Chailie Bone & soi hoang (TT)
CUỘC GIẢI CỨU BẮT ĐẦU
Rạng sáng thứ Hai, trời xám và lạnh buốt. Trời tối đến nỗi ngoại Maisie phải thắp tất cả đèn trong nhà lên.
Nội Bone thức dậy sớm hơn thường lệ. "Bà thừa biết chuyện gị xảy ra khi thằng em ta xuất hiện mà," mụ hạnh họe từ chiếc ghế xích đu bên lò sưởi. " Tất cả bóng đèn sẽ nổ tung."
" Tôi sẽ lo liệu hết khi nó xảy ra," ngoại Maisie nói, "nhưng tôi không thể nấu cháo trong bóng tối."
Charlie còn nghe thấy họ lời qua tiếng lại trong khi nó đang đánh răng trong buồng tắm. Lúc nó trở lại phòng mình, ông cậu Paton gọi khẽ qua cửa phòng ông, "Vô đây, Charlie. Chúng ta nói chuyện."
Charlie nhìn vô phòng của ông cậu. Ông đang ngồi bên bàn viết. Ngọn nến đặt bên cạnh ông sắp cháy hết. Charlie có cảm giác là hình như ông cậu chưa hề ngủ chút nào. Giường của ông chất toàn giấy là giấy.
" Con phải nhanh lên," Charlie thấp thỏm, "kẻo không con trễ xe buýt trường mất."
"Việc này không lâu đâu. Vô đây rồi khóa cửa lại."
Charlie làm như ông cậu bảo và đến đứng cạnh ông. "Ông có ngủ không vậy, Ông cậu Paton?" nó hỏi.
"Quá bận" Ông cậu Paton phẩy tay. "Nhưng xong tất cả rồi, Charlie. Ta rất hài lòng về mình. Ta đã xoay xở liên lạc được với ông Bartholomew Bloor và..."
"Naren?" Charlie kêu lên. "Họ ở đâu?"
"Suỵt!" Ông cậu Paton ra lệnh. " Bé bé cái miệng lại. Họ ở đâu không quan trọng. Ta biết vài chỗ hồi xưa ông Bartholomew hay lui tới và ta yêu cầu gia đình Brown giúp ta tìm ông ấy. Họ là những thám tử tư kiên trì vô cùng, và chẳng mấy chốc họ đã dò tìm được. Barth là người rất kín kẽ, nhưng ông ấy đồng ý trợ giúp. Chiếc xe thùng của ông ấy sẽ chờ bên cầu- cây cầu đá, không phải cái thanh sắt tạm bợ chết người ấy đâu. Ông ấy sẽ chờ cho tới khi bình minh nếu có thể."
"Gần cây cầu," Charlie lặp lại, cố kìm ngáp.
"Bên mạn Bắc. Dưới hàng cây." Ông cậu Paton nhìn sát vô mặt Charlie. " Con có nghe kỹ không? Con định phóng thích cậu bé người sói vào đêm nay chứ gì?"
"Đúng. Đúng ạ."
"Julia và ta đã nghiên cứu kỹ càng, và đúng như lời ông Onimous đã nói với con. Có một lối ngầm từ học viện dẫn tới dòng sông. Nó trổ ra một bãi cây nhỏ phía trên triền sông. Ta chắc chắn gia đình Bloor cũng biết nó, cho nên con phải cẩn thận, Charlie. Con đi một mình hả?"
"Không ạ. Có Tancred và Lysander đi cùng. Cả Billy nữa, bởi vì nó biết nói chuyện với thú."
Ông cậu Paton nhìn xuống đống giấy tờ trên bàn mình. Mặt ông thật khắc khổ. "Ta cảm thấy ta không nên cho phép con tham gia việc này, Charlie. Cực kỳ nguy hiểm. Nếu có gì xảy đến với con...ta không thể tưởng tượng nổi mình sẽ ăn nói thế nào với ba mẹ con. Nhưng..."
"Nhưng đằng nào con cũng làm," Charlie nói.
"Ta biết vậy," Ông cậu Paton thở dài, " Cho nên ta đã cố hết sức mình khả dĩ giúp cho con dễ dàng hơn phần nào. Ta ước gì mình có mặt ở đó, nhưng ta quá lộ liễu, với lại tài phép của ta..." ông mỉm cười phiền muộn.
"Những vụ nổ bóng đèn đường sẽ làm tiêu tan cuộc chơi," Charlie vui vẻ nói.
Ông cậu Paton gật đầu buồn bã. "Nên nhớ, ông Bartholomew sẽ chờ ở mạn Bắc cây cầu. Mẹ của Asa cũng ở đó... và một người nữa."
"Ai thế ạ?"
"Ừm. Cũng hơi phức tạp, nhưng không thể tránh được. Chồng của bà cô Venetia, ông Shellhorn, đã liên lạc với ta đêm qua. Ông ấy biết tên ta thông qua ông Onimous."Ông cậu Paton gãi cằm trong khi Charlie nóng lòng lắng nghe.
"Ông Shellhorn quyết định phải trốn khỏi bà cô của con - đó là ý nguyện dứt khoát của ông ta, vì lợi ích của con gái ông ấy. Con bé không an toàn trong ngôi nhà kinh khủng đó. Vì vậy, họ cùng nhau tìm đường tới quán Cà Phê Thú Kiểng và ông Bartholomew sẽ đón họ."
"Còn Eric?" Charlie hỏi.
Ông cậu Paton lắc đầu. "Ông Shellhorn bất đắc dĩ phải để lại con trai. Thằng bé đã thay đổi hoàn toàn. Xem ra nó thán phục bà cô Venetia, để nó can dự vào cuộc đào tẩu bí mật này là quá nguy hiểm."
"Bức tượng thần lùn!" Charlie la lên. "Họ sẽ không bao giờ qua được hắn đâu."
"Bức tượng thần lùn biến rồi, cưng."
Charlie thở hốc. "Sao được? Nó nặng cả tấn mà."
"Bà thợ rèn bạn của con là một phụ nữ mạnh phi thường." Ông cậu Paton nói. "Bức tượng thần lùn đã bị khóa lại rồi, và nếu Eric không biết chìa khóa ở đâu thì nó không thể làm cho bức tượng chuyển động."
"Phù ù! Ông Bartholomew Bloor sẽ chở tất cả họ đi đâu?"
"Đi rất xa, tới nơi mà họ có thể an toàn. Mà con biết đấy, ông Bartholomew Bloor là người giỏi nhất trên đời về việc này."
Bất chợt có tiếng gõ cửa rầm rầm. "Mày ở trong đó hả, Charlie?" nội Bone la quang quác, lay cành cạnh tay nắm cửa. "Mày trễ xe buýt bây giờ."
Ông cậu Paton tròn mắt và đẩy nhẹ Charlie ra phía cửa. "À này," ông thì thào. "Con phải cần đến Olivia nữa."
"Tại sao?" Charlie nói to.
"Để đánh lạc hướng." giọng ông cậu Paton khẽ đến nỗi Charlie gần như không nghe thấy. "Ảo giác. Những chiếc xe thùng trắng."
Từ dưới lầu trệt, nội Bone thét om sòm. "Sao tao phải mất công lo cho mày trễ xe buýt chứ, thằng ngu kia?"
Charlie cười toe toét, mở cửa phòng ông cậu Paton và nhảy xuống chiếu nghỉ. "Xong ngay đây," nó hét váng nhà.
Charlie không nhận ra sự thay đổi ở Billy cho tới khi giờ nghỉ giải lao đầu tiên. Thằng bé đang ngồi trong phòng để áo khoác, đọc sách, khi Charlie thấy nó.
"Tối nay anh muốn nói chuyện với em, "Charlie nói.
"Sao vậy?" Billy hỏi.
"Chúng ta sẽ giải cứu Asa và điều quan trọng là phải tính toán thời gian."
"Vậy à?"
"Billy, em có khỏe không?" Charlie cúi xuống thằng bé bạch tạng.
"Em không biết. Em vừa trải qua một kỳ cuối tuần lạ lắm. Em đang chơi trốn tìm với May Phúc thi...rồi thì..."
"Thì sao?"
"Em không biết. Khi em tỉnh dậy trong phòng ngủ chung sáng nay, em không còn nhớ lấy một điều gì đã xảy ra."
Charlie ngồi xuống bên thằng bé. "Em cảm thấy ổn chứ."
"Em ổn. Ngoại trừ một điều là em không còn hiểu May Phúc nữa, và nó cũng không hiểu em." Billy đóng quyển sách lại. "Charlie, anh nghĩ coi có trục trặc gị với muông thú? Hay là em đã mất tài phép của mình rồi?"
"Không đâu Billy. Anh cần em nói chuyện với Asa."
"Ố," Billy bối rối. "Để em cố. Anh sẽ đánh thức em dậy khi tới lúc chứ?"
"Dĩ nhiên."
Phòng để áo khoác xanh da trời bắt đầu đầy bọn trẻ và Charlie kết thúc câu chuyện. Nó đi ra sân, ở đó nó thấy Tancred và Lysander sóng bước đi loanh quanh. Các anh dừng lại khi thấy Charlie, và Lysander hạ thấp giọng hỏi. "Em đã quyết định đêm nay à, Charlie?"
"Phải là đêm nay thôi," Charlie bảo, " bởi vì có người sẽ chờ đón Asa."
"Hay," Tancred nói. "Càng sớm càng tốt. Nhưng hãy nhớ, anh nghĩ chúng ta nên chờ tới quá nửa đêm. Anh thường thấy đèn trong khu gia đình Bloor sáng tới 1 giờ sáng."
"Vậy thì 2 giờ," Charlie nói.
"Em có thức dậy nổi không?" Lysander hỏi.
"Ba em cho em một chiếc đồng hồ đeo tay khi ba đi nghỉ. Nó có báo thức." Charlie tự hào khoe chiếc đồng hồ mặt đen có vòng số sáng choang.
"Oa!" Tancred ân cần nói. "Quá ấn tượng. Anh hy vọng nó không dựng cả phòng ngủ chung dậy."
"Em có chắc là muốn làm việc này không, Charlie?" Lysander bất chợt nghiêm sắc mặt. "Anh không trách em nếu em hoãn tất cả lại. Ở dưới đó trong bóng tối không dễ đâu."
"Và Asa có thể cắn chết em," Tancred nói khẽ.
Charlie cười toe toét, mặc dù lúc đó, ấy là điều cuối cùng nó muốn làm. "Hai anh sẽ ở đâu?"
"Anh sẽ canh chừng Manfred, còn nó sẽ đối phó với Dagbert." Lysander hất đầu về phía cậu bạn tóc vàng.
"Vậy em sẽ không còn phải lo gì nữa, hẹn gặp lại đêm nay."
Khi Charlie bước trở vô trường nó thấy một tốp trẻ xúm quanh Joshua và hai chị em sinh đôi. Joshua bị bầm đen quanh mắt, cái mũi của một đứa trong hai chị em sinh đôi chuyển màu xanh dương, và đứa kia quấn một cuộn băng thun tổ bố trên trán. Joshua chỉ Charlie, và đám trẻ quay lại, nhìn nó trân trân.
Charlie vẫy tụi nó một cái vui vẻ.
Trong bữa trưa Charlie thấy chộn chạo trong bụng; nó gần như không ăn được gì. Suốt thời gian còn lại trong ngày, tim nó đập dồn dập, tay lạnh toát và nhớp nháp mồ hôi; đến tiết học cuối cùng, môn tiếng Pháp, nó thấy thật phiền hà, hai đầu gối cứ đập vào nhau. Mình không sợ,nó tự nhủ.
Fidelio nhoài về phía nó. "Sao vậy,Charlie?"
"Im lặng!" cô Tessier mắng.
"Để sau sẽ nói," Charlie thầm thì.
"IM LẶNG!" cô Tessier rống lên.
Charlie loay hoay mãi mới gặp được một mình Fidelio trong phòng ngủ chung trước bữa tối. Nó kể tất tật cho bạn nghe.
Fidelio cau mày lo lắng. "Anh đi với em nhé, Charlie? Anh không yên tâm vì em với Billy có một mình dưới đó với con thú hoang..."
"Asa chưa thành thú hoang," Charlie nói.
" Làm sao em biết? Anh ta là thú ít nhất hai tuần nay rồi. Anh ta rất hung dữ. Sao em không bỏ cuộc đi, Charlie?"
"Asa đã liều tất cả mọi thứ để cứu em," Charlie nói rành rõ. "Em không thể để anh ấy... chết mòn."
Fidelio nhún vai. "Thôi được. Anh sẽ để mắt tới Dagbert nếu nó thức giấc."
"Ố, thể nào nó cũng thức," Charlie nói.
Vẫn còn một người nữa Charlie phải móc nối. Olivia. Fidelio khăng khăng đòi đi đến phòng ngủ chung của nữ với Charlie, kẻo " coi chừng em đâm sầm vô bà giám thị ở đó".
Đúng vậy thật. Bà ta đang đứng ngay bên ngoài phòng ngủ chung của Olivia, trên tay ôm đống khăn trải giường. "Tụi bay cấm được vô đây".
"Cháu chỉ mượn một quyển sách thôi," Charlie nói.
"Đi đi, không mượn miếc gì hết," đôi mắt đen hí của bà cô Lucretia khóa chặt vô mắt Charlie. "Ta đã nghe rất nhiều chuyện phiền phức về mày đó, Charlie Bone. Chúng tao ai nấy đều kinh tởm vì mày ra nông nỗi này. Hừ, với một thằng cha như cha mày thì ai dám mong..."
"Ý bà là sao?" Charlie hét tướng lên, nắm chặt tay lại. "Cha tôi đáng giá hàng trăm người Yewbeam."
"Hắn là một Yewbeam, đồ ngu. Ít ra đó là một điều vớt vát." Bà ta mỉm cười cay độc khi Charlie giơ nắm tay lên.
"Charlie!" Fidelio chộp cánh tay của nó. "Tụi mình ra khỏ đây đi."
Chúng vừa định quay ra thì cánh cửa đằng sau bà giám thị xịch mở và Olivia thò đầu ra. "Chào, Charlie. Tớ có quyển sách đằng ấy mượn rồi nè," con nhỏ nói, huơ huơ quyển sách dạy chia động từ tiếng Pháp.
Bà cô Lucretia bước khỏi cánh cửa. " Nghe trộm là thói quen xấu xa," bà ta nạt nộ. "Xuống lầu mau, lũ tụi bay."
Bọn chúng sướng quá đến tưởng như không tuân lệnh được.
Trong phòng vẽ rộng mênh mông, Charlie vạch kế hoạch của nó cho Olivia biết.
"Tớ thích đi với đằng ấy hơn." Mắt con nhỏ ánh lên tia dữ dằn. "Tớ muốn biết dưới đó thế nào. Không chừng có kho báu...đó. Đằng ấy định mặc Pyjamas à. Có cần ủng cao su không, tớ nghĩ có thể lối đi ấy dẫn tới sông."
"Liv, im nghe đi đã," Fidelio nhắc nhở. "Em có việc để làm."
"À, cái gì?" Olivia bực dọc. Nó khoanh tay lại chờ đợi.
"Tạo ảo ảnh. Liv. Đó là tất cả những gì tớ cần ở bồ. Tớ không cần bồ chui xuống đất."
"Ối." Olivia thất vọng thấy rõ. "Đằng ấy muốn có ảo ảnh ở đâu?"
"Toàn thành phố. Tớ biết Manfred đang chờ điều gì đó sắp xảy ra. Hắn biết tớ sẽ cố cứu Asa, nhưng hắn không biết là khi nào. Hắn thậm chí còn không biết là tớ đã biết chỗ Asa bị nhốt." Charlie liếc nhìn vẻ mặt mất kiên nhẫn của Olivia, chợt trong đầu nó bật ra ý nghĩ muốn thoái lui. "Thật ra tớ không biết chắc. Tớ chỉ đoán dựa vào lời của ông Onimous thôi."
"Cộng với linh cảm của em nữa," Fidelio động viên. "Linh cảm mách bảo em, đúng không?"
"Phải, linh cảm." Nhưng linh cảm cũng mách bảo Charlie rằng nó không biết Asa ở đâu đó sâu bên dưới học viện hay là ở sâu tuốt trong bóng tối đen kịt, xa khỏi phòng phục trang.Chỉ là đoán hú họa thôi.
"Vậy đằng ấy muốn ảo ảnh gì?"
Giọng réo rắt của Olivia kéo Charlie trở về trái đất. "Xe thùng, Liv. Những chiếc xe thùng nhỏ màu trắng, hơi xập xệ." Nó ráng hết sức mô tả chiếc xe thùng cũ móp mép của ông Bartholomew. "Những ảo ảnh của bồ sẽ tung hỏa mù, che giấu chiếc xe thật, đề phòng trường hợp có kẻ theo dõi. Cần khoảng chừng năm hay sáu chiếc, đậu quanh thành phố, và tớ cần vào khoảng giữa 2 giờ đúng, rạng sáng."
"Đằng ấy giỡn hả?" Olivia kêu lên.
"Không," Charlie nghiêm trang.
"Ừ thì đằng ấy không giỡn." Olivia cười khì. "Emama sẽ giúp đánh thức tớ dậy. Tớ nghĩ mình sẽ khoái mê vụ này."
Chúng rời phòng vẽ, chợt thấy một dáng hình cao, hơi gù hiện ra ở cuối hành lang. Cái hình hài ấy bắt đầu khập khiễng về phía chúng, và Charlie cứng người lại. Manfred lại ló mặt ra và tung hoành nữa rồi. Charlie chờ cho cái người đeo mặt nạ tới gần.
Fidelio và Olivia đứng hai bên Charlie, nhìn thân hình cao nhòng lọt vô luồng ánh sáng duy nhất trong hành lang.
Miệng Charlie há xệ ra. Không hề đeo mặt nạ. Không hề còn sẹo. Mặt Manfred láng o và tai tái như từ xưa vẫn thế.
"Ngạc nhiên chưa, Charlie Bone? Sốc à?" Manfred tập tệch tiến sát đến Charlie, đứng khựng ngay trước mặt nó. "Chẳng phải tao may phước có lũ bạn tài giỏi là gì?" gã thanh niên vuốt vuốt gò má láng của mình. "Tao cá là mày không bao giờ nghĩ tao trở lại được như thế này, đúng không?"
Không thể tìm ra lời đáp, Charlie ho khục khục.
"Chúng tôi luôn hy vọng cho những điều tốt đẹp nhất," Olivia phọt miệng. "Rất mừng khi thấy anh.. anh đẹp trai như vậy, Manfred."
Fidelio chỉ còn biết ú ớ đằng sau bàn tay bịt miệng.
"NGÀI chứ," Manfred sủa ông ổng. "Tụi bay phải gọi tao là ngài."
"Vâng, thưa ngài," Olivia nhu mì.
Chúng vội lỉnh đi khỏi Manfred, không dám nhìn nhau, nhưng khi chạy tới cuối hành lang, Manfred gọi với theo."Tao sẽ canh chừng mày, Charlie Bone, cho nên đừng giở trò ngu dại đấy."
"Vâng, thưa ngài," Charlie lầu bầu.
Có một bầu không khí căng thẳng bứt thần kinh trong phòng Nhà Vua tối hôm ấy. Joshua Tilpin ăn mặc lôi thôi lếch thếch chưa từng thấy. Tóc nó biết bệt mẩu giấy, bụi, mạng nhện, vỏ bút chì. Những miếng plastisc dùng để bao tập rách lua tua, teo dính trong ống tay áo nó, bàn tay nó phủ kín vụn bánh mì.
Hai chị em sinh đôi nhận thức rõ Tancred là thủ phạm gây ra những vết bầm dập cho mình, nên cứ nhắm sách và hộp đựng viết về hướng cậu ấy, nhưng sức mạnh của chúng hình như đã bị rút hết và Tancred dễ dàng đẩy lui chúng chỉ bằng vài hơi gió thoảng.
Dagbert nhìn mọi diễn biến với vẻ thản nhiên, có mưu mô gì đấy. Chốc chốc nó lại tóm lấy ánh mắt Charlie và mặt nó nói cho Charlie biết tất cả mọi điều: Dagbert sẵn sàng làm bất cứ điều gì Manfred sai khiến.
Trong hai giờ làm bài tập về nhà, Emma là đứa duy nhất mỉm cười. Tancred đã mời con nhỏ ngồi bên cạnh mình và, đỏ nhừ mặt mũi lên, Emma nhận lời. Tiếp đến là cười mãi không thôi. Đó chỉ là nụ cười phảng phất, nhưng cứ tủm tỉm và nâng cao tinh thần Charlie đáng kể.
Sau giờ bài tập về nhà, bọn trẻ giải tán trong im lặng. Charlie thậm chí không liếc nhìn Lysander và Tancred. Nó biết mình không được để lộ bóng gió nào về phi vụ bí mật đêm nay.
Trong phòng ngủ chung, Fidelio cư xử như không có gì bất thường sắp xảy ra, mặc dù Billy cứ nhúm nhó mặt mày và nghễnh ngãng tận đâu đâu.
Đến lúc Charlie nằm xuống giường, nó cảm thấy như trong người mình có một cuộn lò xo cuộn chắc, có thể bung ra bất thình lình. Làm sao có thể nằm im đến tận 2 giờ sáng? Nó muốn đi cứu Asa ngay lập tức, trước khi nó đứt dây thần kinh mất.
Đâu khoảng giữa 11 giờ và nửa đêm, Charlie lăn ra ngủ, mệt phờ vì những tưởng tượng của chính mình. Nó đã hình dung rất nhiều khả năng khác nhau của cuộc giải cứu Asa, nên đầu óc nó cuối cùng kêu đòi được nghỉ.
Charlie tỉnh giấc và thấy ai đó nhẹ nhàng lắc cánh tay mình.
" Charlie. 2 giờ rồi," Fidelio thì thầm.
Charlie ngồi dậy, dụi mắt. "Em thậm chí còn không nghe thấy đồng hồ mình reng."
"Anh cũng nghĩ vậy. Charlie, Dagbert không có ở trên giường nó. Anh không biết nó rời phòng khi nào."
Charlie lăn khỏi giường. "Giờ không thể lo lắng chuyện đó," nó lào xào. "Em đánh thức Billy dậy đây." Nó khoác tấm áo chùng xanh da trời, trong khi chân lò mò kiếm đôi giày.
Một cái vỗ nhẹ vào đầu khiến Billly ngọ nguậy bên dưới tấm vải trải giường. "Gì đó?" thằng bé ngơ ngác.
"Suỵt!" Charlie xòe tay bịt mồm Billy lại.
"Không! Không!" giọng Billy nghẹt lại. "Đừng."
"Suỵt! Billy, anh đây, Charlie nè. Tới giờ đi rồi."
"Đi đâu?"
"Suỵt! Đi cứu Asa."
"Em không muốn đi," Billy đẩy tay Charlie ra.
Ở đầu kia phòng ngủ chung, vài đứa cựa mình ú ớ trong giấc ngủ. Chờ để chắc chắn không đứa nào tỉnh dậy, Charlie thì thào. "Đi mà, bọn anh cần em."
Một thoáng im lặng thật lâu, và rồi Billy với tay tìm mắt kính của nó. Thòng chân xuống sàn, nó chật vật chui vô áo chùng và mang giày. Charlie nắm cánh tay nó và, không một lời, chúng chạy băng qua phòng ngủ chung.
"Chúc may mắn!" Fidelio thì thầm thật khẽ, Charlie không nghe thấy.
Trong hành lang thắp sáng tù mù, Charlie có thể thấy đôi mắt mở lớn, kinh hoảng của Billy, chợt cảm thấy tội lỗi. "Xin lỗi, Billy. Làm ơn đừng sợ. Đáng ra anh không nên bảo em làm điều này, nhưg em là người duy nhất có thể nói chuyện với Asa."
"Không phải Asa - mà là Sói Hoang," Billy nói. "Và em sợ là mình không thể làm được điều cần làm."
"Em sẽ làm được mà. Đi thôi." Charlie bắt đầu đi mau trong hành lang.
Âm thanh duy nhất trong tòa nhà rộng lớn, đang ngủ say này là tiếng bước chân nó lẹp xẹp trên ván lát sàn bằng gỗ sồi. Bầu tĩnh mịch vô biên khiến Charlie cảm nhận như mình và Billy là những sinh vật sống duy nhất. Nhưng nó cũng biết, ở đâu đó trong bóng tối, Dagbert Endless và Manfred Bloor vẫn thức, đang rình chờ nó.
Nhưng không ai hiện ra khi chúng cập rập đi ngược hành lang, không ai theo chúng trên hành lang hẹp tới nhà hát, và không ai chặn chúng trên sân khấu. Bóng tối trong nhà hát đen kìn kịt, Charlie phải lôi cây đèn pin của nó ra.
"Tụi mình đi đâu giờ?" Billly thì thầm.
Charlie huơ cây đèn pin ra cuối sân khấu cho tới khi trông thấy ô cửa sập. "Đó!" nó nói.
"Tối kinh quá," Billy sợ sệt..
"Ừ," Charlie tán đồng. " Nhưng cây đèn pin này rất tốt." Nó rua cây đèn pin dọc theo dưới gấu của tấm màn nhung, nơm nớp sợ Manfred ẩn đâu đó trong những nếp gấp nặng, sâu kia. Nhưng chẳng có ai ở đó. Nó nhón chân đi tới cửa sập và, lén lút ngó qua vai, cầm cái vòng sắt , nhấc cánh cửa lên.
"Nó không khóa," Billy nhận xét.
"Không bao giờ."
"Nhưng biết đâu. Có ổ khóa trên khoen cửa này. Ai đó có thể đóng cửa và bấm khóa nhốt tụi mình bên trong."
Charlie liếc nhìn cái ổ khóa gỉ sét. "Nó cũ mèm rồi, Billly. Đã nhiều năm không ai dùng tới. Có khi không còn chìa khóa mở nó nữa đâu. Nhìn nè, nó bấm vô rồi. Không ai có thể mưor nó ra.Đi."
Hạ cánh cửa sập xuống sàn, Charlie bắt đầu xuống cầu thang gỗ.
Billy ái ngại nhìn cái ổ khóa. "Em đóng cửa sập lại sau khi em xuống nhé?"
"Cũng được," Charlie nói nhóng lên. Nó xuống tới chân cầu thang và bật đèn lên.
Billy leo xuống và kéo cửa sập lại phía trên đầu nó. "Em chưa bao giờ xuống đây," nó nói khi đứng trong căn phòng đầy ắp tủ với rương , hòm.
"Đây là khu phục trang." Một ý nghĩ vụt đến với Charlie. "Tụi mình nên tìm một ít đồ cho Asa, để khi trở lại thành người anh ấy mặc."
"Nếu anh ấy có thể trở lại thành người," Billy làm bàm.
Charlie mở cái rương đầu tiên. Nó lôi ra một chiếc áo khoác dày bằng vải tuýt và mặc vào bên dưới áo chùng của nó. Billy chọn một cái mũ nồi xanh da trời trong một cái tủ và một cái quần nhung kẻ trong một cái rương khác. Nó đội mũ lên đầu và cột cái quần quanh cổ. Charlie vồ lấy đôi giày bốt màu nâu đế dày cui, trông thích mắt, nghĩ bụng liệu sau đó mình có đổi cho Asa được không. Nó cột dây giày lại với nhau và quàng vào cổ.
"Tụi mình tắt đèn đi nha?" Billy hỏi, khi Charlie tới chỗ hốc tối đằng sau hàng cột.
Charlie lần chần. "Không. Tụi mình phải quay lại lối này sau khi đã đưa Asa ra tới bờ sông."
"Nếu tụi mình tìm được Asa," Billy lẳng lặng nói.
Khi đã đi qua hàng cột, Charlie lia cây đèn pin lên bức tường rêu mốc, đen sì. Ở đằng cuối bức tường, một lối đi hình vòm, thấp lộ ra. Trong khoảnh khắc đó, Charlie muốn đánh đổi tất cả mọi thứ để được quay trở lại. Nhưng nó biết là không thể. "Đi, " nó nói và nhẹ cả người khi nghe tiếng bước chân của Billy lẹp kẹp đằng sau.
Cẩn thận tuôn qua mái vòm, chúng thấy mình vô một đường hầm hẹp. Mái trần thấp, tường và sàn được xây dựng toàn bằng gạch đỏ quạch, bể lỗ chỗ và lóng lánh đá vôi.Sau vài mét, đường hầm dốc sâu xuống, dốc đến nỗi tụi nhỏ bắt đầu trượt tuột luốt trên gạch ẩm ướt.
"Cứu!" Billy thét rùm.
Charlie mất đà ngã oạch xuống đất, nó quính quíu chộp đại bức tường. Cây đèn pin văng khỏi tay nó. Nó nghe tiếng cây đèn lăn lông lốc dưới đất rồi ngưng. Giây sau từ xa vộng lại tiếng thịch,khô khốc.
"Âm thanh nghe như nó lọt xuống một cái hố," giọng Billy run rẩy.
"Có thể tụi mình đã lọt cái hố đó," Charlie lầm bầm. "Cây đèn của anh tiêu là cái chắc."
Nhưng vào lúc này, chúng không bị rơi vào bóng tối đen đặc - một vầng sáng bạc tỏa nhẹ đường hầm và, trên đâu Charlie, một đốm sáng nhỏ lập lờ.
"Claerwen!" Charlie ngước lên nhìn con bướm trắng. "Sáng quá. Anh đã hy vọng nó sẽ tới mà."
"Charlie, tụi mình có lạc đường không?" Billy năn nỉ. "Em không muốn bị rơi xuống hố đó."
"Có thể có cầu thang." Quỳ thọp xuống, Charlie thận trọng bò tới trước. Tới miệng hố, nó có thể thấy một cái thang xếp bằng sắt dựa vô tường. Ngay cả trong ánh sáng tinh khôi của Claerwen, nó cũng không thể thấy cái thang kết thúc ở đâu.
Billy bò lại chỗ Charlie và ngó xuống. "Đó là vực thẳm," nó thét. "Tụi mình không bao giờ xuống tới đáy đâu. Có lẽ nó đi vào lòng trái đất."
"Làm gì có." Charlie cố ra vẻ điềm tĩnh, nhưng nó không thể giữ cho giọng đừng run.
Bỗng rồi nó nghe thấy: tiếng con thú rên rỉ đằng xa. Tiếng rên thảm não, đứt ruột đến nỗi thúc Charlie quăng chân thòng xuống thang mà không suy nghĩ một giây.
HIỆP SĨ ĐỎ
Nếu con bướm trắng không đi với chúng, Charlie không nghi ngờ gì, chắc hẳn mình và Billy đã té xuống hố chết queo rồi. Những thanh ngang của cái thang mục tơi tả. Có chỗ mất mấy thanh liên tục. Không có ánh sáng dẫn đường thì bảo đảm chúng sẽ trượt chân, mà đường rơi xuống sẽ rất xa, xa thật là xa.
Nhưng cuối cùng chúng cũng lại được đứng trên mặt đất cứng. Ở đáy hố, những bức tường lát đá tảng và đá phiến khổng lồ, và đó kìa, lùm lùm trong bóng tối, có một sinh vật xám gầy giơ xương.
"Asa?" Charlie khẽ hỏi.
Sinh vật đó quay phắt đầu lại. Con mắt vàng nhoé lên kinh hãi trước ánh sáng xa lạ, và nó hộc lên một tiếng rền đục.
"Nó nói gì đó, Billy?" Charlie hỏi.
Billy bóp trán. "Em không biết."
"Em phải biết."
"Không biết. Em đã nói với anh hoài mà. Em không còn hiểu được ngôn ngữ của thú nữa.
Cuối cùng giờ mới vỡ lẽ ra. Trước đó Charlie không hỏi chuyện Billy đến nơi đến chốn, bởi vì nó không dám để chính mình tin là Billy bị mất tài phép thuật. "Điều đó có nghĩa là em cũng không thể nói chuyện được với anh ấy?" nó hồi hộp hỏi.
"Đừng nghĩ vậy," Billy nói, dán tịt mắt vào sinh vật xám.
Bất thần một tiếng rống vang, và, răng nhe ra, con thú đâm xổ vào chúng.
"Asa!" Charlie hét. "Anh không nhận ra em sao?"
Tiếng rống hạ xuống đục rồ rồ. Charlie và Billy dựa chết dí vô tường.
"Cố lên, Billy, cố lên," Charlie nhắm mắt trong hồn xiêu phách lạc.
Phản ứng của Billy là quăng chiếc mũ nồi ra giữa sàn. Sinh vật gừ và xồ tới gần hơn. Billy quăng tiếp cái quần theo sau chiếc mũ. Sinh vật hít ngửi chúng, nhỏng đầu lên và tru.
"Em nghĩ điều đó có nghĩa là anh ấy không thích chúng," Billy nói.
"Anh mày còn kén chọn," Charlie lầu bầu. "Nếu anh mà không thích đôi giày bốt này thì anh sẽ ăn cái mũ trùm đầu của anh luôn." Chú ý để không làm sinh vật nổi giận, nó quẳng đôi giày bốt nhẹ hều qua một bên.
Sinh vật đi long tong tới đó. Khi nó cào đôi giày bóng loáng, Charlie nhận thấy con vật mới hốc hác tàn tạ làm sao. Từng cái xương sườn trơ lòi ra dưới lớp lông xám thô cứng. Hầu như khắp cơ thể không có lấy một gờ-ram thịt nào.
"Tội nghiệp," Charlie nói khẽ.
"Em nhớ âm thanh chỉ giày bốt rồi," Billy thì thào phấn khích, đoạn gừ lên một tiếng nhẹ.
Sinh vật ngước lên. Gừ một tiếng cộc lốc.
"Tốt," Billy bảo. "Nó nói là 'tốt'."
"Em còn nhớ thêm âm thanh nào nữa không?" Charlie hỏi.
"Như cái gì?"
"Ừm, em coi có thể nói với anh ấy tụi mình tới cứu anh ấy, và anh ấy phải mặc đồ vào nhanh nhanh lên, trước khi tụi mình tìm đường hầm ra sông."
"Charlie, anh ấy không thể mặc đồ được, anh ấy là sói. Mà sói làm sao đi giày?"
Charlie thấy mình khờ hết sức. "Ờ nhỉ," nó ỉu xìu. "Anh ấy cần nhiều ánh sáng hơn để biến thành người."
Billy thở hốc lên. "Em quên mất. Em chúa hay quên, nhưng mà, đây!" Billy thọc tay vô túi quần pyjamas và rút ra một cây đèn cầy. Ngọn nến lập tức bùng sáng. "Nến phép thuật của người giám hộ em," Billy sung sướng. "Em luôn giữ nó bên mình."
"Dĩ nhiên!" Charlie toét miệng cười. "Anh cũng quên phéng nó luôn. Anh nghĩ nó được việc đấy. Giơ cao lên, Billy."
Kết hợp ánh sáng từ con bướm trắng và cây nến, trong hố bừng sáng hệt như ban ngày. Con bướm nãy giờ đậu trên đỉnh tảng đá cao nhất, giờ bắt đầu bay lại gần con thú. Lờn vờn giữa hai tai con vật. Thấy một tia sáng mỏng loe loé trên mái đầu xơ xác của mình, con vật táp con bướm. Nhanh như chớp, con bướm thụt xuống đậu trên lưng con vật, tỏa một vệt sáng gắt khắp xương sống nó. Con vật quay mòng lại, rú và tru lên gầm gừ. Không nao núng, con bướm nhỏ lòn vuột qua cái đuôi teo quắt và rồi, không thể tin nổi, nó bay đan xen giữa những cẳng chân của con thú cho tới khi mỗi chân trở thành một cột ánh sáng rực rỡ. Con thú lọng cọng nhấc chân lên, nhưng tiếng gừ lịm đi chỉ còn là tiếng rên phập phều.
"Anh ấy đang biến đổi," Billy thì thào. "Coi kìa!"
Quả đúng vậy, con thú đang biến hình - một vệt tóc đỏ lưa thưa xuất hiện giữa đôi tai rách tướp. Những đặc điểm dài của sói mờ dần đi, hiện ra một cái trán nhợt nhạt, đôi má người vàng bủng hình thành quanh cái mõm nhọn, rồi tới đôi vai xương xẩu qua lớp lông xám lơ thơ. Cùng với một tiếng thét đột ngột - có thể là tiếng tru kháng cự hay niềm vui sướng - con thú quay lưng lại và nằm bẹp xuống đất.
Vài giây sau, Charlie nhận ra mình đang nhìn trân tráo vào cái lưng của một cậu bé hẳn hoi. Nó liền bước tới, cởi tấm áo khoác dưới áo chùng của mình ra và nhẹ nhàng đắp cho cậu bé.
Một tiếng nấc phụt vang trong hố. Charlie quỳ xuống bên cạnh Asa, vỗ về. "Được rồi, Asa. Tụi em đến giúp anh đây."
Billy mang cái quần xanh lá cây và đôi giày bốt lại gần. Con bướm trở về chỗ cũ của nó nơi tảng đá. Hình như nó có ý đợi.
Từ từ, Asa đứng lên. Quay lưng về phía chúng, mặc quần và đi giày vào. Khi đã rùng mình tròng chiếc áo khoác xong, anh ta quay mặt lại nhìn Charlie và Billy với nụ cười tươi rói.
"Asa! Anh lại là anh rồi," Charlie reo mừng.
"Đúng," Asa nói khàn khàn. Bật ho. "Xin lỗi, cổ họng khô nghét. Chưa hề nói chuyện suốt mấy tuần."
"Tụi em sẽ đưa anh ra khỏi đây, nhưng tụi mình phải lẹ lên. Có một đường hầm dẫn ra bờ sông. Có người đang đợi để cứu anh. Mẹ anh sẽ ở đó." Charlie nói nhanh đến nỗi Asa thộn người ra, bối rối.
Charlie nói chậm lại. "Suy đoán của em là đường hầm bắt đầu đằng sau một trong những tảng đá kia."
"Mẹ tôi khỏe chứ?" Asa lầm bầm.
"Khỏe." Charlie ngần ngừ rồi vụng về nói, "Em rất tiếc về ba của anh."
Mặt Asa chợt nhúm nhó lại, thấy vậy Billy vội nói, "Em cá đường hầm ở đằng sau tảng đá cao kia, chỗ con bướm của anh đậu í, Charlie. Em chắc chắn luôn đó."
"Tụi mình lại coi xem sao." Charlie đi tới tảng đá và cô dịch dời nó. "Cần phải ba tụi mình mới nổi. Phụ với nào, hai vị."
Billy tắt nến của nó đi và đút trở vô túi quần. Sau vài phút đẩy và lôi, thở phì phà phì phò, chúng loay hoay dời được tảng đá vài phân khỏi bức tường. Billy nói đúng. Có một lối ra bí mật. Như được tiếp thêm sức, ba thằng đẩy tảng đá thêm vài phân nữa. Giờ thì đủ chỗ cho chúng ép mình chui qua cửa hầm.
Bọn chúng lẳng lặng mà đi. Billy trước, rồi tới Asa. Charlie bước sau cùng, phòng trường hợp anh ta lại mất đi dạng người. Nhưng con bướm trắng dập dềnh bay sát thằng người thú, nhằm bảo đảm ánh sáng cho anh ta giữ nguyên hình hài con người.
Đường hầm này tối đen và bốc mùi mốc hơn đường hầm đầu tiên nhiều. Tất nhiên là nó lạnh lẽo hơn. Charlie và Billy trùm mũ áo chùng lên, còn Asa, hơi lần chần, đội mũ nồi vào. Charlie là đứa đầu tiên nhận ra nước, khi chân Asa bắt đầu lội lóe tóe, bắn những tia nước lạnh toát vào chân Charlie.
"Anh có nghĩ nước sông sẽ tràn vô đường hầm không?" Billy hốt hoảng hỏi.
"Không thể nào," Charlie đáp. "Đường này ở phía trên dòng sông rất xa,vả lại, tụi mình đang đi lên chứ không phải đi xuống."
"Nhỡ sông làm lụt hang thì sao?" Billy cố chấp.
"Trời dạo này đâu có mưa," Charlie nói. Dẫu nói vậy nhưng nó đồng thời nhớ lại cảnh nước sông dâng cuồn cuộn suýt quét chúng khỏi cây cầu. "Dagbert," nó lầm bầm.
Vài phút sau, nước dâng sấp đầu gối. "Tụi mình phải quay lại thôi," Billy hét.
Charlie ngoái dòm lại. Đằng sau nó, một dòng nước bùn sình đang tràn vô đường hầm. "Không được rồi. Đằng sau tụi mình nước còn ngập sâu hơn. Lẹ lên, Billy."
Billy dợm chân chạy, nhưng thoáng cái, nước đã cao hơn đầu gối nó. Sức nước mạnh đến nỗi nó gần như không tiến lên được. "Tụi mình sẽ chết đuối mất," nó mếu máo.
Asa xuội dựa vô tường. "Tại tôi," anh van vỉ. "Manfred không bao giờ buông tha tôi. Hắn thà thấy tôi chết còn hơn."
"Là Dagbert Endless đó," Charlie cay đắng. " Tụi mình quyết không để nó đánh bại. Phải chạy tiếp thôi." Nó vượt qua Asa và chộp lấy tay Billy. "Chúng ta phải giúp nhau. Nào, Asa, nắm lấy tay kia của Billy."
Chúng lại bắt đầu di chuyển, chậm một cách đau đớn, trong khi con bướm trắng lượn lờ trên đầu, phát ra những tia sáng sống động có tác dụng khích lệ tinh thần bọn chúng. Thế nhưng nó không thể ngăn nước ngừng dâng, và chẳng bao lâu dòng nước xoáy mấp mé eo bọn chúng. Charlie không biết mình còn cách sông bao xa nữa. Có lẽ triền sông đã chìm dưới nước rồi cũng nên. Để rồi ngay khi ló ra, chúng sẽ bị cuốn vô dòng nước lũ.
Khi nước tới vai, Charlie bắt đầu từ bỏ hy vọng.
Xa tuốt bên trên đường hầm, Tancred Torsson đang băng qua sân chơi của học viện Bloor. Cậu vốn rất nhạy cảm với nước trong tất cả mọi trạng thái của nó. Cậu có khả năng bắt mạch thủy triều, nhận biết mưa đang trên đường tới, thậm chí cậu còn biết chắc khi nào nước trút khỏi đám mây nặng nề. Lúc này đây, Tancred biết đích xác là sâu dưới lòng đất, có nước đang tràn lấp một đường hầm cổ xưa. Cậu nghe thấy tiếng nước rùng rùng dưới chân mình, và đoán ra Charlie đang gặp nguy hiểm. Chẳng khó cho Tancred biết dòng nước chết người đó bắt nguồn từ đâu. Ở rìa khu rừng bao quanh lâu đài Vua Đỏ có ánh sáng lân tinh chiếu phừng phực lên khỏi những ngọn cây. Khi tiến tới gần hơn, Tancred bắt gặp Dagbert Endless đang dựa vô một thân cây. Đầu nó ngỏng lên, mắt nhắm tịt, miệng cười cợt.
Tancred xăm xăm tiếp cận thằng bé. "Dừng lại ngay," cậu ra lệnh.
Dagbert choàng mắt ra. "Ố, là mày."
"Tao nghe tiếng nước. Mày đang dìm chết tụi chúng. Dẹp ngay."
"Sao phải dẹp?" Dagbert sừng sộ. "Tao đang thưởng thức thời huy hoàng của cuộc đời tao."
"Không còn nữa." Tancred tung áo chùng của mình thành một hình vòng cung rộng màu xanh lá cây.
"Mày định làm gì?" Dagbert ngờ vực hỏi.
Một luồng khí băng giá cuốn nó xoay tít rời xa cái cây. "Thôi!" nó thét gào đúng lúc một cơn gió mạnh hất hai chân nó hổng khỏi mặt đất. Tức thì dòng sinh vật nhỏ vàng óng tuột khỏi túi nó khi nó bị úp ngược xuống, quơ quào không khí.
Dấn người tới trước, Tancred chụp lấy những sinh vật nhỏ tí.
"Không!" Dagbert hét.
Tancred lùi lại và để cho thằng bé đâm sầm xuống đất. Dagbert nằm cứng đờ một hồi, sau đó bắt đầu run như giẽ. Mặt nó bắt đầu nhóa lên thứ ánh sáng xanh lá cây bệnh hoạn, hai bàn tay nó phát sáng và một quầng sáng dạ quang chiếu xuyên qua quần áo nó. Cơn run không sao kiểm soát được.
"Trả... sinh... vật... biển... cho... tao," Dagbert láp ngáp.
"Cái này á?" Tancred bốc chuyển chúng từ tay này qua tay kia. "Tao không nghĩ thế."
"Tàn ác!" Dagbert rống lên.
"Dừng nước lại!"
"K-h-ô-n-g!"
Tancred giơ cao bàn tay nắm chặt lên và Dagbert bay vút qua khu rừng. Những cành sắc đâm rách áo quần nó, cào toạc mặt nó, gai mắc vào tóc nó và những cành trụi lột sạch giày nó. Lúc nó rơi tòm xuống đất lần thứ hai, cơn run trở nên dữ dội đến mức người nó giãy đành đạch dưới đất. "Trả tao..." nó khều khào.
Tancred bước tới bên thằng bé phát sáng. "Tao sẽ chẳng trả mày cái gì đến chừng nào mày ngưng nước lại."
Im lặng thật lâu, sau đó, tiếng thở dài, Dagbert nhắm mắt lại và vấn tay xuống đất.
Tancred bắt đầu cảm thấy một sự thay đổi nơi mặt đất dưới chân mình. Cậu nhìn Dagbert và chờ đợi. Vẫn run cầm cập, Dagbert cắm những ngón tay xuống sâu nữa, sâu nữa xuống mặt đất. Cuối cùng bằng giọng run bắn, nó vọt ra lời "Xong!"
"Hừm, tao sẽ không cảm ơn mày đâu." Tancred quay ngoắt đi.
"Làm ơ-n," Dagbert rên rỉ.
"Những sinh vật vàng óng của mày? Đến mà lấy chúng đi này." Tancred rải những con cá bé xíu và những con cua vàng xuống bãi cỏ cao làm lằn ranh của khu rừng. Nhưng cậu đút con nhím biển vô túi quần. Dành cho những cuộc đối đầu sau này, cậu nhủ thầm. Hòa mình vào bóng tối đen đặc, cậu lần đường trở lại trường. Trước đó cậu phát hiện thấy một luồng sáng ở trên lầu trên cùng của tòa nhà và không muốn làm gì liều lĩnh cả.
Lão Ezekiel đã chứng kiến toàn cảnh đó từ trên cửa sổ gác mái cao vọi của lão. Có điều, vì không biết là Dagbert không ở một mình trong rừng, lão ấn tượng quá trời trước những màu sắc chói rực bốc cuồn cuộn lên khỏi ngọn cây.
"Bắc cực quang của riêng chúng ta," lão cười khục khục. "Giỏi lắm, Dagbert Endless."
Trong đường hầm, sâu bên dưới cánh rừng, Charlie cảm thấy dòng nước bắt đầu yếu đi.
"Nó đang rút," Asa hổn hển.
Chẳng mấy chốc bọn chúng thấy bùn sình trở lại dưới chân mình. Vài phút sau chúng đã bước đi trên nền gạch ướt lấp xấp. Dòng lũ chỉ còn là những gợn nước lăn tăn.
"Làm sao lại có chuyện này được?" Billy nói.
"Anh nghĩ Tancred đã ra tay đấy." Charlie cười toe ngước nhìn mái trần rêu phủ.
Bây giờ chúng đang đi lên một con dốc nghiêng. Xa tít bên trên, Charlie có thể thấy vầng trăng và, dẫu bị té ạch đụi mấy lần xuống nền gạch trơn trợt, mặt trăng tưới lên chúng một niềm hy vọng tươi mới và, phớt lờ quần áo ướt sũng và tay chân trầy trụa, chúng hăng hái bò lên, cho tới khi từng đứa một, lăn tòm vô một bãi cây nhỏ bên cạnh triền sông. Một làn gió mạnh đã thổi bạt mây khỏi bầu trời, để lại vạn vật tắm đẫm trong ánh trăng.
"Chúng ta tới rồi!" Charlie hét to, lăn xuống bờ dốc.
Bọn kia lăn theo. Asa thậm chí còn cười rúc rích. Trông bộ dạng anh ta thật quái với mái tóc đỏ thòi lòi dưới mũ nồi, và áo khoác dài tráng kín bùn.
Giờ chúng đã tới đây, đủ cả ba đứa, run lập cập vì ướt và lạnh, và Charlie muốn chắc chắn Asa đến được chiếc xe thùng của ông Bartholomew. Chúng chạy dọc theo dải đất cho tới khi cây cầu hiện ra trong tầm mắt, và đó kìa, thấy nhô lên khỏi bức tường đá, là một chiếc xe thùng màu trắng.
"Asa," Charlie chỉ cây cầu, "Thấy chiếc xe thùng màu trắng đó không? Mẹ anh ở trong đó, đang chờ anh đó."
Nó chưa dứt lời, cả bọn bỗng cảm thấy mặt đất rung chuyển. Có tiếng rập cà rập từ xa dội đến tai chúng; lúc tiếng động lớn dần lên thì một con ngựa trắng phi xuống bờ dốc cạnh cây cầu. Trên lưng ngựa một hiệp sĩ mũ giáp bạc và áo chùng nhung trông xam xám dưới ánh trăng, tuy nhiên Charlie biết áo chùng phải là màu đỏ rực. Chúng thấy ánh thép nhóa lên khi hiệp sĩ tuốt gươm ra và lao vun vút tới chỗ bọn chúng.
Trong khoảng khắc đó, Charlie chỉ nghĩ một điều là bấy nay mình luôn đúng. Hiệp Sĩ Đỏ đó không phải là bạn. Ông ta đã được trao cho thanh gươm bất khả chiến bại mà ông ta luôn rắp tâm sử dụng để chống lại bọn chúng.
Chúng quay đầu chạy, nhưng biết chạy đi đâu bây giờ, do bởi ở đầu phía ấy, một con ngựa khác cũng đang phi hùng hục về phía chúng. Mặt đất rùng rình vì tiếng vó ngựa nện xuống triền sông. Chùm lông chim xám thẳng đơ trên đầu ngựa, và hiệp sĩ ngồi trên lưng con ngựa này lăm lăm một cây thương dài màu nhờn nhợt.
"Trông họ như đá," Billy kêu re ré.
"Họ là đá," Charlie thét ầm.
Bị kẹt giữa Hiệp Sĩ Đỏ và hiệp sĩ xám, dòng sông xem ra là nơi duy nhất để tẩu thoát. Charlie đứng sựng, run rẩy trên triền đất ngập ánh trăng, không thể cục cựa, trong khi Asa và Billy đã bò thụp xuống, giật giật áo chùng của Charlie và gào thét cái gì đó không hiểu được. Và rồi, khi cả hai con ngựa lao vào chúng đến nơi, thỉ Hiệp Sĩ Đỏ thét vang "NẰM XUỐNG!"
Charlie nhào xuống đất ngay trước lúc ngựa và người cưỡi lướt qua phía trên nó. Một luồng khí phụt ra từ tấm áo choàng bay phần phật là ấm tới xương nó, khiến nó thôi run tức thì.
Cây thương của hiệp sĩ đá xỉa thẳng vô ngực Hiệp Sĩ Đỏ nhưng, vào khoảng khắc cuối cùng, con ngựa trắng thình lình ngoặc hướng, nhanh hơn tia chớp, Hiệp Sĩ Đỏ phập thanh gươm của mình xuống. Một nhóe sáng đốt cháy theo chiều dài cây thương. Con ngựa đá khiếp vía quay đầu trên tiền sông. Cây thương bị kéo căng ra hết cỡ, rồi bất chợt bay chíu về phía lưng của Hiệp Sĩ Đỏ.
Charlie nghe thấy một tiếng kịch khi ngọn thương đâm trúng mục tiêu. Nhưng Hiệp Sĩ Đỏ không hề loạng choạng trên lưng ngựa. Cây thương nảy bật khỏi tấm áo choàng đỏ của ông, con ngựa trắng nhảy dựng qua bên và Hiệp Sĩ Đỏ chém mạnh cây thương bằng thanh gươm của mình, nhát nữa, nhát nữa, lại nhát nữa.
Một tiếng rắc long trời, và cây thương gãy làm đôi, một đoạn rớt thịch xuống đất. Hiệp sĩ đá thúc ngựa mình húc thẳng vào sườn con ngựa trắng; một tiếng hí đau đớn vang động thinh không khi con ngựa trắng lùi lại, nhưng trong lúc nó chuyển động thì lưỡi gươm của Hiệp Sĩ Đỏ đã phang trúng mũ giáp của hiệp sĩ đá. Đầu hắn đứt lìa, nhưng toàn thân hắn vẫn hoạt động, điên cuồng lia cây thương cụt. Thanh gươm lại xả xuống lần nữa, chẻ hiệp sĩ đá ra làm đôi, chặt cánh tay hắn và chém bay đoạn thương còn lại. Những mẩu đá rơi lịch thịch xuống đất; con ngựa đá lảo đảo vài cái rồi lăn tỏm xuống sông.
Ba thằng bé lồm cồm đứng dậy, vẫn run, mặc dù quần áo chúng đã khô lại, và chúng không còn cảm thấy lạnh nữa. Chúng ngước nhìn chối chết vào Hiệp Sĩ Đỏ và con ngựa của ngài, giờ đứng bất động dưới ánh trăng. Nếu không nhờ hơi bốc ra từ con ngựa trắng, thì cứ tưởng họ đã hóa thành bức tượng.
"Lúc này tôi có thể tự lo cho mình được rồi." Asa nở nụ cười quai quái trên mặt. "Tốt hơn hai cậu hãy trở về trường đi."
"Anh có chắc không?" Charlie hỏi.
"Chắc chứ," Asa nói, khi con ngựa trắng hướng về phía chúng.
Tụi con trai dạt qua bên để con ngựa cùng người cưỡi đi qua. Charlie nghe thấy tiếng da cọ quậy, tiếng áo giáp kêu lách cách, và tiếng thở hì hụi của con ngựa. Hiệp Sĩ Đỏ ngồi thẳng trên yên, thanh gươm của ngài đã được tra vô vỏ, treo lủng lẳng nơi thắt lưng, tấm áo choàng đỏ nằm im che lấy lưng ngài. Ngài dừng lại một thoáng và nhìn xuống bọn chúng. Mũ giáp che khuất mặt ngài, chi còn tia phản chiếu của đôi mắt là thấy được.
Khi con ngựa dấn tiếp, Asa bước đi bên cạnh nó. Charlie và Billy nhìn thân hình cao lêu nghêu của Asa trong chiếc áo choàng dài, và Charlie lầm bầm, "Giờ anh ấy an toàn rồi."
"Một người an toàn nhất trần đời," Billy thêm.
HIỆP SĨ ĐỎ (Tiếp)
Khi chúng leo lên trở lại cửa hầm, Charlie nghĩ mình trông thấy hai bóng người đứng dưới bãi cây: một cao lớn và một bé xíu.
Cuộc hành trình trở lại trường dễ hơn và nhanh hơn bởi vì đường hầm giờ đã sạch trơn nước.
"Luôn nhanh hơn khi ta biết mình đang chờ cái gì," Charlie nói, khi hích người leo lên chiếc thang sắt, ra khỏi cái hố kinh hoàng. Thế nhưng chúng không hề chờ đợi để thấy điều mà chúng thấy khi ló lên căn phòng dưới lòng nhà hát.
Lúc nãy Charlie không hề trông thấy Manfred ở đâu trong nhà hát, đơn giản là vì hắn núp đằng sau hàng ghế đầu tiên ở khán phòng. Hắn nghe thấy tiếng cửa sập hạ xuống và chờ đợi, cười khẩy một mình, tưởng tượng cảnh Charlie và Billy tự dẫn xác xuống cái hố hắn nhốt thằng người thú. Hắn đặc biệt khoái chí thưởng thức bức tranh hắn tự vẽ trong đầu, khi nghĩ đến dòng nước lụt dìm chết người của Dagbert tuôn vô đường hầm.
Asa sẽ chết đuối, Manfred nói một mình, ta sẽ mất con thú hữu dụng, nhưng không còn cách nào khác. Với việc Billy Raven bị xóa sổ, thì ai thèm quan tâm Lyell Bone có tìm được bản di chúc của Maybell Raven hay không. Còn về Charlie Bone, thằng đó càng biến nhanh chừng nào tốt chừng nấy.
Nhưng Charlie luôn có cách thoát khỏi hiểm nghèo, nên Manfred muốn đảm bảo chắc chắn lần này Charlie đừng hòng sống sót. Rời khỏi chỗ núp, hắn leo lên sân khấu. Trong túi quần hắn có sẵn chiếc chìa khóa để mở ổ khóa cũ trên cửa sập. Hắn sắp sửa bấm ổ khóa lại thì bất chợt cơn tò mò xâm chiếm lấy hắn.
Manfred nâng cửa sập lên và đi xuống phòng phục trang. Dường như nó trống trơn. Tung tẩy ổ khóa trong tay và huýt sáo một mình, Manfred ló đầu qua một trong những cây cột và nheo mắt ngó vô màn đêm. Không có gì. Và rồi, từ xa, hắn nghe thấy tiếng hét kinh hồn của Billy lúc trượt chân ngã xuống đường hầm.
Manfred mỉm cười mãn nguyện. Hắn quay lưng đi và sững sờ chết điếng, mặt đối mặt với Lysander Sage.
"Mày làm gì ở đây?" Manfred quát đùng đùng.
"Đưa ổ khóa cho tôi," Lysander ra lệnh.
"Đừng hòng tao đưa mày cái gì," Manfred nhạo báng. "Cút khỏi đây trước khi tao gọi lão Weedon."
"Tôi chắc chắn là lão Weedon đang chạy lòng vòng thành phố đếm xe thùng màu trắng và tự hỏi cái nào cần theo dõi. Giờ thì, đưa tôi cái ổ khóa đó."
"Tới mà lấy coi!"
"Được." Giang hai tay ra, Lysander quay mòng mòng căn phòng, len lõi qua những cái rương bằng da và những giỏ bằng liễu gai. Những bức tường âm vang tiếng ngâm nga bí ẩn và, trong khi Manfred từ từ lùi lại cầu thang, tiếng trống bắt đầu hòa nhịp với giọng của Lysander. Những hình nhân tái xám bắt đầu tràn lấp không gian đen ngòm giữa các cây cột, rồi từ từ mỗi hình nhân ma quái biến thành một người đàn ông cao lớn, da đen. Nhưng cánh tay màu nâu của họ đều đeo vòng vàng, thân hình họ trùm trong áo thụng trắng, ai ai cũng cầm một ngọn giáo dài.
"Ảo ảnh," Manfred lầm bầm.
"Anh biết thừa là không phải," Lysander nói. "Họ là tổ tiên của tôi và họ hữu hình như bất kỳ sinh vật nào trong thành phố này."
Một trong những chiến binh luồn ra sau Manfred, khóa chặt đường tới những bậc thang của hắn.
"Đưa ổ khóa cho tôi," Lysander chìa bàn tay ra.
Manfred lắc đầu tê liệt. Nắm chặt ổ khóa, hắn bỏ hướng tới cầu thang và nhắm tới lối đi giữa những tủ và rương.
"Thế thì hãy nhận lãnh hậu quả." Lysander hú lên một tràng dài và những chiến binh đen dồn về phía trước. Khi họ vây sát Manfred, hắn thét lên một tiếng khiếp đảm, đồng thời quăng bừa ổ khóa cho Lysander, rồi vội vàng mở nắp một cái hòm đan bằng liễu gai lên và nhảy tọt vô trong, đóng nắp lại trên đầu.
Lysander bước tới cái hòm và bấm ổ khóa lại. Sau đó, rút chìa khóa ra, anh ngồi trên nóc hòm và đợi.
Sửng sốt trước ánh sáng rực rỡ rọi về phía mình, Charlie và Billy chù chừ trước khi bước qua hàng cột. Và chúng thấy Lysander, bao quanh là những tổ tiên tâm linh cao lớn của anh.
"Cái..." Charlie lắp bắp.
"Suỵt!" Lysander chỉ cái hòm bên dưới mình. Không mở khóa ra, anh đứng dậy và đưa tụi nhỏ lên cầu thang.
Trước khi đóng cửa sập lại, anh khẽ gọi những tổ tiên tâm linh, và mặt anh nở ra một nụ cười tươi rói.
"Chuyện gì thế?" Charlie hỏi.
"Manfred đang định khóa các em lại," Lysander bảo. "Nhưng anh đã khóa nhốt hắn rồi. Tổ tiên của anh sẽ canh giữ hắn cho tới bình mình."
Billy nem nép ngó gương mặt điềm nhiên của Lysander. "Nhưng anh ta sẽ tức giận... sẽ... sẽ..."
"Hắn sẽ không làm gì đâu," Lysander trấn an thằng bé. "Em tưởng hắn muốn lu loa cho tất cả mọi người biết mình đã bị nhốt trong một chiếc hòm và không ngăn được các em trở lại sao? Tin anh đi, hắn quá kiêu ngạo để làm điều đó. Giờ, cho anh biết coi, các em có thành công không?:"
"Rất thành công," Charlie đáp.
Khi chúng kiễng chân về những phòng ngủ chung của mình, Billy thì thào bằng giọng buồn ngủ. "Sander, em đã thấy Hiệp Sĩ Đỏ và một con ngựa trắng. Và em nghĩ đó là hoàng hậu mà lão Ezekiel đã vô tình làm sống lại."
"Vậy chắc có lẽ Hiệp Sĩ Đỏ là nhà vua đó," Lysander bảo.
"Cũng có thể," Charlie nói.
Ở đầu kia thành phố, trên đường lái xe trở về nhà sau một điệp vụ tối quan trọng, chú Brown đếm thấy có không dưới mười bảy chiếc xe thùng móp méo màu trắng đậu ở những vị trí khác nhau trong thành phố. Chú ghi lại từng vị trí vào sổ tay của mình. "Có gì đó đang xảy ra," chú lầm bầm. "Trừ phi... đúng rồi. Ảo ảnh." Chú liền xé bỏ tờ giấy đó đi.
Vừa lúc đó, chiếc xe thùng duy nhất chú không thấy đã phóng ra khỏi thành phố.
CHARLIE NHẬN ĐƯỢC MỘT TẤM BƯU ẢNH
Vào sáng thứ Ba, có một tâm trạng tò mò bao trùm khắp học viện Bloor. Thậm chí cả bọn trẻ không dính líu gì đến cuộc đào thoát của Asa cũng cảm nhận về một sự thay đổi trong bầu không khí.
Dagbert Endless nằm mẹp trên giường, mặt chi chít những vết cào. Chốc chốc lại rên rỉ về gió máy. Nắm tay nó áp chặt vào má, nhất định không cho ai thấy mình đang cầm cái gì, mặc dù, thỉnh thoảng giữa những ngón tay nó, lại để lộ ra những tia sáng vàng.
"Cứ mặc kệ nó," bà giám thị bảo. "Nó đang bị ác mộng đấy mà."
Thế là Dagbert được phép nằm lại giường, một điều chưa từng có đối với đứa trẻ nào trong học viện Bloor
Trong phòng riêng của hắn ở chái phía Tây, Manfred Bloor cũng nằm bẹp dí trên giường. Úp mặt vô tường, lảm nhảm về những chiến binh ma quái.
Lão Ezekiel đích thân lăn xe tới cửa phòng Manfred và gõ. Không có tiếng trả lời. Thấy cửa khóa, lão Ezekiel giật giật tay nắm cửa. "Mày có thành công không?" lão gọi. "Sứ mạng có hoàn thành? Asa đi đời? Charlie đi tong và oắt Billy tiêu ma?"
"Đi đi," Manfred gầm gừ.
"Thế thì thất bại rồi," ông cố nội hắn thở dài rồi thiểu não lăn xe đi.
Món trứng được phục vụ trong căng-tin xanh da trời. Charlie không bao giờ nhớ mình đã được chiêu đãi như thế này trong bữa sáng ở trường. Nó đứng ở cuối hàng, cố mở đôi mắt líu díu ra, ngáp rõ to.
Bà bếp trưởng trao phần ăn được thêm ê hề cho Charlie khi nó tiến tới quầy. "Ta đã ù ra ngoài mua trứng đó," bà nói. "Tại sao bọn trẻ các con không xứng đáng một bữa sáng thịnh soạn cho khác đi?"
"Bà bếp trưởng, trông bà không còn lo lắng nữa," Charlie nhận xét.
"Ta biết mình không đơn độc." Bà nhoẻn với nó một nụ cười bí mật, sau đó lôi một vật ra khỏi tạp dề. "Ta tình cờ gặp ngoại Maisie sáng nay. Thật hên ơi là hên. Bà ấy nhờ ta mang cái này cho con." Bà bếp trưởng nhoài qua quầy và trao cho Charlie một tấm bưu ảnh.
Mặt sau có một con tem nước ngoài và nét chữ viết tay của ba nó. Sau vài dòng về chuyến đi và thời tiết thì tới câu: "Một ngày nào đó ba mẹ sẽ đưa con đi cùng, Charlie, rồi con sẽ tận mắt thấy những sinh vật lộng lẫy đó."
Ở mặt trước tấm bưu ảnh, hình một cái đuôi cá voi lưng gù choán lấp bầu trời trên mặt biển mênh mông, lấp la lấp lánh.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro