban của Tổng cục Chính trị đây… Lệnh anh Mậu, anh lên gặp anh Mậu ngay. Có việc gấp.

Lại có việc gì gấp nữa đây. Hộ chiếu có rối, giờ tàu số toa có rồi…, đoàn đội đã sinh hoạt cả rồi... sao anh Mậu không gặp Hoàng lại gặp mình. Tôi thoáng nghĩ chuyến đi này lại có trục trặc gì đây? Chẳng có lý chuẩn bị đẩy đủ mọi thứ, chỉ còn lên tàu nữa thôi mà lại ngừng. Quay sang phía nhà tôi, tôi nói: thôi đừng thu xếp nữa, hình như có trục trặc gì rồi đấy em ạ!

Tôi vừa bước vào cửa phòng làm việc của thiếu tướng Phạm Ngọc Mậu, anh đã cười “khà khà". Tiếng cười cởi mở dễ dãi của anh báo động cho tôi chuẩn bị đón nhận điều bất ngờ.

- Không đi học nữa – anh Mậu vừa cười vừa nói - Đi đánh nhau nhá. Quyết định của Quân ủy anh đi ngay vào Quân khu 4 nhận chức tư lệnh sư đoàn 325, gấp rút chấn chỉnh bổ sung trang bị rồi đưa vào miền Nam chiến đấu.

Tinh thần phấn chấn về chuyến “du học” ở nước ngoài như quả bóng xì hơi, trong tôi lại phải sắp xếp lại cái trật tự tư duy bình thường của người chiến binh, nghĩa là chuẩn bị tư tưởng hành quân xa mang nặng, là chiến đấu trên tục, là gian khổ đói khát... hoàn toàn không giống việc đi học ở một đất nước đang sống bình yên. Lúc này trong tôi xuất hiện hai luồng suy nghĩ: không đi học thì cũng tiếc, nhưng đi đánh nhau vẫn khoái hơn nên tôi chấp nhận một cách thoải mái.

Tôi đang mang bệnh trĩ ngoại, ngồi cũng đau, đi lại cũng đau... Tôi tính đi học để kết hợp chữa chạy, nhưng bây giờ đi chiến đấu lại là vấn đề hoàn toàn khác. Tôi nói với thiếu tướng Mậu:

- Cho tôi xin dừng lại một tuần lễ để chữa trĩ, hiện nó đang ra máu.

- Anh còn phải gặp anh Dũng giao nhiệm vụ cụ thể,vẫn còn thời gian đi chữa không lo.

Thế là thêm một chuyến đi học hụt. Năm ngoái (1963) tôi được học nửa năm tiếng Nga ở trường văn hóa Lạng Sơn. Để đi Liên Xô học, hộ chiếu đã cầm tay, đang nghỉ phép để chuẩn bị lên đường lại nhận lệnh “thôi không đi học”, “đi chiến trường Lào”. Mãi sau này mỗi lúc ngồi ôn chuyện cũ mấy anh bạn tôi thường nói đùa "cái số cậu vất vả”.

Sau một, hai hôm thiếu tướng Mậu báo “thôi không đi học” tôi được văn phòng Bộ Tổng Tham mưu gọi điện “tới gặp thủ trưởng Dũng”. Tôi đếm bước trên chín cái bậc đá có hai con rồng đá chầu hai bên, rồi ngước mắt nhìn những cây xoài cổ thụ có tán lá rộng phủ bóng xuống cái sân gạch khá rộng – sân rồng của triều Lê đó, và địa điểm của văn phòng Bộ Tổng Tham mưu. Cũng vì lẽ đó mà anh em thường gọi hài hước: Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu là “Sân rồng“.

Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Phó chủ nhiệm tổng cục Hậu cần Nam (đen) và một cán bộ tham mưu đã ngồi bên chiếc bàn khá rộng, trước mắt là tấm bản đồ khổ lớn. Tôi vừa ngồi xuống ghế, anh Dũng nói ngay vào lý do cuộc gặp và căn dặn tôi những vấn đề chung cho tính chất chiến lược. Anh nhấn mạnh tầm quan trọng việc “lần đầu tiên ta đưa một sư đoàn đầy đủ từ miền bắc vào chiến trường miền Nam. Việc chuẩn bị cơ sở vật chất cho sư đoàn, anh Dũng cho biết Bộ đã giao cho Quân khu 4 chịu trách nhiệm".

Tôi hỏi việc tiếp tế dọc đường hành quân, anh Nam (đen) trả lời:

- Gạo ở các kho trên dọc đường đủ cung cấp cho một sư đoàn, gạo để lâu bị mọt nhưng vẫn ăn được.

Khoảng giữa tháng 9 năm 1964 Bộ Tổng tham mưu cho xe đưa tôi vào Đồng Hới. Mấy ngày nắng gió tây nồng nực, không còn cảm giác thời gian này đang là mùa thu, lưng áo tôi lúc nào cũng thấm ướt mồ hôi. Doanh trại sư đoàn bộ bằng tre, dựng trên ngọn đồi đất tương đổi bằng phẳng ở phía bắc thị xã Đồng Hới. Những hàng rào phi lao cằn cỗi chưa đủ sức tạo ra bóng mát cho những đoạn đường đất đỏ nối tiếp các nhà trong khu doanh trại.

Các anh Quách Sĩ Kha chính ủy, Hữu Anh phó chính ủy, Trần Văn Trân phó tư lệnh, Cao Long tham mưu trưởng... trong Bộ Tư lệnh đã nhận được tin tôi vào nhận chức sư trưởng. Chúng tôi làm quen với nhau rất nhanh. Theo nền nếp cũ, ai làm việc nấy, đơn vị vừa huấn luyện bổ sung vừa chuẩn bị trang bị cho cuộc hành quân. Thời gian chuẩn bị gấp, Quân khu 4 không đủ quân trang để trang bị cho sư đoàn đành phải động viên nhau "có gì dùng nấy”. Những đợt đi "B" trước, anh em được trang bị ba lô con cóc, tăng, võng, áo len, quần áo ka ki, tiền của ngụy. Lần này đi sư đoàn 325 mỗi người được trang bị hai bộ quần áo, một cái võng bạt, không áo len, và vẫn giữ cái ba lô vuông cũ. Trang bị thiếu thốn ảnh hưởng tới sức khỏe và tinh thần của anh em suốt dọc đường hành quân, và điều đó cũng làm cho các cán bộ chỉ huy trực tiếp vất vả hơn.

Tôi, Minh Đức (mới về thay anh Quách Sĩ Kha) cùng một số cán bộ của trung đoàn 101 và một đội trinh sát, tất cả khoảng hơn 100 người đi trước (khoảng tháng 11) để chuẩn bị chiến trường. Qua vài binh trạm giao liên ở ngoài Bắc, tôi hỏi thăm xem vào tuyến đường trong kia có khó khăn, thuận lợi gì. Có anh em nói nửa đùa, nửa thật: "Hành quân xa thêm một cái cúc áo cũng cảm thấy nặng hơn. Khi vượt qua tây Trường Sơn rồi không cần mang theo nhiều lương thực, thực phẩm dự trữ cho nặng, các đơn vị đi trước họ vất đầy ven đường chịu khó nhặt cũng đủ ăn...". Tôi mỉm cười nghi ngờ chuyện lạ lùng đó.

Đơn vị hành quân đến trạm 40, chúng tôi đã bắt đầu nếm mùi gạo mục. Nhưng vẫn chưa đến nỗi nào, khi nấu lên dù mùi hôi có xộc ngay vào mũi vẫn có thể gọi là cơm được. Và lúc này còn thức ăn khô nên bữa ăn mọi người vẫn cảm thấy bình thường.

Sớm hôm ấy chúng tôi lội qua con suối đá khá rộng, rồi đi vòng vèo theo ven bờ lên chân dốc của ngọn núi "một ngàn lẻ một". Đây là một ngọn núi cao đầu tiên để vượt từ phía đông sang phía tây Trường Sơn. Tôi ngửa mặt nhìn con dốc cao mất hút trong vòm lá xanh, nhiều đoạn anh em giao liên đã tạo ra những bậc thang bằng đất dựng đứng 80 - 90 độ, những dây song hoặc cành cây buộc nối tiếp làm tay vịn qua tay nhiều người đã bóng loáng như phủ quang dầu. Nghĩ tới trung tá Tô Đình Khản vóc người còm nhom đang ốm cõng cái ba lô nặng mười bốn, mười lăm ki-lô-gam gò từng bước, từng bước một mà tôi ái ngại, tưởng như mình đang mắc lỗi gì đó.

Mặc dầu Khản chỉ ké vào cuộc hành quân này để vào bổ sung cho trung đoàn 320, nhưng trong lòng tôi vẫn canh cánh không yên. Tôi quyết định đeo ba lô của mình và bảo cậu công vụ đeo ba lô giúp Khản. Từ lúc đó cho tới suốt chặng đường dài "con ruồi đậu nặng một đồng cân" nhưng tôi thấy lòng mình nhẹ nhàng thanh thản.

Vượt qua phía tây Trường Sơn, vẫn con đường mòn không thể đi sóng đôi được ấy, nhưng những con dốc hiền hòa hơn, không còn tình trạng đầu người đi sau đụng vào ba lô của người đi trước như ngày hôm qua. Đến cung đường này tôi chú ý nhìn hai ven đường, kiểm tra ý kiến của mấy anh cán bộ binh trạm ngoài Bắc nói lương thực, thực phẩm "...vất đầy ven đường, chịu khó nhặt cũng đủ ăn... ". Quả thật, cũng có chuyện vứt bỏ bừa bãi nhưng rải rác chỗ này vài vỏ đồ hộp, chỗ kia vài cái quần áo rách làm gì có thứ ăn được lại vất đi!

Càng đi sâu vào các cung đường phía nam, việc nuôi quân càng kém hơn. Ở đây dù cán bộ hậu cần có tài năng thế nào cũng "vô kế khả thi". Mỗi ngày đầu người được hưởng hai lon sữa bò gạo mục, sau rút xuống còn một lon cộng với sắn. Anh em lĩnh gạo ở kho về, tôi bốc một nhúm đưa lên mũi ngửi. Trời ơi! Không còn gọi là gạo nữa mà nó vừa hôi vừa mốc, một thứ mùi hỗn hợp thật khó chịu. Có cách gì chữa chạy để giảm bớt mùi khó ngửi ấy không. Các chiến sĩ nuôi quân có hạng cũng lắc đầu, bó tay. Nếu đem xuống suối vo, gạo sẽ thành bột và chỉ còn lại là những con mọt trên rá. Đành cứ như thế mà đổ vào nồi vậy.

Để khắc phục cái mùi khó ngửi kia, anh nuôi thường làm món cơm canh hỗn hợp, nghĩa là kiếm được mớ rau rừng (phổ biến là rau môn thục) thì cho luôn vào nồi rồi đảo trộn với gạo nấu đến nhừ thì thôi. Bữa ăn xới từ trong nối ra bát, cái gọi là cơm nó deo dẻo màu lá cây phủ ra mùi hăng hăng, nồng nồng. Nhưng lúc bụng đói cồn cào, ai để ý màu sắc, mùi vị làm gì, miễn rằng cái thứ đó vừa xúc vào bát của mình có thể nuôi sống người và cứ thế lùa cho đầy dạ dày.

Lương thực, thực phẩm hậu cần phải cung cấp trên dọc đường chỉ trần trụi có mấy thứ: gạo, muối và mắm kem. Gạo như đã nói trên, còn muối thì sao? Quản lý chia đầu người/ngày một gạt miệng hộp cao sao vàng. Bữa ăn như vậy, nên sau bữa ăn mọi người cảm thấy hau háu thòm thèm cái gì đó. Giá như được một bữa rau muống luộc có nước chấm đàng hoàng, giá như được một cốc nước chanh, giá như được một bữa thịt luộc ăn thoải mái...

Đi tới gần Tây Nguyên tình cờ gặp trung tá Nguyễn An là bạn học tiếng Nga ở Lạng Sơn cũ, binh trạm trưởng nơi chúng tôi vừa hành quân tới. Nguyễn An thết tôi một bữa cơm cá chép nấu canh chua. Ôi! Sao mà ngon đến như vậy. "Miếng ngon nhớ lâu”, sau này tôi đã từng dự liên hoan, nhưng thật khó có một bữa nào ngon tuyệt vời như vậy.

Sự thiếu thốn trang bị, lương thực, thực phẩm trong hành quân so với tính chất quan trọng mà Bộ Tổng Tham mưu nêu ra, khi trao nhiệm vụ cho sư đoàn tôi, tôi thấy trong đó có cái gì thiếu cân xứng. Việc chuẩn bị cơ sở vật chất cho một sư đoàn vào chiến trường (ở thời điểm ấy) có lẽ không nên giao cho cấp quân khu. Bộ (* Khái niệm “Bộ” có nghĩa là Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng có khi cả Quân ủy Trung ương.) trực tiếp và có kiểm tra cụ thể chắc chắn bộ đội đỡ cực hơn, và sức khỏe sẽ tốt hơn.

Nhìn cán bộ, chiến sĩ người nào cũng xanh xao vàng vọt hốc hác, đã thôi thúc tôi khi đến nơi phải viết ngay bức thư nói rõ, những suy nghĩ của mình về thực tế cuộc hành quân, sư đoàn vừa trải qua để Bộ rút kinh nghiệm.

2

Khi tới Công Tum, tôi, anh Nguyễn Minh Đức chính ủy và một số anh em trong bộ tư lệnh sư đoàn rẽ vào Đắc Un, nơi đóng quân của Bộ chỉ huy Mặt trận B3 (* Mật danh chỉ Mặt trận Tây Nguyên.). Tưởng Bộ chỉ huy Tây Nguyên là ai xa lạ, hóa ra quen thuộc cả. Các anh Nguyễn Chánh tư lệnh, anh Đoàn Khuê chính ủy, Hà Vi Tùng tham mưu trưởng. Riêng chính ủy Đoàn Khuê là người tôi mới gấp lần đầu. Mọi người mới cũ đều tỏ ra vui mừng xúc động thăm hỏi nhau.

Chúng tôi được nghỉ ngơi vài ngày ăn chế độ "bối dưỡng”, nghĩa là được ăn no, mỗi ngày ba lon gạo còn thức ăn tự kiếm ở rừng, chủ yếu là măng và môn thục, thỉnh thoảng cũng được bữa cá do anh em đánh ở suối.

Tranh thủ thời gian, Bộ chỉ huy Mặt trận họp phổ biến tình hình chung của chiến trường và cho chúng tôi biết chỉ thị của Quân ủy và của Bộ. Tôi và Minh Đức bổ sung vào Đảng ủy Mặt trận. Về chính quyền tôi là phó tư lệnh, Minh Đức là phó chính ủy của Mặt trận B3; một số cán bộ cơ quan sư đoàn 325 sẽ nhập vào cơ quan Bộ tư lệnh B3. Trung đoàn 95 và trung đoàn 18 xuống đồng bằng Quân khu 5. Trung đoàn 101 Ở lại Tây Nguyên. Đến đây thực chất sư đoàn 325 đã bị giải thể, nhiều cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn tôi chưa kịp làm quen đã phải chia tay.

Mặt trận Tây Nguyên trực thuộc Quân khu 5 gồm ba tỉnh Công Tum, Plây Cu, Buôn-Ma-Thuột, trung đoàn 320 và 101, bộ binh, tiểu đoàn đặc công và ba đại đội địa phương tỉnh.

Chủ trương của Mặt trận thời gian này là: đưa trung đoàn 101 vào tham gia tác chiến ngay để làm quen với chiến trường, cách đánh: sử dụng chiến thuật "vây điểm diệt viện".

Đối với tôi chiến trường này hoàn toàn mới mẻ vả xa lạ, nên sau mấy.ngày nghỉ, tôi và Minh Đức cùng cán bộ của trung đoàn 101 tranh thủ đi trinh sát dọc theo đường 14 xem địa hình các điểm Đắc Sút, Đắc Long, Pô Cô, Đắc Tô, Tân Cảnh rồi lên phương án tác chiến. Chúng tôi hạ quyết tâm vây Đắc Long đánh địch viện từ Tân Cảnh tới.

Trung đoàn 101 đang chiếm lĩnh trận địa vây Đắc Long và mai phục đoạn đường từ Đắc Sút về Đắc Long được hai ngày thì nhận được lệnh “rút quân” của Bộ tư lệnh Mặt trận, với lý do vừa nhận được điện của Bộ: "Không bộc lộ lực lượng sớm, để nuôi cho địch chủ nhân sơ hở…”.

Trong thâm tâm tôi chưa thật thoải mái: “Địch chưa biết ta có lực lượng mới, tại sao ta không giành thế bất ngờ mà lại chờ nuôi cho nó chủ quan…”, nhưng tôi vẫn nghiêm chỉnh chấp hành, và hạ lệnh cho trưng đoàn 101 rút quân. Nhận được lệnh rút, anh em có xì xầm bàn tán, thậm chí có người tỏ vẻ bực mình nữa. Loại tình huống này đối với tôi không phải mới gặp lần đầu. Tôi và Minh Đức biết khá rõ sự phản ứng của anh em. Chúng tôi bàn và đề ra công tác lãnh đạo tư tưởng cho anh em quán triệt và chấp hành nghiêm chỉnh.

Tôi rời bộ phận bao vây Đắc Long tới sở chỉ huy trung đoàn 101, cách khoảng mươi mét đã nghe tiếng tranh luận có vẻ gay gắt.

… Trung đoàn trưởng Mót nói:

- Tôi cho các đơn vi rút thật nhanh ra khỏi trận địa đề phòng địch dùng phi pháo.

Minh Đức nóng nảy cắt ngang:

- Nhanh không có nghĩa là ẩu tả thiếu tổ chức chặt chẽ. Tại sao anh không hạ lệnh cho thứ tự từng đơn vị, đội hình rút, đề phòng tình huống có thể gặp...

Thấy tôi anh Minh Đức ngừng lại hất cầm thay lời nói "anh xem đó". Tôi thấy điều anh Minh Đức nói hoàn toàn đúng nên cũng nhắc Mót: chú ý thêm động tác tổ chức chỉ huy cho chặt chẽ.

3

Mấy hôm sau chúng tôi về họp Bộ tư lệnh Mặt trận để quán triệt ý kiến chỉ đạo của Bộ qua bức điện nói trên. Cuộc họp phần đông ý kiến tán thành sự chỉ đạo của Bộ. Họp xong tôi báo cáo với anh Đoàn Khuê: “Đề nghị anh đánh điện về Bộ nói rõ đó là ý kiến của Nguyễn Hữu An rằng: nếu vì nuôi cho địch chủ quan sơ hở thì không cần thiết phải làm như vậy. Địch đang chủ quan, ta đưa lực lượng lớn vào trong lúc chúng bị bất ngờ ta mở ngay trận đánh lớn, đánh vừa để tiêu diệt sinh lực địch mở rộng thêm vùng giải phóng và giải quyết khó khăn về hậu cần có hơn không”.

Anh Đoàn Khuê viết điện cho tôi xem rồi gửi lên Bộ. Tôi thầm cảm ơn anh Khuê.

Trong thời gian chờ điện của Bộ chỉ đạo, Mặt trận tiếp tục cho các đơn vị đánh các bốt nhỏ và đánh vào một số ấp chiến lược để phá kế hoạch bình định của địch. Nhưng qua thực tế đánh nhỏ lẻ, mỗi ấp chiến lược vài chục hộ dân cũng phải đưa tới một tiểu đoàn đánh trầy trật, có khi thương vong nhiều. Mỗi huyện mấy chục ấp chiến lược, đến bao giờ mới nhổ hết? Chúng tôi đã diệt một vài đồn nhỏ như đồn Đắc Long, Pô Cô... Nhưng chúng không hề đưa viện binh tới. Cách đánh như vậy chưa trúng “huyệt”, tôi đề nghị với Bộ tư lệnh: “Tập trung nhổ quận lỵ thì ấp chiến lược sẽ tan...”. Các anh trong Bộ tư lệnh B3 đồng ý. Mặc dầu Bộ chưa trả lời ý kiến của tôi, nhưng chúng tôi vẫn chấp hành mệnh lệnh rất nghiêm chỉnh.

Minh Đức và tôi được Bộ tư lệnh Mặt trận phân công trực tiếp chỉ huy trung đoàn 101 bao vây quận lỵ Tu-mơ-rông (Đắc Hà).

Tu-mơ-rông cách Đắc Tô khoáng 10 ki-lô-mét, nằm trong tầm yểm hộ pháo binh của căn cứ Đắc Tô, Tân Cảnh; lực lượng ở đây có một tiểu đoàn thiếu, 1 đại đội dân vệ và một trung đội pháo 105 ly hai khẩu.

Dân xung quanh quận lỵ là người chí cốt với cách mạng, quanh năm ăn sắn, ngô không có gạo, muối. Mặc dù muối của chúng tôi thiếu (tiêu chuẩn ngày có chiến sĩ đếm được mấy chục hạt muối nhỏ), nhưng chúng tôi vẫn chia sẻ phần khó khăn với đồng bào.

Bao vây được bốn ngày, địch không đưa quân viện, chúng tôi lại nhận được tin trinh sát qua thông tin lệnh cho Tân Cảnh: “Việt Cộng dùng kế “điệu hồ ly sơn”, phải cố thủ tới cùng đừng mang lực lượng giải vây, nó hết gạo tất phải rút”. Địch đã phán đoán chính xác, chúng tôi chỉ còn ba ngày gạo nữa. Nếu chúng xử trí kiểu lỳ như vậy sẽ vô hiệu hóa chiến thuật “vây điểm diệt viện” sở trường của chúng tôi.

Để đạt mục đích đã định, một mặt chúng.tôi cho hậu cần đi đào sắn (nương sắn CM) (* Nương sắn cách mạng: do nhân dân Tây Nguyên tự giác trồng để nuôi bộ đội và cán bộ cách mạng.) thu sắn khô, ý dĩ để có thêm lương thực trụ kéo dài ngày hơn; mặt khác điện về sở chỉ huy cơ bản: xin cho tiêu diệt địch ở quân lỵ Tu-mơ-rông.

Mấy ngày ăn sắn khô trộn ý dĩ mồm miệng nhạt thếch, Minh Đức cười nói với tôi:

- Hộp sữa “dự trữ chiến lược” bây giờ đưa ra sử dụng được rồi đó.

Tôi không hiểu Minh Đức moi đâu ra được hộp sữa đã quá hạn ba năm, đem về khoe với tôi trước ngày vây Đắc Long rồi giao cho chiến sỹ vệ binh mang. Lúc này anh hỏi chiến sĩ vệ binh kia. Cậu vệ binh trả lời một cách tự nhiên:

- Em thèm quá trót ăn hết rồi!

Chúng tôi nhìn nhau cười xòa: “nó trẻ, háu đói hơn mình...”.

Nhưng tôi cũng nói thêm vừa chữa ngượng cho đồng chí chiến sĩ vừa để giáo dục ý thức kỷ luật: “Lần sau nếu có thèm ăn thì phải xin, chính ủy đồng ý cậu mới được ăn hiểu chưa?”. Cậu ta cười một cách ngượng ngùng.

Ở sở chỉ huy cơ bản tỏ ra băn khoăn chưa thật tin rằng 101 có thể tiêu diệt được quận lỵ Tu-mơ-rông. Tôi và Minh Đức bàn với nhau cùng ký tên vào một bức điện “… chúng tôi xin bảo đảm đánh thắng”. Thấy chúng tôi trình bày hợp lý và có quyết tâm cao, lúc này các anh Nguyễn Chánh và Đoàn Khuê đồng ý.

Theo kế hoach, trận đánh nổ súng vào 11 giờ. Hướng chủ công một tiểu đoàn do tiểu đoàn trưởng Tam đảm nhận thực hiện cường tập. Hướng thứ yếu của một tiểu đoàn thiếu, do tiểu đoàn trưởng Đồng Thoại đảm nhiệm bí mật khắc phục chướng ngại vật.

Tiểu đoàn của Tam triển khai ở phía trước khu gia binh vừa xong được vài giây thì có tiếng súng nổ dữ dội. Chưa tới giờ “G” mà đã ồn ào như vậy chắc đã chạm trán với địch. Tôi quay máy điện thoại mấy lần ý muốn hỏi Tam xem tình hình thế nào. Tay quay máy còn nặng, rõ ràng đường dây không bị đứt, không hiểu sao không có ai trả lời. Tiếng súng liên thanh và cả tiếng lựu đạn nổ dồn dập hơn trước, khẳng định trận đánh đã bước vào tình huống quyết liệt.

Nghe tiếng chuông điện thoại reo, tôi nhấc ống nghe đặt lên tai. Có tiếng thở hổn hển và tiếng nói khàn khàn của Tam:

- Báo cáo… thủ trưởng An đó phải không?

- An đây. Nói đi.

- Chúng tôi vừa triển khai xong, gặp một toán địch mở cổng phụ để đi tuần. Tôi cho nổ súng rồi truy theo toán địch, hiện nay đã chiếm được một lô cốt, địch tập trung hỏa lực đối phó quyết liệt.

- Cho điều hỏa lực lên, phát triển nhanh không để địch phản kích hoặc co cụm. Tôi gửi lời biểu dương đại đội 1 đã linh hoạt và sáng tạo.

- Vâng.

Tôi mừng thầm, cán bộ và chiến sỹ của đơn vị mình hết sức dũng cảm ứng biến rất linh hoạt, nắm thời cơ giành thắng lợi giảm tổn thất.

Hướng thứ yếu lâm vào thế bị động lúng túng khi thấy trong đồn địch nổ súng loạn xạ, mà chưa mở xong chướng ngại vật. Tôi nhắc chỉ huy trung đoàn phải thúc hướng Đồng Thoại đưa đội bộc phá lên mở cửa. Một hồi lâu không thấy báo cáo kết quả, tôi trực tiếp gọi điện nói với Đồng Thoại. Nghe tiếng tôi gọi Thoại nói có vẻ hấp tấp:

- Báo cáo anh thằng Lương đại đội trưởng, thằng Mơ đại đội phó và cán bộ của đại đội 9 chết hết rồi.

Tôi nói:

- Lúc này hãy gác chuyện thương vong lại đã. Phải tổ chức thật nhanh việc mở cửa đưa lực lượng vào phối hợp với đơn vị bạn. Hướng cậu Tam đã chiếm được lô cốt đầu cầu, đang bị địch ngăn chặn không cho phát triển, cậu phải nhanh lên thu hút bớt hỏa lực cho cậu Tam. Nghe rõ không?

- Rõ!

Từ lúc đó trở đi mất một thời gian khá lâu tôi không còn liên lạc được với tiểu đoàn trưởng Đồng Thoại, mỗi lần gọi chỉ có chính trị viên tiểu đoàn trả lời nhưng không biết Đồng Thoại đang ở đâu sao lại không ở vị trí chỉ huy. Với Đồng Thoại tôi quen chưa bao lâu, nhưng tôi tin chàng trai gốc Hà Nội, có học vấn, có lòng tự trọng ấy không thể có gì nghi ngờ được. Chắc có sự trục trặc trong chỉ huy. Tôi biết Thoại là giáo viên pháo “tép” ở trường lục quân, vào đây nhận vai tiểu đoàn trưởng bộ binh là chéo giò. Trước trận đánh này khi trao nhiệm vụ, tôi phải lấy đá sỏi xếp quân cờ, nói một số động tác chủ yếu của tiểu đoàn trưởng từ khi bắt đầu tiến công tới khi kết thúc trận đánh, để bổ sung vốn liếng chiến thuật ít ỏi của Đồng Thoại.

Tới gần sáng tiểu đoàn của Tam đã cơ bản đè bẹp sự đề kháng của địch, tôi mới nghe thấy tiếng Đồng Thoại báo cáo trong máy. Tôi hỏi:

- Hướng tiểu đoàn cậu tình hình thế nào mà sao không có báo cáo?

Thoại nói:

- Lúc anh lệnh đưa tổ hộc phá lên, từ lúc đó tôi lên với nó, bây giờ mới cho máy điện thoại lên được.

- Đang ở đâu?

- Tôi đã chiếm được mỏm B, đang ở lô cốt số 3.

Tôi nhắc Đồng Thoại:

- Bắt liên lạc ngay với Tam, tổ chức lùng sục thật kỹ, tiêu diệt, bắt sống không được để lọt một tên nào.

Trời đã hừng đông. Ánh sáng lan tỏa khắp rừng, soi rõ gương mặt của mọi người đang đứng ngồi kế bên tôi. Từ ánh mắt, tiếng cười tếu lây sang nhau một niềm vui, niềm vui mà từ lâu mọi người chờ đợi. Lần đầu tiên kể từ ngày đặt chân tới miền đất này trung đoàn 101 mới đánh một trận xứng với tầm vóc mình. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây Nguyên tiêu diệt căn cứ quận lỵ của địch, lúc này chúng tôi cũng chưa lường hết sức chấn động của nó.

Tiêu diệt đồn mới là một, còn một mục tiêu nữa là đánh quân cứu viện, mục tiêu này có phần quan trọng hơn. Chúng tôi động viên đơn vị kiên nhẫn mai phục chờ địch đến. Ba ngày đêm nữa ăn chực nằm chờ không thấy có dấu hiệu viện binh địch tới. Chúng sợ mắc kế “điện hồ ly sơn” nên đã bỏ rơi bọn địch trong đồn.

 4

Số lương thực thu ở Tu-mơ-rông không nhiều, vì địch tiếp tế hàng tuần nhưng cũng tạm đủ cho chúng tôi chuẩn bị đánh một trận nữa. Tôi và Minh Đức trao đổi với nhau: Củng cố nhanh lực lượng để đánh tiếp quận lỵ Đắc Tô. Một chủ trương khá táo bạo vì Đắc Tô nằm sát ngay căn cứ Tân Cảnh nơi trung đoàn 42 ngụy đồn trú.

Đắc Tô là quận lỵ lớn, đông dân trên trục đường 14 lại gần căn cứ Tân Cảnh gần đó cũng phải điều quân ứng cứu. Tôi sơ bộ lập phương án đánh rồi báo cáo về sở chỉ huy cơ bản. Phương án được duyệt ngay. Về sử dụng lực lượng chỉ gói gọn có trung đoàn 101. Dùng hai tiểu đoàn đánh chiếm quận lỵ, một tiểu đoàn mai phục đón đánh địch từ Tân Cảnh tới ứng cứu. Phương châm: đánh nhanh gọn trong đêm. Sau khi thống nhất mọi việc với anh Đức xong tôi nhận được điện phải ra ngay Bộ nhận nhiệm vụ mới. Ngày hôm sau tôi cùng đồng chí công vụ và hai vệ binh lên đường về B3 để ra Bắc. Khi chia tay với anh Đức tôi cảm thấy bịn rịn không muốn rời nhau vì chúng tôi sống với nhau rất hợp tính nết. Tôi biết anh sẽ vất vả với trận đánh sắp tới, nhưng tôi tin là anh sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang, Vì anh là một chính ủy vững vàng.

Thực tế diễn ra khá sát với dự tính. Trung đoàn 101 đã tiêu diệt gọn địch ở quận lỵ Đắc Tô trong một đêm (tiêu diệt và bắt sống khoảng 300 tên gồm hai đại đội bộ binh, một trung đội pháo 105, một trung đội cối). Tới mờ sáng trung đoàn 42 ngụy có cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy đưa quân đi ứng cứu dẫn nhau đúng vào trận địa mai phục của ta. Trận đánh diễn ra nhanh mạnh như giông bão, tiểu đoàn 101 đã diệt sở chỉ huy trung đoàn 42 (giết trung đoàn trưởng) và tiêu diệt gọn hai đại đội ngụy.

Trong vòng một tuần lễ ta đánh chiếm hai quận lỵ và một trận đánh viện thắng giòn giã. Cả ta và địch đều không thể ngờ tới hoặc không đánh giá hết được kết quả tiếp theo của những trận đánh, cái kết quả ấy có khi còn lớn hơn những thắng lợi tại chỗ, đó là: hệ thống ấp chiến lược xung quanh hai quận lỵ tự nó đồng loạt tan rã.

Sau chiến thắng Đắc Tô của ta, địch đoán biết có lực lượng quân chủ lực ở miền Bắc mới vào, chúng hành động dè dặt hơn. Các quận lỵ còn lại, chúng vội vàng tăng cường lực lượng. Hai đại đội biệt kích đặc biệt do Mỹ trực tiếp huấn luyện và chỉ huy được điều động đến Đắc Sút.

Trung đoàn 101 lui về Đắc Un chấn chỉnh tổ chức, bổ sung cơ sở vật chất chuẩn bị chiến đấu tiếp.

Vừa đặt chân tới Bộ tư lệnh B3 tôi lại nhận lệnh của Bộ ở lại vị trí cũ không ra Hà Nội nữa.

Tôi nhớ lại một loạt lệnh chuyển nhiệm vụ làm đảo lộn sự sắp xếp đời sống riêng của mình. Năm 1963 tôi được đi học nửa năm tiếng Nga, học xong đã làm hộ chiếu để chuẩn bị đi Liên Xô học quân sự ở Học viện Vô-rô-xi-lốp, lại có lệnh của Tổng cục Chính trị về ngay Hà Nội nhận nhiệm vụ mới. Về tới cái tổ ấm 12 mét vuông ở phố Lê Đại Hành đã thấy thiếu tướng Bằng Giang ngồi chờ ở đó. Vừa thấy tôi bước vào cửa tướng Bằng Giang nói ngay: “Anh không đi học nữa. Tôi đã trao đổi với Tổng cục Chính trị rồi. Anh sang làm nhiệm vụ ở Cánh Đồng Chum thôi…”. Rồi đến cuối năm hoàn thành nhiệm vu ở Cánh Đồng Chum (Lào) trở về Tổng cục Chính trị lại cắt đứt quân số ở Tây Bắc để sang Trung Quốc học quân sự. Chuyến “du học ở ngoại quốc” lần này tưởng như chắc bằng gạch, ấy thế mà đến giờ chót lại thay đổi.

Lệnh nào cũng vậy, “đi” hoặc “thôi không đi nữa” đối với tôi cũng được chấp hành như nhau, vui vẻ không thấy có gì phiền hà. Tai tôi dường như văng vẳng câu hát vui vẻ hơi hài hước của mấy bạn lính tình nguyện trẻ “lệnh trên truyền xuống... nhất nhất reo hò tiến lên”.

Thấy tôi nhận lệnh ở lại các anh trong Bộ tư lệnh B3 tỏ ra vui mừng. Có ai đó nói đùa: “có mấy con gà định liên hoan mừng chiến thắng và tiễn anh An, bây giờ không tiễn nữa mà mừng anh ở lại”.

Ở chiến trường này thật hiếm hoi mới được một bữa ngon miệng, no nê và vui vẻ như vậy. Vừa ăn các anh vừa kể một câu chuyện vui xảy ra hôm trước. Hai cậu lính công vụ người Tày (Cao Bằng) xin đi săn để cải thiện bữa ăn. Các cậu ấy ra rừng gặp một con hổ khá lớn đang ngủ say. Thật may mắn quá chừng! Hai cậu nấp vào gốc cây bàn xem nên bắn vào đâu cho chắc ăn. Một loạt đạn bắn ra, hổ không chết ngay mà hung dữ chồm lên lao tới. Các cậu cảnh vệ ba chân bốn cẳng bỏ chạy, về tới cơ quan mặt xám ngoét nói không ra hơi. Tưởng có chuyện gì thật nghiêm trong, một hồi lâu anh em trong cơ quan mới hiểu “con hồ đã bị thương, đuổi theo"” Nghe thủng câu chuyện, có cán bộ hô lên: Anh em toàn cơ quan nếu không đang bận việc gì, ra rừng tìm hổ. Thế là, người cầm chậu, người xách thùng theo sau hai cậu cảnh vệ, vừa đi vừa gõ râm ran rồi dàn thành hàng ngang để kiếm. Có lẽ con hổ dã chết ngay sau cú chồm theo mấy cậu công vụ, anh em đến đã thấy nó nằm nghiêng xoải thẳng bốn chân ra rồi.

Tôi ở lại đây cũng được ăn mấy bữa thịt hổ, bõ cả tháng ăn măng luộc chấm muối. Đặc biệt là được ăn món hổ bao tử ngon tuyệt trần.

Điều tội cảm nhận được rằng: niềm tin cậy lẫn nhau và tình cảm gắn bó trong Bộ tư lệnh chúng tôi hơn trước rõ rệt. Trong một cuộc họp bàn nhiệm vụ chiến đấu tiếp, tôi nêu ý kiến:

- Ở phía bắc Tây Nguyên địch có ba quận lỵ, ta đã diệt hai còn lại Đắc Sút (không kể Đắc Pét ở sâu hơn). Nếu chúng ta tiêu diệt Đắc Sút nữa, chắc chắn sẽ mở ra vùng giải phóng rộng lớn. Khả năng ấy vẫn còn nhiều điều kiện để trở thành hiện thực.

Chúng tôi gặp ý của nhau đánh Đắc Sút khó khăn nhiều hơn, nhưng vẫn còn nhiều khả năng giành phần thắng. Mọi người đều xoáy vào bàn thuận lợi, khó khăn và hiện pháp giải quyết, không có ý nào ngãng ra. Tôi lại được tập thể phân công trực tiếp nắm trung đoàn 101 chuẩn bị đánh Đắc Sút.

Với lực lượng một trung đoàn đã qua chiến đấu ba trận liên tục “diệt điểm” ở một quận lỵ để câu viện là một việc làm quá sức, nhưng không thể tập trung lớn hơn thế được, bởi thiếu lương thực. Vì vậy trong thời gian “101” đánh Đắc Sút, trung đoàn 320 phải đi về Lệ Thanh để đánh giao thông.

Tôi trở lại trung đoàn 101. Anh em thấy tôi đến, họ thì thầm với nhau “sắp có việc làm”. Đơn vị đã nghỉ ngơi củng cố được một tuần lễ. Tiếp xúc với một số cán bộ, chiến sĩ tôi thấy khí thế hăng hái và tinh thần kỷ luật của trung đoàn xứng đáng gửi gắm sự tin cậy. Chúng tôi bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị. Tôi cùng với các cán bộ cấp đại đội trở lên đi trinh sát theo hướng được phân công trên sa bàn từ ở nhà. Sau khi trinh sát về anh em bàn cách đánh trên sa bàn. Mọi người đều tỏ ra tin tưởng rằng “đánh được”.

Trận đánh của 101 diễn ra trong quận lỵ thuận lợi, khi phát triển đụng vào hai đại đội biệt kích do thiếu tá Mỹ chỉ huy ở phía dưới đồi, đã bị chúng chống lại quyết liệt. Mãi tới bốn giờ sáng ta vẫn chưa giải quyết xong. Tôi lệnh cho trung đoàn trưởng Hà Hữu Thừa trực tiếp đem theo hai khẩu ĐKZ và hai khẩu đại liên vào đồn tiêu diệt hỏa điểm địch cho bộ binh phát triển; ban chính trị trung đoàn phảivào cửa mở kiểm tra từng cáng thương, không được lấy quân số chiến đấu cáng thương, vận động thương binh nhẹ tự đi để duy trì lực lượng chiến đấu trong tưng thâm. Khoảng sáu giờ sáng mới dứt tiếng súng.

Địch sợ dùng quân bộ đi ứng cứu sẽ gặp quân mai phục của ta, chúng dùng trực thăng để đổ bộ. Khoảng 12 chiếc trực thăng vừa bay tới. Lẽ ra theo kế hoạch ta phải đánh đổ bộ đường không nhưng vì chưa giải quyết xong thương binh tử sĩ trong đêm nên tôi hạ lệnh bắn máy bay không cho địch hạ cánh. Gặp hỏa lực mạnh của ta, chúng vội vàng rút chạy. Kết quả ta chiếm được quận lỵ Đắc Sút, tiêu diệt và bắt sống toàn hộ địch.

Đúng như chúng tôi dự đoán: tất cả các ấp chiến lược tan rã hết. Vùng giải phóng của ta mở rộng từ đông sang tây mấy chục cây số tạo nhiều thuận lợi cho giao thông liên lạc giữa Tây Nguyên và khu 5.

Trước khi đánh Đắc Sút, tôi nhớ lại trận Tu-mơ-rông, Đắc Tô ta chiếm được đồn mà không sao lấy được mấy khẩu pháo 105 ly đi được, thật tiếc! Tôi biết rất rõ giá trị của một khẩu pháo, không phải là pháo 105 mà chỉ một khẩu ĐKZ khênh vác vào tới chiến trường này tốn công phu nhường nào, chưa kể giá trị tính bằng tiền, thật ra có tiền ở đây cũng không sao mua được. Nếu như sau này ta mở được đường sá, đánh lớn, hai khẩu 105 tác dụng không nhỏ. Tôi đã điện về sở chỉ huy cơ bản cho xin tám thợ pháo. Khi nhận được tin “chiếm được trận địa pháo” tôi cho số thợ pháo vào lập tức tháo mỗi khẩu rời từng bộ phận, rồi huy động lực lượng khênh vác, chôn giấu ở ngoài quận lỵ. Ít ngày sau Bộ tư lệnh Mặt trận đã dùng hai tiểu đoàn do tiểu đoàn trưởng Đống Thoại chỉ huy khênh vác hai khẩu pháo ấy tới sát biên giới Cam-pu-chia.

5

Sau trận Đắc Sút, trung đoàn 101 tiếp tục tiêu diệt mấy đồn lẻ.

Phản ứng với thất bại liên tiếp vừa qua, quân ngụy mở cuộc hành quân lấy tên “Quyết thắng – 129” (23-3 - 11-4) với những lực lượng sừng sỏ hòng đẩy chủ lực ta ra xa khu vực tác chiến. Cuộc hành quân xuất phát từ Tân Cảnh. Trung đoàn 42 sư đoàn 22 tiến theo trục đường 14 rồi mở rộng càn quét ra hai bên đường. Tiểu đoàn biệt động quân 21 tiến theo sống núi Ngọc Dơ Lang, Ngọc Bia, Ngọc-chăm-pút tới núi Cơn. Tiểu đoàn 3 (trung đoàn 40) án ngữ ở Pô Cô.

Địch biết ta ở phía tây đường 14.

Ý định của chúng, khi tiểu đoàn 21đã đến núi Cơn, trung đoàn 42 sẽ đánh từ ấp chiến lược Đấc-lai-pui lên sẽ tạo thành vòng vây vây chặt trung đoàn 101.

Chủ trương của ta: kiềm chế thật chặt trung đoàn 42, tập trung lực lượng tiêu diệt tiểu đoàn biệt động quân 21.

Ngay ngày đầu ra quân (23-3) trung đoàn 42 đã phải giao chiến và thiệt hại khá nặng làm cho tiến trình hành quân chậm lại .

Chúng tôi biết địch hành quân bao giờ cũng sục sạo rất kỹ, nếu phát giác có lực lượng phục kích chúng phản phục kích hoặc né tránh rồi dùng hỏa lực tiêu hao ta. Tôi nhớ lại vài trận phục kích từ thời đánh Pháp, điển hình là trận Bông Lau - Lũng Phầy trên đường số 4. Lúc đó tôi là tiểu đoàn trưởng. Tiểu đoàn tôi là lực lượng xung kích chủ yếu. Trận địa phục kích của chúng tôi cách xa đường hành quân của địch khoảng gần một cây số. Qua đài quan sát, biết địch đã lọt vào trận địa, đội hình của tiểu đoàn tôi chuyển dịch dần lên theo tốc độ của đoàn xe địch. Chưa bao giờ phục kích lại mang theo cả sơn pháo 75 ly để yểm hộ. Thế mà chúng tôi vẫn giữ được bí mật. Vào tầm hỏa lực chúng tôi nổ súng xung phong, bọn địch bị bất ngờ đội hình rối loạn. Riêng tiểu đoàn tôi đánh chiếm được 54 xe vũ khí, quân trang, lương thực trang bị cho một trung đoàn. Cách đánh ấy tránh được sự sục sạo phát giác của địch, giữ được thế bất ngờ cho tới khi nổ súng.

Tôi vận dụng những kinh nghiệm cũ vào trận đánh này. Chờ cho tiểu đoàn biệt động quân 21 lọt vào khu vực chúng tôi lựa chọn trước, lúc đó trung đoàn 101 (thiếu một tiểu đoàn) từ xa khoảng gần hai cây số vận động tới. Trời hôm đó mưa lớn, đội hình quân ta vào sát địch trong tầm bắn gần, chúng vẫn cắm cúi đi. Tiếng thét “xung phong” và tiếng đạn nổ thình lình như trời giáng làm cho chúng phải hoảng loạn không biết đâu mà đối phó. Khi chúng nhận thức được cái gì vừa xảy ra thì tổ chức chỉ huy đã bị rối loạn.

Tiểu đoàn biệt động quân 21 là đơn vị chọn lựa những tên khát máu và được huấn luyện khá tốt. Khi lấy lại được bình tĩnh chúng tỏ ra ngoan cố lỳ lợm, trận đánh chuyển sang trạng thái quyết liệt. Đôi bén dùng lưỡi lê, lựu đạn, thậm chí vật lộn. Kéo dài từ sáng đến trưa hai tiểu đoàn của “101” mới tiêu diệt gọn được tiểu đoàn biệt động quân ngụy 21.

Trong quá trình trận đánh, địch cho máy bay phản lực bắn phá xung quanh để uy hiếp tinh thần quân ta và cho máy bay lên thẳng xuống lấy xác chết. Trời mù, có chiếc máy bay lên thẳng húc cả vào ngọn cây rơi xuống.

Buổi chiều hôm đó tôi đến hiện trường, còn thấy hàng trăm xác chết đã gói trong túi ni lông, chúng không lấy kịp.

Thế là chỉ trong vòng một tháng, trung đoàn 101 đã đụng đầu với đủ loại quân ngụy: bảo an đồn trú, bộ binh cơ động, biệt động quân cơ động, biệt động đặc biệt do Mỹ huấn luyện và chỉ huy, quân dù dự bị chiến lược... và tất cả loại quân - nơi hy vọng nhiều nhất của Mỹ - ngụy đặt ở đó đều chịu thất bại cay đắng và tỏ rõ chúng không đủ sức đương đầu với quân chủ lực của ta. Cũng trong vòng một tháng ấy kế hoạch chiến lược "bình định" của Mỹ - ngụy phải tốn bao nhiêu công của xây dựng đã đồng loạt sụp đổ. Cũng trong vòng một tháng ấy, các loại chiến thuật “trên đe dưới búa”, “phượng hoàng vồ mồi” được chúng coi như bửu bối cũng mất thiêng luôn.

II

PLÂY-ME - IA-ĐRĂNG NƠI ĐỤNG ĐẦU QUÂN MỸ

Trận chiến từ cuối năm 1964 đến đầu năm 1965 nhìn rộng ra chiến trường toàn miền Nam ta thấy: quân giải phóng đang ở thế mạnh, thế áp đảo, thế thắng và đang trên đà phát triển, ngược lại quân ngụy đang bị áp đảo, đang ở thế thua khó bế gượng dậy nổi.

Mùa thu 1964 phong trào đồng khởi được vũ trang hỗ trợ của Liên khu 5 đã phá tan hàng nghìn ấp chiến lược, giải phóng hàng trăm xã. Có nhiều vùng 15 đến 20 xã liên hoàn dân làm chủ sát đường số 1 nối với căn cứ miền núi, tạo thế cho lực lượng vũ trang chủ lực đứng chân. Tháng 12 năm 1964 trung đoàn bộ binh 2, tiểu đoàn đặc công 409 đồng loạt tiến đánh ba cứ điểm và 11 đồn bốt hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá 38 ấp chiến lược, huyện An Lão hoàn toàn giải phóng. Tiếp đến chiến dịch Ba Gia (hè 1965) trung đoàn 1 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương dưới sự chỉ huy của Bộ tư lệnh Liên khu 5 đã vận dụng nhiều cách đánh diệt 5 tiểu đoàn chủ lực ngụy, hỗ trợ nhân dân các xã của các huyện Sơn Tịnh, Bình Sơn, Trà Bông, Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Đức Phổ nổi dậy giành quyền làm chủ, giải phóng gần 20 vạn dân. Đây cũng là lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam quân ta tiêu diệt chiến đoàn - đơn vị ứng chiến lớn nhất của quân ngụy.

Tại chiến trường Nam Bộ, lần đầu tiên quân ta mở chiến dịch với quy mô tương đối lớn ở nơi xa căn cứ. Chiến dịch Bình Giã (Bà Rịa) từ ngày 2 tháng 12 năm 1964 đến ngày 3 tháng 1 năm 1965 đánh nhiều trận cấp trung đoàn, tiêu diệt gọn hai tiểu đoàn chủ lực ngụy và một chi đoàn xe bọc thép; diệt 7 đại đội bảo an, làm tan rã hầu hết các ấp chiến lược trong khu vực chiến dịch trên ba huyện Long Thành, Đất Đỏ, Nhơn Trạch... Đáng lưu ý là một trong hai tiểu đoàn ngụy bị tiêu diệt nằm trong lực lượng dự bị chiến lược.

Những chiến dịch thắng lớn liên tiếp của bộ đội chủ lực ở Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài hỗ trợ mạnh cho các cao trào nồi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng và miền núi, phong trào đấu tranh ở đô thị dâng cao làm cho ba chỗ dựa chủ yếu của đế quốc Mỹ trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” (*Nghị quyết Hội nghi lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3 năm 1965.) bị sụp đổ hoặc lung lay mạnh khiến trong một thời gian ngắn đã có nhiều nhân vật trọng yếu của Hoa Kỳ qua lại như con thoi để kiểm tra tình hình Nam Việt Nam. Sau chuyến đi Mắc Na-ma-ra bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã thú nhận “Mỹ đã thất bại quân sự ở Nam Việt Nam”, còn tướng Oét-mo-len thì nói cụ thể hơn: “Nếu tình hình tiếp tục phát triển theo chiều hướng này, chính phủ Việt Nam cộng hòa (ngụy) không thể tồn tại được trong vòng sáu tháng...”.

Tình hình ấy nếu không chịu bỏ cuộc, đế quốc Mỹ chi còn một cách lựa chọn là đưa quân ồ ạt vào miền Nam mở rộng cuộc chiến tranh, tức là buộc Mỹ phải tự làm lấy cuộc chiến tranh cửa mình, phương thức chiến tranh mà đế quốc Mỹ hoàn toàn không muốn lựa chọn.

Tháng 7 năm 1965 Giôn-xơn chấp nhận chiến lược “tìm diệt” và kế hoạch ba giai đoạn (*Giai đoạn 1: ngăn chặn chiều hướng thua của quân ngụy.

Giai đoạn 2: mở rộng cuộc chiến tranh trong 6 tháng đầu năm 1966 ở các vùng đặc biệt ưu tiên để diệt lực lượng đối phương và tổ chức lại các hoạt động xây dựng nông thôn.

Giai đoạn 3: nếu đối phương ngoan cố, cần đến một năm rưỡi tiếp sau giai đoạn 2 để đánh bại và tiêu diệt các lực lượng còn lại của đối phương ở các khu căn cứ.) của tướng Oét-mo-len, dùng quân Mỹ là lực lượng chủ yếu để “đánh gãy xương sống của Việt cộng” và là chỗ dựa của quân ngụy. Cho tới cuối tháng 12 năm 1965 lực lượng quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam đã lên tới 18 vạn quân.

Oét-mo-len tư lệnh lực lượng Mỹ ở miền Nam coi mối đe dọa trước mắt nghiêm trọng là cao nguyên miền Trung. Do đó lính Mỹ và chư hầu bố trí ở Khu 5 tới 13 vạn tên, gồm hai sư đoàn thủy quân lục chiến ở Đà Nẵng, Chu Lai, Phú Bài, lữ dù 101, và một sư đoàn “Đại Hàn” đóng ở Quy Nhơn, Cam Ranh; sư đoàn không vận 1 và lữ 3 của sư đoàn 25 ở An Khê (Plây Cu).

Những tin tức về quân Mỹ vào miền Nam không hề gây chấn động, không hề gây sự ngập ngừng bước tiến mà chúng tôi đã đạt được ở chiến trường. Chúng tôi vẫn tiếp tục đánh quân ngụy theo cách đánh truyền thống của mình.

Lúc Mỹ vào đóng ở An Khê, trung đoàn 33 (*Sau trận sắc Sút trung đoàn 101 vào B2. trung đoàn 33 mới vào lấy phiên hiệu là 101B.) đang làm nhiệm vụ vây đồn Plây-me để dụ viện binh của địch tới mà đánh.

Plây-me là một đồn lẻ chừng một đại đội trấn giữ ở một vị trí trọng yếu; phía bắc là đường 19B nối Đức Cơ với đầu phía đông là thị xã Plây Cu; phía đông là quốc lộ 14 từ Plây Cu xuống quận lỵ Phú Nhơn đi Buôn Ma Thuột.

Dựa vào địa hình và tình hình địch lúc đó chúng tôi phán đoán, gần như chắc chắn, địch sẽ đưa quân vào giải tỏa cho Plây-me. Quả là như vậy. Sau mười ngày bao vây Plây-me một chiến đoàn ngụy mới dẫn thân vào trận địa ta mai phục, bị trung đoàn 320 của ta đánh thiệt hại nặng mà vẫn không giải tỏa được Plây-me.

Sau đợt đánh ngụy, trung đoàn 33 rút về căn cứ cách Plây-me khoảng mười cây số về phía tây.

Hành động của trung đoàn 33 và 320 ở Plây-me trở thành mối uy hiếp nặng nề đường 14. Quân chủ bài của quân ngụy đã bị vô hiệu không còn lực lượng nào có thể giải nguy cho Plây-me, buộc quân Mỹ phải xuất hiện.

Mấy ngày đó bầu trời Tây Nguyên lúc nào cũng ầm ĩ tiếng bom, tiếng máy bay suốt ngày đêm không lúc nào ngớt. Sư đoàn kỵ binh bay Mỹ đang hung hăng thực hiện chiến lược “tìm diệt”. Chúng đổ bộ xuống nam sông Ia-đrăng một tiểu đoàn, đổ xuống cạnh điểm cao 732 một tiểu đoàn, xuống cách Ia-mơ năm ki-lô-mét, đồng thời lữ dù Mỹ hành quân cơ giới đến Đức Cơ triển khai trên đường 19 kéo dài.

Anh Chu Huy Mân chính ủy, anh Đặng Vũ Hiệp chủ nhiệm chính trị và tôi ở sở chỉ huy cơ bản đang chỉ huy chuẩn bị cho đợt 2 hoạt động đánh mục tiêu ở gần Plây-me. Nhận được tin liên tiếp từ các hướng báo cáo về, Mỹ đã đổ quân, chúng tôi cho lệnh đình lại việc đánh Chư Ho.

Đảng ủy Mặt trận B3 chúng tôi họp khẩn cấp đánh giá tình hình và có chủ trương mới. Cuộc họp thống nhất đại ý rằng: Lữ kỵ binh bay số 3 Mỹ thực hiện chiến thuật “cóc nhảy” vào hậu phương ta hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta. Chúng ta đang nhử địch ra để diệt, Mỹ tự nhảy ra như vậy là đúng ý định của ta, ta có cơ hội để chuyển sang diệt Mỹ. Chúng ta cố gắng thu hút địch về phía tây nam Tây Nguyên để phối hợp với chiến trường Liên khu 5 và các chiến trường khác. Chỉ tiêu đợt hoạt động này: diệt gọn một, hai tiểu đoàn ngụy và một đến hai đại đội Mỹ.

Phương châm tác chiến (do ta chưa nắm chắc các hoạt động của địch): ta phải đánh từ nhỏ đến vừa tiêu diệt gọn một bộ phận, tích cực bắn rơi nhiều máy bay địch. Đội hình bố trí theo chiều sâu, nếu địch thọc sâu ta có thể bao vây tiêu diệt. Đánh quân đổ bộ đường không đồng thời đánh quân đường bộ.

Không khí trong cuộc họp cũng như khắp cơ quan Bộ tư lệnh B3 đều náo nức tự hào và tin tưởng: mình sớm trực tiếp đụng đầu với quân Mỹ so với các chiến trường khác, sau một vài trận mình sẽ rút được kinh nghiệm, tin rằng sẽ thắng Mỹ như đã thắng ngụy.

Ngay từ khi nhận được tin Mỹ vào chiến trường này không phải trong đầu mọi người không có gì thắc mắc, trái lại có nhiều là khác, nhưng có thể quy mọi thắc mắc vào một câu hỏi “đánh Mỹ như thế nào?”. Đúng vậy, anh em cán bộ chiến sĩ của Tây Nguyên lúc đó tập trung theo một hướng “Đánh Mỹ như thế nào?” không hề có hơi thở hoảng sợ dù là len lỏi. Chính vì vậy câu giải thích giản dị của chính ủy Chu Huy Mân: “Ta chưa có kinh nghiệm chiến đấu với quân Mỹ thì quyết tâm của ta vừa đánh vừa rút kinh nghiệm. Đánh đi rồi sẽ biết” đã được toàn quân ở Tây Nguyên tiếp nhận dễ dàng.

Tôi nhớ mãi cuộc họp lịch sử ấy (13-11-1965). Cuộc họp gói gọn khoảng hai tiếng đồng hồ. Ý kiến của các cử tọa sôi nổi không giây phút nào ngưng nghỉ, vào sát phút cuối có ý kiến “cứ đánh đi, nếu địch co cụm cũng đánh, cơ động cũng đánh, nếu đổ tiếp nữa cũng đánh, vừa đánh ta vừa tìm hiểu địch và rút kinh nghiệm, bàn mãi mất thời giờ”.

Tôi và anh Đặng Vũ Hiệp được phân công lập sở chi huy nhẹ để trực tiếp chỉ huy các trung đoàn 320, 66 và 33 (101B) tác chiến. Số người của sở chỉ huy nhẹ gồm một tiểu đội trinh sát trung đội công binh, một tổ điện đài và vài sĩ quan tham mưu... tất cả hơn ba chục người. Sáng 14 tháng 11 chúng tôi hành quân về phía dãy núi Chư Pông. Trên lối mòn còn lại nhiều vũng bùn, nước của trận mưa lớn từ mấy hôm trước.

Thỉnh thoảng gặp vài chiến sĩ vận tải, hậu cần, cáng thương đi ngược chiều hoặc ở trong rừng ra, chúng tôi hỏi và được biết thêm một số tin tức cụ thể hơn.

Ngày 10 tháng 11 quân Mỹ tập trung ở Bầu Cạn.

Ngày 11 tháng 11 tiểu đoàn 952 tập kích vào Mỹ ở Bầu Cạn phá 10 máy bay trực thăng và làm địch thương vong 200 tên

Ngày 14 tháng 11 tiểu đoàn 1 (lữ 3 kỵ binh bay) đổ bộ xuống đông bắc Chư Pông 3 ki-lô-mét, cách tiểu đoàn 9 (trung đoàn 66) của ta 200 mét. Cùng ngày chúng đổ hai tiểu đoàn (thiếu một đại đội), một đại đội pháo xuống tây nam Quynh-cơ-la 2 ki-lô-mét, và một trận địa pháo ở đường 19 kéo dài.

Đến gần trưa chúng tôi dừng lại trên sườn nam núi Chư Pông. Tôi đang đứng chống gậy, mải ngắm nghía địa hình xung quanh không để ý gì khác, bỗng Đồng Thoại nằm xuống giật chân tôi, cùng lúc đó một tràng bom nổ như sấm sét chạy qua chỗ chúng tôi.

Tôi nói vui với Đồng Thoại:

- Đứng hay nằm ở đây cũng là ăn may thôi.

Mắt tôi vẫn dõi theo những đám khói xám đang tan để lại một vệt dài dọc theo sườn núi những cây cối đổ ngang ngửa. Từ hồi còn ở ngoài miền Bắc tôi đã đọc nhiều tài liệu tham khảo về nền quân sự Hoa Kỳ, bây giờ tận mắt nhìn thấy và đang đụng đầu với nó. Một chiếc B.52 chở được 25 tấn bom, riêng ngày hôm nay chúng dùng 24 chiếc nối đuôi nhau quần xung quanh khu vực Chư Pông này. Tôi suy nghĩ về đối tượng tác chiến mới là một đội quân được trang bị rất mạnh, rất hiện đại mà đứng trước đối thủ là một đội quân “đói ăn” trang bị lạc hậu như vậy thì sự chủ quan “trong một thời gian ngắn sẽ đánh gãy xương sống Việt cộng” và việc đổ bộ ào ạt hiện nay để “cất vó” chủ lực của Tây Nguyên là điều dễ hiểu. Tôi ra lệnh dừng lạl khu vực địch vừa ném bom B.52 xong để nắm địch, nắm ta và chỉ huy trận đánh.

Mãi tới chiều hôm ấy tôi mới gặp cán bộ chi huy trung đoàn 66 - anh Lã Ngọc Châu chính ủy trung đoàn. Châu cho biết đội hình trung đoàn bị địch chia cắt chưa liên lạc được, anh chỉ nắm được tiểu đoàn 7 và tình hình địch ở gần tiểu đoàn 7.

Nắm được tình hình địch, tình hình ta qua chính ủy Châu và báo cáo của trinh sát, chúng tôi biết bọn địch đứng sát tiểu đoàn 7 là tiểu đoàn 1 (thiếu) thuộc lữ 3 kỵ binh bay. Tôi và anh Đặng Vũ Hiệp chính ủy sở chỉ huy tiền phương hội ý chớp nhoáng quyết định dùng tiểu đoàn 7 cơ động nhanh đánh vào tiểu đoàn 1 Mỹ.

Nghe tôi phổ biến nhiệm vụ xong, Châu báo cáo:

- Thời gian như vậy gấp quá, vị trí địch tôi sẽ tổ chức nắm nhưng làm sao kịp phổ biến kế hoạch cho anh em để có thể đánh trong đêm.

Tôi nói:

- Khi hành quân tiến vào vị trí tập kết, anh gọi cán bộ đại đội đi gần anh, vừa đi anh vừa phổ biến nhiệm vụ, cách đánh cho cán bộ đại đội và tiểu đoàn, vào tới chỗ tập kết để bộ đội tập kết phía sau còn tất cả cán bộ đại đội, tiểu đoàn đi trinh sát và hiệp đồng ở thực địa. Địch vừa đi đổ xuống còn chân ướt chân ráo ta đánh ngay sẽ giành được yếu tố bất ngờ.

Tiểu đoàn 7 đã nổ súng tập kích địch từ năm giờ rưỡi sáng 15 tháng 11. Khoảng 15 phút đầu địch hỗn loạn nhưng sau đó chống trả quyết liệt. Chúng tôi nghe khá rõ tiếng súng liên thanh, lựu đạn nổ dữ dội. Trên bầu trời kể cả ngày lẫn đêm không phút nào vắng sự gào thét của các loại máy bay, đây đó tiếng bom lấn át mọi âm thanh khác. Những chiếc C.130 bay lượn trên bầu trời ban đêm thả những chiếc pháo sáng soi rõ từng ngọn cỏ lối đi. Có chiến sĩ nói chơi: “Thằng Mỹ tốt thật, nó đang soi đèn cho chúng ta đi đấy”. Không gian chiến trường tưởng như trong nồi hơi, khí nén đã quá mức, lại còn tiếp tục dồn nén. Đầu óc, cơ thể mọi người dù chỉ là ngồi một chỗ cũng thấy căng thẳng như sợi dây đàn.

Tiểu đoàn 7 tiếp tục tiến công địch. Khoảng 12 giờ máy bay địch tới bắn phá, thả bom na-pan trùm cả lên đội hình của quân Mỹ (* Tháng 10 năm 1993 khi trở lại thung lũng chết, trung tướng Ha-rôn Mua (Harold Moore) đã chỉ cho tôi nơi ông ta và tiểu đoàn bộ của ông bị 2 quả bom na-pan ném trúng và cảnh lính Mỹ giống như những bó đuốc sống vừa chạy vừa la thất thanh). Tiểu đoàn 7 để lại một đại đội làm nhiệm vụ bao vây không chế không cho địch rút chạy hoặc cơ động đi nơi khác. Số còn lại tạm rời trận địa lui lại phía sau để chấn chính đội hình.

Sau một hồi lâu bắn phá, địch đổ bộ thêm một đai đội còn lại của tiểu đoàn 1.

Ở sở chỉ huy tiền phương chúng tôi lúc này nắm được tình hình chắc hơn. Dưới trung đoàn 66 cho biết: tiểu đoàn 9 đã liên lạc được với tiểu đoàn 7. Như vậy tương quan lực lượng trong khu vực nhỏ này, mỗi bên có hai tiểu đoàn, nếu tính số lượng quân Mỹ trội hơn, chưa kể hai đai đội pháo và không quân chi viện.

Tối 15 tôi lệnh cho chính ủy Lã Ngọc Châu (trung đoàn trưởng đi lạc chưa về) nhanh chóng củng cố lực lượng, cố gắng tập kích ở tọa độ X vào sáng ngày 16. Cùng thời điểm đó tôi cử Đồng Thoại trợ lý tác chiến đi bắt liên lạc với trung đoàn 33, gặp được tiểu đoàn nào thì giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn ấy tập kích vào hai trận địa pháo ở Quynh-cơ-la để phối hợp với trung đoàn 66.

Một mặt cho một tốp trinh sát đem lệnh cho tiểu đoàn 8 (trung đoàn 66) nhanh chóng quay về đường cũ, sẵn sàng đánh địch đang hành quân ngược về phía tiểu đoàn 8.

Tiểu đoàn 7 đã nổ súng khoảng 3 giờ sáng 17 tháng 11. Sau ít phút chiến đấu quyết liệt tiểu đoàn 7 đã đánh trúng tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 1 và đánh thiệt hại nặng đại đội A và đại đội B quân Mỹ. Tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 bị lạc đường không thực hiện được ý định đánh vào trận địa pháo.

Thấy tiểu đoàn 1 có nguy cơ bị tiêu diệt, lữ 3 kỵ binh bay hạ lệnh cho số còn lại hành quân bộ chạy về phía tây Ia-mơ co cụm ở gần trận địa pháo chờ lệnh.

Tôi ra lệnh cho các đơn vị (tiểu đoàn 1 trung đoàn 33) để khỏi bị lạc đường phải liên tục đánh địch cả ban ngày và ban đêm; gặp địch là khẩn trương tổ chức đánh ngay bám thắt lưng địch mà đánh.

Trưa ngày 17 tiểu đoàn 8 (trung đoàn 66) nhận được lệnh hành quân quay lại, đang nghỉ ăn cơm dọc sông Ia-đrăng thì có tin của trinh sát báo cáo: “quân Mỹ đang tới gần”. Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi bình tĩnh đôn đốc tiểu đoàn nhanh chóng triển khai đội hình chiếm trận địa có lợi trước mặt và hai bên, hình thành thế bao vây ép địch vào giữa hai gọng kìm của tiểu đoàn. Sau khi dùng hỏa lực súng cối chế áp ngắm vào đội hình địch, quân ta dũng cảm đồng loạt xung phong chia cắt đội hình và đánh giáp lá cà với địch. Cả đôi bên lúc này đội hình xen kẽ nhau đến độ chỉ cho phép dùng tiểu liên bắn găm, dùng lưỡi lê, lựu đạn mà chiến đấu.

Nhà báo Gan-lâu Uây (Gallo Way) đã miêu tả trận đánh: “ Khi các khẩu súng cối của họ phát hỏa, quân chính quy Bắc Việt Nam đang vận động dọc theo đội hình quân Mỹ, lập tức quay vòng lại và tiến công. Ở trung tâm của đội hình, đại đội Sác-li (Charlie) phải chịu hậu quả tồi tệ nhất, bị chết 20 và bị thương một số còn đông hơn thế ngay từ phút đầu tiên. Một số quân ta bắn như điên như dại về tứ phía và có đại đội khác đã phàn nàn là họ đã bị bắn bởi chính hỏa lực của quân mình”.

“Mãi đến lúc này, khi quân Bắc Việt Nam đang tăng cường sức ép tiến công mà Mắc Đết (Mc Dade) tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 lữ 3 Mỹ vẫn còn ngộ nhận tin rằng sự việc đang diễn ra chính là do quân Mỹ bắn loạn xạ vào nhau... Trung úy Slau-ren Guyn (Slawrence Gwin) đã viết kể lại là Mắc Đết đã gọi điện đài lệnh cho các đơn vị ngừng bắn. Tình hình đã xấu lại trở nên xấu hơn. Đến bây giờ quân Bắc Việt Nam đã có mặt ngay trong hàng ngũ quân Mỹ và trên các ngọn cây cao. Bất cứ ai vận động lên đều bị bắn chết. Thiếu tá Hen-ry và trắc thủ pháo binh đã cố gắng dùng điện đài của họ để gọi pháo binh và không quân chi viện. Điều này đã làm giảm bớt sự chết chóc, nhưng với đội hình kéo dài hơn 100 yard giữa bãi cỏ cao rậm thì các quả đạn pháo và na-pan sát thương quân Bắc Việt Nam đồng thời cũng sát thương cả người Mỹ. Đơn vị đi đầu, đại đội An-pha phân tán rải ra trải khắp đoạn rìa của khu vực phát quang trước khi bị tiến công đã bị mất đúng hai trung đội, 50 người trong những phút đầu. Đến lúc rút ra khỏi khu vực An-ba-ny này, nó chỉ còn lại 20 người trong tổng số 160 người. Đại đội Sác-li lúc tập hợp ở khu vực “tia X” để hành quân có 110 người thì lúc này đã bị chết 50 và bị thương 50”...

Nhận được lệnh của tôi, trung đoàn 33 đã cho một tiểu đoàn hành quân cấp tốc ngược về phía Chư Pông. Trên đường hành quân tiểu đoàn 1 (trung đoàn 33) nghe thấy tiếng súng nổ phía trước mặt, biết chắc chắn quân ta đang chặn đánh địch, không ai bảo ai họ cế gắng vượt lên nhanh. Tới gần sát địch, một đại đội của tiểu đoàn 1 gặp địch đang chạy lui về phía Chư Pông. Thế là hai đơn vị phối hợp đánh mạnh vào sau lưng tiểu đoàn Mỹ. Sự hiệp đồng tuyệt đẹp của cả hai tiểu đoàn, khiến đội hình quân Mỹ đang rối ren, nhanh chóng bị quân ta tiêu diệt.

Trận đánh kéo dài suốt 14 giờ ngày 17 đến 20 giờ ngày 18 mới kết thúc. Theo nhà báo Gan-lâu Uây đi theo hai tiểu đoàn 1 và 2 lữ đoàn 3 quân Mỹ thì tiểu đoàn 2 bị giết 155 người, 125 người bị thương và 5 bị mất tích. Như vậy trong 3 tiếng đồng hồ tiểu đoàn 2 quân Mỹ đã mất 285 người trong tổng số 400, mặc dầu con số này còn xa sự thật. Ngay đại tướng Oét-mo-len cũng phải thừa nhận đây là một tổn thất rất nghiêm trọng.

Trong ngày 18 địch vội vã điều động lực lượng tới nhiều nơi hy vọng sẽ giảm nhẹ sự nguy kịch của tiểu đoàn 2 kỵ binh bay đang có nguy cơ bị tiêu diệt.

Ở Quynh-cơ-la địch đổ thêm tiểu đoàn 3 và 2 đại đội pháo.

Hai trung đoàn dù ngụy nằm trong lực lượng tổng dự bị tức tốc được điều từ Sài Gòn tới cùng với một tiểu đoàn Mỹ hành quân bằng ô tô rồi tiến vào hướng đông nam Đức Cơ bắc dãy núi Chư Pông để yểm trợ phía sau đồng thời cố tạo ra một áp lực giả tạo làm thuốc an thần cho quân Mỹ. Rất tiếc trung đoàn 320 ở hướng đó chỉ đánh tiêu hao, không diệt gọn được tiểu đoàn Mỹ nào.

Ngày 19, hàng chục máy bay tới ném bom bắn phá hồi lâu xung quanh Qynh-cơ-la, rồi cho trực thăng xuống bốc toàn bộ số quân còn lại về Bầu Cạn. Cuộc hành quân lần đầu tiên của quân Mỹ vào Tây Nguyên đã kết thúc bi thảm.

Kết quả cuối cùng ta đã giành được thắng lợi to lớn vượt xa dự kiến ban đầu, khoảng 1.200 tên Mỹ bị thương vong, ta tiêu diệt tiểu đoàn 1 và 2 của lữ đoàn 3 kỵ binh bay, tiêu hao nặng tiểu đoàn 3 và một số đại đội, bắn rơi 26 máy bay và thu nhiều súng đạn.

Trận đánh ở Ia-đrăng đã làm chấn động đến toàn nước Mỹ, báo hiệu sự thất bại không thể tránh được của quân đội viễn chinh Mỹ. Tôi xin mượn câu nói của nhà báo Mỹ Gan-lâu Uây viết cho Tuần tin tức Mỹ sau đây: “Trận chiến đấu ở thung lũng Ia-đrăng đã làm cho nước Mỹ suy thoái vào một thập kỷ sa lầy dẫm máu, đã dẫn 58.000 người Mỹ vào những chiếc quan tài bằng nhôm sáng bóng do quân đội sản xuất, đã làm hỏng một đời tổng thống, đã mang lại vết nhơ sâu sắc cho các đời tổng thống khác và đẩy cả dân tộc đến chỗ đối lập với chính bản thân mình” và “bài học ở Ia-đrăng người Mỹ còn phải học đi học lại đến 550.000 lần trong một năm và hàng năm”. Đó là giai đoạn mở đầu của sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ. Khi Mỹ kết thúc chiến tranh Việt Nam sư đoàn kỵ binh bay số 1 đã bi ổn thất tới 30.000 người chết và bị thương, gấp hơn hai lần quân số biên chế của sư đoàn”.

Năm sáu ngày đêm liền lúc nào cũng có tiếng máy bay, tiếng bom đạn nổ, mặt khác chúng tôi phải liên tục xử trí với những tình huống khẩn trương, nên ở sở chỉ huy tiền phương hầu như không có ai chợp mắt nổi vài giờ. Từ người chỉ huy đến anh bình nhì đều phải làm việc với cường độ cao nhất: trinh sát đi bám địch, trợ lý tham mưu xuống đơn vị tổ chức hợp đồng, thông tin tự đi móc nối với những đơn vị mất liên lạc... Không ít tình huống mệt mỏi căng thẳng như sĩ quan được phái đi bắt liên lạc với tiểu đoàn 8, đi biệt tăm không có tin tức trở về; như tin của trung đoàn 33 báo cáo: tiểu đoàn 1 cho đi tập kích trận địa pháo đã bị lạc đường, trong lúc đó bốn trận địa pháo của địch vẫn thả sức bắn phá về phía ta không có ai kiềm chế... Tuy căng thẳng, phức tạp vất vả dường ấy nhưng sở chỉ huy tiền phương chúng tôi vẫn lần lượt nắm vững sự tổ chức chỉ huy xuống các đơn vị.

*

Sở chỉ huy cơ bản của B3 vẫn liên lạc chặt chẽ với sở chỉ huy tiền phương bằng vô tuyến điện. Biết chúng tôi đã nắm được cả hai trung đoàn 66 và 33 các anh yên tâm, luôn động viên cổ vũ nhắc nhở ý nghĩa quan trọng của trận đánh và phải kiên quyết đánh thắng.

Khi chúng tôi ra trận lần này từ người chỉ huy cao nhất đến người lính đều mang theo mình câu hỏi “Đánh Mỹ như thế nào?” và mỗi người đều phải tự tìm lời giải đáp. Anh Chu Huy Mân gặp một số chiến sĩ từ trận đánh trở về, anh hỏi:

- Các cậu thấy đánh Mỹ có đặc điểm gì?

Anh em không nhận ra vị tướng của mình, vì anh không đeo quân hàm và không ai giới thiệu nên họ nói năng thoải mái. Một chiến sĩ nói:

- Đánh nhau với bọn bộ binh Mỹ cũng dễ thôi, nhưng mẹ nó, nó lắm máy bay, lắm bom, lắm pháo quá, không lúc nào ngớt, nhức đầu nhức óc.

Nhìn chung cả hai mặt trận đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, nổi bật là trung đoàn 66. Trong trung đoàn có tiểu đoàn 7 và 8 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cả hai tiểu đoàn gặp địch chủ động đánh ngay, đánh liên tục bằng các hình thức tập kích vận động tiến công, bắn máy bay. Các cán bộ hết sức chủ động linh hoạt, anh Lã Ngọc Châu là chính ủy trung đoàn giỏi, đã chỉ huy đơn vị như một trung đoàn trưởng thực thụ, trong trận đánh không có thời gian chuẩn bị đã vừa hành quân vừa giao nhiệm vụ.

Suy nghĩ về cách đánh Mỹ như thế nào, chúng trôi thấy câu trả lời đơn giản của chiến sĩ nói trên có phần đúng, nếu như ta tạm gác phần “hỏa lực mạnh” ra thì đánh Mỹ chẳng khác đánh ngụy là bao, thì ta sẽ thắng Mỹ như ta đã thắng ngụy.

Từ trận đầu đánh Mỹ cho tới mãi về sau này chúng tôi vẫn giữ nhận định: Mỹ dựa vào binh khí kỹ thuật mạnh sinh ra chủ quan; binh khí kỹ thuật và tư tưởng chủ quan đều tác động tới chiến thuật và hành động chiến đấu của họ. Suy nghĩ kỹ điều này để ta có kế triệt tiêu cái mạnh và biết khoét sâu chỗ yếu của Mỹ, ta sẽ thắng.

Nói thế không có nghĩa rằng “đánh Mỹ cũng dễ thôi” như cách nói của một số anh em. Người Mỹ thực dụng, họ rất chú trọng rút kinh nghiệm kịp thời và có phương tiện hiện đại để làm thay đổi tình thế và Mỹ cũng khôn ngoan và xảo quyệt, đôi khi họ có khả năng làm đảo lộn tình thế bất lợi đối với họ. Nhưng họ vẫn không thoát ra khỏi tư tưởng chủ quan khi đánh giá đối phương.

III

NHỬ ĐỊCH

1

Năm 1965. Một năm Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh, chuyển cuộc "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam sang "chiến tranh cục bộ”, đưa chiến tranh phá hoại ra miền Bắc nhưng mọi mục tiêu đế quốc Mỹ mong muốn vẫn xa vời vợi. Riêng ở miền Nam Mỹ đã đưa vào 25 vạn quân. Lực lượng này đã trở thành lực lượng chủ yếu, tiến hành những cuộc phản công khá quyết liệt để "đánh gãy xương sống” Việt cộng và "đẩy chủ lực của Việt cộng ra khỏi biên giới”… Nhưng đụng vào đâu quân Mỹ cũng để lại những dấu vết thất bại. Núi Thành, Vạn Tường, Plây-me, Ia-Đrăng là những chấm than đen đậm khó xóa trong chương đầu lịch sử của quân viễn chinh Mỹ vào Việt Nam. Không chỉ có thất bại ở chiến trường mà đế quốc Mỹ còn thất bại lớn về chính trị. Quân Mỹ vào miền Nam là tự bộc lộ bộ mặt xâm lược, và đã đụng vào cái phím đầy nhạy cảm - tình cảm dân tộc, lòng tự tôn và tự hào dân tộc của nhân dân ta. Tình cảm và lòng tự hào dân tộc đó càng cổ vũ nhân dân ta quyết tâm bảo vệ và giải phóng đất nước. Mỹ vào dễ dàng khơi dậy tinh thần dân tộc ngay trong nội bộ ngụy quân, ngụy quyền làm cho nội bộ chúng bị phân hóa và nhen nhóm tinh thần bài Mỹ, đẩy trách nhiệm cho Mỹ, điển hình như phong trào phật tử ly khai ở Huế đã mở rộng ra khắp các thành phố lớn ở miền Nam, trở thành cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài gần nửa năm 1966.

Quân chủ lực của ta không hề lui “ra khỏi biên giới”, trái lại vẫn trụ vững ở khắp chiến trường miền Nam, và còn lớn mạnh hơn. Mỹ muốn giành lại ưu thế ở chiến trường buộc phải tăng quân nhanh hơn (kế hoạch: cuối 1966 nâng số quân Mỹ lên 391.000) và phải mở liên tục nhiều cuộc phản công. Tháng 1 năm 1966 đế quốc Mỹ huy động toàn bộ lực lượng quân Mỹ - ngụy và chư hầu mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất trên chiến trường miền Nam, mở 20 cuộc hành quân với lực lượng từ ba đến hai mươi tiểu đoàn Mỹ được chi viện rất lớn của không quân và pháo binh. Hai hướng phản công chủ yếu là miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu 5. Mục tiêu cuộc phản công nhằm đánh bại chủ lực ta hỗ trợ kế hoạch "bình định", củng cố ngụy quyền tay sai, giành lại chủ động trên chiến trường.

Cuộc phản công của địch kéo dài cho đến tháng 4 năm 1966. Quân chủ lực của ta vẫn đứng vững ở căn cứ của mình, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang nhân dân trong khu vực, vận dụng linh hoạt nhiều hình thức tác chiến chặn đứng mũi phản công và gây cho địch thiệt hại lớn. Chiến trường Đông Nam Bộ trong trận Nhà Đỏ - Bông Trang (24-2-1966), sư đoàn 9 nhằm lúc quân Mỹ co cụm cạnh "ấp chiến lược" Nhà Đỏ đã bất ngờ tập kích đánh thiệt hại nặng một chiến đoàn (gồm sở chỉ huy, hai tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn thiết giáp). Tại huyện Củ Chi cách Sài Gòn 30 ki-lô- mét, về phía tây bắc đại đội 306 địa phương và du kích xã dùng các loại vũ khí tự tạo kết hợp với hệ thống địa đạo chỉ trong 12 ngày đêm chiến đấu đã diệt và làm bị thương 2.000 tên, phá 100 xe quân sự, bắn rơi và bắn hỏng 50 máy bay các loại... Chiến trường Khu 5, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên lực lượng vũ trang địa phương, du kích đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực (sư đoàn 2 và 3) bẻ gãy nhiều mũi hành quân của địch và gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đặc biệt là trận đánh luồn sâu vào An Khê của tiểu đoàn đặc công 467 (thuộc sư đoàn 3) đánh vào lữ kỵ binh bay Mỹ loại khỏi vòng chiến 520 tên, phá hủy 97 máy bay.

Ở Mặt trận Tây Nguyên, mở đợt hoạt động Xuân, trung đoàn 320 đánh một số trận nhỏ ở phía bắc Công Tum. Cả mặt trận thời kỳ này tương đối yên tĩnh.

Khoảng tháng 5, theo chủ trương của mặt trận thành lập sư đoàn 6 gồm các trung đoàn từ miền Bắc đang trên đường vào, tôi được phân công đi đón anh em rồi tổ chức huấn luyện, rèn luyện đơn vị mới làm quen với chiến trường. Trung đoàn 24 (ở miền Bắc là trung đoàn 42) do trung đoàn trưởng Phùng Bá Thường chỉ huy, là đơn vị mới xây dựng, lính nghĩa vụ nhưng anh em rất hăng, vừa đặt chân tới chiến trường đã yêu cầu cho đánh. Chúng tôi tiếp nhận trung đoàn 24 ở đất Công Tum rồi cùng anh em tiếp tục hành quân và dừng lại ở phía bắc Đắc Tô, Tân Cảnh. Ở đây chúng tôi mở một lớp tập huấn mười lăm ngày cho cán bộ từ trung đội trở lên, chủ yếu cho anh em nắm được tình hình địch, địa hình và nhân dân, những kinh nghiệm thực tế nóng hổi của chiến trường. Bá Thường là một cán bộ rất khiêm tốn, ham học và có nhiều sáng tạo không rập khuôn. Tuy mới quen nhưng tôi rất quý mến anh.

Học xong tôi bàn với chỉ huy trung đoàn thực hiện chiến thuật "vây điểm diệt viện" cho khoảng một đại đội vây quận lỵ Tu-mơ-rông (từ khi Mỹ và ngụy đã trở lại đóng khoảng hai đại đội ở Tu- mơ-rông) cố gắng nhử cho Mỹ ra, nếu trung đoàn 42 ngụy ở Tân Cảnh ra cũng diệt.

Ta vây ngày 1 tháng 6 năm 1966, đến ngày 2 tháng 6 chúng tôi nhận được tin của trinh sát: "Có khoảng một tiểu đoàn của trung đoàn 42 hành quân từ Tân Cảnh ra đường 14, chúng đi rất thận trọng".

Tôi phán đoán: ngụy đi ít thế này chỉ là sục sạo cho Mỹ đi.

Lực lượng ta có tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 6 phục kích trên đoạn đường cách ngã ba đường 14 rẽ vào Tu-mơ-rông. Tiểu đoàn 5 (thiếu) làm lực lượng cơ động.

Mặc dù sục sạo dè dặt chậm chạp nhưng chúng vẫn dẫn nhau vào cái bẫy ta giương sẵn. Tôi hạ lệnh nổ súng. Trưng đoàn 42 ngụy vốn rất sợ là đánh này của ta, nên chỉ loạt tiếng nổ bất ngờ đầu tiên là đội hình đã rối loạn. Trận đánh diễn ra rất nhanh, trong vòng 30 phút ta đã diệt gọn tiểu đoàn bộ và hai đại đội, số còn lại tháo chạy.

2

Thấy bọn ngụy bị đánh đau, lập tức sáng hôm sau (3- 6) Mỹ đổ xuống tây bắc Đắc Hà (quận lỵ cũ) gần một tiểu đoàn dù (thuộc lữ dù 101). Cùng ngày Mỹ đổ quân ở nhiều điểm khác: Đắc Phồn 1 đại đội, Đắc Mông 1 đại đội, Đa-cơ-rông 1 đại đội.

Linh cảm thấy quân Mỹ chuẩn bị giăng một vòng vây, tôi hạ lệnh cho trung đoàn 24 tối ngày 4 phải nhanh chóng vượt qua đường 14 về đứng chân ở bắc tây bắc Tu-mơ-rông. Các tiểu đoàn 4 và 5 thực hiện đúng thời gian, tiểu đoàn 5 tới đêm sau (5 - 6) mới vào được vị trí quy định.

Tiểu đoàn Mỹ ở Đắc Hà sau khi củng cố xong căn cứ, ngày 8 chúng càn vào hướng trận địa cũ của trung đoàn 24 (nếu trung đoàn 24 còn ở đây, đã nằm trong vòng vây khép kín). Đại đội A (thuộc tiểu đoàn 1, lữ 1, sư đoàn dù 101) ở Đắc Mông cũng càn vào đó. Ta dùng tiểu đoàn 4 vận động tiêu diệt gần hết đại đội A, số còn lại lui về chỗ cũ.

Phát hiện được lực lượng ta, ngày 8 và ngày 9 Mỹ đổ xuống thêm 4 đại đội ở phía sau sở chỉ huy của chúng tôi (tiền phương mặt trận) và tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 5, cách khoảng 4 ki-lô-mét. Như vậy là địch nới rộng vòng vây chuẩn bị dồn trung đoàn 24 vào "vó".

Ngày 9 tháng 6 chúng tôi dùng tiểu đoàn 5 tăng cường một đại đội mai phục ở Đắc Châm đón lõng hướng quân địch nống ra.

Cùng trong khoảng mấy ngày địch đổ quân, đại đội cao xạ 12 ly 7 (ở gần sở chỉ huy) đã bắn rơi 3 máy bay trực thăng. Địch phát hiện có lực lượng ta ở Đắc Châm, chúng bắn tập trung hàng nghìn phát đạn pháo vào khu vực sở chỉ huy. Mùi thuốc đạn khét tanh luôn bám lấy lỗ mũi. Tiếng của đạn pháo bầy hàng chục viên cùng một lúc dội xuống, tiếng rít của đường đạn đi như muốn xé rách màng nhĩ. Một lần tôi đang đứng tay chống khẩu súng thể thao để quan sát xung quanh. Thình lình một viên đạn pháo nổ gần mảnh đạn cắt phăng cái biểu xích của khẩu súng thể thao găm vào đầu đồng chí Sĩ chủ nhiệm công binh mặt trận, làm anh ngã xuống và tắt thở ngay. Cách tôi vài mét mấy chiến sĩ Cảnh vệ, trinh sát bị thương Tôi vội vàng bước lại chỗ Sĩ. Một cán bộ đang đặt lại tư thế nằm của Sĩ cho ngay ngắn. Tôi ngồi xuống bên cạnh lặng lẽ vuốt cặp mắt khép hờ của Sĩ thay lời vĩnh biệt người đồng đội thân thiết của mình. Tôi vô cùng thương tiếc Sĩ - một cán bộ công binh giỏi, gan góc mà tôi hằng tin cậy, khi giao bất kể công việc gì.

Mấy trợ lý tham mưu thấy địa điểm sở chỉ huy đã bị lộ và nằm trong vòng vây, đề nghị với tôi cho di chuyển sở chỉ huy. Tôi nói với anh em "lực lượng địch đã xen kẽ với lực lượng của ta, đi lúc này là mất chỉ huy” . Rồi tôi hạ lệnh cho toàn bộ sở chỉ huy: tăng cường công sự sẵn sàng chiến đấu chống bộ binh địch; lệnh cho anh Đồng Thoại trợ lý pháo ra nắm đại đội cao xạ 21 (12 ly 7) đánh máy bay và đánh cả bộ binh địch.

Không khí trong sở chỉ huy vẫn giữ được bình tĩnh nhưng hết sức căng thẳng. Chuông điện thoại liên tục đổ, chốc lại có tin máy bay bắn vào đội hình, chốc lại có tin địch đổ thêm quân, địch sục sạo tới bộ phận cánh giới của ta... Một lần tôi nhấc ống nghe thấy tiếng trung đoàn trưởng Thường:

- A lô! Anh Ân (mật danh của tôi) đó phải không?

- Tôi đây, nói đi.

- Anh em đã phục một ngày một đêm rồi rất sốt ruột. Tôi đề nghị cho "dê" 5 vận động ra đánh.

- Cứ để "dê 5 ở đó. Kiên trì ở đó nhất định sẽ được đánh. Rõ ràng thằng Mỹ đổ quân xuống chia cắt đội hình ta rồi. Nó đổ xuống ngồi đó thì chẳng có tác dụng gì, dứt khoát nó sẽ nống ra. Động viên anh em kiên trì ở đó sẽ được đánh.

Quả nhiên, ngày 9 hai đại đội (của tiểu đoàn 3 lữ l01) tiến vào Đắc Châm đúng cái hom đó ta đặt sẵn. Tiểu đoàn 5 đánh một trận phục kích xuất sắc. Trận địa của tiểu đoàn giữ được bí mật đến phút chót, khi ta nổ súng chúng cuống cuống kêu khóc đè lên nhau mà chạy. Tiểu đoàn 5 đã rượt theo tiêu diệt chúng.

Cùng ngày mồng 9 Mỹ đổ thêm một đại đội xuống bắc Đắc Phồn 3 ki-lô-mét. Ngày 10 Mỹ đổ thêm phía sau lưng sở chỉ huy chúng tôi một đại đội. Như vậy là toàn bộ một lữ dù (l01) đã đổ xuống bâu xung quanh trung đoàn 24. Tôi nhắc trung đoàn trưởng Thường: "Các điểm nó đổ xuống phải chú ý theo dõi. Nhất định chúng sẽ lùng sục để tạo hợp điểm. Phái tổ chức tốt các trận địa mai phục chặt đứt từng mũi không cho chúng gặp nhau”.

Trung đoàn 24 mặc dù là đơn vị mới vào chiến trường nhưng ý thức tổ chức, tinh thần chiến đấu tỏ ra rất vững vàng. Trong đợt hoạt động ngắn đã chiến đấu 8 trận (ở cấp tiểu đoàn) diệt 4 đại đội và gây nhiều thương vong cho hầu hết các đại đội đã chạm trán. .

Qua những thông tin thu được tại chiến trường, tôi phán đoán địch sắp rút mà khi rút rồi chắc chắn sẽ dùng B.52 rải bom hủy diệt. Nghĩ tới việc cho trung đoàn 24 nhanh chóng rút ra khỏi khu vực tác chiến trong điều kiện chưa quen địa hình e rằng sẽ bị lạc đường khi còn địch ở xung quanh sẽ bất lợi, tôi đã giao cho Đồng Thoại cán bộ tham mưu cùng toán trinh sát vượt qua ngăn chặn của địch tới gặp chỉ huy trung đoàn 24 để dẫn đường. Chuyến đi này rất khó khăn nguy hiểm, tôi không giấu họ điều đó, nhưng anh em không ai tỏ ra ngần ngại (tôi sẽ kể kỹ chuyến đi của họ ở đoạn sau).

Ngay đêm 10 sở chỉ huy sư đoàn di chuyển, chúng tôi đến Ngọc-dơ-phan cách địa điểm cũ khoảng 2.500 mét. Ngày hôm sau địch đổ xuống một đại đội Mỹ (sư 101) cách chỗ chúng tôi 1.000 mét .

Ngày 15, máy bay trực thăng, máy bay phản lực hoạt động liên tục đông hơn bình thường, trên bầu trời luôn luôn có hàng chục chiếc, bắn nơi này, rải bom nơi kia. Chúng có biểu hiện rút chạy. Đêm đó tôi hạ lệnh cho các đơn vị đang tham gia tác chiến nhanh chóng cơ động ra khỏi khu vực tác chiến, về khu căn cứ Đắc-rơ-lai (cách khoảng 12 ki-lô-mét).

Suốt đêm tổ chức đôn đốc chỉ huy thu quân nhanh tránh B.52 cho tới gần trưa hôm sau, không lúc nào rảnh rang lấy vài chục phút, nếu có rảnh thì tiếng bom đạn, máy bay cứ nhồi vào tai không sao ngủ được. Mãi tới chiều hôm ấy tôi ngồi ôm khẩu các bin M.2 tựa vào gốc cây vừa chợp mắt khoảng mươi phút đã thấy người giật áo gọi “Thủ trưởng! Thủ trưởng!”, tôi choàng dậy hỏi:

- Chuyện gì thế?

Cậu liên lạc trả lời tôi bằng một câu hỏi:

- Có một con nai vào rất gần, thủ trưởng có cho bắn không?

Máu ham săn bắn của tôi ngang với ham đánh giặc. Nghe thấy có con mồi rất gần lập tức tôi tỉnh táo vác súng di theo cậu liên lạc. Mấy cậu cảnh vệ, trinh sát kỹ thuật đứng núp sau gốc cây chăm chú nhìn theo con nai đang ngơ ngác dưới mái nhà sàn vô chủ và đàn sói khoảng mươi cơn cách con mồi không xa, con nào cũng nhe nanh dữ tợn và đuôi dựng lên như những bông lau lớn. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy đàn sói với khoảng cách gần như vậy, quá lắm là 20 mét.

Tôi núp vào gốc cây, giương súng ngắm vào con nai và nói:

- Mình bắn nhé.

Cậu trinh sát kỹ thuật đứng gần tôi, nói nhỏ:

- Đừng… thủ trưởng. Bọn Mỹ vừa đổ xuống cách ta khoảng 600 mét.

Tôi "suỵt" đuổi con nai thầm mong nó chạy thoát lũ sói, nhưng con nai vừa ra khỏi nhà sàn thì đàn sói lập tức rượt theo.

Tôi xách súng trở lại chỗ cũ, anh N trợ lý tác chiến đã đứng chờ ở đó. N báo cáo:

- Trung đội hữu tuyến đã về đầy đủ an toàn. Trung đoàn 24 vừa báo cáo: toàn đơn vị đã rút khỏi đơn vị tác chiến, đang trên đường về căn cứ, an toàn. Máy bay trực thăng rất đông hoạt động liên tục trong khu vực tác chiến, có hiện tượng bốc quân.

Tôi trút hơi thở nhẹ nhõm, và tôi bảo N báo cho các đơn vị trực thuộc chuẩn bị hành quân về căn cứ theo kế hoạch đã định.

Bộ phận nhẹ của sở chỉ huy chúng tôi ở lại sau để đôn đốc và kiểm tra việc thu quân của toàn mặt trận thật hoàn tất rồi mới rút. Chiều hôm ấy chúng tôi đang bước trên một con dốc nhỏ, ánh nắng chiều đã nhợt nhạt, lối đi trong rừng rậm đang chuyển gam màu từ sáng sang xám đậm. Không gian vang tiếng máy bay, tiếng bom đạn nổ. Hơn nửa tháng qua đến giờ mới thấy những phút tĩnh lặng, có chỗ cho thiên nhiên lên tiếng. Tai tôi không ngừng lắng nghe âm thanh xung quanh dội tới, tiếng gió rung cây lá rừng rì rầm sâu thẳm, tiếng đàn vượn thi nhau hú và những hồi âm hoang dã, tiếng đàn chim rừng gọi đàn... Trận đánh thắng đẹp và tiếng nhạc rừng khiến tâm hồn tôi thanh thản.

Phía sau lưng chúng tôi bỗng nổi lên từng chuỗi dài tiếng nổ như sấm.

Một tốp... hai tốp... .

Cậu cảnh vệ đi sau lưng tôi đang đếm, tôi hiểu cậu ta đang đếm tốp B.52, mặc dù chẳng nhìn thấy chúng đâu nhưng cũng đứng như vậy. Điều dễ hiểu bởi nhiều lần chúng tôi bằng mắt thường đã nhìn thấy B.52 hai cánh dài thưỡn tám động cơ, cứ ba chiếc vào thả một đợt bom, cách độ 20 - 30 giây lại một tốp khác vào thả tiếp.

Nghe bom của B.52 rải hết đợt này tới đợt khác ở khu vực tác chiến, anh em xì xầm bình luận:

- Có đến chục tốp chứ không ít.

- Kệ nó, cứ thả sức rải bom, rải bom nhiều cũng là thắng lợi của ta.

3

Lại nói về việc rút quân của trung đoàn 24.

Tôi thấy mục đích của trận đánh, so sánh lực lượng ta, địch tại chỗ, thời gian tác chiến đến đây có thể kết thúc trận đánh là vừa.

Trung đoàn 24 mới huấn luyện chưa qua chiến đấu, chưa quen chiến trường trận đầu thử sức quần nhau với toàn bộ lữ dù 11 (thuộc sư đoàn 101) loại lính sừng sỏ của Hoa Kỳ kéo dài nửa tháng trời, mà liên tiếp đánh thắng, xóa sổ 4 đại đội địch (kết quả trận đánh: diệt hơn 1.000 tên. bắn rơi 14 máy bay, thu nhiều vũ khí). Như vậy, nếu phân loại khiêm tốn trung đoàn cũng đạt loại giỏi. Không thể kéo dài thời gian hơn được nữa, bởi lương thực chỉ còn đủ ăn cho một hai ngày; tất cả các tiểu đoàn. tham chiến không còn lực lượng dự bị; đội hình ta với địch đan xen nhau, nếu chủ quan, sơ hở là trung đoàn 24 dễ dàng bị tổn thất, chui ngay vào vòng vây của địch.

Chúng tôi thầm lo việc lui quân của trung đoàn. Trong chiến tranh không thiếu gì chuyện khi đánh thì thắng nhưng khi rút ra khỏi trận đánh lại bị thương vong bại hoại. Vì vậy việc tổ chức lui quân cũng phải khôn khéo bí mật bất ngờ như khi nổ súng tấn công.

Đồng Thoại đi đánh chặn những toán địch sục sạo thăm dò vào sở chỉ huy vừa trở về, trên khuôn mặt tròn của Thoại đầy bụi đất và mồ hôi nhễ nhại. Tôi thân mật nói với Đồng Thoại điều mình đang suy nghĩ:

“Thằng” 24 mới vào chiến trường, chưa có kinh nghiệm xử trí những tình huống phức tạp. Gạo hết rồi...

Đôi mắt to sáng của đồng chí Thoại nhìn tôi không chớp, biểu lộ sự thông cảm về tầm quan trọng của câu chuyện tôi đang nói. Từ khi làm quen với chàng trai Hà Nội này, nhất là sau trận đánh Tu-mơ-rông, Đồng Thoại đã chiếm được niềm tin yêu của tôi. Đôi lúc rảnh rỗi chúng tôi thường tâm sự, chuyện nhà cửa quê quán với nhau và cho xem ảnh vợ con, té ra vợ Thoại cũng là người quen thân với gia đình vợ tôi. Sự thân thiết của hai gia đình làm cho tình bạn chiến đấu của chúng tôi càng gắn bó hơn. Đồng Thoại vóc người cao lớn đẹp trai và có cái đầu to tròn khá đặc biệt, nó giống hòn bi khổng lồ. Tôi thường gọi Thoại là “thằng đầu to". Không hiểu sao trước một công việc hết sức nghiêm trọng tôi không hề tỏ ra mình là cấp trên có quyền ra lệnh mà chọn cách nói tâm sự.

Tôi nói tiếp:

- Ý định bọn Mỹ là bao vây tiêu diệt trung đoàn 24, như cậu thấy đấy, nó chưa làm được. Trung đoàn 24 đã đánh thắng, thắng rồi nhưng rời khỏi khu vực tác chiến rất khó khăn. Giữ vững truyền thống quyết thắng của quân đội ta, chúng ta không thể để cho địch tiêu diệt ta dù chỉ là một phân đội, cậu có trách nhiệm đi giúp trung đoàn 24, dẫn nó ra khỏi vòng vây... .Mình biết chuyến đi này cái chết rất gần, nhưng cậu không được chết. Phải đem cái “đầu to" ra để vượt vòng vây của địch tới được chỗ cậu Thường. Tôi cho cậu chọn nửa tiểu đội trinh sát để đi cùng.

Khi Thoại đi rồi, chúng tôi cũng rời sở chỉ huy đến địa điểm mới. Suốt đên hôm đó tới hai ngày hôm.sau, mỗi lần nghe bom, đạn pháo nổ nhiều ở đâu đó, trong đầu tôi lại nhắc đến Thoại "không hiểu cậu ấy có đến nơi được không?". Mãi đến khi nhận được điện trời của trung đoàn 24 báo "Đồng Thoại đã đến nơi an toàn" tôi mới yên lòng.

Khi về đến hậu cứ, Đồng Thoại kể cho tôi nghe diễn biến chuyến đi.

"Anh giao nhiệm vụ xong rồi, tôi về kiểm lại lương thực dự trữ của ban tác chiến và trinh sát. Yên trí còn 9 bao gạo và hai hộp sữa, ngờ đâu lính đói lấy cấp chỉ còn 10 bơ gạo. Năm thằng lực điền ăn dè số gạo ra làm hai ngày hy vọng đến 24 sẽ có gạo. Tôi đã chọn cậu Nga (bẹc-giê) tổ trưởng tổ trinh sát đi cùng, chắc anh cũng biết nó. "Danh bất hư truyền", nó có cái mũi tuyệt vời chỗ nào nó "đánh hơi” thấy có bọn Mỹ y như rằng đúng. Từ chỗ sở chỉ huy ta đến chỗ trung đoàn 24 khoảng mười ba mười bốn cây số chứ mấy, thế mà đi miết hai ngày hai đêm, bởi gặp bọn Mỹ lại phải luồn, gặp chúng chặn có đến hàng chục lần cứ phải né. Chiều tối hôm ấy tới vị trí trung đoàn bộ của 24. Anh em thương binh đang nằm chờ chuyển đi. Tôi hỏi thăm, anh em cho biết sắp hết gạo phải ăn cháo rồi. Có cái kho gạo vừa bị bom na-pan địch đốt mất.

Tôi tới sở chỉ huy, các anh ấy đang họp đảng ủy bàn kế hoạch rút. Tôi báo cáo: "Theo lệnh anh Hữu An, tôi chịu trách nhlệm dẫn đường cho đơn vị”. Thường trả lời: "Chúng tôi có kế hoạch rồi". Các anh ấy đã cho hai tiểu đội đi trinh sát tuyến đường các anh ấy chọn. Tôi chẳng có việc gì nữa, vì các anh ấy không cần. Hai ngày đêm thức trắng tôi rất thèm ngủ. Nghe Thường trả lời vậy, tôi ngồi dựa gốc cây nghỉ một lát chờ họ họp xong sẽ trình bày kỹ hơn ý của mình, nên chọn đường nào an toàn hơn. Vừa đặt vấn đề trong đầu chưa kịp suy nghĩ tới lý lẽ phân tích thì đã ngủ biến rồi. Chẳng biết đã ngủ được bao lâu tôi thấy người lay gọi hồi lâu mới nhận ra mình đang ở đâu. Trung đoàn trưởng Phùng Bá Thường và trung đoàn phó Võ Tấn Nam nói với tôi: "Chúng tôi đi theo anh. Anh cho biết ý kiến đi đường nào, tổ chức hành quân ra sao"... Mấy cán bộ trung đoàn nữa ra ngồi quây xung quanh tôi. Họ không giấu sự lo lắng. Có người nói đã cho 15 chiến sỹ trinh sát đi thăm dò, bị thương gần hết. Có người nêu "cứ chiếu thẳng về hậu cứ, tìm cách luồn né...". Tôi quen địa hình ở khu vực hơn mọi người, nhưng cũng thấy hơi bí, chỉ còn cách táo bạo đi dọc theo sống núi thẳng về Tu-mơ-rông, dù sao ta cũng chiếm điểm cao. Đội hình trung đoàn đi hàng dọc. Tôi trình bày ý của mình, được mọi người đồng ý.

Mờ sớm hôm sau, tôi cùng một người địa phương cộng với 9 trinh sát dẫn đường cứ ngược dốc lên theo hướng đã định. Cả ngày đi không chạm địch. Chiều gần tối tới gần một trên địa pháo 105, nghe tiếng khóa nòng đóng “choang choang choang” và tiếng nổ đầu nòng ù tai. Đành chờ tối dẫn bộ đội vòng qua. Mọi khi pháo sáng thả khâu đêm, sáng như ban ngày, tối nay không hiểu sao tối như hũ nút, phải chờ tới 3 - 4 giờ sáng mới dẫn bộ dội qua được.

Ngày hôm sau tới căn cứ tỉnh ủy, lính đói không phải là một ngày một đêm mà từ mấy hôm trước, nghe nói đã tới nơi tương đối an toàn họ nằm la liệt không chịu đi nữa. Chỉ có một mình tôi được vào căn cứ tỉnh ủy. Gặp anh Tìm bí thư tỉnh, tôi nói rõ tình hình. Anh Tìm lập tức báo cho cơ quan tỉnh ủy ngừng mọi việc, y tá y sĩ mang thuốc men bông băng ra băng bó, chăm sóc thương binh, rất cảm động. Anh Tìm báo cho cơ quan từ hôm nay không được ăn gạo, chỉ được ăn sắn, mang gạo ra cho thương binh ăn và báo cho trung đoàn 24 được phép nhổ sắn ở nương của dân ăn, tỉnh ủy nhận trách nhiệm bồi thường cho dân.

Nghe thấy tôi là cán bộ tham mưu của sư đoàn 6 đến, một ông phóng viên thông tấn xã thường trú ở cơ quan tỉnh ủy tới gặp tôi để phỏng vấn, tôi nghe ông ta tự giới thiệu và những câu hỏi gợi ý xong thì cũng vừa lúc tôi lăn ra ngủ không còn biết gì nữa. Mãi tới khi có người gọi báo có điện của anh “dẫn đơn vị về hướng Đắc- rơ-lai, có anh Đức đón”... lúc đó tôi mới sực tỉnh.

-----------

1. Ta: trung đoàn 24 có 9 đại đội bộ binh, 6 đại đội trợ chiến và một số phân đội binh chủng trực thuộc, quân số 1.800.

Địch: lữ 1 dù có 13 đại đội bộ binh,… quân số 3.000. Ba trận địa pháo binh (một trận địa 6 khẩu). Máy bay trực tiếp chi viện ít nhất hàng trăm lần chiếc/ngày.

CHIẾN DỊCH SÔNG SA THÀY

Năm 1966 lực lượng của Tây Nguyên tăng rất nhanh. Các trung đoàn 24, 88, 101B và 95B được trang bị, huấn luyện khá tốt lần lượt từ miền Bắc đưa vào. Ý của Bộ Tổng tư lệnh định lập ra hai sư đoàn. Tư lệnh Mặt trận B3 giao cho tôi tổ chức sư đoàn 6 (như đã nói trên) nhưng đang dở dang thì ngừng lại, vì mặt trận chưa đủ sức bảo đảm cung cấp lương thực đạn dược… cho chừng ấy sư đoàn cơ động. Các cán bộ cấp sư đoàn như các anh Hoàng Phương, Hoàng Kiện... vào với ý định lập các sư đoàn mới lại phải trở ra.

Vào khoảng đầu tháng 1 năm 1966 tôi lại nhận được sự phân công của Bộ Tư lệnh Mặt trận B3 đứng ra tổ chức sư đoàn 1. Chuẩn bị cho ra đời sư đoàn lần này không mất nhiều thời gian, bởi các cơ quan, đơn vị đã có sẵn, chỉ lắp ghép lại là hình thành. Sư đoàn bộ nguyên là của sư đoàn 304 do đại tá Hoàng Kiện đưa vào. Các trung đoàn bộ binh gồm 66, 88 và 320. Bộ tư lệnh gồm: tôi tư lệnh phó B3 xuống làm sư đoàn trưởng, Hoàng Thế Thiện làm chính ủy. Tất cả anh em từ cán bộ cơ quan tới các cán bộ chỉ huy đã ở cương vị của mình một vài năm và khá thông thạo công việc chuyên môn của mình. Các trung đoàn 66, 320 đã dày dạn với chiến trường, còn 88 đã được thử thách vài trận. Thật lòng, tôi thấy sung sướng và tự hào được chỉ huy một sư đoàn đáng tin cậy như thế.

Bước vào mùa chiến đấu đông xuân 1966 - 1967 lực lượng vũ trang Tây Nguyên ở tư thế đàng hoàng chững chạc. Thời gian chuẩn bị hàng tháng trời; tôi, Hữu Đức cùng một số cán bộ trung đoàn đi trinh sát thực địa từ Plây-giê-răng kéo dài tới biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia khoảng gần 60 ki-lô-mét. Chúng tôi tìm địa điểm "chốt" bố trí sẵn lực lượng, và bàn cách đánh ở thực địa, làm sao khi dẫn địch ra chốt A, chốt A phải dụ địch vào chốt B, chốt B phải dụ địch vào chốt C… cứ như thế tạo ra một chuỗi những trận đánh nối tiếp dẫn địch theo ý của ta vào quyết chiến điểm. Quyết chiến điểm ở sát biên giới chúng tôi chọn là một cái nương khá rộng tương đối bằng phẳng, nếu địch muốn chặn không cho ta vượt qua biên giới, buộc chúng ta phải đổ quân xuống đây với lực lượng không thể ít hơn một tiểu đoàn. Ở đây ta tập trung lực lượng lớn nhất, với toàn bộ trung đoàn 88 quyết tâm diệt gọn tiểu đoàn địch và cũng là trận đánh kết thúc chiến dịch.

Vừa đi trinh sát vừa bàn bạc phương án tác chiến ngay thực địa, hầu hết những cán bộ đã đụng đầu với quân Mỹ hai năm qua đều có thể rút ra kết luận "dụ Mỹ ra không khó, nhưng để có thể diệt gọn một đơn vị của nó thì không dễ", vì lẽ đó chúng tôi cũng dễ dàng thống nhất ý kiến. Riêng trung đoàn 88, không có lý lẽ gì bác lại "kế dụ địch” nhưng qua thái độ của các cán bộ chỉ huy trung đoàn, tôi cảm nhận rằng trung đoàn chưa thật tin. Sau khi các đơn vị đã vào chiếm lĩnh trận địa, tôi tới kiểm tra trung đoàn 88 thấy không khí hơi chểnh mảng, tiểu đoàn cối 120 ly hỏa lực chủ yếu trong trận đánh chưa lấy xong phần tử bắn. Có cán bộ nói thầm với nhau: "Làm gì có Mỹ đến chỗ này mà đánh”. Một lần nữa chúng tôi họp để phân tích để anh em cán bộ trung đoàn thông suốt về cách đánh của ta và hiểu thêm tính chất quân Mỹ. Cuộc họp thảo luận có lúc hơi căng, tôi phải dùng tư cách chỉ huy "...nếu tôi không kéo được địch ra đây tôi chịu trách nhiệm trước Bộ tư lệnh Mặt trận, nếu địch ra đây các anh không đánh được các anh sẽ bị kỷ luật”.

Chiến dịch này chuẩn bị song song với “chiến dịch trồng sắn”. Dùng cụm từ ấy không có gì là cường điệu đối với chiến trường Tây Nguyên. Chúng tôi thường nói vui với nhau “Gạo là thống soái”. Thật vậy, muốn mở một đợt chiến đấu dài ngày một chút, một trong những câu hỏi lớn: có đủ gạo không? (độ này mỗi ngày một người chỉ có hai lạng gao trộn với sắn). Việc Đảng ủy B3 đề ra chỉ tiêu đầu người/1.200 gốc sắn từ tư lệnh trở xuống không ai được miễn trừ là việc hết sức khắc nghiệt nhưng vẫn được anh em toàn mặt trận hưởng ứng nhiệt thành. Tôi đi trinh sát cũng kiếm ít hom sắn mang về, trồng xung quanh nơi ở của mình cho đủ chi tiêu.

Đảng ủy Mặt trận thông qua phương án chiến dịch sông Sa Thày lần cuối cùng đã xác định:

Mục đích chiến dịch: kẻo quân Mỹ ra để tiêu diệt, đồng thời góp phần đập tan ý đồ chiến lược phản công mùa khô của đế quốc Mỹ.

Yêu cầu: phải nhử được một tiểu đoàn Mỹ vào quyết chiến điểm “C1”1 và tiêu diệt gọn tiểu đoàn này.

1. Tên ta đặt cho một nương rẫy, nơi dụ địch đổ bộ trực thăng xuống để tiêu diệt

Sử dụng lực lượng sư đoàn 1 được tăng cường trung đoàn 101 và 4 tiểu đoàn trợ chiến. Các hướng hỗ trợ: có trung đoàn 24 ở Công Tum, 95B ở Gia Lai, trung đoàn 33 ở Đắc Lắc đánh nhỏ, đánh vừa kiềm chế phân tán lực lượng địch...

Đội hình ở hướng chủ yếu của chiến dịch: trung đoàn 320 dùng một bộ phận nhỏ “châm ngòi” nhử địch ra, bố trí lực lượng vừa đánh vừa dẫn dắt địch về hướng quyết chiến điểm. Trung đoàn 101 bố trí ở đông Sa Thày, trung đoàn 66 và 88 bố trí từ Chu Pa đến bờ tây Sa Thày là lực lượng chủ yếu tiêu diệt địch ở “C1”.

Ngày N: ngày 19 tháng 10 năm 1966.

Đúng ngày N, một phân đội thuộc trung đoàn 320 đã bao vây “chọc tức” bọn đồn trú ở Plây-giê-răng. Lập tức một đại đội thuộc sư đoàn bộ binh Mỹ số 4 đổ xuống sau lưng ta cách khoảng 3 cây số. Và cứ như thế ta dụ địch vào sâu hơn.

Đánh lừa địch là nghệ thuật quân sự, muốn thực hiện được phải tổ chức và hành động hết sức công phu, không chỉ dựa vào tài năng của người chỉ huy mà còn phải dựa vào đội quân được huấn luyện tốt. Cái tốt ở đây cần nhấn mạnh đặc biệt là vấn đề kỷ luật bí mật.

Chiến trường này ngày nào cũng vậy, hầu như 24 giờ trên 24 giờ liên tục máy bay trinh sát đủ loại (C.130, OV.10, trực thăng, L.19) bay thấp, bay cao chụp ảnh hoặt nhìn bằng mắt thường, ngoài ra bọn thám báo được đổ bộ xuống hoạt động thường xuyên. Đám lá rừng mới héo, ngọn suối tự nhiên đục, một lối mòn... mới xuất hiện mà ngày hôm qua chưa hề có trong ảnh là chúng có thể cho bom, pháo phá nát cả khu vực. Vì vậy, kỷ luật bí mật có giá trị quyết định thành công trong nghệ thuật đánh lừa địch.

Ngay cả lúc bình thường, chúng tôi cũng coi trọng việc giáo dục kiểm tra liên tục thấu triệt tới từng người lính kỷ luật bí mật, vào chiến dịch vấn đề đó càng được coi trọng gấp bội phần.

Trong chiến dịch này, việc dụ địch vào “lưới” ta giăng sẵn đã trở thành hiện thực. Đại đội địch vừa đổ xuống, ngay trong đêm đã bị một đại đội của ta nằm sau chúng khoảng hai ki-lô-mét vận động tập kích; ngày hôm sau chúng lại đổ thêm quân để bọc hậu đơn vị “Việt cộng” chúng mới phát hiện... Cứ như thế trung đoàn 320 và một bộ phận của trung đoàn 66 đã đánh hàng chục trận và kéo chúng vào địa bàn quyết chiến ta đã lựa chọn trước. Trước khi đổ bộ, chúng dùng B.52 rải bom, chà đi xát lại phát quang khoảng 5 ki-lô-mét ở sát biên giới, gây khó khăn cho ta. Trưng đoàn 88 thương vong một số (không đáng kể) và phải lùi sâu đội hình vào nội địa. Đúng như ta dự kiến ban đầu, mười giờ ngày 25 tháng 10 địch đổ xuống “C1” một tiểu đoàn. Pháo của ta lấy phân tử bắn từ trước, chờ địch đổ quân khoảng mười phút mới phát hoả. Cùng lúc 4 khẩu súng cối 120 lên tiếng. Trận bão đạn pháo nổ như sấm sét trùm kín bãi đất bằng phẳng nơi bọn Mỹ vừa đặt chân xuống. Sự bất ngờ khủng khiếp hơn tất cả mọi khửng khiếp mà chúng có thể tưởng tượng được. Trên đài quan sát ta nhìn rõ, sau từng đám khói tan, bọn lính Mỹ chết đè lên nhau, những tên còn sống chạy hoảng loạn không có nơi trú ẩn.

Pháo của ta bắn cấp tập khỏang một giờ. Trong quá trình pháo ta bắn cấp tập đội hình trung đoàn 88 hình thành ba mũi: mũi chủ yếu từ tây tây bắc, một mũi từ hướng đông bắc, một mũi từ hướng nam vận động tiến công. Các hướng tiến công của ta gặp bãi bom B.52 cây đổ ngổn ngang vướng víu và bị máy bay địch bắn ngăn chặn nên phát triển chậm, hiệp đồng bị vỡ, có bộ phận mãi tới mười giờ mới tiếp cận được địch. Bọn Mỹ biết mình bị lừa và bao vây, chúng cố hết sức chống đỡ để chờ trời sáng có quân viện. Trận đánh diễn ra hết sức quyết liệt. Pháo sáng như hàng trăm hàng nghìn chiếc đèn treo lơ lửng trên không soi rõ từng gốc cây, ngọn cỏ. Máy bay địch liên tiếp thay nhau tới rải bom bi bao quanh vị trí của chúng chỉ cách vài trăm mét, gây thương vong cho một số bộ phận nhỏ của ta nằm cách xa địch.

Tôi chỉ thị cho trung đoàn 88 nhanh chóng tổ chức xốc lại lực lượng, tung dự bị vào và hết sức áp sát địch.

Đội hình của ta và địch quyện vào nhau, nhiều bộ phận dùng lê, lựu đạn đánh giáp lá cà. Bọn chỉ huy Mỹ đã xuất hiện tâm trạng tuyệt vọng. Sau trận đánh núi Cơn, đây là lần thứ hai tôi thấy chúng cam tâm tàn nhẫn rải bom trùm lên đội hình quân mình.

Suốt ngày hôm qua tới đêm trung đoàn 66 hết sức tích cực ngăn chặn không cho bọn thám báo và các đại đội lẻ tiếp cận được "Cl”.

Bọn chỉ huy Mỹ thấy nguy cơ nếu ở lại “Cl” lâu hơn khó tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, khoảng 7 giờ ngày 26 chúng cho 20 chiếc trực thăng xuống bốc nốt số còn sống sót chạy về căn cứ.

Những đại đội, tiểu đoàn bị xé lẻ thuộc sư đoàn bộ binh Mỹ số 4 bị rải ra suốt chiều dài từ Plây-giê-răng tới “Cl” gần 60 cây số lần lượt rút chạy bằng trực thăng. Quân ta thừa thắng phát triển về hướng đường 19 kéo dài, một hướng xuống Chư Pa để mở đường xuống đồng bằng.

Chiến dịch (từ 18 tháng 10 đến ngày 6 tháng 12) kéo dài hơn một tháng đã kết thúc thắng lợi. Ta đánh 34 trận lớn nhỏ, tiêu diệt tổng số 2.050 Mỹ, 360 ngụy, diệt gọn một tiểu đoàn Mỹ, 8 đại đội Mỹ và một sẽ trung đội, bắn rơi 21 máy bay, phá hủy 21 pháo, 5 cối 106 ly, 16 xe. Thắng lợi của chiến dịch không những chỉ nằm gọn trong số lượng địch bị diệt, số phương tiện vũ khí địch bị phá hủy... mà còn lớn hơn thế, nói cách khác, ta đã đạt được những mục đích nêu ra như: Đánh bại âm mưu phản công mùa khô của địch ở Tây Nguyên và phối hợp đắc lực với chiến trường khác. Một lần nữa quân chủ lực của Tây Nguyên lại được thử sức với loại quân khác của Mỹ - sư đoàn bộ binh 4 và đã đánh quỵ nó. Qua chiến dịch này các đơn vị tham chiến của ta được rèn luyện trong thực tế về công tác tổ chức chỉ huy, nâng cao trình độ chiến thuật, kỹ thuật và rút ra được nhiều bài học quý.

Trung đoàn 320 phải độc lập xử trí với rất nhiều tình huống gay go phức tạp và đã vượt qua được tất cả, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nhử được địch sang phía tây sông Sa Thày. Trung đoàn 66 chủ động linh hoạt đánh được nhiều trận ngoài phương án, tỏ ra là một đơn vị tinh nhuệ trong vận dụng chiến thuật vận động tiến công, nhưng chiến thuật tập kích còn yếu. Trung đoàn 88 đã vượt lên nhiều mặt so với hồi ở Công Tum, chiến đấu ở “C1” tuy chưa diệt thật gọn tiểu đoàn địch nhưng căn cứ vào diễn biến thực tế có phức tạp nên vẫn đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ.

V

CHIẾN DỊCH „ĐẮC TÔ 1“

1

Kết thúc chiến dịch sông Sa Thày được ít ngày, trung đoàn 88 được lệnh hành quân vào chiến trường Nam Bộ. Tới chiến trường Tây Nguyên này, tôi đã trực tiếp tham gia huấn luyện chỉ huy nhiều trung đoàn. Nhiều đơn vị vừa kịp làm quen với chiến trường, vận dụng được những kinh nghiệm đã học, và trên dưới cũng vừa quen tác phong của nhau, đã phải chia tay nhau đi nơi khác. Bởi vậy việc trung đoàn 88 rời khỏi đây hoàn toàn không có sự bất ngờ. Tuy không nghe ai nói, nhưng tôi hiểu ngầm ý của Bộ rằng: Chiến trường Tây Nguyên còn là bãi tập đặc biệt, và là nơi thử lửa đầu tiên cho nhiều đơn vị chủ lực (trong đánh Mỹ), từ ý nghĩa đó tôi chắc chắn sẽ có ngay một trung đoàn khác thế chân trung đoàn 88.

Thật vậy, hơi ấm của trung đoàn 88 còn phảng phất đâu đây thì trung đoàn 174 ở ngoài Bắc mới vào được vài tháng, có lệnh nhập vào sư đoàn 1.

Trung đoàn 174 là đơn vị cũ của tôi thời đánh Pháp. Tôi đã chỉ huy trung đoàn đánh chiếm đồi "A1" trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Trung đoàn là cái nôi rèn luyện tôi trở thành người chỉ huy có cương vị như bây giờ. Nhắc tới trung đoàn trong đầu tôi lại hiện lên một chuỗi kỷ niệm của cuộc đời chiến sĩ. Trận phục kích đèo Bông Lau - Lũng Phầy gian khổ nặng nề, hai trận Đông Khê 1 và 2 giòn giã oai hùng, trận diệt boong-ke đồn La-ri-vê kỳ công bất ngờ, trận Bình Liêu, trận Mộc Châu mưu trí dũng mãnh...

Tôi tới thăm 174 mang theo chút tình của người tha hương trở về quê cũ. Vẫn là phong cảnh ngôi làng chiến sĩ trong chiến tranh - khu rừng khộp uy nghi trầm mặc, mùa đông đã bứt một lớp lá vàng trải lên nền đất, đâu đó có tiếng hót lẻ loi của chim "bắt cô trói cột” nhưng từng bước chân của tôi ngập ngừng sự chờ đợi sẽ gặp những người quen thân nào đó.

Trung đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy, Anh hùng quân đội thấy tôi đến, anh bước nhanh ra đón, rồi chúng tôi ôm chặt lấy nhau:

- Ôi! Anh An! Anh khỏe chứ?

- Ngụy... mình vẫn khỏe.

Thấm thoắt đã bốn năm mới gặp nhau. Hồi năm 1962 mở chiến dịch Nậm Thà - Mường Xinh giúp Lào chúng tôi cùng chiến đấu, từ đó tới nay mới gặp nhau. Đàm Văn Ngụy gầy guộc, già trước tuổi. Chắc nhìn tôi, anh cũng thấy như vậy. Tôi rất mừng và tự hào có một người chỉ huy cấp dưới như Đàm Văn Ngụy. Anh đã chứng tỏ trong chiến đấu, khi gặp tình huống càng nghiệt ngã phức tạp, càng tỏ ra là người gan góc tài trí.

Chúng tôi dắt nhau xuống thăm mấy phân đội gần đó. Mặc dầu đã được nghe báo cáo "quân số ốm nhiều và khí thế đơn vị đang xuống", tới nơi nhìn tận mắt, tôi cảm thấy không khí của đơn vị còn mệt mỏi nặng nề hơn. Trong lán người ốm và không ốm nằm la liệt, ngoài lán từng tốp năm ba người chuyện trò thì thầm uể oải ít thấy nụ cười tươi trẻ trên môi. Tôi thầm nghĩ: "Trạng thái này"các ông chính trị lại có nhiều việc đây!".

Ít ngày sau phó chính ủy sư đoàn Nguyễn Viên từ trung đoàn 174 trở về. Anh Viên được phân công xuống "vực tư tưởng nó lên". Anh vui vẻ kể lại: nó là đơn vị có bề dày truyền thống, cán bộ chỉ huy lãnh đạo vững vàng, tuy tinh thần đơn vị có sa sút nhưng cán bộ đảng viên không tỏ ra bi quan, họ đang loay hoay tìm cách gỡ. Tôi và anh Đặng Vũ Hiệp xuống nghe tình hình cụ thể. Hai ngày sau anh Hiệp về, còn tôi ở lại. Chúng tôi chỉ gợi ý nhẹ nhàng cụ thể không quy chụp để tự anh em làm công tác tư tưởng. Tới bây giờ đã khá rồi, mấy chiến sĩ có học vấn khá đã khái quát tình hình của đơn vị mình là “e6R".

Tôi hỏi:

- Sáu R là gì?

- Lính mình hóm thật, Sáu R nghĩa là: rầm rộ, rì rầm, rệu rã.

Ở miền Bắc mấy ông tuyên truyền giáo dục thế nào đấy mà anh em đinh ninh là miền Nam sắp giải phóng đến nơi rồi. Khi được lệnh lên đường vào Nam đánh giặc, không khí lạc quan tràn ngập, “rầm rầm rộ rộ" tự động viên nhau "đi nhanh lên! Chậm vào chỉ có nhặt vỏ đạn và ống bơ”. Trên đường mòn Trường Sơn càng gần tới chiến trường càng thiếu thốn đủ thứ, sức khỏe lại cạn kiệt, gặp anh em bạn bè ở chiến trường ra kể chuyện ít giống điều mình hiểu về chiến trường. Anh em “rì rầm” bàn tán về những thông tin mới và trận đánh không thành, thế là cái lăng kính màu hồng được trang bị từ hậu phương dần dần tan biến. Đúng là mấy hôm đầu vào 174 có cảm giác như một đơn vị "bại trận" vì vậy anh em mới khái quát là “rệu rã”.

Có lẽ trong chiến tranh chẳng có người chỉ huy nào muốn xa rời những phân đội mình đã quen thuộc, đổi lấy một phân đội từ nơi khác mới đến, để rồi phải thêm việc tìm hiểu tác phong tư tưởng của nhau, và mất thời gian giúp cấp dưới làm quen với chiến trường... Tôi cũng không thoát ra khỏi tâm trạng chung ấy, nhưng là nhiệm vụ thì phải xắn tay áo lên mà làm.

Rất may bộ khung chỉ huy của sư đoàn vẫn nguyên vẹn, và rất ăn ý nhau. Tất cả bộ tư lệnh sư đoàn khá đều tay, là những người có đầy đủ tinh thần, và năng lực hoàn thành nhiệm vụ của mình. Anh Hoàng Thế Thiện chính ủy là người toàn năng, không chỉ giỏi về chính trị mà còn là người hiểu biết về quân sự, khá sâu những vấn đề có liên quan tới cương vị của mình và rất xứng đáng là nhân vật trung tâm của sư đoàn. Anh Trần Văn Trân là con người luôn luôn lạc quan vui vẻ, nhân hậu, có năng lực về tổ chức huấn luyện và tổ chức công tác hậu cần. Khi đi vắng tôi thường giao cho anh quyền sư đoàn trưởng với niềm tin ấy. Tham mưu trưởng Lê Hữu Đức thường gọi là Đức cụt (bởi anh bị thương cụt một bàn tay từ thời đánh Pháp) là cán bộ dũng cảm, công tác tham mưu giỏi, cách xử trí thông minh...

Vì vậy dù có một trung đoàn mới (174) nhưng guồng máy sư đoàn vẫn chạy đều. Khi có nghị quyết của đáng ủy sư đoàn về chuẩn bị cho chiến dịch đông xuân 1966 - 1967 là người nào việc nấy. Thiện và Viên lo việc tổ chức giáo dục chính trị tư tưởng, tôi và Trân lo việc tổ chức huấn luyện và chuẩn bị hậu cần. Hữu Đức lo tổ chức đi trinh sát địa hình và tình hình địch trong khu vực dự định mở chiến dịch. Qua kết quả đi trinh sát, chúng tôi sơ bộ phân công nhiệm vụ cho các trung đoàn trên bản đồ.

2

Khoảng cuối mùa mưa tôi dẫn cán bộ chính trị, quân sự cấp trưởng từ đại đội trở lên đi trinh sát và giao nhiệm vụ cho từng trung đoàn ngay tại thực địa. Chiến trường Tây Nguyên đang ở thế chủ động, bọn địch quấy phá không đáng kể, nên việc trinh sát địa hình không có gì khó khăn lắm. Thỉnh thoảng lại có trận mưa kéo dầm dề hai ba ngày liền làm cho nhiều đoạn đường mòn lầy lội nhão nhoét, những đoạn dốc đất trơn trượt như đổ mỡ. Cái gậy ở tay mỗi người phải làm việc liên tục mà đôi khi vẫn bị ngã như trời giáng. Ai đó ngã có thể bị đau chút ít, nhưng trong hàng quân thể nào cũng có tiếng hô "tháo đạn đứng dậy” hoặc "chỗ đó mấy mét?"... rồi cười rộ lên. Trời mưa, đáng ghét nhất là sự hoạt động của lũ vắt. Khi có người tới, hàng trăm hàng nghìn con vắt đất, vắt lá như những cái gai nhọn ngẩng đầu đánh hơi. Phát hiện được mục tiêu, lập tức chúng bật tách tách vài cái đã chui vào trong cổ áo, hoặc bám vào bắp chân. Tôi đã sống chiến đấu nhiều năm ở rừng Việt Bắc, Tây Bắc và rừng Lào, chưa nơi đâu lại nhiều vắt như ở rừng Tây Nguyên. Cái của nợ đáng ghét ấy dù chỉ bám vào da mình vài giây thôi, dứt nó ra là khó có thể cầm máu được ngay, có khi máu chảy kéo dài vài giờ liền.

Ít có dịp đi trinh sát chuẩn bị chiến trường lại nhiều chuyện vui như lần này.

Rừng Tây Nguyên còn nhiều đàn voi, có con voi cao như cái nhà, chúng cà lưng lên những cành cây cao. Chúng đi tới đâu cũng gây ra ồn ào như một quệt bão, cây cỏ gãy đổ mở theo dấu chân chúng thành một lối dài. Một hôm chúng tôi dừng lại nghỉ đêm ở rừng chuối. Tôi ngồi trước ngọn nến ghi chép những điều thu thập được trong ngày. Một chiến sĩ cảnh vệ gác vào báo cáo:

- Có đàn voi đi gần.

Tôi nói:

- Báo động cho anh em thức dậy đề phòng chúng xông vào chỗ mình.

Một lát sau có hai chiến sĩ người dân tộc Tày tới đề nghị với tôi:

- Thủ trưởng cho phép chúng tôi bắn một con làm thức ăn.

- Không được. Thèm thì chịu vậy.

Thú thật vài tháng nay thức ăn của chúng tôi chỉ có môn thục1 hoặc khoai dại nấu, bởi vậy nói tới bữa ăn có thịt, dù là thịt voi cũng thèm, nhưng mình là người chỉ huy không thể buông thả được, lỡ có bọn thám báo ở bên cạnh, lộ ra chúng sẽ gọi bom đến.

Vẫn chuyện thịt voi. Một hôm chúng tôi đang đi bỗng dưng từ trên hàng đầu quân truyền xuống "có thịt voi nhanh lên!". Chẳng hiểu lệnh của ai phát ra giống như lệnh truy kích vậy, hàng quân rùng rùng chuyển động về phía trước. Tôi đến chỗ con voi bị bắn chết, một cảnh tượng vui vẻ lạ mắt hiếm thấy. Người từ trong bụng voi chui ra xách theo những tảng thịt lớn, người chen vai nhau róc thịt trên cái rẻ xương sườn cong cong, người cắm cúi khoét từng mảng thịt trên mông... Lúc tôi đến những thứ ngon nhất đã bị cắt mất, đó là cái vòi và bốn bàn chân. Trên mông con voi có vài vết thương hình nón toe toét máu thịt. Tôi hỏi về vết thương kia, một chiến sĩ đang xốc gánh thịt lên vai trả lời: "Thủ pháo nổ đó. Da voi dày và cứng nếu chỉ có dao không thôi thì chẳng ăn nhằm gì”.

Vì đông người, mỗi người moi móc một tảng thịt nên chỉ vài giờ đồng hồ là con voi chỉ còn bộ khung và tấm da. Cũng từ chuyện thịt voi ở khu rừng không tên ấy mà trên bản đồ tác chiến của chúng tôi đã có cái tên “Bãi voi" và nói tới "Bãi voi” là gần như cả sư đoàn đều biết.

Hiếm có chuyến đi trinh sát địa hình nào kỹ hơn thế. Chúng tôi quần đi quần lại trên từng mỏm đá, từng khe suối, và bất kỳ mảnh rừng nào - nơi chúng tôi nghĩ rằng có ý nghĩa chiến thuật của ba dải núi Ngọc Bơ Riêng, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Tang bị bỏ qua. Ba dải núi này có nhiều điểm cao có giá trị khống chế căn cứ Đắc Tô. Từ một điểm cao của Ngọc Rinh Rua, chúng tôi có thể nhìn rõ những mái nhà tôn lấp lánh, sân bay với những đường băng màu đen kẻ thẳng và những chiếc trực thăng đang quạt lên một lớp bụi đỏ mờ...

____________________________

1. Một thứ khoai nước mọc ở các khe suối.

3

Toàn bộ quyết tâm chiến dịch đã được Đảng ủy Mặt trận B3 thông qua lấy tên “Đắc Tô 1” sẽ diễn ra ở phía tây nam quận lỵ Đắc Tô, cách tây bắc thị xã Công Tum 50 ki-lô-mét, ở khu vực núi cao rừng khộp xen lẫn rừng nứa. Mục đích chiến dịch: tiêu diệt một bộ ăn sinh lực quân Mỹ, thu hút quân Mỹ lên Tây Nguyên càng nhiều càng tốt. Tiêu diệt một bộ phận quân ngụy làm tan rã trung đoàn 42 và 45 ngụy. Yêu cầu cụ thể: cố gắng tiêu diệt một đến hai tiểu đoàn Mỹ và một số đại đội lẻ, tiêu diệt và làm tan rã trung đoàn 42 ngụy, phát triển chiến tranh du kích rộng khắp trên ba tỉnh Tây Nguyên.

Qua đánh giá tình hình mọi mặt, chúng tôi rất tin mục đích yêu cầu đã nêu trên sẽ trở thành hiện thực.

Bộ đội Tây Nguyên khá dày dạn và tỏ ra có bản lĩnh cao trong chiến đấu, đặc biệt là sư đoàn 1 đã qua ba lần thử thách đương đầu trực tiếp với quân Mỹ, cả ba lần đều đánh thắng, và trận sau thắng to hơn trận trước. Một yếu tố quan trọng để giành thắng lợi cho trận đánh là "biết địch biết ta trăm trận không nguy". Ai cũng biết rõ rằng Mỹ mạnh hơn ta rất nhiều lần về vật chất vũ khí kỹ thuật. Quy luật chiến tranh là mạnh được, yếu thua. Vậy ta có cái gì mạnh? Qua bao lần đụng đầu với quân Mỹ, chúng tôi thấy quân ta bộc lộ rõ cái mạnh tuyệt đối về tinh thần, trí tuệ, thể hiện ra cách đánh hết sức linh hoạt, cộng với việc chuẩn bị thật kỹ để phát huy được tối đa mặt mạnh, khắc phục sự nghèo nàn lạc hậu về trang bị và cơ sở vật chất của mình; cái mạnh ấy của ta đã làm hạn chế, có lúc vô hiệu hóa sức mạnh chủ yếu của Mỹ tạo ra sự chuyển hóa: ta mạnh hơn Mỹ trong những trận đánh mấy năm qua. Chiến dịch "Đắc Tô 1” lần này chúng tôi hết sức nghiền ngẫm việc vận dụng kinh nghiệm và phát huy hơn nữa sức mạnh của ta.

Về tình hình địch trên chiến trường miền Nam: quân số thêm 6 vạn, vũ khí, kỹ thuật Mỹ tăng rất nhanh. Vào cuối năm 1966 quân số Mỹ đã lên tới 45 vạn; tới cuối 1969 không quân lên tới 28 phi đoàn máy bay chiến đấu, chiến thuật và 3.000 máy bay trực thăng; số quân ngụy tới cuối 1969 cũng tăng lên tới 65 vạn... Mỹ đưa quân càng đông vào miền Nam càng tạo ra nghịch lý kho bề chạy chữa.

Nhà cầm quyền Mỹ hiếu chiến muốn giấu nhân dân Mỹ về mức độ tham gia cuộc chiến tranh, nhưng quân Mỹ vào càng đông thương vong càng lớn và càng không giấu nổi, do đó phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ ngày càng mạnh, làm cho nước Mỹ rối ren. Mong muốn của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc là quân Mỹ vào sẽ vực quân ngụy lên, nhưng trái lại từ khi Mỹ vào đông tự lãnh trách nhiệm “tìm diệt”, quân ngụy thành kẻ điếu đóm thụ động. Sự thật trớ trêu, Mỹ chẳng "tìm diệt" được ai mà còn bị bươu đầu sứt trán, tinh thần quân ngụy vốn đã sa sút lại càng sa sút hơn.

Ở chiến trường Tầy Nguyên có lực lượng của vùng 2 chiến thuật. Ngoài sư đoàn 22 ngụy, có sư bộ binh 4 Mỹ, lữ bộ binh 4 (thuộc sư 25 Mỹ). Tây Nguyên là chiến trường nhạy cảm, khi tình hình biến động có thể thu hút lên khá đông lực lượng cơ động Mỹ.

Qua vài lần chạm trán với quân ta, quân Mỹ nhất là sư đoàn 4 tỏ ra ngập ngừng thận trọng không còn hung hăng như trước. Về chiến thuật, kể cả chiến lược quân Mỹ đang đi vào ngõ cụt, không có lối thoát.

Lực lượng của ta ở Tây Nguyên, ngoài lực lượng địa phương của các tỉnh, lực lượng chủ lực cơ động ta có sư đoàn 1, gồm ba trung đoàn bộ binh (66, 320, 174) và các trung đoàn lẻ (trung đoàn 24, 33, 95 và trung đoàn pháo) trực thuộc bộ chỉ huy Mặt trận. Quân ta sĩ khí đang lên và đã tìm ra được cách đánh thích hợp.

Mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch đã xong. Sư đoàn tôi ở hướng chủ yếu được tăng cường trung đoàn bộ binh 24 và trung đoàn pháo binh 40. Ngày 30 tháng 10 năm 1967 ở hướng chủ yếu đã chiếm lĩnh trận địa dọc theo bắc, nam đường 18 (từ Đắc Tô, Tân Cảnh chạy sang Lào), chiếm các điểm có giá trị chiến thuật như buôn Nga, Ngọc Dơ Lang, Đắc Mót... Hai hướng phụ cua chiến dịch chiếm lĩnh trận địa từ ngày 15 tháng 10.

Gần như cùng thời gian ta mở chiến dịch, quân Mỹ cũng triển khai đội hình cuộc hành quân mang tên Mác A-tơ để càn quét phá cuộc tiến công mùa khô của ta.

Chúng tôi theo dõi khá chặt hành động của địch. Qua các nguồn tin của cấp trên thông báo, qua trinh sát và cả các tin kỹ thuật, từ tháng 9 Mỹ đã vận chuyển cơ sở vật chất hậu cần liên tục bằng đường bộ, đường không lên Plây Cu, số lượng hàng có ngày lên tới 500 - 700 tấn. Mỹ đã lập bộ chỉ huy tiền phương của cuộc hành quân Đắc Tô. Trung tuần tháng 10, một tiểu đoàn Mỹ đã hành quân ra phía Chư-de, Lắc-mê... thuộc tỉnh Đắc Lắc; một lữ thuộc sư 4 Mỹ hành quân ra khu vực Chư Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Ngày 30 tháng 10 một tiểu đoàn thuộc lữ 1 sư 4 Mỹ ra chốt Ngọc Rinh Rua. Cùng thời gian chúng triển khai nhiều trận địa pháo ở Đắc Mót, Plây Cần, đồng thời điều lữ 173 Mỹ từ Phú Yên lên đóng tại An Khê. Các hướng hành quân thăm dò của địch đều chạm trán ta. Các hướng phối hợp của chiến dịch (từ 15-10 – 30-10) đã đánh nhiều trận phục kích, pháo kích phá kho tàng cầu cống trên đường 14, đường 19 và các căn cứ ở Đức Cơ, Gia Lai, Đắc Lắc. Địch vẫn chưa tìm thấy hướng hoạt động của sư đoàn 1.

4

Ngày 30 tháng 10, tôi và chính ủy Hoàng Thế Thiện cùng bộ phận chỉ huy nhẹ sắp sửa lên đường ra phía trước. Mọi người đã xốc ba lô lên vai, thấy tiếng máy bay phản lực ào qua, tiếng bom nổ ình ình ở phía đông cách chỗ chúng tôi khoảng ba, bốn cây số, rồi tiếp đến tiếng ồn ào của động cơ trực thăng tưởng như vỡ cả bầu trời, dễ chừng có tới vài chục chiếc, chúng nhào xuống có vẻ như đổ bộ rồi lên khá nhanh. Tôi chống gậy nhìn lên khoảng trống của vòm lá rừng, cho thấy làn mây trắng mỏng vắt ngang nền trời xanh. Tiếng động cơ máy bay và bom đạn dội vào tôi nhiều cảm nghĩ lo lắng và hy vọng.

Tôi nói với anh Thiện:

- Nó đổ xuống đây là phúc cho mình đỡ phải khêu ngòi lôi thôi.

Quả thật như vậy, suốt từ lúc đặt nét bút để làm kế hoạch chiến dịch tôi đã lo đến việc khêu ngòi, đến lúc này vẫn còn lo, làm sao kéo quân Mỹ ra đúng ý định của mình. Chúng tôi đã dùng tiểu đoàn 6 trung đoàn 24 tăng cường một đại đội sơn pháo, một trung đội ĐKZ chốt trên một số điểm cao Ngọc Rinh Rua, Ngọc Kông Rinh, Ngọc Tang, Ngọc Bơ Biêng phía tây nam Tân Cảnh. Các đơn vị này có nhiệm vụ dùng pháo, cối, khống chế sân bay Tân Cảnh (máy bay hạng nhẹ thường lên xuống sân bay này) gây sức ép buộc quân Mỹ phải phản ứng bằng cách nhảy ra nhổ mấy "cái gai" nhức nhối ấy. Chỉ cần chúng nhảy ra đánh nhau với tiểu đoàn 6, chúng tôi sẽ có cách dẫn chúng vào trận đồ đã bày sẵn.

Tiếng máy bay trực thăng vẫn chưa dứt, tôi nói với chủ nhiệm trinh sát sư đoàn:

- Cho một toán trinh sát mang theo bộ đàm ra trinh sát nơi chúng vừa đổ bộ, kết quả thế nào báo cáo ra sở chỉ huy tiền phương cho tôi biết.

Chúng tôi đi một ngày mới đến điểm cao 1.577 nơi đặt sở chỉ huy tiền phương, nằm giữa khu vực trận địa của trung đoàn 66 và 174, cách Ngọc Rinh Rua khoảng 3 ki-lô-mét đường chim bay.

Sở dĩ tôi và chính ủy Thiện phải "nằm” ở sở chỉ huy tiền phương, cũng vì các việc "châm ngòi” dụ địch vào đúng ý định của mình. Bởi quan niệm sở chỉ huy tiền phương là nơi điều hành một bộ phận đang nóng bỏng nhất, còn sở chỉ huy cơ bản nơi điều hành toàn bộ diễn biến của chiến trường thường do cấp trưởng nắm, nên anh Trân phó tư lệnh muốn giành phần đi tiền phương “vất vả nguy hiểm hơn". Trong chiến đấu không phải việc gì cũng có thời giờ bàn cho ra nhẽ mới làm, tôi nói với anh Trân một câu ngắn: "ông ở phía sau nắm sở chỉ huy cơ bản, nơi đó cũng không ít bom đạn đâu” rồi chống gậy lên đường.

Vừa đến nơi, buổi tối hôm đó tôi nhận được báo cáo của chủ nhiệm trinh sát: "Anh em đã đến nơi địch đổ bộ buổi sáng. Chúng đổ bộ giả không để lại dấu vết gì". Tôi với anh Thiện trao đổi với nhau và kết luận: Địch vẫn chưa phát hiện được hướng hoạt động của sư đoàn 1 nên vẫn tích cực thăm dò.

Đến ngày 3 tháng 11 toàn sư đoàn đã chiếm lĩnh khu vực phía nam I-a-lố-kơ-ram. Trung đoàn 66 chiếm lĩnh Ngọc Cam Liệt, Đắc Vây Côn. Tiểu đoàn 2 trung đoàn 174 chiếm lĩnh sườn tây điểm cao 875. Điểm cao này hết sức quan trọng, nó là quyết chiến điểm của chiến dịch. Tôi đã cùng trung đoàn trưởng trung đoàn 174 Đàm Văn Ngụy trao đổi với nhau khá kỹ, cả những giả định tình huống chiến thuật, ở tại thực địa 875. Tôi nói thêm để củng cố lòng tin cho anh Ngụy: "Anh yên trí. Tôi sẽ điều thêm đúng 1 tiểu đoàn địch vào 875 cho anh, còn việc tiêu diệt nó là thuộc về trách nhiệm của anh đấy”. Ngụy cam đoan: “Nếu nó đã vào tới đây tôi sẽ không cho nó thoát đâu, anh hãy tin ở tôi". Lúc đầu ta đưa một lực lượng nhỏ phòng ngự trận địa kiên cố trên điểm cao. Do những trận đánh của các đơn vị ở phía trước dẫn dắt địch, chúng có thể đổ bộ xuống mấy cái nương ở sườn 875, khi đổ bộ xuống rồi tất yếu chúng sẽ mò lên chiếm điểm cao, và mò lên gặp "chốt” của ta ngăn chặn, lúc đó ta dùng lực lượng lớn của trung đoàn vận động tới tiến công vào sườn phía sau. Cứ như thế có thể diễn ra với ba trận "vận động kết hợp chốt", diệt gọn một hai tiểu đoàn địch, rồi kết thúc chiến dịch. Tôi rất tin ở đội ngũ cán bộ của trung đoàn 174 đã qua nhiều thử thách sẽ làm cho chương kết của chiến dịch này rực rỡ hơn.

Mọi việc diễn ra trước ngày N trôi chảy, đùng một cái có tin ngày 2 tháng 10 một lính cảnh vệ của sư đoàn vào đầu hàng địch.

Công việc thường ngày cũng căng lắm rồi, cái tin ấy làm đầu tôi muốn nổ tung ra. Không hiểu tên “cảnh vệ" ấy biết những gì, nó sẽ cung cấp tin tức gì cho địch, bọn Mỹ sẽ đối phó thế nào. Cái gì? Thế nào?... còn chưa rõ nhưng điều chắc chắn, nếu nơi nào đó đã phát hiện được lực lượng của sư đoàn 1 thì bom và đạn pháo sẽ trút xuống hơn sung rụng. Việc phải làm gấp là đôn đốc các đơn vị làm công sự và báo cáo ngay mọi hoạt động của địch về sở chỉ huy tiền phương.

Công sự ngay ở sở chỉ huy của chúng tôi cũng chỉ là những hố cá nhân lộ thiên nông toẹt. Không thể đòi hỏi anh em công binh làm hơn thế được. Sở chỉ huy sư đoàn chỉ có một trung đội công binh làm “trăm thứ bà giằn” nào công sự cho sở chỉ huy cơ bản, chỉ huy tiền phương, làm đường, rồi cả vận tải cũng đến họ.

Ngày 3 tháng 11 vừa mở mắt ra đã nghe tiếng máy bay, tiếng bom và đạn pháo nổ ở bốn xung quanh, nhất là phía Ngọc Dơ Lang, Ngọc Bơ Biên, Ngọc Nhơn.

Đứng nhìn hầm hố của mình sắp tới giờ thử thách, tôi nói đùa với anh Thiện:

- May nó thì nó ăn, may ta thì ta ăn!

5

Từ ngày 3, độ nóng của chiến sự ở khu vực sư đoàn 1 tăng lên rất nhanh.Trong ngày mồng 3 địch đổ hai đại đội hộ binh Mỹ (thuộc sư đoàn 4) xuống Ngọc Dơ Lang, Ngọc Bơ Biêng, Ngọc Nhơn. Các “chốt” của tiểu đoàn 6 ở các điểm đó đã nổ súng.

Ngày 4 tháng 11 lữ 173 Mỹ từ An Khê đổ xuống tăng cường cho Tân Cảnh. cùng ngày tiểu đoàn 3 thuộc lữ 1 Mỹ cũng đến Tân Cảnh.

Ngày 5 tháng 11 địch chuyển một lữ dù từ Phú Bài tới Đắc Tô.

Ngày 6 tháng 11 lữ 173 Mỹ hành quân bằng ô tô từ Tân Cảnh lên Plây Cần vào Ngọc Cam Liệt, một bộ phận đổ xuống điểm cao 823.

Hoạt động của địch mấy ngày qua biểu lộ địch đã nắm được khu vực mở chiến dịch của sư đoàn 1.

Tôi liên tục nhận được tin các trận đánh của các đơn vị phía trước. Ngày 4 tháng 11 một tiểu đội (thuộc tiểu đoàn 6, trung đoàn 320) chốt trên điểm cao tây Ngọc Bơ Biêng đã đánh lui tám đợt xung phong của địch, chúng phải bỏ xác tại trận, ta thu 5 tiểu liên, 1 máy vô tuyến điện, tiêu hao nặng 1 đại đội (thuộc sư đoàn 4 Mỹ). Ngày 6 tháng 11 do nắm được ý định của địch đánh vào Ngọc Cam Liệt, đại đội 9 (tiểu đoàn 9, trung đoàn 66) đã thực hành chiến thuật “vận động kết hợp chốt" tiêu diệt gần hết hai đại đội thuộc lữ 173 Mỹ. Do ham truy kích, anh em không để người giữ "chốt" nên đã bị lực lượng chi viện của địch chiếm mất "chốt". Cùng ngày địch đổ xuống Ngọc Dơ Lang rồi tiến xuống điểm cao 724, tiểu đoàn 6 (trung đoàn 320) chặn đánh diệt gần 100 tên, số sống sót cụm lại rồi đổ tiếp thêm hai đại đội nữa.

Diễn biến của chiến dịch sớm hơn dự định (dự định ngày 15 tháng 11 hướng chủ yếu mới nổ súng) chưa kịp "châm ngòi" địch đã ra. Tuy vậy không ảnh hưởng gì lớn tới kế hoạch chiến dịch của ta, chúng tôi chỉ điều chỉnh đội hình lại một chút là phù hợp với tình hình thực tế.

Nói chung, ta vẫn giữ thế chủ động, các cánh quân địch từ khi nống ra và đổ xuống đều bị ta chặn đánh thiệt hại. Cho tới ngày 5 tháng 11 địch đã bị tiêu diệt ba đại đội, tiêu hao hai tiểu đoàn.

Tôi nhận định: để tránh bị tiêu diệt và buộc ta phải đối phó, bọn Mỹ sẽ tiếp tục đổ quân vào sâu thêm. Ta cần tổ chức tranh thủ đánh một số trận “vận động kết hợp chốt”, đồng thời tổ chức đánh một số trận tập kích khi địch cụm lại.

Tôi hạ lệnh: trung đoàn 174 nếu địch đổ xuống điểm cao 875 hoặc xung quanh nó, lập tức tổ chức xuất kích đánh vào sườn đội hình địch. Lệnh cho tiểu đoàn 6 (trung đoàn 24) ở phía trước kiên quyết giữ vững trận địa kìm chân địch. Đề nghị với mặt trận cho các trung đoàn 33 và 95 hoạt động mạnh hơn ở hướng thu hút.

Các cuộc đụng độ với mật độ, lực lượng ngày một lớn và khẩn trương hơn. Tối ngày 7 ta pháo kích vào điểm cao 724. Ngày 8 ta dùng tiểu đoàn 4 (trung đoàn 320) tập kích tiêu diệt tiểu đoàn 3 (lữ 1, sư đoàn 4 Mỹ) đóng trên điểm cao 724. Diễn biến tóm tắt: 13 giờ trong ngày tiểu đoàn 4 hành quân chiếm lĩnh trận địa. 16 giờ hai đại đội địch nống ra phía tây cao điểm 724. Phát hiện sớm được hành động của địch, trung đoàn 320 linh hoạt chuyển cách đánh, sử dụng tiểu đoàn 6 phối hợp nhưng khi vào trận chỉ có tiểu đoàn 4 đánh vận động diệt tại chỗ 150 tên (thiệt hại nặng 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 3, lữ 1, sư đoàn 4 Mỹ), bắn rơi hai trực thăng, địch phải bỏ xác chạy về điểm cao 724.

Hoạt động của ta trong ba ngày 8, 9, 10 tháng 11 quyết liệt nhất là khu vực "chốt" của tiểu đoàn 6 (trung đoàn 24). Đại đội 11 (tiểu đoàn 6) đánh lui nhiều đợt xung phong diệt khoảng 120 tên địch. Tiểu đoàn 6 sử dụng "vận động kết hợp chốt" đánh lui ba đợt xung phong của địch, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 1 (lữ 1 Mỹ), diệt khoảng 300 tên. Ta thương vong 32 người.

Tới đêm ngày 7 tháng 11 tiểu đoàn 6 (trung đoàn 24) được lệnh rút bỏ hai "chốt" phía tây Ngọc Bơ Biêng để nhử địch vào sâu cao điểm 875 còn giữ hai “chốt".

Cũng trong ngày 7 tháng 11, tại điểm cao 1.089 ta có một tiểu đội chốt ở đó đã đánh lui năm đợt xung phong diệt khoảng 70 tên, thu một số súng, nhử địch vào sâu.

Suốt từ ngày 3 tháng 11, ngày cũng như đêm hầu như không giờ phút nào vắng tiếng máy bay, tiếng bom đạn, và ngày đêm nào cũng có vài ba đợt bom B.52 rải xuống như sấm rền trong khu vực đội hình của ta. Mỗi ngày khi mặt trời vừa xuống núi là từng chùm pháo sáng do máy bay địch rải bay lơ lửng, hết đợt này đến đợt khác suốt đêm soi rõ từng ngọn cỏ, từng cành lá rơi. Tôi có cảm giác mật độ bom đạn địch vung vãi tưởng như có thể phủ khi cả một vùng rừng núi rộng lớn; nhiệt độ chiến trận mỗi lúc thêm nóng bỏng, có cái gì đó giống như chiến dịch Plây-me và thung lũng Ia-đrăng.

Ngày 11 tháng 11 địch dùng tiểu đoàn 4 (thiếu 1 đại đội) thuộc lữ 173 từ điểm cao 823 nống ra phía tây. Tiểu đoàn 7 (trung đoàn 66) đã bố trí sẵn ở hướng đó. Nhận được tin địch ra, trung đoàn 66 cho tiểu đoàn 8 xuất kích phối hợp với tiểu đoàn 7. Sau một giờ bốn mươi lăm phút ta đã tiêu diệt gọn cánh quân này.

Phán đoán địch sẽ đổ quân xuống bãi trống ở cách nơi vừa xảy ra trận đánh khoảng hơn 1.000 mét để chi viện cho tiểu đoàn 4 Mỹ và giải quyết hậu quả, trung đoàn 66 đã nhanh chóng đưa tiểu đoàn 8 về ngay nơi đó phục kích. Quả nhiên tình huống diễn ra đúng như vậy. Khoảng ba bốn chục chiếc trực thăng chở hai đại đội của tiểu đoàn 1 (thuộc lữ 173) tới, tiếng máy bay nổ inh tai nhức óc, vài chiếc đã tiếp đất, vài chiếc đang treo lơ lửng trên không cách mặt đất vài trăm mét, còn hàng chục chiếc khác đang vòng lượn xuống thấp dần. Tiểu đoàn 8 đã dùng toàn bộ hỏa lực liên thanh đồng loạt bắn vào máy bay địch. Ngay từ phút đầu đã có nhiều máy bay bốc cháy. Kết quả 7 chiếc rơi và bốc cháy tại chỗ, hàng chục tên Mỹ chết thui trong máy bay. Số quân đã ra khỏi máy bay hoảng hốt tháo chạy. Anh em tiểu đoàn 8 truy kích tiêu diệt gần hết, hàng trăm xác địch bỏ lại ngổn ngang trên trận địa.

Buổi tối, qua đài thu thanh bán dẫn, tôi nghe đài BBC bình luận, đại ý: lữ dù 173 Huê Kỳ là một đơn vị có truyền thống gan góc, một đơn vị sừng sỏ chưa hề biết thua trận là gì, lần đầu tiên đã chịu tháo chạy trước quân Việt cộng.

Sau trận đánh trên địch lại đổ quân xuống điểm cao 8345 để đỡ đòn.

Cùng ngày 11 ở hướng trung đoàn 320, địch trên điểm cao 724, đại đội C nống ra hỗ trợ cho tiểu đoàn 4 (lữ 173). Tiểu đoàn 5 (trung đoàn 320) của ta đã vận động tấn công vào 1 đại đội Mỹ, tiêu diệt gần trăm tên và hạ 2 trực thăng. Số còn lại lui về điểm cao 724.

Ở hướng trung đoà n 174, cả 3 tiểu đoàn đã hoàn thành công tác chuẩn bị. Tiểu đoàn 3 đã vào chốt ở các điểm cao 875, 882 và 943.

Sở chỉ huy tiền phương chúng tôi nhận định: Trung đoàn 66 (thiếu một tiểu đoàn vừa rồi đánh rất tốt. Một trận vừa đánh địch tiến công bằng bộ binh vừa đánh quân đổ bộ bằng trực thăng diễn ra khoảng ba giờ đồng hồ đã tiêu diệt gần 5 đại đội Mỹ, chứng tỏ việc bố trí đội hình trung đoàn 66 (ở tuyến trung gian) trên địa hình đó là thích hợp.

Lực lượng của ta xuất hiện như thế là vừa phải, không sớm hoặc muộn quá, vì vậy đã kéo được lực lượng địch vừa sức ta và địch vào sát với dự kiến của ta. Ta mới dùng hai trung đoàn (66 và 320), còn trung đoàn 174 "gói giấy bóng” dành cho những trận đánh then chốt ở quyết chiến điểm.

Mười giờ ngày 12 tháng 11, pháo binh và máy bay B.52 bắn phá ném bom dữ dội vào khu vực đội hình của trung đoàn 320 và 66 để yểm trợ cho hai đại đội Mỹ vào giải quyết hậu quả trận đánh của ngày hôm trước, đồng thời thăm dò.

Tiểu đoàn 3 (trung đoàn 174) phát hiện địch hành quân gần nơi ém quân của mình, đã chủ động xuất kích tiêu diệt gọn đại đội A Mỹ đi đầu. Đại đội địch hành quân kế đó thấy "thằng" đi đầu bị diệt. Chúng quay đầu vội vã chạy về cụm ở điểm cao 845.

Chúng tôi chủ trương cho bọn địch ở 845 sống yên ổn để làm mồi nhử địch vào sâu hơn. Bởi 845 không có giá trị gì về chiến thuật nếu muốn giữ 845 địch nhất định sẽ chiếm các điểm cao 882 và 875, vì mỗi điểm cao chỉ cách nhau khoảng hơn một trăm mét có thể khống chế lẫn nhau.

Một lần nữa bọn Mỹ lại bị ta dắt mũi. Ngày 13 và ngày 14 bọn chúng từ điểm cao 845 tiến sang chiếm điểm cao 882. Tiểu đoàn 3 (trung đoàn 174) đã sử dụng bộ phận chốt ở 882 đánh lui nhiều đợt xung phong của địch. Hai ngày chiến đấu có đôi bên đều phải chịu sự ác liệt như nhau. Có lần máy bay địch phải rải bom trùm lên đội hình của chúng. Tới cuối ngày 14 địch phải rút quân trở về 845. Trong hai ngày chiến đấu, tiểu đoàn 3 (trung đoàn 174) đã diệt 220 tên Mỹ, bắn rơi một máy bay và thu một số súng. Số thương vong của ta không đáng kể.

Chiều 14 trung đoàn 320 dùng cối 120 ly pháo kích vào bọn địch cụm ở điểm cao 823. Tối 14 tôi chỉ thị cho trung đoàn 174, cho bộ phận bám địch ở điểm cao 823 thuộc tiểu đoàn 3 rút để nhử địch vào quyết chiến điểm 875.

Cho đến hôm nay tình thế cả đôi bên đã có nhiều đổi thay. Quân Mỹ thiệt hại khá nặng và đang lâm vào tình trạng sa lầy thế thủ để cứu nguy cho sư đoàn bộ binh 4 và lữ 173. Mỹ phải tức tốc điều thêm một lữ của sư kỵ binh bay và chiến đoàn dù 30 đến Đắc Tô.

Về phía ta, tình hình phát triển rất thuận lợi, khớp với dự kiến trong kế hoạch tác chiến; từng bước vừa tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch vừa dẫn dắt chúng theo ý ta vào trận địa đã bố trí sẵn. Còn có nhược điểm chưa có trận tập kích nào tốt; chưa coi trọng việc bắn máy bay, nhất là máy bay lên thẳng.

Chúng tôi đề nghị về Bộ chỉ huy Mặt trận: nhân cơ hội địch khốn quẫn ở phía trước ta đẩy mạnh hơn nữa ở các hướng thu hút, đẩy mạnh hoạt động trong lòng địch, tập kích các hậu cứ, đánh giao thông...

Trong thế thắng, sư đoàn 1 vừa đánh vừa tranh thủ củng cố lực lượng, bổ sung vũ khí đạn dược tiếp tục tấn công, với quyết tâm đợt tới tập trung cả ba trung đoàn 66, 320, 174 tiêu diệt lữ 173 Mỹ.

6

Bước vào đợt 2 (từ 17 đến 22 tháng 11) chúng tôi di chuyển sở chỉ huy tiền phương về gần sát với sở chỉ huy trung đoàn 174 cho tiện việc liên lạc chỉ huy. Phạm vi chiến trường lúc này đã thu hẹp, cả địch và ta đều dồn lại xung quanh điểm cao 875. Tôi gặp anh em cán bộ trung đoàn 174, mọi người tỏ ra lạc quan. Anh em nói: "Ừ, thì ra bọn Mỹ cũng dễ sai khiến...".

Từ ngày 17 tháng 11 địch lần lượt tung vào trận hết lữ 173, phần lớn sư đoàn 4, trung đoàn 42 ngụy, chiến đoàn dù ngụy, sau đó lại tiếp thêm lữ kỵ binh bay 1 (tổng cộng tới 16 tiểu đoàn: 12 tiểu đoàn Mỹ, 4 tiểu đoàn ngụy).

Trong ngày 17 ta pháo kích vào hai trận địa pháo của địch, phá hỏng một số pháo, diệt khoảng năm mươi đến sáu mươi tên địch.

Ngày 18 địch đổ nốt hai đại đội còn lại của lữ 173, bọn này tiến lên điểm cao 882. Phát hiện địch, ta sử dụng tiểu đoàn 8 (trung đoàn 66) tăng cường một đại đội "vận động kết hợp chốt” diệt khoảng 90 tên thu một số súng. Vì công tác chuẩn bị chưa tốt, nên trận đánh không dứt điểm. Địch lui về điểm xuất phát, rồi cụm lại. Ta chuyển cách đánh vận động sang tập kích.

Cùng ngày tiểu đoàn 2 (lữ 173 Mỹ) tiến lên 875 gặp bộ phận "chốt". Anh em đã chặn đánh diệt 90 tên, thu một số súng. Địch bỏ xác tại trận, số còn lại lui về chỗ cũ.

Bộ tư lệnh chúng tôi nhận định: địch đã xuất hiện tiểu đoàn 1 và 2 thuộc lữ đoàn 173 ở quyết chiến điểm. Đây là những đơn vị cuối cùng của lữ 173 mà ta đang chờ đợi, thời cơ thực hiện quyết tâm đã tới.

Ngày 19 và 20 địch tập trung pháo, máy bay bắn phá dữ dội. Sáng 19 suốt từ 7 giờ đến 9 giờ 45 phút, sau trận pháo, bom cấp tập vào điểm cao 875, đất đá trở thành cát bụi, tưởng như một con kiến cũng không sống nổi, lúc đó quân Mỹ mới xông lên. Nào ngờ chúng vừa lóp ngóp gần tới đỉnh đã bị một trận bão đạn liên thanh, lựu đạn quất vào mặt. Chịu không nổi, chúng vội vàng rút lui không kịp lấy xác đồng đội. Lui xuống củng cố lại tổ chức, chúng lại tấn công tiếp. Trong hai ngày chúng liên tục bảy lần xung phong và cũng bảy lần thất bại.

Đàm Ngụy nói qua điện thoại với tôi:

- Xác địch và những tên bị thương nằm la liệt ngay cạnh mép chiến hào rải dài xuống các hố bom đến gần 100 tên.

Tôi nói với Ngụy:

- Như vậy càng tốt, số thương vong đó chứng tỏ chúng lên chỉ khoảng hai đại đội. Báo anh em "chốt” khống chế không cho chúng lấy xác, buộc chúng muốn giải quyết thương vong phải mở cuộc tấn công nữa.

Quả nhiên địch mở đợt tấn công nữa. Nghe tiếng súng liên thanh AK trên chốt nổ, và tiếng trên thanh M.16 lép bép đáp lại, tôi gọi điện nói với Nguy:

- Anh cho sử dụng tiểu đoàn 1 và 2 do anh trực tiếp chỉ huy đánh vòng sườn phía sau địch.

Tiếng rú của đủ loại máy bay, tiếng bom cũng đủ loại, bom phá, bom bi, bom na-pan và những loạt dài đạn 20 ly, 12 ly 7 nổ. Chúng chưa chịu từ bỏ việc chiếm 875. Xen kẽ trong tiếng bom nặng nề, có tiếng súng liên thanh cỡ nhỏ nổ chồng chéo nhau. Tôi phán đoán đơn vị ta vận động ra đã gặp địch, và chỉ vài phút sau tôi đã nghe tiếng của trưng đoàn trưởng Nguy trong máy vô tuyến: Chúng tôi đã gặp tiểu đoàn 2 Mỹ. Các tiểu đoàn của ta đã thực hiện đúng phương án.

Trong trận đánh, thỉnh thoảng tôi và Ngụy lại gặp nhau qua hữu tuyến. Ngụy báo cáo tình hình diễn biến tóm tắt, tôi động viên và nhắc nhở anh em cách đánh. Trận đánh kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ mới kết thúc. Ta đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn 2 thuộc lữ 173, thu toàn bộ vũ khí.

Sau trận đánh gặp Ngụy qua máy hữu tuyến tôi vẫn nhắc lại lệnh: "chốt” phải tích cực khống chế không cho địch lấy xác.

Mỹ như con bạc khát nước, tiếp tục ném quân vào khu vực 875. Ngày 20 tháng 11 một bộ phận của sư đoàn kỵ binh bay đổ cách xa 875 khoảng sáu trăm mét. Hồi 14 giờ có 25 tên lò dò ra trinh sát xem lực lượng của ta còn hay đã rút, bị lực lượng ta diệt gọn.

Máy bay trực thăng của chúng kéo đàn kéo lũ đến tầng trên tầng dưới rợp cả vùng trời 875. Chúng tôi đoán trước, thể nào địch cũng đổ quân, nên đã bố trí hỏa lực khống chế các bãi đổ bộ. Mỗi lần máy bay địch sà xuống thấp lọt vào tầm bắn có hiệu quả của các loại súng liên thanh, là lúc những loạt đạn các cỡ lao ra bám riết lấy chúng, và mỗi lần như vậy chưa kịp đổ quân đã rụng xuống vài chiếc. Kể từ 14 giờ cho đến tối ngày 20 địch không đổ được một tên lính nào xuống đất, mà đã rơi tại trận 8 chiếc trực thăng.

Ngay sau ngày hôm đó tướng Oét-mo-len đã phải thừa nhận: Ngày 20 là một ngày quyết liệt (bi thảm) của lữ đoàn 173, suốt ngày máy bay lên thẳng không tiếp đất được.

Cái thông lệ của quân Mỹ: Khi chuẩn bị tiến công, khi phát hiện được lực lượng đối phương và cả khi thua trận nữa, là các loại bom, pháo.. thả sức bắn phá vào khu vực dự định.

Ngày 21 tháng 11 chúng dành riêng cho "chốt 875" mười lăm lần tốp máy hay phản lực tới oanh tạc.

Ở sở chỉ huy tiền phương, anh em công binh làm một đài quan sát trên một ngọn cây, từ đó có thể quan sát phần lớn điểm cao 875. Thấy tiếng bom nổ rền không lúc nào ngớt ở phía 875, tôi trèo lên đài quan sát đưa ống nhòm nhìn về phía đó. Thật khó có thể tưởng tượng nổi, sau khoảng nửa ngày bom đạn đã làm thay đổi địa hình khu vực này đến như vậy. Hồi chúng tôi tới đây trinh sát cả vùng rộng "875" là rừng le rừng nứa lẫn rừng cây rậm rạp, bây giờ màu xanh bị lột sạch, trơ ra màu đất đỏ hoẻn như máu. Anh em trên "chốt" phải dùng cành cây cháy để ngụy trang. Nhiều đoạn chiến hào đã bị san phẳng.

Khoảng 17 giờ một tiểu đoàn địch lại tấn công lên "chốt”. Dọc đường xưng phong, địch bị ta tiêu hao khá nặng, nhưng cuối cùng chúng cũng chiếm được một đoạn chiến hào. Trận đánh giáp lá cà giành đi giật lại từng tấc đất, diễn ra kéo dài mấy giờ liền rất quyết liệt. Đêm hôm đó cả đôi bên cùng mệt mỏi rã rời, họ nằm ngủ cách nhau vài chục mét.

4 giờ sáng ngày 22 ta mở một trận phản kích dùng lựu đạn, tiểu liên đẩy địch xuống và giành lại được đoạn chiến hào.

Khoảng 9 giờ địch xung phong chọc thủng trận địa “chốt", chúng lại chiếm được một đoạn chiến hào, và trận huyết chiến giáp lá cà lại diễn ra quyết liệt như chiều hôm trước. Tôi xin giới thiệu bài của hai nhà báo là Cờ-rít-tô-pơ và Đôn-nam-ly ngày 23 tháng 11 năm 1967 đã mô tả về trận đánh ác liệt trên đồi 875 với đầu đề "Nỗi kinh hoàng của bọn lính dù Mỹ ở Đắc Tô” do báo Quân đội nhân dân số 2362 đăng lại ngày 23 tháng 12 năm 1967: "Tuần trước tiểu đoàn 2, trung đoàn 503 của lữ đoàn dù 173 đã gặp địch ở cách căn cứ hỏa lực số 16 của họ chưa đầy 1.000 mét và đã mất cả tuần lễ để đẩy (!) kẻ địch lên một mỏm đồi không tên đẫm máu.

Mỏm đồi này thậm chí không có tên trên các bản đồ của lục quân vì nó chỉ là một yên ngựa để họ lên mỏm núi cao hơn ở phía tây.

Đến thứ bảy (18 - 11), tiểu đoàn 2, trung đoàn 503 kéo xuống thung lũng, vượt qua một con suối rộng và bắt đầu rút về. Lúc đó mục tiêu của họ ít nhất cũng có một tên, hoặc đúng hơn là một con số… đồi 875. Đối với những người của tiểu đoàn 2, ngọn đồi đó đã trở thành một ngọn đồi chết tiệt.

Sáng chủ nhật (ngày 19 - 11) họ tiến lên ngọn đồi 875. Những người đi đầu của đại đội C vung những con dao dài mở đường chặt những cây tre nằm ngang lối đi. Mọi người đều sợ hãi nhưng họ vẫn tiến lên, cố gắng lên đến đỉnh đồi trước khi trời tối...

Đại đội C đã gặp phải trận mưa đạn mạnh tới mức chưa bao giờ thấy. Súng tự động đã bắn gục những cây tre trước mặt và đạn đại bác không giật đã nổ vào binh lính làm cho họ không còn con đường nào khác là rút lui.

Người bị thương đầu tiên là binh nhất Phi-líp Éc-man, 20 tuổi, bị một số mảnh đạn vào chân và vào sườn... ba ngày sau, mắt mờ, người đau, mặt mũi râu ria xồm xoàm và đỏ bừng bừng, Éc-man kể về trận đánh như sau: "Trong khi chúng tôi đang trèo lên ngọn đồi thì chúng bắn vào chúng tôi. Lạy chúa, chúng ở mọi nơi, ở công sự và bám vào cây và vào mọi thứ. Chúng tôi cố leo lên chỗ chúng nhưng chúng tôi không động tới chúng được. Sau đó chúng tôi được lệnh rút lui".

Trong khi đại đội C bò được vài thước xuống sườn đồi, kéo theo những người bị chết và bị thương của đơn vị và cố gắng đào bới những cái hố nông để tránh đạn thì đại đội D, cánh đi giữa của ba đại đội này bắt đầu bị ăn đạn từ bên trái bắn tới. Đồng thời cánh dưới, đại đội A bị tấn công mạnh từ phía sau.

Đạn súng cối rơi xuống những người thuộc đại đội A khi họ quay lại để đánh trả cuộc tấn công và chuyên viên bốn Mi-ne-nu-đa 20 tuổi, bị một số mảnh đạn nhưng vết thương không nặng lắm. Anh ta không còn nhớ rõ những chuyện gì đã xảy ra mấy giờ sau. Anh kể: "Người ta hô: Tiến lên đồi, tiến lên ngọn đồi chết tiệt này! Nhưng chúng tôi không thể tiến lên được. Chúng tôi bị bao vây và chúng tôi bị bắn từ tứ phía. Cuối cùng chúng tôi gặp được đại đội D nhưng vẫn còn 30 người mất tích.

Ba mươi người này thuộc một trung đội của đại đội A bị cắt đứt với đơn vị ngay trong những phút đầu của trận đánh. Tới ngày nay họ vẫn còn mất tích và không ai biết họ phải chiến đấu bao lâu hoặc họ đã bị chết như thế nào.

Đại đội A đánh để mở đường lên đồi. Đại đội C đánh để mở đường xuống và ba đơn vị đã lập vòng đai bảo vệ ở ngay khoảng giữa sườn đồi 875. Chu vi phòng thủ này ngang dọc 50 mét. Ba trăm người sống và chết của tiểu đoàn 2 này tụ tập lại giữa những hàng cây và gọi đại bác cứu viện, người nọ sát người kia, không phân biệt được là ai sống, ai chết. Ngay trong đêm đó, nhiều người bị thương đã chết. Sau đó một người kể lại rằng: "Chúng bắn chúng tôi bằng súng cối và đại bác không giật 57 mm suốt đêm, và mọi người đều cố gắng chui xuống đất. Mỗi lần cố gắng đào công sự thì người ta lại đụng xẻng vào một người nào đó. Xác chết nằm ngổn ngang".

Các máy bay lên thẳng tải thương cố hạ xuống để chở thương binh, nhưng chu vi phòng vệ này đang bị tấn công, tám máy bay đã bị hắn rơi, cố gắng này phải từ bỏ. Phải mở một nơi khác cho máy bay lên thẳng hạ ở khu rừng rậm phía dưới sườn đồi và thương binh được tải đi ở đó.

Đối với những người của tiểu đoàn 2 thì trận vô phúc nhất là trận ngày hôm sau. Suốt đêm súng ở các công sự trên đỉnh đồi 875 bắn xuống như mưa, đến tảng sáng thì máy bay được gọi đến tấn công vào các vị trí địch. Máy bay bay lượn liên tục trên đầu cứ 15 phút lại có một đợt oanh tạc cách chu vi bị bao vây này có 50 mét. Tiếp đó, xảy ra một sự tính toán nhầm lẫn nghiêm trọng. Một máy bay chiến đấu F.100 bay qua với tốc độ 300 dặm một giờ, thả một quả bom phá 500 pao (chừng 250 ki-lô-gam) vào giữa chu vi này.

Quả bom nổ ngang ngọn cây và tạo ra một trận mưa gang thép xuống vùng này. Binh nhất Hay-ơ, 23 tuổi, kể lại rằng "nhiều người đã bị chết vì quả bom này. Bom nổ tung những người chết và bị thương khắp nơi. Lạy chúa, thật là kinh khủng. Người ta đang chờ thầy thuốc đến thì người ta lại bị giết".

Khi viết bài này, vẫn chưa rõ con số thương vong ở đồi 875 là bao nhiêu. Một thượng sĩ của tiểu đoàn này - một nguồn tin không thể nghi ngờ được - chiều thứ tư đã kể cho tôi nghe rằng có 112 người của tiểu đoàn bị chết phải đưa đi. Nếu con sẽ chính thức là 71 người trước khi có trái bom trên thì có lý do để nói rằng ít nhất cũng có 20 người nữa bị chết vì vụ nổ này. Theo thượng sĩ này, có tới 170 binh sĩ nữa bị thương nặng tới mức phải cấp tốc đưa đi. Như vậy tất cả có 280 người bị thương vong, trong một tiểu đoàn có khoảng 350 người trước khi nổ ra trận đánh.

Ngay cả trước khi có trái bom nổ hôm thứ hai, tiểu đoàn 2 cũng không còn là một lực lượng chiến đấu nữa. Họ không thể tiến lên đồi được và trên thực tế họ bị treo lơ lửng không có gì che đỡ trong tầm súng cối và súng máy của địch. Những người bị thương không đưa đi được và tiểu đoàn này không được tiếp tế thêm lương thực, nước uống và đạn dược, hầu hết các sĩ quan và tất cả thầy thuốc của tiểu đoàn này đã bị chết hoặc bị thương.

*

13 giờ cùng ngày chúng tôi hội ý nhận định: các mục tiêu của chiến dịch đã đạt được, đã đánh bại lữ 173, diệt gọn hai tiểu đoàn và đánh thương vong nặng các tiểu đoàn khác của Mỹ, đánh bại chiến dịch Mác Ác-tuya của địch. Thời gian chiến dịch diễn ra đúng mười chín ngày, ta ở thế thắng, tinh thần sĩ khí hăng hái vững vàng nhưng cơ sở vật chất đã cạn. Chúng tôi báo cáo về Bộ chỉ huy Mặt trận B3 đề nghị kết thúc chiến dịch.

Đêm ngày 22 tháng 11 tôi hạ lệnh cho các đơn vị trong sư đoàn rời khỏi khu vực tác chiến, để lại một bộ phận hỏa lực khống chế không cho địch lấy xác ở 875, hai trung đoàn 66 và 320 để lại một bộ phận ngăn cản không cho địch tấn công lên 875. Những bộ phận nói trên khi hoàn thành nhiệm vụ sẽ rút sau.

Trong chiến tranh, nhất là gặp đối thủ có phương tiện cơ động hiện đại và hỏa lực mạnh như quân đội Mỹ, dù mình là người thắng trận nhưng tổ chức lui quân không bí mật khôn khéo rất dễ bị địch gây cho thiệt hại khôn lường, có khi chiến đấu thương vong ít nhưng khi lui quân lại tổn thất nặng hơn.

Chúng tôi đã tổ chức lui quân bí mật và hợp lý, các trung đoàn lần lượt rút về hậu phương êm thấm. Phái tới ba mươi sáu giờ sau khi ta rút, bọn lính kỵ binh bay mới lên chiếm "chốt 875". Đêm hôm ấy tôi nghe đài BBC nói: "Một thiếu tá kỵ binh bay đã chỉ huy tiểu đoàn của mình chiếm được trận địa 875. Ông ta báo cáo về lữ đoàn. Đại tá lữ đoàn trưởng không tin rằng sự việc lại diễn ra dễ dàng như vậy. Ông đại tá đã hỏi đi hỏi lại tới ba lần mới tin là sự thật".

Chúng tôi về Mặt trận B3 dự hội nghị sơ kết chiến dịch. Thật hiếm có cuộc họp mặt nơi chiến trường nào lại vui vẻ hồ hởi đến thế. Bạn bè quen và chưa quen đều siết chặt tay nhau chúc mừng chiến thắng. Sự tươi tắn rực rỡ trên gương mặt mọi người phản ánh các hướng của chiến dịch đều hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Trong hội nghị sơ kết, ý kiến thật sôi nổi, nhưng dễ dàng nhất trí.

Nhận định kết quả chung của chiến dịch:

- Cùng với thắng lợi Lộc Ninh của chiến trường Nam Bộ, thắng lợi "Đắc Tô 1” đã góp phần có ý nghĩa vào chiến thắng chung của hai miền; đẩy đế quốc Mỹ lún sâu trong thế bế tắc về chiến lược, chiến thuật, đầy chiến lược “tìm diệt" của Mỹ tới thất bại.

So với chiến dịch Plây-me, sông Sa Thày, chiến dịch này cả ta và địch đều tung vào lực lượng lớn và tinh nhuệ. Lữ 173 con cưng sừng sỏ của quân đội Mỹ, có truyền thống từ đại chiến thế giới lần thứ II phải bỏ dở cuộc càn ở Phú Yên để đưa lên Tây Nguyên cứu nguy cho sư bộ binh 4 Mỹ và đã bị ta đánh quỵ.

- Qua thử thách của “Đắc Tô 1”, quân chủ lực và quân địa phương của Tây Nguyên trưởng thành rõ rệt về đánh tập trung lớn, hiệp đồng lớn, rút ra được những bài học bổ ích về nghệ thuật quân sự, khôn khéo trong việc điều động địch vào khu vực ta chuẩn bị sẵn để tiêu diệt.

- Về tri thức quân sự cụ thể: đã xây dựng và vận dụng tương đối hoàn chỉnh chiến thuật "vận động kết hợp chốt” và rút ra được nhiều bài học tốt trong việc phối hợp chặt chẽ các cách đánh truyền thống như tập kích, tập kích bằng hỏa lực, tổ chức mạng lưới hỏa lực phòng không hạ máy bay địch.

Chúng tôi cũng rút ra một bài học: về quyết tâm cao và chính xác; về biết tập trung lực lượng trên hướng chính tạo ra trận then chốt chiến dịch; về giải quyết đúng đắn giữa chiến thuật và chiến dịch; về mọi công tác bảo đảm làm tốt.

Nhớ lại dịp đi trinh sát chuẩn bị cho chiến dịch này, tôi với tham mưu trưởng Đức đã dừng lại xem nơi địch cụm ở chiến dịch sông Sa Thày. Chúng tôi nhòm ngó, xem đi xét lại kéo dài hàng giờ liền, hết công sự đến hàng rào thép gai, chỉ còn nước đếm từng bao cát, để nghiên cứu tìm ra cách đánh, nhưng rồi nhìn nhau mỉm cười và lắc đầu. Nếu đánh thằng Mỹ ở thời điểm đó mà để chúng có đủ thời gian làm công sự dã chiến thì quân ta cũng khó nuốt trôi. Trước khi đổ quân xuống có ý định trụ lại, chúng dùng B.52 chà đi xát lại làm cho rừng rậm cũng trở thành bãi trống, rồi đổ luôn máy ủi xuống san phẳng hoặc đào hào, đổ công binh xuống dùng máy cưa cây cắt thành từng đoạn để xây lắp các công sự lô cốt. Các lô cốt có bao cát bao quanh và xếp trên nóc. Xung quanh căn cứ có dây thép gai lò-xo, hai vòng đặt dưới một vòng đặt trên, dưới dây thép gai đặt mìn đè nổ và mìn định hướng. Mọi thứ chúng làm đã được huấn luyện kỹ, chỉ trong vòng 4 giờ là xong.

Nếu ta đánh, dùng đạn cối 82 thả xuống lô cốt của nó thì không khác gì gãi ghẻ, nếu dùng B.40, B.41 cũng rất tốn kém; đánh mỗi lô cốt bỏ rẻ cũng phải hai phát, nếu đánh vào một tiểu đoàn (800 quân), mỗi lô cốt bố trí 3 tên lấy đạn ở đâu?.. Tôi và Đức suy nghĩ nát óc không tìm ra cách nào đánh được nó với chiến thuật tập kích và bằng vũ khí mang vác trên vai.

Sau chiến dịch “Đắc Tô 1” chúng tôi thở phào. Chiến thuật “vận động kết hợp chốt" và sự khôn khéo lừa địch là cứu cánh cho chúng tôi gạt được cái mạnh của quân Mỹ sang bên lề.

VI

MẬU THÂN

Cuối tháng 12 năm 1967 cán bộ cao cấp của B3 mới nhận được lệnh chuẩn bị tổng công kích và tổng khởi nghĩa; trên chưa cho biết ngày N nhưng anh em chúng tôi thầm đoán nó sẽ diễn ra vào dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân. Các mục tiêu chiến lược của cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa gồm:

"Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân”.

"Tiêu diệt một phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng”.

"Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc và ta đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”.

Khi phổ biến nhiệm vụ này xuống các phân đội, chưa cần làm công tác động viên, tinh thần anh em đã náo nức khác thường. Một điều dễ hiểu: ngày hôm trước mọi người nhìn khói lửa chiến tranh mờ mịt không biết tới bao giờ kết thúc, hôm nay nghe cái mệnh đề kép “tổng công kích và tổng khởi nghĩa” mở đầu cho việc giao nhiệm vụ cụ thể, dội vào cảm giác của mọi người sự lớn lao, bất ngờ làm sao tránh được sự suy diễn. “Ngày giải phóng miền Nam, ngày được sống trong hòa bình sắp tới rồi”. Mặc dầu các cấp khi giao nhiệm vụ cho nhau đã giới hạn cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa lần này là “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quết định”. Nhưng khái niệm "giành thắng lợi quyết định” thường được mở rộng kích thước theo niềm tin tưởng lạc quan của mọi người.

Vào thời điểm cuối năm 1967, Mỹ đưa quân và vũ khí, kỹ thuật vào miền Nam lên tới đỉnh cao, quân số Mỹ lên tới 48 vạn, nếu cả quân ngụy đã lên tới một triệu. Cuộc chiến tranh ngày càng mở rộng, chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đánh phá khắp nơi trên miền Bắc, tình hình chung hết sức phức tạp. Đứng trước tình hình như vậy, trung ương Đảng ta vẫn hết sức bình tĩnh vững vàng, sáng suốt và lạc quan chỉ ra rằng: "Ta đang ở thế thắng, thế chủ động và có nhiều thuận lợi; địch đang ở thế thua, thế bị động và chúng đang gặp nhiều khó khăn".

Liên hệ với chiến trường Tây Nguyên, ngoài số quần ngụy như cũ địch đã tăng thêm sư đoàn bộ binh 4 Mỹ và lữ đoàn 173 kỵ binh bay; về phía ta, lực lượng không có gì thay đổi (cho tới khi bước vào chiến dịch). Mặc dầu sự so sánh về số lượng rõ ràng địch hơn ta, nhưng đánh giá sức mạnh tổng hợp, chúng tôi hoàn toàn nhất trí như Trung ương. đã đánh giá tình hình chung.

Trải qua hai mùa chiến dịch (1965 - 1966, 1966 - 1967) đụng đầu với quân đội Mỹ với tư tưởng chiến lược “tìm diệt” rất hung hăng, dùng bom đạn hủy diệt và lực lượng cơ động nhanh của máy bay lên thẳng ào ạt đổ sau lưng đối phương để thực hiện chiến thuật "cất vó” và cuối cùng quân ta đã giáng cho quân Mỹ những đòn đau và rất đau, như chiến dịch "Đắc Tô 1”. Trung tướng tư lệnh sư đoàn bộ binh 4 Mỹ đã phải rên rỉ: "… Sau này sẽ không cho sư đoàn mình đánh sâu vào hậu phương của đối phương như thế nữa”. Cũng có nghĩa rằng: Quân Mỹ tới thời điểm này đang gặp bế tắc cả chiến thuật lẫn chiến lược.

_________________________________

1 . Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, tập II, quyển 1 . Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988, tr. 386.

Thời gian thử sức trực tiếp với quân đội Mỹ giúp cho lực lượng vũ trang Tây Nguyên phát triển về nhiều mặt: thứ nhất là, đã tìm ra cách đánh thích hợp và có hiệu quả đối với một đối phương rất mạnh về vũ khí và kỹ thuật như quân đội Mỹ; thứ hai là, tự rút ra nhiều bài học sống động thiết thực bổ ích để tiếp tục làm cuộc chiến tranh giải phóng; thứ ba nữa là, xây dựng được niềm tin vững chắc rằng không những ta có thể đương đầu với quân đội Mỹ mà nhất định sẽ đánh thắng chúng.

2

Thời gian tới ngày N còn khoảng trống, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Tây Nguyên chủ trương lấp khoảng trống ấy bằng đợt hoạt động "đệm”. Mục tiêu của đợt "đệm" là: đưa lực lượng ta áp sát vào các thị xã, thị trấn, uy hiếp các tuyến giao thông quan trọng phá lực lượng kìm kẹp của địch ở ngoại vi thị xã, thị trấn; tạo điều kiện cho bộ đội làm quen với địa hình; tiêu diệt một bộ phận Mỹ - ngụy; thu hút và kìm giữ địch tạo diều kiện thuận lợi cho toàn miền bước vào chiến dịch.

Đệm khoảng 15 ngày các đơn vị đã hoạt động đều khắp. Các tỉnh Gia Lai, Công tum, Buôn Ma Thuột mở nhiều trận đánh giao thông tập kích sân bay và căn cứ địch. Riêng sư đoàn 1 hoạt động trên đường 18 Plây Cần đã quần nhau với một lữ của sư bộ binh 4 Mỹ tiêu hao chúng. Toàn đợt trên diện rộng. Mặt trận Tây Nguyên đã đạt mục tiêu đề ra và tập dượt cho các đơn vị chuẩn bị bước vào cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

3

Đến ngày 29 Bộ tư lệnh B3 điện xuống hỏi bộ tư lệnh sư đoàn 1 "ý kiến của trên hoãn N một ngày nữa, có thể cho lui đội hình ra được không?". Chúng tôi đề nghị: "Báo cáo lên Bộ không thể hoãn được nữa, lui ra lộ hết. Và làm sao thông tin kịp xuống huyện xuống xã” (nghe đâu do lịch miền Bắc và lịch Sài Gòn chênh nhau một ngày đã gây ra cái trục trặc này). Thực tế tình hình nhiều đơn vị đã chiếm lĩnh vị trí chuẩn bị tấn công từ ngày 28, 29 âm lịch, có nơi quần chúng đã nổi dậy làm sao hoãn cho kịp.

Sư đoàn 1 vẫn thực hiện kế hoạch cũ, tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 174 phối hợp với lực lượng địa phương đúng 0 giờ 30 phút nổ súng vào thị trấn Tân Cảnh. Tiếng súng ở Tân Cảnh thay pháo hiệu cho cuộc tấn công đồng loạt của Mặt trận Tây Nguyên.

Tuy chiến trường rộng lớn nhưng sự hợp đồng tương đối ăn khớp. Buôn Ma Thuột nổ súng lúc 0 giờ 45 phút, Plây Cu nổ súng lúc 0 giờ 55 phút, Công Tum nổ súng lúc 1 giờ 15 phút.

Ở hướng sư đoàn 1 sau khi nổ súng vài chục phút, quân ta đã làm chủ thị trấn Tân Cảnh, đồng thời bao vây khống chế sân bay.

Tiểu đoàn 2 cùng lực lượng địa phương làm chủ khu vực hành chính của thị trấn Tân Cảnh được ba ngày rồi rút, nhằm mục đích nhử địch ra ngoài, nhưng lữ bộ binh thuộc sư đoàn 4 Mỹ đóng ở Tân Cảnh vẫn “án binh bất động”.

Sư đoàn 1 chúng tôi bố trí ở đường 18 Plây Cần, cách Tân Cảnh khoảng ba giờ hành quân bộ, đã bố trí sẵn chờ địch tới. Chờ đợi kéo dài bốn ngày không thấy tăm hơi chúng đâu. (Sau này chúng tôi mới biết trung tướng sư trưởng sư đoàn 4 Mỹ sau khi bị thua đau ở Đắc Tô 1", y đã tuyên bố sẽ không đưa quân vào sâu hậu phương của đối phương).

Kế nhử địch không thành, chúng tôi đành phải chủ động đưa lực lượng chủ lực của sư đoàn áp sát vào chiến đấu giành giật với định trên dãy núi bao quanh Tân Cảnh. Những trận đánh nhỏ diễn ra hàng ngày nhùng nhằng, tỏ ra hai bên đều muốn bảo toàn lực lượng. Thực ra sau “Đắc Tô 1” sức chiến đấu của sư đoàn 1 đã giảm, không còn đủ sức “nuốt trôi” một lữ bộ binh Mỹ đóng trong công sự vững chắc trên điểm cao, vì vậy phải đánh nhau cầm chừng.

Hàng ngày, bất kể giờ nào đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, đài phát thanh Giải phóng và hầu hết các đài phát thanh của phương Tây phát tiếng Việt đều đưa tin chiến sự của chiến trường toàn miền Nam, nhất là tin chiến sự ở Huế, quân ta đã đánh chiếm và trụ giữ ở đó… Không khí đưa tin thật sôi sục, nếu như lúc đó nghe đài chỉ bằng tình cảm, thiếu sự suy xét lý trí, thì dễ liều lĩnh dồn hết sức lực đánh chiếm và trụ lại ở thị xã, thị trấn nào đó không cần tính tới hậu quả.

Tôi nhớ tới một cuộc họp của Bộ tư lệnh B3, vào giữa đợt 1 của chiến dịch, có lúc tranh luận căng thẳng về vấn đề đánh chiếm và trụ lại trong thị xã. Có ý kiến “ở Huế anh em đánh chiếm và trụ lại được, tại sao ta không trụ lại được?". Một câu hỏi nhức nhối, dường như chúng tôi đang mắc lỗi.

Chúng tôi điểm lại toàn bộ tình hình chiến trường Tây Nguyên. Ở Buôn Ma Thuột anh em đã chiếm được đài phát thanh, tòa thị chính, sở cảnh sát, khu cư xá Răng-ca-lo. Đồng bào các huyện 6, 8 và Buôn Hồ đã nổi dậy, hàng trăm người giương cao cờ, biểu ngữ tiến vào thị xã, và đã bị máy bay địch ném bom bắn chặn, gây thương vong không thực hiện được mục tiêu kết hợp giữa tấn công và nổi dậy. Anh em đã trụ lại trong thị xã được sáu ngày đêm.

Ở Plây Cu ta dùng đặc công phá hủy 15 máy bay, 35 xe, 21 khẩu pháo, hàng nghìn tấn đạn dược, hàng vạn lít xăng, phá 3 nhà tù giải phóng hơn 2000 tù nhân. Tiểu đoàn đặc công 21 đã đánh chiếm khu hành chính và cảnh sát. Tiểu đoàn 408, đánh chiếm sân bay Cù Hanh, AVA, pháo kích vào trung tâm thị xã. Trung đoàn 95 đánh giao thông diệt 26 xe.

Kết hợp với mũi tấn công, thị xã Plây Cu đã phát động được 11.000 dân nổi dậy đấu tranh với địch, phá "ấp chiến lược" lập chính quyền cách mạng. Ở các huyện 4, 5, 6 đã giải phóng 14.000 dân khỏi ách kìm kẹp của "ấp chiến lược" đưa dân về bản cũ.

Ở Công Tum lực lượng ta có trung đoàn 24 và các tiểu đoàn 304 và 406. Ta chiếm tiểu khu Công Tum, khu hành chính, một phần biệt khu 24, diệt 1.800 tên, phá hủy 250 xe nhiều kho tàng... và đã trụ lại được vài ngày.

Trong cuộc họp không ít người nhận thức việc chiếm giữ thị xã, thị trấn nào đó dài ngày là phi thực tế, nhưng e phát biểu ra sẽ bị quy là thiếu quyết tâm hoặc quan điểm này nọ. Thật ra đánh chiếm một khu vực nào đó trong đô thị ở thời điểm này không khó, nhưng trụ giữ dài ngày khi ta chưa tiêu diệt được sinh lực địch, lực lượng chủ lực của địch vẫn nguyên vẹn sung sức, địch sẽ liên tục phản kích, tất yếu ta sẽ bị tiêu hao, như vậy tình thế dẫn đến bất lợi cho ta; mặt khác cơ sở vật chất gạo, đạn của ta rất hạn chế và phải vận chuyển từ xa đến, không đủ sức tiếp tế cho việc trụ bám lâu dài được. Vận động nhân dân địa phương nổi dậy khi quần chúng tập hợp đội ngũ thị uy đã bị địch dùng bom đạn tàn sát, không đạt hiệu quả như cảm nghĩ ban đầu.

Trong cuộc họp này cũng nghĩ tới việc điều động sư đoàn 1 sang Công Tum, nếu để nó ở Tân Cảnh đánh nhỏ kiểu ấy, không sử dụng hết lực lượng mà đánh lớn thì không đủ sức. Bàn đi tính lại, chặng đường từ Tân Cảnh tới Công Tum khoảng 60 cây số, qua bao nhiêu sông suối chưa có chuẩn bị gì, sẽ không bảo đảm được thời gian, nên đành giữ nguyên hiện trạng.

Sự nỗ lực của bộ đội và nhân dân Tây 'Nguyên xem ra đã tới đỉnh cao, nhưng so với các mục tiêu tổng công kích – tổng khởi nghĩa của Trung ương nêu ra vẫn còn xa lắc xa lơ, chứng tôi rất lo mặt trận mình không hoàn thành nhiệm vụ. Mãi tới khi được chỉ đạo "Tổng công kích – tổng khởi nghĩa là một quá trình” và anh Thế Môn đi họp ở Bộ tư lệnh B2 về giải thích thêm ý của trên “quá trình là thế nào”, không nói rõ quá trình là bao nhiêu thời gian, nhưng chúng tôi hiểu là thời gian không gian co giãn rộng ra, như vậy là mừng rồi.

4

Sau Mậu Thân tôi bàn giao sư đoàn 1 cho sư đoàn trưởng Vương Tuấn Kiệt và chính ủy Hoàng Thế Thiện. Tôi về nhận chức tham mưu trưởng B3.

Trên toàn Mặt trận Tây Nguyên ta vẫn tiếp tục tiến công nhưng về quy mô và cường độ giảm dần.

Khoảng tháng 2 Bộ tăng cường cho B3 trung đoàn 209, chuyển quân bằng ô tô. Trung đoàn này được trang bị mạnh, cả tiểu đoàn đều trang bị mũ sắt, quân số đủ, khá đông trong số quân nhân được tuyển trong nhà máy gang thép Thái Nguyên thể lực tốt, tinh thần hăng hái. Lúc đó người chỉ huy nào nhìn thấy cũng đều trầm trồ ước ao. Tháng 3 năm 1968 một tiểu đoàn của trung đoàn 209 được đưa vào thí nghiệm chiến thuật "vây lấn" ở Chư Tâng, đơn vị bị thương vong khá nặng nhưng đã trở thành bài học tốt cho việc thực hiện chiến thuật “vây lấn" sau này.

Tháng 4 năm 1968 Bộ tăng cường cho B3 sư đoàn 325C (thiếu một trung đoàn) do sư đoàn trưởng Chu Phương Đới và chính ủy Ân chỉ huy. "325C” thay cho sư đoàn 1 hoạt động trên đường 18 về phía tây Công Tum. Tôi đã xuống sư đoàn này chỉ đạo cách đánh và giúp cho anh em làm quen với chiến trường. Trong tháng 5 sư đoàn 325C đã đánh một số trận tốt loại khỏi vòng chiến hơn 1.000 tên Mỹ - ngụy, đánh thiệt hại nặng 5 đại đội Mỹ, phá hủy 22 đại bác, 32 xe quân sự. Trận đánh hay nhất diễn ra ở Ngọc Pơ đã diệt gọn một đại đội Mỹ.

Hoạt động của địch sau khi lực lượng ta giãn ra khỏi các đô thị, thay thế các cuộc phản kích lớn bằng những cuộc hành quân cảnh sát càn quét triền miên, tàn sát cơ sở của ta bị lộ trong Tết Mậu Thân, đóng thêm đồn bốt, rải chất độc hóa học phát quang cây xanh, tạo thành vành đai trắng xung quanh các đô thị. Chúng liên tục đổ xuống hậu phương ta những toán biệt kích, thám báo để phát hiện lực lượng và kho tàng của ra rồi dùng máy bay thông thường hoặc B.52 tới oanh tạc.

Tôi nhớ một lần ở sở chỉ huy sư đoàn 325C, chúng tôi đang ngồi quây quần xung quanh cái bàn làm bằng tre đặt dưới tán lá rừng, trao đổi với nhau chuẩn bị cho trận đánh vào Ngọc Hồi, bỗng nhiên có nhiều loạt đạn liên thanh nổ, cành lá lả tả rơi xuống mặt bàn.

Tôi hỏi mấy cán bộ đứng gần đó:

- Đạn ở đâu bắn?

Mấy cán bộ còn đang ngơ ngác chưa kịp trả lời, hai ba chiến sĩ cảnh vệ hớt hơ hớt hải từ phía suối chạy lên cho biết:

- Chúng tôi xuống lấy nước bị bọn biệt kích bắn bất ngờ.

Ngay khi có tiếng súng nổ, một tiểu đội cảnh vệ của ta đã truy theo bọn biệt kích, nhưng rừng rậm quá đã bị mất hút. Khoảng 15 phút sau chúng tôi đã nghe thấy phành phạch tiếng trực thăng; chúng đổ xuống đón nhau đi, chỉ cách chỗ chúng tôi chừng một cây số.

Sự liên tục quấy phá hậu phương ta cộng với các hoạt động khác đang diễn ra biểu hiện địch đã thay đổi chiến lược "tìm diệt" sang chiến lược "quét và giữ" thực chất là phòng ngự. Nhiều anh em ta thấy đời sống vật chất của mình thiếu thốn hơn, cơ sở quần chúng bị địch phá vỡ nhiều hơn, đối phó với địch căng thẳng hơn so với trước "Mậu Thân" sinh ra tư tưởng bi quan, đánh giá địch mạnh và cho rằng, chúng đã giành được chủ động.

Để có nhận thức đúng thực chất những gì đang diễn ra ở chiến trường và xây dựng ý chí quyết tâm mới, toàn B3 đã mở một đợt học tập chính trị, dựa vào 7 điểm Bác đã dạy để kiểm điểm nhận thức tư tưởng.

Sau học tập chính trị, B3 mở một đợt hoạt động mới, lực lượng chủ yếu là sư đoàn 1, hướng hoạt động ở Buôn Ma Thuột. Việc chuyển sư đoàn 1 vào đó được bàn đi bàn lại. Sau Tết Mậu Thân địch đã củng cố không còn sơ hở như trước, đánh thế nào? Đánh vào đâu?... Chúng tôi tính toán kỹ mọi khả năng, thuận lợi, khó khăn của ta, của địch và hạ quyết tâm: sư đoàn 1 sẽ tiêu diệt một số đồn bốt cô lập ở sát biên giới Cam-pu-chia để giải phóng hành lang vào Nam Bộ.

Ngày 23 tháng 8 năm 1968 sư đoàn 1 nổ súng. Sau mười ngày chiến đấu quyết liệt khẩn trương sư đoàn đã đánh chiếm một loạt đồn bốt gồm: Đức Lập, Đắc Sắc, Đắc Sao, Đắc Pét, Sa Pa; tiêu diệt 1.790 tên, diệt gọn 18 đại đội ngụy; phá hủy 32 xe, 10 đại bác, hạ 42 máy bay (diệt tướng Trương Quang An và một đại tá cố vấn Mỹ).

Phối hợp với sư đoàn 1, các hướng của toàn Mặt trận B3 hoạt động mạnh trên các đường 14, 19, 21...

VII

TRỞ VỀ HẬU PHƯƠNG

1

Tháng 8 năm 1968 có lệnh của Bộ triệu tập tư lệnh Hoàng Minh Thảo, chủ nhiệm chính trị Đặng Vũ Hiệp và tôi ra miền Bắc. Được trở về hậu phương, hy vọng chắc chắn sẽ có dịp về thăm vợ con và người thân của mình, xa cách thấm thoát đã gần năm năm rồi còn gì, trong lòng tôi xốn xang niềm vui và cũng chỉ là vui thêm thôi. Tôi chắc các anh Thảo, Hiệp cũng có niềm vui ấy, nhưng lúc này không ai nói tới chuyện riêng tư mà dồn mọi suy nghĩ tới những tình huống trên con đường về. Cục tác chiến điện báo cho chúng tôi biết: “Tới Bài Hà gặp anh Vương (dân ở đây thường gọi ông chủ Vương), cho xe tới một trạm hậu cần của B2 gặp anh Sáu Chí. Anh Sáu Chí sẽ tổ chức cho các anh đi Phnôm Pênh, đến Phnôm Pênh có người của đại sứ ta ở đó đón...”.

Chúng tôi đã trải qua cuộc hành quân trên tuyến đường mòn Trường Sơn. Mệt mỏi, đói khổ và cả nguy hiểm nữa còn chưa phai trong trí nhớ, nhưng chuyến trở về được đi theo tuyến đường đặc biệt, chúng tôi có thể dừng lại nghỉ ngơi tham quan Phnôm Pênh, thủ đô của nước bạn đang sống trong bình yên, và có thể từ đó đi máy bay qua Quảng Châu (Trung Quốc) rồi trở về Hà Nội, chẳng phải lo gì đói khổ, mệt mỏi và nguy hiểm, như thế còn gì vui mừng hơn. Những năm qua mở mắt ra là leo núi, mở mắt ra là nghe tiếng bom đạn thì chuyến đi này đáng giá như thế nào. Đúng là một chuyến du lịch nghỉ ngơi tuyệt vời.

Chúng tôi đã tới trạm của anh Sáu Chí ở biên giới Cam-pu-chia. Anh Chí cho chúng tôi mượn cái xe con mác "Lăng-rô-vơ" cũ kỹ đầy bụi đất và cậu lái xe trẻ măng, mới học ba tháng lái xe ở hậu phương rồi được cử vào đây. Con đường kỳ quái đầy thung lũng, dốc lên dốc xuống, xe đi như rùa bò, thỉnh thoảng xe lại chết, tôi thấy tay côn chân ga của cậu ta chưa phối hợp tốt và rõ ràng tay lái chưa quen loại đường phức tạp này. Tôi bảo cậu ấy nhường tay lái cho tôi. Cũng may những tháng năm huấn luyện chính quy ở miền Bắc, tôi tập lái khá thành thạo các loại xe trên các loại đường xấu, nên ngồi sau vô lăng một lát là đâu vào đấy. Xe chạy một mạch xuôi về hướng tây nam mất gần một ngày mới đến trạm hậu cần của B2. Vừa xuống xe, anh Sáu Chí đã ra đón. Anh cho biết tuyến đường bí mật của ta về Phnôm Pênh bị địch phục kích liên tục. Chúng tôi đành nán lại trạm hậu cần này ít ngày. Ở đây, một khu rừng nguyên sinh, nếu như không có chiến tranh, có lẽ không ai đặt chân đến. Những cây cổ thụ nếu đứng cách gốc trăm mét, ngửa mặt lên nhìn không thấy ngọn. Những tán lá chồng lên nhau tầng tầng lớp lớp, thật hiếm hoi những khoảng trống cho ánh nắng mặt trời rọi xuống. Người mới đến thường có cảm giác ngộ nghĩnh: ở đây giống như thời hồng hoang. Con người sống bằng hái lượm, săn bắt. Anh Chí cho một tổ đi săn, bộ phận cấp dưỡng ở nhà đun sẵn nồi nước sôi và đặt sẵn một chảo mỡ. Sau hơn một giờ họ đã khênh một con hoẵng héo mũm. Loáng một cái đã làm thịt xong, và những miếng thịt thái mỏng to bằng nửa bàn tay vun lại thành từng đống nhỏ trên những tàu lá chuối rừng. Các thực khách ngồi xung quanh chảo mỡ đang sôi cứ việc gắp thịt hoẵng nhúng vào cháo mỡ rồi ăn. Ai ăn được bao nhiêu tùy ý. Thịt hoãng rất mềm và ngọt, ăn kiểu ấy có thể ăn no được. Ngày nào cũng ăn thịt thú rừng; chán hoẵng đến thỏ, chán thỏ đến nai… Thú rừng bị bom đạn ở các nơi dồn về đây, chúng sống đông đúc như trong vườn thú, vào rừng gặp không loài này thì loài kia, ăn mãi thịt thú rừng cũng chán. Anh Sáu Chí chiều khách, cho một tổ ba người ra sông Pô Cô đánh cá, chỉ trong vòng hai giờ họ gồng gánh về khoảng hai chục ki-lô-gam.

Vốn có máu mê của thợ săn, mấy ngày trời mưa ngồi trong lán buồn như chấu cắn, tôi vác khẩu súng thể thao lội ra rừng. Lũ thỏ rụt đầu ngồi dưới tán lá trú mưa, tai và mũi chúng bị mưa làm mất nhạy cảm phát hiện tiếng động và hơi người từ xa... Có lần tôi đến gần chúng không đầy chục mét, giương súng bắn chết con thứ nhất, con thứ hai ngơ ngác chưa hiểu nếu gì xảy ra lại tiếp tục bị dính đạn. Đi săn là môn thể thao thú vui dễ quên mọi việc đang xảy ra xung quanh. Nhưng khi trở về lán, không khí sốt ruột của chuyến đi. lại thôi thúc. Chờ đợi cả tuần lễ rồi còn gì. Chúng tôi điện vào B2 nhờ anh Hoàng Văn Thái (thời kỳ đó là trung tướng tư lệnh B2) chỉ thị cho một đơn vị nào đó bảo vệ tuyến đường cho chúng tôi qua nhưng cũng không xong. Vì bọn địch chặn đánh mọi ngả đường, chúng tôi đành quay lại chỗ cũ, đi theo binh trạm đường bộ của Đoàn 559. Thế là niềm hy vọng một chuyến du lịch nhàn hạ tan ra mây khói. Tôi nói đùa với anh Thảo và Hiệp:

- Cái số tôi nó thế, cứ bước tới ngưỡng cửa của sự an nhàn thì lại lật lại. Chuyến đi này vì tôi mà các anh vất vả lây.

Mọi người cười, thông cảm với những chuyến "du học ngoại quốc" bị hụt của tôi.

Qua vài cung đường đi bộ tới binh trạm vận tải. Chúng tôi được xếp ngồi trên xe vận tải cùng với số cán bộ chiến sĩ ở tuyến trong đi ra. Ngồi trên xe tải đi đêm trên đường Trường Sơn chắc các bạn, các đồng chí đã nghe nói nhiều lần, ngoài sự căng thẳng vì bom đạn ra, là những cú xóc triền miên tưởng các khớp xương của mình muốn rời ra được. Chuyến đi của chúng tôi được anh em Đoàn 559 tổ chức bảo đảm rất tốt. Đi theo tuyến vận tải tôi hiểu thêm được nhiều điều. Khi tôi vào Nam mới chỉ có giao liên đường mòn, bây giờ xe vận tải đã vào tới đất Tây Nguyên. Anh em làm công tác giao thông vận tải trên đường Trường sơn vất vả khó nhọc và nguy hiểm không khác những người lính bộ binh ở chiến trường. Trên các trọng điểm mỗi lần máy bay vừa ném bom, bay đi là trai gái bộ đội, thanh niên xung phong cười nói ào ra sửa đường.

Đêm ngồi trên ô tô tải bị xóc quăng quật, không riêng gì tôi, ít ai có thể ngủ được vài chục phút, nhưng tới ban ngày anh em thường ngủ bù được, còn tôi có bệnh không ngủ được vào ban ngày, dù cố nhắm mắt lại tìm mọi phương pháp để tới giấc ngủ nhưng vẫn vô hiệu. Khoảng gần hai tuần lễ đi trên đường Trường Sơn, tôi sút đến bốn năm ki-lô.

Ra tới Đồng Lộc chúng tôi được đi xe com-măng-ca rộng rãi và đỡ xóc hơn. Đêm nào cũng vậy, hàng trăm xe nối đuôi nhau trên đường. Một lần đang đi bỗng ùn lại, tất cả đoàn xe tắt đèn. Máy bay địch bay vụt qua và có ánh pháo sáng khá xa ở phía trước. Chờ hàng giờ tôi sốt ruột xem đồng hồ, thấy kim giờ đã chỉ vào số 4. Như vậy là sắp sáng rồi. Tôi đi lên phía đầu đoàn xe xem chuyện gì xảy ra. Đêm yên tĩnh lạ thường. Dường như quanh đây không có cuộc sống, chỉ nghe thấy tiếng côn trùng rên rỉ. Tôi đập tay vào cửa ca-bin mấy chiếc xe đi đầu rồi hỏi to “có ai trong đó không?", không ai trả lời. Tôi lắng nghe một lát, thấy tiếng ngáy đều đều. Hầu như mọi người trên đoàn xe này đều ngủ cả. Chúng tôi cho xe của mình lách lên phía trước. Tới một cái cầu nhỏ, đã rút hết ván, xe của các anh Thảo và Hiệp lăn bánh qua được. Xe của tôi vừa ra tới giữa cầu thì rầm một tiếng, tôi thấy mắt mình nổ đom đóm. Trong giây lát bất thần, chưa hiểu việc gì vừa xảy ra, chỉ thấy đầu mình và mặt mình vừa va rất mạnh vào cái gì đó, máu trên trán trên mặt đang túa ra. Tôi cố căng mắt nhìn ra ngoài để kiểm tra xem đôi mắt của mình còn nguyên vẹn không. Nhìn thấy mảnh trời sao lấp lánh, tôi mừng, tự đánh giá vết thương không có gì nghiêm trọng.

Chúng tôi đành bỏ cái xe bị sập cầu ở đó, dồn vào đi một xe. Sáng hôm ấy về tới binh trạm Z, đúng ngày đoàn thể phụ nữ, các mẹ ở địa phương tới thăm anh em thương binh ở chiến trường ra. Đầu mặt tôi băng kín chỉ còn hở ra đôi môi sưng vều và đôi mắt. Vì vậy tôi cũng được xếp vào ngồi cùng chỗ với anh em thương binh để nhận lời thăm hỏi an ủi của các mẹ, các chị em.

Anh Hiệp là người rất vui tính, nhìn khuôn mặt tôi sưng vù méo mó, anh lại cười lắc lắc cái đầu rồi tán:

- Bao nhiêu năm chinh chiến ở rừng núi Tây Nguyên, được ngày ra thăm em, có cái để thơm em thì sưng mẹ nó lên thế kia, còn nước non gì!

2

Cuối tháng 8 năm 1968 chúng tôi ra tới Hà Nội. Cái nhà khách số 36 phố Lý Nam Đế chỉ dành riêng cho khách của chiến trường “B” ra, quanh năm cửa đóng then cài như cách biệt với cuộc sống nhộn nhịp xung quanh đã đón nhận chúng tôi. Vì yêu cầu giữ bí mật rất cao nên vị khách nào đã được xếp ở đây, rất hạn chế tiếp xúc với bên ngoài. Ba anh em chúng tôi đều có gia đình ở Hà Nội, nhưng tới vài ngày sau mới được đưa vợ con vào.

Tôi nhận được tin Cục cán bộ cho biết gia đình tôi mới được chuyển về một căn hộ trên tầng 4 nhà 5 khu tập thể Nam Đồng. Một căn hộ được nhà nước cấp, những hai mươi tám mét vuông, chưa kể hành lang và công trình phụ. Mừng ơi là mừng, như người ta vừa có một lâu đài không bằng. Thật sự là như vậy. Ai đã từng ở nhờ nhà người khác mới có sự đồng cảm với tôi lúc đó. Trước khi tôi đi "B”, vợ và hai đứa con tôi phải ở một gian vẻn vẹn có mười hai mét vuông. Tôi nhớ một lần anh Thiện (anh ruột vợ tôi) tới thăm chúng tôi, tối ngủ cả nhà chỉ có một cái giương đôi, không còn chỗ cho khách. Tôi loay hoay nghiêng ngó thấy chỉ còn một chỗ đặt cái giường cũi của cháu nhỏ, nếu chịu khó bỏ chân xuống đất đặt đầu và mình vào cũi là có thể ngủ được. Đại loại những khó khăn vụn vặt như thế xảy ra thường ngày, nhưng rồi cũng qua đi.

Khi tôi đi bé Hương con gái tôi mới lên năm, cháu trai lên ba và cháu út mới chưa đầy một tuổi. Bây giờ đứa lên chín, đứa lên bảy tuổi chúng mở to mắt nửa mừng nửa dò hỏi nhìn tôi. Mẹ các cháu phải giới thiệu:

- Bố An của các con đó.

Cháu Hương sà vào lòng tôi, rồi bé Anh cũng dè dặt đứng sát vào tôi. Vợ tôi chắc xúc động nhiều lắm, cô pha nước trà cho tôi uống rồi đứng nhìn bố con tôi chuyện trò. Cuộc chiến tranh đã đến đỉnh cao của sự quyết liệt và đẫm máu. Cùng với tin tức chiến thắng từ chiến trường tràn về hậu phương, về khắp đồng quê, ngõ phố là những tin không vui làm nặng lòng những người phụ nữ có chồng, có con đang ở chiến trường. Tôi biết vợ tôi lúc này nhìn tôi với niềm vui vô hạn nhưng chưa dứt ra khỏi nỗi âu lo của những tháng năm xa cách.

Thời gian được qua lại thăm nom gần gũi gia đình dù rất ít ỏi, nhưng tôi coi đó là sự may mắn hơn nhiều các bạn còn đang ở chiến trường.

Nhiều công việc phục vụ cho chiến đấu lại lôi chúng tôi đi. Báo cáo trước Ban Bí thư và nhiều cán hộ cao cấp của Đảng do anh Thảo đại diện, với đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, tôi trực tiếp báo cáo diễn biến cách đánh của địch của ta. Anh Giáp hỏi rất tỉ mỉ về chiến thuật "vận động kết hợp chốt” và chiến thuật tập kích đánh vào quân Mỹ. Mấy tuần lễ nghe chúng tôi báo cáo xong, anh Giáp căn dặn tôi: "...là người chỉ huy chiến dịch phải giỏi chiến thuật nhưng cần có tầm nhìn chiến lược nữa".

Khoảng tháng 10, ba chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng hành lý để trở lại chiến trường Tây Nguyên. Đột nhiên, Cục cán bộ báo cho riêng tôi ở lại nhận nhiệm vụ mới. Tôi đề nghị lên Bộ cho tôi trở lại Tây Nguyên, ở đó tôi đã quen thung thổ và cấp trên, cấp dưới đã hiểu tình cảm, tác phong của nhau, nhưng trên Bộ vẫn y lệnh.

Tôi chuyển về Quân khu Hữu Ngạn nhận chức tham mưu trưởng quân khu. Từ một người chỉ huy đơn vị chủ lực cơ động ở chiến trường, chuyển về làm công tác quân sự địa phương ở hậu phương, tôi lường trước để tránh có khoảng cách về tác phong, phương pháp làm việc giữa tôi và đồng đội của mình sắp tiếp xúc. Tôi dành hơn một tháng để đi các tỉnh trong toàn quân khu để nghiên cứu địa hình và kế hoạch bố phòng.

Quân khu đang chuẩn bị diễn tập. Xuất phát từ nhiệm vụ và địa hình của quân khu và sự hiểu biết của bản thân, tôi đề nghị quân khu nên diễn tập quy mô nhỏ rồi nâng dần lên, nên tập trung huấn luyện diễn tập đánh quân đổ bộ bằng trực thăng và đổ bộ đường biển. Ở Tây Nguyên chúng tôi đụng đầu quá nhiều với bọn Mỹ đổ bộ bằng trực thăng, có thể vì thế mà tôi nhấn mạnh việc chống lại chiến thuật này của địch, nên bị một, hai đồng chí trong Bộ tư lệnh Quân khu không đồng ý cắt ngang ý kiến:

- Ông Hữu An thì cái gì cũng trực thăng đổ bộ!

Có lẽ vì cương vị và sự mới mẻ nên tiếng nói của tôi không đủ sức nặng, vì vậy cuộc diễn tập lớn binh chủng hợp thành có xe tăng tham gia vẫn diễn ra ở thành phố Nam Định. Đồng chí Lê Duẩn đứng ở vị trị tham quan nhìn thấy dân quân nhảy lên xe tăng để tiến đánh vào thành phố, ông lắc đầu: “Đánh như thế, đến chủ lực còn chưa có xe tăng lấy đâu cho dân quân”.

Buổi họp rút kinh nghiệm cho cuộc diễn tập, nhiều đại biểu tới tham quan tỏ ra thất vọng. Đại tá Nam Thắng nói: "Tôi cảm ơn các anh về sự đón tiếp rất chu đáo, nhưng bảo nhận xét kết quả diễn tập, tôi chỉ có một câu: Chẳng học được cái gì”.

3

Ở Quân khu Hữu Ngạn tôi chưa kịp làm được việc gì, đã có lệnh (1-1969) chuyển đi nhận chức sư đoàn trưởng sư đoàn 308 thay đại tá Vũ Yên.

Về chỉ huy một đơn vị mới mà mọi cảm nghĩ của tôi như về một đơn vị mình hằng sống chiến đấu nhiều năm, đã có nhiều đồng đội bạn bè từng chia ngọt sẻ bùi. Tôi vững tin khi về "308" sẽ gặp nhiều thuận lợi, vì nó có đội ngũ cán bộ được tôi luyện dày dạn trong chiến đấu, và là một đơn vị có chiều dày truyền thống anh hùng trong kháng chiến chống Pháp.

Quả như tôi cảm nghĩ, xe của tôi lăn bánh chầm chậm theo con đường đất đỏ vào làng thẳng tắp đầy bóng râm của hai hàng phi lao và các bụi tre; nhìn qua cửa xe thấy những nếp nhà ngói xen lẫn nhà tranh nhưng quy củ, sạch sẽ. Thỉnh thoảng có cán bộ, chiến sĩ đi ngược chiều giơ tay chào tôi và gương mặt quen thuộc tươi cười gọi “Thủ trưởng Hữu An”. Xe vừa dừng trước nơi ở và làm việc của bộ tư lệnh sư đoàn, nhiều cán bộ đã xúm lại đón tôi tay bắt mặt mừng thân thiết. Cuộc họp mặt của bộ tư lệnh trong một cái đình làng làm hội trường nhỏ gần sát nơi ở. Đại tá chính ủy Hoàng Phương giới thiệu tôi với các cán bộ trong sư đoàn.

Bộ tư lệnh gồm tôi, đại tá Hoàng Phương, thượng tá Hùng Phong phó chính ủy, thượng tá Trương Đình Mậu tư lệnh phó, trung tá Nguyễn Bá Lục tham mưu trưởng. Các cán bộ trung đoàn gồm trung đoàn trưởng Hoàng Ngọc Tý (trung đoàn 102), Thận (trung đoàn 88), Chử Văn Chắc (trung đoàn 36)... Chúng tôi dễ dàng thân nhau, bởi trong số cán bộ từ trung đoàn trở lên có tới một nửa đã quen biết tôi từ hồi chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tôi hòa nhập vào mọi việc bề bộn của sư đoàn đang huấn luyện chuẩn bị cho diễn tập. Khỏi phải bàn bạc nhiều, chúng tôi đã thống nhất quan điểm huấn luyện xây dựng đơn vị với nhau là: phải sát với chiến đấu và có phát triển...? Nghĩa là phải tác chiến hiệp đồng được đúng như nhiệm vụ và tính chất của binh đoàn chủ lực cơ động.

Về yêu cầu cụ thể trong huấn luyện, trong chúng tôi lúc đầu vẫn còn vài điều chưa gặp nhau. Việc rèn luyện đôi vai, tôi và anh Hoàng Phương nêu yêu cầu dứt khoát phải mang đủ cơ số lương thực, đạn dược cho hai mươi ngày. Và cán bộ từ sư đoàn trưởng trở xuống cùng rèn luyện với anh em. Số không ít cán bộ nêu ra: “Chỉ nên rèn luyện mang đủ ăn và chiến đấu một tuần”. Cuối cùng việc rèn luyện đôi vai, toàn sư đoàn đã thực hiện được yêu cầu của chúng tôi nêu ra.

Việc huấn luyện chiến thuật cũng phải bàn đi bàn lại, chọn cách đánh nào phù hợp với tính chất của sư đoàn cơ động. Thực tế chiến trường miền Nam thời kỳ này trong bộ đội chủ lực đã có khuynh hướng "đặc công hóa” sư đoàn. Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện mang sư đoàn chủ lực của mình đánh theo kiểu xé lẻ, nhưng đánh tập trung hiệp đồng lớn như thế nào để phù hợp với thực tế, cái thực tế khắc nghiệt rằng: ta còn kém rất xa địch về binh khí kỹ thuật, còn là vấn đề nhức óc, không thể dễ dàng gỡ ra một lần.

Chúng tôi thống nhất với nhau (cả với Cục quân huấn) chọn cách đánh “vây lấn” sau đó chuyển sang tấn công có hiệp đồng binh chủng.

Giữa mùa nắng trên đồi núi Xuân Mai, huấn luyện hiệp đồng kết hợp chiến thuật mới phải sửa đi sửa lại nhiều lần, cả cán bộ chiến sĩ đều hết sức vất vả, cuối cùng diễn tập đã thu được kết quả nhất định mặc dầu sự đánh giá cuộc diễn tập có khác nhau.

Tôi nhớ ngay sau buổi diễn tập, đơn vị tập hợp trên bãi tập, có đồng chí phát biểu: "Thời kỳ này mà mang pháo, xe tăng ra đánh nhau với quân Mỹ là không thích hợp, chỉ gây thương vong lớn cho ta mà thôi”.

Tôi đáp lời rằng: "...xây dựng sư đoàn chủ lực phải có cách đánh của nó. Tôi không coi thường việc dùng chiến thuật phục kích, tập kích đánh nhỏ, lẻ nhưng nếu chỉ dừng ở cách đánh đó thì không sao phá vỡ được tập đoàn cứ điểm của địch. Chúng ta những ai đã đánh địch ở Nà Sản thời kỳ chống Pháp chắc chắn chưa quên tại sao có những trận tập kích và công kiên lẻ tẻ của ta không đem lại hiệu quả... Việc diễn tập này là thí nghiệm, chúng ta còn phải bổ sung”.

Phó tổng tham mưu trưởng Vương Thừa Vũ ủng hộ tôi, anh nói: "Nội dung diễn tập như thế là được nhưng cần phải sửa vài điểm, cần phải để vài ba ngày vây lấn ngoại vi cho nó rệu rã ra rồi ta tấn công có hiệp đồng vào tung thâm tiêu diệt quân địch, nhưng cũng không kéo dài thời gian vây lấn".

VIII

HƯỚNG CHỦ YẾU CHIẾN DỊCH ĐƯỜNG 9 - NAM LÀO

1

Tình hình chiến tranh sau 'Mậu Thân" đã có bước chuyển biến quan trọng, buộc đế quốc Mỹ phải từng bước thay đổi chủ trương chiến lược, “xuống thang” cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, Giôn-xơn tuyên bố "phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh" rút bớt quân viễn chinh Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam (1). Khi lên làm tổng thông nước Mỹ, Ních-xơn đã đưa ra học thuyết "Việt Nam hóa chiến tranh" thay đổi chiến lược quân sự “tìm và diệt” bằng chiến lược "quét và giữ”, thực chất là một bước thụt lùi của Mỹ từ phản công chuyển sang phòng ngự. Để bơm tinh thần cho quân ngụy, từ cuối năm 1969 đến hết năm 1970 chúng liên tục tung hỏa mù sẽ tiến công bằng quân bộ ra miền Bắc. Các tướng lĩnh Mỹ, ngụy đi lại như con thoi ra trinh sát đường 9 và chĩa ống nhòm ra bờ bắc sông Hến Hải. Máy bay trinh sát bay suốt ngày thâu đêm trên bầu trời Quảng Trị. Khu trục hạm, tuần dương hạm và cả hàng không mẫu hạm... diễu võ giương oai trên vịnh Bắc Bộ; sư đoàn dù nguy, sư đoàn A-mê-ri-cơn Mỹ lần lượt chuyển từ Nam Bộ ra Đông Hà - đường 9. Tình hình ngày một căng lên, như nồi hơi bị nén tới cực điểm chỉ chờ giây phút nổ tung.

Tháng 10 năm 1969 sư đoàn 308 chúng tôi được lệnh của Bộ chuyển vào Nghệ An với nhiệm vụ: cùng với lực lượng vũ trang địa phương tổ chức trận địa phòng thủ sẵn sàng đánh địch đổ bộ vào Quân khu 4.

Thời gian này (1970) nếu ta đi dọc đường số 1, vào tới Vĩnh Linh nhìn lên núi đồi hai bên đường, sẽ thấy bộ đội, dân quân đi lại đào công sự chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh trên bộ của Mỹ khẩn trương như thế nào. Sư đoàn 308 chúng tôi cũng làm việc trong không khí chung ấy. Chúng tôi làm phương án tác chiến đánh quân địch đổ bộ bằng đường biển, đường không và tranh thủ huấn luyện cán bộ, đơn vị theo phương án.

Tuy chưa thật đủ yếu tố để khẳng định âm mưu của địch trước mắt sẽ diễn ra thế nào? Chúng sẽ đưa quân bộ đánh ra miền Bắc; đánh ra vùng ba biên giới Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào; hay đánh ra đường 9 - Nam Lào? Quân ủy Trung ương họp nhận định, đã nghiêng về khả năng thứ ba. Từ lâu đế quốc Mỹ đã thực thi cuộc chiến tranh "bóp nghẹt", dùng hỏa lực lớn kể cả B.52 đánh phá ngăn chặn tuyến vận tải chiến lược 559, dùng con bài Lôn- nôn đảo chính Xi-ha-núc phá tuyến vận tải từ cảng Xi-ha-núc-vin về Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ, đưa quân Mỹ - ngụy sang Cam-pu-chia "xoá đất thánh"... để buộc "cuộc chiến tranh của Việt cộng phải tàn lụi". Tất cả thủ đoạn, hành động đó đều “chưa đáp lại mong mỏi của Hoa Kỳ”. Cuộc chiến tranh "bóp nghẹt” như món nợ lớn đối với giới quân sự Mỹ chưa trả được. Từ lâu họ luôn dõi theo con "đường mòn” Hồ Chí Minh, thấy đoạn đường 9 – Nam Lào địa hình bị thu hẹp lại - hình cổ chai, họ đã có ý tưởng dùng quân bộ để “đóng nút" chai, nhưng tình thế chưa cho phép. Đến nay tình thế đã thay đổi, rất có thể Mỹ đẩy quân ngụy tới mở chiến trường này để đạt "một phát tên bắn hai đích” vừa thí nghiệm học thuyết “Việt Nam hoá chiến tranh" vừa “đóng nút chai".

Ngày 20 tháng 3 năm 1970 chúng tôi nhận chỉ thị của Bộ nếu địch đánh ra đường 9 - Nam Lào, 308 sẽ ở hướng chủ yếu, phải đi trinh sát địa hình trước khi địch tới.

Vùng đất sắp sửa thành chiến trường mà sư đoàn 308 sẽ ở hướng chủ yếu đối với tôi còn rất mới mẻ xa lạ. Tôi cùng với tham mưu trưởng Trịnh Tráng phải nằm bò ra trên tấm bản đồ quân sự tỷ lệ l/100.000 cả mấy ngày trời để xác định khu vực, các tuyến và các điểm phải trinh sát.

Đoàn cán bộ từ tiểu đoàn trưởng trở lên và các bộ phận phục vụ khoảng 200 người, do tôi trực tiếp chỉ huy đi trinh sát giữa mùa mưa. Chúng tôi phải lội qua sông Sê Băng Hiêng, sông Sê Pôn và bao nhiêu con suối chảy xiết rất nguy hiểm. Chúng tôi phải leo lên tụt xuống không biết bao nhiêu con dốc, các loại vắt lá, vắt đất, ruồi vàng thay nhau bám theo làm chúng tôi bận bịu vất vả thêm. Ai nấy suốt ngày này qua ngày khác quần áo ẩm ướt hôi hám, đôi vai không rời súng đạn và ba lô nặng hàng chục ki-lô-gam. Chúng tôi trinh sát bừa đi bừa lại trên khu vực rộng từ Làng Vây, Lao Bảo, Huội San ra tới Sê Pôn. Nhiều lần gặp bọn thám báo phải hạ ba lô xuống để nổ súng, nhiều lần bom "tọa độ" nổ trúng hoặc sát đội hình. Đoàn trinh sát chúng tôi bị thương vong một số người. Hơn một tháng hành quân trinh sát rất gian khổ, chúng tôi đã có cơ sở để hạ quyết tâm sơ bộ.

Về Nghệ An, chúng tôi xây dựng tương đối hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến, để thông qua Bộ tư lệnh Binh đoàn 70 (10-1970 thành lập binh đoàn 70 gồm các sư đoàn 304, 308, 320), sau đó tôi được lệnh về Hà Nội gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Tôi gặp anh Giáp tại nhà riêng. Thấy tôi đến, anh Giáp đứng dậy rời khỏi bàn làm việc, thân mật tới siết chặt tay tôi. Lần gặp nào cũng vậy, tôi cũng được nghe tiếng cười nói ấm áp chân tình của Tổng tư lệnh. Anh hỏi thăm sức khỏe của tôi và anh em vừa ở chiến trường ra. Thái độ cởi mở bình đẳng của anh đã xoá đi khoảng cách cấp trên, cấp dưới. Tôi báo cáo những nét chủ yếu nhất mà chúng tôi thu lượm được trong chuyến trinh sát xong, anh Giáp đặt ra một số câu hỏi (nhiều câu hỏi của anh trùng với những điều suy nghĩ của chúng tôi, trong khi đi trinh sát): "Theo cậu thì thằng Mỹ sẽ đặt căn cứ ở chỗ nào để chi viện cho nguy? Liệu nó sẽ đánh ra Khu 4 hay ra trường 9 - Nam Lào?...". Anh Giáp tỏ ý hài lòng khi tôi trả lời những câu hỏi ấy.

Vài phút cuối của buổi gặp mặt, anh Giáp căn dặn tôi:

- Phải chuẩn bị cả hai nơi nhưng nên tập trung nhiều hơn về hướng Nam Lào. Nếu địch ra Khu 4 ta phải đánh thắng chúng tại đây và cũng phải luôn luôn sẵn sàng, khi địch ra đường 9 – Nam Lào là đơn vị có thể cơ động được ngay.

Sau đó anh gọi đồng chí chụp ảnh đến chụp một "pô" làm kỷ niệm.

(1) Đến tháng 4 năm 1969, 11 vạn quân chiến đấu Mỹ đã rút ra khỏi miền Nam Việt Nam.

2

Tất cả còn nằm trong dự đoán Dù mới là dự đoán thôi, cũng không thể lơ là việc chuẩn bị chống địch ra tấn công ra miền Bắc. Sau ít ngày ở đường 9 ra, chúng tôi cấp trưởng trong tư lệnh sư đoàn và trung đoàn cùng Phó tổng tham mưu trưởng Vương Thừa Vũ đi nghiên cứu địa hình suốt từ Diễn Châu (Nghệ An) dọc theo đường số 1 vào tới Quảng Bình. Tất cả khe lạch, cửa sông nơi nào có thể thành bến bãi địch đổ bộ, tất cả ngọn núi, ngọn đồi có ý nghĩa chiến thuật chúng tôi đều đến tận nơi xem xét đánh dấu vào bản đồ và trí nhớ. Nhiều câu hỏi giả định được đặt ra: "Nếu Mỹ đổ một lữ chiếm đèo Lý Hòa, một lữ chiếm đèo Ngang nhằm mục đích nghi binh cho đại quân của chúng ra đường 9 - Nam Lào thì cách đánh thế nào? Nếu...".

Hầu hết những giả định quan trọng đặt ra, chúng tôi đều phải suy nghĩ tìm cách giải đáp hợp lý, không chỉ bằng lý thuyết mà bằng một loạt công tác tổ chức, biện pháp hành động từ tư lệnh đến từng người lính. Nhìn lên dải đồi núi hai bên đường số 1 suốt từ Nghệ An vào Quảng Bình thời gian này, không mấy ngọn đồi, ngọn núi vắng bóng người. Đây là trận địa cao xạ, kia là bộ binh chủ lực và kia nữa là lực lượng vũ trang địa phương... Một tuyến phòng thủ liên hoàn kéo dài hàng trăm cây số, nhìn ra biển và nhìn về phương nam sẵn sàng. Tuyến phòng thủ vẫn nằm dưới bầu trời bình yên và cuộc sống bình yên. Ở đây vẫn nghe tiếng chim hót trong lùm cây, tiếng cười nói líu lo của mấy cô dân quân và tiếng sóng biển rì rầm. Ở đây không có tiếng bom đạn, nhưng không khí chiến tranh ngày thêm ngột ngạt đè nặng trong lòng mọi người. Những người dân đứng tuổi lầm lũi làm việc nhà, lầm lũi tham gia việc chuẩn bị chiến tranh dường như không biết mệt mỏi. Tôi cảm nhận ở trong mắt họ nỗi lo lắng xa xôi: Chiến tranh trên bộ ở đây sẽ thế nào? Bao giờ kết thúc?

Vào cuối năm 1970 tới tháng 1 năm 1971, những điều Mỹ muốn giấu kín cũng lần lượt bộc lộ, chứng minh nhận định của Quân ủy Trung ương là rất sáng suốt.

Ta nắm được tin: Ngày 3 tháng 2 năm 1970 Ních-xơn đã ký với Nguyễn Văn Thiệu bảo đảm sẽ yểm trợ tối đa, cho cuộc hành quân của quân ngụy qua đất Ai Lao lấy tên: Ni-uây-ke-ni-ơn (sau đổi tên là Lam Sơn – 719).

Ngày 21 tháng 11 năm 1970 Mỹ tập trung hàng trăm máy bay các loại ở sân bay Tân Sơn Nhất.

Ngày 30 tháng 1 năm 1971 sư đoàn dù do trung tướng Dư Quốc Đống chỉ huy được máy hay vận chuyển ra Đông Hà. Rồi tiếp sau đó là sự điều động ồ ạt, chỉ trong vòng vài tuần lễ các liên đoàn biệt động ở Đà Nẵng, các thiết đoàn 3, 11, 7, 17 ở Quảng Ngãi, ở Huế, sư đoàn dù 1 Mỹ, sư đoàn A-mê-ri-cơn, sư đoàn bộ binh 5 Mỹ và nhiều đơn vị hậu cần, công binh lần lượt kéo ra ở chật các căn cứ từ Ái Tử, Đông Hà đến Lao Bảo.

Ngày 2 tháng 2 năm 1971 địch mở cuộc họp ở Đông Hà có trung tướng Mỹ Su-jấc-len, trung tướng Hoàng Xuân Lãm, trung tướng Dư Quốc Đống... dự bàn việc triển khai chiến dịch. Kế hoạch chiến dịch chia làm bốn bước:

1. Từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 triển khai xong lực lượng ở khu vực tập kết.

2. Từ ngày 8 tháng 2 đến ngày 14 tháng 2 chiếm ngã ba Bản Đông và Sê Pôn.

3. Từ ngày 15 tháng 2 đến ngày 13 tháng 3 lùng sục càn quét phá hủy kho tàng.

4. Từ ngày 13 tháng 3 đến tháng 5 đánh xuống phía nam A Sầu, A Lưới.

Bọn tướng lĩnh Mỹ - ngụy cho rằng quân Bắc Việt bị mắc lừa, còn phòng thủ ở Khu 4, nếu biết cuộc hành quân ra đường 9 - Nam Lào mới nhổ trại thì chúng làm xong mọi việc.

Khi chúng ồ ạt đổ quân ra Đông Hà, trong anh em cán bộ chúng tôi vẫn còn có những câu hỏi: "Liệu nó ra miền Bắc hay sang Lào”. Phần lớn cán bộ của sư đoàn 308 sau khi được đi chuẩn bị chiến trường đều khẳng định địch đánh đường 9 - Nam Lào. Khi ta được tin một cách chắc chắn địch bắt đầu tiến quân vào Nam Lào, lúc đó sư đoàn mới nhận lệnh (trưa ngày 1-2) hành quân vào chiến dịch.

Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ của chiến dịch:

- Tiêu diệt lớn và làm tan rã thật nhiều quân ngụy, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quân Mỹ, đánh cho chúng một đòn đau.

- Giữ vững tuyến vận chuyển chiến lược, bảo vệ tốt kho tàng của ta. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, một điểm đặc biệt của chiến dịch cần hết sức coi trọng và quán triệt đầy đủ trong thựchành.

Phối hợp với các chiến trường, tạo điều kiện cho các chiến trường khác đẩy mạnh tiến công địch toàn diện, nhất là đánh phá "bình định” của địch.

- Bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm hậu phương lớn luôn luôn vững vàng trong mọi tình huống.

Nhiệm vụ sư đoàn tôi ở hướng chủ yếu đột phá cánh bắc mở màn cho chiến dịch, sau đó sẽ tiến xuống đường 9 cùng các đơn vị bạn đột phá vào lữ đoàn đặc nhiệm ngụy, cánh quân trung tâm của cuộc hành quân “Lam Sơn - 719" trên đoạn đường từ Lao Bảo tới Bản Đông.

Thời gian chuẩn bị cuộc hành quân (với đơn vị đi đầu) không đầy năm tiếng đồng hồ. Đúng 17 giờ (1-2-1971) đoàn xe đầu tiên của binh trạm đã có mặt ở ngã ba Quán Hành đón toàn bộ cơ quan sư đoàn bộ, các tiểu đoàn 14, 16, 18 và tiểu đoàn 9 (của trung đoàn 102) lên đường. Bộ phận còn lại của cơ quan sư đoàn và trung đoàn 102 đúng 17 giờ hôm sau đi tiếp. Trung đoàn 88 từ Thạch Bàn đã nhận điện tự tổ chức đi trước. Ngày 6 tháng 2 trung đoàn 36 đóng ở Hà Tĩnh lên đường đợt cuối cùng.

3

Chúng tôi vào tới Sa Rít, phải hạ trại ngoài ý muốn. Theo tin của anh em trinh sát báo cáo. Đội hình đánh chiếm của địch cơ bản đã triển khai xong. Tiểu đoàn biệt động quân 21 đóng ở điểm cao 500 chặn trước mặt, cách chúng tôi khoảng vài cây số. Pháo ở phía đông Tà Púc liên tục ùng oàng bắn về phía Mường Chương, tiếng đạn xé không khí luôn luôn hú dài trên đầu chúng tôi. Chủ nhiệm hậu cần sư đoàn báo cáo với tôi: Tổng kho Mường Chương đã bi địch phát giác, bắn phá liên tục, gây cho ta rất nhiều khó khăn trong việc tiếp tế lương thực đạn dược. Thật may, sự lo xa không thừa, toàn sư đoàn đã mang theo được hai mươi ngày gạo/đầu người, chúng tôi có thể chiến đấu cả tuần lễ chưa phải lo tới lương thực đạn dược.

Sở chỉ huy dừng lại ở mảnh rừng hẹp thưa cây kéo dài khoảng gần 1.000 mét, bên cạnh đầu nguồn sông Sa Mu, hai bên là rừng lau, rừng chít. Chỉ vài ngày sau rừng lau, rừng chít ở những quả đồi xung quanh đã bị bom na-pan của địch đốt trụi. Mảnh rừng cây chúng tôi đang ở trở thành một cô đảo nhỏ nhoi trên "mặt biển" đen ngòm. Theo nguyên tắc quân sự: Không nên chọn nơi trú quân là nơi địa hình độc đáo để lộ, năm ngoái đi trinh sát chúng tôi cho rằng địch ít có khả năng đổ vào sâu đến điểm cao 500, nên đã chọn điểm cao 1.020 để đặt sở chỉ huy và để lại đó một bộ phận do sư đoàn phó Nguyễn Bá Lục phụ trách. 1.020 lúc này đã nằm trong vòng vây của địch, chúng tôi đành phải hạ trại ở nơi mình không muốn lựa chọn. Tương kế tựu kế, địa điểm độc đáo dễ lộ, như nếu ta giữ bí mật tốt, có thể trở thành bất ngờ với địch. Tôi hạ lệnh cho anh em đào công sự ngụy trang kín đáo, và cơ quan tham mưu phải tổ chức ngay việc liên lạc với cấp trên, cấp dưới.

Một điều khá lạ lùng, chúng tôi tới đây chưa kịp ráo mồ hôi, Bộ chỉ huy Mặt trận đã có điện thúc phải đánh ngay, ký điện là đại tá Cao Văn Khánh. Tôi điện trả lời: Chúng tôi đang tổ chức nắm lực lượng Vài giờ sau lại có bức điện thúc "phải đánh ngay" và cứ đều đặn thúc giục như vậy. Tôi trao đổi với chính ủy Hùng Phong "…không hiểu sao Bộ chỉ huy lại không nhận được điện của mình”…

Cuối cùng vẫn mù tịt không rõ lý do của những mệnh lệnh vội vã đó. Mãi tới sau này làm tổng kết mới biết, nhân viên điện đài của Bộ không nhận điện trả lời của sư đoàn, lấy lý do phải chuyển điện của Bộ đi còn quan trọng hơn.

4

Địch không ngờ thời gian hơn mười ngày, quân ta đã vượt qua được gần nửa nghìn cây số, trong lúc chúng vừa mới kịp triển khai xong đã bị đánh khắp nơi.

Ngày 8 tháng 2 trận địa phác Đ.74 pháo kích vào nơi đóng quân của bọn bộ binh cơ giới địch đóng ở Cà Tong, địch bỏ chạy tán loạn.

Ngày 9 tháng 2 ta nã pháo vào cụm cơ giới địch cụm ở Sa Tióc gây nhiều đám cháy, chiến đoàn ngụy bị một số tổn thất. Cùng ngày đó trung đoàn 24 đánh lui năm đợt phản kích của địch ở vùng điểm cao 351, buộc cuộc hành quân của chúng phải cụm lại ở nam Cô-ta-côi.

Cũng trong ngày 9 trung đoàn 88 vừa hành quân đến nơi, đặt ba lô xuống là bước vào chiến đấu ngay. Tiểu đoàn 6 vận động tiến công vào tiểu đoàn biệt động quân 21 đóng ở Làng Sen, diệt 21 tên.

Ngày 11 tháng 2, tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 5 trung đoàn 24 đánh một trận vận động tiến công ở khu vực cầu Cha Ky, diệt 4 đại đội của tiểu đoàn dù 1, và đại đội 1 thuộc tiểu đoàn công binh 101, bắn cháy 13 thiết giáp làm chủ chiến trường, bắt tù binh.

Đêm 12 tháng 2, hai đại đội của tiểu đoàn 4 và một đại đội của tiểu đoàn 6 tập kích vào các đại đội thuộc tiểu đoàn biệt động quân 39 đóng ở sườn điểm cao 500, tiêu diệt một số, có một đại đội trưởng, số còn lại phải rút chạy lên điểm cao.

Tuy những trận đánh còn lẻ tẻ ở quy mô nhỏ, nhưng rõ ràng đã hạn chế tốc độ triển khai và hạn chế sự càn quét lùng sục của chúng, tạo điều kiện cho chủ lực của ta triển khai thuận lợi hơn.

5

Khoảng 11 tháng 2 sở chỉ huy sư đoàn bắt liên lạc được với các trung đoàn và các đơn vị bạn, đồng thời cũng nắm được tình hình địch chắc hơn.

Lực lượng chủ yếu ở cánh bắc của ta gồm sư đoàn 308 được phối thuộc trung đoàn 24 (304) và cùng với trung đoàn 64 (320) được pháo binh của chiến dịch chi viện sẽ mở cuộc phản công quân địch trên chính diện đông tây kéo dài từ A Hai, Tà Púc, A Rinh, qua Làng Sen tới điểm cao 500 rộng khoảng 15 ki-lô-mét với chiều sâu nam bắc từ sông Sen, ngã ba Cha Ky xuống tới đường số 9 đoạn từ Bản Đông đi Lao Bảo.

Bảo vệ cánh bắc của địch gồm lữ đoàn dù 3 và liên đoàn biệt động quân 1. Chúng đã được cơ động bằng máy bay lên thẳng đổ quân chiếm các điểm cao và thiết lập các căn cứ hỏa lực như sau:

- Tiểu đoàn biệt động quân 39 chiếm điểm cao 500.

- Tiểu đoàn biệt động quân 21 chiếm điểm cao 316 bắc Làng Sen.

- Tiểu đoàn dù 2 chiếm điểm cao 665 lập căn cứ hỏa lực 30.

- Tiểu đoàn dù 3 và lữ bộ lữ đoàn dù 3 chiếm các điểm cao 543, 456 lập căn cứ hỏa lực 31 ở điểm cao 543.

Nhìn rộng ra toàn mặt trận, địch đã triển khai toàn bộ sư đoàn dù (đủ 3 lữ 1, 2, 3) bố trí từ Làng Vây đến Ka Kút (sát Lao Bảo). Liên đoàn biệt động quân 1 triển khai từ động Tà Púc đến động A Hai. Trung đoàn 3 của sư đoàn bộ binh 1 đứng ở Khe Sanh. Lữ đoàn kỵ binh 1 đứng ở Lao Bảo, trong đó có 2 thiết đoàn triển khai trong đội hình của lữ đoàn dù 1, hình thành chiến đoàn đặc nhiệm, gồm lữ đoàn dù 1 và hai thiết đoàn 11, 17. Sở chỉ huy sư đoàn bộ binh 1, sư đoàn dù, lữ đoàn kỵ binh 1 đóng ở Khe Sanh.

Ngày 13 tháng 2 chúng tôi họp thường vụ đáng ủy sư đoàn thông qua quyết tâm tiêu diệt địch trên điểm cao 500.

Từ mấy ngày hôm trước trong bộ tư lệnh chúng tôi đã cân nhắc trận đánh mở màn sẽ ở đâu? Cái "huyệt" của địch ở cánh bắc này là chỗ nào? A Rinh, Tà Púc, 316 hay 500? Cuối cùng chúng tôi chọn 500, nơi đó tiểu đoàn biệt động quân 39 mới đổ xuống đứng chân chưa vững; nơi đó địch có khả năng khống chế được đường 16A, ngã ba Cha Ky; nơi đó địch sẽ cắt đứt khả năng triển khai cơ giới của ta xuống hướng nam; nơi đó địch khống chế khu vực kho Mường Chương... 500 là tiền đồn quan trọng bảo vệ cánh bắc, nó là áo giáp cho các căn cứ hỏa lực phía sau như A Rinh, 316, 456 để cho chiến đoàn đặc nhiệm triển khai thuận lợi trên đường 9. Vì vậy đột phá vào 500 là ta điểm vào cái "huyệt chí mạng” cánh bắc của địch.

Chúng tôi quyết định sử dụng trung đoàn 102 và tiểu đoàn 6 thuộc trung đoàn 88, dùng cách đánh hiệp đồng binh chủng lần lượt tiêu diệt cả bốn mỏm của điểm cao 500.

Trong ngày 13 kế hoạch tác chiến đã phát đến các trung đoàn 102 và 88. Đêm 14 tháng 2 đại đội 11 trung đoàn 88 và đại đội 1 trung đoàn 102 vào chiếm lĩnh trận địa trước. Các khẩu đội súng máy 12 ly 7, cối 82 ly và ĐKZ cũng vào chiếm lĩnh trận địa, cách địch từ 200 mét đến 300 mét. Ngay sau đó các đơn vị tổ chức sử dụng hỏa lực khống chế địch.

16 giờ 30 phút ngày 15 tháng 2 nhiều tốp trực thăng bay tới tiếp tế cho địch ở 500, bị 12 ly 7 của trung đoàn 88 bắn rơi một chiếc, những chiếc khắc bốc lên cao rồi bỏ chạy. 17 giờ 5 phút trực thăng vũ trang tới ném lựu đạn cay vào trận địa 12 ly 7. Anh em ta bắn trả quyết liệt, rơi tại chỗ một chiếc nữa. Cùng ngày ở trận địa vòng ngoài, trận địa 14 ly 5 đã bắn rơi một trực thăng.

Ngày 16 tháng 2, súng cối của ta bắn cầm canh vào cả ba mỏm 2, 3, 4, địch không dám đi lại trên mặt đất. Địch bắn pháo và thả bom bi vào trận địa ta. Đêm anh em đẩy trận địa vào sát địch, phía đại đội 11 trung đoàn 88 đào công sự chỉ cách địch 150 mét, thực hành chiến thuật vây lấn.

Ngày 17 tháng 2 tiểu đoàn 6 trung đoàn 88 tiến công mỏm 2 nhưng đi lạc không vào được.

Ngày 18 tháng 2, qua ba ngày bốn đêm ta khống chế được máy bay trực thăng của địch, chúng không dám đậu xuống đất mà chỉ vội vã sà xuống thấp rồi đẩy hàng xuống vì vậy không lấy được thương binh. Địch ở 500 đánh điện liên tục xin chi viện lương thực đạn dược và 300 mũ sắt. 9 giờ 45 phút pháo Đ. 74 của ta hắn trúng mỏm 2, 3 và bãi đỗ trực thăng phá 8 nhà bạt, 5 lô cốt bao cát. 11 giờ một tốp trực thăng địch xuống phía bắc 500, 12 ly 7 của ta bắn rơi một chiếc, số còn lại vội bốc lên cao rồi bay thẳng. Hồi 14 giờ địch thả khói mù và khói màu rồi cho chừng một tiểu đội lợi dụng màn khói chạy xuống lấy nước, bị tổ bắn tỉa diệt 3 tên, số còn lại vội vã quay đầu chạy trở lại...

Qua các phương tiện thông tin điện thoại, điện trời và đài quan sát, chúng tôi theo dõi rất chặt chẽ từng ngày mọi diễn biến, và kịp thời phát những chỉ thị cho các đơn vị chiến đấu ở điểm cao 500. Ngay từ ngày đầu địch đã ở trong vòng vây, rồi mỗi ngày vòng vây một chặt thêm. Đối phó của địch yếu ớt, không có hiện tượng đưa quân tới ứng cứu. Bọn địch trên các mỏm đều thụ động nằm bẹp trong công sự, không dám tự do đi lại, công sự bị pháo ta phá hỏng không đám lên để sửa chữa, không hề tổ chức lực lượng phản kích.

Về phía ta, các chiến sĩ bộ binh, hoả lực trong trận địa vây lấn tỏ ra rất kiên cường, linh hoạt, luôn luôn ở tư thế áp đảo địch.

Căn cứ vào tình hình trên trong ngày 18 tháng 2 bộ tư lệnh chúng tôi hạ quyết tâm: thừa cơ địch đang hoang mang ta tổ chức tấn công dứt điểm 500. Sử dụng hai đại đội của tiểu đoàn 6 trung đoàn 88 đánh chiếm mỏm 2 để uy hiếp địch và làm bàn đạp tiến công dứt điểm các mỏm khác. Sau khi các đại đội của tiểu đoàn 6 chiếm được nỏm 2, trung đoàn 102 đưa lực lượng lên để đánh dứt điểm.

Sau chiến dịch tôi nghe anh em kể lại trận đánh của đại đội 11 và đại đội 9 tiểu đoàn 6 lên mỏm 2.

… Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu Sự dẫn tổ mở cửa do Dương Đăng Hải là tổ trưởng, lên sát hàng rào đồn địch để chỉ điểm và hướng đột phá. Đội hình tổ mở cửa vừa triển khai xong, đạn pháo từ trận địa Tà Púc liên tục bay tới, rồi tiếng nổ và khói đạn trùm lên đội hình của đại đội 11. Trung đội trưởng trung đội 3 và một chiến sĩ trong tổ mở cửa hy sinh. Đại đội trưởng đại đội 11 Ngô Văn Kính quyết định tiểu đội trưởng May lên thay trung đội trưởng trung đội 3.

Tổ mở cửa đi đầu đội hình của đại đội. Vừa vượt qua một bãi trống cách hàng rào khoảng 50 mét, phát hiện có bãi mìn, chiến sĩ Nguyễn Văn Đỡ dừng lại nói thầm với Hải "để em gỡ”. Đỡ gỡ được bảy quả mìn vướng nổ. Hải lên thay gỡ tiếp cho tới khi thông đường xuất kích. Đỡ ôm quả mìn ĐH.7 bò lên đặt trước hàng rào. Dây để giật mìn quá ngắn, đại đội trưởng Kính phái cởi dây võng nối thêm cho an toàn, rồi kéo xuống dưới chân đồi ngồi chờ giờ súng nổ.

Khoảng 21 giờ có bóng hai tên địch đi tuần. Tới gần quả mìn ĐH.7 chúng dừng lại. Anh em hồi hộp, tưởng đã bị lộ, nhưng hai tên địch đứng một lát rồi đi hướng khác. Anh em giở cơm nắm ra ăn. Chính trị viên Điềm trao đổi với Hải lưu ý việc phát triển Đảng trong quá trình chiến đấu. Hải nghĩ ngay tới Đỡ, một chiến sĩ trẻ dũng cảm trong tổ mình. Vừa ăn cơm xong Đỡ đã lăn ra ngủ từ bao giờ không biết. Hải phải cấu vào mạng mỡ, Đỡ mới ú ớ rồi thức dậy.

23 giờ, lệnh nổ súng: Các cỡ đạn pháo của ta bắn cấp tập vào các mỏm của 500, pháo sáng từ mặt đất, từ máy bay địch bắn ra toả sáng rực cả một vùng trời. Đạn đại bác từ các trận địa Tà Púc, A Rinh thi nhau dội tới. Máy bay phản lực gầm thét giận dữ, bất lực phóng bom bi, phóng rốc két xuống sườn núi. Mặt đất tưởng chừng sắp sửa sụp xuống.

Đại đội trưởng Kính giật quả mìn ĐH.7. Một ánh chớp vàng rực cùng với tiếng nổ dữ dội. Hàng rào thép gai bỗng chốc mở ra một khoảng trống - cửa mở. Tổ đột phá Dương Đăng Hải dẫn đầu băng mình như cơn lốc qua cửa mở, những loạt đạn liên thanh của địch hoảng loạn rít gió trên đầu quân ta. Phút sau có tên địch đã hoàn hồn, bắn những loạt đạn khá hiểm ác. Nhìn những chấm sáng đạn lửa là là mặt đất, Hải thầm đoán đó là hỏa điểm trưng liên đang bắn, không thể coi thường. Hải nhanh nhẹn làm động tác bò thấp vòng qua một mô đất. Tên xạ thủ trung liên đang gò lưng xả đạn về phía trước không hề để ý tới bên sườn. Hải bình tĩnh níu cò khẩu AK, phóng ra hai loạt đạn ngắn. Tên lính ngụy chết gục đè lên khẩu trung liên.

Trung đội trướng May vừa tới nơi, anh hô to: “chiếm chiến hào! Mau". Lại có một khẩu đại liên từ lô cốt phía trước xả ra một tràng đạn dài. Hải ném một quả lựu đạn về phía đó. Lựu đạn nổ ở khoảng cách còn xa. Khẩu đại liên địch vẫn tiếp tục phụt lửa. Hải bí mật bò sát vào tường lô cốt, anh tống luôn một quả lựu đạn vào “cái miệng” đang khạc lửa. Trong lô cốt địch "ục" một tiếng, khẩu đại liên câm bặt. Cùng lúc đó Phạm Văn Đỡ được trong đội trưởng May bắn yểm hộ đã diệt được một hỏa điểm lộ thiên, rồi Đỡ vượt nhanh về phía trước. Thấy ánh chớp nhỏ và tiếng nổ đạn M.79 ở phía sau, Đỡ ngoảnh lại đã thấy May nằm úp mặt xuống thành hào. Đỡ vội vã trở lại, gặp Hải cũng vừa tới. Hai anh em đứng lặng người giây lát rồi không ai bảo ai, người đỡ lưng, người đỡ chân khênh trưng đội trưởng May vào một ngách chiến hào.

Càng đánh sâu vào trong, địch càng ngoan cố chống lại quyết liệt. Gần tới đỉnh mỏm 2, đại đội trưởng Kính bị trúng đạn, hy sinh. Chính trị viên Điềm thay Kính chỉ huy, anh kêu gọi anh em "trả thù cho Kính”. Các chiến sĩ đại đội 11 được đốt thêm ngọn lửa căm thù, càng hăng hái tiến lên. Bọn địch bị dồn lại ở một đoạn chiến hào. Pháo sáng soi rõ mồn một. Dương Đăng Hải chập hai quá lựu đạn lại giật điểm hỏa, nghiến răng ném về phía địch. Bọn địch bị thương la hét, rên rỉ. Cùng lúc đó Hải thấy tay mình mất điều khiển, khẩu súng rơi xuống đất. Đỡ luôn cặp kè bên Hải, thấy Hải bị thương anh vội vã băng vết thương cho bạn, xong anh lại lao lên tiếp tục chiến đấu. Phát hiện hỏa điểm từ lô cốt phía trước đang bắn chặn đơn vị mình, Đỡ dùng B-40 dập tắt hỏa điểm, rồi tiếp tục bắn một phát sang lô cốt bên cạnh. Vừa lúc phát B.40 thứ hai hay ra, một viên đạn cối rơi ngay cạnh Đỡ. Tiếng nổ, khói bụi chùm lên tất cả. Đỡ bị thương ngã vật xuống chiến hào...

Khoảng 2 giờ sáng quân ta đã chiếm được mỏm 2.

6

Mất mỏm 2, tiểu đoàn biệt động quân 39 ngụy chôn vùi luôn ở đó một đại đội.

Tôi nghe Hoàng Ngọc Tý trung đoàn trưởng trung đoàn 102 báo cáo: Khoảng 7 giờ sáng đại đội 11 trung đoàn 102 do đại đội trưởng Quang Trung chỉ huy đã lên mỏm 2 thay thế tiểu đoàn 6 trung đoàn 88. Anh em đang quét nốt một số tên địch.

Khoảng bơn 5 giờ chiều, ánh nắng đang nhạt dần trên mảng rừng. Nghe tiếng bom nổ nhiều ở phía 500, chưa thấy trung đoàn trưởng Tý báo cáo về, tôi sốt ruột, chống gậy đi sang hầm tác chiến. Tham mưu phó Nguyễn Văn Giai ngồi trên cửa hầm, đang nói chuyện gì đó với người ở dưới hầm, thấy tôi đến anh ngẩng mặt có ý chào rồi nói:

- Vừa rồi cậu Tý báo cáo bom đánh vào sở chỉ huy trung đoàn và đánh vào đội hình của tiểu đoàn 9. Tiểu đoàn trưởng Tào báo cáo: Anh em trên mỏm 2 vẫn giữ vững trận địa. Hai lần địch phản xung phong đều bị ta đánh lui, diệt khoảng 70 tên. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 Lê Văn Tào đã giao nhiệm vụ đánh đêm nay cho các đại đội trưởng tại thực địa. Ở đó anh em vẫn nhìn rõ hành động của địch trên mỏm 3 và 4. Thỉnh thoảng chúng bắn cả sang trận địa ta.

Tôi nói với Giai:

- Nhắc cầu Tý thực hiện đúng như kế hoạch đã định. Kiểm tra lại công tác chuẩn bị của tiểu đoàn cậu Tào. Báo cho pháo Đ.74 đúng giờ hiệp đồng bắn vào mỏm 3 và 4.

Trao đổi xong vài việc cần thiết cho trận đánh 500 xong, tôi nghe Giai báo cáo tình hình trong ngày của hậu cần và các trung đoàn. Chốt 351 do tiểu đoàn 4 trung đoàn 24 giữ mấy hôm nay, hàng ngày địch tấn công bốn năm lần, đội hình tấn công của chúng đến một hai đại đội, có lần chúng đã chiếm được một đoạn chiến hào, diễn ra trận đánh giáp lá cà, cuối cùng ta giành lại được. Bom pháo địch cuốc xới gần lấp hết chiến hào. Trung đoàn vừa tăng cường người giúp tiểu đoàn 4 làm lại công sự. Hiện nay các chiến hào, giao thông hào có thể đi lại an toàn như cũ. Trung đoàn 36 từ ngày 12 tháng 2 tới nay vẫn quần với địch, chúng bị ta tiêu hao nặng một đại đội, bắt 7 tù binh thu 40 súng.

Về hậu cần: Kho Mường Chương vẫn bị địch bắn phá, việc vận chuyển vẫn gặp nhiều khó khăn. Đêm qua một số xe vận tải đã vượt qua được đường 16A, bọn địch ở 500 mắc đối phó tại chỗ không có hành động ngăn chặn. Máy bay C.130 bắn cháy một xe chở gạo, xe bị đổ bên lề đường, lái xe thoát chết, hậu cần của ta ra vét gạo ở xe đổ được khoảng gần bốn tấn...

Chiến sĩ thông tin ngó đầu qua cửa hầm báo cáo cắt ngang câu chuyện của Giai đang nói:

- Báo cáo thủ trưởng, trên đài quan sát muốn gặp thủ trưởng.

Nói xong, chiến sĩ thông tin đưa ống nghe cho Giai. Trao đổi với người đang nói chuyện trong máy, một lát Giai nói lại điều mình vừa nghe với tôi:

- Anh em trên đài quan sát 784 báo cáo, đạn pháo của ta bắn rất chính xác vào mỏm 3 và 4 của 500.

Tới lúc này toàn bộ trận địa của địch bị bao phủ bởi khói bụi, không nhìn thấy gì khác.

Tôi trở về vị trí của mình. Biết chắc phải một đêm thức trắng nữa, tôi tự pha cho mình một ly chè thật đậm để buộc thần kinh không được nghỉ ngơi.

19 giờ 30 phút trung đoàn trưởng 102 hạ lệnh nổ súng, đúng như kế hoạch đã vạch ra từ trước. Tôi lắng nhìn về phía 500. Tiếng đạn pháo, cối các cỡ nổ chen nhau và vùng trời phía đó dường như sáng hơn.

Khoảng 19 giờ 30 phút trên đài quan sát báo cáo: Ở hướng bắc 500 có hai phát tín hiệu xanh bắn lên, ngay sau đó có nhiều tiếng lựu đạn, thủ pháo và ánh lửa của đạn B.40, đạn ĐKZ từ mỏm 2 bắn về phía bắc. Một lát sau chính ủy trung đoàn 102 Nguyễn Hữu Ích báo cáo: “Hướng của tiều đoàn Tào phát triển tốt đang, đánh chiếm mỏm 3. Khu vực yên ngựa và mỏm 4 địch chống cự mạnh, ta gặp khó khăn. Địch vẫn giữ được lợi thế trên cao bắn xuống. Pháo địch ở Tà Púc và A Rinh bắn rất mạnh vào sát đội hình ta. Chúng tôi đã lệnh cho toàn bộ tiểu đoàn 3 (do Tào chỉ huy) vào chiến đấu, đồng thờ cho đại đội đặc công của trung đoàn vào vị trí dự bị…”.

Khoảng 5 giờ sáng trung đoàn 102 đã làm chủ các mỏm 2, 3, 5 và “yên ngựa”, đang tổ chức công kích mỏm 4.

Trung đoàn trưởng Tý nói qua điện thoại với tôi:

- Tôi đề nghị cho đội hình ta tạm dừng, tổ chức lại lực lượng nhằm bao vây chặt bộ phận địch còn lại, giữ chắc các điểm đã chiếm để dứt điểm.

Tôi đồng ý với Tý và căn dặn: Phải thật khẩn trương tiếp nhiều đạn, lựu đạn cho đơn vị, và tổ chức hỏa lực ở phía sau để đánh địch.

Suốt 20 ngày ta và địch giằng co trên mỏm 4, tới khoảng 16 giờ 45 phút địch bỏ chạy tán loạn về phía tây. Ta dùng hỏa lực súng cối bắn chặn và tiếp đó dùng đại đội 10 của tiểu đoàn 6 và đại đội 10 tiểu đoàn 9 truy kích bọn tàn quân(1).

Địch bị mất 500, cả cánh bắc của chúng rung động. Tuyến phòng thủ cánh bắc của chúng đã vỡ một mảng quan trọng, ở ngay vị trí được bố phòng cứng nhất, được tiểu đoàn biệt động quân 39, là lực lượng sừng sỏ nhất đóng giữ mà không giữ nổi, làm cho bọn địch đóng ở 316, Làng Sen và A Rinh bị hở sườn trống trếnh. Chúng tự nhận ra, nếu không rút lui nhanh, khó tránh việc lặp lại số phận của tiểu đoàn biệt động 39. Sau hai ngày thất thủ ở 500, địch cho hơn 20 lần chiếc trực thăng bốc quân ở 316 về A Rinh, rồi lại khoảng chừng ấy trực thăng bay về động Tà Púc.

Cả Bộ tư lệnh chiến dịch và chúng tôi đều có phán đoán giống nhau: Địch sẽ rút khỏi A Rinh. Và chúng tôi hạ quyết tâm tổ chức đánh nhanh, nếu chậm địch sẽ chạy mất. Sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn chỉ cách một thung lũng là tới A Rinh, do sư đoàn phó Nguyễn Bá Lục phụ trách. Tôi giao cho anh Lục trực tiếp chỉ huy trung đoàn 88 tấn công A Rinh. Việc chuẩn bị gấp, nhiều thiếu sót nên trận đánh diễn ra nhùng nhằng không dứt điểm, đến ngày 27 tháng 2 địch bí mật chạy bộ rời khỏi A Rinh. Trung đoàn 88 để bị mất hút địch.

Đội hình của quân ta ở thế bao vây căn cứ A Rinh. Đài quan sát nhìn rõ hành động của địch trong căn cứ, thế mà để cho địch chạy thoát một cách yên ổn, mãi hai ngày sau mới biết. Tôi nghiêm khắc phê bình trung đoàn trưởng và ra lệnh cho trung đoàn 88, bằng mọi giá phải bám được tiểu đoàn 3 (lữ dù 2) vừa rút khỏi A Rinh. Một mặt tôi lệnh cho trung đoàn 24 đưa 2 tiểu đoàn về phía Làng Con để đón lõng.

Cuộc săn lùng địch của anh em trung đoàn 88 khá gian truân, mãi tới ngày 19 tháng 3 mới gặp địch ở Bản Búc. Cùng ngày đó trung đoàn 24 cũng giáp địch. Hai trung đoàn 88 và 24 phối hợp, bao vây tiêu diệt gọn tiểu đoàn 3 thuộc lữ đoàn dù 2 của địch, ta thu toàn bộ vũ khí và bắt nhiều tù binh.

(1) Kết quả trận điểm cao 500: diệt gọn tiểu đoàn biệt động quân 39, quân số khoảng 480 tên, bắt sống nhiều tù binh, thu toàn bộ vũ khí, trong đó có 2 ĐKZ 106,7 ly, 2 ĐKZ 75 ly, 2 điện đài, nhiều súng con các loại.

*

Trung đoàn 36 hành quân theo đường 16 do Bộ chỉ huy Mặt trận và bộ tư lệnh sư đoàn cùng nắm. Ngay từ lúc nhận lệnh hành quân ở miền Bắn chúng tôi giao nhiệm vụ cho các trung đoàn đều nhấn mạnh “bất kể đơn vị nào khi vào tới chiến trường gặp địch là chủ động tác chiến không phải chờ lệnh". Các đơn vị trong trung đoàn đều thực hiện mệnh lệnh đó rất nghiêm túc. Trung đoàn 36 là một ví dụ nổi bật.

Ngày 27 tháng 2 bộ phận đi đầu của trung đoàn do Triệu Thơ tham mưu trưởng trung đoàn phụ trách, gồm một bộ phận của ban tham mưu và hai tiểu đoàn, tới khu vực “Đồi không tên” gặp địch là đánh ngay một trận, địch phải rút chạy. Đêm đó cả hai tiểu đoàn chiếm lĩnh trận địa phối hợp với trung đoàn 64, bao vây đánh ở “Đồi không tên”. Đơn vị chưa nắm thật vững tình hình địch và địa hình ở đây. Anh em vừa trinh sát vừa tác chiến. Đại đội 6 và đại đội 5 diệt trên 100 địch và 10 xe tăng, xe bọc thép của tiểu đoàn dù và thiết đoàn 17.

Ngày 30 tôi nhận được điện của trực ban tác chiến báo cáo:

Trung đoàn 36 sử dụng hai tiểu đoàn 2 và 3 (thiếu) tiếp tục đánh địch trên đường 16. Đại dội 19 diệt 4 xe tăng M.41. Đại đội 1 diệt 4 xe tăng M.41 và M.113, đại đội 5 và 6 diệt được 2 chiếc. Tổ ba người do đồng chí Trá tổ trưởng tập kích diệt 4 xe. Đại đội 7 diệt 5 xe tăng và nhiều lính dù.

Nhận được tin bộ phận đi trước của trung đoàn đã đánh thắng địch nhiều trận và các trung đoàn bạn đã tiêu diệt cứ điểm 500, bộ phận của trung đoàn đi sau do trung đoàn trưởng Chử Văn Chắc và chính ủy Quang Việt chỉ huy đã đôn đốc anh em, và anh em tự đôn đốc nhau hành quân khẩn trương hơn. Họ đã xé rừng tắt qua khe qua suối để tới chiến trường.

Sau chiến dịch tôi được nghe anh em kể lại nhiều tấm gương dũng cảm linh hoạt mưu trí của cán bộ chiến sĩ trong trung đoàn, nhất là đại đội 7.

"Đại đội 7 đã được xác định nhiệm vụ: đại đội sẽ tác chiến độc lập cho tiểu đoàn được trên tăng cường 1 cối 82, 2 B.41, 2 đại liên, do tiểu đoàn phó Minh trực tiếp chỉ huy. Không khí chuẩn bị vào trận đánh thật sôi sục. Anh em ngoắc tay nhau, thi đua giành danh hiệu dũng sĩ diệt ngụy, diệt cơ giới; B.40, B.41 bắn trúng ngay từ phát đầu... Đêm 27 tháng 2 hành quân trong mưa tầm tã. Đường 16A gồ ghề đầy ổ trâu, ổ bò, nhiều đoạn đường trơn truội như đổ mỡ, trượt chân một chút là ngã, ngã rồi anh em nín thinh chồm dậy đi tiếp. Quá nửa đêm mới đến được điểm hẹn: ki-lô-mét 104.

Trước khi đi trinh sát cùng các đại đội trưởng khác do ban tham mưu tổ chức, đại đội trưởng Trần Đình Giai nhắc lại: “đến cây số 104 sẽ cho liên lạc ra đón”. Nào ai ngờ anh em đi trinh sát lại kẹt trong vòng vây của địch chưa ra được. Chờ khá lâu không ai đón, chính trị viên đại đội Nguyễn Quý Chinh cử tiểu đội 3 do Tý là tiểu đội trưởng lên đồi xem có ai đón trên đó không. Một hồi lâu Tý quay về báo cáo: "Trên đó hình như bọn chúng mới ở, có đường xe tăng đi, có dây thép gai”.

Tiểu đoàn phó Minh nói với Chinh: "Ta cho đơn vị đi thêm một đoạn nữa xem". Anh em lại xốc ba lô lên vai, đi thêm được vài cây số nữa nghe thấy đạn pháo nổ ùng oàng khá gần phía trước, Minh cho đại đội dừng lại và nói với Chinh: "Đi vu vơ kiểu này không khéo húc đầu vào căn cứ của địch. Cho đơn vị quay lại chỗ cũ thôi". Thế là đại đội 7 lại “đằng sau quay” về cây số 104. Anh em nhận lệnh lên sườn đồi bố trí đội hình phòng ngự.

Khoảng 3 giờ sáng ngày 28 nghe có tiếng người nói rì rầm trên đồi, mấy anh lính đại đội 7 nói thầm với nhau:

- Khéo có quân ta trên đó. Khát quá! Tao lên đó xin hớp nước.

- Đừng có dại, phải bám sát xem tình hình thế nào đã.

Đi theo tiểu đoàn phó Minh có cái đài 2 oát lại bị hỏng. Thỉnh thoảng Minh lại nhắc Kỷ báo vụ viên "xem xem có sửa đó không?”. Phải tới ba bốn lần câu nói ấy mới đến được tai Kỷ. Và Kỷ lại mở công tắc lên máy, hoặc xem các mạch nối với ổ pin… nhưng máy vẫn im phắc không phát ra một tiếng động nhỏ. Minh buồn bực bất lực, chẳng còn biết phương tiện gì để liên lạc với sở chỉ huy tiểu đoàn và trung đoàn nữa.

Đơn vị nghỉ trong rừng le không được kín đáo lắm, Minh nhắc anh em giữ bí mật, không nấu cơm. Đến bữa mọi người phải ăn lương khô thay cơm, thiếu nước, khát tưởng chừng cháy họng.

Đêm ngày 28 tháng 2, Dương Văn Báo gác, thấy bóng người đi về phía mình. Báo hỏi: “ai?". Hỏi mật hiệu người kia đáp "ú ớ' bằng giọng Nam Bộ. Báo linh cảm đó là địch anh níu cò lia một loạt đạn. Cái bóng kia đổ xuống và có tiếng van lơn "xin tha tội chết". Thế là chưa đánh đã bắt được một tên tù binh, nó khai “ở tiểu đoàn lính dù, tôi đào ngũ đã ba ngày. Quân cộng hoà ở ngay phía sau các anh, có nhiều xe tăng”.

Lời khai của tên tù binh nâng cao thêm tinh thần cảnh giác của đại đội 7. Đại đội cử người đi bắt liên lạc, đã liên lạc được với tiểu đoàn 9 của trung đoàn 64. Tiểu đoàn bạn cho biết ở trên đồi địch còn 24 xe tăng, ý định của địch muốn rút về cụm ở Bản Đông, và đề nghị đại đội 7 phối hợp với mình (tiểu đoàn 9) phục kích làm nhiệm vụ khoá đuôi, để cho địch vào trận địa mai phục của ta từ 18 đến 20 chiếc xe tăng mới nổ súng.

18 giờ ngày 2 tháng 3, Vinh tiểu đội trưởng tiểu đội đại liên báo cáo: có tiếng xe tăng địch. Quý Chinh nhắc anh em cảnh giới hết sức cẩn thận và nhắc tóm tắt nhiệm vụ của đại đội. Nghe tiếng xích xe nghiến cót két ở gần phía trung đội 8 Chinh tỏ vẻ sốt ruột đăm đăm nhìn về phía đó. Không thấy trung đội 8 báo cáo, Quý Chinh bảo Duyên liên lạc chạy đi nắm tình hình.

Đoàn xe tăng, xe bọc thép đi thật êm, chỉ nghe thấy tiếng ro ro và tiếng xích cọt kẹt chậm chạp. Ngồi trên xe đầy lính. Chúng từ trên đỉnh đồi lần lượt bò xuống đường năm chiếc, tám chiếc rồi mười chiếc. Tiểu đội trưởng Ban ngờ ngợ không hiểu xe của ta hay địch, sợ bắn lầm ta. Trời tranh tối tranh sáng, khi xe tới gần nhìn rõ bọn lính đội mũ sắt, và giọng nói chọ chẹ, lúc đó anh mới yên tâm. Chiếc xe thứ 18 còn cách mươi mét đã vào đường ngắm của Dương Văn Báo. Báo nhoài người lên nói với Ban:

- Anh yểm hộ cho tôi, tôi bắn chiếc xe tăng này.

Phát đạn AT của Báo trúng xích xe tăng, nó dừng lại. Gần như một lúc tiếng đạn AT của Báo nổ, tiếng đạn liên thanh, tiếng lựu đạn, thủ pháo của cả trung đội cũng đồng thanh lên tiếng, và tiếng bọn lính ngụy bị thương kêu thảm thiết cùng hoà theo.

Chiếc xe thứ 15 cách Sáu xạ thủ B.41 chừng năm mét, Sáu níu cò. Phát đạn B.41 nổ tung bọn lính ngồi trong thùng xe, nhiều tên rơi xuống đất. Chiếc M.41 bốc cháy, khói lửa mù mịt, đạn trong xe nổ ùng oàng. Hai chiếc hết đường tiến, hết đường lui, mấy tên lái nhảy ra khỏi xe chạy trốn.

Chiếc xe thứ 19 sau chiếc bị Báo bắn đứt xích lọt vào đường ngắm của Nguyễn Văn Tuấn, và một phát đạn AT nữa phá hủy một xe tăng. Như vậy chỉ trong vòng bảy - tám phút, tiểu đội 4 do Ban chỉ huy đã diệt 5 xe tăng (trong đó có 2 chiếc bị bắt sống).

Bọn địch ở trên đồi ồ ạt "đổ” mọi loạt đạn pháo, liên thanh xuống đường 16A và đồi bên cạnh. Số thương vong của đại đội 7 đã lên tới hơn mười người, nhưng tinh thần chiến đấu của đơn vị càng đánh càng hăng.

Ban và Báo mải chiến đấu, khi thấy tiếng súng của ta vắng dần, nhìn xung quanh thấy không còn ai, các anh vội vã tìm đường lui. Trời tối, lất phất mưa, Ban và Báo mất phương hướng, vừa chạy một đoạn, phát hiện có địch trước mặt, các anh dừng lại nổ súng chiến đấu khoảng mười phút, rồi quay đầu chạy. Chạy chưa được bao xa lại nghe tiếng đạn liên thanh vút vút trên đầu. Những ngọn, cành le bị đạn chém xơ tướp, tơi tả rơi xuống. Cũng may, những khẩu đại tiên trên xe tăng địch có góc bắn lớn, đạn bay cao. Hai anh em thấy mình đã ở trong vòng vây của địch. Họ đánh bài liều, đào công sự trụ lại tới sáng sẽ tính, nhưng trong lúc vội vàng rút đã bỏ quên xẻng ở trận địa, bây giờ cả hai người chỉ có một con dao găm, đào công sự sao được. Thế là họ lặng lẽ như những chiến sĩ trinh sát lúc đi khom, lúc bò, mãi tới sáng mới vượt qua được vòng vây.

Đó là trận đầu của đại đội 7. Nhiều chiến sĩ lần đầu tiên nếm mùi chiến trận, còn khá nhiều bỡ ngỡ và có khi khờ khạo, nhưng tinh thần chiến đấu của họ thì không chê vào đâu được.

Trung đoàn 36 với tinh thần tích cực, chủ động cao thể hiện rất rõ ở việc thực hành tác chiến ở phân đội nhỏ, bằng các hình thức tập kích, phục kích phối hợp chặt chẽ với đơn vị bạn đánh liên tục vào thiết đoàn 17 làm cho chúng bị động phân tán và cuối cùng bị tiêu diệt”. 1

____________________________

1. Trung đoàn 36 phá hủy 87 xe, có 28 xe tăng, M.41, M.113, bắt sống 5 xe (có 2 xe tăng M.41 và 3 M.113), diệt 410 tên, bắt sống 2 tên, bắn cháy 3 F.4-H, 4 trực thăng, thu 170 súng các loại.

7

Điểm lại diễn biến và kết quả tại cánh bắc của chiến dịch. Ngay từ lúc địch đổ bộ triển khai đội hình, lực lượng tại chỗ của ta bắn rơi nhiều máy bay trực thăng của chúng. Riêng tại cầu Cha Ky trong 2 ngày (11, 12-2) đã hạ được 30 máy bay lên thẳng. Kết hợp với lực lượng tại chỗ, các đơn vị chủ lực của binh đoàn 70 đã kịp thời cơ động đến.

Trung đoàn 88 sư đoàn 308 ngay từ đầu bám sát địch và tiến tới đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn biệt động quân 21 ở điểm cao 316 bắc Làng Sen.

Trung đoàn 64 sư đoàn 320 ngày 13 tháng 2 diệt 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 6 ở điểm cao 456, diệt 300 tên, bắt 8 tên.

Trung đoàn 102 sư đoàn 308 từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 2 đã bao vây diệt gọn tiểu đoàn biệt động quân 39 ở điểm cao 500, mở đầu chiến dịch.

Trung đoàn 66 sư đoàn 304 được tăng cường xe tăng và pháo binh tác chiến hiệp đồng binh chủng diệt lữ đoàn bộ lữ dù 3, tiểu đoàn dù 3 và tiểu đoàn pháo binh ở điểm cao 354, diệt 370 tên, bắt sống 137 tên, thu 10 khẩu pháo.

Tiếp sau đó, trung đoàn 36 sư đoàn 308 phối hợp với một bộ phận của trung đoàn 64 sư đoàn 320 cùng với xe tăng và pháo binh liên tiếp tiến công tiêu diệt thiết đoàn 17 và tiểu đoàn dù 8 từ Bản Đông lên định chiếm lại điểm cao 543.

Đến cuối ngày 3 tháng 3 năm 1971 ta đã căn bản bẻ gãy hoàn toàn cánh bảo vệ sườn bắc của địch, tiêu diệt được lữ đoàn dù 3, thiết đoàn 17 và đánh thiệt hại 1 bộ phận lớn của liên đoàn biệt động quân 1.

Như vậy tại hướng chính, cho tới ngày 3 tháng 3 năm 1971, ta đã chặn đứng được địch ở Bản Đông, không cho địch tiến lên Sê Pôn với lực lượng thê đội 1 chiến dịch, bảo vệ được đường vận chuyển chiến lược của ta thông suốt.

Tình hình trên dẫn đến bước phát triển mới quyết liệt hơn, dẫn đến “keo vật” cuối cùng phân rõ thắng bại. Địch đổ thêm sư đoàn 1 (thê đội 2 chiến dịch) thay cho sư đoàn dù (đã bị thiệt hại nặng) nhằm mục đích phô trương và nghi binh để rút quân. Cùng với hành động ở chiến trường, Mỹ-ngụy tiếp tục dàn cảnh “Bắc tiến” Nguyễn Văn Thiệu tổng thống bù nhìn ra Khánh Hoà hùng hổ kêu gọi "Bắc tiến”. Ních-xơn tuyên bố ủng hộ lập trường của Thiệu. Cùng thời gian, Nguyễn Cao Kỳ ra thị sát ở Khe Sanh... Thật ra, bao nhiêu lực lượng tinh nhuệ hùng mạnh nhất của chúng đang sa lầy ở đường 9 - Nam Lào, còn đâu để “Bắc tiến”. Tất cả hành động huênh hoang của chúng chỉ nhằm làm cho quân ta nới lỏng vòng vây ở đường 9 - Nam Lào, để chúng rút lui được an toàn.

Về phía ta, kiên quyết ngăn chặn không cho địch lên Sê Pôn, mặt khác tích cực đánh địch, sử dụng lực lượng lớn hình thành bao vây chia cắt địch để chuẩn bị đánh đòn tiêu diệt quyết định của chiến dịch.

Thực hiện chủ trương nói trên sư đoàn 308 bố trí lại đội hình. Ngay sau khi tiêu diệt 500, tôi hạ lệnh cho trung đoàn 102 cho tiểu đoàn 8 tiến ra đường 9 tìm mọi cách cắt đoạn đường 9. Ngày 3 tháng 3 tiểu đoàn 8 xây dựng chốt trên điểm cao 311. Tiếp đó trung đoàn 102 đưa tiểu đoàn 9 ra chiếm điểm cao 334 cạnh đường 9. Trung đoàn 24 vẫn giữ chốt 351 còn lại phối hợp với trung đoàn 88 truy kích tiêu diệt tiểu đoàn 2 (lữ dù 3). Trung đoàn 88 tách ra một tiểu đoàn làm lực lượng dự bị của sư đoàn.

Ngày 7 tháng 3 toàn bộ trung đoàn 102 và một bộ phận trung đoàn 24 áp sát đường 9, cộng với các chốt 311 và 351 đã trở thành vòng vây kép với bọn địch đang bị bao vây ở Bản Đông. Quân của sư đoàn bộ binh 1 ngụy đi ứng cứu không dám đi trên đường 9, phải dùng máy bay lên thẳng “nhảy cóc” từ Cô Bốc xuống các điểm cao 660, 723 Phu Rệp, Phu Om phía nam đường 9.

Đường 9 là con đường bộ huyết mạch duy nhất đối với địch. Chúng không thể chỉ trông cậy vào đường hàng không để nuôi sống và khi cần để rút chạy cho 30. 000 quân và vũ khí trang bị nặng, vì vậy chắc chắn chúng sẽ tìm mọi cách để mở thông con đường bộ duy nhất ấy.

Tôi hạ lệnh cho Tý, trung đoàn trưởng 102 và nhắc lại mệnh lệnh đó vài lần rằng: phải cắt đường 9 bằng mọi lực lượng, mọi phương tiện, dùng sức người, thuốc nổ đào sâu đánh sạt lở một đoạn không cho xe địch có thể qua lại. Đào ở ngay gần chốt để có thể dùng hoả lực ngăn không cho địch ra lấp lại.

Ngày 5 tháng 3, một đoàn xe địch đi qua các chốt không bị đánh. Bộ tư lệnh Mặt trận thông báo cho sư đoàn biết và tỏ ý không bằng lòng.

Tôi hỏi trung đoàn trưởng Tý:

- Việc cắt đường thế nào mà xe địch vẫn đi được?

- Cắt mới được 3 mét. Anh em chiến đấu liên tục, lực lượng ta bị thương vong còn lại quá ít.

- Tôi sẽ cố gắng cung cấp cho các anh nhiều bộc phá, có thể khoảng 1 tấn. Làm sao cắt không cho chúng khắc phục được.

Từ hôm đó trở đi tôi chú ý theo dõi diễn biến của chốt 311. Anh em đánh liên tục đánh nhiều trận phục kích và vận động nhỏ thắng lợi; kết hợp với đoạn đường bị cắt rộng và sâu hơn nên từ ngày 6 tháng 5 đến ngày 9 tháng 5 không có đoàn xe địch nào vượt được qua. Ngày 10 tháng 3 địch vượt qua được một số xe. Từ đó địch dùng hỏa lực, kể cả B.52 đánh phá khu vực chốt 311.

Sau này tôi nghe anh em chốt 311 kể lại: Sáng ngày 3 tháng 3, đại đội 7 của tiểu đoàn 8 đã đến điểm cao 311. Anh em bắt tay ngay vào việc đào công sự, phát cây mở lối ra đường 9. Ngày 4 anh em phát hiện có khoảng 11 xe và 200 tên địch đang dừng ở cửa chốt, không rõ ý định chúng làm gì. Trung đoàn trưởng Tý giao cho tiểu đoàn phó Tước lên chốt trực tiếp chỉ huy đại đội 7. Tước vạch phương án đưa ra cho cán bộ đại đội của đại đội 7 thảo luận. Đại đội trưởng Đ nêu hết thắc mắc này tới thắc mắc khác, bàn bạc dằng dai tỏ ra thiếu quyết tâm. Chốc chốc trung đoàn trưởng Tý lại gọi điện thoại thúc “phải đánh”. Cuối cùng quyết định đại đội 7, phải đánh theo phương án của Tước vạch ra. Trận đánh tập kích có súng cối 82 của tiểu đoàn phối hợp. Sau khi cối bắn cấp tập 20 phát vào trận địa địch, sẽ cho bộ binh xung phong. Khi trận đánh diễn ra, lại trục trặc ngay ở cái nút quyết định. Sau khi dứt tiếng đạn pháo cấp tập, Tước phát tín hiệu xung phong. Qua máy điện thoại Đ báo cáo “không xung phong được”. Tước nóng nảy hỏi: “Tại sao?”. Đ: “Thương vong gần hết rồi”. “Còn một người cũng phải xung phong”… Quát lác với nhau một hồi, trận đánh vẫn dừng ở chỗ tập kích bằng hỏa lực. Đến sáng, trên đài quan sát anh em nhìn thấy chúng kheeng cáng những tên bị chết và bị thương. Tước cho súng cối bắn vào bọn địch đang nhốn nháo, cháy thêm ba chiếc xe tải (tổng cộng diệt 30 tên và phá hủy 8 xe).

8

Đại đội phó Phạm Cao Xương kể: Chúng tôi rất buồn về trận đánh ấy, Lúc đó tôi là trung đội phó. Trung đội tôi bố trí cách mặt đường khoảng hai, ba chục mét, thấy rõ bọn địch mặc quần áo lính dù, đội mũ sắt, chúng huýt sáo gọi nhau; ở cách đó không xa có tiếng máy ô tô nổ. Trời sáng trăng suông nhìn rõ từng cây lau cách vài mét. Chờ lâu quá không có động tĩnh gì, anh em buồn ngủ. Cậu Đối ngồi gần tôi ngủ gật lia lịa. Tôi phải lấy hòn đá ném vào lưng. Đối giật mình nhìn về phía tôi. Tôi ra tín hiệu lấy tay căng mắt lên, nhưng chỉ được một chốc cậu ấy lại ngủ gà ngủ gật.

Quá nửa đêm, đói bụng quá rồi, chẳng thấy lệnh đánh hoặc lệnh rút, chúng tôi đề nghị với chính trị viên phó cho rút về chốt. Trở về nghĩ lại, chúng tôi thấy tiếc đơn vị mình đã bỏ lỡ một cơ hội lập công. Ngày hôm sau nghe tiểu đoàn thông báo đại đội 5 dùng một trung đội diệt 30 tên, phá hủy 4 xe. Sáng ngày 5 tháng 3 các đại đội 5 và 6 lại đánh địch ở dưới đường 9 diệt 150 tên, phá hủy 8 xe. Chúng tôi càng buồn với trận đánh hụt của mình. Cán bộ từ tiểu đội trở lên trong đại đội chúng tôi hội ý rút kinh nghiệm, và đã quyết tâm trận đánh sau, dứt khoát không bỏ lỡ thời cơ.

Đại đội trưởng đã hy sinh, chính trị viên và đại đội phó bị thương. Lúc đó tôi là trung đội trưởng, được tiểu đoàn chỉ định phụ trách quân sự cùng với anh Nguyễn Văn Tấn chính trị viên phó chỉ huy đại đội. Chúng tôi phân công nhau tới từng hầm động viên anh em chuẩn bị cho trận đánh mới.

Đêm ngày 5 tôi vừa chợp mắt một lát, anh Tấn đã tới thúc “dậy ngay nhận nhiệm vụ”. Lệnh của tiểu đoàn giao cho đại đội 7 thành một mũi xuống đường, có nhiệm vụ khóa đuôi đoàn xe của địch đang từ Lao Bảo tới. Cả lính, cả cán bộ , cánh nghiện thuốc lào kéo nhau tới hầm của anh Tấn rít một hơi thuốc cho tỉnh ngủ. Tôi nghe anh em xì xầm bàn tán, tỏ ra không tin anh Tấn và tôi, "chỉ huy mới tò te chắc chẳng làm nên cơm cháo gì". Nhìn ra ngoài trời tối đen, tôi lo lắng: Phải làm thế nào cho anh em tin tưởng mình, xứng đáng với nhiệm vụ được trên giao.

Tiểu đội trưởng Trần Đức Nhuận được giao nhiệm vụ trinh sát địa hình trước, dẫn đầu đại đội đến chiếm lĩnh trận địa. Tới nơi anh em lợi dụng công sự cũ của bọn thám báo, và sửa chữa thêm để bố trí. Ngụy trang trận địa xong, trời vừa sáng. Tôi cùng anh Tấn tới kiểm tra và nhắc lại nhiệm vụ, cách đánh của từng tiểu đội ngay tại thực địa. Thấy xạ giới của Vụ xạ thủ B.41 bị hạn chế, tôi nhắc. Anh Nhuận vừa dẫn Vụ tiến lên một đoạn gần mặt đường hơn, chưa kịp làm công sự đã nghe thấy tiếng xe địch tới gần. Nhuận bắn một phát đạn AT vào chiếc xe bọc thép đi đầu, xe bốc cháy. Xương, Tấn, Hà, Thể, Diến, Uông... nổ súng bắn vào đám lính bộ hình ngồi trên xe. Hai khẩu đại liên từ trên xe của địch chuyển xuống đặt ở dưới đường vừa bắn được vài loạt đạn vu vơ, đã bị đạn B.41 và AT bịt họng. Bọn bộ binh ngụy ở phía sau la hét "xung phong", chúng lên mỗi lúc một đông. Hỏa lực của đại đội 7 không cản nổi. Tấn đề nghị gọi tiểu đoàn cho súng cối chi viện. Đạn của ta, của địch nổ rền vang cả rừng núi. Thấy lực lượng địch đông gấp nhiều lần mình đã bị cản lại, và mục đích trận này nhằm lấy lại khí thế cho đơn vị, như thế là đạt mục đích rồi. Tấn cho đơn vị rút. Nhiều anh em vừa rút lui, vừa cười khúc khích vì mình đã bắn trúng địch. (Trận đánh diễn ra trong vòng năm - sáu phút diệt 1 xe, 40 tên địch và 2 đại liên). Khi về chốt kiểm điểm lại không có ai bị thương và người nào cũng lập được thành tích nên đã tạo được niềm vui, nhưng vẫn còn điều đáng tiếc vì đã nổ súng quá sớm, đại đội làm nhiệm vụ khóa đuôi, hoá thành đại đội chặn đầu.

Từ ngày 7 trở đi không mấy ngày là không có lực lượng của tiểu đoàn 8 chặn đánh địch ở dưới mặt đường, có ngày diễn ra hai trận vận động và trận nào cũng đánh thắng. Những đoàn xe của địch tới cửa chốt 311 đụng đầu với hai trở lực: một là cái hố phá hoại (lúc đầu sâu 3 mét, dài 5 mét) mỗi ngày một dài, một sâu hơn; hai là chạm trán bộ binh của tiểu đoàn 8, chúng không thể vượt qua nổi.

Địch phát hiện chốt 311 là nguyên nhân tai họa, chúng đã gặp và sẽ còn gặp. Chúng cho máy bay và các trận địa pháo Lao Bảo, Tà Mây... dốc bom đạn xuống đây, thôi thì đủ loại bom bi, bom hoá học, bom phá... Ngày hôm đầu đến 311mặt đất còn rợp bóng lá rừng, còn nghe tiếng chim hót, chỉ mười hôm sau ngọn đồi đã bị lột hết màu xanh, anh em phải ngụy trang trên chiến hào của mình bằng những cành cây khô cháy. Nhiều đoạn chiến hào bị vùi lấp anh em lại đào lấp khôi phục. Cuộc chiến đấu trên chốt ngày càng quyết liệt, anh em tiểu đoàn 8, nhất là đại đội 7 phải chịu đựng đủ thứ khó khăn nguy hiểm. Nhiều ngày thiếu cơm, thiếu nước phải nhịn đói, nhịn khát nhưng quyết tâm giữ chốt không hề lung lay.

Từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 3 địch dùng trận địa pháo Tà Mây bắn trực xạ, và máy bay bắn phá từ 8 giờ đến 17 giờ, cứ cách khoảng mười đến mười lăm phút chúng lại dội bom đạn vào chốt một đợt, rồi dùng khoảng một đại đội bộ binh tiến công lên chốt. Nhiều đợt xung phong của chúng đều bị đánh lui. Ngày 18 là ngày căng thẳng nhất. Sau khi 30 lần chiếc máy bay phản lực nhào xuống thả bom sát thương, bom na-pan, bom hoá học nung nóng cả khu vực chốt, chúng dùng trực thăng vũ trang nối đuôi nhau nhào xuống bắn hàng giờ liền, rồi bọn lính bộ binh ngụy mới hô hét xung phong rầm rĩ. Anh em đại đội 7 chờ bọn chúng vào tầm bắn hiệu quả mới nổ súng. Xác địch ngổn ngang trên sườn đồi, đến gần trưa chúng mới chiếm được đoạn chiến hào. Anh em tổ chức phản kích đánh giáp lá cà hất địch xuống. Xác địch bỏ lại cả trong chiến hào.

15 giờ chúng lại mở một đợt xung phong. Bọn sĩ quan lăm lăm súng ngăn thúc bọn lính tiến lên. Súng bắn thẳng trên chốt của ta lia xuống, làm cả lũ địch được nằm mọp tại chỗ hô “xung phong". Cối 82, cối 60 của ta bắn trúng vào đội hình địch, tiếng "xung phong” im bặt.

9

Hàng ngày khi phát hiện có địch hành quân, đại đội 7 ngoài bộ phận giữ chốt vẫn phải cử một bộ phận vận động xuống chiến đấu ngăn chặn. Anh em cán bộ bàn bạc thấy như vậy cách trở, chi bằng cho một phân đội chốt sát mặi đường. Chính trị viên phó Tấn và trung đội phó Xương xuống trực tiếp chỉ huy thực hiện nhiệm vụ ấy. Quân số chốt dưới mặt đường có chín người, hỏa lực chỉ vẻn vẹn một B.40 và một quả AT.

Tiểu đội trưởng Trần Văn Thơm (lúc đó làm tổ trưởng) kể: Đêm đó sáng trăng suông. Khoảng 7 giờ tối, chúng tôi xuống đường. Đạn pháo của địch vẫn nổ ùng oàng từ dưới mặt đường lên chốt, rồi từ trên chốt xuống mặt đường... Cứ như thế chúng chần đi chần lại. Vừa xuống đến trận địa đã bị thương mất hai người, như vậy quân số chiến đấu của chúng tôi chỉ còn bảy. Mọi người khẩn trương đào hố bắn, có người dựa vào hố bom hoặc công sự cũ của bọn thám báo. Tôi cũng vớ được một công sự cũ, sửa chữa chút đỉnh là dùng được. Xong công sự, tôi ngả lưng đắp tấm võng lên bụng rồi ngủ như chết chẳng biết trời đất là gì. Gần sáng thấy lạnh mới bật thức dậy, mưa đã ướt hết cả quần áo. Rét quá tôi không sao kìm giữ nổi hai hàm răng "đánh đàn”. Càng rét càng thấy bụng đói cồn cào. Giá có cái gì nhồi vào dạ dày, chắc cơ thể sẽ ấm hơn. Cậu Nguyễn Trọng Đồi quê Tiên Hưng, Thái Bình, một chiến sĩ rất trẻ nằm gần đó cũng mang tâm trạng như tôi. Nắm cơm to hơn nắm tay một chút, ăn từ chiều hôm qua, đã tan từ lúc chạy tránh pháo xuốn đường. Cậu Đồi tới ghé vào tai tôi:

- Đói quá! Em đi tìm cái gì ăn nhé.

- Sợ có địch gần đây, lộ ra thì bỏ mẹ.

Tôi tỏ thái độ không phản đối ý của Đồi, vì biết rằng mấy trận đánh hôm trước ở gần đây, nhất định địch sẽ bỏ lại lại thứ gì đó như gạo sấy hoặc thịt hộp. Tôi nói tiếp với Đồi:

- Thôi được mày đi cẩn thận... có gì tao yểm hộ.

Đây đó vẫn có tiếng đạn pháo nổ cầm canh. Khoảng 20 phút không thấy Đồi trở về, tôi nhấp nhổm không yên. Chỉ vì miếng ăn, nếu xảy ra chuyện gì với Đồi thì tôi ân hận suốt đời.

Trời ơi! Cậu ấy về mang theo một mũ đầy gạo sấy. Tôi mừng như thắng trận. Tôi báo cho Xương, định chia đều cho mỗi tổ vài gói, không ngờ tổ bên ấy cũng có người đi kiếm vừa mới về.

Thiếu nước, miệng tôi đầy gạo sấy chưa kịp nuốt, đã nhận thêm một trận mưa đạn pháo rơi xuống inh tai nhức óc. Còn nắm gạo sấy để trong mũ, bị pháo nổ hất tung đất vào, thế là mất ăn. .

Trời sáng dần. Tôi nhìn rõ những bụi lau bị xé tướp vào mặt đường màu xám hiện ra trước mặt. Anh Xương báo: điện của trên báo cho biết có bốn chiếc xe từ Lao Bảo đi Bản Đông. Tôi nhắc anh em trong tổ chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.

Bốn chiếc xe tăng và bọc thép lọt vào trận địa ta. Tôi nhìn rõ bọn địch ngồi trong thùng xe và ngồi cạnh tháp pháo. Phát đạn B.40 Vũ Văn Út bắn trúng chiếc xe tăng đi đầu, xe khựng lại và bốc cháy. Những chiếc đi sau vừa bắn vung vãi vừa tiếp tục tiến. Phát đạn B.40 thứ hai của Út bị trượt.

Gần như cùng với phát B.40 của Út cả tiểu đội chúng tôi nổ súng và ném lựu đạn, thủ pháo. Chỉ cách địch khoảng 15 mét, lại ở trên cao chúng tới có lợi thế, nên đạn và lựu đạn rất trúng mục tiêu. Những tên ngồi trên xe tăng ngã lăn xuống mặt đường. Trong thùng xe khói lựu đạn vụt lên, tiếng la khóc chen vào tiếng nổ. Bọn địch ở phía sau còn rất đông, không phải 4 xe mà là 40 xe, chúng bắn như một trận bão.

Rất tiếc, chúng tôi còn quá ít đạn. B.40 có bốn quả, hai quả mất liều phóng, bắn đi 2 quả, khẩu B.40 của Út trở thành cái ống bương. Sau một hồi nổ súng, khẩu AK của tôi còn năm viên. Tôi đề nghị anh Tấn cho tiếp đạn, anh kêu gọi "bắn tiết kiệm". Tôi đành gạt cần hãm xuống bắn phát một, nhè từng tên địch như bắn tỉa.

Bọn địch non gan cho xe quay lui. Khi địch đang rút thì các cậu Dự và Thuyên mới cõng đạn xuống tiếp tế.

Xe địch rút hết, tổ tôi và anh Nhuận xông xuống mặt đường thu chiến lợi phẩm. Tổ tôi thu được một máy PRC.25 và nhiều súng, xác địch bỏ lại 25 tên và một xe bị phá hủy. Anh em còn thu được rất nhiều thư từ và tài liệu quân sự.

Tôi nhớ có hai bức thư, một bức của một tên lính ngụy kể cho bố mẹ hắn biết là hắn đã ra trận và “đang ở trên con đường của Cụ", ý nói đường mòn Hồ Chí Minh. Bức thư thứ hai vợ gửi cho chồng căn dặn phải cẩn thận và không quên nhắc chồng “cố gắng kiếm cho em một cái chậu B.52” (loại chậu bằng nhôm được tráng màu xám của Trung Quốc để đựng cơm của bộ đội ta rất đẹp).

Sau trận đánh chúng tôi củng cố công sự vững chắc hơn, và những ngày hôm sau chúng tôi đã đánh những trận thắng lớn hơn.

10

Tiểu đội trưởng Trần Văn Thơm (quê Thanh Trì, Hà Nội) kể tiếp: Bộ phận chốt dưới mặt đường, sau nhiều trận thắng, anh em chúng tôi sống đàng hoàng sung túc hơn, không phải ăn lương khô. Bữa cơm nào cũng có thịt hộp ăn thoải mái. Anh em nào ở trên chốt xuống chúng tôi đều thết đãi một bữa thịnh soạn.

Về vũ khí, khỏi phải lo. Chúng tôi đã thu chiến lợi phẩm mấy két lựu đạn để dự trữ trong hầm. Tôi và Đồi mỗi người ngoài súng được trang bị giữ thêm một khẩu cối M.79. Chờ lúc vắng máy bay trinh sát chúng tôi lấy M.79 bắn tập, chọn chiếc xe bị cháy bên lề đường làm bia. Đồi ngắm bắn theo kiểu súng bắn thẳng, tôi bắn theo kiểu cầu vồng. Bắn một hồi rồi trao đổi rút kinh nghiệm. Qua cách luyện tập ấy chúng tôi đã có thể sử dụng M.79, bắn tương đối chính xác. Thấy M.79 sẽ có ít, tôi và Đồi rủ nhau xuống tìm ở trong những chiếc xe bị bắn cháy kiếm thêm gần 100 quả đạn nữa.

Ngày 21 tháng 3 ở lại chốt mặt đường, có một tổ bộ binh và một tổ công binh. Vừng đông vừa soi rõ mặt người, cũng là lúc các cậu Lạng, Ngan mang cơm nước xuống. Chúng tôi đang xúm lại nhận phần cơm, anh Trần Đức Nhuận (quê Kim Sơn, Ninh Bình) nghiêng tai lắng nghe, rồi nói:

- Có tiếng xe... các cậu có nghe thấy không?

Tôi nói đùa:

- Tai lính trinh sát có khác.

- Đừng đùa... thật đấy, rõ ràng xe.

Giữa lúc đó có liên lạc của tiểu đoàn từ trên chốt báo: "Địch rút khỏi Bản Đông, có 60 chiếc xe đang đi về pha chúng ta".

Chúng tôi nuốt vội miếng cơm rồi chạy vào vị trí chiến đấu. Những chiếc xe đi đầu đã lọt vào trận địa của ta. Vũ Văn Út (quê Thạch Thất, Hà Tây) bắn ba phát B.40 cháy liền ba chiếc xe đi đầu. Thấy chiếc xe thứ hai trúng đạn, nhưng khẩu pháo của nó vẫn bắn, Nhuận bò tới báo cho Út biết. Út bắn thêm một phát nữa, trong xe nổ những tiếng phụ, pháo trên xe từ đó im phắc. Phía đầu chiếc xe bọc thép đang cháy, phía sau hai xe bị mìn của công binh phá huỷ, bốn chiếc xe tải cỡ lớn chở quân còn đang nổ máy kẹp ở giữa. Bọn lái và lính ngồi trên xe chạy túa xuống núp ở ven đường.

Ngay từ đầu, sau tiếng B.40 của Út, súng tiểu liên của chúng tôi quét thỏa thích vào bọn lính ở trên xe. Khi chúng nhào xuống núp ở phía sau xe, tôi và Đồi liên tục bắn những quả đạn M.79 vào những điểm mình nghi ngờ.

Chiếc OV.10 bay vòng không dám xuống thấp chỉ điểm cho pháo bắn. Đạn pháo bầy lại chần đi chần lại từ trên chốt xuống. Bọn bộ binh địch núp sau xe tiến lên chừng một tiểu đội phản kích. Chúng vừa tiến qua mép đường đã bị một loạt lựu đạn của ta nổ trước mặt, và đạn tiểu liên bắn quét, còn sống sót tên nào lại chạy về chỗ cũ. Bốn lần địch phản kích như vậy đều bị ta đánh tan. Khoảng 13 giờ 30 phút, trận địa vắng tiếng súng, và chiếc OV.10 đã mất hút, chúng tôi xuống đường đi khoảng 800 mét về phía bản Đông, dọc đường đếm được 55 xác chết, xe của địch vẫn nổ máy nhưng trong xe không có người. Chúng tôi rất mừng vì đã góp phần chặt đứt đường rút quân của địch.

11

Hàng ngày, Tân trưởng ban tác chiến báo cáo với bộ tư lệnh sư đoàn những nét lớn phát triển của chiến dịch và tình hình của sư đoàn, rồi chúng tôi cùng chụm đầu suy nghĩ trên tấm bản đồ tác chiến.

Lực lượng và thế trận giữa ta và địch được làm rõ trên bản đồ bằng các ký hiệu. Những lá cờ đỏ, chấm đỏ ở cả phía nam, phía bắc đường 9 - Nam Lào đang bao vây những lá cờ xanh và những dấu chấm xanh. Nhìn thế trận trên bản đồ đã thấy, nếu không muốn bị tiêu diệt thì Mỹ ngụy chỉ còn một cách: rút lui.

Từ ngày 13 tháng 3 các đơn vị (trung đoàn 36, trung đoàn 64, một bộ phận trung đoàn 66 và một số binh chủng) được lệnh của Bộ tư lệnh Mặt trận áp sát Bản Đông, liên tục đánh ngày đêm bằng nhiều hình thức bao vây bắn tỉa, đánh tập kích vào hệ thống phòng thủ và cắt triệt để việc tiếp tế bằng đường không của địch; đồng thời sử dụng trung đoàn 24. Trung đoàn 102 đưa lực lượng cơ động áp sát đường 9 kiên quyết ngăn chặn tiêu diệt không cho địch chạy thoát cả người và xe.

Từng ngày chúng tôi theo dõi và chỉ đạo hoạt động ở các chốt 351 và 311, nhất là chốt 311 đã phát huy tác dụng to lớn. Những điều đã ghi trong sổ nhật ký của Lê Việt Cường chính trị viên tiểu đoàn đã dũng cảm hy sinh vào ngày cuối chiến dịch càng chứng tỏ điều vừa nói.

"Ngày 4 tháng 3 - trận đánh mở màn của tiểu đoàn diệt 11 xe tăng và xe vận tải.

Ngày 5 tháng 3 đánh quân dù áp tải đi Tà Mây diệt gọn một đại đội bộ binh và một pháo đội.

Ngày 6 tháng 3 bắt đầu những ngày ác liệt. Bom dội, pháo bắn lên chốt hàng giờ liền. Quy luật: một giờ nghỉ 15 phút. Trận địa vẫn đứng vững…

Ngày 8 tháng 3 địch phản kích. Chốt vẫn đứng vững...

Ngày 9 tháng 3 địch lại dùng máy bay oanh tạc. Lệnh đào hầm hào sâu rộng thêm.

Ngày 10 tháng 3 địch cho xe chạy thử trên mặt đường. Chỉ có cối bắn.

Ngày 11 tháng 3, một ngày bình thường.

Ngày 12 tháng 3 địch đánh từ 6 giờ, đến 16 giờ chốt mới im tiếng súng. Cao xạ hạ một trực thăng. Khẩu đội trưởng súng 12,7 ly hy sinh thật oanh liệt.

Ngày 13 tháng 3 địch lại oanh tạc. Cao xạ hạ một phản lực A.37. 17 giờ một đoàn xe địch chạy qua. Lệnh không cho chúng qua chốt. Bộ đội thực hiện nghiêm mệnh lệnh.

Ngày 15 tháng 3 địch đưa bộ binh ra chiếm chốt. Ta diệt 15 tên.

Ngày 18 tháng 3 địch vẫn lặp lại ngày hôm qua. Cao xạ hạ thêm trực thăng. Đại đội 7 xuống đường thay một bộ phận trên chốt”.

Ghi tới đây Cường hy sinh. Cùng ngày 18 Bộ tư lệnh chiến dịch thông báo địch sẽ rút chạy.

Đến ngày 21 tháng 3 địch phá vòng vây ở Bản Đông. Chúng chạy bộ theo đường rừng, một bộ phận chạy bằng cơ giới.

Khoảng 60 xe các loại bị trung đoàn 24 đánh thiệt hại một số, còn lại đến chốt 311, chốt của trung đoàn 102 ngăn chặn, một số xe và bộ binh bị diệt, số còn lại bỏ xe chạy tản vào rừng (như tiểu đội trưởng Thơm đã kể).

Tôi nhớ trong thư của Quân ủy Trung ương gửi các đơn vị tham gia chiến dịch đã xác định: "Nhất thiết phải đánh thắng trận này dù phải động viên sức người sức của, hy sinh như thế nào. Vì đây là trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược". Chúng tôi rất tự hào rằng đơn vị mình đã góp phần tích cực vào chiến thắng lớn lao ấy hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng giao.

Trận đánh thắng "có ý nghĩa quyết định về chiến lược" này đã gây niềm vui mừng xúc động, và tăng thêm niềm tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của quân dân hai miền. Gần cuối chiến dịch sư đoàn tôi nhận được hàng vạn lá thư từ hậu phương xa xôi gửi tới hoan nghênh cổ vũ tinh thần bộ đội.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nêu nhận định của Bộ Chính trị với chiến dịch: Ta đánh bại cuộc hành quân lớn kiểu "Việt Nam hoá chiến tranh” của lực lượng cơ động chiến lược tinh nhuệ của quân ngụy Sài Gòn với sự phối hợp của Mỹ bằng không quân, bằng các phương tiện cơ động ở phía trước và bằng lục quân ở phía sau. Thắng lợi của chúng ta còn là thắng lợi trong cuộc đọ sức rất quyết liệt giữa các lực lượng tinh nhuệ của nguy được Mỹ yểm trợ đọ sức với lực lượng dự bị chiến lược của miến Bắc. Trong cuộc đọ sức đó ta đã thắng to, địch đã thua to...

Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: Thắng lợi này là thắng lợi rực rỡ của đường lối chống Mỹ, cứu nước, của đường lối quân sự, của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, thắng lợi của sự chỉ đạo chiến lược, chiến thuật của Đảng ta trong điều kiện địch tiến hành "Việt Nam hoá chiến tranh". Thắng lợi của chiến dịch đường 9 – Nam Lào có ý nghĩa điển hình là chiến dịch tiêu diệt lớn nhằm đập tan về quân sự và chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ. Nó mang kiểu cách Việt Nam, nó phát triển một cách độc lập, sáng tạo trong cách đánh Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #ledanh