Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

chi thường xuyên

  

I. Tổng quan về quản lý chi thường xuyên 

1.  Khái niệm, đặc điểm, và vai trò chi thường xuyên ngân sách nhà nước 
1.1. Khái niệm 

  Chi  thường  xuyên  là  quá  trình  phân  phối,  sử  dụng  nguồn  lực  tài  chính  của 

nhà nước nhằm trang trải những nhu cầu của các cơ quan nhà nước, các tổ chức 
chính trị xã hội thuộc khu vực công, qua đó thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước ở 
các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin 
thể  dục thể thao khoa  học và  công nghệ môi  trường và  các  hoạt  động sự nghiệp 
khác. Nói tóm lại, thì chi thường xuyên là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân 
sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường 
xuyên của nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội. 

1.1.1. Phân loại chi thường xuyên 
-  Căn cứ vào tính chất kinh tế 

Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm cụ thể như sau: 

- Nhóm các khoản chi thanh toán cho cá nhân gồm: tiền lương; phụ cấp lương; 
học bổng học sinh, sinh viên; phúc lợi tập thể; chi về công tác người có công với 
cách  mạng  và  xã  hội;    chi  lương  hưu  và  trợ  cấp  bảo  hiểm  xã  hội;  các  khoản 
thanh toán khác cho cá nhân. 
-  Nhóm  các  khoản  chi  nghiệp  vụ  chuyên  môn  gồm:  thanh  toán  dịch  vụ  công 
cộng; vật tư văn phòng; thông tin tuyên truyền liên lạc; hội nghị; công tác phí; 
chi phí thuê mướn; chi sửa chữa thường xuyên; chi phí nghiệp vụ chuyên môn 
của từng ngành. 
- Nhóm các khoản chi mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định và xây dựng nhỏ 

gồm: sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ chuyên môn và các công trình cơ sở hạ 
tầng; chi mua tài sản vô hình; mua sắm tài sản dùng cho công tác chuyên môn. 

- Nhóm các khoản chi thường xuyên khác gồm: các mục của mục lục ngân sách 

nhà  nước không nằm trong 3 nhóm mục trên và các mục từ 147 đến mục 150 thuộc 
khoản chi thường xuyên trong mục lục ngân sách nhà nước 

- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn 
Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi cụ thể sau: 

+  Chi  cho  sự  nghiệp  kinh  tế:  Hoạt  động  của  các  đơn  vị  sự  nghiệp  kinh  tế 

nhằm phục vụ cho yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, quản lý KT-XH và tạo 
điều kiện cho các ngành kinh tế hoạt động và phát triển một cách thuận lợi. Mục 
đích hoạt động của đơn vị sự nghiệp kinh tế không phải là kinh doanh lấy lãi, do 
vậy ngân sách nhà nước cần dành một khoản chi đáp ứng hoạt động của các đơn vị 
này. Chi sự nghiệp kinh tế gồm: 

·

Chi sự nghiệp nông nghiệp, sự nghiệp thủy lợi, sự nghiệp 
ngư nghiệp, sự nghiệp lâm nghiệp, giao thông, kiến thiết 
thị chính và sự nghiệp kinh tế công cộng khác. 

·

Chi điều tra cơ bản, đo đạc địa giới hành chính các cấp. 

·

Chi về bản đồ, đo đạc cắm mốc biên giới, đo đạc lập bản 
đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính. 

·

Chi định canh định cư và kinh tế mới 

+ chi sự nghiệp văn hóa xã hội: chi sự nghiệp giáo dục đào tạo; chi sự nghiệp 

y tế, sự nghiệp văn hóa thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp phát thanh, truyền 
hình; sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường; sự nghiệp xã hội, sự nghiệp 
văn xã khác. 

+Chi  quản  lý  hành  chính:  là  các  khoản  chi  cho  hoạt  động  của  các  cơ  quan 

HCNN thuộc bộ máy chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương. 
Chi về hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam.  
Chi về hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội: Bao gồm: mặt trận tổ quốc Việt 
Nam,  Liên đoàn  Lao  động  Việt  Nam,  Đoàn  TNCS  Hồ  Chí  Minh,  Hội CCB  Việt 
Nam, Hội LHPN, Hội nông dân Việt Nam. 
Đối với nước ta, các tổ chức trên là các tổ chức thuộc hệ thống chính trị của nước 
ta, do vậy theo quy định của luật NSNN, NSNN có trách nhiệm bố trí chi ngân sách 
đảm bảo hoạt động của các tổ chức này. 

+ Chi trợ giá theo chính sách của nhà nước 
+ chi các chương trình quốc gia. 
+ Chi trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội 
+ Chi tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo quy định của 

pháp luật. 

+Chi trả lãi tiền cho nhà nước vay. 
+ chi viện trợ cho các chính phủ và các tổ chức nước ngoài. 
+ các khoản chi khác theo quy định của Pháp luật. 

1.1.2. Đặc điểm của chi thường xuyên 
-  nguồn lực Tài chính trang trải cho các khoản chi thường xuyên được phân bố 

tương đối đều giữa các quý trong năm, giữa các tháng trong quý, giữa các 
năm trong kỳ kế hoạch.  

-  Việc sử dụng kinh phí thường xuyên chủ yếu chi cho con người, sự việc nên 

nó không làm tăng thêm tài sản hữu hình của quốc gia. 

-  Hiệu quả của chi thường xuyên không thể đánh giá, xác định cụ thể như chi 

cho đầu tư phát triển. hiệu quả của nó không đơn thuần về mặt kinh tế mà 
được thể hiện qua sự ổn định chính trị - xã hội từ đó thúc đẩy sự phát triển 
bền vững của đất nước. 

-  Đặc điểm trên cho thấy vai trò chi thường xuyên có ảnh hưởng rất quan trọng 

đến đời sống kinh tế xã hội của một quốc gia. 

1.1.3. Nội dung chi thường xuyên 
-  Chi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao. 
-  Chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí. 
-      Chi  cho  các hoạt động  dịch  vụ(kể  cả  chi thực hiện nghĩa vụ  với ngân sách 

nhà nướ, trích khấu hao tài sản cố định theo quy định, chi trả vốn, trả lãi tiền vay 
theo quy định của pháp luật).  

Các khoản chi thường xuyên có thể được phân chia thành các nhóm : 
-  các khoản chi thanh toán cho cá nhân: tiền lương, tiềng công, phụ cấp lương, 

các khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản 
thanh toán khác cho cá nhân theo quy định. 

-  Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn: chi thanh toán dịch vụ công cộng; chi 

thuê mướn; chi vật tư văn phòng, chi công tác phí, chi các khoản đặc thù; chi 
sửa  chữa  thường xuyên tài sản  cố định  phục  vụ  công tác chuyên  môn;  chi 
đoàn ra đoàn vào. 

Chi  mua  sắm  tài  sản,  trang  thiết  bị,  phương  tiện  vật  tư  không  theo  các 

chương trình dự án sử dụng nguồn kinh phí thường xuyên. 

Các khoản chi thường xuyên khác. 

Các  khoản  chi  phục  vụ  cho  công  tác  thu  phí  và  lệ  phí  theo  quy  định,  bao 

gồm: chi choi lao động trực tiếp thu phí, lệ phí,  (các khoản tiền lương, tiền công, 
các khoản đóng góp theo lương), trích quý t 
1.1.4.Vai trò của chi thường xuyên 

Chi  thường  xuyên  có  vai  trò  trong  nhiệm  vụ  chi  của  NSNN.chi  thường 

xuyên đã giúp cho bộ máy nhà nước duy trì hoạt động bình thường để thực hiện tốt 
chức năng QLNN; đảm bảo an ninh, an toàn xã hội , đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ 
quốc gia  

Thực  hiện  tốt  nhiệm  vụ  chi  thường  xuyên  còn  có  ý  nghĩa  rất  quan  trọng 

trong việc phân phối và sủ dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính của đất nước, tạo 
điều kiện giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chi thường xuyên 
hiệu quả và tiết kiệm sẽ tăng tích lũy vốn NSNN để chi cho đầu tư phát triển, thúc 
đẩy nền kinh tế phát triển, nâng cao niềm tin của nhân dân vào vai trò quản lý điều 
hành của nhà nước. 

1.1.5. Các nguyên tắc quản lý chi thường xuyên của NSNN 
Nguyên tắc quản lý theo dự toán: Dự toán là khâu mở đầu của một chu trình 

NSNN. Những khoản chi thường xuyên một khi đã được ghi vào dự toán chi và đã 
được cơ quan quyền lực Nhà nước xét duyệt được coi là chi tiêu pháp lệnh. Xét 
trên giác độ quản lý, số chi thường xuyên đã được ghi trong dự toán thể hiện sự 
cam  kết  của  cơ  quan  chức  năng  quản  lý  tài  chính  nhà  nước  với  các  đơn  vị  thụ 
hưởng NSNN, từ đó nảy sinh nguyên tắc quản lý chi thường xuyên theo dự toán.  

Nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả: tiết kiệm, hiệu quả là một trong những nguyên 

tắc quan trọng hành đầu của quản lý kinh tế, tài chính, bởi lẽ nguồn lực thì luôn có 
giới hạn nhưng nhu cầu thì không có giới hạn. do vậy, trong quá trình phân bổ và 
sử  dụng  nguồn  lực  khan  hiếm  đó  luôn  phải  tính  toán  sao  cho với  chi  phí  ít  nhất 
nhưng phải đạt được kết quả cao nhất. 

Mặt khác do đặc thù hoạt động NSNN diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và 

phức tạp. nhu cầu chi từ NSNN luôn gia tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng 
huy động nguồn thu có hạn, Nên càng phải tôn trọng nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả 
trong quản lý chi thường xuyên của NSNN. 

Nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước: Một trong những chức năng 

quan trọng của  kho bạc nhà nước là quản lý quỹ NSNN. Vì vậy, kho bạc nhà nước 
vừa có quyền, vừa có trách nhiệm phải kiểm soát chặt chẽ mọi khoản chi ngân sách 
nhà  nước,  đặc  biệt  là  các  khoản  chi  thường  xuyên.  Để  tăng  cường  vai  trò  của 
KBNN trong kiểm soát chi thường xuyên của NSNN, hiện nay ở nước ta và đang 
thực hiện việc chi trực tiếp qua KBNN như là một nguyên tắc trong quản lý khoản 
chi này. 

Để thực hiện được nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước cần phải 

giải quyết tốt một số vấn đề sau: 

Thứ nhất, tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát trước, 

trong và sau quá trình cấp phát, thanh toán. Các khoản chi phải có trong dự toán 
NSNN được duyệt, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy 
định và phải được thủ trưởng đơn vị sử dụng kinh phí NSNN hoặc người được ủy 
quyền quyết định chi 

Thứ hai, tất cả các cơ quan đơn vị, các chủ dự án,… sử dụng kinh phí NSNN 

(gọi chung là ĐVSD ngân sách nhà nước) phải mở tài khoản tại kho bạc nhà nước; 
chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan, tổ chức, kho bạc nhà nước trong quá trinh 
lập dự toán, phân bổ dự toán, cấp phát thanh toán, hạch toán kế toán và quyết toán 
NSNN. 

Thứ ba, Bộ tài chính, Sở tài chính – vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung 

ương,  phòng  tài  chính  kế  hoạch  quận,  huyện,  thị  xã,  thành  phố  thuộc  tỉnh  (gọi 
chung là các cơ quan tổ chức) có trách nhiệm thẩm định dự toán và thông báo dự 
toán đã được thẩm tra cho các đơn vị thụ hưởng kinh phí ngân sách; kiểm tra việc 
sử dụng kinh phí, xét duyệt quyết toán chi của các đơn vị và tổng hợp quyết toán 
chi NSNN. 

Thứ tư, KBNN có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ, điều kiện chi 

và thực hiện cấp phát, thanh toán kịp thời các khoản chi NSNN theo đúng qui định; 
tham gia với các CQTC, cơ quan QLNN có thẩm quyền trong việc kiểm tra tình 
hình sử dụng NSNN và xác định số thực chi NSNN. KBNN có quyền tạm đình chỉ, 
từ chối thanh toán, chi trả và thông báo cho các ĐVSD NSNN biết đồng gửi cho 
CQTC đồng cấp giải quyết trong các trường hợp sau: 
- Chi không đúng mục đích, đối tượng theo dự toán được duyệt. 
- Chi không đúng chế độ, định mức chi tiêu tài chính nhà nước. 
- Không đủ các điều kiện về chi theo qui định. 

Thứ năm, mọi khoản chi NSNN được hạch toán bằng đồng Việt Nam  theo 

từng niên độ NS, từng cấp NS và MLNSNN. Các khoản chi NSNN bằng ngoại tệ, 
hiện vật, ngày công lao động được qui đổi và hạch toán bằng đồng Việt Nam theo 
tỷ giá ngoại tệ, giá hiện vật, ngày công lao động do cơ 
quan có thẩm quyền qui định. 

Thứ sáu, trong quá trình quản lý, cấp phát, quyết toán chi NSNN, các 

khoản chi sai phải thu hồi giảm chi. Căn cứ vào quyết định của CQTC hoặc 
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, KBNN  thực hiện việc thu 

hồi giảm chi NSNN. 

1.1.6. Vai trò của KBNN trong quá trình kiểm soát chi thường xuyên 

Ngân sách nhà nước  

Đứng trên giác độ trong thực tiễn KBNN là người xuất quỹ NS thì chi NSNN 

là việc sử dụng quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước, 
phát triển KT-XH, cho an ninh quốc phòng, cho phúc lợi công cộng, cho an sinh 
theo các nhiệm vụ mà NSNN phải trang trải bằng các hình thức tổ chức chi thích 
hợp nhằm qua đó đảm bảo cho các khoản chi NS đáp ứng yêu cầu đúng mục đích, 
tiết kiệm và có hiệu quả. Do đó, trong quá trình thực hiện kiểm soát chi NSNN, nếu 
phát hiện được các vi phạm chính sách, chế độ quản lý tài chính, KBNN có quyền 
từ chối thanh toán. KBNN chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, hợp lệ của việc xuất 
tiền. Vì vậy, KBNN phải kiểm tra việc sử dụng kinh phí NSNN cấp cho các đơn vị, 
tổ chức kinh tế, bảo đảm đúng mục đích, đúng chế độ định mức chi tiêu của nhà 
nước. Công việc kiểm tra đó được KBNN thực hiện thông qua việc xem xét các hồ 
sơ, tài liệu chi thường xuyên NSNN trên các phương diện như dự toán NS được 
duyệt thẩm quyền chuẩn chi, chế độ, tiêu chuẩn định mức chi của nhà nước. Trong 
quá trình kiểm tra, nếu phát hiện thấy cơ quan, đơn vị,10 tổ chức kinh tế sử dụng 
kinh  phí  được  NSNN  cấp  không  đúng mục  đích,  không  có  hiệu  quả  hoặc không 
đúng chế độ, chính sách của nhà nước thì KBNN từ chối cấp phát, thanh toán. Như 
vậy, trong quá trình quản lý và điều hành NSNN, KBNN không thụ động thực hiện 
theo các lệnh của CQTC, hoặc đơn vị thụ hưởng NS một cách đơn thuần. Ngược 
lại, KBNN hoạt động có tính độc lập tương đối, theo cơ chế tác động trở lại đối với 
các cơ quan, đơn vị này. Thông qua đó, KBNN có thể bảo đảm tính chặt chẽ trong 
quá trình sử dụng công quỹ nhà nước, đặc biệt trong khâu mua sắm, xây dựng, sữa 
chữa … Chính vì vậy, không những đã hạn chế được tình trạng lãng phí, thất thoát, 
tiêu cực mà còn bảo đảm cho việc sử dụng kinh phí NSNN đúng mục đích, hợp 
pháp, tiết kiệm, có hiệu quả. Đồng thời tham gia kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng 
tiền mặt trong thanh toán góp phần chống tiêu cực, đề cao kỷ cương, kỷ luật quản 
lý tài chính, tiền tệ. Thông qua việc cấp phát, thanh toán các khoản chi của NSNN, 
KBNN còn tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình chi NSNN qua KBNN 
theo từng địa bàn, từng cấp NS và từng khoản chi chủ yếu. Từ đó rút ra những nhận 
xét, đánh giá về những kết quả đã đạt được, những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân 
cùng với các cơ quan hữu quan phối hợp nghiên cứu nhằm cải tiến và hoàn thiện cơ 
chế cấp phát, thanh toán và kiểm soát chi NSNN qua Kho Bạc Nhà Nước. 
II.Thực trạng chi thường xuyên ngân sách nhà nước 

1. Thực trạng chi ngân sách nhà nước 
Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội (QH) 

về việc thực hiện Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2010 vừa gửi các 
ĐBQH,  nhiều  Bộ,  ngành,  địa  phương,  công  tác  quản  lý,  sử  dụng  kinh  phí  chi 
thường  xuyên  vẫn  còn  bộc  lộ  những  tồn  tại;  phân  bổ  và  giao  dự  toán  vượt  định 
mức, chi tiêu vượt dự toán, sử dụng sai nguồn kinh phí, vượt tiêu chuẩn, chế độ quy 
định. 

9 tháng đầu năm 2010, thông qua kiểm soát chi 236.661 tỉ đồng chi thường 

xuyên, kho bạc Nhà nước (KBNN) đã phát hiện 25.883 khoản chi của hơn 10.136 
lượt đơn vị chưa chấp hành đúng trình tự, thủ tục; từ chối thanh toán trên 160 tỉ 
đồng chưa đủ điều kiện chi theo quy định. 

Kiểm  toán  Nhà  nước  cũng  phát  hiện,  kiến  nghị  xử  lý  tài  chính  trên  14,7 

nghìn tỉ đồng; ngành tài chính, rồi thanh tra Chính phủ cũng phát hiện và xử lý vi 
phạm tài chính hàng nghìn tỉ đồng… 

Cũng theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, tình trạng sử dụng số vượt 

thu, nguồn dự phòng, chi tạm ứng, cho vay sai đối tượng, sai chế độ, chi vượt dự 
toán lớn, vượt chế độ định mức, nhất là số chi chuyển nguồn ngân sách lớn, tiếp tục 
tăng và diễn ra trong nhiều năm vẫn chậm được khắc phục, là sự lãng phí đối với 
ngân sách Nhà nước. 

Báo cáo thẩm tra cũng nhấn mạnh đến tình trạng lãng phí, thất thoát, tham 

nhũng  trong  quản  lý,  sử  dụng  vốn  đầu  tư  phát  triển.  “Tình  trạng  chấp  hành  chưa  
nghiêm các quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản, chất lượng của nhà 
thầu, chất lượng chuẩn bị đầu tư thấp, khảo sát lập thiết kế không đúng quy định 
diễn ra ở nhiều bộ, ngành, địa phương, các dự án đầu tư phải điều chỉnh tổng mức 
đầu tư lớn và điều chỉnh nhiều lần (hầu hết các công trình vốn trái phiếu chính phủ 
(TPCP) đều phải điều chỉnh tổng mức đầu tư; tổng mức đầu tư từ nguồn vốn TPCP 
giai  đoạn  2003 -  2010  đã  tăng  so  với  ban  đầu  khoảng  31.000  tỉ  đồng”.  
Ngoài những yếu kém về quản lý tài sản ở các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước 
như đã đề cập ở các báo cáo liên quan trước đó, Ủy ban Tài chính Ngân sách cũng 
chỉ rõ những bất cập, lãng phí, mặt trái trong việc tổ chức lễ hội và cho rằng “nhiều 
nơi chi phí cho lễ hội đã gây tốn kém, lãng phí lớn cho cả xã hội và ngân sách Nhà  
nước, nhưng hiệu quả đem lại không cao”. 

  
Để chấn chỉnh tình trạng chi tiêu lãng phí, Ủy ban này kiến nghị tăng cường  

hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH đối với việc chấp  
hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đồng thời đề nghị Chính phủ cần 
kịp thời biểu dương, khen thưởng các đơn vị, cá nhân làm tốt và phê bình, kỷ luật 
nghiêm đơn vị, cá nhân sai phạm, gây thất thoát, lãng phí trong quản lý sử dụng tài 
sản, ngân sách Nhà nước. 

2.  Thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên nhằm kiềm chế lạm phát, ổn 

định kinh tế vĩ mô 
2.1. Khuôn khổ pháp lý 
Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về một 

số giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm 
an sinh xã hội trong năm 2011; 

Căn cứ hướng dẫn thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên nhằm kiềm chế 

lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô tại Công văn số 2665/BTC-NSNN ngày 28/2/2011 
của Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (PTNT) hướng dẫn các 
Cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ (sau đây gọi tắt là các đơn vị) thực 
hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên năm 2011 (ngoài khoản tiết kiệm 10% 
chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương đã giao đầu năm) như sau: 

2.1.1 Đối tượng thực hiện tiết kiệm: 
Các đơn vị được Bộ giao dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 

2011 (bao gồm: kinh phí thường xuyên, không thường xuyên, tự chủ, không tự chủ 
và kinh phí nghiên cứu khoa học
) chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để thực 
hiện  tiết  kiệm  thêm  10%  chi  thường  xuyên  của  9  tháng  còn  lại  trong  năm  2011 
nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô theo chỉ đạo của 
Chính phủ. 

2.1.2 Cách thức xác định số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên năm 2011: 
Để tạo sự chủ động cho các đơn vị, Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn 

cách xác định số tiết kiệm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong năm 
2011 như sau: 

Số tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên = 
  

A - (B + C + D + E) 

x 9 x 0,1 

  12   

Trong đó: 
A: Là dự toán chi thường xuyên năm 2011 đã được cấp có thẩm quyền giao 

(không bao gồm dự toán chi sự nghiệp của các chương trình mục tiêu quốc gia). 

B: Là tổng số chi lương, phụ cấp, tiền công và các khoản chi khác cho con 

người theo chế độ (học bổng học sinh, sinh viên; tiền ăn, tiền thưởng theo chế độ 
quy định, tiền thuê chuyên gia; các khoản phụ cấp đặc thù của từng ngành kể cả 
bằng tiền hoặc bằng hiện vật;…). 

C: là số tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương  đã 

được cấp có thẩm quyền giao. 

D: là các khoản bố trí trong dự toán chi thường xuyên để thu hồi kinh phí đã 

ứng trước. 

E: là tổng số các khoản chi đặc thù khác không tính tiết kiệm, gồm: 

- Kinh phí tài trợ báo, tạp chí, xuất bản, chi trợ giá 

-  Chi từ nguồn vốn ngoài nước; 

-  Kinh  phí  đào  tạo, bồi  dưỡng  cán  bộ  công  chức;  kinh  phí  đào  tạo  lưu  học 

sinh nước ngoài ở Việt Nam và đào tạo lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài diện 
Hiệp định; 

- Kinh phí mua sắm trang phục các ngành (Kiểm lâm, thanh tra). 

- Kinh phí vốn đối ứng, kinh phí đóng niên liễm hoặc đóng góp cho các tổ 

chức hoặc diễn đàn quốc tế, kinh phí nộp các 

loại

 thuế theo quy định; 

-  Kinh  phí  thực  hiện  các  nhiệm  vụ  hợp  tác  khoa  học  kỹ  thuật  với  một  số 

nước theo Hiệp định hoặc Nghị định thư;…; 

-  Kinh  phí  thực  hiện  các  hợp  đồng  kinh  tế,  thoả  thuận  kinh  tế  có  hiệu  lực 

trước 31/3/2011; 

- Kinh phí phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh. 

2.1.3. Quản lý số tiết kiệm: 

Số tiết kiệm 10% chi thường xuyên của các đơn vị  thực hiện theo hướng dẫn 

tại công văn này được giữ lại, chưa được chi cho các nhiệm vụ khác. Đến Quý III 
năm 2011, căn cứ tình hình thực tế sẽ xem xét, xử lý số tiết kiệm này theo quyết 
định của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài chính. 

2.1.4. Rà soát, sắp xếp, bố trí lại các nhiệm vụ chi thường xuyên trong phạm 

vi dự toán còn lại (sau khi đã tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên): 

Để  đảm  bảo  hoàn  thành  các  nhiệm  vụ  chuyên  môn  đã  được  giao  đầu  năm 

trong điều kiện thực hiện tiết kiệm thêm  10% chi thường xuyên theo Nghị quyết 
của Chính phủ và quy định hướng dẫn tại Công văn này, đề nghị các đơn vị  thực 
hiện rà soát, sắp xếp, bố trí lại nhiệm vụ chi thường xuyên đã được giao đầu năm, 
trong đó tập trung ngay vào việc triển khai các công việc sau đây: 

-  Tạm  dừng  trang  bị  mới  xe  ô  tô,  mua  sắm  tài  sản  có  giá  trị  lớn,  điều  hoà 

nhiệt độ, thiết bị văn phòng... 

-  Giảm  tối  đa  số  lượng,  quy  mô  và  kinh  phí  chi  hội  nghị,  hội  thảo,  lễ  hội, 

tổng  kết,  sơ  kết,  đón  nhận  huân  chương,  danh  hiệu  thi  đua,  kỷ  niệm  ngày  thành 
lập… và các đoàn công tác trong và ngoài nước sử dụng kinh phí NSNN. 

-  Thực  hiện  tiết  kiệm  tối  đa  trong  việc  sử  dụng  điện, nước, điện  thoại,  văn 

phòng phẩm, xăng dầu. 

-  Ngừng  các  khoản  chi  cho  các  nhiệm  vụ  khác  chưa  thực  sự  cấp  bách,  nội 

dung không thiết thực. 

2.1.5. Tổ chức thực hiện: 
Thủ  trưởng  các  đơn  vị  xác  định  số  tiết  kiệm  thêm  10%  chi  thường  xuyên 

theo hướng dẫn nêu tại mục 2 và Biểu đính kèm của Công văn này gửi Bộ Nông 
nghiệp và PTNT (Vụ Tài chính) trước ngày 10/3/2011 để tổng hợp, báo cáo Bộ Tài 
chính và Thủ tướng Chính phủ. 

Bộ Nông nghiệp và PTNT thông báo để các cơ quan, đơn vị biết và tổ chức 

thực hiện. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc đề nghị phản ánh về Bộ 
(Vụ Tài chính) để kịp thời nghiên cứu, giải quyết./. 
 
 

Văn bản mới ban hành của Bộ Tài chính (Thông tư 224/2009/TT-BTC) quy 

định tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2010. 

Như vậy, năm 2010 tiếp tục là năm thứ 3 cả nước thực hiện việc tiết kiệm 

10% chi thường xuyên ngân sách nhà nước, tính từ thời điểm triển khai theo Thông 
tư 34/2008/TT-BTC ngày 23/4/2008 của Bộ Tài chính về việc này nhằm kiềm chế 
lạm phát. 

Theo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách tại phiên họp thứ 

24  của  Ủy  ban  Thường  vụ  Quốc  hội,  các  cơ  quan,  đơn  vị  đã  thực  hiện  nghiêm 
túc việc tiết kiệm 10% chi thường xuyên. Qua đó, dành thêm nguồn ngân sách để 
thực hiện chính sách kích cầu và bảo đảm an sinh xã hội. 

Ở nhiều địa phương, việc triệt để thực hành tiết kiệm đã góp nguồn kinh phí 

đáng kể vào ngân sách, tiêu biểu như: tỉnh Thanh Hóa đã tiết kiệm được khoảng 
62,2 tỷ đồng; Thái Bình 33,3 tỷ; Hưng Yên 37,2 tỷ; Lai Châu 21,1 tỷ đồng … 

Như  vậy  có  thể  thấy  rằng, đối  phó  với  khó  khăn  của  nền  kinh  tế  trong  bối 

cảnh suy thoái chung toàn cầu, chính sách thực hành tiết kiệm, chống lãng phí mà 
Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã đề ra, trong đó có việc tiết kiệm 10% chi thường 
xuyên ngân sách, đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công nhiệm vụ 
kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã 
hội mà đất nước đã đạt được trong năm qua. 

Bởi thế, việc Bộ Tài chính tiếp tục giao chỉ tiêu tiết kiệm 10% chi phí thường 

xuyên trong năm 2010 cho thấy nhiệm vụ thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được 
xác định là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài trong các cơ quan, tổ chức ở các cấp và 
trong nhân dân, bên cạnh yêu cầu tiết kiệm phải gắn liền với các tiêu chí cụ thể, sát 
thực để bảo đảm tính khả thi. 

Dành 40% số thu để cải cách tiền lương 

Cũng là một trong những nội dung quan trọng của Thông tư 224/2009/TT-

BTC, Bộ Tài chính đề nghị các Bộ, cơ quan Trung ương hướng dẫn các đơn vị trực 
thuộc dành 40% số thu được để lại theo chế độ năm 2010 (riêng ngành Y tế 35%, 
sau  khi trừ  chi  phí  thuốc,  máu,  dịch truyền, hoá  chất,  vật tư thay  thế, vật tư  tiêu 
hao) để thực hiện chế độ cải cách tiền lương trong năm 2010, đảm bảo mức lương 
tối thiểu 650.000 đồng/tháng. 

10 

Đối với các địa phương, Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng 50% tăng thu ngân 

sách địa phương (không kể số tăng thu từ nguồn thu tiền sử dụng đất) thực hiện 
năm  2009  so  với  dự  toán  năm  2009  được  Thủ  tướng  Chính  phủ  giao. đồng  thời 
thực hiện chuyển các nguồn thực hiện cải cách tiền lương năm trước theo quy định 
chưa  sử  dụng  hết  (nếu  có)  sang năm  2010  để  tiếp  tục  thực  hiện.  Toàn  bộ  nguồn 
kinh phí này phải được hạch toán, quản lý riêng để tạo nguồn tiếp tục thực hiện cải 
cách tiền lương, không sử dụng nguồn kinh phí này cho các mục đích khác. 

Với các biện pháp tạo nguồn như trên mà các Bộ, cơ quan Trung ương cũng 

như địa phương vẫn không đủ nguồn thì ngân sách Trung ương sẽ hỗ trợ để đảm 
bảo nguồn thực hiện. 

Như vậy để đối mặt với những khó khăn, thách thức trong năm 2010, Bộ Tài 

chính khuyến khích việc tiết kiệm chi ngân sách công và đảm bảo tăng thu nhập tối 
thiểu cho người lao động. 
 

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ban hành định 

mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước áp dụng cho năm ngân 
sách 2011, năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách mới. 
  
Chi quản lý hành chính các Bộ, ngành tối đa 30 triệu đồng/biên chế/năm 
Quyết định quy định cụ thể định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách 
cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở 
Trung ương bao gồm: Chi quản lý hành chính; chi sự nghiệp y tế; đào tạo và nghiên 
cứu khoa học. 
Theo đó, định mức phân bổ dự toán chi quản lý hành chính cho khối cơ quan hành 
chính từ 19-30 triệu đồng/biên chế/năm (tùy thuộc vào số biên chế của  cơ quan). 
Đối  với  khối  các  cơ  quan  Tư  pháp,  Kiểm  toán  Nhà  nước,  Thanh  tra  Chính  phủ, 
định mức phân bổ năm 2011 là 30 triệu đồng/biên chế/năm. 
Định mức phân bổ dự toán chi sự nghiệp y tế, đào tạo thực hiện theo quy định hiện 
hành của Nhà nước về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn 
vị sự nghiệp công lập. Mức kinh phí ngân sách cấp chi thường xuyên hàng năm cho 
các đơn vị này trên cơ sở yêu cầu các đơn vị phấn đấu nâng mức tự trang trải nhu 
cầu chi từ nguồn thu phí và nguồn khác của mình để dành nguồn ưu tiên bố trí cho 
những đơn vị hoạt động chủ yếu bằng nguồn ngân sách nhà nước. 
Việc phân bổ dự toán chi nghiên cứu khoa học được thực hiện dựa trên các nhiệm 
vụ chuyên môn về khoa học và công nghệ. 
Phân bổ thêm cho các địa phương khó khăn 
Định  mức  phân bổ  dự  toán  chi  thường  xuyên  ngân  sách  cho các  tỉnh,  thành  phố 
trực thuộc Trung ương bao gồm chi cho sự nghiệp giáo dục; đào tạo và dạy nghề; y 

11 

tế; quản lý hành chính;  văn hóa  - thông tin; phát thanh truyền hình; thể dục thể 
thao; đảm bảo xã hội; quốc phòng; an ninh, khoa học công nghệ; kinh tế; trợ giá, 
trợ cước; hoạt động môi trường. 
Trong đó, đối với chi sự nghiệp giáo dục, định mức phân bổ theo dân số trong độ 
tuổi đến trường từ 1-18 tuổi như sau: định mức phân bổ vùng đô thị là 1.241.680 
đồng/người dân/năm; vùng đồng bằng là 1.460.800 đồng/người dân/năm; miền núi 
- vùng đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng sâu là 1.986.880 đồng/người dân/năm; 
vùng cao - hải đảo là 2.775.520 đồng/người dân/năm. 
Định mức phân bổ chi sự nghiệp y tế theo tiêu chí dân số cũng được xác định theo 
từng vùng. Cụ thể, vùng đô thị là 105.600 đồng/người dân/năm; vùng đồng bằng là 
142.700 đồng/người dân/năm; miền núi - vùng đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng 
sâu là 186.940 đồng/người dân/năm và vùng cao - hải đảo là 261.140 đồng/người 
dân/năm. 
Quyết định nêu rõ, đối với các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long được 
phân bổ thêm 7% số chi tính theo định mức dân số nêu trên. 
Đối với các tỉnh có dân số dưới 500 nghìn dân thì được phân bổ thêm 12%; những 
tỉnh có dân số từ 500-800 nghìn dân được phân bổ thêm 10% số chi tính theo định 
mức dân số trên. 
 
III.  Giải  pháp  nâng  cao  hiệu  quả  quản  lý  chi  thường  xuyên  ngân  sách  nhà 
nước 

1.Giải pháp chung 
Trong điều kiện nước ta, nguồn lực tài chính cho phát triển KTXH còn hạn 

chế thì vấn đề hiệu quả của chi NS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Với một chính 
sách phân bổ NS được cho là hợp lý thì hiệu quả của chi NS được quyết định bởi 
cơ chế quản lý chi NS trong giai đoạn 2001- 2010 phải đạt được các mục tiêu và 
yêu cầu chủ yếu sau đây:  

Một là, xây dựng một dự toán chi NS toàn diện, chi tiết đúng MLNS hiện 

hành, đảm bảo tài chính cho các bộ ngành, ĐP, thực hiện các nhiệm vụ phù hợp với 
định hướng phát triển KT-XH trong năm kế hoạch. Thực hiện việc quản lý và điều 
hành  NSNN  theo  dự  toán  và  phải  coi  dự  toán  là  một  đạo  luật  và  chính  phủ,  bộ, 
ngành, cá nhân có trách nhiệm thi hành.  

Hai là, thiết lập qui trình chuẩn bị, chấp hành và quyết toán NS tuân thủ các 

nguyên tắc và trình tự nghiêm ngặt đảm bảo việc kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau giữa 
các chủ thể tham gia vào quá trình quản lý chi NS cũng như nguyên tắc phân định 
quyền hạn, trách nhiệm giữa các chủ thể nhằm nâng cao năng lực hiệu quả quản lý 
chi ngân sách. Xoá bỏ sự can thiệp quá chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý 
nhà nước đối với công việc của các đơn vị sử dụng ngân sách. 

12 

Ba là, thiết lập cơ sở truyền tin thống nhất trong lĩnh vực quản lý ngân sách 

trên cơ sở nghiên cứu xây dựng một trung tâm tính toán và lưu dữ liệu thống nhất 
trong ngành tài chính. Trong xu hướng phát triển chung của khu vực và trên thế 
giới ngày nay, công nghệ thông tin đã, đang và sẽ là một công cụ đắc lực hữu hiệu, 
không thể thiếu đối với công tác quản lý KT-XH. Quản lý chi NS cũng không thể 
nằm ngoài xu hướng đó. Đây vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu và cũng là biện pháp 
nâng  cao  chất  lượng  quản  lý  NS.  Để  đạt  được  các  mục  tiêu  trên,  về  nguyên  tắc 
quản lý chi ngân sách sẽ tập trung vào các mặt sau: 
-  Hoàn thiện qui trình lập, phân bổ dự toán phải quán triệt nguyên tắc quản lý chi 
theo dự toán, coi dự toán chi NS đã được Quốc hội, HĐND các cấp phê chuẩn là 
một đạo luật bắt buột Chính phủ, bộ ngành, ĐP có trách nhiệm tuân thủ. Dự toán 
chi NS theo MLNS là giới hạn tối đa đã được chi về tổng thể và cơ cấu chi. Nguyên 
tắc này đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối qui định về MLNS trong cả chu trình NS từ 
khâu lập, chấp hành và kế toán quyết toán NS. Đồng thời là căn cứ để hoàn thiện 
các phương thức cấp phát NS hiện hành. Để đạt được mục tiêu này, BTC cần có 
nghiên cứu thống 55 nhất định mức xây dựng NS và định mức chi NS. Hiện nay, 
chúng  ta  có  hai  hệ  thống  định  mức,  một  là  định  mức  phân  bổ  hay  định  mức  xây 
dựng NS, hai là định mức chi NS. Thống nhất hai hệ thống định mức này sẽ là điều 
kiện quan trọng để cho dự toán phù hợp với nhu cầu chi của đơn vị để tổng số cũng 
như cơ cấu chi theo mục; đồng thời khi dự toán được Quốc hội phê chuẩn thì cũng 
là lúc dự toán chi tiết của đơn vị được duyệt, đảm bảo ngày 1/1 hàng năm, Kho bạc 
có dự toán để kiểm soát, đơn vị có dự toán được chi.  
-    Quán  triệt  nguyên  tắc  chi  trực  tiếp  qua  Kho  bạc  và  nguyên  tắc  thanh  toán  trực 
tiếp cho đơn vị thụ hưởng ngân sách. Nguyên tắc chi trực tiếp qua Kho bạc khẳng 
định hai nội dung.  

Một  là  KBNN  là  cơ  quan  đầu  mối  duy  nhất  được  nhà  nước  giao  nhiệm  vụ 

QLNN về quỹ NSNN, do vậy có nhiệm vụ trực tiếp thanh toán mọi khoản chi NS. 
Khẳng định Kho bạc có nhiệm vụ kiểm soát mọi khoản chi NS trước khi xuất quỹ 
NS và có quyền từ chối thanh toán đối với các khoản chi sai chế độ và chịu trách 
nhiệm về quyết định của mình.  

Hai là Nguyên tắc thanh toán trực tiếp cho đơn  vị thụ hưởng NS yêu cầu các 

khoản  chi  NS  phải  được  thanh  toán  trực  tiếp  đến  đúng  đối  tượng  thụ  hưởng  là 
những người cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho chính phủ, bao gồm cả công chức, 
viên  chức  hưởng  lương  từ  NS  nhằm  hạn  chế  tối  đa  thanh  toán  qua  trung 
gian…Nguyên  tắc  này  thực  chất  là  một  phần  trong  nguyên  tắc  chi  trực  tiếp  qua 
KBNN. Nhưng trong điều kiện ở nước ta hiện nay tình trạng chi qua khâu trung 
gian vẫn còn rất phổ biến như chi hoạt động hành chính…gây tác động tiêu cực đến 
công tác quản lý tiền mặt và tạo cơ hội cho những hành vi gian lận, biển thủ công 
quỹ, do vậy cần nhấn mạnh nguyên tắc này. 

13 

- Qui trình kiểm soát chi NS phải đảm bảo phân định trách nhiệm giữa chuẩn chi và 
KBNN. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong quản lý tài chính. Nếu nhìn nhận toàn 
bộ quốc gia như một thực thể thì trong lĩnh vực chi tiêu, vai trò thủ trưởng đơn vị 
để thực hiện hành vi chuẩn chi là TTCP, các Bộ 56 trưởng, chủ tịch UBND các cấp 
và những người được uỷ quyền, còn kho bạc là vai người kế toán có trách nhiệm 
kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chế độ tài chính, kế toán của người chuẩn chi 
khi thực hiện chế độ chi tiêu, kế toán các khoản chi tiêu đó. Do vậy cần phải có 
nguyên  tắc  phân  định  trách  nhiệm  giữa  chuẩn  chi  và  kế  toán  để  có  sự  kiểm  tra, 
kiểm soát trong khi chi ngân sách, không đồng nghĩa với cản trở và bất hợp tác  
- Cải tiến các phương thức cấp phát NS: để tăng cường tính chủ động của đơn vị 
thụ hưởng ngân sách, hạn chế tối đa sự can thiệp không cần thiết của CQTC vào 
quá trình chi tiêu của đơn vị, tuân thủ nguyên  tắc điều hành NS theo dự toán đã 
được  Quốc  hội,  HĐND  các  cấp  phê  chuẩn  và  nâng  cao  hiệu  quả  sử  dụng  vốn 
NSNN. Khi mà chất lượng của công tác lập, duyệt và phân bổ ngân sách được ngày 
một  nâng  cao sẽ  tạo  tiền  đề  cho  việc  hoàn  thiện  các  phương  thức  cấp  phát  ngân 
sách cụ thể: Xoá bỏ dần việc cấp phát NS bằng lệnh chi tiền của CQTC thay đó là 
phương  thức  cấp  phát  bằng  dự  toán.  Trừ  những  trường  hợp  chi  đặc  biệt  phải  sử 
dụng  hình  thức  cấp phát bằng  lệnh  chi  tiền.  Thực hiện  quản lý  và điều hành  NS 
theo dự toán tổng thể, không bó buộc đơn vị chấp hành theo dự toán từng nhóm 
mục. Khi điều kiện cho phép, có nghĩa là khi công tác này đã ổn định, đi vào nề 
nếp thì sẽ thực hiện theo dự toán được duyệt. 
- Đa dạng các phương thức kiểm soát chi NS: từng bước thực hiện cơ chế tài chính 
khoán cho các đơn vị SN và các DN công ích, tạo tiền đề để thay dần phương thức 
kiểm soát chi đầu vào như hiện nay bằng quản lý theo đầu ra. Phương thức quản lý 
chi theo đầu ra được hiểu là việc nhà nước bỏ ra một khoản tiền nhất định để mua 
các dịch vụ công cộng do một bộ ngành hoặc đơn vị nào đó cung ứng cho xã hội, ví 
dụ như dịch vụ y tế, giáo dục, cung cấp nước sạch…Các bộ trưởng, thủ trưởng các 
đơn vị chịu trách nhiệm trước chính phủ và quốc hội về việc sử dụng khoản NS đó 
đem  lại 57 kết quả  cam  kết ban đầu.  Nhà  nước không  can thiệp sâu  vào việc sử 
dụng  khoản  NS  đó  như  thế  nào,  việc  đó  giao  toàn  quyền  cho  thủ  trưởng  đơn  vị 
quyết định. Nhà nước chỉ quan tâm đến hiệu quả chương trình đó đem lại như thế 
nào từ nguồn ngân sách đó mà thôi. 
- Xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán nhà nước, thành lập trung tâm tính toán và 
lưu  trữ  dữ  liệu  của  ngành  tài  chính:  phải  sớm  giải  quyết  tình  trạng  phân  tán  và 
manh mún, không đồng bộ, ăn khớp trong công tác kế toán, cần phải lấy kế toán 
kho bạc làm hạt nhân, để nghiên cứu hàng loạt các vấn đề xoay quanh kế toán nhà 
nước  như  đối  tượng  kế  toán,  phương  pháp  kế  toán,  hệ  thống  chứng  từ,  mẫu 
biểu..với mục tiêu là KBNN phải là cơ quan duy nhất tham mưu giúp bộ tài chính 
làm tổng quyết toán NSNN. 
- Thực hiện công khai hoá NS, trong đó thực hiện công khai qui trình cấp phát NS 
và kiểm soát chi NS: nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của nhà nước và bản 

14 

chất của NS Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi khoản chi NS 
đều được đáp ứng từ các nguồn đóng góp của dân thông qua thuế, phí và lệ phí, vậy 
người dân phải có quyền được biết về hoạt động thu-chi của ngân sách nhà nước. 
Công khai qui trình cấp phát, kiểm soát chi NS trong chừng mực nào đó góp phần 
xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của bên quản lý và bên được quản lý. Nhờ 
vậy  mà cơ quan quản lý kiểm soát các ĐVSDNS cho các đơn vị sử dụng NS có 
điều kiện và cơ hội kiểm tra, giám sát ngược trở lại đối với các đơn vị quản lý mình 
trong việc chấp hành các qui trình quản lý.  
- Vấn đề cán bộ: chúng ta hay nói nhiều về trình độ cán bộ chưa đáp ứng được yêu 
cầu và nhiệm vụ, song đây chỉ là một mặt của vấn đề. Nếu trình độ của cán bộ đã 
được cải thiện, nhưng tinh thần và thái độ làm việc của đội ngũ cán bộ chúng ta 
chưa  được  xác  định  đúng  vị  trí  là  những  người  phục  vụ  hoặc  chưa  đào  tạo  phải 
phục vụ như thế nào thì công cuộc cải cách hành chính của chúng ta có lẽ sẽ bị hạn 
chế rất nhiều, thậm chí có thể phản tác dụng. Chính vì vậy mà một trong những nội 
dung cải cách hành chính trong quản lý chi NSNN thì vấn đề quan tâm đào tạo một 
đội ngũ cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý chi NS có thái độ phục vụ hoàn toàn 
mới theo tinh thần “Văn minh giao tiếp”. Vấn đề này tưởng như nhỏ, nhưng nếu 
như không có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt thì 
hậu quả sẽ không phải là nhỏ.. 

2. Các giải pháp cụ thể: 
2.1. Về dự toán NSNN: 

Thời gian quy trình xây dựng dự toán ngân sách:  

Các nước đều quy định năm NS dài 12 tháng, có nước trùng với năm dương lịch, 
có nước không trùng, tuỳ theo tập quán mỗi nước. Dự toán được phê chuẩn trước 
ngày bắt đầu của năm NS mới. Năm NS là một nguyên tắc lớn trong quản lý NS 
kiểu  truyền  thống.  Hết  năm  NS,  dự  toán  kinh  phí  chưa  sử  dụng  đều  hết  giá  trị. 
Nhưng điều này sẽ khác khi quản lý NS theo mô hình mới, dựa theo kết quả đầu ra 
gắn với tầm nhìn trung hạn. Năm ngân sách của Việt Nam,  Hàn Quốc, Malaysia 
trùng với năm dương lịch (bắt đầu từ 1/1 và kết thúc vào 31/12 hàng năm); Năm 
NS của Nhật bản bắt đầu từ 1/4 và kết thúc 31/3 năm sau; Thái Lan bắt đầu từ 1/10 
và kết thúc 30/9 năm sau. Mọi quy trình DTNS đều được kết thúc vào ngày cuối 
cùng của một năm NS nhưng thời điểm bắt đầu của mỗi nước lại có sự khác nhau, 
tạo  nên  độ  dài  thời  gian  xây  dựng  DTNS  khác  nhau.  Quy  trình  DTNS  của  Việt 
Nam dài khoảng 6 đến 7 tháng nhưng ở các nước trong khu vực thường là 10 đến 
11 tháng. Thời gian xây dựng DTNS đủ dài và được quy định rõ ràng sẽ tạo thuận 
lợi cho các cơ quan hữu quan (điều kiện thời gian) nâng cao chất lượng chuẩn bị, 
lập, thẩm tra, thảo luận dự toán ngân sách tốt hơn. Khởi điểm quy trình DTNS của 
Việt Nam khá muộn nên độ dài quy trình DTNS của Việt Nam ngắn hơn các nước. 
Nếu tính từ khi Chỉ thị của Thủ tướng về xây dựng dự toán NSNN được ban hành 
thì quy trình DTNS Việt Nam bắt đầu từ 31/5; Nếu tính từ thời điểm UBTVQH cho 

15 

ý kiến về định mức phân bổ, chế độ chi NS quan trọng thì thời điểm bắt đầu DTNS 
từ 1/5; Quy định chính thức về thời điểm "xuất phát"của quy trình NS như ở Việt 
Nam là khá muộn so với thế giới. Thông thường, các nước quy định các công việc 
chuẩn bị dự toán bắt đầu ngay từ tháng thứ hai của năm NS hiện hành. Cá biệt có 
nước quy định ngay từ tháng đầu tiên, ngay sau khi dự toán vừa được phê chuẩn( ở 
Malaysia ban hành. Thông tư hướng dẫn lập DTNS ngày từ tháng thứ nhất; Hướng 
dẫn DTNS và chính sách của Thái Lan được  ban hành ngay từ tháng thứ 2; Hàn 
Quốc ban hành Hướng dẫn lập DTNS từ tháng thứ 3 hàng năm). Do vậy, Về thời 
gian xây dựng dự toán ngân sách cần nghiên cứu kéo dài tổng thời gian làm dự toán 
NSNN, có thể đẩy sớm thời hạn chuẩn bị dự toán lên một vài tháng, bố trí thời gian 
hợp lý cho các bước, các khâu của quy trình dự toán NSNN, đảm bảo quỹ thời gian 
vật chất cần thiết để các Uỷ ban của Quốc hội, Quốc hội và HĐND các cấp có thể 
nghiên cứu, thẩm định, thảo luận kỹ về dự toán NSNN. 

Cơ quan chủ trì và phối hợp lập dự toán ngân sách:  

Tất cả các nước đều quy định một cơ quan cấp bộ chủ trì việc chuẩn bị và 

soạn lập DTNS, nhưng không nhất thiết đó phải là Bộ Tài chính. Mỗi mô hình có 
những  điểm  mạnh,  điểm  yếu  riêng.  Việc  tập  trung  một  đầu  mối  có  ưu  điểm  lớn 
trong việc quản lý thống nhất, cung cấp cái nhìn toàn diện về NS trên cơ sở nắm 
chắc nguồn thu, tạo cơ sở tốt cho việc bố trí sử dụng (chi) ngân sách. Mức độ tập 
trung và sự phối hợp giữa nguồn và sử dụng nguồn được đẩy mạnh hơn, hiệu quả 
hơn. Việc dành riêng một cơ quan độc lập với BTC soạn lập dự toán chi NS (Thái 
Lan, Hàn Quốc) hoặc để "nhiều đầu mối" cùng làm dự toán, có ưu điểm nâng cao 
mức độ chuyên môn hóa khi xây dựng NS nhưng cũng kéo theo sự cồng kềnh trong 
quy trình NS; hiệu quả phối hợp cân đối thu, chi không cao. Đối với Việt Nam, nên 
nghiên cứu các phương án thống nhất đầu mối quản lý NSNN từ cấp trung ương 
đến các địa phương.  

Phương án thứ nhất, là xây dựng lại chức năng, nhiệm vụ của BTC và Bộ 

KH&ĐT trên cơ sở nhận thức về đối tượng quản lý phục vụ của các Bộ này phải có 
sự thay đổi sâu sắc phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tôn 
trọng cách thức quản lý vĩ mô theo các nguyên lý của kinh tế thị trường.  

Phương án thứ hai là hợp nhất 2 bộ này lại thành một siêu bộ “Kinh tế và Tài 

chính” với các chức năng tổng hợp cả về kinh tế và tài chính, NS. Trong đó, cần 
thiết kế một Bộ trưởng phụ trách chung; một Bộ trưởng phụ trách tài chính, NS; 
một Bộ trưởng phụ trách kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế.  

o luận và phê chuẩn ngân sách  

- Việc thẩm tra, thảo luận và quyết định DTNS ở các nước đều giống nhau về tổng 
thể nhưng có sự khác nhau về cách thức tổ chức thực hiện. Các nước có tổ chức 
Thượng viện và Hạ viện thì việc thẩm tra, thảo luận, quyết định phê chuẩn được 
tiến hành theo trình tự do nghị viện quyết định nhưng nhìn chung là DTNS được 
thẩm  tra  và  thảo  luận  ở  Hạ  viện  trước,  sau  đó  chuyển  tới  Thượng  viện.  Sau  khi 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: