Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chiến dịch Guadalcanal

Các hoạt động dọc theo sông Matanikau

Vandegrift và bộ tham mưu của ông ý thức rằng lực lượng của Kawaguchi đã rút lui về khu vực phía Tây sông Matanikau và nhiều nhóm quân Nhật lang thang đang tản mác trong suốt khu vực giữa ngoại vi Lunga cho đến sông Matanikau. Vì vậy Vandegrift quyết định thực hiện một loạt các hoạt động của các đơn vị nhỏ chung quanh thung lũng Matanikau. Mục đích của các hoạt động này là nhằm càn quét các nhóm quân Nhật tản mác ở phía Đông Matanikau và nhằm giữ cho nhóm quân chủ lực Nhật mất quân bình để họ không thể củng cố các vị trí quá gần ngoại vi phòng thủ của Thủy quân Lục chiến chung quanh Lunga Point.[76]

Hoạt động đầu tiên của Thủy quân Lục chiến Mỹ nhằm tấn công lực lượng Nhật đóng về phía Tây sông Matanikau, được thực hiện từ ngày 23 đến ngày 27 tháng 9 bởi các đơn vị thuộc ba tiểu đoàn đã bị lực lượng của Kawaguchi dưới sự chỉ huy trực tiếp tại chỗ của Akinosuke Oka đẩy lui. Trong hoạt động này, ba đại đội Thủy quân Lục chiến bị quân Nhật bao vây gần Point Cruz về phía Tây Matanikau, chịu tổn thất nặng, và cố thoát ra được với sự trợ giúp từ một tàu khu trục Mỹ và tàu đổ bộ do người của lực lượng Tuần duyên điều khiển.[77]

Trong hoạt động thứ hai từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 10, một lực lượng lớn Thủy quân Lục chiến đã vượt qua sông Matanikau thành công và tấn công lực lượng Nhật mới đổ bộ thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh thuộc quyền chỉ huy của các tướng Masao Maruyama và Yumio Nasu, và đã gây thiệt hại nặng cho Trung đoàn 4 Bộ binh. Hoạt động thứ hai này đã buộc quân Nhật phải rút lui khỏi các vị trí của họ ở phía Đông Matanikau và gây trở ngại việc chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn tiếp theo được hoạch định nhắm vào vành đai phòng thủ Lunga.[78]

Từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 10, các tiểu đoàn 1 và 2 Thủy quân Lục chiến đột kích hai tiền đồn Nhật Bản nhỏ Gurabusu và Koilotumaria cách ngoại vi Lunga 48 km (30 dặm) về phía Đông gần vịnh Aola. Kết quả của trận đánh này đã khiến 35 lính Nhật thiệt mạng trong khi có 17 lính Thủy quân Lục chiến và ba lính Hải quân Mỹ bị giết.[79]

Trận chiến mũi Esperance

Trong suốt tuần lễ cuối cùng của tháng 9 và tuần đầu tiên của tháng 10 năm 1942, các chuyến "Tốc hành Tokyo" đã đưa các đơn vị thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh Lục quân Nhật đến Guadalcanal. Hải quân Nhật hứa hẹn sẽ hỗ trợ cho kế hoạch tấn công của Lục quân, không chỉ bằng việc vận chuyển binh lực, thiết bị và tiếp liệu cần thiết đến hòn đảo, mà còn gia tăng cường độ ném bom sân bay Henderson và gửi các tàu chiến đến bắn phá hòn đảo.[80]

Cùng lúc đó, Millard F. Harmon, Tư lệnh lực lượng Quân đội Hoa Kỳ tại Nam Thái Bình Dương, đã thuyết phục Ghormley rằng lực lượng Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal cần được tăng cường ngay để phía Đồng Minh có thể giữ vững được hòn đảo trong cuộc tấn công sắp tới của quân Nhật được dự đoán. Vì vậy, vào ngày 8 tháng 10, 2.837 người thuộc Trung đoàn 164 Bộ binh thuộc Sư đoàn Americal Lục quân Mỹ lên tàu tại New Caledonia thực hiện chuyến đi đến Guadalcanal và dự định cập bến vào ngày 13 tháng 10. Để bảo vệ đoàn tàu vận tải đi đến Guadalcanal, Ghormley ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm 64, bao gồm bốn tàu tuần dương và năm tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Norman Scott, để đánh chặn và chống lại mọi tàu chiến Nhật có thể xuất hiện tại Guadalcanal đe dọa đến đoàn tàu vận tải.[81]

Bộ tham mưu Hạm đội 8 của Mikawa dự định tổ chức một chuyến "Tốc hành Tokyo" quan trọng vào đêm 11 tháng 10. Hai tàu chở thủy phi cơ và sáu tàu khu trục sẽ vận chuyển 728 binh sĩ cùng pháo binh và đạn dược đến Guadalcanal. Cùng thời gian đó nhưng trong một hoạt động riêng biệt, ba tàu tuần dương và hai tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aritomo Gotō lên đường bắn phá sân bay Henderson với các quả đạn pháo mảnh đặc biệt nhằm mục đích tiêu diệt Không lực Cactus và các thiết bị của sân bay. Do trong thực tế tàu chiến Mỹ chưa từng có ý định can thiệp các chuyến tàu Tốc hành Tokyo đến Guadalcanal, người Nhật cho rằng không có sự đối đầu của lực lượng tàu nổi Hải quân Mỹ trong đêm đó.[82]

Ngay trước nữa đêm, tàu chiến của Scott phát hiện lực lượng của Gotō trên màn hình radar gần lối vào eo biển giữa đảo Savo và Guadalcanal. Lực lượng của Scott ở vào vị thế Cắt ngang chữ T đội hình không được chuẩn bị của Gotō. Sau khi được lệnh nổ súng, tàu chiến của Scott đánh chìm một tàu tuần dương và một tàu khu trục của Gotō, làm hư hại nặng một tàu tuần dương khác, làm Gotō tử thương và buộc những chiếc tàu chiến còn lại từ bỏ nhiệm vụ bắn phá để rút lui. Trong trận đấu pháo, một tàu khu trục của Scott bị đánh chìm, một tàu tuần dương và một tàu khu trục khác bị hư hại. Trong khi đó, đoàn tàu vận tải Nhật hoàn tất công việc chất dỡ hàng xuống Guadalcanal và bắt đầu quay trở về mà không bị lực lượng của Scott phát hiện. Sáng hôm sau, 12 tháng 10, bốn tàu khu trục của lực lượng hộ tống đoàn tàu vận tải quay lại trợ giúp cho lực lượng tàu chiến bị hư hại của Gotō rút lui. Các đợt không kích của máy bay từ sân bay Henderson đã đánh chìm hai tàu khu trục vào cuối ngày hôm đó. Đoàn tàu vận tải Mỹ cũng đến được Guadalcanal theo kế hoạch vào ngày hôm sau và thành công trong việc đưa hành khách và hàng hóa lên đảo.[83]

Nã pháo bằng thiết giáp hạm xuống Henderson

Cho dù Hải quân Mỹ chiến thắng trong trận hải chiến ngoài khơi mũi Esperance, người Nhật tiếp tục thực hiện kế hoạch và chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn được dự định vào cuối tháng 10. Họ quyết định mạo hiểm một lần, không theo quy luật chỉ sử dụng các tàu chiến nhanh để đưa người và vật tư đến đảo. Ngày 13 tháng 10, một đoàn tàu vận tải bao gồm sáu tàu vận tải và tám tàu khu trục hộ tống khởi hành từ quần đảo Shortland hướng đến Guadalcanal. Đoàn tàu vận tải này chuyên chở 4.500 binh sĩ thuộc các trung đoàn 16 và 230 bộ binh, một số lính thủy, hai đại đội pháo binh hạng nặng và một đại đội xe tăng.[84]

Để bảo vệ đoàn tàu vận tải không bị máy bay của Không lực Cactus tấn công, Yamamoto gửi hai thiết giáp hạm từ Truk đến dội pháo xuống sân bay Henderson. Lúc 01 giờ 33 phút ngày 14 tháng 10, các thiết giáp hạm Kongō và Haruna, được hộ tống bởi một tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục, đi đến Guadalcanal và khai hỏa vào sân bay Henderson từ khoảng cách 16 km (17.500 yard). Trong 1 giờ và 23 phút, hai chiếc thiết giáp hạm đã bắn 973 quả đạn pháo 356 mm (14 inch) vào khu vực Lunga, hầu hết rơi trúng bên trong phạm vi 2.200 m của sân bay. Nhiểu quả đạn trong số chúng là những quả đạn miểng đặc biệt, được thiết kế để phá hủy những mục tiêu trên đất liền. Đợt bắn phá đã gây hư hỏng nặng nề cả hai đường băng hạ cánh, đốt cháy gần hết nhiên liệu máy bay, phá hủy 48 máy bay trong tổng số 90 chiếc của Không lực Cactus, và làm thiệt mạng 41 trong đó có sáu phi công. Lực lượng thiết giáp hạm sau đó rút lui ngay về Truk.[85]

Cho dù bị thiệt hại nặng nề, người của sân bay Henderson đã có thể phục hồi một trong hai đường băng hạ cánh sau vài giờ. Một đợt tăng viện 17 máy bay SBD và 20 máy bay Wildcat từ Espiritu Santo nhanh chóng bay đến Henderson, và máy bay vận tải của Lục quân và Thủy quân Lục chiến bắt đầu đưa nhiên liệu từ Espiritu Santo đến Guadalcanal. Giờ đây ý thức được về một đoàn tàu vận tải lớn của Nhật đang tiến đến gần, phía Mỹ xoay sở tìm mọi cách ngăn chặn chúng trước khi chúng đến được Guadalcanal. Sử dụng nhiên liệu rút ra từ những chiếc máy bay bị phá hủy và từ một kho dự trữ trong rừng lân cận, máy bay của Không lực Cactus trong ngày 14 tháng 10 đã hai lần tấn công đoàn tàu vận tải, nhưng không gây được thiệt hại gì.[86]

Đoàn tàu vận tải Nhật đến Tassafaronga thuộc Guadalcanal lúc nữa đêm ngày 14 tháng 10 và bắt đầu bốc dỡ. Trong suốt ngày 15 tháng 10, một chuỗi máy bay từ Henderson đã đến ném bom và bắn phá các tàu vận tải đang bốc dỡ, diệt được ba tàu vận tải. Phần còn lại của đoàn tàu khởi hành đêm hôm đó sau khi bốc dỡ tất cả binh lực và khoảng hai phần ba thiết bị và hàng tiếp liệu. Nhiều tàu tuần dương hạng nặng của Nhật cũng bắn phá sân bay Henderson trong đêm 14 rạng ngày 15 tháng 10, phá hủy thêm một số máy bay của Không lực Cactus, nhưng không gây thêm hư hỏng nào đáng kể cho sân bay.[87]

Trận chiến sân bay Henderson

Từ ngày 1 đến ngày 17 tháng 10, Nhật đưa được 15.000 quân đến Guadalcanal, cho phép Hyakutake có tổng cộng 20.000 người để thực hiện việc công kích. Vì đã bị mất các cứ điểm bên bờ Đông sông Matanikau, quân Nhật cho rằng việc tấn công vành đai phòng thủ của Mỹ dọc theo bờ biển sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, Hyakutake quyết định mũi tấn công chính trong kế hoạch của ông sẽ từ phía Nam sân bay Henderson. Sư đoàn 2 Bộ binh (được tăng cường các đơn vị của Sư đoàn 38), do Trung tướng Masao Maruyama chỉ huy, bao gồm 7.000 người thuộc ba trung đoàn bộ binh, mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn, sẽ hành quân qua rừng rậm và tấn công cứ điểm phòng thủ của Mỹ từ phía Nam gần bờ Đông sông Lunga.[88] Ngày tấn công ban đầu được ấn định là 22 tháng 10, sau đó đổi thành 23 tháng 10. Để thu hút sự chú ý của phía Mỹ khỏi mũi tấn công chủ yếu từ phía Nam, lực lượng pháo binh hạng nặng cùng năm tiểu đoàn bộ binh (khoảng 2.900 người) do Thiếu tướng Tadashi Sumiyoshi chỉ huy sẽ tấn công chu vi phòng thủ của quân Mỹ từ phía tây dọc theo hành lang bờ biển. Nhật Bản ước lượng có 10.000 quân Mỹ trên đảo, trong khi con số thực là khoảng 23.000 người.[89]

Vào ngày 12 tháng 10, một đại đội công binh Nhật Bản bắt đầu mở một con đường mòn, được gọi là "Đường mòn Maruyama", bắt đầu từ Matanikau hướng đến phần phía Nam của ngoại vi Lunga. Con đường dài 24 km (15 dặm) này trải qua một trong những địa hình phức tạp nhất trên đảo Guadalcanal: nhiều sông suối, khe sâu, đầm lầy đầy bùn, các ngọn đồi dốc đứng và rừng rậm. Từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 10, Sư đoàn 2 bắt đầu hành quân dọc theo con đường mòn Maruyama.[90]

Đến ngày 23 tháng 10, lực lượng của Maruyama vẫn còn đang len lỏi qua rừng rậm để tiến ra vành đai phòng ngự của quân Mỹ. Chiều tối hôm đó, sau khi biết được rằng lực lượng của mình chưa đến được vị trí xuất phát, Hyakutake ra lệnh hoãn cuộc tấn công đến 19 giờ 00 ngày 24 tháng 10. Cho đến lúc này phía Mỹ hoàn toàn không hay biết gì về lực lượng của Maruyama đang đến gần.[91] Sumiyoshi nhận được tin tức từ bộ tham mưu của Hyakutake về việc thay đổi thời hạn tấn công sang ngày 24 tháng 10, nhưng không thể liên lạc được với đơn vị dưới quyền để thông báo sự trì hoãn. Do đó, đêm 23 tháng 10, hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 4 Bộ binh cùng chín xe tăng của Đại đội 1 Xe tăng Độc lập tung ra cuộc tấn công vào các vị trí phòng ngự của Thủy quân Lục chiến Mỹ tại cửa sông Matanikau. Với sự hỗ trợ của hỏa lực pháo và súng cối, lực lượng Mỹ đã đẩy lui cuộc tấn công, tiêu diệt tất cả các xe tăng và diệt nhiều lính Nhật trong khi chỉ bị thiệt hại nhẹ.[92]

Rốt cuộc, vào cuối ngày 24 tháng 10, lực lượng của Maruyama cũng đến được khu vực ngoại vi Lunga. Trong hai đêm tiếp theo sau đó, họ thực hiện nhiều cuộc tấn công trực diện không thành công vào các vị trí được phòng thủ bởi các đơn vị của Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 7 Thủy quân Lục chiến do Trung tá Chesty Puller chỉ huy và Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 164 Bộ binh của Trung tá Robert Hall. Hỏa lực của vũ khí cầm tay, súng máy, cối, pháo binh cùng hỏa lực bắn trực tiếp của các khẩu đội pháo chống tăng 37 mm đã gây thiệt hại nặng cho quân Nhật.[93] Một số nhóm nhỏ quân Nhật vượt qua được tuyến phòng thủ của quân Mỹ, nhưng tất cả đều bị săn đuổi và tiêu diệt nhiều ngày sau đó. Có hơn 1.500 người trong lực lượng của Maruyama bị giết trong các cuộc tấn công trong khi phía Mỹ thiệt hại khoảng 60 người. Cũng trong hai ngày đó, máy bay Mỹ từ sân bay Henderson lại phải chống đỡ các cuộc tấn công của máy bay và tàu bè Nhật, phá hủy được 14 máy bay đối phương và đánh chìm một tàu tuần dương hạng nhẹ.[94]

Các cuộc tấn công khác của quân Nhật gần Matanikau trong ngày 26 tháng 10 cũng bị đẩy lui với tổn thất nặng nề cho phía Nhật Bản. Kết quả là, đến 08 giờ 00 ngày 26 tháng 10, Hyakutake quyết định chấm dứt mọi cuộc tấn công và ra lệnh cho lực lượng của ông rút lui. Khoảng phân nữa những người sống sót trong lực lượng của Maruyama được lệnh rút lui về phía trên thung lũng Matanikau trong khi Trung đoàn 230 Bộ binh dưới quyền chỉ huy của Đại tá Toshinari Shōji được cho rút về Koli Point, phía Đông ngoại vi Lunga. Các đơn vị dẫn đầu của Sư đoàn 2 đến được khu vực trú đóng của Bộ chỉ huy Tập đoàn quân 17 tại Kokumbona, phía Tây Matanikau vào ngày 4 tháng 11. Cùng ngày hôm đó, đơn vị của Shoji đến được Koli Point và đóng trại tại đây. Bị tiêu hao do chết và thương vong trong chiến đấu, thiếu ăn và bệnh tật vùng nhiệt đới, Sư đoàn 2 không còn khả năng tác chiến trong các hoạt động tấn công sắp tới và chỉ được dùng để phòng ngự dọc bờ biển trong suốt thời gian còn lại của chiến dịch. Tổng cộng phía Nhật bị mất khoảng 2.200 - 3.000 binh sĩ trong trận này trong khi tổn thất của phía Mỹ là khoảng 80 người bị giết.[95]

Trận chiến quần đảo Santa Cruz

Bài chi tiết: Trận chiến quần đảo Santa Cruz

Trong khi các đơn vị của Hyakutake đang tấn công ngoại phạm vi Lunga, các tàu sân bay Nhật cùng các tàu chiến lớn khác dưới sự chỉ đạo chung của Đô đốc Isoroku Yamamoto đã tiến đến một vị trí gần phía Nam quần đảo Solomon. Từ nơi này, lực lượng Hải quân Nhật hy vọng tiếp chiến và đánh bại mọi lực lượng hải quân Đồng Minh (chủ yếu là Mỹ), đặc biệt là lực lượng tàu sân bay, có ý định phản công lại cuộc tấn công trên bộ của Hyakutake. Lực lượng hải quân Đồng Minh trong khu vực, giờ đây dưới quyền chỉ huy của Đô đốc William Halsey, Jr., người đã thay thế Ghormley vào ngày 18 tháng 10, cũng hy vọng sẽ giáp chiến cùng Hải quân Nhật trong trận này. Nimitz đã thay thế Ghormley bằng Halsey sau khi kết luận rằng Ghormley quá bi quan và thiển cận để có thể tiếp tục lãnh đạo hiệu quả các lực lượng Đồng Minh tại khu vực Nam Thái Bình Dương.[96]

Hai lực lượng tàu sân bay đối đầu nhau vào buổi sáng ngày 26 tháng 10, sau này được biết đến như là Trận chiến quần đảo Santa Cruz. Sau khi tung vào nhau các đợt không kích bằng máy bay trên tàu sân bay, các tàu nổi Đồng Minh buộc phải rút lui khỏi chiến trường sau khi tàu sân bay Hornet bị đánh chìm và chiếc Enterprise duy nhất còn lại bị hỏng nặng. Tuy nhiên, lực lượng tàu sân bay Nhật cũng phải rút lui do chịu tổn thất nặng về máy bay và đội bay, cũng như hư hại đáng kể cho hai tàu sân bay. Cho dù đây là một thắng lợi chiến thuật rõ ràng cho phía Nhật Bản xét về số lượng tàu chiến bị đánh chìm và hư hại, hầu hết những tổn thất của các đội bay dày dạn chinh chiến của Nhật là không thể bù đắp được, trở thành một lợi thế chiến lược lâu dài cho phía Đồng Minh, khi tổn thất về phi công của họ trong trận này tương đối thấp. Các tàu sân bay Nhật sau đó không còn đóng vai trò nào đáng kể trong chiến dịch này.[97]

Các hoạt động trên bộ trong tháng 11

Xem thêm thông tin tại: Tấn công Matanikau, Hoạt động tại Koli Point và Tuần tra của Carlson

Để tiếp tục khai thác thắng lợi sau trận chiến sân bay Henderson, Vandegrift tung sáu tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến, sau đó còn có thêm một tiểu đoàn Lục quân, vào một cuộc tấn công ra phía Tây Matanikau. Cuộc hành quân do Merritt Edson chỉ huy, và mục đích của nó là chiếm Kokumbona, nơi đặt Bộ chỉ huy của Tập đoàn quân 17, về phía Tây Point Cruz. Phòng thủ tại khu vực Point Cruz là các đơn vị của Trung đoàn 4 Bộ binh Nhật do Nomasu Nakaguma chỉ huy. Trung đoàn 4 bị thiếu hụt binh lực nặng nề do tổn thất trong chiến đấu, bệnh tật vùng nhiệt đới và đói ăn.[98]

Cuộc tấn công của quân Mỹ được bắt đầu vào ngày 1 tháng 11, và sau một số khó khăn, đã tiêu diệt được lực lượng Nhật phòng thủ khu vực Point Cruz vào ngày 3 tháng 11, kể cả các đơn vị dự bị được gửi đến tăng cường cho trung đoàn bị tiêu hao của Nakaguma. Với đà tiến quân này, lực lượng Mỹ hầu như sẽ phá được tuyến phòng thủ của quân Nhật và chiếm Kokumbona. Tuy nhiên, vào lúc này, các đơn vị Mỹ khác đã phát hiện và giao chiến cùng các đơn vị Nhật vừa mới đổ bộ lên Koli Point về phía Đông ngoại vi Lunga. Để đối phó lại mối đe dọa mới này, Vandegrift tạm thời cho ngừng cuộc tấn công tại Matanikau vào ngày 4 tháng 11. Phía Mỹ thiệt hại 71 người và phía Nhật có khoảng 400 người bị giết trong trận tấn công này.[99]

Tại Koli Point vào lúc sáng sớm ngày 3 tháng 11, năm tàu khu trục Nhật đã cho đổ bộ khoảng 300 người nhằm hỗ trợ cho Shōji và lực lượng của ông trên đường rút ra Koli Point sau Trận chiến sân bay Henderson. Nhận được tin tức về cuộc đổ bộ, Vandegrift tung một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến do Herman H. Hanneken chỉ huy ra đánh chặn quân Nhật tại Koli Point. Ngay sau khi đổ bộ, quân Nhật tiếp chiến và đẩy lui tiểu đoàn của Hanneken về hướng ngoại vi Lunga. Để phản công, Vandegrift ra lệnh cho tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến của Puller và hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 164 Lục quân, cùng với tiểu đoàn của Hanneken tiến về hướng Koli Point để tấn công lực lượng Nhật tại đây.[100]

Khi lực lượng Mỹ bắt đầu di chuyển, Shōji và binh lính của ông cũng bắt đầu đến Koli Point. Bắt đầu từ ngày 8 tháng 11, lực lượng Mỹ dự định bao vây lực lượng của Shōji tại đồi Gavaga gần Koli Point. Trong khi đó, Hyakutake ra lệnh cho Shōji bỏ các vị trí của mình tại Koli để hội quân tại Kokumbona trong khu vực Matanikau. Một địa hình đồi thấp và đầm lầy ngăn cách sườn phía Nam của phòng tuyến phía Mỹ. Từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 11, Shōji cùng khoảng 2.000 đến 3.000 binh sĩ của mình đã thoát được vào rừng về phía Nam. Vào ngày 12 tháng 11, lực lượng Mỹ hoàn toàn áp đảo và tiêu diệt hết số binh sĩ Nhật còn lại trong vòng vây. Người ta đếm được có khoảng 450 đến 475 xác binh lính Nhật tại khu vực Koli Point, và chiếm được hầu hết vũ khí nặng và tiếp liệu của Shōji. Lực lượng Mỹ bị tổn thất 40 người chết và 120 người bị thương trong trận đánh này.[101]

Trong khi đó, vào ngày 4 tháng 11, hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Raider dưới quyền chỉ huy của Trung tá Evans Carlson đã đổ bộ bằng xuồng lên vịnh Aola Bay, cách Lunga Point 64 km (40 dặm) về phía Đông. Đơn vị của Carlson cùng với các đơn vị của Trung đoàn 147 Bộ binh có nhiệm vụ bảo vệ cho lực lượng 500 lính công binh xây dựng một sân bay tại địa điểm này. Halsey, theo đề nghị của Turner, đã chấp thuận cho xây dựng một sân bay tại vịnh Aola. Tuy nhiên, công việc xây dựng này sau đó bị hủy bỏ vào cuối tháng 11 do địa hình không phù hợp.[102]

Vào ngày 5 tháng 11, Vandegrift chỉ thị cho Carlson đưa lực lượng Raider của mình tiến quân trên bộ từ Aola, và tấn công mọi lực lượng của Shōji đã thoát ra khỏi Koli Point. Với các đại đội còn lại của tiểu đoàn của ông đã đổ bộ vài ngày sau đó, Carlson cùng lực lượng của mình bắt đầu đợt hành quân kéo dài 29 ngày từ Aola đến ngoại vi Lunga. Trong hoạt động này, đơn vị Raider đã đánh nhiều trận cùng các đơn vị của Shōji đang rút lui, tiêu diệt khoảng 500 người, và bị thiệt hại 16 người. Ngoài tổn thất bởi những cuộc tấn công của đơn vị Carlson, bệnh tật miền nhiệt đới và thiếu hụt lương thực cũng làm ngã gục thêm một số người của Shōji. Khi lực lượng của Shōji đến được sông Lunga vào giữa tháng 11, khoảng nữa đường đến Matanikau, chỉ còn 1.300 người còn lại trong lực lượng; và khi Shōji đến được vị trí của Tập đoàn quân 17 về phía Tây Matanikau, chỉ còn 700 đến 800 người sống sót với ông. Đa số những người còn sống sót trong lực lượng của Shōji gia nhập các đơn vị Nhật khác để phòng thủ núi Austen và khu vực thượng nguồn sông Matanikau.[103]

Các chuyến tàu "Tốc hành Tokyo" vào các ngày 5, 7 và 9 tháng 11 đã đưa thêm binh lính thuộc Sư đoàn 38 Bộ binh, bao gồm hầu hết Trung đoàn 228, đến Guadalcanal. Các đơn vị mới và sung sức này nhanh chóng được bố trí tại khu vực Point Cruz và Matanikau, và đã giúp kháng cự thành công các đợt tấn công tiếp theo sau của lực lượng Mỹ trong các ngày 10 và 18 tháng 11. Lực lượng Mỹ và Nhật tiếp tục đối diện nhau dọc theo một chiến tuyến ở về phía Tây Point Cruz trong sáu tuần lễ tiếp theo sau.[104]

Hải chiến Guadalcanal

Sau thất bại trong Trận chiến sân bay Henderson, một lần nữa Lục quân Nhật vạch kế hoạch nhằm tái chiếm sân bay vào tháng 11 năm 1942, nhưng cần có thêm lực lượng tăng viện trước khi có thể tiến hành tấn công. Lục quân đã nhờ đến sự giúp đỡ của Yamamoto để chuyển giao lực lượng tăng viện cần thiết đến hòn đảo và hỗ trợ cho cuộc tấn công tiếp theo. Yamamoto đã cung cấp 11 tàu vận chuyển lớn để có thể chuyên chở lực lượng 7.000 người còn lại của Sư đoàn 38 Bộ binh, đạn dược, lương thực và trang thiết bị nặng từ Rabaul đến Guadalcanal. Ông cũng cung cấp một lực lượng tàu chiến hỗ trợ, bao gồm hai thiết giáp hạm Hiei và Kirishima, được trang bị loại đạn pháo miểng đặc biệt, sẽ bắn phá sân bay Henderson vào đêm 12-13 tháng 11 nhằm phá hủy nó cũng như các chiếc máy bay tại đây; điều đó sẽ cho phép các tàu vận tải nặng nề chậm chạp có thể đến được Guadalcanal và bốc dỡ an toàn ngày hôm sau.[105] Lực lượng tàu chiến được chỉ huy từ chiếc Hiei bởi vị Phó Đô đốc vừa được thăng cấp Hiroaki Abe.[106]

Vào đầu tháng 11, lực lượng tình báo Đồng Minh cũng biết được quân Nhật lại chuẩn bị để tái chiếm sân bay Henderson.[107] Vì vậy, họ gửi Lực lượng Đặc nhiệm 67, một đoàn tàu vận tải lớn chở lực lượng tăng cường và hàng tiếp liệu đến Guadalcanal. Đoàn tàu chuyên chở binh lực thay thế cho Thủy quân Lục chiến, hai tiểu đoàn bộ binh, đạn dược và lương thực, dưới quyền chỉ huy của Turner, cập bến vào ngày 11 tháng 11. Đoàn tàu này được bảo vệ bởi hai đội đặc nhiệm do các Chuẩn Đô đốc Daniel J. Callaghan và Norman Scott chỉ huy, và bởi máy bay từ sân bay Henderson.[108] Đoàn tàu bị tấn công nhiều lần trong các ngày 11 và 12 tháng 11 bởi máy bay Nhật cất cánh từ Rabaul có ghé qua một sân bay tại Buin, Bougainville; nhưng đa số được bốc dỡ mà không bị thiệt hại nghiêm trọng.[109]

Máy bay trinh sát Mỹ đã nhìn thấy lực lượng tàu chiến bắn phá của Abe đang đến gần, và đã chuyển thông tin đến bộ chỉ huy Đồng Minh.[110] Được cảnh báo kịp thời, Turner cho tách ra mọi tàu chiến còn sử dụng được dưới quyền chỉ huy của Callaghan để bảo vệ lực lượng trên bờ khỏi cuộc tấn công của Hải quân Nhật được dự đoán, đồng thời ra lệnh cho những con tàu tiếp liệu sẽ khởi hành rời Guadalcanal vào tối ngày 12 tháng 11.[111] Lực lượng của Callaghan bao gồm hai tàu tuần dương hạng nặng, ba tàu tuần dương hạng nhẹ và tám tàu khu trục.[112]

Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 13 tháng 11, lực lượng của Callaghan đã đánh chặn những tàu chiến của Abe ở khoảng giữa Guadalcanal và đảo Savo. Ngoài hai thiết giáp hạm, lực lượng của Abe còn bao gồm một tàu tuần dương hạng nhẹ và 11 tàu khu trục. Trong bóng đêm tối đen như mực,[113] hai lực lượng tàu chiến đan xen kẻ vào nhau trước khi nổ súng ở khoảng cách cực gần bất thường. Sau trận đánh, tàu chiến của Abe đã đánh chìm hay làm hư hại nặng toàn bộ lực lượng của Callaghan ngoại trừ một tàu tuần dương hạng nhẹ và một tàu khu trục, và cả Callaghan lẫn Scott đều tử trận. Về phía Nhật, hai tàu khu trục bị đánh chìm cùng một tàu khu trục và thiết giáp hạm Hiei bị hư hại nặng. Cho dù đã đánh bại được lực lượng của Callaghan, Abe ra lệnh cho các tàu chiến của ông rút lui mà không bắn phá sân bay Henderson như dự định. Hiei bị chìm trong ngày hôm đó sau khi bị máy bay của Không lực Cactus và của tàu sân bay Enterprise tấn công. Do thất bại của Abe không vô hiệu hóa được sân bay Henderson, Yamamoto ra lệnh cho đoàn tàu vận tải dưới sự chỉ huy của Raizo Tanaka đi đến quần đảo Shortland, và chờ đợi thêm một ngày đêm trước khi thẳng tiến đến Guadalcanal. Yamamoto ra lệnh cho Nobutake Kondo tổ chức một lực lượng bắn phá khác, sử dụng các tàu chiến tại Truk và lực lượng của Abe để tiến hành bắn phá sân bay Henderson vào ngày 15 tháng 11.[114]

Cùng lúc đó, vào khoảng 02 giờ 00 ngày 14 tháng 11, một lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Gunichi Mikawa xuất phát từ Rabaul đã tiến hành một đợt bắn phá xuống sân bay Henderson mà không hề bị kháng cự. Tuy nhiên, đợt bắn phá này chỉ gây ra một số thiệt hại mà không thể vô hiệu hóa sân bay hay hầu hết máy bay. Khi lực lượng của Mikawa rút lui về hướng Rabaul, đoàn tàu vận tải của Tanaka, tin rằng sân bay Henderson giờ đã bị phá hủy hay hư hỏng nặng, bắt đầu tiến vào "cái khe" để hướng đến Guadalcanal. Trong suốt ngày 14 tháng 11, máy bay từ sân bay Henderson và của Enterprise đã tấn công các con tàu của Mikawa và Tanaka, đánh chìm một tàu tuần dương hặng nặng và bảy tàu vận tải. Các phi vụ từ Henderson đã có thể cất cánh được hầu hết là nhờ sự cung cấp 488 thùng 208 lít (55 gallon) xăng 100-octane dành cho máy bay được cất dấu tại một khu vực riêng biệt dưới cánh rừng bởi thủy thủ August Martello. Đa số binh lính được cứu vớt khỏi các tàu vận tải bị đánh chìm bởi các tàu khu trục theo hộ tống của Tanaka và quay lại Shortlands. Khi trời tối, Tanaka và bốn tàu vận tải còn lại tiếp tục hành trình đến Guadalcanal trong khi lực lượng của Kondo tiến đến gần để thực hiện bắn phá sân bay Henderson.[115]

Để chặn đánh lực lượng của Kondo, Halsey, lúc này đang thiếu hụt tàu chiến, đã cho tách ra hai thiết giáp hạm Washington và South Dakota cùng bốn tàu khu trục từ lực lượng đặc nhiệm của Enterprise. Lực lượng Mỹ, dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Willis A. Lee trên chiếc Washington, đi đến Guadalcanal và đảo Savo ngay trước lúc nữa đêm ngày 14 tháng 11, không lâu trước khi lực lượng bắn phá của Kondo xuất hiện. Lực lượng của Kondo bao gồm Kirishima và hai tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục. Khi hai lực lượng đối đầu nhau, tàu chiến của Kondo nhanh chóng đánh chìm ba trong số các tàu khu trục Mỹ và làm hư hại nặng chiếc thứ tư cuối cùng còn lại. Sau đó, lực lượng Nhật trông thấy South Dakota, nổ súng và gây hư hại nó. Nhưng khi các tàu chiến của Kondo tập trung hỏa lực vào chiếc South Dakota, Washington tiếp cận các tàu chiến Nhật mà không bị phát hiện và nổ súng vào Kirishima, liên tục bắn trúng đích chiếc thiết giáp hạm Nhật khiến nó bị phá hủy hoàn toàn. Sau khi theo đuổi một cách vô vọng Washington về hướng quần đảo Russell, Kondo ra lệnh cho những tàu chiến của ông rút lui, và một lần nữa đã không thể thực hiện việc bắn phá sân bay Henderson như dự định. Một trong những tàu khu trục của Kondo cũng bị đánh chìm trong trận đụng độ này.[116]

Khi các tàu chiến của Kondo rút lui, bốn tàu vận tải Nhật cặp bờ gần Tassafaronga trên đảo Guadalcanal lúc 04 giờ 00 và bắt đầu nhanh chóng dỡ hàng. Đến 05 giờ 55 phút, máy bay Mỹ và pháo binh bắt đầu tấn công bãi đổ bộ, phá hủy tất cả bốn con tàu cùng hầu hết số tiếp liệu mà chúng chở theo. Chỉ có khoảng 2.000-3.000 binh lính đổ bộ được lên bờ. Do thất bại không chuyển được phần lớn binh lực và tiếp liệu cần thiết, quân Nhật buộc phải hủy bỏ kế hoạch tấn công sân bay Henderson trong tháng 11 như đã dự tính.[117]

Ngày 26 tháng 11, Trung tướng Hitoshi Imamura tiếp nhận quyền chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Khu vực 8 đặt tại Rabaul, bao gồm Tập đoàn quân 17 của Hyakutake và Tập đoàn quân 18 tại New Guinea. Một trong những ưu tiên hàng đầu của Imamura khi tiếp nhận chỉ huy là tiếp tục các nỗ lực nhằm tái chiếm sân bay Henderson và Guadalcanal. Tuy nhiên, cuộc tấn công của Đồng Minh tại Buna thuộc New Guinea, đã làm thay đổi các dự định của Imamura. Vì các hoạt động của phe Đồng Minh nhằm chiếm Buna được coi là mối đe dọa nghiêm trọng cho Rabaul, Imamura phải hoãn lại các nỗ lực tăng viện trợ lớn cho Guadalcanal để tập trung sự chú ý vào tình hình tại New Guinea.

Trận Tassafaronga

Quân Nhật tiếp tục đối mặt với vấn đề cung cấp đủ tiếp liệu nhằm duy trì đạo quân của họ tại Guadalcanal. Những cố gắng chỉ sử dụng toàn tàu ngầm trong hai tuần lễ cuối tháng 11 bị thất bại do không cung cấp đủ lương thực cho lực lượng Hyakutake. Một nỗ lực riêng biệt khác nhằm xây dựng các căn cứ tại khu vực Solomon để giúp sử dụng thuận tiện các sà lan tiếp liệu đến Guadalcanal cũng bị thất bại do bị các đợt không kích Đồng Minh tiêu diệt. Vào ngày 26 tháng 11, Tập đoàn quân 17 lưu ý Imamura rằng họ đang đối mặt với khủng hoảng lương thực, khi một số đơn vị tiền phương không được tiếp lương thực trong sáu ngày, và ngay cả các đơn vị phía sau chỉ nhận được một phần ba khẩu phần thông thường. Tình huống này buộc phía Nhật phải tiếp tục sử dụng các tàu khu trục trong việc cung cấp tiếp liệu cần thiết.[119]

Bộ tham mưu Hạm đội 8 vạch ra kế hoạch nhằm giảm thiểu nguy cơ phơi ra của các tàu khu trục vận chuyển tiếp liệu đến Guadalcanal. Các thùng dầu hoặc gas lớn được rửa sạch rồi chất đầy lương thực hay thuốc men, với đủ không khí bên trong giúp nó nổi, rồi kết lại với nhau bằng dây thừng. Khi các tàu khu trục đi đến Guadalcanal, chúng sẽ đổi hướng nhanh trong khi dây thùng được cắt rời, và một người bơi ra biển hay xuồng có thể vớt đầu phao nổi của dây và kéo chúng vào bờ, nơi các binh sĩ có thể nhận được đồ tiếp liệu.[120]

Đơn vị Tăng cường Guadalcanal (Tốc hành Tokyo) của Hạm đội 8, hiện đang dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka, được Mikawa giao nhiệm vụ thực hiện chuyến đầu tiên trong kế hoạch năm chuyến vận chuyển đến Tassafaronga thuộc Guadalcanal sử dụng phương pháp thùng rỗng như trên vào đêm 30 tháng 11. Nòng cốt lực lượng của Tanaka bao gồm tám tàu khu trục, trong đó sáu chiếc sẽ mang từ 200 đến 240 thùng tiếp liệu mỗi chiếc.[121] Được lực lượng tình báo cho biết về kế hoạch tiếp tế của quân Nhật, Halsey ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm 67 vừa mới được thành lập, bao gồm bốn tàu tuần dương và bốn tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Carleton H. Wright, đánh chặn lực lượng của Tanaka ngoài khơi Guadalcanal. Có thêm hai tàu khu trục gia nhập lực lượng của Wright trên đường đi từ Espiritu Santo đến Guadalcanal trong ngày 30 tháng 11.[122]

Lúc 22 giờ 40 phút đêm 30 tháng 11, lực lượng của Tanaka đi đến vùng biển ngoài khơi Guadalcanal và chuẩn bị thả các thùng tiếp liệu. Trong khi đó, tàu chiến của Wright cũng tiến đến khu vực qua eo biển Ironbottom từ hướng ngược lại. Các tàu khu trục của Wright nhìn thấy lực lượng của Tanaka trên màn hình radar và viên chỉ huy lực lượng khu trục xin phép được tấn công bằng ngư lôi. Wright chần chừ mất bốn phút trước khi quyết định cho phép, khiến lực lượng của Tanaka thoát ra khỏi tầm bắn ngư lôi tối ưu. Tất cả các quả ngư lôi Mỹ bắn ra sau đó đều trượt mục tiêu. Cùng lúc đó, các tàu tuần dương của Wright nổ súng, nhanh chóng bắn trúng và đánh chìm một tàu khu trục Nhật làm nhiệm vụ hộ tống. Các tàu chiến còn lại của Tanaka bỏ dỡ nhiệm vụ tiếp liệu, tăng tốc, quay đầu và phóng tổng cộng 44 ngư lôi về phía các tàu tuần dương của Wright.[123]

Các quả ngư lôi Nhật đã đánh trúng và làm chìm chiếc tàu tuần dương Mỹ Northampton cũng như làm hư hại nặng các tàu tuần dương Minneapolis, New Orleans và Pensacola. Lực lượng tàu khu trục còn lại của Tanaka chạy thoát mà không chịu thêm thiệt hại nào khác, nhưng thất bại không thể cung cấp bất kỳ hàng tiếp liệu cho lực lượng trên bờ tại Guadalcanal.[124]

Cho đến ngày 7 tháng 12 năm 1942, lực lượng của Hyakutake bị tiêu hao khoảng 50 người mỗi ngày do thiếu ăn, bệnh tật và các cuộc tấn công mặt đất và trên không của Đồng Minh.[125] Những nỗ lực khác do lực lượng của Tanaka thực hiện nhằm tiếp tế trong các ngày 3, 7 và 11 tháng 12 cũng không thể làm nhẹ bớt sự khủng hoảng lương thực, trong khi một trong những chiếc tàu khu trục của Tanaka lại bị ngư lôi từ tàu tuần tra-phóng lôi (PT boat) đánh chìm.[126]

Nhật Bản quyết định rút lui

Bài chi tiết: Chiến dịch Ke

Ngày 12 tháng 12, Hải quân Nhật đề nghị rút khỏi Guadalcanal. Cùng lúc đó, nhiều sĩ quan tham mưu lục quân trong Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc cũng có quan điểm cho rằng mọi nỗ lực trong tương lai nhằm tái chiếm Guadalcanal đều không thể thực hiện. Một phái đoàn do Đại tá Joichiro Sanada, trưởng phòng hành quân Bộ Tổng tư lệnh dẫn đầu, đã đến thăm Rabaul vào ngày 19 tháng 12 và tham khảo Imamura cùng ban tham mưu của ông. Sau khi phái đoàn quay trở về Tokyo, Sanada đề nghị bỏ Guadalcanal. Đề nghị này nhận được sự đồng ý của các tướng lĩnh cao cấp trong Bộ Tổng tư lệnh vào ngày 26 tháng 12, và có chỉ thị cho bộ tham mưu lập kế hoạch rút lui khỏi Guadalcanal, đồng thời thiết lập một tuyến phòng thủ mới ngang qua khu vực Trung Solomon, cũng như chuyển sự ưu tiên và nguồn lực vào chiến dịch tại New Guinea.[127]

Ngày 28 tháng 12, Tướng Hajime Sugiyama và Đô đốc Osami Nagano đích thân trình bày cho Nhật hoàng Hirohito về quyết định rút lui khỏi Guadalcanal. Ngày 31 tháng 12, Nhật Hoàng chính thức phê chuẩn quyết định này. Quân Nhật bắt đầu bí mật chuẩn bị cho việc triệt thoái, dưới tên gọi Chiến dịch Ke, dự định sẽ thực hiện vào cuối tháng 1 năm 1943.[128]

Trận chiến núi Austen, đồi Galloping Horse và đồi Sea Horse

Đến tháng 12, Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến đã mệt mỏi được rút ra để nghỉ ngơi hồi phục, và trong tháng tiếp theo, Quân đoàn 14 bắt đầu đảm trách các hoạt động tác chiến trên đảo. Quân đoàn này bao gồm Sư đoàn 2 Thủy quân Lục chiến, Sư đoàn 25 Bộ binh và Sư đoàn Americal. Thiếu tướng Lục quân Alexander Patch đến thay thế Vandegrift trong nhiệm vụ chỉ huy các lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal, vốn giờ đây lên đến trên 50.000 người vào tháng 1 năm 1943.[129]

Ngày 18 tháng 12, lực lượng Đồng Minh bắt đầu tấn công các vị trí của quân Nhật trên núi Austen. Một vị trí cố thủ mạnh của quân Nhật, Gifu, đã ngăn trở cuộc tấn công và quân Mỹ buộc phải tạm ngưng tiến quân vào ngày 4 tháng 1.[130] Quân Đồng Minh tấn công trở lại vào ngày 10 tháng 1, đánh mạnh vào quân Nhật trên núi Austen cũng như tại hai dãy đồi lân cận Seahorse và Galloping Horse. Sau một số khó khăn, quân Đồng Minh chiếm được cả ba vị trí vào ngày 23 tháng 1. Cùng lúc đó, Thủy quân Lục chiến cũng tiến dọc theo bờ biển phía Bắc, đạt được tiến triển đáng kể. Lực lượng Mỹ thiệt hại khoảng 250 người tử trận trong khi quân Nhật bị mất khoảng 3.000 người.[131]

Cuộc triệt thoái Ke

Vào ngày 14 tháng 1, một chuyến tàu "Tốc hành Tokyo" đưa đến Guadalcanal một tiểu đoàn hoạt động như một đơn vị bọc hậu cho cuộc triệt thoái Ke. Một sĩ quan tham mưu từ Rabaul tháp tùng đơn vị này để phổ biến cho Hyakutake quyết định rút lui. Cùng lúc đó, máy bay và tàu chiến Nhật tiến vào các vị trí chung quanh khu vực Rabaul và Bougainville nhằm chuẩn bị tiến hành cuộc triệt thoái. Tình báo Đồng Minh phát hiện ra cuộc chuyển quân của Nhật, nhưng nhận định sai lầm rằng đó là để chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác nhằm chiếm sân bay Henderson và Guadalcanal.[132]

Patch, cảnh giác với cái mà ông cho là một cuộc tấn công của Nhật sắp xảy ra, chỉ điều một phần lực lượng tương đối yếu của ông tiếp tục cuộc tấn công chậm chạp vào lực lượng của Hyakutake. Ngày 29 tháng 1, dựa trên cùng nguồn tin tình báo, Halsey gửi một đoàn tàu vận tải hàng tiếp liệu đến Guadalcanal được hộ tống bởi một lực lượng đặc nhiệm tàu tuần dương. Trông thấy các tàu chiến Mỹ, máy bay ném ngư lôi Nhật đã tấn công lực lượng đặc nhiệm vào cùng buổi chiều tối hôm đó, gây hư hỏng nặng tàu tuần dương Mỹ Chicago. Sáng hôm sau, nhiều đợt tấn công bằng máy bay ném ngư lôi khác đã đánh chìm chiếc Chicago. Halsey ra lệnh cho phần còn lại của lực lượng đặc nhiệm quay về căn cứ và chỉ thị cho các tàu chiến còn lại dưới quyền tập trung tại biển Coral, phía Nam Guadalcanal, sẵn sàng tiến hành phản công vào lực lượng hải quân Nhật.[133]

Cùng lúc đó, Tập đoàn quân 17 Nhật rút lui ra bờ biển phía Tây Guadalcanal trong khi đơn vị bọc hậu ngăn chặn cuộc tấn công của quân Mỹ. Vào đêm 1 tháng 2, một lực lượng 20 tàu khu trục thuộc Hạm đội 8 của Mikawa dưới quyền chỉ huy của Shintaro Hashimoto di tản thành công 4.935 binh sĩ, chủ yếu thuộc Sư đoàn 38, khỏi Guadalcanal. Lực lượng Nhật và Mỹ thiệt hại mỗi bên một tàu khu trục do không kích và hải chiến trong đợt di tản này.[134]

Trong các đêm 4 và 7 tháng 2, Hashimoto và các tàu khu trục của ông hoàn tất việc di tản hầu hết những lực lượng còn lại khỏi Guadalcanal. Ngoại trừ một số cuộc không kích, lực lượng Đồng Minh, do đang chờ đợi một cuộc tấn công lớn từ phía Nhật, đã không can thiệp vào việc rút lui của Hashimoto. Cuối cùng, phía Nhật đã thành công trong việc triệt thoái 10.652 người khỏi Guadalcanal. Đến ngày 9 tháng 2, Patch nhận ra quân Nhật đã đi khỏi và công bố Guadalcanal an toàn cho lực lượng Đồng Minh, đánh dấu sự kết thúc của chiến dịch.[135]

Diễn biến tiếp theo và ảnh hưởng

Diễn biến tiếp theo

Sau khi quân Nhật rút lui, Guadalcanal và Tulagi được phát triển thành những căn cứ chính hỗ trợ cho cuộc tiến quân của Đồng Minh ngược lên chuỗi quần đảo Solomon. Ngoài sân bay Henderson, có thêm hai đường băng được xây dựng tại Lunga Point và một sân bay dành cho máy bay ném bom được xây dựng tại Koli Point. Cảng hải quân quy mô lớn và các cơ sở hậu cần được thiết lập tại Guadalcanal, Tulagi và Florida. Điểm neo đậu tàu chung quanh Tulagi trở thành một căn cứ tiền phương quan trọng cho tàu chiến và tàu vận tải Đồng Minh hỗ trợ cho Chiến dịch quần đảo Solomon. Các đơn vị trên bộ được tập trung tại các cơ sở doanh trại quy mô lớn tại Guadalcanal trước khi được bố trí đến các chiến trường tại Solomon.[136]

Sau Guadalcanal, Nhật Bản rõ ràng ở thế phòng ngự tại Thái Bình Dương. Áp lực liên tục phải củng cố lực lượng tại Guadalcanal đã làm suy yếu nỗ lực của Nhật tại các chiến trường khác, góp phần vào thành công của cuộc phản công mà Liên quân Mỹ-Australian thực hiện tại New Guinea mà kết quả là đã chiếm được các căn cứ quan trọng Buna và Gona vào đầu năm 1943. Phe Đồng Minh đã có được thế chủ động chiến lược mà họ không bao giờ từ bỏ. Đến tháng 6 năm 1943, Đồng Minh tung ra Chiến dịch Cartwheel, và sau khi được sửa đổi vào tháng 8, hình thành nên chiến lược cô lập Rabaul và cắt đứt mọi con đường tiếp tế bằng đường biển đến đó. Việc vô hiệu hóa thành công Rabaul; và sau đó là cuộc tiến quân tại khu vực Tây Nam Thái Bình Dương dưới sự chỉ huy của Tướng Douglas MacArthur cũng như chiến lược "nhảy cóc" qua các hòn đảo tại khu vực Trung Thái Bình Dương của Đô đốc Chester Nimitz, cả hai nỗ lực này đều thành công trong việc tiến quân hướng đến Nhật Bản. Các đơn vị Nhật còn lại đang phòng thủ tại khu vực Nam Thái Bình Dương đều bị tiêu diệt hoặc cô lập bởi các đơn vị Đồng Minh cho đến khi chiến cuộc đi đến hồi kết thúc.[137]

Ảnh hưởng

Nhiều người cho rằng Trận Midway là bước ngoặc trong chiến tranh tại Thái Bình Dương, vì đây là thắng lợi hải quân đầu tiên của Đồng Minh mang tính quyết định trước đối thủ Nhật Bản chưa hề nếm mùi chiến bại, và nó cũng ngăn chặn sự bành trướng cuả Đế quốc Nhật Bản về phía Đông đến Hawaii và bờ Tây Hoa Kỳ. Cho dù như thế, Nhật vẫn tiếp tục cuộc xâm lấn về phía Nam Thái Bình Dương. Thực ra, chính sách "Châu Âu trước tiên" của Hoa Kỳ thoạt tiên chỉ cho phép tiến hành các hoạt động phòng thủ chống lại sự bành trướng của Nhật, nhằm tập trung mọi nguồn lực vào việc đánh bại Đức tại Châu Âu. Tuy nhiên, sự tranh đấu của Đô đốc King cho chiến dịch chiếm đóng Guadalcanal, cũng như sự thực hiện thành công kế hoạch này, đã thuyết phục được Tổng thống Franklin D. Roosevelt rằng Mặt trận Thái Bình Dương có thể tiếp tục tấn công. Đến cuối năm 1942, rõ ràng là Nhật Bản đã thua trong chiến dịch Guadalcanal, một đòn nặng nề giáng vào kế hoạch chiến lược phòng thủ đế quốc của họ, và một chiến thắng không thể đảo ngược trong tầm tay của Đồng Minh.[138]

Guadalcanal là một trong những chiến dịch kéo dài đầu tiên tại Thái Bình Dương, cùng với chiến dịch quần đảo Solomon liên quan xảy ra đồng thời. Cả hai chiến dịch đều là những trận đánh có mức đòi hỏi căng thẳng về tiếp vận cho tất cả các bên tham chiến. Về phía Mỹ, đây là lần đầu tiên nhu cầu chiến dịch đòi hỏi phải tổ chức không vận một cách hiệu quả; trong khi về phía Nhật, việc thất bại không chiếm được ưu thế trên không buộc họ phải dựa trên sự tiếp liệu bằng sà lan, tàu khu trục và tàu ngầm với kết quả thất thường. Vào đầu chiến dịch, người Mỹ gặp trở ngại do thiếu những nguồn lực cần thiết, khi bị thiệt hại nặng về tàu tuần dương và tàu sân bay, và sự bổ sung thay thế bị chậm trễ nhiều tháng. Tổn thất về nhân sự của Hải quân Mỹ vào đầu chiến dịch cao đến mức họ từ chối công bố số liệu về tổng thiệt hại cho đến nhiều năm sau đó. Tuy nhiên, khi chiến dịch tiếp diễn, công luận Hoa Kỳ bắt đầu nhận thức ngày càng nhiều hơn về hoàn cảnh và sự anh dũng của các lực lượng Mỹ tại Guadalcanal, và có thêm nhiều lực lượng và phương tiện được đổ vào khu vực này. Điều này báo trước sự khủng hoảng cho phía Nhật Bản khi các tổ hợp công nghiệp quân sự của họ không thể bắt kịp công suất của nền công nghiệp và nhân lực Hoa Kỳ. Do đó khi chiến dịch tiếp diễn, Nhật Bản mất đi các đơn vị không thể thay thế trong khi phía Mỹ nhanh chóng thay thế và thậm chí tăng cường thêm lực lượng của họ.[139]

Chiến dịch Guadalcanal gây tốn kém nặng nề cho phía Nhật cả về phương tiện và nhân lực. Khoảng 25.000 binh sĩ nhiều kinh nghiệm bị giết trong chiến dịch này. Sự tiêu hao các nguồn lực ảnh hưởng trực tiếp đến thất bại của Nhật Bản trong việc đạt được các mục tiêu trong Chiến dịch New Guinea. Nhật Bản cũng mất quyền kiểm soát khu vực phía Nam của Solomon và khả năng can thiệp vào đường giao thông của Đồng Minh đến Australia. Căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul giờ đây trực tiếp bị đe dọa bởi không lực Đồng Minh. Quan trọng hơn cả, các lực lượng trên bộ, trên không và trên mặt biển hiếm hoi của Nhật Bản bị biến mất vĩnh viễn trong rừng rậm và vùng biển chung quanh Guadalcanal. Số máy bay bị bắn rơi và tàu chiến bị đánh chìm trong chiến dịch này hầu như không thể thay thế được, vì đó là những chiến binh được huấn luyện kỹ càng và đầy kinh nghiệm, đặc biệt là các đội bay. Có thể cho rằng chiến thắng này của Đồng Minh là bước đầu tiên trong chuỗi dài thành công mà cuối cùng sẽ dẫn đến việc Nhật Bản đầu hàng và việc chiếm đóng các đảo chính quốc Nhật Bản.[140]

Có lẽ đối với Đồng Minh, tầm quan trọng không kém một chiến thắng về quân sự chính là chiến thắng về tâm lý. Trên một sân chơi bình đẳng, lực lượng Đồng Minh đã đánh bại các lực lượng trên bộ, trên không và trên biển tốt nhất của Nhật Bản. Sau chiến dịch Guadalcanal, quân Đồng Minh đã nhìn quân Nhật với ít nỗi e ngại và sự lo sợ hơn trước đây. Thêm vào đó, phe Đồng Minh nhìn thấy diễn biến tương lai trong chiến cuộc tại Thái Bình Dương với niềm lạc quan gia tăng.[141] Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Nhật Bản, kể cả Naoki Hoshino, Osami Nagano và Torashirō Kawabe, phát biểu không lâu sau khi chiến tranh kết thúc rằng Guadalcanal là bước ngoặc quyết định trong cuộc xung đột. Kawabe đã nói: "Nói về bước ngoặc [của cuộc chiến], khi mọi hoạt động chủ động bị ngưng lại hay thậm chí trở thành bị động, tôi nghĩ rằng đó chính là tại Guadalcanal."[142]

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro