Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam

Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam

1. Quan điểm về phát triển kinh tế biển

Cùng với xu hướng chung về tăng cường phát triển kinh tế biển của các quốc gia có biển trên thế giớitrước yêu cầu phát triển mới của đất nước, cần có một cách nhìn mới về biển và vị trí, vai trò của biển đối với tương lai phát triển lâu dài của đất nước. Quan điểm chung về phát triển kinh tế biển của Việt Nam trong những năm tới là:

Xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển, có cơ cấu kinh tế hiện đại, thực sự làm động lực thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển với tốc độ nhanh. Tạo ra  một sự kết hợp kinh tế ven biển, kinh tế trên biển và kinh tế hải đảo với các khu vực nội địa để phát triển nhanh, ổn định và bền vững.

Mở cửa, hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế biển và vùng ven biển  một cách toàn diện. Phát huy triệt để và có hiệu quả các nguồn lực bên trong, kết hợp với tranh thủ sự hợp tác và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài theo nguyên tắc cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, hội nhập.

Coi phát triển kinh tế biển và vùng ven biển là động lực để lôi kéo, thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. Kinh tế biển và vùng ven biển là "hạt nhân" tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện theo hướng CNH, HĐH. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển và vùng ven biển với bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái, tái tạo và phát triển các nguồn tài nguyên biển, đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường sống của vùng biển, ven biển và các hải đảo.

2. Mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế biển

Mở rộng phạm vi khai thác biển xa hơn, sâu hơn, nhằm góp phần đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế biển và vùng ven biển. Mở rộng quy mô và nâng cao hơn tỷ trọng GDP của kinh tế biển và ven biển, xây dựng cơ cấu ngành nghề hiện đại, công nghiệp và dịch vụ, tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện cơ cấu kinh tế biển và vùng ven biển theo hướng CNH, HĐH.

Nâng cao mọi mặt đời sống kinh tế, văn hoá của cư dân vùng biển, giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo.

Nâng tỷ trọng xuất khẩu của kinh tế biển và vùng ven biển trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hình thành một số ngành và sản phẩm mũi nhọn, tạo nguồn tích luỹ lớn cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời có giá trị xuất khẩu cao và ổn định.

Tập trung ưu tiên nguồn lực để đầu tư phát triển các lĩnh vực kinh tế cơ bản có tác động sâu rộng đối với kinh tế, xã hội của vùng biển và quốc gia.

Phát triển nhanh kinh tế, xã hội ở một số trung tâm đô thị ven biển và hải đảo, làm căn cứ hậu cần đủ mạnh để khai thác các vùng biển khơi.

3. Định hướng chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển cơ bản

Kinh tế hàng hải

Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế nói chung và vận chuyển hàng hoá nói riêng, trong giai đoạn đến năm 2020, ngành vận tải biển phải được đầu tư phát triển nhanh và toàn diện cả về hệ thống cảng biển, đội tàu, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển, dịch vụ cảng và dịch vụ hàng hải… theo hướng CNH, HĐH với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và mở rộng hợp tác với nước ngoài. Nhanh chóng xây dựng ngành vận tải biển Việt Nam thành ngành kinh tế mạnh và hiện đại, tạo tiền đề để tiến nhanh ra đại dương, hỗ trợ và thúc đẩy các ngành, nhất là ngoại thương và các vùng kinh tế trong cả nước phát triển nhanh theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn, hướng về xuất khẩu, đồng thời đón trước và bắt kịp những cơ hội phát triển mới của đất nước trong xu thế chung của khu vực và thế giới. Xây dựng hệ thống cảng biển hiện đại mà nòng cốt là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong. Phấn đấu tổng công suất hàng hoá qua cảng vào năm 2020 khoảng 400 - 500 triệu tấn, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.

Đối với công nghiệp tàu biển, đứng trước tình hình ngành đóng tàu quốc tế đang bão hoà, nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc... đang muốn giảm bớt và chuyển giao công nghệ đóng tàu cho các nước khác (vì hiệu quả thấp và lao động nặng nhọc), nước ta cần lựa chọn phương hướng và bước đi thích hợp, kết hợp giữa tự lực với nhập khẩu và hợp tác, hoặc khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài để có hiệu quả, chủ động đón trước những tiến bộ công nghệ của thế giới. Hình thành 3 trung tâm công nghiệp đóng tàu ở miền Bắc (Hải Phòng, Hạ Long), ở miền Trung (Khánh Hoà) và ở miền Nam (TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu).

Du lịch biển đảo và vùng ven biển

Phát triển du lịch biển, đảo và ven biển nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế chủ lực của kinh tế biển, có thứ hạng cao ở khu vực Đông Nam á. Đa dạng hoá hợp tác với nước ngoài trong phát triển du lịch biển. Tập trung đầu tư phát triển các loại hình du lịch, vui chơi giải trí chất lượng cao ở các cụm du lịch Hạ Long - Cát Bà - Đồ Sơn; Trung tâm du lịch Huế - Đà Nẵng; cụm du lịch Vân Phong - Nha Trang - Ninh Chữ; Cụm du lịch Long Hải - Vũng Tàu - Côn Đảo và cụm du lịch Hà Tiên - Phú Quốc.

Phương hướng chủ yếu phát triển ngành du lịch biển đến năm 2020 phát huy tối đa các ưu thế và nguồn lực bên trong, kết hợp tranh thủ sự hợp tác bên ngoài để phát triển tổng hợp du lịch biển - núi - hải đảo (mà các vùng khác không có), nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch và dịch vụ cao cấp độc đáo, có chất lượng và uy tín cao trên thị trường du lịch trong nước và khu vực Đông Nam á. Hình thành các trung tâm du lịch ven biển lớn tầm cỡ quốc gia và quốc tế ở các khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi trên cơ sở phát triển đa dạng các tuyến du lịch và các loại hình du lịch - thể thao - giải trí cả ở trên bờ, trên biển và trên các hải đảo.

Hải sản

Coi phát triển mạnh hải sản là một trong những hướng đi chủ đạo của kinh tế biển và ven biển nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của cư dân và thay đổi bộ mặt của nông thôn ven biển theo hướng CNH, HĐH, tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng.

Hợp tác với nước ngoài đầu tư công nghệ hiện đại để phát hiện ngư trường phục vụ trực tiếp cho việc đánh bắt có hiệu quả. Giảm thiểu đánh bắt ven bờ, triển khai đánh bắt khơi xa và đánh bắt các đối tượng có giá trị kinh tế cao ở vùng biển quốc tế.

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nghề cá trong mọi lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và dịch vụ mạnh hơn nữa theo định hướng mạnh vào xuất khẩu và CNH, HĐH. Hình thành những vùng sản xuất hàng hoá tập trung trong nuôi trồng thuỷ sản.

Ngành thuỷ sản trong 15-20 năm tới vẫn lấy xuất khẩu làm động lực phát triển. Quản lý nghề cá theo những chiến lược quốc gia thống nhất, khai thác có hiệu quả và bền vững, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về nghề cá, xây dựng lực lượng lao động nghề cá có tính chuyên nghiệp cao.

Phương hướng chung để phát triển công nghiệp chế biến là nâng tỷ lệ chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng cao từ 35% hiện nay lên khoảng 45-50% năm 2010 và 60-70% năm 2020, tăng chất lượng sản phẩm, đa dạng sản phẩm chế biến. Nâng cấp, xây mới thêm các cơ sở chế biến với công nghệ hiện đại. Sử dụng các thiết bị tiên tiến như thiết bị cấp đông nhanh 1,5 giờ để giảm chi phí về điện và tăng chất lượng sản phẩm (hiện nay khoảng 3-4 giờ).

Nhanh chóng đưa ngành kinh tế thuỷ hải sản từ một ngành còn mang nặng tính chất công nghiệp khai thác nguyên liệu và nông nghiệp sang một ngành công nghiệp chế biến, chế tác có trình độ chuyên môn hoá, hợp tác hoá, liên hợp hóa ở trình độ cao.

Dầu khí

Quan điểm chủ đạo trong phát triển ngành dầu khí là kết hợp đảm bảo an ninh năng lượng với đảm bảo an ninh quốc gia, tăng cường sức mạnh bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Hướng phát triển là dựa trên cơ sở nguồn tài nguyên sẵn có trong nước, đồng thời tích cực mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Phát triển ngành dầu khí  một cách đồng bộ, hiệu quả, an toàn, mang tính đa ngành và liên ngành. Phát triển đi đôi với bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái, tiết kiệm năng lượng cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Mục tiêu chiến lược của phát triển dầu khí là trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, hoàn chỉnh từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến, tàng trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Đẩy mạnh việc tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng xác minh, ưu tiên phát triển những vùng nước sâu, xa bờ, những vùng chồng lấn, tranh chấp. Khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài nguyên dầu khí trong nước, từng bước mở rộng hoạt động dầu khí ra nước ngoài. Tích cực xây dựng công nghiệp lọc, hoá dầu và sử dụng khí thiên nhiên; đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Từng bước hình thành và phát triển thị trường dầu khí cạnh tranh; mở rộng và đẩy mạnh phát triển các loại hình dịch vụ dầu khí, đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực dầu khí. Phát triển nhanh, hiệu quả đi đôi với đảm bảo chủ quyền quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái và tiết kiệm năng lượng cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Sản xuất muối biển

Dự báo trong tương lai, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất nhu cầu muối cho dân sinh và công nghiệp tối thiểu phải đạt 1,6 - 2,0 triệu tấn/năm. Để nhanh chóng phát triển nghề muối đáp ứng cho nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu, trước mắt phải đẩy mạnh thâm canh và cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất các đồng muối hiện có đồng thời mở rộng tối đa diện tích thuận lợi nhất cho nghề muối nâng diện tích các đồng muối của Việt Nam từ 20.000 ha hiện nay lên 30.000 - 35.000 vào năm 2010.

Nghiên cứu khả năng xây dựng một số khu công nghiệp hoá học biển bao gồm các xí nghiệp sản xuất xút, axít clohydríc và các hoá chất cơ bản khác. Từ nguồn nguyên liệu muối biển có sản lượng lớn và chất lượng cao ở ven biển các tỉnh biển từ Đà Nẵng đến Sóc Trăng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp lớn trong tương lai.

Nông, lâm nghiệp ven biển

Tích cực thực hiện quai đê lấn biển, mở mang diện tích nông, lâm nghiệp ở những nơi có điều kiện trên cơ sở khoa học, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng biển.

Phát triển nông nghiệp sinh thái vùng ven biển mang tính đặc thù cho từng vùng với nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao; tiêu biểu là dừa, cây ăn trái, cây lấy dầu kết hợp nuôi trồng thuỷ hải sản. Đối với một số khu vực biển lấn, cần nghiên cứu các loại cây trồng hợp lý để góp phần hạn chế tác động gây hại của biển lấn. Xúc tiến việc nghiên cứu, hợp tác quốc tế để phát triển các ngành nghề trồng, khai thác và chế biến dược liệu...

Khai thác khoáng sản (ngoài dầu khí) ở vùng ven biển

Đẩy mạnh khai thác khoáng sản ven biển và dưới đáy biển. Việc khai thác than đá ở vùng mỏ Quảng Ninh chỉ duy trì ở mức 30 triệu tấn/năm (thời kỳ đến 2020) trên cơ sở phải bảo đảm gìn giữ môi trường và cảnh quan vùng Vịnh Hạ Long. Nghiên cứu khai thác quặng sắt ở mỏ Thạch Khê (Hà Tĩnh) để phát triển luyện thép. Tổ chức khai thác và tuyển các quặng sa khoáng ven biển, đến năm 2020 đạt sản lượng khoảng 10 vạn tấn titan. Nghiên cứu khai thác các quặng silic, diatômit, bcatônit...

Khai thác các mỏ cát thuỷ tinh phục vụ xuất khẩu và chế biến, tiếp tục khai thác mỏ cát Vân Hải (Quảng Ninh) phục vụ công nghiệp sản xuất thuỷ tinh, đến năm 2020 đạt sản lượng 20 vạn tấn năm, các mỏ cát dọc ven biển miền Trung đến năm 2020 đạt sản lượng khoảng 50 vạn tấn năm.

Đối với các mỏ đá vôi ven biển, kết hợp khai thác và bảo vệ, không làm ảnh hưởng đến cảnh quan du lịch.

Trong tương lai xa, công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản từ biển sẽ phát triển ngày càng mạnh và đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế biển và vùng ven biển.

Các ngành dịch vụ

Phát triển nhanh các lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng, thông tin, cứu hộ cứu nạn, cảnh báo, phòng chống và khắc phục hậu quả của thiên tai.

Về tài chính, ngân hàng: Đẩy nhanh phát triển thị trường tài chính và thị trường dịch vụ tài chính, đảm bảo đa dạng hoá các kênh huy động vốn trong các vùng biển bằng cách hình thành các trung tâm các điểm ngân hàng không chỉ ở các thành phố mà tới tận các vùng đánh cá tập trung. Đào tạo và tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác ngân hàng ở vùng biển.

Về thông tin: Phát triển những hệ thống dịch vụ bưu chính, viễn thông trên các vùng biển để cung cấp đầy đủ và nhanh thông tin cho các vùng biển, hiện đại hoá các cơ sở bưu chính trên các huyện đảo.

Về tìm kiếm cứu nạn: Xây dựng lực lượng tìm kiếm cứu nạn chính quy, chuyên nghiệp, giải quyết nhanh các vụ việc. Tiếp tục đầu tư hiện đại hoá thiết bị, nâng cao trình độ và năng lực đội ngũ nhân viên tìm kiếm cứu nạn. Tổ chức phối hợp huy động giữa các lực lượng.

Tham gia với các nước trong khu vực đầu tư xây dựng các trạm cảnh báo phòng chống thiên tai, đảm bảo dự báo và cảnh báo sớm các thiên tai có thể xảy ra trên các vùng biển, đảm bảo giảm thiểu hậu quả thiên tai.

4. Về các giải pháp nhằm đảm bảo hiện thực hoá mục tiêu đề ra

Để đảm bảo thực hiện Chiến lược kinh tế biển nêu trên, một hệ thống các giải pháp trọng yếu cần được triển khai là:

Một là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển và kinh tế biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để có nhận thức đầy đủ về biển, việc cần làm trước tiên là đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục sâu rộng, có hệ thống trong nhân dân nhằm nâng cao và tạo ra sự chuyển biến thực sự trong ý thức của tất cả các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò chiến lược của biển. Tư duy về biển phải được thể hiện đậm nét trong các chính sách phát triển của những ngành có liên quan và các địa phương có biển trong giai đoạn sắp tới. ý thức về biển phải được tất cả các ngành và các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương có biển quan tâm thường xuyên. Đối với mọi người dân, ý thức về biển phải thể hiện sâu sắc trong khai thác đi liền với bảo vệ tài nguyên, môi trường biển. Chẳng những thế, việc bảo vệ an toàn những tài sản kinh doanh trên biển và trong lòng biển của mọi chủ thể phải triệt để tôn trọng. Bài học thực tế từ việc xâm hại tuyến cáp quang trên biển làm tổn hại tới hệ thống thông tin ở vùng biển phía Nam vừa qua cho thấy rõ tính cấp bách và cần thiết của công tác tuyên truyền, giáo dục có ý nghĩa như thế nào.

Hai là, kết hợp phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và an ninh trên biển.

Hơn bất cứ địa bàn nào khác, việc xây dựng và phát triển kinh tế biển phải gắn chặt với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh bảo vệ biển; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân gắn với phát triển kinh tế biển. Mục tiêu kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh nhằm khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trên biển, đảo của Tổ quốc; khai thác, sử dụng nguồn lợi của quốc gia có hiệu quả để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp trong từng cơ sở đánh bắt hải sản, khai thác tài nguyên, phát triển du lịch, dịch vụ; nghiên cứu khoa học biển; kết hợp theo quy hoạch, kế hoạch của từng địa phương, vùng biển, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của quốc phòng - an ninh để nâng cao năng lực quản lý, bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra định cư sinh sống ổn định trên đảo và làm ăn trên biển dài ngày. Đối với các hải đảo cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức hành chính phù hợp, tăng cường nâng cao năng lực quản lý về biển của chính quyền các huyện đảo, xã đảo nhằm phát triển mạnh kinh tế, xã hội; kết hợp bố trí dân cư và tổ chức lực lượng bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Ba là, đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học - công nghệ biển.

Công tác điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển phải tạo được hệ thống thông tin cơ sở tin cậy, phục vụ việc hoạch định các chính sách phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển. Đồng thời, phải tiến tới xây dựng được tiềm lực khoa học - công nghệ biển đủ sức tạo ra những khâu đột phá trong phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển và phát triển hệ thống dự báo, phòng chống thiên tai; có phương án bảo tồn biển (bảo tồn tài nguyên, đa dạng sinh học...).

Quan tâm đặc biệt đến giải pháp về khoa học - công nghệ, coi đây là giải pháp đi trước, mang tính đột phá nhằm phát huy hết tiềm năng khoa học cho kinh tế biển, giảm thiểu tối đa các rủi ro trong chiến lược vươn ra biển.

Bốn là, triển khai công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh các vùng biển và ven biển.

Tiến hành quy hoạch các trung tâm phát triển ra biển và các khu vực biển, đảo có khả năng đột phá trong phát triển kinh tế như Móng Cái, Vân Đồn, Nghi Sơn, Vũng áng, Đà Nẵng, Dung Quất - Chu Lai, Vân Phong, Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quý… Công tác quy hoạch phải trên cơ sở của kinh tế thị trường, có tầm nhìn dài hạn, hiện đại theo những tiêu chuẩn phù hợp với quốc tế và khu vực. Đồng thời, phải tiến hành một cách có hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý quy hoạch nhằm bảo đảm sự phát triển hài hoà, bền vững và đúng định hướng. Trong quy hoạch, cần quán triệt quan điểm coi vùng duyên hải gắn với kinh tế biển là vùng động lực để mở cửa, thúc đẩy phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc gia, đẩy mạnh phát triển những cơ sở công nghiệp chế biến các sản phẩm từ biển.

Năm là, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về biển và kinh tế biển.

Lâu nay, các hoạt động kinh tế và quản lý biển đảo chưa có một cơ quan Nhà nước quản lý thống nhất mà phân tán ở nhiều bộ, ngành và các cơ quan khác nhau. Quản lý tổng hợp về biển là vấn đề mới và rất phức tạp, biển lại rộng lớn và hoạt động mang tính đa ngành. Vì vậy, việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về biển và kinh tế biển có vai trò quyết định.

Sáu là, xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển và vùng ven biển.

Các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển có thể chia thành các loại như:

a) Chính sách đảm bảo an toàn, an ninh cho các hoạt động kinh tế biển

Biển là môi trường hoạt động kinh tế đặc thù, có thể gặp nhiều rủi ro do diễn biến bất thường của thời tiết, thiên tai. Hỗ trợ cho loại chính sách này là các hoạt động của hệ thống dự báo thời tiết khí hậu, nhất là bão, sóng thần, hình thành các trung tâm tránh bão, các trung tâm quan sát và cung cấp thông tin cho người dân hoạt động trên biển. Hình thành lực lượng đủ mạnh để hỗ trợ một cách tích cực, có hiệu quả cao cho ngư dân khi gặp nạn. Bảo đảm cho mọi hoạt động của các lực lượng trên biển được an toàn, an ninh; phải xem đó là điều kiện thiết yếu để đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển. Đồng thời hoạt động bảo hiểm cho lĩnh vực kinh tế biển phải rất được coi trọng.

b) Các chính sách khuyến khích người dân ra biển làm kinh tế

Hỗ trợ cho loại chính sách này là các hoạt động:

- Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng biển, hải đảo. Có chính sách xây dựng phương tiện nối đất liền với đảo, tạo đà cho sự phát triển nhanh. Xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp - đô thị mới, khu du lịch và tuyến du lịch biển được kết nối, hỗ trợ nhau phát triển.

- Xây dựng các chính sách đặc thù, nhằm xây dựng nông thôn ven biển và hải đảo. Cần có chính sách đầu tư thích đáng để thực hiện nhanh chương trình xây dựng các tuyến đảo như: Phú Quốc, Phú Quý, Lý Sơn, Cát Bà, Cái Chiên, Vĩnh Thực, Vân Đồn, Cô Tô, Trần, Bạch Long Vĩ, Hòn Mê, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Cù Lao Xanh, Côn Đảo, Kiên Hải, Hòn Chuối, Nam Du, Thổ Chu... kết hợp với chương trình xây dựng đảo là tiền tiêu, là hậu cần vững chắc về an ninh - quốc phòng.

- Nghiên cứu các chính sách và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh mẽ nhân dân ra làm ăn, sinh sống lâu dài trên các đảo và lao động dài ngày trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền, biển, đảo của quốc gia.

c) Tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế biển

Mở rộng hợp tác quốc tế và tăng cường công tác ngoại giao để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển và phát triển kinh tế biển và vùng ven biển trên các lĩnh vực: đầu tư phát triển công nghiệp, điều tra và khai thác tài nguyên biển, đào tạo nguồn nhân lực, chia sẻ kinh nghiệm và thông tin, nghiên cứu khoa học - công nghệ, dự báo và cảnh báo thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ an ninh trên biển... Đặc biệt chú ý tăng cường hợp tác với các nước lân cận biển Đông và những nước có tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ mạnh về biển.

 d) Các chính sách liên quan đến đầu tư

Trong hoạt động đầu tư, cần tập trung đầu tư đủ mức, đồng bộ và dứt điểm để sớm đưa vào hoạt động, phát huy cao nhất năng lực khai thác và đạt hiệu quả cao, đặc biệt là với các khu công nghiệp, cảng biển, các cơ sở sản xuất.

Đồng thời, cần quán triệt sâu sắc quan điểm về xã hội hoá trong lĩnh vực đầu tư. Khuyến khích mạnh mẽ các hình thức đầu tư phát triển kinh tế biển, kể cả các công trình thuộc kết cấu hạ tầng lớn như cảng biển, đường giao thông, các khu đô thị, khu công nghiệp... của mọi hình thức sở hữu, bao gồm cả hình thức BOT, BT...

e) Hình thành các trung tâm kinh tế biển mạnh ở mỗi vùng, miền

- ở vùng biển phía Bắc, cùng với việc hợp tác với Trung Quốc xây dựng vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, cần đẩy nhanh tốc độ xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, các khu kinh tế Hải Hà, Vân Đồn, nối với Hạ Long, Hải Phòng và xây dựng tuyến đường cao tốc ven biển vùng đồng bằng Bắc Bộ, tạo ra một sức bật mới, mạnh mẽ của cả vùng để kết nối với 2 tuyến hành lang cùng đẩy nhanh tốc độ phát triển.

- Vùng biển miền Trung với điểm nhấn là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, cùng với Đà Nẵng, Dung Quất, Chu Lai, Nha Trang... hình thành hệ thống trung tâm phát triển kinh tế biển mạnh của miền Trung

- Vùng biển phía Nam lấy việc phát triển Phú Quốc thành trung tâm giao thương quốc tế, trở thành trung tâm du lịch sinh thái đảo - biển lớn của cả nước và khu vực để cùng với Vũng Tàu, Rạch Giá, Trường Sa thành những trung tâm hạt nhân phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển mạnh của vùng.

Bảy là, phát triển nguồn nhân lực phát triển kinh tế biển.

Căn cứ quy hoạch từng ngành, lĩnh vực thuộc kinh tế biển và vùng ven biển, phát triển tổng hợp nguồn nhân lực biển bao gồm cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ biển; cán bộ quản lý, các chuyên gia và đội ngũ lao động được đào tạo chuyên sâu về các nghề như: hàng hải; khai thác và chế biến dầu, khí; đánh bắt và nuôi trồng hải sản; du lịch biển…, xây dựng cơ chế, chính sách về đào tạo nhân lực và kế hoạch phát triển nguồn nhân lực thuộc các thành phần kinh tế. Trước mắt, nhanh chóng tiến hành đào tạo và hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực cho các vùng kinh tế trọng điểm về kinh tế biển và vùng ven biển.

Rà soát lại hệ thống các cơ sở đào tạo các ngành nghề về kinh tế biển để xây dựng mạng lưới đào tạo ngành nghề biển kinh tế hợp lý. Khuyến khích việc xây dựng các cơ sở đào tạo ngành nghề biển ở các thành phố biển.

Tổng hợp từ Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 8/2007 

MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM

                                                                                            Trần Thị Hương Trang

1- Vài nét về thực trạng biển và môi trường biển Việt Nam

 

Việt Nam có diện tích 329.314 km² bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.200 km² biển nội thuỷ, với hơn 3.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, với  lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa khoảng trên 1 triệu km². Việt Nam có 3.260km bờ biển với 28/64 tỉnh, thành phố có biển diện tích các huyện ven biển chiếm 17% tổng diện tích cả nước và là nơi sinh sống của hơn 1/5 dân số cả nước[1].

Biển đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của đất nước. Biển và vùng biển có tiềm năng rất lớn trong chiến lược phát triển kinh tế biển.

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích kinh tế thu được về hàng hải, du lịch, dịch vụ, khai thác thủy hải sản, dầu khí..., Việt Nam  cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường biển. Biển và các vùng ven biển đang có nguy cơ ô nhiễm gia tăng

Trước thực trạng đó, việc bảo tồn và phát huy nguồn tài nguyên biển giàu có, bảo vệ môi trường biển Việt Nam có ý nghĩa quyết định. Việt Nam đã xây dựng, phát triển hệ thống các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường biển. Hệ thống chính sách và pháp luật đó có thể khái quát những đặc trưng lớn như sau:

1.      Hệ thống chính sách kết hợp bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ chủ quyền quốc gia hướng tới phát triển bền vững, được xây dựng từ cấp trung ương tới địa phương và định hướng chiến lược lâu dài.

2.      Luật Bảo vệ Môi trường 2005 có những quy định cơ bản quan trọng về bảo vệ môi trường biển cùng với các luật khác có liên quan cũng có những quy định về bảo vệ môi trường biển tạo ra một khung pháp lý toàn diện về bảo vệ môi trường biển.

3.      Các quy định chính sách và pháp luật trên góp phần nội luật hóa và thực hiện các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt Nam đã tham gia.

Các đặc trưng trên sẽ được phân tích, đánh giá lần lượt dưới đây. Tuy nhiên, trong đó, Luật Bảo vệ môi trường 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành có ý nghĩa trực tiếp và quan trọng nhất đến bảo vệ môi trường biển Việt Nam. Chính vì vậy bài viết này sẽ tập trung đi sâu vào các quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2005.

1. Hệ thống chính sách kết hợp bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ chủ quyền quốc gia hướng tới phát triển bền vững, được xây dựng từ cấp trung ương tới địa phương và có định hướng chiến lược lâu dài.

 

Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển kinh tế xã hội biển và bảo vệ môi trường biển Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã nêu rõ  ”phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với sự phát triển của cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 – 55% GDP, 55 – 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển.”

Nhằm triển khai chủ trương trên của Đảng, Chính phủ thông qua Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.

Tiếp đó, hầu hết các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương ven biển đều ban hành Nghị quyết để triển khai Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 09/02/2007  về Chiến lược Biển 2020. Trong đó hầu hết, các chương trình, kế hoạch đều đề cập đến việc thực hiện bảo vệ môi trường biển. Ví dụ, Quyết định 1624 /2007/QĐ-UBND  của UBND tỉnh Thanh Hóa ngày 01/06/2007 về Chương trình hành động thực hiện Chiến lược Biển cũng xác định một trong sáu nhiệm vụ cơ bản của Chương trình là ”Nhiệm vụ điều tra cơ bản về tài nguyên, môi trường; phát triển khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường biển, ven biển, phòng chống thiên tai”, Quyết định 28/2008/QĐ-UBND ngày 03/04/2008 ban hành kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược Biển Việt Nam 2020 cũng xác định mục tiêu ”Xây dựng khu đô thị gắn với cảng biển, các khu công nghiệp và dịch vụ; phát triển không gian đô thị phù hợp với điều kiện tự nhiên về thoát nước, bảo vệ môi trường”.... 

Để xây dựng và thực hiện được các chiến lược nêu trên, một loạt các chính sách hỗ trợ cũng được ban hành trước đó như Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 phê duyệt bởi Quyết định Số 47/2006/QĐ-TTg ngày 1/3/2006; Nghị định 101/2007/NĐ-CP ngày 13/ 6/2007 Về việc thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu tài nguyên, môi trường biển, Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 phê duyệt bởi Quyết định 158/2007/QĐ-TTg ngày 9/10/2007, Kế hoạch quốc gia kiểm soát ô nhiễm môi trường đến năm 2010 ban hành kèm theo quyết định 328/2005/QĐ-TTg ngày 12/12/2005, …

Đặc biệt, Chiến lược bảo vệ môi trường 2010 định hướng đến 2020, môi trường biển đều rất được quan tâm vấn đề bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chiến lược này đã được kết hợp, lồng ghép chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế biển theo quan điểm sử dụng tổng hợp, hợp lý đi đôi với bảo vệ tài nguyên và môi trường biển ven bờ.

2.      Luật Bảo vệ Môi trường 2005 có những quy định cơ bản quan trọng về bảo vệ môi trường biển cùng với các luật khác có liên quan cũng có những quy định về bảo vệ môi trường biển tạo ra một khung pháp lý toàn diện về bảo vệ môi trường biển

 

Luật bảo vệ Môi trường 2005 xác định hoạt động bảo vệ môi trường biển gồm ba nội dung chính là: i) bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển, ii) Kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường biển, iii) phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển. Đây cũng chính là 3 điều luật chính trong Mục 1, Chương VII, Luật Bảo vệ môi trường 2005.

Để điều chỉnh và đảm bảo hoạt động bảo vệ môi trường biển, ngoài các quy định chung mang tính định hướng tại Mục 1, Chương VII, Luật Bảo vệ môi trường 2005 còn có các văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh cụ thể như Luật Thủy sản 2003, Nghị định 109/2004/NĐ-CP về bảo vệ và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Bên cạnh đó, Luật cũng đưa ra các nguyên tắc đối với bảo vệ môi trường biển tại Điều 55, cụ thể:

- Bảo vệ môi trường là một nội dung của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển nhằm giảm thiểu tác động xấu đối với môi trường biển và tăng hiệu quả kinh tế biển.

 

- Phòng ngừa và hạn chế chất thải từ đất liền và từ các hoạt động trên biển; chủ động, phối hợp ứng phó sự cố môi trường biển.

 

- Bảo vệ môi trường biển phải trên cơ sở phân vùng chức năng bảo vệ và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.

 

- Bảo vệ môi trường biển phải gắn với quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển phục vụ phát triển bền vững.

 

 Đây là các nguyên tắc mang tính định hướng cho hoạt động bảo vệ môi trường biển. Có thể thấy rõ hoạt động bảo vệ môi trường biển không tách rời hoạt động phát triển kinh tế biển và hoạt động bảo vệ là nhằm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế biển.  Nguyên tắc số một này yêu cầu phải được thực hiện ngay chính trong giai đoạn quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển. Một nguyên tắc định hướng nữa là phân vùng chức năng bảo vệ và sử dụng tài nguyên biển là cơ sở cho hoạt động bảo vệ môi trường biển và hoạt động này hướng tới phát triển bền vững.

2.1. Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển

 

Nội dung này được quy định tại Điều 56, Luật bảo vệ môi trường 2005 với các hoạt động cụ thể.

“1. Các nguồn tài nguyên biển phải được điều tra, đánh giá về trữ lượng, khả năng tái sinh và giá trị kinh tế phục vụ việc quản lý và bảo vệ môi trường biển.

 

2. Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, khai thác nguồn lợi, tài nguyên biển và hoạt động khác liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên biển phải được thực hiện theo quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên đã  được phê duyệt.

 

3. Hoạt động trong khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng ngập mặn, di sản tự nhiên biển phải tuân theo quy chế của ban quản lý, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

 

4. Nghiêm cấm việc sử dụng các biện pháp, phương tiện, công cụ có tính huỷ diệt trong khai thác tài nguyên và nguồn lợi biển

2.1.2. Đối với quy định về “hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, khai thác nguồn lợi, tài nguyên biển và hoạt động khác liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên biển” hiện nay nhà nước đã ban hành Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2010 theo Quyết định số 131/2004/QĐ-TTg ngày 16/7/2004. Mục tiêu của chương trình là bảo vệ, bảo tồn đa dạng thuỷ sinh vật, đặc biệt là các loài thủy sản quý, hiếm, có giá trị khoa học và kinh tế; giữ gìn tính đa dạng, độc đáo của hệ sinh thái thuỷ sinh vật Việt Nam cho hiện tại và tương lai; phục hồi nguồn lợi thủy sản vùng biển ven bờ, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, giá trị các nguồn tài nguyên (thiên nhiên và đa dạng sinh học, đồng thời xác định rõ vai trò, trách nhiệm của ngư dân trong việc tham gia bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tăng cường năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản của các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp.

Ngoài Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2010 được triển khai chung trên toàn quốc, tại từng khu vực cụ thể còn xây dựng chương trình quản lý dải tổng hợp ven biển như Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 theo Quyết định 185/2007/QĐ-TTg ngày 9/10/2007.

2.1.3.  Đối với hoạt động trong khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng ngập mặn, di sản tự nhiên biển phải tuân theo quy chế của ban quản lý, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Những quy định pháp luật có liên quan  đến khu bảo tồn biển trước hết phải kể đến quy định của Luật Thủy sản 2003 và Nghị định 27/2005/NĐ-CP ngày 08/3/2005 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuỷ sản với quy định vê định nghĩa khu bảo tồn biển, Tiêu chuẩn phân loại, Phân cấp tổ chức và quản lý khu bảo tồn biển. Đối với khu bảo tồn vùng nước nội địa được Nghị định 27 coi là nơi được khoanh vùng thuộc các vùng đất ngập nước  và chịu sự điều chỉnh của Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 của Chính phủ về bảo tồn và khai thác bền vững các vùng đất ngập nước. Nghị định 109/2003/NĐ-CP điều chỉnh các hoạt động về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam bao gồm vùng đất ngập nước có hệ sinh thái đặc thù, đa dạng sinh học cao, có chức năng duy trì nguồn nước và cân bằng sinh thái, có tầm quan trọng quốc tế, quốc gia.

Gần đây nhất, Chính Phủ đã ban hành Quy chế quản lý các Khu bảo tồn biển Việt Nam có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế ban hành kèm theo Nghị định 57/2008/NĐ-CP ngày 2/5/2008, quy định rõ về tiêu chuẩn phân loại, việc tổ chức quản lý, bảo vệ và phát triển các Khu bảo tồn biển Việt Nam có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế; trách nhiệm của các Bộ, ngành và các địa phương

2.1.4.     Đối với việc Nghiêm cấm việc sử dụng các biện pháp, phương tiện, công cụ có tính huỷ diệt trong khai thác tài nguyên và nguồn lợi biển, điều này cũng đã được quy định tại Luật Thủy sản, 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo Điều 8, Luật Thủy sản, Bộ Thủy sản (hiện nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) có trách nhiệm định kỳ công bố các phương pháp khai thác, loại nghề khai thác, ngụ cư bị cấm sử dụng hoặc bị hạn chế sử dụng; Chủng loại, kích cỡ tối thiếu các loài thủy sản được phép khai thác, mùa vụ khai thác; Khu vực cấm khai thác và khu vực cấm khai thác có thời hạn là căn cứ để xác định biện pháp, phương tiện, công cụ có tính huỷ diệt trong khai thác tài nguyên và nguồn lợi biển.

2.2.           Kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường biển

 

Nội dung này được quy định tại điều 57. Theo đó, để kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường biển Luật Bảo vệ môi trường 2005 yêu cầu:

2.2.1. “Nguồn thải từ đất liền, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đô thị, khu dân cư ven biển, trên biển, trên đảo phải được điều tra, thống kê, đánh giá và có giải pháp ngăn ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường biển” (Khoản1, Điều 57)

2.2.2. “Chất thải và các yếu tố gây ô nhiễm khác từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, xây dựng, giao thông, vận tải, khai thác trên biển phải được kiểm soát và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường”.

Các quy định này cũng được quy định cụ thể lồng ghép với các quy định chuyên ngành tại Bộ Luật hàng hải Việt Nam ngày 14 tháng 6 năm 2005, Nghị định 71/2006/NĐ-CP ngày 25/7/2006 về quản lý cảng biển và luồng hàng hải, Nghị định 115/2007/NĐ-CP ngày 5/7/2007 về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan. Nghị định số 62/2006/ND-CP ngày 21/6/2006 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực hàng hải, Nghị định số 39/CP ngày 10/6/1998 về xử lý tài sản chìm đắm ở biển, Thông tư 2592/Mtg ngày 12/11/1996 của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường về kiểm soát ô nhiễm biển do tàu thuyền và phương tiện vận chuyển đường sông…

2.2.3. “Dầu, mỡ, dung dịch khoan, hoá chất và các chất độc hại khác được sử dụng trong các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên biển sau khi sử dụng phải được thu gom, lưu giữ trong thiết bị chuyên dụng và phải được xử lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại”.

Việc thực hiện quy định này cần xem xét thêm Luật dầu khí ngày 06 tháng 7 năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí ngày 09/6/2000 và Nghị định 48 /2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 Quy định chi tiết thi hành Luật Dầu khí  và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan. Việc xử lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại phải được thực hiện theo Quy chế quản lý chất thải nguy hại ban hành kèm theo Quyết định 155/1999/QĐ-TTg ngày 16/7/1999 và Thông tư 12/2006/TT-BTNMTngày 26/12/2006 Hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại.

2.2.4. Nghiêm cấm mọi hình thức đổ chất thải trong vùng biển nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2.3. Tổ chức phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển

 

Do mức độ nghiêm trọng của sự cố môi trường trên biển, nên ngoài Mục 1, Chương 9  điều chỉnh về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường nói chung, Luật Bảo vệ môi trường tiếp tục giành Điều 58  để quy định về Tổ chức phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển với các nội dung cụ thể như sau

2.3.1. Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản, chủ phương tiện vận chuyển xăng, dầu, hoá chất, chất phóng xạ và các chất độc hại khác trên biển phải có kế hoạch, nhân lực, trang thiết bị bảo đảm phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường.

Riêng đối với hoạt động dầu khí là hoạt động diễn ra phổ biến trên biển và nguy cơ sự cố môi trường do hoạt động dầu khí gây ra rất lớn nên Nghị định 48 /2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 Quy định chi tiết thi hành Luật Dầu khí có những quy định rất cụ thể nhằm phòng ngừa sự cố do hoạt động dầu khí.

Đối với các hoạt động khác, Bộ Luật Hàng Hải và các Nghị định hướng dẫn thi hành quy định rất cụ thể đối với các loại hình vận chuyển hoá chất, chất phóng xạ và các chất độc hại khác trên biển phải đảm bảo an toàn, phòng ngừa sự cố xảy ra.

2.3.2. Lực lượng cứu nạn, cứu hộ quốc gia, lực lượng cảnh sát biển phải được đào tạo, huấn luyện, trang bị phương tiện, thiết bị bảo đảm ứng phó sự cố môi trường trên biển.

 

2.3.4. Chủ phương tiện vận tải, kho lưu giữ hàng hoá trên biển có nguy cơ gây ra sự cố môi trường phải có hình thức thông báo cho các lực lượng quy định tại khoản 2 Điều này và tổ chức, cá nhân liên quan khác được biết và có phương án phòng tránh sự cố môi trường.

 

2.3.4. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ven biển trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phát hiện, cảnh báo, thông báo kịp thời về tai biến thiên nhiên, sự cố môi trường trên biển và tổ chức ứng phó, khắc phục hậu quả.

Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu kèm theo quyết định 103/2005/QĐ-TTg ngày 12/5/2005., quy định rõ nội dung hoạt động, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố tràn dầu trên phạm vi cả nước.

3.             Các quy định chính sách và pháp luật trên góp phần nội luật hóa và thực hiện các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt Nam đã tham gia.

 

Để ngăn chặn ô nhiễm thực hiện bảo vệ môi trường biển chung, rất nhiều các văn bản pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường hoặc liên quan đến bảo vệ môi trường được cộng đồng quốc tế xây dựng và được các quốc gia ký kết, Việt Nam đã phê chuẩn các điều ước quốc tế khác nhau nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, ví dụ như sau:

Công ước Marpol 73/78 về ngăn chặn ô nhiễm biển do tàu gây ra (Việt Nam tham gia ngày 29/8/1991);

- Công ước quốc tế về an toàn tính mạng trên biển SOLAS 1974 (Việt Nam tham gia ngày 18/3/1991);

- Công ước Luật biển 1982 (Việt Nam tham gia ngày 16/11/1994);

- Công ước về các quy tắc quốc tế phòng tránh đâm va trên biển COLREG 1972 (Việt Nam tham gia ngày 18/12/1990);

- Công ước về tiêu chuẩn cấp chứng chỉ cho thuyền viên 1978/1995 (STCW) (Việt Nam tham gia ngày 18/3/1991);

- Công ước về kiểm soát và vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hiểm và việc tiêu huỷ chúng BASEL 1989 (Việt Nam tham gia ngày 11/6/1995);

Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển do nhấn chìm chất thải hay các chất khác gây ra (còn gọi là Công ước Luân Đôn);

Công ước Quốc tế về sự sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu

Công ước Quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969

Kết luận

 

Hệ thống pháp luật và quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường  đã có nhiều tiến bộ, Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản có liên quan đã được ban hành tạo ra một hệ thống văn bản pháp luật tương đối toàn diện về bảo vệ môi trường biển.

Tuy nhiên, trên thực tế của hiện trạng môi trường biển cho thấy việc triển khai và thực thi các quy định chính sách pháp luật có nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân. Trong đó có việc khó khăn trong giám sát thực thi pháp luật trên biển, khi kiểm tra, kiểm soát đối với các đối tượng vi phạm thuộc các lĩnh vực hàng hải, nghề cá, vận chuyển hàng hóa..., thì bằng chứng, dấu hiệu vi phạm thường dễ xác định qua các giấy tờ, bằng lái, giấy phép kinh doanh và hàng hóa vận chuyển hiện có trên tàu. Nhưng đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực môi trường biển như xả các chất thải dầu cặn, nước thải có dẫn dầu, đổ rác và các chất thải độc hại khác, thì rất khó phát hiện và khó có được bằng chứng xác thực. Bởi vì đối tượng vi phạm thường lợi dụng đêm tối, khi không có tàu thuyền qua lại hoặc đang hành trình ngoài biển xa. Vì vậy việc phát hiện các hành vi vi phạm, thu thập các chứng cứ để chứng minh làm cơ sở pháp lý buộc đối tượng phải thừa nhận, là rất khó. 

Giải pháp chung đặt ra là Việt Nam cần tập trung đầu tư vật chất, nhân lực và công nghệ hiện đại cho các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ thuộc kinh tế biển để hạn chế ô nhiễm; đồng thời cần phải nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực quản lý bảo vệ môi trường biển tốt hơn. 

Giải pháp phát triển kinh tế biển Việt Nam

www.cpv.org.vn - 1 năm trước

 Du lịch biển là một thế mạnh của Việt Nam (ảnh internet)

(ĐCSVN) - Kinh tế biển Việt Nam hiện đã có bước chuyển biến đáng kể. Ngoài các ngành nghề truyền thống, đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ - kỹ thuật hiện đại như khai thác dầu khí, đánh bắt xa bờ, vận tải biển, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... Tuy nhiên, điểm mấu chốt trong chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam là hội nhập quốc tế.

Mục tiêu thực hiện chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển; làm giàu từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển gắn với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển.

Để xây dựng một nền khoa học kinh tế biển hiện đại, một quốc gia mạnh về biển với tầm nhìn dài hạn, Việt Nam cần phải triển khai hàng loạt các giải pháp nghiên cứu về biển, cả chiến lược, chính sách lẫn khoa học - công nghệ, bao gồm:

Thứ nhất, phát triển mạnh giao thông vận tải biển để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hoá. Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển. Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và cảng sông với khoảng trên 90 cảng lớn nhỏ và được phân bố tương đối đều dọc theo bờ biển từ Bắc vào Nam. Hệ thống cảng biển Việt Nam được chía thành 6 nhóm: 1) Nhóm cảng biển phía bắc; 2) Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ; 3) Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ; 4) Nhóm cảng biển Nam Trung Bộ; 5) Nhóm cảng vùng Đông Nam Bộ; và 6) Nhóm cảng đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với hệ thống cảng, kho bãi, biển Việt Nam thông với hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Những điều kiện thuận lợi này là cơ sở quan trọng để phát triển giao thông vận tải biển. Vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã tăng 6 lần trong giai đoạn (1995-2006).

Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, huấn luyện thuyền viên. Việt Nam ước tính thiếu hụt khoảng 800 thuyền viên vào năm 2010. Nếu tính cả sĩ quan tham gia vào thị trường xuất khẩu thì sự thiếu hụt lên tới 1000 người. Để giảm thiểu sự thiếu hụt này, nhà nước cần xây dựng Trung tâm đào tạo huấn luyện thuyền viên dựa trên nguồn kinh phí tài trợ của nhà nước và của tư nhân, đồng thời hợp tác với nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, cần phát triển dịch vụ hàng hải và hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật cho khâu quản lý điều hành nhằm bảo đảm an toàn hàng hải và dịch vụ hàng hải. Phát triển thương mại biển, đảo và vùng ven biển có trọng điểm để sớm hình thành một số trung tâm thương mại mạnh tại một số khu vực biển. Duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hải sản cao, ổn định và bền vững, cải thiện cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng mặt hàng chế tạo, sản phẩm chế biến.

Thứ batập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển. Du lịch và giải trí biển là một lĩnh vực hoạt động kinh tế biển. Các hoạt động kinh tế biển đã đóng góp giải quyết đáng kể về thu nhập cũng như giảm thất nghiệp, xoá đói nghèo, bảo đảm an ninh quốc gia vùng biển. Du lịch biển có tiềm năng kinh doanh lớn. Vùng biển và ven biển tập trung tới ¾ khu du lịch tổng hợp và hơn ½ khu du lịch chuyên đề nhưng ngành du lịch biển vẫn chưa có những sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt qui mô và trình độ quốc tế. Những năm gần đây, du lịch, nghỉ dưỡng cũng như giải trí biển đã được mở rộng đáng kể. Việt Nam có nhiều trung tâm du lịch biển quan trọng, có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trển tuyến du lịch quốc tế Đông Nam Á. Doanh thu du lịch biển tăng 5 lần giai đoạn (2000 – 2006), Mục tiêu năm 2010 thu hút hoảng 4-5 triệu lượt khách quốc tế, 20 - 30 triệu lượt khách trong nước đến du lịch biển.

Thứ tư, tăng cường khai thác năng lượng, khoáng sản, thuỷ sản biển. Đẩy mạnh sản xuất muối biển trên cơ sở thâm canh, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất các đồng muối hiện có.

Mặc dù ngành khai thác dầu thô và khí thiên nhiên trên biển Việt Nam mới được bắt đầu từ năm 1986, nhưng hiện đang đứng ở vị trí thứ 4 ở Đông Nam Á và thứ 44 trong Cộng đồng các quốc gia khai thác dầu mỏ trên thế giới. Ngành dầu khí là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn có tiềm lực kỹ thuật, vật chất lớn và hiện đại nhất trong nhũng ngành khai thác biển, đồng thời cũng là một trong những ngành xuất khẩu thu được nhiều ngoại tệ nhất. Cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp ven biển, trước hết là dầu mỏ, khí đốt, than, quặng kim loại, chuẩn bị điều kiện khai thác khoáng sản ở biển sâu sau năm 2010. Bên cạnh khai thác khoáng sản biển, thì thủy sản cũng đóng vai trò quan trọng vì thuỷ sản là nguồn tài nguyên tài tạo, phát triển dựa trên nền tảng của các hệ sinh thái. Kinh tế thuỷ sản bảo đảm và cải thiện kế sinh nhai cho dân cư sống ở vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Tiếp tục phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản để đến năm 2010 đạt tổng sản lượng 4 triệu tấn. Mở rộng thêm diện tích những nơi thuận lợi nhất cho nghề muối, đưa diện tích các đồng muối lên 30- 35 nghìn ha vào năm 2010.

Thứ nămphát triển kết cấu hạ tầng biển trên cơ sở đầu tư nâng cấp các cụm cảng, đáp ứng yêu cầu xuất nhập khẩu. Nâng công suất cụm cảng phía Bắc lên 60 - 70 triệu tấn, miền Trung 40 - 50 triệu tấn/năm, miền Nam 90 - 100 triệu tấn vào năm 2010. Nâng cấp và chuẩn bị điều kiện xây mới một số sân bay ven biển. Khẩn trương xây dựng các cảng biển nước sâu, qui mô lớn có thể tiếp nhận các tàu biển trọng tải lớn từ 50.000 – 100.000 DWT. Ngành hàng hải Việt Nam cần 4-5 tỉ USD từ nay đến năm 2015 để đầu tư phát triển cảng biển. Năm 2008, cảng biển Nam Ninh (cảng đầu tiên đạt tiêu chuẩn quốc tế ở phía bắc) chính thức được đưa vào khai thác đã đánh dấu sự phát triển mới của ngành vận tải biển Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

Tóm lại, mục tiêu của Cộng đồng quốc tế nói chung và của từng quốc gia ven biển nói riêng là phát triển bền vững như Chương trình nghị sự 21 của Liên hợp quốc đã đưa ra. Phát triển kinh tế biển Việt Nam hiện chưa được coi là bền vững. Vì vậy, để phá triển một nền kinh tế biển hiệu quả, bền vững và có khả năng hội nhập quốc tê cần có một phương pháp quản lý biển tổng hợp, đảm bảo được an ninh sinh thái và an ninh xã hội ở vùng biển đảo và ven biển. Thêm nữa là phải thay đổi cách tư duy về quản lý và khai thác tài nguyên biển, phải chinh phục biển và chế ngự biển khơi, có như vậy, mục tiêu “trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển vào năm 2020” của Chính phủ Việt Nam mới có khả năng thành hiện thực.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #dddddd