Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

CC-Lenghiabk05

Miếng ngon quê hương

Trở về từ chuyến viếng thăm quê hương, nhiều bà con bạn bè ân cần thăm hỏi. Một số còn tò mò hơn về những món ăn bên nhà, nhất là những “đặc sản” từng vùng.

Nói về “đặc sản”, tức là những sản phẩm đặc biệt, mà riêng về miếng ăn thức uống, Việt Nam bây giờ không thiếu chi sơn hào hải vị quí hiếm. Sơn hào có thịt khỉ thịt voi thịt gấu thịt cọp thịt heo rừng thịt cheo thịt trút thịt trăn thịt rắn … Hải vị có rắn đẻn cá óc-nóc nhum đồn đột hải sâm hải mã … Còn phải kể “quí vị” ruộng rẫy cào cào châu chấu chim sâm cầm kỳ nhông cắc kè … không xiết !

“Đặc sản” nếm trong đời, hẳn nhiều người lưỡi từng tê tân khổ. Dở ngon, ít nhiều, không quan trọng. Điều đáng kể là có nhiều miếng ngon chẳng phải hiếm hoi trân quí, nhưng một khi đã thấm đậm khẩu vị cùng tâm ý, còn nhớ mãi cả đời.

Miếng ngon quê hương của tôi, có ba món đáng gọi là “đặc sản.”

Đầu tiên, là Cơm Nắm, còn gọi là Cơm Vắt hay Cơm Bới.

Cơm Nắm

Cơm nấu bằng gạo tẻ. Gạo gie gạo dự nàng hương nàng hai tám xoan tám thơm nanh chồn … Chỉ cần một loại gạo dẻo, thơm, mềm. Được gạo mới càng hay. Khi nấu, thêm vài lá dứa cho thơm. Nấu khéo vừa chín, không khô, chẳng nhão, hạt cơm vừa nở đúng độ. Dùng mo cau non, loại mo bao quanh buồng cau, mỏng mềm, không phải mo bẹ lá. Cơm vừa chín tới xới ra mo cau sạch, nhồi nhanh mạnh tay nhiều lần cho hạt cơm dẻo mềm nhuyễn nhừ dính sát nhau thật mịn, rồi nắm lại.

Tùy sở thích, nắm cơm có hình dáng tròn đầy cỡ miệng chén, hoặc vuông vức dẹp hơn cái bánh chưng, hay một thỏi tròn lẳn có đường kính nhỏ hơn miệng chén và dài khoảng một gang tay. Nắm cơm để nguội, gói lại trong lá chuối hay lá sen xanh mượt, hoặc mo cau mềm, để giữ khỏi bị khô.

Thức ăn kèm cơm nắm thường là muối mè trộn đậu phụng rang vàng giã nhuyễn. Có thể thêm tí đường. Sang hơn thì dùng thịt ruốc chà bông hay giò lụa chả quế. Rất đơn giản thì chỉ cần chấm lát cơm nắm mềm mịn vào một chút nước mắm ngon, là đủ. Người Hà Nội dùng cơm nắm xong, có bát nước chè tươi hay trà Thái Nguyên, rồi hút một điếu thuốc lào.

Dân Quảng Trị Thừa Thiên thích cơm nắm với cá hẻn – cá trê nhỏ – kho khô, hoặc muối sả. Sả tươi băm nhuyễn xào với mỡ gáy cắt hạt lựu, có tỏi, ớt bột, thịt heo hay bò băm, trộn thêm mè rang vàng giã hơi dập, và mắm ruốc. Mắm ruốc, không phải mắm tôm. Ngoài ra, giản tiện dễ dãi hơn, chỉ cần chấm cơm nắm với mắm ruốc có rắc chút ớt bột. Người miền Trung ăn cơm nắm – còn gọi là cơm bới – như vậy kèm thêm trái khế chua hay ngọt. Ăn xong làm một đọi nước chè tươi nấu có vài lát gừng. Tuyệt!

Miếng cơm nắm tôi được ăn lại, không phải tại quê miền Trung, mà tại một con ngõ nhỏ phố phường Hà Nội.

Sáng hôm ấy một mình lang thang khu “phố Tây,” nhìn lại những căn biệt thự thời Pháp thuộc nay đổi chủ, vui chân về phía sông Hồng, cuối phố Trần Hưng Đạo, thấy hai bên Bệnh viện Việt Nam có hai con ngõ ngồ ngộ. Rẽ vào một. Ngõ 90.

Đang đi, bỗng nghe một giọng rao cao vút “Ai cơm nắm! Cơm nắm muối vừng đê … !” Nhìn lại, một chị áo cánh trắng quần đen nón lá, dắt xe đạp. Chiếc xe thồ phía sau một thúng lớn đậy lá chuối, bên trên lủ khủ mấy hộp nhựa trắng đục đậy kín, ngăn nắp xếp trên một cái mẹt vừa nhỉnh hơn miệng thúng, và trên cùng là vài chiếc mẹt cỡ nhỏ hơn.

Chị dừng xe bên lề, dưới gốc bàng lá đỏ, cạnh một quán ăn nho nhỏ. Tôi cũng dừng cạnh chị, lân la làm quen bằng cách mua một nắm cơm trong lá chuối, kèm vài miếng giò quế và tí muối vừng. Vài khách trong quán cũng gọi mua.

Khi chị ngừng tay, tôi bèn hỏi chuyện.

Chị cho biết gốc làng Liên Xá huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên ngay phía Nam Hà Nội, cùng quê với danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Đôi mắt đen của chị lấp lánh dưới vành nón lá gợi nhớ quan họ lấp lánh là lấp lánh ơi … Đôi mắt đen phản chiếu màu nắng, sáng ánh nét vui khi chị nhìn tôi :

- Con ngõ này ngộ lắm. Có khi người ta gọi là Ngõ Không Tên, nhưng nhiều khi được gọi là Ngõ Nguyễn Tuân đấy cô ạ.

Thấy tôi nhướng mắt sắp mở miệng hỏi, chị tươi cười giải thích :

- Cháu mới theo nghề này mấy năm đây thôi. Trước mẹ cháu đội thúng cơm nắm đi bán, và từng gần như mỗi ngày vào con ngõ này là được ông ấy gọi mua. Mẹ cháu bảo lúc sinh thời nhà ông lúc nào cũng lắm bè bạn vang vang vui chuyện. Con ngõ nay được mang tên Ngõ Nguyễn Tuân vì dạo ấy nhiều khách bốn phương đến tìm ông, ra vào tụ họp hàng ngày.

Tôi ngây người, nhớ Tùy Bút Tóc Chị Hoài Chùa Đàn Vang Bóng Một Thời … Nguyễn Tuân, người từng đi và viết nhiều từ hơn nửa thế kỷ trước, từng sống trong ngõ này, từng kể nhiều chuyện về miếng ăn thức uống, từng cơm nắm chấm nước mắm …

Chị cơm nắm kéo tôi về thực tại :

- Mười mấy năm trước, làng Liên Xá cháu đã tươi mươi* trổi dậy nhờ nghề cơm nắm. Mấy năm gần đây, cơm nắm không cạnh tranh nổi với vô số “đặc sản” tân kỳ kinh tế thị trường của nhiều hàng quán la liệt khắp phố phường Hà Nội. Tuy nhiên, cũng còn người yêu cơm nắm. Hầu hết là giới công nhân chân tay, một số người Hà Nội hoài cổ, và – chị ngập ngừng nhìn tôi rồi nói tiếp – còn lác đác vài người hoài hương như cô đây.

Tôi mỉm cười chịu nhận :

- Cơm nắm ăn chắc bụng. Nếu ở nhà thì tôi đã ăn cơm nắm với cá kho khô. Cơm với cá như mạ với con mà lị!

Chị cười vui với lời ví von của tôi. Nụ cười tắt ngay và đôi mắt đen sáng bỗng tối sầm :

- Nghề này hết thời rồi. Ngày xưa ra đi ngó trước ngó sau, ngó nhà mấy cột ngó cau mấy buồng. Bây giờ nhà chẳng cần cột vườn không trồng cau. Nhà bây giờ bê-tông với gạch, vườn bây giờ đất đai đắt đỏ nên bỏ vườn chặt cây bán đất cất nhà. Cau chẳng mấy ai ăn nên chẳng ai thiết trồng lại. Xưa dùng mo cau non nắm cơm, bây giờ dùng khăn vải thay vào đấy cô ạ.

Tôi nhìn gói cơm nắm như một bạn cũ lâu ngày gặp lại. Người bạn chân quê ngày xưa nay theo cuộc đổi đời đưa đẩy đã được sửa sang nhan sắc để đi vào phố thị. Ngậm miếng ngon cơm nắm, bỗng thấy mình vụt biến thành bà mẹ quê còm cõi áo cánh nâu khăn mỏ quạ tựa gốc cau sau hè có buồng hoa đuôi phượng le te trắng ngà tỏa hương dìu dịu. Ngoài kia, cánh đồng lúa con gái đương thì rì rào dào dạt sóng. Nắng bỗng thẫm lại. Một đám mây giăng ngang rồi trôi đi. Giải nắng lại sáng rực trôi trên đồng ruộng.

Miếng ngon quê hương thân thương ngọt bùi chưa nuốt trọn bỗng thấy nghẹn ngào. Lòng ngậm ngùi không vui. Có phải tại mình vô tình – hay cố ý – uống hai lần trong cùng một dòng sông, dẫu là sông Đào ?

Miếng ngon quê hương của tôi, sau Cơm nắm, là Xôi Lúa.

Xôi Lúa

Những ngày ở Saigòn, khi được hỏi về những món ăn ưa thích, tôi chỉ xin Xôi Lúa. Ai cũng ngạc nhiên, nhưng không thắc mắc.

Họ không thắc mắc, nhưng tôi thì có. Xôi Lúa dùng gạo nếp, bắp, đậu xanh, hành phi mỡ hay dầu, và tí đường. Vậy sao gọi là Xôi Lúa ?

Gạo nếp có khắp cùng thế giới, và quê ta có đủ từ nếp dài nếp tròn nếp đen nếp hồng nếp than nếp quạï nếp cẩm nếp vàng nếp hương … Nhưng Xôi Lúa chẳng lẫn hạt lúa nào, ý nói hạt lúa nguyên vỏ trấu. Mà gạo nếp gạo tẻ khi còn vỏ đều gọi chung là lúa, chỉ khác loại tự lúa. Vậy sao lại là Xôi Lúa ?

Giở Miếng Ngon Hà Nội của Vũ Bằng mong tìm tông tích, thấy bài về Ngô Rang “… ngày xưa còn bé, tối đến cứ ra dưới gốc đèn dầu Hàng Trống, mua lúa nướng về ăn … cầm ấm cả bàn tay.” Lúa nướng ? Lạ ! Mãi cả hai đoạn sau đó mới thấy nói rõ “… mà có thế mới thật cảm giác được hết cái thú ăn ngô nướng về mùa đông !” **À, lúa nướng, tức là ngô nướng.

Nhưng tại sao từ lúa lại đổi sang ngô ? Lại tò mò. May khi xem Việt Nam Bách Khoa Toàn Thư, Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quí Đôn, giở chương Phẩm Vật Loại, bắt được nguồn gốc : Lúa ngô, tên chữ Ngọc thục thử, du nhập từ Trung Hoa vào Việt Nam thế kỷ 17. ***

Lục trí nhớ, dấu vết lúa ngô được ghi trong ca dao xứ Nghệ : “Ai về làng Vọt mà coi, tháng hai đã phải cạp cồi ló (lúa) ngô.” Còn bắp, thì giải thích bằng hình dáng trái không thuôn dài mà lại ngắn đẫn mập ú tựa bắp chuối.

Vậy, miếng ngon Xôi Lúa này mang quá trình đổi thay ngôn ngữ cả ba trăm năm, đi từ văn chương bác học Ngọc thục thử vay mượn xa vời, tìm đủ cách hội nhập bình dân, thay hình đổi dạng Xôi Lúa Ngô, Xôi Lúa Ngô Bắp, rút gọn Xôi Ngô, cuối cùng nôm na Xôi Bắp, nói lên ai cũng hiểu được.

Nguồn cội bắp còn trong vòng mơ hồ, nhưng kể lâu đời sử sách thì Mễ có bắp từ 7 ngàn năm nay, châu Mỹ có khoảng 3 ngàn năm, Trung Hoa có từ rất xưa không biết tự bao giờ, còn Việt Nam ta có từ thế kỷ 17, tức là cách đây hơn ba trăm năm. Sơn Tây là nơi đầu tiên trồng bắp. Bắp ngon có tiếng thì Nghệ An Sơn Tây Thái Nguyên Lạng Sơn, bắp cồn ở Huế, và bắp Biên Hòa. Có bắp tẻ bắp nếp bắp lòn bắp trắng bắp ngũ sắc bắp mọi …

Hạt bắp phơi khô chà sạch mày, ngâm nước qua đêm rồi hầm nở bung, trộn chung với nếp hông chín mềm. Đậu xanh đãi vỏ sạch, hông chín, giã nhuyễn, nắm lại, cắt nhỏ rải đều trên đĩa xôi bắp. Hành hương phi vàng với mỡ hay dầu, rắc rưới lên trên cùng. Muốn ngọt, cho tí đường. Có thể thêm muối mè rang vàng, tùy thích.

Ngày rời Việt Nam, tôi cũng chỉ xin một gói Xôi Lúa đem theo ăn đường, thay vì phải ăn những “đặc sản” máy bay.

Giở gói lá chuối bọc ngoài, bên trong là chiếc lá bàng rực rỡ roi rói tươi màu hổ hoàng, bao quanh những hạt ngọc xôi và bắp long lanh óng ánh, nằm ngoan dưới lớp đậu vàng mịn, bên trên điểm những khoanh hành hương xém nâu. Xúc một muỗng cho vào miệng, quyền quyện ngọt bùi những tặng phẩm mộc mạc ruộng rẫy bưng biền. Nghe những hương vị quê mùa thấm vào lưỡi qua khẩu cái trôi xuống cổ họng rồi vào bao tử, cảm thấy con tì con vị nở ra chín khúc tựa chín con rồng đồng bằng miền Nam.

Từ tầng mây cao ngất, tưởng nghe được tiếng rao lảnh lót ” Bắp Biên Hòa nóng hổi vừa thổi vừa ăn nè!” mỗi xế chiều ở Saigòn, và văng vẳng đâu đây vọng lại câu hò trên bến Thủ Thiêm bắp non mà nướng lửa lò …

Miếng ngon quê hương của tôi sau Cơm nắm Xôi Bắp, là Măng.

Măng Trúc

Muốn ăn Măng Trúc măng giang

Măng tre măng nứa, chè bàng cơm lam

Chè bàng cơm lam thì không ham, nhưng măng thì bất cứ nấu nướng cách nào tôi chẳng bao giờ khước từ.

Trước khi nói về măng, mầm non của tre trúc, bản năng tò mò của tôi nổi dậy. Bèn tìm tòi lục lọi, được biết tiếng Việt cổ gọi tre trúc là pheo, đến nay vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình Quảng Trị Thừa Thiên vẫn còn dùng cụm từ tre pheo* này.

Tre trúc hay tre pheo cùng họ hàng với lúa và bắp, đều thuộc họ Hòa Bản, gọi nôm là họ nhà cỏ – Poaceae, nguyên gọi là Graminae – gồm nhiều họ phụ và có cả ngàn loại, được trồng nhiều nhất bên Tầu, Nhật và Ấn độ. Bên ta có khoảng 300 loại : bương giang hóp luồng nứa lồ-ô, tre đốm tre đen tre vàng tre la-ngà tre miễu, tầm vông mạnh tông tre ống điếu tre bụng Phật, tre xiêm tre nghệ … vô số kể!

Tre trúc khác nhau về hình dáng, kích thước, màu sắc, tầm cỡ, nhưng cùng chung đặc tính là mọc thành rừng lũy lùm cụm bụi, và mọc rất nhanh. Một đặc tính khác, là phải cả 30, 60 hay đến 120 năm mới ra hoa. Hoa kết quả là rừng tàn lụi. Mãi 5 đến 10 năm sau mới có rừng khác nhờ hạt nẩy mầm và măng mọc từ rễ ngầm. Hạt tre ăn được, từng là thức ăn trong những trận đói lớn tại Ấn Độ và Trung Hoa. Bài này chỉ nói về măng, miếng ngon quê hương, nên chỉ vòng vo đôi chút về tre trúc mà phải riêng một bài dài mới có thể kể hết được.

Vềẩm thực, măng có đặc tính thấm đậm hết hương vị ngon ngọt của bất cứ loại tôm cá thịt nào nấu chung, biến hương vị các thứ đó thành của nó, miếng măng trở thành ngon hơn gấp bội.

Xưa cụNguyễn Bỉnh Khiêm ẩn nhàn đơn giản thu ăn măng trúc đông ăn giá, nhưng không thấy ghi nấu nướng ra sao. Măng gần gũi với dân gian hơn.

Ai về nhắn với họ nguồn

Măng non gửi xuống cá chuồn gửi lên

Măng kho cá chuồn cá đối cá chẻm cá dầy cá diếc cá măng … bất cứ loại cá béo nào. Tuyệt nhất là măng kho cá mòi. Tỉnh Bình Thuận ê hề cá, người Bình Thuận chê cá mòi quá béo nhưng không chê măng kho cá mòi, và chỉ chiếu cố gắp măng.

Ngoài ra, măng còn được kho với tôm và thịt heo, hoặc chỉ cần thịt mỡ có da, và nêm thêm mắm ruốc. Trời trở mùa se lạnh, nấu nồi cơm vừa chín tới, ăn với măng kho ruốc điểm ớt bột cay cay, hết sẩy !

Một câu nói vui líu lưỡi trêu nhau là xắt măng vằm măng chắm nước mắm, để tả món dễ làm nhất của măng. Măng luộc kỹ cắt mỏng thái sợi – hoặc băm/vằm – bóp ráo nước đem chấm nước mắm ớt đường chanh tỏi. Chỉ ăn đơn sơ như vậy, hoặc kèm cá mòi cá trê nướng vàng dòn.

Cầu kỳ hơn tí thì có món măng trộn. Cũng xắt măng vằm măng, trộn cùng tôm thịt luộc cắt mỏng, mè rang giã dập và rau răm thái nhuyễn, rưới nước mắm ớt đường chanh tỏi. Dùng bánh tráng dày nướng vàng xúc ăn.

Món măng xào đặc biệt ý nhị là :

Măng non nấu với gà đồng

Chơi nhau một chuyến xem chồng về ai

Măng này phải là măng le măng tầm vông hay mạnh tông là ba thứ ngon nhất, loại tre cật đặc ruột, vừa mềm vừa dòn. Những lát măng nõn nà màu ngà chen giữa những miếng gà đồng (thịt ếch), bày rõ cặp đùi non trắng mịn óng mượt e ấp giữa đám hành lá màu lụa hoa hiên hoa thiên lý, những cọng ngò ngăn ngắt xanh và mấy cọng ớt đỏ hồng. Rất gợi tình ! Đúng là lơ mơ có kẻ mất chồng như chơi !

Ngoài món măng xào gà đồng, măng còn đi chung các thứ rau đậu khác kèm với bất cứ loại thịt nào – tôm gà heo bò … – hoặc chỉ cần đậu phụ, là đầy đủ chất tươi có cả khoáng và đạm.

Măng giang nấu cá ngạnh nguồn

Đến đây em phải bán buồn mua vui

Măng giang là mầm loại tre lóng dài rỗng ruột, đem bào mỏng muối chua để dành. Đến mùa cá ngạnh nguồn béo ngậy bụng trứng ửng hồng, đem nấu canh có cà chua ớt đỏ phi lên cho nước dùng óng ánh tươi, trên rắc tiêu cho ngọt rắc hành cho thơm. Măng giang và cá ngạnh đi vào văn chương bình dân, trong khi các thứ canh măng chua khác cũng dùng cá – bông lau diếc hanh kình thu thác lác … – không được may mắn đó, có lẽ vì không mang nỗi buồn xa xứ như người nấu canh cá ngạnh.

Miền Trung có món canh thập toàn – nôm na là tập tàng – gồm trên dưới mười thứ rau, nấu với tôm khô giã dập hay tôm tươi bóp dẹp, thịt nạc heo băm nhuyễn hoặc giò sống. Ngoài rau, còn có măng vòi. Măng vòi là mầm non của hóp và tre nhỏ. Mồng tơi bồ ngót mềm dịu, bát bát rau má mềm dòn, rau sam rau me đất mềm chua, rau đay mềm rền, mướp hương mềm ngọt … trong khi măng vòi sần sật dòn. Các thứ rau mướp xanh ngăn ngắt lẫn vào nhau, tôn màu trắng lụa nõn nà của những lát măng bào mỏng mịn. Đùa cuộn rau và măng giữa răng, cắn đệm một quả cà phào nhỏ muối xổi đã quẹt tí mắm tôm, cảm thấy miệng lưỡi ôm trọn hương vị vườn rau sau nhà mẹ.

Măng vòi thái sợi có mặt trong món mắm tôm chua Huế, trộn lẫn những lát tỏi mỏng, sợi riềng màu ngà, thú đủ ngọc thạch, ớt đỏ tươi, và cà-rốt màu gạch non. Mắm tôm chua kẹp thịt heo luộc kèm khế chuối chát vả rau sống, ăn với cơm rất đậm vị, mà với bún cũng hết ý.

Nói tới bún, phải kể bún gà bún vịt bún ngan, gọi chung là bún xáo măng. Món xáo măng đặc biệt nhất không biết mấy ai được thưởng thức thực, hay chỉ biết qua ca dao:

Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Ông ơi ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng …

Măng với bún, không ai quên được bún măng khô hầm giò heo nấm mèo đông cô. Măng khô ngon phải là măng đặc ruột dày miếng như măng lưỡi heo lưỡi trâu lưỡi bò, luộc đi luộc lại thay nước kỹ hầm mềm rồi mới nêm nếm nấu nướng. Tết đến, từ Bắc chí Nam qua hải ngoại, hầu như nhà nào cũng có nồi măng khô hầm giò. Hết Tết, các thức ăn thừa được dồn vào nồi hầm này, đệm thêm cải cúc cải cay cải xanh cải trắng, là có đủ hương vị thơm ngon béo bổ ngọt bùi.

Miếng ngon quê hương của tôi, dẫu xa xôi hải ngoại cũng vẫn dễ kiếm tìm, bởi chúng nằm chính trong trái tim, trong máu thịt mình. “Đặc sản” quê mùa mộc mạc như những thứ vừa kể nếu không trồng trỉa được, không tìm đúng gốc Việt thì gốc Hoa gốc Hàn gốc Lào gốc Miên gốc Nhật gốc Thái gốc Phi gốc Mỹ gốc Mễ … Trong ba ngàn cõi ấy****, gốc nào lại chẳng có cội nguồn từ lòng đất, quê hương của con người, riêng chi Đất Mẹ!

Nhân chuyn đi tin nghĩ v Saigon mt thu

Lời nói đu: có thể đi vi thế h tr ngày nay, ni dung dưới đây s khó đ mường tượng v mt chút gì đó ca Saigon xưa, vì người viết bài không phi là nhà văn chuyên nghip đ có bút lc mnh m, sâu sc cùng ngôn t xác đáng, nhm giúp cho h thêm mt góc nhìn lch s đau thương ca đt nước. Ch mong bài viết như mt chút tâm tình ca người Saigon cho nhng ai còn yêu mến và nh thương v Saigon mt thu. T đó, mong tt c mi người chung tay giúp người dân trong nước đu tranh cho nn t do dân ch mau chóng đến vi Quê hương chúng ta.

Nhà văn Nguyễn Trọng Tạo có bài “Tự dưng lại nghĩ đến tiền” để phản ánh tâm trạng lo âu, chán ngán của người dân trước vấn đề lạm phát tồi tệ nhất tại Việt Nam tính trong 3 năm qua. Từ đó ông hồi tưởng đến câu chuyện đổi tiền ngày xưa đã mang lại thảm họa cho toàn dân cách đây hơn 25 năm – lần đổi tiền tính từ năm 1985. Nhân đó, có độc giả muốn tìm hiểu về thực trạng và hệ lụy khủng khiếp của vấn nạn đổi tiền làm tiêu điều nền kinh tế đất nước cũng như kéo theo nhiều hậu quả tai hại về nhân cách con người tha hóa theo các đợt đổi tiền. Rất tiếc, người viết bài không có đủ tư liệu để giải đáp thỏa đáng thắc mắc quan trọng, chính đáng nhưng vô cùng khó khăn này, vì vậy chỉ xin làm công việc “ôn cố tri tân” như một giây phút tưởng niệm về Saigon xưa, qua một góc nhìn nhỏ bé về hiện trạng kinh tế – xã hội VN ngày xưa và cho hôm nay.

Bồi hồi nhớ lại những ngày của mấy mươi năm về trước trong các đợt đổi tiền, thật thê lương và ảm đạm, khiến tôi không khỏi rợn mình về một thời quá vãng!

Những ngày vui mừng ngắn ngủi dành cho hòa bình mau chóng đi qua. Tiếng đại bác ầm ì trong những đêm khuya dội về thành phố (1) không còn nữa, và… không gian Saigon đầy sức sống, khá giàu có, tiện nghi, nhộn nhịp lại an bình mau chóng nhường chỗ cho một… “THÀNH PHỐ CHẾT”!!! Một Thành phố đìu hiu, vắng lặng, khẽ khàng, nhẹ bỗng theo từng bước chân người. Những bước chân mạnh dạn, khỏe khoắn, vô tư đã lui bước trước những bàn chân bỗng nhẹ tênh theo từng thân người sụt ký vì đói! Những bước chân trở nên rón rén mà vội vàng tội nghiệp!.

Má tôi – sau 2 năm “giải phóng” – gặp lại một người quen trên đường và nhận được ánh nhìn thương hại mà khó hiểu: “Trời! chị Tư! Sao chịốm dữ vậy?!“. Má tôi gượng cười không biết trả lời ra sao. Chẳng lẽ nói: “Vì đói!“. Không thể tin được một bà chủ độ tuổi 57, cao một mét năm mươi lăm, cân nặng hơn 75kg, giờ (hình như) chỉ còn không đầy 55kg! Một bà chủ của một cơ ngơi nổi tiếng lại than: “Đói!“. Sự thật là vậy! Tôi nhớ má tôi nói với tôi: “Đói đến nỗi mà má thấy đi ngoài đường cứ liêu xiêu trước cơn gió lớn!“.

Thành phố với những tuần cúp điện 5 cho đến 6 ngày từ 5 giờ chiều cho đến 11 giờ đêm. Thành phố mà việc cúp điện của ngày xưa (trước 1975) là điều làm cho trẻ con reo lên mừng rỡ mỗi khi ánh sáng từ các bóng đèn huỳnh quang vụt tắt, để chúng được thắp lên ngọn nến lung linh mà vui đùa trong chốc lát và tiếc nuối khi quãng thời gian đó mau chóng qua đi trong chừng mười lăm phút (vì hầu như cúp điện ở SG do sự cố kỹ thuật là chính).

Còn bấy giờ, người Saigon cứ cầu mong mau mau có điện để còn làm những việc không tên cho gia đình, cầu mong chút ánh sáng le lói mỗi khuya đểtranh thủ làm hàng gia công (chằm nón lá, móc len, làm hộp giấy, se cói làm mành, se sợi cho bao bố… nhiều lắm những công việc mà người Saigon không thể nào hình dung tại sao một thời mình có thể sống và vượt qua hay đến vậy?!). Trong khi đó, bọn trẻ không còn mừng vui để sống trong ánh nến mà vùi đầu bên ngọn đèn hột vịt tù mù để học từng con chữ bên trang giấy đen xì, nhám rột mà cây bút mực tím động vào đâu là mực nhòe nhoẹt vào đấy, viết đến đâu là vội vàng dùng giấy chậm ngay vào đấy một cách cẩn thận nếu muốn đọc được và không để cô giáo bực mình la mắng vì tính cẩu thả; những ngọn đèn tù mù thiếu sáng giúp chúng tranh thủ gọt những trái cóc héo, những trái ổi teo tóp, ngâm vào một lọ nước cho tươi tắn để ngày mai đem bán trên các ngã phố giúp cha mẹ có thêm đồng tiền mua gạo (ở chợ đen). Dù không phải là những quà vặt ngon lành gì, nhưng chúng không phải là thứ thực phẩm đầy chất độc hại như bây giờ, người ta bán cho con trẻ trước cổng trường vào những giờ tan học!

Tuổi thơ bây giờ coi vậy mà đầy nguy cơ rình rập với chúng nhiều hơn so với cách đây vài chục năm!!!

Nhà mặt tiền cũng như nhà trong hẻm. Một không gianủ dột và đìu hiu trải dài khắp các con phố và ngõ ngách Saigon. Nhà đúc hay nhà mái tôn cũng vậy, khắp nơi biến thành những chuồng heo trong nhà để tranh thủ nuôi heo cải thiện cuộc sống, những cái ghế xích đu, những giàn hoa ti gôn trên những sân thượng nhường chỗ cho những dây bầu, dây mướp để có chút rau trong bữa ăn. Dưới những giàn bầu, giàn mướp đấy là những chuồng gà mà bọn trẻ con ngồi trông ngóng những quả trứng nóng hổi của những con gà mái đẻ ra để vội vàng chộp ngay vì sợ con gà mẹ vô tình dẫm lên sẽ làm mất một bữa ăn tươi cho gia đình…

Những con heo làm sao mau lớn, mạnh khỏe, bán được giá… trở thành đề tài bàn tán chính cho các gia đình hàng xóm, thay cho những cuốn tiểu thuyết, những bộ phim, hay một vở thoại kịch Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Túy Hồng, La Thoại Tân, Tùng Lâm hay một tuồng cải lương của Bạch Lê (chị ruột của Thành Lộc), Thanh Thế, Thanh Nga… nói về nhân nghĩa ở đời, công ơn của đấng sinh thành, tình thầy trò, nghĩa bằng hữu, tính quân tử, cao thượng, vị tha…. Câu chuyện học hành, cúp cua, phá phách… của bọn trẻ trở thành thứ yếu sau những con heo, con gà cùng giàn mướp, dây bầu. Bọn trẻ dễ dàng được cảm thông, xí xóa để lên lớp dù nhiều lần không làm bài cô giáo giao vì các lý do vô cùng chính đáng như: tối qua phải phụ má bán bánh cuốn đến mười một giờ khuya, hôm qua phải xếp hàng đi lấy bia hơi về cho chị bán, hôm khác phải xếp hàng mất 5 tiếng để mua dầu hôi, mua than bùn, than đá cho cả nhà có cái mà xài… hàng trăm lý do, cái nào cũng đúng, cũng thật. Ai cũng vậy! Thầy nào, cô nào nỡ trách, nỡ phạt! Học hành cứ thế mà tuột dốc thảm hại từ năm này qua năm kia! Trách ai! Cho bọn trẻở lại lớp sao? Nói vậy chứ, bọn trẻ lúc đó lại tỏ ra trách nhiệm và cố gắng hết mình, cả trong việc kiếm tiền phụ gia đình cho đến việc học. Sĩ diện và lòng tự trọng còn nhiều lắm không như bây giờ! Chắc từ trong gian khổ mà chúng thấm thía hơn, cố học để mong đổi đời! Ba tôi thường nói một thuở!

Thầy cô nghèo quá, mang cả bánh kẹo vào trường bán cho học trò vào giờ ra chơi. Học trò tiện tặn chút tiền còm mua giùm cô giáo khi thì cái kẹo, lúc thì miếng bánh… Có Thầy đi đạp xích lô, có Cô đi bán nón, chạy bán thuốc tây, thuốc lá, bỏ mối ba cái hàng lưỡi lam, xà bông cục (nhớt nhợt có 75% dầu), có thầy cô tận dụng nghề hóa học hùn nhau làm bột giặt bán ra… để kiếm tiền mua chút gạo, chút sữa cho con (loại sữa bột của LX, vừa đóng cục, vừa đầy mùi mỡ) Thầy. Cô. Trò. Trường… cứ thế mà trôi tuồn tuột theo cái miếng ăn, cái áo, cơn bệnh. Đạo đức từ đó xuống hàng thứ yếu! Nếp nhà từ đó chỉ còn biết làm sao no cái bụng, ấm cái thân trước đã!

Thật đau buồn, khi tôi đang diễn tả cuộc sống phần lớn dân Saigon ngay tại một quận trung tâm Saigon, không phải vùng quê xa lắc nào đó!

Những chiều mưa thê lương và xám xịt cả vùng trời rộng lớn, ôm cái bụng đói meo, nhiều trẻ em đã phải lang thang nhiều ngã phố để mời khách mua những cái bánh làm từ khoai mì (vì khẩu phần lương thực thời đó hầu như khoai mì, khoai lang, bo bo, mì gói vụn, mì vắt mốc là phần nhiều, có thể nói chiếm khoảng 70% – 80% trong khẩu phần mà nhà nước ban cho mỗi đầu người) vì ăn ngán quá, người dân chế biến ra đủ thứ món vẫn chưa hết ngán, thế là sáng tạo ra đủ thứ loại bánh để bán cho nhau. Không hiểu sao những năm sau 1975, trời mưa nhiều lắm và lạnh lắm vào mùa hè. Càng lạnh càng đói cồn cào. Những củ khoai mì luộc nóng (dù bị sượng và bị sùng nhiều lắm) chấm muối suông cũng giúp người dân ấm lòng trong cái lạnh co ro…

Tôi nhớ, dân thường thì khẩu phần 9kg/tháng, những ai làm việc trí óc hưởng khẩu phần 13kg/tháng, lao động trực tiếp như công nhân bốc xếp, công nhân vệ sinh, các công nhân làm trong những nơi trực tiếp thì được 18kg/tháng. Thời của “trí thức là cục phân” được tính qua khẩu phần 13kg/tháng. Xin nói rõ, 13kg/tháng nghĩa là quy ra gạo thôi, trong 13 kg đó, ai cũng hiểu 70% – 80% là các loại: bo bo (thứ mà LX viện trợ vì nhà nước VN xin mà nói dối với họ là để phát triển chăn nuôi), khoai sùng, mì mốc… Thằng em tôi lúc ấy chừng mười mấy tuổi, cái tuổi đang ăn, đang lớn, ngày nào cũng bo bo, nó đứng khóc ròng. Má tôi dỗ dành: “ráng đi con! không ăn thì đâu có cái gì ăn!”. Nhớ nó lúc đó trệu trạo nhai bo bo mà tội! Bo bo là loại thực phẩm dân Saigon chưa bao giờ biết tới trước đây. Rất nhiều người đã khổ sở và loay hoay để làm sao chế biến nó như một món ăn cho gia đình. Khổ lắm! Khó mà nói hết bằng lời!

Thành phố không còn những ánh điện sáng choang, vui tươi trên các ngã phố, nói chi là những panel, những bảng hiệu, những ánh sáng đầy màu sắc mà các bạn trẻ đang thấy bây giờ… Cả một thành phố tăm tối, lặng lẽ và u sầu!

Ba đợt đổi tiền tại Việt Nam tính từ 30/4/1975 đã tàn phá tan hoang đất nước như nhiều người trong thế hệ không còn trẻ đã thấy sau từng đợt đổi tiền. Nó đã làm tan nhà nát cửa nhiều gia đình, không ít người đã chọn cách quyên sinh để bộc lộ sự phẫn uất trước tài sản mồ hôi nước mắt bị cướp giựt trắng trợn chỉ sau một ngày, nhiều người hóa điên chỉ sau một đêm, những người khác tìm đủ mọi cách vượt biên để thoát khỏi thảm họa điêu linh nói chung và sự tàn mạt từ các đợt đổi tiền nói riêng, nhiều người khác co rúm lại thủ thân trong vỏốc gia đình, những trường hợp khác nữa thì song song vừa mất tài sản vừa bị khuyến dụ hay cưỡng bức theo cái gọi là “kinh tế mới” với lời kêu gọi ngọt ngào, thắm tình quê hương từ phía “nhà nước” để dấn thân về những vùng quê khô cằn hẻo lánh với một ít lương thực và công cụ nhằm đi… xây dựng cuộc sống mới (!).

Nhiều gia cảnh của các gia đình thuộc chính quyền VNCH lâm vào cảnh kiệt quệvề kinh tế, khủng hoảng tinh thần, bởi lẽ lớp vừa lo sinh kế ngày hai bữa với khoai lang sùng và khoai mì thối; với bo bo và gạo mốc, với mì khô và bánh mì cứng đến nỗi người ta nói đùa nhau rằng: “chọi vào chó, nó cũng lỗ đầu”; lớp vừa lo làm sao có đủ lương thực, thực phẩm gói ghém tiện tặn để lo cho chồng, cho cha, cho anh em đang vùi mình nơi các trại cải tạo kéo dài từ Bắc chí Nam… mà những chuyến xe đi thăm tù cải tạo không phải muốn đi là dễ! Những chuyến xe chạy bằng than(*)rong ruổi trên khắp nẻo đường mà từ người đi buôn chuyến cho đến khách và những thân nhân tù nhân phải chen chúc nhau trong một không gian vừa nóng, vừa bẩn, vừa sợ phỏng (vì bình đựng than treo lộ thiên ngay sau đuôi xe và khá to như bình gaz loại lớn ngày nay, cao chừng 1,2m, phi tròn khoảng 40 – 50cm). Khi xe chạy, những hòn than nho nhỏ rơi vãi dọc đường, vì quá trình đốt nóng để có năng lượng cho xe chạy làm nó nhỏ hơn cái miệng chứa cũng là nơi để thoát nóng cho “bình than”!

Biết bao là cơ man những mảnh đời quặn thắt tâm can người dân một thời mà nhiều người bồi hồi nhớ lại để ngồi rơi lệ ru người, ru mình, ru cho dân tộc một giấc ngủ bình an trong một nghĩa trang lạnh lùng nào đó từ những cánh rừng hoang sơ, thâm u, cùng cốc hay trên những mảnh đất tình người nơi xứ lạ.

Không khỏi chạnh lòng và nghẹn ngào để nghĩ về một thời bão tố cuồng điên táp qua mảnh đất dẻo dai, trong khi người dân vẫn kiên gan chịu đựng để sống âm thầm, lặng lẽ, để chờ đợi một ngày nói cho thế hệ mai sau một kiếp đời lầm than, cơ cực mà người Việt Nam vốn dĩ không đáng phải gánh chịu vì sự ngu dốt, tham lam và tàn ác của CSVN.

Ph Sài Gòn xưa và nay ….

Cũng như thịt chó, phở là một đặc sản của miền Bắc. Người ta cho rằng nó chỉ mới xuất hiện ở Saigon vào những năm 1951-1952, cùng một thời gian với hai nhà hát ả đào, một ở xóm Monceau và một ở xóm Đại Đồng.

Cả hai thứ ấy đều rất xa lạ với người Saigon thuở đó. Kiếm được một quan viên biết cầm trống chầu không phải chuyện dễ. Cho nên họ chỉ cầm cự được một hai năm rồi dẹp tiệm, mặc dù họ đã biến nó thành một hình thức như ”kem sờ” ở Bờ Hồ (Hà nội) vào những năm 30 hoặc như ”bia ôm” của Saigon hôm nay. Và phở cũng chịu chung một số phận với nó. Người ta chỉ thích hủ tíu, hoành thánh, bánh xếp nước… Chỉ có độc một tiệm phở được gọi là ”Phở Tuyệc”, nằm trên đường Turc (nay thuộc khu vực Đồng Khởi) là kiên trì bám trụ.

Phải đợi tới sau năm 1954, phở mới thực sự thực hiện một bước nhảy vọt từ Bắc vào Nam. Phở khởi đầu sự bành trướng của nó vào giữa thập niên 50 tới giữa thập niên 60. Có cả một dãy phố phở nằm trên hai con đường Pasteur và Hiền Vương.

THƠ PHỞ…

Những nhà hàng phở ngon của Saigon thuở ấy nhiều vô số. Nhưng được người ta chiếu cố nhất chỉ có bốn hoặc năm tiệm, trong đó có phở Trần Minh ở hẻm Casino. Trong cái ngõ cụt ấy, ê hề các hàng quà : phở, bún ốc, bún ốc sườn… Từ đầu ngõ, người ta đã chạm trán với khách ẩm thực, kẻ ra người vô tấp nập. Phở Minh ngon thiệt là ngon. Nó không giống như kẹo kéo “ăn một lại muốn ăn hai, ăn ba ăn bốn lại nài ăn năm”. Người ta chỉ có thể ăn một bát để cho nó thòm thèm rồi mai lại ăn nữa ! Có một người nghiện phở của ông ta, và nghiện luôn cả truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Đó là ông X, chủ một tiệm giày ở đường Lê Thánh Tôn. Ông vừa ăn phở vừa theo dõi cuộc tình của Triệu Minh – Vô Kỵ, hoặc của Doanh Doanh – Lệnh Hồ Xung trên mặt báo. Và tình bằng hữu giữa ông chủ tiệm giày với ông chủ tiệm phở đã thắm thiết hơn lên nhờ một bài thơ phở của ông chủ tiệm giày. Gọi là thơ phở vì đọc lên nghe thấy… toàn mùi phở. Tuy nhiên nó được làm theo thể Đường thi, và chữ nghĩa đối nhau chan chát. Rất tiếc, người viết chỉ còn nhớ được có bốn câu :

Ni tiếng gn xa khp th thành

Trn Minh ph Bc đã lng danh

Ch đ : tái, chín, gu, gân, sách

Gia v : hành, tiêu, t, mm, chanh…

Sau đó, ”mông xừ” Trần Minh đã nhờ một người nhái những nét chữ rồng bay phượng múa của Vũ Hoàng Chương để viết bài thơ ấy và treo ở trong tiệm.

… VÀ CÂU ĐỐI PHỞ

Saigon thuở ấy chỉ có một tiệm duy nhất ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu, có món tái sách tương gừng và phở tái sách : tiệm Y. Thịt tái mềm, sách ròn nhai gau gáu, chấm với tương Cự Đà thì tuyệt cú mèo. Người ta bèn đổ xô tới để thưởng thức một món ăn lạ miệng. Và tiệm Y phất lên như diều. Từ ngôi nhà lụp xụp, ông đã sửa sang lại cho khang trang và mua thêm một nhà khác để ở cho thoải mái. Phú quí sinh… máu văn nghệ, ông bắt đầu giao du thân mật với cánh nhà văn, nhà báo.

Sau cuộc đảo chính của Dương Văn Minh, trong làng báo có hiện tượng “trăm hoa đua nở”, hễ có tiền là có quyền làm chủ một tờ báo. Thế là ông chủ tiệm phở Y bèn ra báo. Từ tái, chín, nạm, gầu, sụn, nhảy sang địa hạt chữ nghĩa, ông hoàn toàn bỡ ngỡ. Cho nên báo của ông chỉ có thể đến với độc giả bằng con đường ve chai. Dĩ nhiên nó phải chết. Và ít lâu sau ông cũng chết theo nó. Người vợ góa trẻ đẹp kế tục ”sự nghiệp” của ông chồng quá cố. Tiệm Y phát đạt trở lại. Những người bạn văn nghệ của ông Y vẫn lui tới ăn phở như xưa, nhưng mục đích chính của họ là… ngấp nghé ngôi vị chủ tiệm. Sau mấy năm trời theo đuổi mà chẳng đi tới đâu, một người trong bọn họ, tức cảnh sinh tình, bèn mượn danh nghĩa bà quả phụ để ra một vế câu đối như có ý thách thức thiên hạ rằng : “Nếu ai đối được thì em xin nguyện lấy làm chồng”

Câu đối sặc sụa mùi phở, nhưng hắc búa nhất là cụm từ ”tái giá”, nó vừa có nghĩa là ”đi bước nữa” lại vừa có nghĩa là ”phở tái giá”. Cũng như ”da trắng vỗ bì bạch” của bà Điểm đố Trạng Quỳnh vậy. Hơn ba mươi năm trôi qua, câu đối ấy hiện nay vẫn chỉ có một vế.

PHỞ GÀ TRỐNG THIẾN

Ngay cả Hà Nội – quê hương của phở – từ trước đến nay cũng chưa bao giờ có phở gà trống thiến, cho dù ở phố Huyền Trân Công Chúa, vào đầu những năm 50, đã có một hàng phở gà ngon nổi tiếng khắp Hà thành, đến nổi cụ Nguyễn Tuân khi theo đoàn quân về tiếp quản Thủ đô, ăn xong đã phải khen rằng ”tuyệt phở !”. Người bán phở tên là Chí. Ông ta mới hồi cư, không có đủ tiền để mướn mặt bằng, phải làm phở gánh. Con đường mang tên vị công chúa nhà Trần bé bằng cái lỗ mũi, với cái vỉa hè rộng hơn một mét, khách ăn kẻ đứng, người ngồi, húp xì xụp.

Phở gà trống thiến xuất hiện ở Saigon vào những năm 60, ở phía chợ Vườn Chuối – tuy chưa được liệt vào loại tuyệt phở, nhưng cũng được khách ẩm thực đặc biệt chiếu cố. Phở ngon là một lẽ : thịt gà trống thiến thơm và mềm như gà mái tơ, nước phở trong hợp với khẩu vị của những người kén ăn, nhưng cũng còn một lẽ khác : người ta vừa ăn, vừa ngắm cái vẻ thướt tha yêu kiều của con gái ông chủ tiệm, thỉnh thoảng đi ra đi vô, mỉm cười với người này, gật đầu chào người kia, giơ tay ‘bông rua’ người nọ, tự nhiên như một cô đầm non.

Đó là nữ ca sĩ Y.V, một giọng ca lả lướt của các phòng trà. Ban ngày, nàng giao thiệp với phao câu, đầu cánh, thịt đùi; ban đêm, chìm đắm trong ánh đèn màu. Thế rồi, không kèn không trống, nàng tuyệt tích giang hồ. Người ta bảo rằng nàng đi Tây. Đi Tây thật chứ không phải Tây Ninh. Tiệm phở vắng khách dần và ít lâu sau thì phải dẹp.

PHỞ KHÔNG RAU KHÔNG GIÁ

Tiệm này nằm trên đường Công Lý- cách ngã tư Công Lý – Yên Đỗ (nay là ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lý Chính Thắng) khoảng 100m – trong một cái hẻm rộng. Người ta gọi là phở Bà Dậu. Nó có những đặc điểm không giống bất cứ một tiệm phở nào : không rau, không giá và rất sạch, và nhất là không có cái mùi phở kinh niên. Thịt thái mỏng và bánh phở to bản thích hợp với cái gu của người Hà Nội. Vì ở sâu trong hẻm, nên thoạt đầu khách tới ăn uống rất lơ thơ tơ liễu buông mành, chỉ có dăm bảy mống. Sau đó, nhờ sự cổ động của người Hà Nội, người ta mới bắt đầu chiếu cố tới hương vị không rau không giá đó.

Trải qua hơn 30 năm, Phở Bà Dậu sau vẫn tồn tại và có phần phát đạt hơn xưa. Có thêm một món mới : tái bắp, thịt mềm và nhai sần sật như sụn. Giá cả cũng tăng, từ 10đ/ bát trong những năm 60 đến 10.000đ/ bát, năm 1996. Nhưng khách ăn vẫn nườm nượp.

TỪ PHỐ PHỞ ĐẾN… BẮC HUỲNH

Hà Nội, quê hương của phở, và thời bao cấp đã sản sinh biết bao thứ phở : phở vịt, phở ngan, phở lợn (thậm chí có cả phở chó), vậy mà chưa có một phố nào chuyên bán phở, trong khi ấy Saigon lại có cả một dãy phố phở. Đó là khu Hiền Vương (Võ Thị Sáu – Pasteur). Hiền Vương chuyên bán phở gà, còn Pasteur, phở bò. Nhưng dù gà hay bò, các tiệm phở ở khu này chưa có một tiệm nào – nếu nói về phở bò – có thể so với phở Tàu Bay ở Lý Thái Tổ, còn nếu nói về phở gà, thì thua xa phở Vọng Các (đường Võ Văn Tần) và phở Bưu Điện hôm nay.

Những tiệm phở bò nổi tiếng thời ấy còn có phở Tàu Thủy ở Nguyễn Thiện Thuật, phở Quyền và phở Bắc Huỳnh ở miệt Phú Nhuận. Sau khi ông Tàu Thủy qua đời, người con trai không có đủ khả năng kế nghiệp ông bố, bèn dẹp tiệm để chuyển sang nghề khác. Còn phở Bắc Huỳnh nguyên là phở Ga Đà Lạt một thời nổi tiếng; Sau 75 ông mò về Saigon, mở tiệm phở Bắc Huỳnh trên đường Võ Tánh góc Trương Tấn Bửu đối xéo góc với nhà thờ Nam. Chỉ mấy tháng sau, Bắc Huỳnh lại nổi tiếng như cồn. Hàng ngày, từ 6 giờ sáng khách mộ điệu phở đã nườm nượp nối đuối kéo vào. Và chỉ tới 10 giờ là bánh, thịt, nước phở đã láng cóong. Phải công nhận phở Bắc Huỳnh hết chỗ chê. Nuớc trong vắt thơm lừng; Miếng thịt chín mùi thơm như pa-tê, thái tay vừa đủ dầy để cắn ngập răng. Miếng gầu sữa trắng toát mịn như miếng thạch, vừa thơm vừa bùi lại ròn tan; Không một chút hoi. Đặc biệt tiệm BH không bán phở toàn tái. Thế mới là chính thống. Phở bò mà lại ăn phở tái thì đúng là nhà quéo.

Đang phát đạt như thế, chẳng biết sao khoảng năm 1982 bỗng dưng ông dẹp tiệm. Dân ghiền phở cứ tiếc hùi hụi. Trong số này có ông cao thủ bóng lông Trần K., khi đó đang chủ trì sân quần vợt đuờng Lê Duẩn. Ông này ghiền phở BH không thua gì mấy anh ghiền thuốc phiện. Sáng sáng, sau khi dợt cho đệ tử mà không được bồi dưỡng hai tô phở BH là ông ngáp lên ngáp xuống. Ông bèn gạ một người bạn ông để người bạn này yêu cầu cô con gái ông BH mượn nồi niêu soong chảo bát đũa của ông già ra sân quần vợt mở một tiệm phở xe. Dân ghiền phở lại kéo tới ăn đông như chẩy hội. Hồi đó nữ ca sĩ Thái Thanh và nữ ca sĩ Tâm Vấn ở tít trong Chợ Lớn, sáng nào cũng ngồi xích lô ra sân quần vợt – không phải để đánh banh lông – mà là để đớp phở.

Cao thủ Trần K. có ông anh cũng tên Trần K. và cũng là cao thủ bóng lông, còn mê phở hơn cả ông em. Sáng nào ông K. anh cũng gò lưng đạp chiếc xe đạp ọp ẹp chở người tình 200 pao từ Chợ Lớn ra sân quần với mục đich cao quý duy nhất là đớp phở của con gái ông BH. Có nhiều lần, có lẽ tại tối trước ông K. anh chơi bóng lông hơi nhiều và hơi khuya, sáng ra chân chùn gối lỏng, ông đạp xe hơi chậm, tới hơi trễ, đã thấy cái thùng nước phở chổng mông lên trời. Phở chính thống là thế : bao nhiêu thịt là bấy nhiêu nước. Hết nước là hết thịt, hết thịt là hết nước. Và hết là hết, chứ không có cái trò đổ vài lon nước lèo hộp, hay ném mấy cục bouillon vào nước, thêm tí mắm tí bột ngọt, đun sôi lên bán với thịt tái. Sau mấy lần đạp xe phờ râu tôm tới nơi lại hụt ăn, ông K. anh đành thương lượng với cô chủ phở như thế này :

Mỗi sáng cô cứ vui lòng để riêng ra hai tô, cất đi cho tôi. Tôi tới kịp để ăn hay không tới ăn được cũng kệ cha tôi. Tôi vưỡn cứ trả tiền như thường. Ấy thế mà, chỉ được hơn năm, chả biết lý do gì, tiệm phở xe này cũng bỗng mất tích. It lâu sau thấy tiệm Bắc Huỳnh lại tái xuất giang hồ. Được ít năm rồi lại dẹp không kèn không trống. Ngày nay nghe đâu ông Bắc Huỳnh và cô con gái đẹp như mơ đã mở hai tiệm phở bên Calgary, Canada. Chả biết còn giữ tên Bắc Huỳnh nữa không.

Dạo ấy, cả Saigon chỉ có độc một tiệm của chú Woòng ở đường Lý Thái Tổ bán phở ngầu pín. Chú là người Quảng Đông, trước khi di chuyển vào Nam đã mở tiệm phở ở phố Huế, Hà Nội. Vào đầu thập niên 50, phở ngầu pín đối với dân thủ đô, thật hoàn toàn xa lạ. Có mà nhử thính các tiểu thư Hà Nội cũng không dám tới ăn.

Phở ngầu pín vào tới Saigon cũng chả khấm khá gì hơn. Vẫn cái tiệm xập xệ tối thui, như ở phố Huế. Khách tới ăn toàn những ông râu ria xồm xoàm hoặc lún phún râu dê hoặc nhẵn nhụi bảnh bao chẳng có một sợi râu nào. Nhưng tuyệt nhiên không hề có bóng dáng đàn bà.

PHỞ SAU 75 VÀ CƠN SỐT PHỞ BẮC HẢI

Phở leo lên tới tột đỉnh vinh quang bắt đầu từ cuối thập niên 80. Phở tràn ngập thành phố, ngoại trừ khu vực Chợ Lớn, bởi nó không thể địch lại được với hủ tíu, hoành thánh, bánh bao, xíu mại. Nhưng đặc biệt nhất là cơn sốt phở Bắc Hải. Ở thành phố có chí ít vài ba chục tiệm mang cái tên ấy. Tại sao người ta lại không chọn một bảng hiệu khác ? Cũng có nguyên nhân đấy.

Ông Bắc Hải đựng quốc lủi trong cái bong bóng trâu, giấu ở trước bụng, cái áo phủ bên ngoài. Khách nào muốn uống, giơ cái ly xây chừng ra, ông cởi khuy áo, tháo cái nút vòi bong bóng rồi xịt một phát vào ly. Rượu vừa đúng tới mép ly, không tràn ra một giọt nào. Ông bảo đó là cả một nghệ thuật, phải tập mất một tháng mới thực hiện thành công thao tác ấy. Nói cũng đáng tội, phở của ông cũng chả ngon lành gì. Chẳng qua là vì ”trong xứ mù thằng chột làm vua”. Vả lại, nó có đầy đủ chất béo, chất cay. Với một người ”thích đủ thứ”, như vậy là đúng tiêu chuẩn. Từ đó, anh hùng nhất khoảnh, phở Bắc Hải danh trấn giang hồ.

Sau 75, một số đệ tử của ông Bắc Hải vào Nam. Họ kiếm một đầu hẻm, dựng một quán phở lộ thiên. Một trong những đệ tử nổi bật nhất của ”mông xừ” Bắc Hải là Ch. Râu. Gọi như thế là vì trên mặt anh có cả một rừng râu. Trẻ con trong khu phố, mỗi khi thấy anh xuất hiện lại chạy theo trêu chọc : ”Ơ cái râu lồm xồm, ơ cái râu loàm xoàm, cái râu mọc quanh cái mồm”.

Lại vừa may mắn lại vừa có sẵn ít vốn, Ch. Râu kiếm được một mặt bằng ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Phở Bắc Hải của anh ra đời, trội hơn các tiệm Bắc Hải khác với món áp chảo nước, áp chảo khô, và đặc biệt là rượu rắn-bìm bịp, tráng dương bổ thận.

Hiện nay, phở Bắc Hải không những bành trướng trong thành phố mà còn xuất hiện tại các vùng ngoại ô, nhất là khu Tân Sơn Nhất.

Khoảng giữa thập niên 80, tại Bến Sỏi, mé trái cầu Điện Biên Phủ, có một tiệm phở đuôi bò và ngầu pín do một người đàn bà đứng bán. Quán hàng thiết lập trên một vùng đất lổn nhổn sỏi đá. Khách ăn, kẻ đứng người ngồi. Đôi khi cái ghế lùn tịt được dùng thay cho bàn. Và lần đầu tiên trong lịch sử của ỀpínỂ, ngầu pín được các bà các cô chiếu cố. Họ tỉnh queo cắn từng miếng một và nhai sần sật. Đuôi bò của Bến Sỏi cũng tuyệt trần. Mỗi miếng bằng cái nắm tay của trẻ con. Thịt được ninh nhừ nên khi ăn cũng không đến nỗi vất vả.

Phở Bến Sỏi chỉ bán đến 9g30 sáng là hết. Nhưng thông thường, người ta đến sớm hơn. Để tránh cái nắng như đổ lửa xuống đầu. Trông các bà vừa ăn vừa thấm mồ hôi, phấn son nhòe nhẹt, thấy mà thương !

Vài năm sau khấm khá, bà chủ tiệm tậu được một miếng đất rộng lớn ở phía xa lộ rồi chuyển cửa hàng ra đó. Bây giờ gọi là quán phở N., vừa bán phở vừa bán lẩu ngầu pín đuôi bò. Một cái lẩu 20.000đ hai người ăn căng bụng.

PHỞ THẦY CÔ

Bởi lương nhà giáo không đủ sống nên 5 cô và một thầy đã hùn nhau mở một tiệm phở ở vỉa hè đường X., phía sau cổng trường M.C.

Phở thầy cô ra đời khoảng gần hai năm nay. Có một dạo nhà nước dẹp lòng lề đường, có lúc họ phải di chuyển vào mé sân sau trường. Tiệm này chuyên bán phở gà và chỉ bán vào buổi sáng. Dĩ nhiên phở của họ không thể nào ngon bằng các tiệm nhà nghề như phở gà Bưu Điện hoặc Vọng Các hay các tiệm ở đường Võ Thị Sáu, nhưng nó lại có một hương vị đặc biệt – hương vị gia đình. Khách ăn có cảm tưởng như người nhà mình nấu cho mình ăn vậy. Phở ở đây rất có ”chất lượng” và rẻ – rất rẻ là khác : 4.000đ/ tô đầy tú ụ cả thịt lẫn bánh.

Giữa họ đã có sự phân công : mỗi người nấu phở rồi coi phở một ngày. Không có ai trong số họ có sẵn tay nghề. Thoạt đầu thì lúng túng như thợ vụng mất kim, ít lâu mới thành thạo. Nhưng dù sao đối với họ nghề phở cũng là một cái nghề bất đắc dĩ. Đứng trên bục giảng vẫn tốt hơn.

Ở thành phố, ngoài nhóm thầy cô kể trên, còn có một cô giáo nữa cũng đang đứng bán phở, nhưng lại giã từ hẳn cái nghề kỹ sư tâm hồn. Cô nguyên là giảng nghiệm viên của Đại học khoa học, nhà lại sẵn có mặt bằng nằm trên một trục lộ đông đảo người qua lại, bèn quyết định từ bỏ ống nghiệm và các công thức hóa học để ”giao thiệp” với phở. Vốn là một nội trợ giỏi nên từ nấu thức ăn đến làm phở cũng không đến nỗi khó khăn. Cửa tiệm nằm ở phía chân cầu Bông, khách ăn sẽ dễ dàng nhận ra khi thấy trước cửa đậu một dãy xe gắn máy.

Phở Cầu Bông ngoài các món thường lệ như tái, chín, nạm, còn có món đuôi bò. Phở rất ngon nhưng giá một tô có 5.000đ, chỉ bằng một nửa tiền nếu so với phở Hòa ở đường Pasteur, tục gọi là phở Việt kiều, với giá chém treo ngành 12.000đ/ tô. Sở dĩ gọi thế là vì khách ăn đa số là Việt kiều. Họ quen ăn phở với giá 8 đôla/ tô, chưa kể tiền ”bo” 10%, nên với họ, đó là một giá rẻ mạt.

Phở Cầu Bông cũng không làm theo kiểu đại trà với thịt thái sẵn chất đầy một cái khay. Khách ăn tới đâu làm tới đó. Thịt thái mỏng bốc mùi thơm phức. Mỗi miếng thịt mang hình kỷ hà, màu nâu gụ của nó dính với màu mỡ gàu đặt trên nền trắng của bánh trông giống như một bức tranh tĩnh vật.

Cô giáo của trường Khoa học đã đưa cả khoa học lẫn nghệ thuật vào phở.

Kỷ niệm “đêm hôm trước”

TTCT - Tôi dành buổi sáng không có tiết dạy để đi mua thịt. Một tháng, cả nhà đợi ngày trọng đại này, ngày bếp rộn ràng dao thớt, sực nức mùi mỡ rán, thịt kho.

Tối hôm trước, các con nôn nao hẳn vì chúng biết ngày mai được ăn thịt. Tôi không ngủ được, 3g sáng đã đi. Trời vẫn còn tối lắm, mặt người chưa tỏ, chỉ thấy lố nhố hình dáng. Thế mà trước cánh cửa sắt đã gần kín chỗ. Ai cũng muốn đứng gần cửa để khi cửa mở chạy ào vào giành chỗ. Đêm vẫn còn sau cánh cửa bởi người bán và những con heo thịt còn ngủ. Nhưng trước cửa... không còn đêm!

Bám vào cửa, tay cầm khư khư miếng bìa ghi sẵn tên và cục đá chặn, tôi mơ tưởng đến miếng thịt tiêu chuẩn của 30 ngày. Một miếng thịt vừa có nạc cho con bồi dưỡng trưa nay, vừa có mỡ rán để dành cho mẹ kho nấu cả tháng.

Khi mặt trời rọi vào những gương mặt bơ phờ mất ngủ, cánh cửa sắt rít lên. Cửa vừa hé, ai cũng cắm đầu chạy. Mới qua khỏi cửa, tôi bị đẩy té nhào. Một thằng nhóc ngoảnh nhìn rồi chạy tiếp. Cái nhìn đủ để tôi nhận ra đứa học trò mình. Cái thằng học bình thường nhưng là đứa duy nhất trong lớp mặc áo trắng mùa đông. Nhìn kỹ mới thấy áo len độn trong áo trắng, hằn những vệt ngang đủ màu, dệt bằng những mẩu len thừa thẹo.

Hắn cũng nhận ra tôi, quay ngoắt lại không phải đỡ tôi dậy hay xin lỗi tôi mà giật phắt miếng bìa trên tay tôi lao tới như tên bắn. Xếp hàng cho đá xong xuôi, hắn mới đi chân không đến gần tôi lí nhí: “Em xin lỗi...”. Còn tôi cảm ơn hắn khi thấy miếng bìa ghi tên tôi đặt trước bìa hắn, được chặn bởi chiếc dép của hắn vì hòn đá tôi vẫn cầm trên tay. Sau lưng hai thầy trò, đá nối đá dài dằng dặc trong tích tắc!

Đi sớm thế mà mãi đến 10g mới có thịt mang về. Tôi thầm cảm ơn hắn lần nữa bởi sau tôi hai sổ, mậu dịch viên tuyên bố hết thịt. Hắn bê thịt ra mặt không vui. Mạ em rầu lắm đây! - hắn nhìn tảng thịt - Thịt ăn hết liền nhưng mỡ còn rán để dành ăn lai rai. Bỏ vào chén nước mắm muỗng mỡ hơ chảy là cơm độn gì cũng hết! Hên nhất là được miếng tóp. Hắn nuốt nước bọt hít hà.

- Thịt nạc nhiều đạm bổ hơn em ạ! - tôi nghèn nghẹn trả lời rồi đưa cho hắn miếng mỡ - Cô cho.

Nó lắc đầu bảo tôi: Về nhanh cô ơi, bếp đợi!

Hắn ôm thịt chạy, còn tôi đi như bay. Trong đầu hai cô trò đặc kín hình ảnh bữa cơm có thịt, có mỡ, không dành một khe nhỏ nào cho chữ...

Trưa ấy, cái bếp đen sì bồ hóng nhà tôi mở đại tiệc mừng “miếng thịt của 30 ngày“. Nhìn những miếng mỡ quý giá thau dần thành những miếng tóp giòn tan thơm phức, tôi bỗng nhớ hắn.

Trút mỡ ra tô, tiếc cái chảo còn láng lườm, tôi lấy ít bột mì tiêu chuẩn, thứ cao lương ngày ấy, làm món bánh mì áp chảo. Lũ con tôi hoan hô kịch liệt, ngồi quanh nuốt nước bọt đợi. Miếng bột nặng trịch lấm tấm mọt như rải mè đen ấy được tôi nướng bằng cái chảo còn láng mỡ, vàng mặt này trở qua mặt khác. Mặt trên còn được điểm mấy miếng tóp mỡ ngon lành đến nỗi tụi nhỏ và mẹ chúng đều nuốt nước bọt. Tôi chia chiếc bánh làm sáu phần đều nhau dù nhà chỉ năm người. Miếng thứ sáu điểm hai miếng tóp, tôi gói lại. Chiều đi dạy tôi ngoắc hắn ra...

Sau này nhiều lần nếm bánh pizza trứ danh đắt tiền, chẳng bao giờ tôi thấy ngon bằng miếng bánh mì áp chảo điểm mọt và tóp mỡ hồi ấy. Mới biết thiếu để được thèm, để cảm thấy ngon cũng là hạnh phúc.

Giờ mấy ai thèm mỡ. Vả lại thời nay ra chợ mà coi, kiếm thịt siêu nạc thì dễ, kiếm mỡ mờ con mắt.

Chạm mỡ là nhớ nỗi thèm xa xăm. Ra chợ thấy thịt ê hề mà sợ thịt. Nhưng thừa thứ này lại thiếu thứ khác còn quan trọng hơn. Đôi khi tôi ngồi nhớ những thứ thiếu vô hình vô tướng ấy đói cồn cào chảy nước mắt...

Đua đòi ăn chơi, học sinh nhà nghèo trượt dốc

Những năm gần đây, khi nền kinh tế nước ta phát triển, một bộ phận lớn người dân đã bắt đầu có của ăn của để thì cũng là lúc xã hội xuất hiện một tầng lớp ăn chơi mới. Và không chỉ giàu mới chơi, nhiều cô cậu học sinh, sinh viên, gia đình chạy ăn từng bữa nhưng vẫn cố đua đòi để thể hiện “đẳng cấp” của mình...

1.Ngồi trước mặt tôi là một thiếu nữ còn rất trẻ với khuôn mặt khá xinh xắn. Tên cô là Liên, 17 tuổi, học sinh lớp 11 thuộc một trường trung học phổ thông ở quận 1, TP HCM. Trong suốt cuộc nói chuyện, cô cứ nhìn xuống đất chứ không dám ngước lên. Bên cạnh cô là một người đàn ông khoảng 40 tuổi, gầy gò, nước da xám xịt mà theo lời giới thiệu của Trung tá Phó Công an phường, thì đó là cha cô bé.

Đồng chí Phó Công an phường cho biết, cô bé đã lấy cắp của một người bạn cùng lớp chiếc điện thoại iPhone trị giá 14 triệu đồng. Lúc được Ban giám hiệu nhà trường gọi lên động viên, khuyên nhủ, cô vẫn chối. Cực chẳng đã, Ban giám hiệu đành phải báo cho công an khu vực rồi sau đó, công an khu vực mời cô về trụ sở.

Mới chỉ học lớp 11, nhưng Liên đã được bạn bè trong trường biết đến như một "playgirl" mặc dù gia đình Liên thuộc dạng "ăn bữa trước, nhịn bữa sau". Ba Liên làm nghề chạy xe ôm và sáng nào ông cũng cặm cụi đưa con đến trường. Thế nhưng vì sĩ diện với bạn bè, Liên luôn nói rằng: "Ba má mình không cho đi xe máy, nên thuê ổng chở mình đi học".

Trong lớp mà Liên đang theo học, chẳng hiểu từ bao giờ đã hình thành nên 3 nhóm. Nhóm thứ nhất là nhóm "quý tộc" - nghĩa là đi học bằng xe hơi, hoặc bằng SH, @ hay Piaggio. Điện thoại di động của các cô, cậu trong nhóm hầu hết đều là iPhone, còn máy tính là máy tính bảng chứ hơi đâu mà ôm cái laptop cho nó nặng!

Nhóm này thường hẹn nhau đến lớp rất sớm rồi kéo qua một nhà hàng gần đó ăn điểm tâm. Bữa trưa - học bán trú - thay vì ăn cơm của trường, cả nhóm xuống căng tin, thích gì gọi nấy. Chiều tan học, lại rủ nhau đi cà phê, hoặc fast food rồi mới về nhà.

Biết "lực" mình không đủ để tham gia vào nhóm “quý tộc”, Liên chọn nhóm thứ hai - gọi là nhóm "giữa đường" - hay còn có tên khác là "dân chơi cu Lịch". Đây là khẩu ngữ mà nhóm thứ nhất hay dùng mỉa mai nhóm thứ hai. Để có tiền ăn chơi cho bằng chị bằng em, Liên nói dối với gia đình là phải học thêm môn này, môn nọ. Thương con, ba Liên chạy xe dư được đồng nào lại tích cóp cho con đồng đó.

Ông nói như khóc: "Mới gần đây thôi, nó kêu nó chuẩn bị thi tiếng Anh để lấy bằng quốc tế nên nó cần tiền mua thêm sách vở. Má nó phải năn nỉ người ta cho hốt hụi trước để cho nó 6 triệu đồng...". Tất cả những món tiền này - ngoài việc mua một chiếc điện thoại di động Sony Ericson, mua mấy bộ váy áo rồi gửi bạn bè cất hộ, chỉ khi nào đi chơi mới đến nhà bạn lấy ra mặc - Liên ném vào những cuộc ăn chơi đàn đúm. Mà nào có sang trọng gì cho cam!

Liên kể: "Tiền ít nên tụi con thường kéo nhau đi ăn... lẩu dê, bò bía, bánh xèo, thỉnh thoảng cũng vô mấy cái bar bên quận 8 hay quận Bình Tân cho rẻ". Dịp Lễ Quốc khánh 2-9, nghe bạn bè rủ đi Đà Lạt 3 ngày, mỗi đứa tham gia góp 2 triệu đồng. Không có tiền và biết rằng cũng không thể xin cha mẹ thêm nên lợi dụng lúc ra chơi, Liên lục túi xách của cô bạn chung lớp, lấy chiếc điện thoại đem giấu trong một chậu cây kiểng ngoài sân trường sau khi đã cẩn thận tắt máy.

Trung tá Phó Công an phường nói: "Cháu đã thú nhận và chỉ chỗ cất giấu. Người mất không thưa kiện gì. Ban Giám hiệu cũng sẽ giữ kín chuyện này nên nếu có viết, nhà báo cũng viết tránh đi để cho cháu nó còn có cơ hội trở lại trường học".

2.Có thể nói, những nhân vật mà chúng tôi từng tiếp xúc để hình thành nên bài phóng sự này, thì đều thuộc dạng con nhà nghèo nhưng lại muốn chứng tỏ mình không thua kém ai trong lĩnh vực ăn chơi nhảy múa. Đọc qua hồ sơ một số vụ án mà thủ phạm là những cô cậu học sinh, sinh viên, thì nguyên nhân phát xuất từ sự đua đòi chiếm tỉ lệ không phải là ít.

Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Bộ Công an, chỉ tính riêng trong năm 2010, trên địa bàn cả nước có 13.572 đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên, trong đó số vụ học sinh, sinh viên gây trọng án có chiều hướng tăng đột biến. Bên cạnh đó, tình trạng sinh viên "sống thử" với nhau như vợ chồng cũng đang là vấn đề đáng quan tâm, chưa kể một số sinh viên vì tiền nên đã biến mình thành gái bao, trai bao hoặc mại dâm cao cấp.

Thảo, nhà ở huyện Long Hồ, Vĩnh Long, lên TP HCM học đại học ngành tài chính tiền tệ. Gia đình chỉ trông nhờ vào 3 công ruộng nên Thảo phải thuê phòng ở ghép cùng với một cô bạn khác bên quận 8. Nhiều lần Thảo thắc mắc không hiểu vì sao cô bạn nhà cũng ở tỉnh, cha mẹ làm mướn mà chỉ sau vài tháng, đã sắm được xe Air Blade, máy tính xách tay có webcam, có USB 3G nối mạng Internet, tiền bạc tiêu xài rủng rẻng. Có lần, khi nhà chưa kịp gửi tiền lên để trả tiền phòng thì cô bạn đã hào phóng: "Chuyện nhỏ. Để đó mình lo".

Một bữa trời mưa, lại được nghỉ học, Thảo tò mò hỏi thăm cô bạn về gia đình. Ai dè cô cười sằng sặc: "Bộ bồ tưởng nhà mình giàu lắm hả? Toàn mấy đại gia lo cho mình hết đó. Nếu bồ muốn, mình sẽ giới thiệu cho một ông, hơi già chút nhưng hề chi, miễn là có tiền. Với lại mình có làm gì bậy bạ đâu. Đi ăn, đi chơi cho vui thôi. Con gái chỉ có một thời, không tận dụng uổng lắm".

Thoạt đầu, Thảo còn ngại. Nhưng rồi nghe cô bạn rủ mãi, Thảo quyết định thử một lần cho biết với suy nghĩ "chỉ đi ăn uống thôi". Lần ấy, Thảo đã choáng váng bởi cái không gian cực kỳ sang trọng của một nhà hàng, của những món ăn cầu kỳ, đắt tiền.

Đại gia mà cô bạn giới thiệu cho Thảo dù đầu hói, bụng phệ, tóc muối nhiều hơn tiêu nhưng lại chăm chút cho Thảo như thể cả hai đã quen nhau từ lâu lắm. Đã thế, khi rót rượu cho Thảo, lão lại nhỏ nhẹ: "Em còn đi học, nhắp môi chút thôi kẻo mệt" trong lúc cô bạn Thảo cũng vẫn còn... đi học, mà đại gia của nó ép nó uống tì tì!

Người ta nói "đầu xuôi, đuôi lọt". Lần thứ nhất, Thảo còn ngại nhưng lần thứ hai, rồi lần thứ ba thì mọi việc đã trở nên bình thường.

Theo sự cố vấn của cô bạn, Thảo đã biết sử dụng tuyệt chiêu… moi tiền đại gia bằng cách khi đại gia hẹn đi chơi, Thảo từ chối vì "Em phải chép bài. Sách giáo khoa đắt tiền quá, em mua không nổi nên phải mượn sách của bạn bè về chép lại". Chiêu ấy hiệu quả đến nỗi ngoài 2 triệu đồng để "mua sách", đại gia còn hào phóng tặng thêm cho Thảo chiếc điện thoại di động để: "Anh liên lạc trực tiếp với em, khỏi qua trung gian của bạn em, mất công làm phiền".

Cuối cùng, chuyện gì phải đến đã đến. Ngoài việc trở thành gái bao - không chỉ của một đại gia, Thảo dính vào ma túy. Bữa gặp cô ở trạm trung chuyển, đợi giờ đi trường cai nghiện, Thảo cười buồn: "Cái gì cũng có giá của nó hết anh ơi. Chỉ tới khi nhận ra là mình đã phải trả giá đắt, thì coi như… xong rồi!".

3. Theo các chuyên gia tâm lý, có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng "con nhà nghèo cũng chơi". Về mặt chủ quan, họ bị vật chất cám dỗ và mặc dù không đủ khả năng để "chơi", nhưng họ vẫn cố tìm mọi cách để chứng tỏ đẳng cấp, đơn giản nhất là xin tiền gia đình học thêm, mua sách vở, đóng góp vào quỹ này, quỹ nọ. Khi không còn xin được nữa, họ vay mượn, hoặc lừa gạt, hoặc trộm cắp, hoặc "quan hệ tình cảm" với những người có tiền.

Ông Phong, một đại gia trong ngành kinh doanh ôtô du lịch nhập khẩu nói với chúng tôi: "Giới ăn chơi giàu có bây giờ nhiều người chỉ thích "rau" - nghĩa là những cô gái nhà lành, mới lớn, là học sinh, sinh viên - chứ không thích "hàng" - là gái mại dâm, kể cả mại dâm cao cấp".

Hai năm trước, gần xóm tôi có gia đình làm nghề gia công in lụa. Một bữa, ông chủ nhà lôi đứa con gái 18 tuổi, đang học lớp 12 ra đánh một trận thừa sống thiếu chết khiến cả xóm phải xúm vào can ngăn. Hỏi ra mới biết cô gái tập tành đua đòi quán bar, vũ trường với đám bạn. Và bởi vì không có tiền nên cô bé tìm đến những mối hàng quen của gia đình, hỏi mượn người này 1 triệu, người kia 2 triệu với lời hứa "bữa nào giao hàng, ba con trừ vào tiền công". Tới hồi món nợ lên đến gần 15 triệu thì vụ việc mới vỡ lở!

Về mặt khách quan, kinh tế phát triển dẫn đến cuộc sống có thêm nhiều tiện nghi vật chất mà trong đó, có những loại vật chất luôn tạo ra sự kích thích với giới trẻ, chẳng hạn như chiếc xe gắn máy cao cấp, cái điện thoại di động hàng hiệu, rồi trang sức, đồng hồ đeo tay, quần áo, giày dép…, sản xuất bởi những hãng nổi tiếng. Khi đó, nếu không biết "liệu cơm gắp mắm" thì rất dễ bị cuốn vào vòng xoáy đua đòi.

Thạc sĩ, bác sĩ tâm lý tâm thần Đào Trần Thái, Chủ nhiệm Bộ môn Tâm thần học, Đại học Y Dược TP HCM, giải thích: "Về phía nữ giới, phần lớn những cô gái xuất thân từ những gia đình nghèo - nhưng đua đòi ăn chơi là những người có nhan sắc. Và bởi vì họ luôn nhận được sự săn đón của các bạn trai nên ít nhiều họ cũng ý thức được "thế mạnh" của họ. Với họ, những món quà tặng, những lời mời đi ăn, uống, đi bar, vũ trường là chuyện tất nhiên. Nếu không làm chủ được bản thân, thiếu sự quan tâm, giáo dục của gia đình, học đường thì họ rất dễ sa ngã".

Về phía con trai, Thạc sĩ, bác sĩ Đào Trần Thái giải thích tiếp: "Bản tính của nhiều cậu trai mới lớn là hiếu thắng, bốc đồng, sĩ diện. Đã từng xảy ra những vụ cướp giật mà nguyên nhân là cậu trai chỉ muốn có tiền để dẫn bạn gái đi bar. Trong môi trường học đường, sự phân hóa giàu, nghèo giữa học sinh với nhau đã khiến họ xuất hiện mặc cảm. Với những người mà gia đình luôn quan tâm giáo dục, cộng với ý chí của bản thân thì mặc cảm này chỉ thoáng qua, không đáng kể. Nhưng với những người gia đình buông lỏng, bản thân lại thích chơi trội thì sự trượt dốc là chuyện dễ dàng"…

Ngày tết của mẹ

Nhà mình nghèo, mỗi dịp cuối năm mẹ lại lo làm sao Tết đến trong nhà có dăm bảy lạng thịt, dăm cái bánh chưng, các con có bộ quần áo mới…

Bố mẹ rặt làm nông, mùa thu hoạch về thóc phơi khô cất vào bồ để ăn dần. Có ít hoa màu đành bán đi để lấy tiền cho các con đóng học phí. Tết đến, trong nhà chẳng còn gì để bán, mẹ lại trông chờ vào hàng chuối, mấy gốc bưởi, vài luống rau và mấy con gà đang lục tục kiếm ăn

Con nhà nghèo, bữa ăn quanh năm chỉ có mắm nhút, tương cà, ngày Tết có chút thịt, thấy sao mà ngon thế.

Ngày Tết, các con diện quần áo mới. Còn mẹ, vẫn bộ quần áo cũ ngày thường. Bạn bè con đến chơi, con giục mẹ đi thay quần áo. Mẹ cười, bảo:

- Mẹ mặc thế này cósao đâu. Các con mới cần đẹp, mẹ già rồi có mặc đẹp cũng chẳng ai dòm.

Sợ bạn bè chê cười, con lôi cái rương quần áo của mẹ ra để kiếm bộ quần áo tử tế cho mẹ mặc. Quần áo mẹ nhiều nhưng toàn đồ thừa thãi của các dì, các bác cho, lâu năm rồi cái thì sờn vai, cái thì mòn gấu…

Mùng hai Tết, người ta còn hội họp, vui chơi, mẹ đã quẩy đôi quang gánh ra đồng lụi cụi nhổ rau rồilại hì hụi ngồi bó mang đi chợ huyện bán. Chợ thì xa, mẹ phải gánh rau đi khi trời chưa sáng. Mỗi ngày một gánh rau oằn lên đôi vai, mẹ dành dụm, chắt bóp để ngày giáp hạt chị em con không bị đói.

Bao cái Tết đi qua là bấy nhiêu lo toan, nhọc nhằn. Chưa có cái Tết nào mà mẹ không mong ngóng: con mình có được cái Tết no đủ, nhà mình có tiền để sửa lại ngôi nhà đã xập xệ, tường vôi bong tróc từng mảng, ngày mưa nước nhỏ xuống tận giường nằm…

Và hôm nay khi các con của mẹ đã trưởng thành, khôn lớn, có thể xây cho mẹ một ngôi nhà khang trang, sắm cho mẹ một cái Tết đầy đủ thì mẹ đã không còn nữa.

Ngày Tết, anh chị em gọi nhau về đoàn tụ, thắp nén nhang nhìn lên di ảnh mẹ, thấy mẹ đang cười - nụ cười hiền hậu, mãn nguyện, lòng rưng rưng nhớ những cái Tết nghèo mà mẹ đã đi qua

ĂN CƠM MẮM THẮM DUYÊN QUÊ

Hồ Tĩnh Tâm

Sáng nay lại sực nhớ, mình trót quên ăn cơm chiều hôm qua, hèn chi bụng cứ thấy cồn cào, miệng cứ thấy thèm ăn. Xuống nhà bếp, thấy bó rau nhút, chạnh thương con gái đã lội mương bẻ cho mình, nhìn thấy tô măng luộc, chạnh nhớ bà xã đã chiều mình, lội xuống chợ xã mua về luộc lên, để hôm nay hầm giò heo; vậy là nghĩ ngay tới ăn cơm với mắm.

Con cá làm nên con mắm

Vợ chồng già thương lắm mình ơi

Câu ca dao thuộc nằm lòng mấy chục năm, tự nhiên vụt hiện. Ôi chao là nhớ. Nhớ má Mười ở Sáng Trắng Cần Thơ biết bao nhiêu. Vào những năm 1979, nói như nhà thơ Chế Lan Viên, “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”, tôi với Đỗ Minh, chủ nhật nào cũng đạp xe đi thăm má Mười. Tiếng là đi thăm, chứ thực tình là để kiếm bữa cơm trắng, cá kho, canh chua, cho đỡ tủi thân ăn ròng bo bo với bánh mì, với húp canh “toàn quốc”, với lèo tèo hai ba miếng thịt kho, xắt mỏng như giấy quyến.

Má Mười thừa biết chúng tôi đang sức ăn, sức lớn, phải ăn cơm sinh viên nhà bếp, đói vàng xương là cái chắc, nên cứ hễ chúng tôi về tới, là má sai cô Út, con gái đang sống cùng với má, nấu cả một nồi cơm bự trảng. Bữa nào sang thì có thịt kho Tàu, có thịt vịt nấu chao, còn thường thì chỉ cơm với cá kho, với canh chua cá linh, cá sặc, cá mè vinh. Với chúng tôi, bi nhiêu đó đã chất chứa biết bao tình bao nghĩa. Bởi lẽ, thực tình mà nói, nhà má Mười cũng chẳng khá giả gì. Má có bốn người con, thì ba anh con trai là gia kích, đã chết trận từ trước 30 tháng 4 năm 1975. Anh con cả mất lúc còn độc thân. Hai anh kế, mỗi anh để lại cho má một đứa cháu gái, lủn củn đứa năm tuổi, đứa ba tuổi. Cả hai cô con dâu, đều sống vòng vòng cặp theo bờ sông, gần với nhà của má, cho tiện bề lui tới thăm nom. Vợ anh Ba thua tôi hai tuổi, vợ anh Tư thì thua tôi tới gần bốn tuổi. Cô Út lúc bấy giờ đang tròm trèm vào tuổi trăng rằm mười tám.

Phía sau nhà má Mười là một vuông vườn rộng, trồng toàn cam, bưởi và chanh. Vườn được cắt ngang bởi nhiều con mương, rộng chừng hai mét. Hai bên bờ mương mọc rất nhiều rau tai tượng, bên dưới thì toàn rau nhút. Hàng ngày, ngoài việc chăm vườn, nuôi heo, nuôi gà, nuôi vịt, chiều nào Út cũng lội mương cắt rau tai tượng, rau nhút, để sáng ngày bơi xuồng ra bán ngoài chợ Sáng Trắng, chợ Bình Thủy. Cũng vì lẽ này, bao giờ chúng tôi đến nhà, dù ăn món gì đi chăng nữa, Út cũng đãi chúng tôi món mắm cá lóc chưng, hay mắm sặc, mắm cá linh, mắm cá trèn… ăn với rau nhút, rau tai tượng, rau dừa nước, hoặc bông lục bình. Mắm cá sặc, mắm cá linh, mắm cá trèn, thì để nguyên con mà ăn. Còn mắm cá lóc thì Út cắt ra từng khứa, dài độ ba lóng tay, rồi đem chưng trong cái ơ đất.

Lạ lắm. Con cá làm nên con mắm, nhưng khi con cá thành con mắm, thì con mắm ăn mặn mà hơn, béo hơn, thắm hương thắm vị hơn nhiều. Người ta nói, “ăn cơm mắm thắm về lâu”, nhưng tôi thì tôi nhìn vào mắt cô Út, và nghĩ thầm trong bụng, “ăn cơm mắm thắm duyên quê”. Hình như dáng thon thả với suối tóc dài của cô Út, ngồi nhặt rau nhút trên bến cầu bên sông, kế cây còng cổ thụ, đã làm cho cọng rau giòn hơn, bùi hơn. Hình như dáng cô Út ngồi chụm củi chưng mắm, trong cái bếp thưng bằng lá dừa nước, lợp bằng lá dừa nước, đã làm cho con mắm thơm hơn, ngọt ngào hơn, mặn mà hơn. Dường như cọng tất cả chừng ấy lại, cùng với ánh mắt sâu thẳm của Út, cùng với đôi bàn tay mềm mại, thuôn thuôn mười ngón thon tròn của Út, đã nhân lên bội phần cái ngon, cái ngọt, cái mặn nồng, cái đằm thắm, cái nghĩa, cái tình của bữa cơm, ăn với mắm cá lóc chưng và rau nhút sống.

Út ơi, đúng ra anh phải nói, “ăn cơm mắm thắm tình em”; nhưng hồi đó anh còn quá trẻ, anh làm sao dám nói.

À, mà anh nhớ ra rồi, có lần anh đã nói. Anh nói với mẹ, rằng mắm chưng của mẹ, ngon không chê được vào đâu. Lúc đó mẹ cú vào đầu anh. “Xạo tổ mầy thằng Ba. Con Út chưng chớ tao chưng hồi nào”. Ừa, mà đúng là lần nào ăn rau nhút sống với mắm chưng, cũng là Út lui hui ngồi chưng mắm dưới bếp chớ ai. Có lần nghe mùi mắm bốc lên thơm lựng, chịu không thấu, anh đã chun vào ngồi xuống bên Út, hít hà mãi mùi thơm lừng lựng của ớt, của gừng, của riềng, của tiêu, của… hình như còn của mùi suối tóc, mùi bờ vai, và mùi hương dịu dàng cất lên từ giọng nói của Út: muốn ăn rau nhút sống với mắm cá lóc chưng thiệt ngon, phải cho thiệt nhiều mỡ vào.

Bây giờ, sau bấy nhiêu năm, anh vẫn nhớ và hình dung ra tất cả Út à. Muốn ăn rau nhút sống với mắm cá lóc chưng, đúng là phải cho thật nhiều mỡ vào. Mỡ làm cho con mắm mềm hơn, dịu hơn, thắm lại nhiều hơn, tạo ra sự bám dính trên cọng rau bền chặt, đến không thể nào buông ra được nữa.

Út ơi, ăn cơm mắm thắm tình em, hay ăn cơm mắm thắm duyên quê, Út ơi!

Ôn thi với "cơm mắm, rau rừng" ở ngôi trường có tỷ lệ tốt nghiệp 0%

Hai tuần rồi, Trường THPT Đinh Tiên Hoàng bước vào cao điểm ôn tập sáu môn học chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp THPT nên thời lượng học được tăng gấp đôi. Ngoài số học sinh có nhà ở xã Sơn Mùa và một phần của xã Sơn Dung nằm gần trường, tất cả học sinh ở những xã xa, trước đây ở tạm nhà dân hoặc trong những chòi giữ lúa của đồng bào nằm ven đồng, được ban giám hiệu thu xếp vào ở miễn phí trong các phòng nội trú của trường để tiện cho việc theo dõi ôn tập.

Đầu vào quá thấp

Ngoài giờ lên lớp ban ngày, tối đến ba phòng học ở tầng hai đều mở cửa cho các em tự ôn tập. 19g, giáo viên hướng dẫn ôn tập rồi sau đó học sinh tự ôn. Đến 22g, giáo viên kiểm tra lại bài học theo hình thức kiểm tra miệng, chốt lại kiến thức cơ bản rồi mới cho các em về phòng nghỉ. Hiệu trưởng nhà trường Bùi Thế Giới lo lắng: “Theo kết quả thi học kỳ I, cả khối 12 chỉ có một học sinh giỏi, chín học sinh xếp loại trung bình, còn lại là loại yếu kém nên nếu không có biện pháp ôn tập sớm e rằng kỳ thi này lặp lại kết quả không vui của những kỳ thi trước”.

Năm học 2006-2007, Trường THPT Đinh Tiên Hoàng là trường không có một học sinh nào thi đậu tốt nghiệp THPT. Từ đó, trường tìm đủ mọi cách để cải thiện chất lượng dạy và học. Mặc dù vậy, năm học vừa rồi trong số 19 học sinh của trường cũng chỉ có bốn em đậu tốt nghiệp THPT. Tỉ lệ học sinh đậu tốt nghiệp thấp nên cả thầy lẫn trò và phụ huynh đều sốt ruột. Nhưng biết làm sao được khi trường chưa bao giờ tổ chức thi tuyển vào đầu năm học mới vì số lượng đầu vào quá thấp so với chỉ tiêu, nên em nào nộp hồ sơ là được tuyển vào học ở trường.

Vậy mà có những nơi như xã Sơn Lập, Sơn Tịnh - cách trường trên 30km, do điều kiện đi lại khó khăn, người dân quá nghèo nên số lượng học sinh đến trường ít và sau ba năm học như năm nay ở hai xã này chẳng có học sinh nào học đến lớp 12.

Chật vật áo cơm

Còn với những học sinh được đi học, không ít em đến trường với bữa cơm thường ngày chỉ có mắm hoặc muối với rau rừng. Trò chuyện với chúng tôi, bạn Đinh Văn Thức - nhà ở xã Sơn Long, cách trường 18km - tâm sự: “Hôm về nhà ba mẹ giã cho thêm ít gạo lúa rẫy rồi mượn tạm hàng xóm 5.000 đồng để xuống mua mắm, chứ đâu có tiền”. Trong số 39 học sinh đang học lớp 12 của trường năm học này phần lớn là con em đồng bào Ca Dong, có hoàn cảnh kinh tế khá khó khăn.

Các thầy cô giáo ở Trường THPT Đinh Tiên Hoàng hiểu rõ điều kiện về địa hình và cuộc sống khó khăn dẫn đến chất lượng học tập của học sinh bị ảnh hưởng nên thường sau khi tuyển sinh đầu cấp là lên kế hoạch dạy kèm, dạy thêm liên tục mà chẳng bao giờ nói đến thù lao. Còn bây giờ đến thời điểm chạy nước rút thì: “Thương đám học trò lắm nên có thầy cô đã trích đồng lương ít ỏi của mình mua thêm cá muối cho các em ăn trong những bữa cơm” - giáo viên chủ nhiệm lớp 12 Lê Thành Trung bộc bạch.

Trong khi đó, chủ tịch UBND huyện Sơn Tây Phạm Tấn Hoàng cũng lo lắng không kém. Ông Hoàng nói: “Ở huyện miền núi có 18.000 dân này mỗi năm chỉ có ngần ấy học sinh dự thi tốt nghiệp THPT. Nếu như chất lượng học tập kém, các em không vượt qua được kỳ thi thì tương lai lấy đâu cán bộ người địa phương để làm công tác”. Lãnh đạo huyện đã chỉ đạo cho trường đề xuất kinh phí để huyện hỗ trợ tất cả học sinh lớp 12 của trường xuống huyện Sơn Hà (cách trường 20km) để dự thi tốt nghiệp.

“Trong những ngày thi, huyện đều tổ chức cho các em ăn ở miễn phí. Còn hiện tại thì động viên các em nỗ lực để đạt kết quả cao trong kỳ thi” - ông Hoàng cho biết thêm

1.     Người cha va con cá gỗ

 "Có một gia đình nọ - như phần đông các gia đình nghèo ở quê mình - có 4, 5, hay 6,7 đứa con gì đó, nhà nghèo lắm, bữa ăn hàng ngày chẳng có gì ngoài một nồi cơm độn khoai, một ít rau luộc, và một bát nước mắm....Người cha nghĩ ra một cách đẽo một con cá bằng gỗ, sơn phết vào trông y như con ca' rán. Hàng ngày đến bữa cơm, ông treo con cá lên xà nhà, quy định với mấy đứa con, mỗi bát cơm chỉ được nhìn vào con cá, chép miệng 3 cái, coi như đã được ăn cá rán - và chỉ được chép miệng đúng 3 cái, không được hơn.

 Một hơm đứa con út của ông lỡ miệng chép 4 cái, thằn anh nó ngồi bên cạnh trông thấy vội mách bố:

 - Bố ơi, thằng Út chép miệng 4 lần.

 - Thằng này hư. Mày ăn mặn thế, cho mày chết khát, con nhá..."

2. Cậu học trò nghèo và con cá gỗ

 Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, có một cậu học trò xứ Nghệ học học giỏi lắm, nhưng nghèo lắm...Tuy nghèo, nhưng cậu vẫn quyết tâm đi thi đại học để mong kiếm lấy mấy cái kiến thức về giúp quê hương. Nhà nghèo, mỗi lần từ quê lên thành phố học tiếp, cậu chẳng có tiền mua vé tàu, chỉ xin đi nhờ. Đến bữa, cũng chỉ có mo cơm trắng mẹ gói cho. Cậu bèn nghĩ ra một kế. Cậu lôi con cá gỗ do cậu đẽo lấy, đã được sơn phết trông như cá thật, bỏ vào cái đĩa, rồi cậu đi đến chỗ mấy người đang ăn cơm nói rất lễ phép:

 - Thưa bác, bác có thể cho cháu xin chút nước mắm để cháu ăn con cá rán này với cơm được không!

 Và cứ như vậy cậu đã học xong 4 năm 1 cái bằng đại học chính quy, và nghe đâu sau này cậu còn học thêm mấy cái bằng ĐH tại chức nữa, vẫn với con cá bằng gỗ ấy....

3.

Có 1 trò nghèo đi ra bắc đi thi, hành trang mang theo gồm sách, bút, lọ mực, vài bộ quần áo, đùm cơm, lọ muối vừng, mấy quan tiền và 1 con cá gỗ.

 Đi từ xứ Nghệ qua xứ Thanh, cơm đùm đã vơi, muối vừng đã cạn, anh chàng nghỉ dừng chân nơi mô là vô quán xin họ bát nước mắm: " cho tui xin tí nước mắm để chấm con cá ", sau đó len lén ra một góc khuất nhẹ nhàng dở con cá đẽo bằng gỗ chấm nước mắm ăn với cơm ngon lành.

 Cứ như vậy anh chàng học trò nghèo đã ra đến kinh kỳ dự thi và quay về quê khi đã tiêu tằn tiện hết mấy quan tiền còm cõi và con cá gộ đã bị mòn vẹt mất khúc đuôi.

 Một hôm, có phái đoàn của nhà vua về tận làng công bố kết quả Trạng nguyên, chàng học trò nghèo đã đỗ đạt, võng lọng đưa đón lên kinh kỳ nhận lộc vua ban, khi đi qua hàng cơm ngày xưa, chủ quán nhận ra đó là anh trò nghèo với con cá gộ dạo trước đi thi.

 Chàng thì không hề biết nhưng các hàng cơm đều theo dõi và truyền miệng nhau, và câu chuyện loang ra đến kinh kỳ. Và truyền thuyết về dân " cá gộ "có từ đó.

 Ngày nay, các nhà giàu sang, các ngài quan chức có lương tâm răn dạy con cái tấm gương bản lĩnh vượt qua nghèo đói để học tập của anh học trò nghèo xứ Nghệ để chúng  noi theo.

Giai thoại về "CÁ GỖ" có hai giai thoại để giải thích điển tích này. Giai thoại đầu là như bác thời đã hết đã nói.Còn có một giai thoại nữa nội dung như sau:

" Xưa, có anh học trò Nghệ nghèo, đi học chỉ ăn cơm không. Anh ta bèn đẽo một con cá gỗ nướng cho vàng trôn giống như con cá rán.Mỗi buổi ăn cơm anh ta lại đi xin nước mắm về chấm cá để có nước mắm chan cơm.Rồi người ta phát hiện ra thành giai thoại, vừa giễu vừa phục. Thế mà anh học trò nghèo cũng học nên, sau này anh học trò nghèo kia đỗ đạt cao về vinh qui bái tổ ".

Trong hai giai thoại trên thì giai thoại sau thuyết phục hơn, và đẹp hơn bởi lẽ nó lý giải được rằng: "Dân Nghệ dù nghèo, nhưng ham học, giỏi chịu gian khổ để vươn lên". Trong câu chuyện trên cái láu cá của cậu học trò thể hiện một tố chất thông minh, đó cũng là một điển hình của học trò xứ Nghệ ngày xưa. Người dân Nghệ chúng ta rất tự hào về điều này, nó thể hiện tính cần cù, chịu khó và ý chí vươn lên trong cuộc sống của mảnh đất khô cằn, sỏi đá.

Nếu dựa vào nội dung giai thoại " Cá Gỗ " của ông đồ nghèo thì đó là tinh thần tự tôn, đói cho sạch rách cho thơm. Cũng có người dựa vào giai thoại thứ nhất để cho rằng người Nghệ tiết kiệm, tiết kiệm đến tằn tiện và bủn xỉn. Đó là một quan điểm sai lầm là quan điểm đã cố tình bóp méo đi bản chất của câu chuyện. Rồi người ta lại bóp méo câu chuyện cá gỗ thành câu chuyện " Ăn cá gỗ khát nước" chắc các bạn cũng đã từng được nghe.

Dù gì đi chăng nữa thì đại từ cá gỗ mà dân gian thường dùng luôn mang hàm ý nể phục và tôn trọng. Chúng ta vẫn tự hào về điều đó, chúng ta tâm đắc với con "Cá Gỗ" của cậu học trò nghèo hiếu học.

Nhân chuyện "Cá Gỗ " tôi kể các bạn cùng nghe một câu chuyện đối lập của một thư sinh công tử nhà giàu keo kiệt. Chuyện có tên là "Bánh rán"

" Có một công tử nhà giàu nọ tính rất keo kiệt, đền kỳ thi cũng mang thêm đầy tớ, lều chõng lên kinh kỳ ứng đổi cho có việc. Vốn hắn rất keo kiệt, bủn xỉn nhưng lại thích khoe khoang và làm vẻ. Lên kinh sợ tốn tiền nên vào hàng quán hắn cũng chỉ mua Khoai nói là cho đầy tớ ăn nhưng cả hai cùng xơi, tiếc của hắn xơi luôn cả vỏ, để giữ thể diện hắn vo tròn vỏ khoai trông gióng như bánh rán ai có hỏi thì hắn nói là hắn ăn bánh rán. Bà chủ quán thấy hắn keo kiệt quá mà lại hay ra oai nên bực mình. Một hôm khi hắn đang nhai vỏ Khoai đột nhiên bà chủ hỏi " Ăn gì đấy?" Hắn trả lời là ăn bánh rán. Khi tính tiền hắn phải thêm một khoản mà chưa khi nào hắn được xơi . Xót của hắn bỏ thi và về quê. Rồi sau này khuynh gia bại sản."

Hai câu chuyện về học trò xưa để chúng ta thêm trân trọng tính cần cù chịu khó và nhất là bản chất thông minh của các cậu học trò nghèo Xứ Nghệ.

Vườn kỷ niệm

Ngày xưa, xưa ơi là xưa , chắc chắn một điều là mọi người vẫn còn nhớ như in ngày ấy ở trong trí nhớ cuả mình. Vì từ ngày xưa ấy cho đến hôm nay chúng ta vẫn luôn nhắc về nó như một miền nhớ thân yêu.

Vào một ngày chia theo thì quá khứ, khi bước đi sau cơn mưa, bầu trời trong xanh hiện lên một sắc cầu vồng gợi nhớ về một câu chuyện đời rất thực.

Thuở xưa, khi chưa có loài người mà chỉ mới có muôn thú thôi, có một mảnh đất phủ đầy cỏ, và người ta gọi mảnh đất ấy là thảo nguyên xanh. Cũng có người lại bảo rằng đây là thung lũng cỏ xanh, chẳng biết nên gọi làm sao cho đúng. Thôi thì kêu là một mảnh đất xanh đầy cỏ cho vừa lòng tất cả vậy.

Trên mảnh đất ấy, chỉ có cỏ và cỏ thôi, chứ lúc ấy chưa có gì hết. Cỏ trải dài từ nơi này qua nơi khác, xanh và xanh. Mà bởi chỉ có cỏ nên muôn loài có vẻ như ngày càng cảm thấy chán cảnh vật ấy. Chẳng có gì là mới mẻ, ngày hôm nay cỏ vẫn giống như ngày hôm qua. Cỏ đồi bên này có mất đi một chút thì tìm sang đồi bên cạnh. Quẩn quanh chỉ là cỏ và cỏ, một màu xanh xanh xanh mà thôi. Ở trên cao chỉ có mỗi ông Mặt Trời điểm màu vàng vàng vàng hằng ngày. Muôn loài thốt lên rằng, cuộc sống thật tẻ nhạt làm sao, khi mà ngày hôm nay cũng chỉ giống hôm qua và sẽ giống nhau vào mai kia mốt nọ. Muôn thú nhìn cảnh như thế nên đâm ra chẳng còn muốn nhìn gì nữa, chị Thỏ vẫn là chị Thỏ, anh Gấu cứ là anh Gấu, chẳng ai thay đổi. Chị Bò cái cùng lũ con cũng vậy, ngày nào cũng gặm cỏ hoài mà không biết chán, lũ con chị cũng quẩn quanh như mẹ chúng nó. Muôn thú nhìn nhau ngán ngẩm, thế là chúng sống thờ ơ với nhau dù rằng chúng biết cảm giác hôm nay cũng giống như cảm giác cuả ngày mai chẳng có gì là thay đổi. Vậy nên muôn loài mạnh ai nấy sống, coi như không có gì xảy ra, thờ ơ và dửng dưng. Cuộc sống ấy tẻ nhạt như mảnh đất chỉ mỗi màu xanh ấy vậy! Buồn thật buồn vì cảnh vật chẳng có gì khác hơn, muôn thú cũng chỉ có thế.

Rồi một ngày nọ, từng cơn gió to thật là to thổi ào ào hối hả, bầu trời thì tối sầm, muôn vật tỏ ra sợ hãi vô cùng. Sau cơn gió ầm ào ấy trời đổ mưa như trút nước, nước lênh láng chảy dài quẩn quanh thung lũng xanh tươi ấy, những hạt mưa to liên miên không ngớt gieo xuống những hạt nặng nhọc. Muôn thú có vẻ thích thú với cơn mưa lắm, nhưng mưa một ngày lại đến hai ngày, rồi ba ngày. Thế thì chán lắm, mưa hoài hà, muôn thú than thở. Mưa thế này, thung lũng ngập trong nước mất. Mưa xuống thì tránh mưa nên bụng ai cũng đói meo, cũng teo tóp lại, ba ngày rồi chứ ít ỏi gì, mưa quá làm sao đi kiếm ăn đây.

Mặc cho muôn thú than thở, trời vẫn cứ mưa, đến ngày thứ tư thì mọi nơi hầu như đã ngập nước hết cả rồi. Từng đoàn từng đoàn dẫn dắt nhau đến nơi cao hơn để tránh mưa, cả bọn tạm lánh vào một cái hang chật chội. Lố nhố cả bầy thú trong cái hang bé xíu ấy không phải là một cảnh tượng dễ chịu chút nào. Cùng ở một chỗ chật hẹp, lại đói, đâm ra cáu bẳn khó chịu, từ xưa đến giờ anh Sư Tử hiền ơi là hiền, bây giờ trời thì mưa mà bụng thì đói mà lũ bê con cứ chạy nhặng xị, bực mình anh chỉ khe khẽ nhe răng. Thế mà chúng vẫn chẳng chịu yên cho, anh đâm bực, gầm một tiếng. Cả bọn trong hang cứ trợn mắt nhìn rồi hốt hoảng đổ dồn về hẳn một phía. Ui cha! Hôm nay chúng bắt đầu biết sợ Sư Tử rồi đấy. Sư Tử thì hài lòng, thì ra mình cũng có uy lắm, thế cho tụi nó biết, đừng có mà không biết tôn trọng người khác, ở đây chật chội thì phải biết nhường nhịn và đừng có làm ồn ào, chỉ càng đói thêm và xì-trét nữa.

Sau bữa đó, hôm sau là ngày thứ năm rồi, mà trời vẫn mưa, bây giờ trong hang tối, muôn thú nằm bẹp dưới đất, chúng đói khát rã rời. Muôn thú bắt đầu biết nhớ, à, bây giờ nhớ cái lũng cỏ xanh nhàm chán kia, sao nó xanh tươi quá. Thế là cả bọn cùng nhao nhao lên, chị Thỏ nói rằng mình nhớ những bụi cỏ sau nhà, nhớ mấy củ cà-rốt đo đỏ cuả mình. Anh Gấu thì nhớ con suối cạnh nhà, hằng ngày đến bắt cá, nhớ tiếng suối róc rách nè, nhớ từng bậc đá ở con suối nè, nhớ những lần lang thang dọc bờ suối nè, nhớ những ngày oi ả ra suối tắm nè. Chị Bò cái và mấy chị cùng hội thì mơ màng, ái cha, tui nhớ cảnh Mặt Trời mọc mỗi buổi bình minh tui gặm cỏ quá, nhớ cảnh Mặt Trời lặn nữa chứ. Thế mà cứ tưởng các chị chỉ gặm cỏ thôi chứ biết gì là thiên nhiên kia chứ.

Các chị nhao nhao cả lên, chị thì nói nhớ những cánh bướm hay chao nghiêng xung quanh chị những buổi sớm mai, chị thì nhớ và thèm những cọng cỏ xanh ngọt ngào đẫm sương đêm mỗi sáng. Mà sao các chị nhớ đến việc ăn không thế nhỉ. Anh heo rừng có vẻ cũng tâm đắc cùng các chị, anh nhớ những lần lùng sục khắp thung lũng, nghe những hương thơm lạ, anh bây giờ muốn hít một mùi hương cũng không được. Sư Tử thì có vẻ trầm ngâm, nhớ những lúc nằm dài dưới gốc cây yên lành mà tắm nắng, nhớ tiếng gió vi vu theo tán lá mỗi ban trưa… Rồi cả bọn ngồi thần thừ, chúng nhớ mông lung đủ thứ chuyện mà trước cơn mưa chúng cho là cảnh vật thật đáng chán biết bao.

Sang ngày thứ sáu, muôn thú đói lắm rồi, đói đến hoa cả mắt, thấy mấy chị Bò cái vẫn còn ngồi nhiều chuyện, anh Sư Tử ngán ngẫm, bọn này chẳng chịu để dành hơi trong bụng để vưọt qua cơn đói gì cả. Đám bê con thì cứ quẩn quanh chân mẹ chúng mà rút rút đầu vào bầu sữa. Chợt tiếng bác Dê la lớn, hay là các chị phụ nữ nói chung, các chị Dê cái Bò cái, các chị cho chúng tôi một chút sưã cho ấm bụng chờ hết cơn mưa nhé. Một chút sữa cũng là quá đủ, mà trong hang hình như số chị Bò chị Dê cũng vượt trội cánh đàn ông. Thế là cả bọn hí hửng, được cứu rồi, có đồ ăn treo trước mắt mà chả cha nào để ý đến. Rồi muôn thú xúm vào, khổ thân các chị, mấy ngày trước các chị còn khoẻ không chịu xin sữa, đợi các chị đói meo bảo là xin, cũng may là các chị vẫn còn để cho, không thôi chết cả lũ (sau ngày hôm nay mới biết, tấm lòng các chị phụ nữ là cao cả lắm, đức tính hi sinh cũng từ đây đấy, các chị đói và mệt nhưng vẫn vắt hết sữa trong người mà nuôi tất cả đấy).

Buổi sáng hôm ấy, đã là ngày thứ bảy, hình như bên ngoài ngớt mưa. Nghe văng vẳng đâu còn có tiếng chim nữa cơ. Anh Sư Tử thính tai, khẽ khàng nói, hình như hết mưa rồi!

Ôi! cả bọn đang mệt nhoài, chập chờn ngủ cũng ùa nhau tỉnh dậy xem có thật mưa đã dứt rồi không. Cả bọn bước ra nhìn xung quanh, mưa đã dứt hẳn, nước cũng từ từ rút hết. Trên cao, Mặt Trời đang cười kia kìa, mà còn có một vầng sáng gì lạ lắm ở gần Mặt Trời nữa. Cả bọn hớn hở nói cùng nhau rằng mấy hôm nay mưa, Mặt Trời cũng mắc mưa, nên vắt chiếc khăn lau khô chúng ta đấy. Nào cùng chạy đến cho nó khô ráo vậy, khi chúng chạy ùa về phía trước thì chúng thấy trên những mảng cỏ xung quanh bây giờ lác đác mấy "cái gì đó" trông giống giống Mặt Trời, chắc là lũ con Mặt Trời đấy!

Cả bọn đứng tụ tập quanh Mặt Trời và chiếc khăn lông bảy màu to lớn, chúng lên tiếng hỏi Mặt Trời lúc có mưa biến đi đâu. Mặt Trời chẳng nói chỉ cười khà khà, cả bọn nghĩ bụng chắc là lão ấy ngủ với đám mây chứ đi đâu. Sư Tử hỏi cái khăn lông bảy màu mua ở đâu đẹp thế, Mặt Trời cười lớn, bảo rằng đây là cầu vồng, từ hôm nay, hễ khi mưa xuống, sau cơn mưa sẽ có cầu vồng hiện lên. Mặt Trời còn hỏi tất cả rằng cầu vồng có đẹp lắm không? Muôn thú nhìn mà không chạm vào được nên cũng tiếc lắm. Chỉ có bác Dê già là lẩm nhẩm, cầu vồng là ánh sáng cuả Mặt Trời, vì không thể chạm vào nên ta chỉ đứng xa ngắm nhìn, vì đứng xa một chổ ngắm nhìn nó lung linh nên khi nào ta cũng thấy nó đẹp, caí đẹp là cái ta không thể cảm nhận bằng tay mà bằng tâm hồn mình.

Cả bọn nghe bác Dê nói, cũng cho là tạm hiểu và cũng thấy có lý. Nhưng bác Dê lại hỏi Mặt Trời những "cái" trông giống bác Mặt Trời là "cái gì", mà sao hôm nay lại có, có phải con bác Mặt Trời không. Bác Mặt Trời bảo chỉ cười, nói rằng chẳng hề biết đến hoa ấy đâu, nhưng mà "cái ấy" gọi là bông hoa, và chắc là hoa dại ấy, rồi hướng ánh nhìn về những bông hoa tấm tắc khen, khen hoa giống ta quá, rực rỡ quá, hoành tráng quá (bác Mặt Trời cố ý nhấn mạnh ưu điểm cuả minh với muôn loài). Mấy chị Bò cũng quẩn quanh ngắm hoa ra chiều thích thú, Bác Dê lại vẫn trâm ngầm, thôi ta kêu là Hoa Hướng Dương, vì nó giống bác Mặt Trời, vì sau cơn mưa nó tràn lên sức sống, nó mang nhiều sức sống quá, màu vàng cuả nó cũng giống bác Mặt Trời nữa. Thế là cánh đồng hoa ấy có cái tên Hoa Hướng Dương, muôn thú thì có vẻ hạnh phúc hơn nhiều, thấy xung quanh mình cảnh vật đồi khác, rực rỡ hơn và thân thương hơn, chứ chằng còn nhàm chán nữa.

Buổi tối hôm ấy, muôn thú cùng nhau ăn mừng, bên ánh lửa ngồi cạnh nhau. Muôn thú gợi lại cho nhau những kỉ niệm ít ỏi chúng có với nhau những ngày mưa (và cả những kỷ niệm mà chúng nhớ được về những ngày tháng trước khi có trận mưa dữ dội kia nữa chứ), dẫu là ít ỏi vậy thôi chứ thực ra là nhiều lắm, chúng không sống thờ ơ với nhau như dạo trước nữa, kỉ niệm mới, kỉ niệm cũ cứ dâng dấy trong mắt chúng theo từng ánh lửa đêm. Sáng hôm sau, thung lũng cỏ xanh vẫn như xưa, chỉ đổi khác rằng có thêm nhiều loài "hoa" (như lời bác Mặt Trời nói) mới mọc lên đẹp cho thung lũng, muôn thú gắn bó với nhau hơn, từ thung lũng mọc lên một khu vườn, gần cái hang mà muôn thú tránh mưa. Khu vườn ấy mọc rất nhiều hoa, có hướng dương nè, có cúc nè, có hoa mắc cỡ nè, nhiều nhiều hoa lắm, có hoa vừa đặt tên và có cả những hoa chưa kịp đặt tên. Muôn thú nhất trí đặt tên cho khu vườn ấy là vườn kỉ niệm để gợi nhớ những ngày thuộc về hôm qua hôm kia, thuộc về kí ức.

Vườn kỉ niệm ấy tồn tại mãi đến ngày hôm nay. Ngày nay, trong mỗi chúng ta cũng có một khu vườn kỉ niệm cho riêng mỗi người, nơi đó chúng ta cũng gieo trồng nhiều những bông Hoa Hướng Dương, hoặc những bông hoa hồng để giúp ta gợi nhớ những ngày bình yên, tươi đẹp, hay những ngày mưa trong cuộc đời mình. Để một lúc nào đó, khi bất chợt nhìn ánh cầu vồng, ta nhớ về một khu vườn đầy những kỉ niệm vui có, buồn có đó... Khu vườn ấy mang nhiều màu sắc âm thanh và mãi mãi sống trong lòng chúng ta, bởi vì kỉ niệm không phải nhất thiết phải là kỉ niệm vui hay buồn, đơn giản vì chúng ta không có chúng lần thứ hai, ta chỉ biết đơm thêm vào khu vườn ấy những bông hoa khác mà thôi. Và vì thế, hãy nhớ nâng niu những kỉ niệm cuả chúng ta và trồng thêm vào khu vườn cuả chính mình những bông hoa cuộc đời. Khi biết nhớ, biết yêu những điều đã qua cũng chính là lúc ta thắp lên trong ta nghị lực cho ngày mai.

Có một khu vườn ngự trị trong lòng mỗi người. Nơi đó thấp thoáng những phiền muộn cũng như những hạnh phúc, vì nó là một khu vườn nên người ta hay cứ ngắm nhìn nó, khu vườn ấy chính là kỉ niệm, là nhớ đến và nghĩ về…

Gió lay mẹ rụng, em sợ mồ côi

(Dân trí) - 20 năm mang trong mình căn bệnh suy tim, xuất huyết não, sỏi thận… luôn hành hạ. Người đàn bà khắc khổ, vẻ mặt ủ dột, buồn rười rượi như một cây chuối già sắp chết mà chúng tôi nói tới là bà Nguyễn Thị Duân, 58 tuổi, Diễn Minh, Diễn Châu, Nghệ An.

Thứ Sáu, 26/08/2011 - 00:04

Mã số 340:

Gió lay mẹ rụng, em sợ mồ côi

(Dân trí) - 20 năm mang trong mình căn bệnh suy tim, xuất huyết não, sỏi thận… luôn hành hạ. Người đàn bà khắc khổ, vẻ mặt ủ dột, buồn rười rượi như một cây chuối già sắp chết mà chúng tôi nói tới là bà Nguyễn Thị Duân, 58 tuổi, Diễn Minh, Diễn Châu, Nghệ An.

Bà Duân nhặt những hạt đậu để ủ giá bán kiếm tiền mua thuốc, ăn uống hằng ngày nhưng chỉ là như muối bỏ biển.

Người con độc nhất của bà là em Nguyễn Thị Phương, trú xóm 3 Diễn Minh (Diễn Châu, Nghệ An) đã tâm sự với chúng tôi về bệnh tình của người mẹ nghèo đang sống lay lắt trong những ngày có thể nói cuối đời.

Người đàn bà khắc khổ mang bệnh 20 năm nay

Trong ngôi nhà nhỏ tồi tàn trống rỗng, người phụ nữ nghèo vẫn nằm co ro trên giường vì quá mệt mỏi. Thấy chúng tôi tới thăm, bà Nguyễn Thị Duân, cố gượng hết sức lực cạn kiệt còn lại để tiếp chuyện. Chị tâm sự với chúng tôi trong vẻ mặt ủ dột, buồn rười rượi: “Năm nay tôi 58 tuổi, thế nhưng bệnh trong người cứ đeo bám triền miên. 20 năm qua vì bệnh tật nên chẳng làm được gì nên chuyện. Bây giờ gia cảnh đã nghèo lại thêm nghèo vì bệnh suy tim, xuất huyết não, sỏi thận… không ngừng hành hạ”.

Bà Duân cũng cho biết thêm, chi phí mua thuốc ngày một nhiều khiến gia đình nghèo ngày thêm kiệt quệ. Cái ăn, cái mặc quanh năm túng thiếu. Để an ủi con và cố gắng kiếm đồng ra đồng vào, bà Duân dù mang trọng bệnh nhưng vẫn cố nhặt nhạnh cây rau, hạt đậu ngoài vườn hòng kiếm dăm ba ngàn mua gạo, cố gắng những gì có thể để nuôi con ăn học thành người.

Bà bảo: “Ngày xưa, vì không chịu nổi đói nghèo nên bố của Phương đã dứt áo ra đi biền biệt. Bỏ lại làng quê nghèo hai mẹ con tôi túng đói trong ngôi nhà dột nát như ri”. “Bố như thế nào em cũng không biết, từ nhỏ tới giờ em chỉ có mẹ. Bây giờ đối với em, mẹ là động lực để em không ngừng vươn lên trong cuộc sống. Nếu mẹ em có mệnh hệ nào thì em chẳng còn ai”, Phương buồn rầu trước số phận bi đát của mình mà trong ý nghĩ của em đã đoán trước nó rất dễ xảy ra.

Năm nay Phương mới 22 tuổi, thế nhưng trên vai em là một biển trời đầy rẫy những khổ đau. Để nuôi sống bản thân, để có tiền đong từng lon gạo và thuốc thang chữa bệnh cho mẹ, từ nhỏ Phương như một con thoi quần quật làm việc không mỏi. Phương bảo: “Hiện em đang học liên thông lên Đại học Lao Động - Xã Hội. Để có tiền ăn học và chi phí chữa bệnh cho mẹ, ngoài giờ học em cố gắng đi làm thêm để kiếm tiền”.

Em sẽ làm mọi việc để có thể cứu được mẹ

Để có tiền chữa bệnh cho mẹ, Phương phải một tay làm trăm công, ngàn việc. Những lúc mẹ ra Hà Nội điều trị, em phải vừa đi học, vừa chăm sóc mẹ lại vừa phải đi làm thêm. Năm 2010, để có 30 triệu đồng chữa chạy cho mẹ ở bệnh viện Bạch Mai, Phương lại một lần nữa chạy vạy ngược xuôi vay ngân hàng, bạn bè, hàng xóm, anh em. Bây giờ tiền hết nhưng bệnh của mẹ vẫn hiện hữu và số nợ cứ thế đeo đẳng em không biết đến khi nào?.

Hiện Phương đang đi làm thêm rửa bát ở quán cơm vào hai buổi, tối về rảnh rỗi một chút là thời gian để học bài. Phương bảo: “Vì muốn có tiền chữa trị cho mẹ nên mọi sinh hoạt đều phải rất tiết kiệm, phải đi bưng bê, rửa bát để kiếm ăn thôi anh. Hằng ngày may mà chủ nhà hàng còn cho ăn trưa nhưng bữa ăn sáng và bữa tối thường em chỉ ăn bánh mì hoặc ăn mì tôm thôi”

ngày xưa ơi, một miếng ngậm ngùi

Posted on 14/02/2010by trangha

ngày xưa ơi, một miếng ngậm ngùi

Túi hàng Tết thời bao cấp, mang từ cửa hàng mậu dịch của khu phố về thực sự là một điều kỳ diệu, một thứ được cả gia đình khao khát. Đã hai mươi mấy năm trôi qua, lùi lại ký ức, tôi chỉ còn láng máng nhớ trong đó có một miếng bóng bì lớn, cong queo đầy lông lợn và xấp bánh đa mỏng để gói nem, và hộp mứt Tết thập cẩm sặc sỡ in hình hoa đào sáu góc gần như một phép màu.

Không hiểu sao nghèo và khổ luôn gợi lại những cảm xúc xót xa trong tôi. Tới mức tôi luôn sẵn lòng mua hết những thứ hàng ế (mà mình đâu cần) cho người phụ nữ, có khi là bà già, ngồi cố bán lúc chiều tối chợ tàn. Hoặc thắt cả lòng khi thấy những gánh hàng lèo tèo, những người bán chợ rong bị đuổi chạy, cả những bà bán hàng chửi nhau giành chỗ mà chung quy cũng chỉ vì cuộc sống chật vật, làm ăn khó khăn. Như thể sự đói nghèo dốt nát của họ ngày hôm nay chính là lỗi của mình thờ ơ với ngày hôm qua. Nên trong túi còn có vài trăm ngàn thôi thì cũng sẵn sàng gửi một trăm ngàn giúp đỡ một người nghèo nào đó mà mình không biết họ, họ cũng không biết mình.

Nhưng vì sao gói mứt Tết thập cẩm với vài viên lạc luôn ỉu, một miếng mứt cà rốt luôn mốc xanh, một quả quất lăn đường luôn ướt nhẹp… là biểu tượng của một niềm hạnh phúc ngày Xuân, trong tôi. Phải vì trong túi hàng Tết thời bao cấp khi đó, nó là thứ duy nhất tôi được quản lý?

Hay nó là sự nghèo nàn, rẻ tiền tương phản với vô vàn khao khát của con người trước tương lai khi mùa Xuân tới? Hay nó rẻ tiền và lạc lõng tới mức gần như bị gạt ra khỏi ẩm thực người thành phố bây giờ, lưu lạc tới các vùng thôn quê, vẫn với cành hoa đào đỏ rực in trên bìa, như một chỉ dẫn của năm mới?

Thế mà đến giờ, Tết năm nào tôi cũng chỉ khao khát một gói mứt Tết thập cẩm rẻ tiền ấy thôi.

Có cậu bé nghèo hèn khi nhỏ thèm món đồ chơi xe lửa chạy trên đường ray của bạn, lúc lớn lên thành triệu phú, đã mua cho mình một món đồ chơi xe lửa, rồi đôi khi ngồi giữa để món đồ chơi tuổi thiếu nhi chạy quanh mình, nhìn nó ngẫm nghĩ. Không phải họ bị thần kinh hoặc họ bị ám ảnh, mà cỗ xe trở thành biểu tượng của một giấc mơ, một niềm hạnh phúc. Họ không nâng niu một món đồ chơi mà đang nâng niu chính cảm xúc của bản thân mình. Nói một cách khác, dù nghèo khổ hay giàu sang, dù đau buồn hay hạnh phúc, nếu sống không để lại cảm xúc và hồi ức, thì có phải là bạn đã sống nhạt nhẽo không? Nếu thời gian sống không để lại cho bạn điều gì nhiều hơn tuổi tác, bạn chỉ càng sống càng già đi mà thôi, thi có phải đã sống ích kỷ không?

Cho nên mùa Xuân nào, tôi cũng ngập ngừng trước những gói mứt Tết thập cẩm bọc giấy bóng đỏ ửng lên rẻ tiền. Bây giờ tôi có thể mua cả ngàn hộp, hiểu biết cũng mách bảo tôi rằng nó không đảm bảo chất lượng vệ sinh, tôi không bao giờ cho gia đình tôi ăn loại mứt ấy. Nhưng tôi lại rất muốn mua nó cho chính mình.

Cho dù nó là biểu tượng hạnh phúc của tôi, cũng không có nghĩa rằng nếu tôi ăn sạch hộp mứt rẻ tiền này, tôi sẽ mãn nguyện hài lòng. Nhưng cảm giác có được nó, nhìn ngắm nó, thấy nó chưa biến mất mỗi dịp Tết đến, cảm thấy còn một điều làm mình cảm động từ trong sâu thẳm, từ trong xa xưa thì quan trọng lắm.

Với một người hay đãng trí như tôi, gói mứt Tết thập cẩm rẻ tiền gọi lên bao nhiêu nhớ thương, nặng lòng, làm tôi dễ dàng chia sẻ và đồng cảm hơn biết bao nhiêu so với những thứ xa xỉ người ta từng mang tới (hoặc vứt lại, hoặc đánh tráo, hoặc dứ) cho tôi.

Ngày xưa ơi, một miếng ngậm ngùi.

Hạt bỏng ngày xưa

Thứ Ba, 04/10/2011 16:01

Ai đã từng sống ở vùng nông thôn trước những năm đổi mới, hẳn sẽ biết hạt bỏng mà tôi nhắc đến trong bài viết này. Ngày ấy, quê tôi là một vùng chiêm trũng thuần nông, quanh năm nghèo đói. Nhà tôi thuộc diện nghèo nhất trong số những hộ nghèo.

Bố tôi, sau hơn 30 năm quân ngũ, trở về với vợ con chỉ có tấm lòng và hai bàn tay trắng. May sao vẫn còn những đồng lương còm cõi đủ nuôi ông sống tạm qua ngày. Gần 3 năm sau, khi tôi lên 9 tuổi, bố tôi đột ngột qua đời. Lo xong hậu sự cho bố, nhà tôi nghèo lại càng nghèo hơn bởi những hủ tục nhiêu khê, tốn kém.

Bảy mẹ con nheo nhóc nương tựa vào nhau, đúng hơn là nương tựa vào đôi vai gầy của mẹ. Thiếu đói triền miên, mẹ tôi sọm người đi trông thấy. Dù vậy, mẹ vẫn “thắt lưng buộc bụng” gắng nuôi tôi ăn học, động viên tôi ráng vượt lên để bằng bạn, bằng bè. Nghe lời mẹ tôi học rất chăm, năm nào cũng đạt học sinh giỏi, học sinh tiên tiến. 

Lên 10 tuổi, tôi vẫn ngủ chung với mẹ. Buổi sáng, mẹ tôi dậy rất sớm vừa đóng xiên cua cho chị tôi mang đi chợ bán lấy tiền đong gạo, vừa đun ấm nước, nấu cám nuôi hai chú lợn con. Khi tôi ngủ dậy thì mọi việc đã gần như hoàn tất.

Có điều rất lạ là, dù nhà nghèo nhưng sáng nào tôi cũng được ăn một đĩa bỏng gạo thơm ngon trước khi tới lớp. Thời gian đầu tôi chẳng hề để ý, có thì cứ ăn, miễn sao đỡ đói, thậm chí còn đòi mẹ sáng hôm sau phải được ăn nhiều hơn. Lớn hơn một chút, tôi mới chợt nghĩ, nhà mình gạo còn chẳng đủ để nấu cơm bữa trưa, bữa tối, sao lại có gạo để làm bỏng ăn vào bữa sáng?

Một buổi sáng khi mẹ thức dậy, tôi cũng rón rén dậy theo, thấy mẹ vừa làm việc, vừa đun bếp. Những nắm rơm lom nhom cháy… Từ trong đốm lửa nhỏ, thỉnh thoảng vài hạt thóc còn sót lại nổ lách tách. Mẹ tôi liền đưa tay rón lấy rồi thổi sạch, bỏ vào đĩa từng hạt, từng hạt một.

Cứ thế, nấu xong nồi cám heo, mẹ nhặt những hạt bỏng ấy đầy một đĩa nho nhỏ, đủ cho tôi tạm chống đói tới trường. Nhìn thấy việc làm của mẹ, tôi nghẹn lòng, nước mắt tuôn rơi. Thì ra, những vết bỏng triền miên trên tay mẹ chẳng kịp mọc da non là bởi sáng nào mẹ cũng lo “giành giật” từng hạt bỏng, không để lửa cháy làm vơi bớt phần của con.

Không kìm được lòng mình, tôi chạy đến ôm chầm lưng mẹ, khóc òa. Trong giây phút ấy, tôi thầm hứa với mẹ sẽ vượt qua mọi chông gai, vượt khó để trưởng thành, không phụ tình yêu thương vô bờ của mẹ…

Mới đó mà đã mấy chục năm trời. Nay, mẹ tôi lưng đã còng, mái tóc bạc phơ, dù không còn khỏe nhưng vẫn tinh tường, minh mẫn và vẫn nhớ rõ cái thuở hàn vy. Tôi đã thực hiện được lời hứa với mẹ ngày nào.

Bao năm nay, tôi không còn được ăn những hạt bỏng rơm từ tay mẹ nhưng cái hương vị thơm ngon chở nặng tình mẹ vẫn mãi mãi trong tôi. Cho đến hôm nay, mỗi lần về quê, tôi không quên nấu một ấm nước bằng rơm khô rồi thưởng thức những hạt bỏng như ngày xưa mẹ đã nuôi tôi khôn lớn. Và tôi lại rưng rưng cảm ơn mẹ.

Ký ức làng quê nghĩ về chốn cũ

Cảm xúc mùa thu năm 2011 của anh Đặng Văn Quang

Xin mở đầu bài viết bằng mấy câu thơ của anh Lưu Hữu Thông một người con của quê hương đất hạ:

Cao lao hạ ơi những ngày xưa

Ruộng đất bạc màu lúa khoai cằn cỗi

Ngày giáp hạt bữa no bữa đói

Mẹ tảo tần khâu nón đợi chợ phiên

Nhớ thương cha thao thức những canh trường

Lặn hói lội bàu cá tôm đổi gạo

Đêm giá lạnh mong manh tấm áo

 Nghe tiếng con cười mang hơi ấm mùa xuân…

Vâng! đúng vậy, quê hương chúng ta ngày xưa, đất không nuôi nổi người, lam lũ đói nghèo cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Cha mẹ tảo tần một nắng hai sương, củ sắn củ khoai, lưng cơm bát tép, chăm bẵm đàn con hằng mong sánh bước với đời mai sau.

Thế hệ chúng tôi lớn lên trong cảnh nghèo đói đó. Lên rừng, xuống biển, hái củi, bứt tranh, mò cua, bắt ốc. Cuộc sống thật gian truân, cơ cực nhưng đầy ắp những kỷ niệm, và đong đầy những ký ức không thể nào quên.

Ai có thể tin được rằng, những đứa trẻ chỉ mong sao mỗi ngày có được lưng chén cơm lót dạ. Ước mơ sao có được bộ quần áo mới khi mỗi dịp tết đến xuân về, hay những ngày khai trường rộn rã. Lũ chúng tôi mang  cái bụng lép kẹp đến trường, sách không ra sách, vở không ra vở. Có ai biết rằng chữ chúng tôi viết trên những trang giấy nấu ( giấy cũ nấu qua nước vôi, để tẩy đi dòng chữ cũ). Ngồi học trên những băng ghế là những thân cây, bàn là những tấm ván, tấm phên khập khễnh. Trường chỉ để có trường, lớp là những mái lều tranh che tạm. Kiến thức chữ nghĩa cứ theo đó mà cứ tuồn tuột trôi đi. Nhưng điều học được đầu đời là tình yêu quê hương xứ sở, tình thầy cô, nghĩa bè bạn và nhân cách làm người.

Và rồi chiến tranh mất mát đau thương…

Chúng tôi lớn lên mỗi người theo về mỗi ngã. Những điều chưa học được trên ghế trường làng, thì sẽ học trên chặng đường khôn lớn, trong sách, trong trường đời và cả trong sự sinh tồn của xã hội. Hôm nay đây, có đứa đã trở thành tiến sĩ, kỷ sư, bác sĩ, nhà giáo, sĩ quan và những doanh nhân thành đạt…cũng có những người bám trụ gắn bó với quê hương…

Những người con của thuở nghèo đói năm xưa đã trưởng thành khôn lớn, đã tung cánh bay xa…

Nhưng,  quê hương, hai tiếng quê hương, trong ký ức con người  đất hạ không thể nào phai nhạt. Cao lao hạ quê mình còn đó, vẫn lũy tre làng ru trong chiều gió, vẫn hòn Đá bạc soi bóng xuống vực Sanh, vẫn Lều cù, hòn Vắp, hòn Bung, khe lù, khe mỏ. Vẫn đồng trước, đồng sau, bàu ngang, bàu mật, hói hạ, cửa thiềng. Vẫn 20 lối xóm nhỏ đi về như còn vọng tiếng ru hời của mẹ.

Nhưng! quê ta vẫn còn nghèo, nghèo lắm, vẫn còn thua thấm bao làng quê bạn, vẫn những con đường đất năm xưa. Vẫn còn không ít những mảnh đời cơ cực, bắt ốc mò cua. Còn không ít những em nhỏ đến trường nhịn cơm buổi sáng, thiếu tiền, thiếu sách, thất học giữa chừng. Vẫn không ít những người không dám đến nhà thương bệnh viện, bởi cái nghèo đang đeo đẳng nơi chái hiên nhà. Trai tráng làng phải bỏ đi lập nghiệp phương xa, cóp nhặt những những đồng tiền nơi chốn thị thành, nơi khu công nghiệp, đỡ đần người thân ở chốn quê nhà qua bão lụt mưa sa.

Đâu rồi, đâu rồi, những người con đất mẹ nghèo đói năm xưa, nay đã thành danh, thành trạng. Hãy hướng về quê hương, nghĩ về quê hương, đóng góp cho quê những gì có thể. Bởi trong mỗi đường gân thớ thịt chúng ta kết tinh từ hạt lúa củ khoai của đất làng Cao lao hạ. Và ở nơi đó mẹ ta chân lấm nón mê đang ngóng chờ…

Chuyện giáp Tết Bính Thìn xưa

Thứ sáu, 30 Tháng 12 2011 10:42

Hơn 1/3 thế kỷ trôi qua - khoảng thời gian đủ dài để người ta có thể quên đi những đau thương, mất mát thời chiến. Nhưng, những bất hạnh thời hậu chiến, với tôi, dường như chỉ mới vừa hôm qua.

Chiến tranh kết thúc. Quê tôi làng Phong Thử, vốn là làng quê trù mật, sầm uất, thơ mộng bên bờ Thu Bồn, nhưng “Ai về Phong Thử là quê/ Trước bàu, sau chợ, giếng kề một bên” chỉ còn lại trong bóng dáng câu ca cũ. Khắp nơi loang lổ bom mìn và gạch. Ngày trở về vườn ngoại chỉ còn duy nhất cội mít già trơ gốc. Ngôi nhà ngói ba gian với nhà rầm thượng rầm hạ và những hoa văn, họa tiết chạm trổ ngày xưa... đã trở thành đống gạch vụn. Nhà ba mẹ tôi chỉ còn trơ trên nền đất cũ cây cột lim cháy sém, nham nhở vết đạn. Còn hố bom ken dày trên mặt đất và cho tới bây giờ vẫn còn dù hai thế hệ đã ra công phục hóa. Những đứa trẻ lớn lên giữa thời bình chắc không dễ tin khi nhiều người kể lại những câu chuyện buồn thời hậu chiến. Chuyện rằng chiến tranh kết thúc, người trở về không tìm thấy nhà cũ, không thấy làng, chỉ thấy một vùng đất mênh mông hoang hoải, lơ thơ cây cỏ và những chú chim lạc loài, giật mình thảng thốt, vỗ cánh bay lên từ đáy những hố bom ken dày trên mặt đất… Tuổi trẻ lại càng không hiểu được rằng thi thoảng vẫn có thêm những tiếng nổ, những vành khăn trắng tiếp tục đặt trên mái đầu bạc phơ của mẹ, vợ và con từ bom mìn còn sót lại sau chiến tranh trong những cuộc làm đồng, khai hoang, phục hóa… Cho tới bây giờ, không ít người vẫn còn tự hỏi, không hiểu vì sao họ có thể sống qua được những tháng ngày đói nghèo đầy bất trắc. Nhưng tôi thì khác, thi thoảng nỗi đau lại trở mình nhức nhối kể từ buổi chiều định mệnh 24 tháng chạp năm Ất Mão, giáp Tết Bính Thìn (1976) - cái tết đầu tiên Nam Bắc một nhà.

Mười tuổi, học lớp ba trường làng, tôi vẫn còn nhớ nguyên hình ảnh nhiều người đã chết vì gạo đè trong cái ngày phá kho lấy gạo ở ngã ba Cai Lang (Đà Nẵng) trước ngày giải phóng. Những cân gạo lẫn bùn đất và cả máu mà mẹ và chị tôi “mót” được sau đó vài ngày tại nơi ấy cũng chỉ đủ để cầm cự vài tháng trên quê cũ sau gần 9 năm tản cư. Có lẽ người ta bắt đầu quên đi cái nghèo khổ kể từ khi cả làng hăm hở lao vào chiến dịch tấn công đồng cỏ, trồng rau, gieo màu trên mảnh đất đầy thương tích chiến tranh. Gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Đã từng cảm nhận được sự quý giá của hạt gạo và cái nghèo treo lơ lửng giữa những bữa cơm độn, đạm bạc hàng ngày, nên dù chẳng ai bảo, ai khiến, 10 tuổi, tôi vẫn hăm hở ra đồng… phụ việc. Hồi ấy, cả làng dọn cỏ hoang, trồng cây chuối nước (quê tôi gọi là chóc). Một loại cây rất dễ trồng, ưa đất mới, nhanh thu hoạch để chuẩn bị lương thực cho tháng hai, tháng ba năm sau.

Không ngờ, đó là buổi chiều định mệnh. Một quả đạn sót lại trong đám cỏ tranh phát nổ. Chị Tám và tôi bị thương. Tết Bính Thìn năm ấy, tôi ăn tết ở Bệnh viện Hội An. Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là tôi nằm giữa một bệnh viện đầy những người bị thương khi khai phá ruộng đồng. Phương tiện đi lại khó khăn, cánh tay trái bị mất nhiều máu vì đứt động mạch chủ. Hồi ấy, do khan hiếm thuốc, để giữ lại mạng sống, tránh nguy cơ nhiễm trùng và cả lý do bất khả kháng là không muốn bệnh nhân nằm chữa trị dài ngày, các bác sĩ đã quyết định cắt đoạn tay trái của tôi. Ngày ấy, tôi đã bắt đầu mơ những giấc mơ không trọn vẹn. Tưởng chừng cánh cửa tương lai đã khép khi chỉ mới 10 tuổi đầu. Nhưng, thương tật chưa phải đã hết đường. Tôi bắt đầu suy nghĩ già đi trong trái tim trẻ nhỏ. Chỉ có con đường học vấn mới có thể tự tin bước đi giữa cộng đồng, dù không ít khó khăn. Nhưng số phận đã mỉm cười. Tốt nghiệp đại học, tôi cũng đã có được một công việc ổn định, bảo đảm cuộc sống dù có đôi chút gian lao. Ý nghĩa đời sống lại dựng trong tôi suy nghĩ đa chiều rằng sự quý giá nhiệm màu của con chữ là không bờ bến. Những người khuyết tật hay không may đều có thể hòa nhập cuộc sống, có thể bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng con đường “tối ưu” vẫn là học vấn.

*       *

*

Đầu tháng 12.2011, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì cuộc hội thảo quốc tế “Chung tay góp sức khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh”. Hội thảo kêu gọi toàn xã hội và cộng đồng quốc tế giúp đỡ Việt Nam giải quyết ô nhiễm bom mìn và hỗ trợ nạn nhân bom mìn... Nỗi đau hậu chiến vẫn còn nguyên trên da thịt, nhưng tôi đã hiểu cái giá để một ngày mai tươi sáng cho tất cả mọi người. Ngày mai ấy phải trả bằng sự kiên trì, nỗ lực, vượt qua nghịch cảnh để tiếp cận con đường tri thức, làm người có ích.

No Lâu

Đã thành lệ, buổi sáng sau khi phóng xe đến cơ quan ngồi quanh bàn trà với đồng nghiệp rôm rả mọi chuyện xa gần, lúc xách cặp về phòng riêng, tôi mới sực nhớ ra rằng mình chưa ăn bữa sáng. Khổ thế đấy, ăn bữa sáng đúng giờ ăn sáng là cả một vấn đề, không phải vì quá bận bịu, mà cái chính là cơ thể không có nhu cầu, nhưng nếu mình bỏ qua đi thì tới gần trưa lại đói, khó làm việc. Vấn đề không kém nan giải nữa là nên ăn gì, có khi tự thống kê ra các loại món ăn bữa sáng, nhưng cơ thể cứ dửng dưng, chẳng mặn mà với món nào. Bởi thế sáng hôm ấy tôi lang thang dọc vỉa hè, nghĩ mãi mà vẫn chưa quyết định được nên ăn sáng bằng gì. Phở, bánh mì sốt vang, cháo lòng, bánh cuốn hay bún cua... ? Cơ thể quá nhạy cảm trong việc phát hiện ra những mặt hạn chế của các loại món ăn đó để thoái thác chứ không chịu "duyệt" một món nào. Bỗng có lời mời bằng giọng phụ nữ:

     - Bác ơi, bác ăn ngô luộc cho cháu đi!

     Ngô luộc à, hay đấy! Tôi quay đầu tìm thì gặp một người đàn bà đang dắt chiếc đạp chở cái nồi khá to, vung mở sẳn, hơi bay nghi ngút. Nhìn qua làn hơi thấy lưng nồi ngô luộc màu trắng sữa, từng bắp ngâm lấp lửng trong màu nước vàng nhạt. Thấy tôi chú ý, chị bán hàng dừng lại, dồn sức giữ cho chiếc xe khỏi mất thăng bằng. Khi tôi ngỏ ý mua, chị hồ hởi rút cây gậy cài cho xe khỏi đổ rồi dùng đủa chọn cho tôi những bắp vừa ý. Khi trao túi cho tôi, chị nói:

     - Bác cứ ăn đi, ngô luộc vừa ngon miệng, vừa no lâu lắm đó. Ăn bây giờ, quá chiều bác không ăn cơm cũng chưa thấy đói đâu!

     Tôi không nhìn vào túi ngô chị đưa mà nhìn chị, bởi cái từ no lâu chị vừa nói, người quê tôi quen dùng một thời, hay chính xác hơn là cả quãng đời tuổi trẻ của tôi. Ăn no, mặc ấm là khát vọng của bao kiếp người và đối với một số khá đông thì mãi mãi chỉ là khát vọng. Ăn chỉ cốt để lấy no, nên ưu tiên cho món ăn nào no được lâu để có sức mà làm việc. Cháo, bánh đúc có thể tức thời làm cho người ăn có cảm giác no, nhưng chỉ cần lội mấy đường cày hoặc gánh vài gánh phân ra ruộng là mắt đã hoa lên vì đói. Khoai lang cũng thế, cơ thể tiêu hóa quá nhanh nên người nông dân không quý bằng ngô. Người quê tôi chẳng ai biết trong ngô có chất gì và dinh dưỡng ra sao, chỉ biết ăn ngô no lâu, nhất là loại ngô tẻ hạt già đãi sạch vỏ, ninh mềm. Tôi nhớ vào năm đói, nhiều người nói rằng, nếu chỉ được ăn một bát, giữa cơm và ngô thì sẳn sàng chọn ngô bởi cái giá trị no lâu của nó.

     Tôi cũng như phần lớn dân thành phố bây giờ có ý tránh những loại thức ăn gây béo, trong khi đó, gắp được miếng mỡ trong nồi rau xào là hạnh phúc của bao đứa trẻ nông thôn và miền núi. Trong khi chúng ta sung sướng vì thấy bụng mau đói, thì được no lâu còn là điều quan tâm của biết bao người.

     Hầu hết lớp trẻ lớn lên ở thành phố lầm tưởng rằng nghèo đói là chuyện ngày xưa, chỉ còn tồn tại trong câu chuyện kể của các bậc bố mẹ như để ôn nghèo, nhớ khổ. Họ biết đâu rằng, nghèo khổ còn là chuyện thời sự của nhiều nơi, mặc dù nghe đài báo thì thóc lúa thu hoạch ngày một tăng, giá gạo liên tục giảm, nhưng không vì thế mà hạt gạo đã làm no tất cả mọi người trên mọi vùng của đất nước chúng ta. Vật lộn vì miếng cơm manh áo chẳng phải chỉ là chuyện của vùng sâu, vùng xa, mà ngay quê chị bán ngô cho tôi là một huyện ngoại thành, cách trung tâm thành phố cũng chỉ vài chục cây số. Qua câu chuyện, tôi mới biết rằng, chị sinh con chưa đầy hai tháng đã phải gửi lại cho bà nội trông, ba giờ sáng thức dậy luộc ngô rồi chất lên xe đạp về thành phố để sáng ra kịp bán cho những người dân đi tập thể dục về, sau đó dắt xe đi bán rong theo các phố. Chị cho biết rằng, ngày nào được mươi, mười lăm ngàn đồng là hạnh phúc lắm rồi, chứ có hôm gặp mưa, bán không được phải đem về nhà ăn trừ bữa. Được cái ăn ngô lành bụng và no lâu nên nếu có ế thì cả nhà cũng không ai kêu ca...

     Xóa đói, giảm nghèo là chủ trương nhân đạo của đảng và Nhà nước đã giành được những thành tựu đáng kể thể hiện cụ thể trên tỷ lệ đói nghèo các vùng quê giảm xuống so với trước đây. Điều đáng tiếc là nạn tham ô lãng phí vẫn còn là một vấn đề thời sự, làm nghèo đất nước, hạn chế tốc độ xóa đói giảm nghèo. Có người bằng cách này hay cách khác, kiếm được nhiều tiền bất chính, họ kéo nhau vào quán ăn uống xả láng gọi là "đập phá", có khi một chai rượu ngoại có giá tiền xấp xỉ hai tấn thóc! Trong khi đó dịp tết, nhiều gia đình nghèo đói không biết tìm đâu ra bát cơm để cúng tổ tiên. Nghĩ cho cùng, chính những kẻ tham ô lãng phí tiếp tay cho cái đói, cái rét hành hạ những người dân lương thiện.

     Với số đông chúng ta, cái đáng ngại là sự vô cảm trước nỗi khổ của người khác. Có lẽ sự vô cảm cũng là kẻ đồng lõa với đói rét và bao tệ nạn khác.

     Tôi nhìn dáng điệu tất tả cùng nước da xanh tái của chị mà thầm trách mình chóng quên quá khứ nghèo khổ chưa xa. Cám ơn lời mời mộc mạc của chị đã giúp tôi nhớ lại và xác định được rằng quá khứ nghèo khổ của mình còn là hiện tại của nhiều người khác.

     Và từ hôm đó, cứ mỗi lần phân vân khi chọn món ăn bữa sáng là hai từ no lâu của chị hàng ngô lại văng vẳng bên tai...

Ai Làm .... Tôi .... Nghèo !

Ai làm cho khói lên trời

    Cho mưa xuống đất cho tôi kiếp nghèo!...

 lẩm nhẩm đọc câu*    Ông trưởng xóm Sủng Trái A xã Sủng Trái thơ này khi đi cùng tôi đến thăm một gia đình đông con của xóm. Nghe ông giới thiệu tôi bỗng thấy nghi ngờ lời nói của ông, trên đời này không có gia đình nào nghèo đến như thế.

    Lòng vòng theo con đường dân sinh chừng mười lăm phút qua mấy cái nương ngô đến một căn nhà bé tẹo và xiêu vẹo. Nhìn một lượt từ bên ngoài có lẽ không nên gọi đây là căn nhà bởi bức vách được thưng từ lâu đã thủng lỗ chỗ, ra vào không cần qua cửa. Trên mái là tấm bạt màu xanh cố che vẫn chưa kín mái gianh mục nát. Trong nhà không có vật nào đáng một trăng nghìn. Trên cái giường ọp ẹp hai đứa trẻ đang ngon giấc. Ông trưởng xóm chỉ vào tấm bạt và nói:

    - Nó vừa đi vay về che lên đấy, trước kia mái nhà trông giống hệt cái sàng mèn mén.

    Thấy tiếng người lạ hai đứa trẻ nhỏm dậy ngơ ngác nhìn.

    - Bố mẹ chúng đâu? - Tôi hỏi.

    - Bố mẹ chúng, ba đứa lớn đi đập đá thuê. - Ông trưởng xóm trả lời. - Trời nắng thế này mà mẹ chúng còn địu theo cả đứa út mới hơn một tuổi. Hai đứa này hôm nào cũng phải ở nhà với nhau từ sáng đến tối mịt.

    - Hai đứa này ăn uống thế nào?

    - Trước khi đi mẹ chúng làm mèn mén để lại. Khi nào đói thì tự lấy mà ăn.

    - Nhà này có nương không?

    - Có. Nhưng ít lắm, thu ngô về không đủ ăn vài tháng.

    - Việc đập đá của họ thu nhập có khá không?

    - Cũng chẳng ăn thua gì đâu, làm cả ngày không ăn cơm cũng chỉ được có mười nghìn một người, còn nếu họ nuôi ăn thì chỉ còn năm hoặc sau nghìn là cùng.

    - Xóm ta không vận động sinh đẻ có kế hoạch à?

    - Có chứ. Chỉ gia đình này là vận động mãi năm ngoái vợ nó mới đi đặt vòng. Nhưng giờ cũng đã bảy tám miệng ăn rồi. Chắc nghèo mãi thôi!

    Ông trưởng xóm thở dài rồi lại lẩm nhẩm đọc: "Ai làm... tôi... nghèo!"

    Chú thích:

    * huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang.

Quyết Tâm Nghèo

Quyết tâm nghèo!" - câu chuyện thật mai mỉa, ngược đời nhưng đó lại là câu chuyện có thật, chẳng cần phải khẳng định bao nhiêu phần trăm bởi đó là chuyện không bịa ra được.

    Tình cờ trên đường đi công tác tôi ghé vào một gia đình, nhìn cảnh chín đứa con ngồi quanh mẹt mèn mén mỗi đứa một cái muôi múc ăn ngon lành, không rau cỏ, không thức ăn, bên cạnh có vại nước mới kín đầy, thỉnh thoảng có đứa chạy lại múc một muôi nước cho vào miệng. Ông bố đang ngồi hút thuốc lào còn bà mẹ đang đun nấu ở bếp. Anh ta chuyển cho tôi một cái ghế và mời ngồi, tôi gật đầu rồi ngồi xuống. Anh giao thông xã đi cùng tôi thò tay vào vại lấy cái gáo múc lưng gáo nước đưa lên miệng tu một hơi hết sạch và khà một cái sung sướng như uống rượu. Tôi lân la hỏi chuyện chủ nhà, anh ta chỉ cười và nói "chi pấu"(không biết). Anh giao thông xã nói với tôi: "Nó không biết tiếng Kinh đâu!" Anh ta ngồi xuống làm phiên dịch cho cuộc chuyện trò của chúng tôi. Anh chủ nhà thấy tôi hỏi nhiều đến chuyện riêng tư lúc đầu còn hơi e dè nhưng sau cũng bộc bạch hết nỗi lòng. Tôi hỏi anh ta:

    - Anh đẻ nhiều thế lấy gì cho chúng nó ăn?

    Anh ta cười.

    - Lấy ngô cho ăn.

    Tôi nhìn mẹt mèn mén mà nghe lòng chua xót. Vậy mà bọn trẻ vẫn cứ múc ăn ngon lành. Tôi lại hỏi:

    - Đẻ nhiều vậy anh không sợ vất vả khi nuôi chúng à?

    Anh ta nói luôn:

    - Chẳng sợ, chúng cũng làm được cái ăn mà.

    Tôi hỏi tiếp:

    - Anh nghĩ gì khi đẻ nhiều và bị nghèo, sao không đẻ ít như nhà kia để giàu có sướng hơn không?

    Tôi chỉ tay sang căn nhà lợp ngói cách đó không xa. Anh ta nói:

    - Nghĩ gì ấy à, mình nghèo nhưng con mình từng ấy đứa thế nào cũng có được đứa giàu có, sau này mình nhờ cậy nó!...

    Tôi nhìn lũ con của anh cứ sàn sàn lít nhít như nhau, chín đứa không đứa nào được đi học thậm chí chúng còn không biết nói tiếng Kinh. Đứa con gái lớn mới mười lăm mười sáu tuổi anh đã cho đi lấy chồng và bụng mang dạ chửa đang ngồi múc mèn mén ăn ngon lành cùng lũ em. Với điều kiện như vậy thì tồn tại gọi là sống đã khó nói gì đến giàu có. Mẹt mèn mén đã vợi đi mấy phần, người phụ nữ đi từ bếp lên với một muỗng gỗ đầy mèn mén đổ ra mẹt, dường như chị có phần xấu hổ, đi đứng khép nép thiếu tự nhiên. Và tôi vừa kịp nhận ra bụng chị nổi hẳn lên dưới nếp váy Mông khá rộng, vậy là anh chị sắp có đứa con thứ mười.

    Tôi ngạc nhiên còn anh chủ nhà đang thả hồn theo ngọn khói thuốc lào và mơ đến một ngày sung sướng mà lũ con anh mang lại. Xem chừng anh ta còn quyết tâm cố đẻ thêm vài đứa nữa. Quyết tâm ấy của anh ta đồng nghĩa với quyết tâm ở lại với cái sự nghèo, chung thân với cái nghèo, và có cố đến muôn đời nữa thì chắc cũng chẳng mở mày mở mặt lên

Chị Mơ Xóm Ruồi

Sau năm năm phục vụ trong quân đội, tôi giải ngũ rồi trở thành anh sinh viên già. Đã là trưởng tràng của lớp, lại còn cầm chịch đội chèo của trường.

    Có một đôi mắt Thị Mầu ám ảnh tôi. Tôi tìm gặp và cô bé gật đầu liền. Cái gật đầu sao cũng quen quen. Thì Thị Mầu nào chẳng lẳng lơ như thế.

    Hết kỳ một, vở chèo "Quan Âm Thị Kính" do tôi đạo diễn và đóng vai Thị Kính, được công diễn ở hội trường. Hay dở thế nào tôi không tự phán xét. Chỉ thấy lúc diễn viên ra chào khán giả, người ta đứng cả dậy. Đám sinh viên các khoa Lịch sử, Triết học, Pháp lý, Toán... đồng thanh rao: "Lấy ! Lấy nhau đi ! Lấy !...". "Ai lấy ai?" tôi ngơ ngác hỏi Huệ- cái cô Thị Mầu ấy. "Em. Lấy em. Anh ấy..."- Huệ đảo đôi mắt Thị Mầu, liếc nhanh một cách cố ý về phía tôi. Đám đông càng hét: "Lấy ! Lấy nhau đi...". Ơ, tôi gật gật đầu. Huệ cũng gật gật đầu. Cả hội trường cười như vỡ chợ...

    Tôi bỗng sực nhớ mười mấy năm về trước, sân đình làng Thượng như ong vỡ tổ vì ông lão Aỏm say. Lão cầm cái vỏ chai đã đập vỡ, gai góc, sắc lẹm, múa may trên sàn diễn, đòi giết thằng Xăm, con trai lão theo con Thị Mầu Mơ mặt tổ ong bầu không có bố. Giết con đĩ Mơ thối thây. Trong lúc nhốn nháo, tôi vô tình chạy ngang qua chỗ chị Mơ. Aăo từ thân vướng vào rễ đa. Tôi ngã sõng soài, kéo tuột cả cái áo diễn của chị... Lão Âấm say nhè cái áo mà nện. Nhưng mới được một cái, lão tá hỏa, hơi rượu tưởng như bay hết sạch khi nhận ra tôi, thằng bé vẫn đi chăn trâu với lão. Lão lấy thuốc lào rịt vào chỗ vai tôi chảy máu. Rồi bế thốc tôi lên, vừa đi về phía nhà tôi vừa khóc...

    Nhà chị Mơ ở cuối làng. Chị ở với bà cả Ruối. Tôi còn bé, loáng thoáng biết bà cả Ruối không có chồng... Nhà nghèo, chị Mơ ngoài vụ cấy, vụ gặt đi làm thuê nhiều việc, ngày dưng tháng rỗi, chị chăn trâu cho nhà lão Âấm. Ai ngờ anh Xăm con lão đi bộ đội về, thoát ly hẳn hoi, nghỉ được dăm ngày phép, dở dáy phường chèo, hát xướng hư thân rồi say chị Mơ như điếu đổ, ngỏ ý bỏ cơ quan nhà nước về quê làm ruộng chân lấm tay bùn. Lão tức lắm, tự chăn trâu lấy. Trước đây, con trâu đực nhà tôi khi đi ngang qua nhà lão Aỏm, cứ rống lên "Ngò ! Ngò...!" gọi con trâu cái. Cũng lúc ấy, chị Mơ dắt trâu ra. Hai chị em cưỡi trên lưng mỗi con, lững thững đi ra Cồn Rùa. Thả trâu trên cồn, mặc kệ cho chúng đùa giỡn, đầm mình dưới các vũng nước, hai chị em chơi đủ mọi trò chơi trẻ con. Chị Mơ tầm tuổi chị Cả Ngan nhà tôi. Thằng cu Tính con chị cả gọi tôi bằng cậu cũng đã bằng tuổi tôi. Lúc quên, Tính gọi tôi là mày, xưng tao, chị tôi biết, cốc cho mấy cốc to bằng quả ổi. Láo, như vậy là láo. Kim chỉ phải có đầu đuôi chứ. Vậy mà chuyện ấy chị Mơ chả thèm chấp. Chúng tôi nặn các ông bụt đất sét, chọn chỗ dốc đứng giữa cồn và ruộng, khoét một cái chùa, xếp các ông bụt vào. Ngày nào cũng cúng, khi thì củ khoai, khi thì nắm ngô rang. Có hôm tôi coi trâu, chị Mơ mò ở ruộng bắt được cá, hai chị em lấy cỏ khô đốt, nướng cá cúng thần. Rồi đến lúc chúng tôi dựng một ngôi đình con con trên một cái mả bằng các cây điền thanh, tôi đã lấy cây đa bánh tẻ cắm xuống bên cạnh, giả làm cây đa thì chị Mơ bảo thiếu cái sân đình. Tôi bảo cứ coi bãi đất trống xung quanh là sân đi, chị gật đầu. Lại kêu thiếu cái phường chèo. Không có phường chèo thì sân đình chỉ là bãi cỏ thôi, chị bảo thế. Vậy là hai chị em diễn chèo trên cái sân đình mênh mông. Tôi đóng hết Thị Kính lại đóng anh Nô, chị sắm vai Thị Mầu... Tôi thuộc vở chèo này từ ngày ấy. Có lúc, hai chị em đóng vai vợ chồng."U em ơi, nay anh...", "Bố cu hời, mai bố cu đi..." lời cứ quấn vào nhau. Tôi bảo mình không biết sắm vai, chị lại khen giỏi và bảo: "Giá mà em lớn thế nào chị cũng lấy em". "Thì chị cứ lấy em. Ai cấm chị lấy trẻ con?". Chị không nói, rân rấn nước mắt: "Nhưng mà... chị rỗ tổ ong bầu. Xấu, xấu lắm...". "Em thấy chị đẹp" tôi nói thế và chị cười khanh khách, ôm lấy tôi: "Bồng bồng cõng chồng đi chơi..."

    Bỗng một hôm, sau khi chơi, chị buồn buồn bảo: "Chị sắp lấy chồng". "Lấy ai?". "Anh Xăm ấy, em. Anh ấy hát chèo cũng hay lắm". Tôi khóc. Một lúc sau, anh Xăm đi be bờ ruộng, mang cho tôi một gói lạc luộc, bảo tôi coi trâu cho anh chị đi mò cá thì tôi nín. Hôm ấy, hai người đi mò cá ở đâu tối mịt mới về, tôi đưa trâu về nhà muộn, bố tôi đã toan đi tìm. Phía nhà lão Aỏm say, anh Xăm và bố cãi nhau to lắm. Lão dọa sẽ tự tử...

    Lão Âấm Say tự chăn trâu, chị Mơ vào đội văn nghệ xã. Anh Xăm lấy cớ đi phong trào, về xã công tác, cũng nhận sắm một vai như tôi đã kể. Không biết có phải vì ê mặt hay không, chị Mơ bỏ làng đi khai hoang. Anh Xăm chịu lời bố, lấy cô Nguyệt làm y tá ở trạm xá, sinh liền tù tì một lô con gái... Khi tôi ở bộ đội về, bố tôi bảo đi xem mặt cô Liên, con gái đầu của anh Xăm."Con bé xinh mà đảm. Vả lại chú Xăm rất mến anh" bố tôi nói và châm lửa vào nõ điếu, rít lên sòng sọc. Chiều bố, tôi có đến, gọi anh Xăm ngày xưa là "chú". Rồi về.

    Hết năm đại học thứ nhất, tôi đưa Huệ về trình bố mẹ. Bố tôi cứ ớ người ra "Ơờ, ờ, ờ..." và chăm chú nhìn Huệ. Những ngày ấy, chú Xăm đi bè gỗ không có nhà. Liên đến chơi với mẹ tôi, có lẽ để kín đáo xem mặt Huệ thế nào. Về sau, nghe một người bạn kể lại, Liên về nhà khóc mãi, mẹ cô hỏi thì bảo: "Sao lại có người giống con đến thế? Có điều người ta thì giỏi giang..."

    Khi sắp cưới nhau, tôi mới được về nhà Huệ mãi trên Hà Giang.

    Khuya mới tới nhà. Cửa mở. Tôi đứng như trời trồng trước mẹ Huệ. Trời ơi, chị Mơ ! Đôi mắt Thị Mầu và khuôn mặt rỗ hoa... Chị lặng người khi Huệ hỏi: "Bố về chứ mẹ?". Trong nhà, người đàn ông bước ra, tươi cười, ra dáng một ông bố vợ tương lai, nói: "Mời cậu ngồi...". Tôi rụt rè ngồi xuống phản. Tôi nhìn ông. Có lẽ cái nhìn ấy khiến ông bật lên màkhông thành lời, chỉ "A !" một tiếng... Chị Mơ trở lại, khẽ nói: "Ông Xăm, ông mời cậu Phong uống nước đi !". Rồi quay sang Huệ đang ngẩn người vì ngạc nhiên, chị bảo: "Cậu Phong là bạn thiếu thời của bố mẹ đấy, con ạ"

    Ô hay, cái tích chèo bãi cỏ chăn trâu chưa vãn, còn hát đến bây giờ hay sao?

Ông Năm Xóm Chợ

Hồi đó cả nhà tôi tản cư lên Bình Đức. Ở xóm nhà san sát đông vầy. phía trước nhà chừng trăm thước là nhà thờ thiên chúa. Phía dưới nhà tôi không xa, khu đất thánh với những hàng mộ trắng toát lạnh lùng.

    Vườn nhà ông Năm cạnh khu đất thánh rộng gần hai công đất. Ông sống một mình với đứa cháu ngoại lớn hơn tôi một tuổi.Chẳng biết từ bao giờ tôi đã thân với nó và có lẻ tôi đến với nó bắt đầu từ những trái chuối lửa đỏ ối mà ông Năm hay gọi tôi vào mỗi khi thấy tôi thơ thẩn ngoài ngõ lượm bông dừa câu còng.

    Ông Năm có cả vườn chuối lửa.Thân và bẹ lá viền màu đỏ trông rất đẹp. Trái chuối chín to bằng cổ tay, đỏ lựng , thơm lừng.Sau nhà ông Năm có ba ngôi mộ đất, không có mộ bia. Ông là người ngoại đạo nên mộ chôn ở nhà không đem vào đất Thánh.

    Gần sáu mươi,ông Năm vẫn còn khoẻ, vẫn chống gậy đi cấy. Sáng sớm ông mặc áo dài đen, cột tà lên cao, bịt khăn lên đầu, lặng lẽ chống gậy ra đi. Đế trưa ông quay về , bao giờ cũng có một gói xôi bọc trong lá chuối thơm nức muối mè. Và cũng không biết từ bao giờ tôi ở nhà ông Năm nhiều hơn nhà của mình. Cứ mỗi trưa, mỗi chiều thấy người ngoài đồng lũ lượt đi về thì tôi và con Phụng đứng sau bờ xương rồng, ngóng cổ ra bìa vườn trông đợi.

    Hồi ấy chiến sự gay gắt lắm, chính quyền Sài Gòn bắt nhà nào cũng có bảng liên gia, tối treo đèn trước cửa. Có đêm chẳng biết vì sao ông chủ ấp bắt nhà nào cũng phải khua mõ, đánh trống.Anh chín tôi, mang cái thùng thiết đã thủng đít, lấy cây sắt đánh rầm rầm.Âm thanh hỗng loạn:cốc cốc, xèng xèng vang lên khắp xóm, ngoài đường thỉnh thoảng vang lên tiếng kêu của bọn dân vệ:

    - Đánh mõ lên !

    Tôi tham gia tích cực vào công việc ấy cho tới khi ngủ gục mới chịu chui vô mùng.

    Sáng hôm sau người đi chợ nghe vợ tên chủ ấp thẻ thọt:

    - Hồi hôm “mấy ổng” về!

    “ Mấy ổng” là ai tôi không biết, nhưng những gia đình có liên quan tới chính quyền nguỵ thì len lét lo sợ, vừa chật vật tối đã treo đèn và cửa đóng then cài.

    Hai hôm sau cái đêm trống , mõ ấy, máy bay dội bom xuống ấp Đồng. Đám con nít rậm rịt gọi nhau;

    - Tuị bây ơi đi coi máy bay bỏ bom!

    Ông Năm chống gậy chậm rãi ra bìa vườn, tôi và con Phụng lót tót theo sau. Người ngoài ấy gióng gánh, đùm túm con cái chạy trở ra, có người định về trong ấy đều phải ở lại. Tôi thấy rõ những trái bom trắng toát lạnh lùng nối đuôi nhau rơi xuống, những cụm khói bốc lên đen kịt.Xa mút tầm mắt, những tàu lá chới với, nghiêng ngã. tụi thằng Tèo, thằng Xệ hò hét:

    - Đùng! Đùng!

    Bà tám Trơn có đất vườn ở trong đó liền trút nổi tức giận vào chúng:

    - Tụi bây ham lắm hả? im hôn!

    Đám trẻ cụt hứng, im re. Nét mặt người lớn nặng trĩu lo âu. Ông Năm rung rung chòm râu bạc. Mắt rấn rấn nước.Ai đó kêu lên:

    - Trời ơi nhà cửa, vườn tượt tiêu mẹ nó hết rồi!

    Hình như không đủ sức nhìn cảnh huỷ diệt đó, ông Năm kéo tay tôi và con Phụng nói thật khẻ:

     - Vìa con!

    Tới xế, máy bay không còn quần đảo, những người có đất đai ,nhà cửa trong đó vội khăn nón về thăm. Ông Năm cũng khăn áo, giấu bọc gì cồm cộm trong người rồi nói với tôi và con Phụng:

     - Hai đứa coi nhà ,ông ngoại đi xóm một chút. Ai có hỏi nói ông đi cấy chiều nghe không!

    Tôi ngậm trái trâm trong miệng gật đầu. Ông vừa đi khỏi con Phụng nói với tôi;

     - Mày ở nhà tao đi “cầu” nghe!

    Tôi ừ, nhưng nó vừa đi, tôi cũng khép cửa lẻn theo sau. Con Phụng khom người men theo bờ xương rồng. À nó “theo dõi” ông ngoại của nó.Tôi bám theo sát lưng.Bị lộ nó thùng thẩy với tôi, rồi hai đứa vòng qua khu đất thánh.

    Gần khu đất thánh là rẫy hoa màu, hành và hẹ sắp thu hoạch toả mùi thơm nồng cả mũi.Phụng ló đầu lên khỏi ngôi mộ, ngó nghiêng rồi nói:

     - Ông ngoại đâu mất rồi

    Tôi chỉ:

     - Kìa, sau cây rơm đó!

    Hai đứa nhảy qua mấy líếp hành để chạy qua cây rơm.Một phụ nữ quảy đôi thùng, chặn ngang:

     - Đi đâu đó? Về nhà đi, nắng lắm!

    Không biết là ai? Bởi chiếc khăn đội đầu choàng kín mặt,lại thêm cái nón lá sùm sụp.

    Chạng vạng tối ông Năm mới về.lụm cụm nấu cơm. Ở nhà tôi và con Phụng bắt ghế leo lên chiếc gióng treo nồi cơm và niêu cá bóng kho khô ở chái bếp ăn hết cơm nguội

    Buổi sáng,trời sese lạnh. Tôi lười lĩnh quấn cái mền dù ngủ nướng.Chuông nhà thờ bỗng đổ một hồi bảy tiếng. Má tôi đang lui cui dưới bếp chép miệng:

     - Trong đạo lại có người đàn ông chết!

    Tôi tung mền định đánh răng rồi đi nghe ngóng. Thường thì những người có đạo, lúc hấp hối rước “cha” ( Linh mục nhà thờ) đến đọc kinh thánh rửa tội. Đàn ông chết giật bảy tiếng chuông, đàn bà thì chín tiếng.

    Vừa lúc ấy chị tôi đi chợ về, đặt cái giỏ đầy rau cải xuống ghế và hớt hải nói

     - Má ơi ông mười So bị ám sát!

    Má tôi chỉ ừ ,còn tôi phun vội bọt kem xía vào:

    - Trời ơi! Sao mà thấy ghê vậy?Vậy tối mình đóng cửa treo đèn sớm để bị ám sát chết!

    Chị tôi trề môi:

     - Mày định lên làm chủ ấp thế ổng hay sao mà sợ bị ám sát?

    Má tôi giấu nụ cười:

    - Tụi bậy ăn no rồi nói bậy không hà.

    Đám tang tên chủ ấp vô danh tiểu tốt mà sao có lính gát mấy ngã đường.Nhiều xe jép đậu ngoài ngõ.Có đội kèn tây, có vòng hoa tưởng niệm… trên chiếc quan tài sơn hực hở, phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ.Một tên ,

    không biết lính gì mà mặc quân phục trắng toát có hoa mai bạc trên vai, đỡ lấy và an ủi bà vợ trẻ đang gục khóc bi ai trước quan tài chồng với hai đứa con.

    Xong đám tang, bà chủ ấp vội vã thu vén đồ đạt cùng hai con về Mỹ Tho.Chiếc cổng xanh khép im ỉm với sợi dây xích và ổ khoá bự chảng.Người lớn xì xầm:

    - Cha Mười So không chỉ là chủ ấp bình thường mà còn là tay tình báo đặc biệt.

    Vài hôm sau một tên khác được đưa đến nhận chức danh chủ ấp( dân vùng này chẳng ai chịu nhận cái chức đó cả), tuy nhiên vẫn có kẻ thích làm “quân sư ”. Khi tên chủ ấp mới tới thì bọn người này ra vào nơi hắn ở, dẫn hắn xuống gặp gỡ, nói chuyện làm quen dân….

    Mùa đông năm ấy, cái lạnh kéo dài. Chuông nhà thờ thỉnh thoảng điểm chín tiếng, bảy tiếng. Người ta chết vì bệnh tật, vì già, nhiều hơn cả là do bom đạn.

    Ông Năm già hơn sau mùa đông ấy. Ông vẫn quấn khăn lên đầu, mặc áo dài đen đi ruộng. Chiếc gậy tre trên tay ông như bóng hơn khua nhẹ theo bước chân ông trên con đường đất.

    Buổi trưa ông chưa về, tôi và con Phụng kéo nhau ra khu đất thánh xem người ta đưa đám ma vào đó để chôn.Bỗng nghe tiếng thằng Xệ gọi thất thanh:

    - Phụng ơi ông Năm chết rồi!

    Tôi và con Phụng nhảy qua mương định rượt bắt, vả vào miệng nó vài cái,bởi cái tính lý lắc hay chọc chúng tôi. Thằng Xệ không ba chân bốn cẳng bỏ chạy như thường ngày.Khi con Phụng giá tay , nó đứng im đôi mắt rân rấn nước:

     - Em nói thiệt chớ bộ, hổng tin ngó xuống nhà mà coi!

    Chúng tôi ngoái lại, thấy một nhóm người đang chạy theo chiếc võng khiêng một người trên đó. Những người chòm xóm đưa tang lập tức chạy ra khỏi khu đất thánh đổ về phía nhà ông Năm. Tôi và con Phụng chạy tắt qua vườn, chui qua rào xương rồng ,bị gai xước rướm máu tay mà không để ý.

    Đàn ông , kẻ chạy mua hòm,kẻ tháo vách, người tắm rửa thay đồ cho ông Năm.Người quày quả chạy đón xe đi Xoài Hột, Long Hưng…. để gọi con cháu ông Năm về. Đàn bà soạn áo quần cho ông Năm, soạn nồi, thau, rổ rá, dụm bếp, nổi lửa một góc sân sau. Má tôi và mấy người nửa quảy gánh đi chợ.

    Trong vạt áo dài đen cột túm lấm lem bùn và máu, người ta lôi ra một bộc ổi chua.Không phải là mùa cấy lúa nên không có xôi, ông hái ổi trong vườn nhưng chưa kịp đem về cho hai đứa tôi.

    Ông Năm đã vĩnh diễn ra đi, vầng trán ông chau lại hình như ông còn một điều gì đó chưa kịp làm xong.Tôi ngơ ngác một thời gian dài, nước mắt nhớ ông tạo thành dấu hỏi: vì sao ông Năm bị bắn chết?

    Ông Năm chết không lâu thì hoà bình.Mọi người rộn rịp trở về quê.Tôi gói ghém kỷ niệm tuổi thơ giả từ xóm Chợ ,theo má và anh chị ,lên con tàu nhỏ xuôi theo nhánh sông Tiền.Mang theo câu hỏi ấy suốt hơn ba mươi năm.

    Bây giờ tôi đứng đây,ngôi nhà lá lụp sụp đầy kỷ niệm đã thay bằng ngôi nhà ngói mới.Dưới bụi chuối lửa còn sót lại, đang trổ buồng tàn lá xanh, xum xuê viền đỏ, là mấy nấm mộ xi măng mới quét vôi trắng có nhiều hoa cuốn kèn.

    Phụng xiết tay tôi, giọng run run, nghèn nghẹn:

    - Anh Trần định phá hết chuối lửa, trồng nhãn cơm suồng,tao cản lại. Ảnh chừa mấy bụi chuối để tao chờ mầy. Cứ mỗi lần chuối chín tao mong mày và nhớ ngoại – nói lau vội nước mắt - Hồi đó, ngoại là hội trưởng hội nông dân. Ông Mười So đã chỉ điểm cho máy bay dội bom xuống ấp Đồng, ngay căn cứ của bộ đội dừng quân. Ông Ngoại đã theo dõi và đưa người về “diệt” nó.Tụi nó theo rình mò và bắn ông để trả thù … Uỷ ban xã định đưa mộ ông về nghĩa trang nhưng tao nói để ông nằm cạnh bà cho ấm cúng.

    Tôi bâng khuâng nhìn ra khu đất thánh, dày đặc mộ, bao nhiêu năm qua, biết bao con chiên đã nằm xuống.

    Phụng trách:

    - Mày thật tệ, về xứ rồi mất tiêu, không một lần quay lại thắp nhang cho ngoại.

    Tôi nhìn nó không biết nói sao. Ba mươi năm qua, tôi đã vật lộn với cuộc sống nghèo túng, khó khăn. Nhớ lắm nhưng đành chịu.

    Trong ánh hoàng hôn và gió chiều, tôi thấy tóc của Phụng lốm đốm bạc. Lòng tôi se lại.

    Người ngoài đồng lác đác trở về. Bất chợt hai chúng tôi cùng nhìn ra bìa vườn,nghe như trong gió vấn vương mùi xôi và muối mè bọc trong lá chuối. Nhưng con đường đã láng nhựa và không có bóng ông Năm.Mắt hai đúa tôi ngân ngấn nước.

Kết Thúc (END)

Ăn Tết - Phiến Đàm Về Cái Sự Ăn !

Đối với động vật và thực vật, ăn là để tồn tại và phát triển. Không ăn thì…”Thánh cũng không sống nổi!”. Cây cỏ cũng phải ăn, cho dù thức ăn là đất, là phân – Vậy hiển nhiên: “Ăn để mà sống” rồi! Ấy thế mà vẫn có người nói “sống để mà ăn!”. Đúng, sai thế nào, đến nay, cuộc tranh luận vẫn chưa ngã ngũ.

    Ăn tưởng là việc đơn giản, ấy vậy mà phải học đấy. Người xưa dậy rồi: Miếng ăn được coi là “ngọc thực”, nhưng cũng có khi là “miếng nhục”! Ăn uống phải cho đàng hoàng, không nhai nhồm nhoàm, càng không “phùng mạng trợn má” ăn lấy được. Phải chín chắn ngay cả trong việc ăn, đừng có “ăn sổi ở thì”, “ăn không nghĩ đến ngày mai”. Có kẻ “ăn hoang phá hại”; lại có người có tiền có của đấy, nhưng vẫn ăn dè ăn sẻn, dành dụm phòng lúc khó khăn. Con trẻ lên hai lên ba “háu ăn” thì cha mẹ, ông bà ai cũng mừng; nhưng thành người lớn rồi, mà trông thấy miếng ăn, mắt cứ “hau háu” thì xấu lắm! Miếng ăn còn phải sạch sẽ, “ăn chín uống sôi”, chớ “ăn sống ăn sít”. Có kẻ “ăn như mèo ăn”, nhưng cũng có người “ăn hùng hục như hổ đói”. Có người mời “gẫy đũa, gẫy bát” không chịu ăn; nhưng có kẻ cứ thấy đâu có ăn là sa vào liền, “tự nhiên như ruồi”! Bên cạnh người “phàm ăn”, bạ gì cũng ăn; thì cũng có kẻ “kén cá chọn canh”. Có người khi ăn cũng luôn nghĩ đến người khác: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, thấy nồi cơm đã vơi, thì dẫu bụng còn đói, vẫn hạ bát “vô phép các cụ, cháu ăn đủ rồi ạ!”; nhưng cũng không ít kẻ mặc thiên hạ, cứ một mình “chén tì tì”, “chén thủng nồi trôi rế”… “Ăn” cũng có nhiều cách: lịch sự thì gọi là “xơi” (“Kính mời cụ xơi cơm”), cùng trang lứa thì có thể nói là “nhậu”, là “đánh chén”. Không lịch sự thì có nhiều cách gọi lắm: nào là “hốc” “nhồi”, “tọng”. Ví dụ: “Hốc (hoặc nhồi, tọng) cho lắm vào!”; là “gặm” , “liếm”, “đớp” – ba từ này bắt chước động thái ăn của loài chó! Ví dụ: “Tiền trợ cấp các gia đình khó khăn, bị các “quan” địa phương nọ gặm (hoặc liếm, đớp) tới quá nửa!”,…– Tất thảy đều do tính cách, đạo đức, lối sống con người tạo nên cả.

    Lại có cả cảnh “kẻ ăn không hết, người lần không ra” nữa. Một gia đình nông dân, suất ăn hàng ngày chỉ đáng mươi ngàn đồng Việt Nam; ấy vậy mà có những “đại gia” sang Căm-Pu-Chia đánh bạc, mất một lúc vài chục ngàn đô la Mỹ, vẫn thản nhiên tiếp tục đi chơi… gái để giải hạn!

    “Ăn”, cũng có sự phân biệt đẳng cấp đấy: Cùng ăn chung một bữa tiệc, vậy mà nhiều khi vẫn có kẻ “ăn trên ngồi trốc” – mâm của người thường gọi là “đại trà”, mâm của kẻ quyền chức, gọi là “vip”. Thế cho nên đã từng xẩy ra chuyện, có thực khách đã xô ghế, văng tục bỏ về, khi phát hiện ra mình bị xếp ngồi mâm đại trà – “một miếng giữa làng” mà!

    Cũng gọi là “Ăn”, nhưng lại không hề … nhai bằng răng. Không dùng răng nên ăn rất khỏe, rắn mấy cũng ăn, to mấy cũng ăn. Đó là cách dân chúng “hình tượng hóa” cái tệ nhận hối lộ. Kiểu ăn này thì diễn ra quanh năm, nhưng sôi nổi nhất, táo tợn nhất, vẫn là dịp Tết, từ Tết Tây đến Tết Ta. Kinh tế suy thoái ở đâu, chứ không thấy ở cái kiểu “ăn” này! Về nguyên lý, thì người ta chỉ ăn khi đói. Nhưng rất nhiều quan ăn cả lúc no (mà họ thì có lúc nào không no?), thế mà chả bao giờ bị bội thực cả! Cổ nhân có câu này khuyên mọi người, chí lý lắm, nhưng chả mấy ai chịu nghe: “ăn cơm mắm cáy thì ngáy o o – ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy”. Họ lý luận rằng, cứ ăn đi, rồi lại mời kẻ khác ăn, nghĩa là đừng có ăn một mình, thì vẫn ngáy o o, chả việc gì phải lo cả! Quan có chức lớn thường ăn “sang”; không sang, một vài triệu, thậm chí một vài trăm triệu, không ăn. Không ăn không phải là không ăn. Cứ chịu khó lo liệu đưa thật nhiều hơn nữa, thể nào quan cũng ăn. Quan không ăn, kẻ kể chuyện này xin cứ đi đầu xuống đất! Quan cỡ nhỏ và quan sắp về vườn có nhiều vị phàm ăn và tạp ăn lắm. Bạ gì cũng ăn; sạch bẩn, to nhỏ, sang hèn; ăn tuốt! Ăn của thằng có tóc đã đành, nhưng thằng đầu trọc có việc tìm đến quan, thì dù nó chỉ có cái khố rách, mà rơi vào đúng lúc cần “tận thu”, quan cũng ăn. Các quan tham thường ngậm miệng mà ăn, nhiều khi ăn rất lớn mà vẫn “kín như bưng”. Thánh lắm! Người thường không dễ gì bắt chước được đâu. Cơ quan phòng chống tham nhũng cũng không dễ gì có được chứng cớ quả tang (trừ khi chỉ muốn kiếm chứng cớ để… “đánh quả” tống tiền, thì chắc là dễ!).

    Trong cuộc sống, còn tồn tại khá nhiều kiểu “ăn mà không phải ăn” khác, như “ăn hiếp”, “ăn chặn” – kiểu hành xử bắt nạt người yếu (yếu lực hoặc yếu thế) của bọn côn đồ; như “ăn không nói có” hoặc “ăn có nói không” nhằm mục đích hại người lương thiện. Các quan tham hay có thói “ăn có nói không” lắm. Chứng cứ rõ mười mươi, quan vẫn chối bỏ…

    không “ăn”. Bí quá thì đổ tội đó cho phu nhân (đã có vị dùng cách ấy mà thoát mọi tội lỗi đấy, bởi “ai làm nấy tội”, quan tuy là chồng nhưng từ lâu đã ly thân, nên không thể chịu trách nhiệm! Đúng quá đi chứ, trường hợp như thế mà bắt quan chịu trách nhiệm thì oan ức cho quan quá, còn đâu là sự công minh chính trực nữa?!.)

    Ngoài ra, người ta còn dùng hình tượng “ăn” để nói về một trong những cái đạo làm người, đó là sống ở trên đời phải luôn ghi nhớ công ơn người đã giúp đỡ mình, “làm ơn không nên nhớ, chịu ơn chớ có quên”; kẻ quên ơn, bị xã hội sỉ vả là đồ “ăn cháo đá bát”!

    “Ăn để mà sống” hay “sống để mà ăn”?–Phải chăng, chính là hai quan niêm này đã chi phối những hành vi “ăn” kể trên, của mỗi người chúng ta? Ngày Xuân, trước mâm cỗ Tết, xin lạm bàn đôi điều quanh cái sự ăn, cũng chỉ nhằm góp chút hương vị trào lộng cho không khí bữa ăn. Tuyệt không có ý gì khác, xin thưa!..

Mùa Mắm Còng

Sáng dậy, gỡ tờ lịch, tiện mắt xem ngày âm, tôi biết bữa nay ngày mồng năm tháng năm, Tết Đoan ngọ, ngày tôi nhớ đời: dưới quê tới mùa còng lột, mùa mắn còng

    Mọi năm, vào dịp này, sau ngày mồng năm chừng vài tuần, tôi thường được món quà: keo chao đựng mắm còng nhỏ xíu kèm theo vài trái chuốt chát của cậu Năm gởi từ quê lên.

    Mắm làm bằng con còng lột chỉ là món ăn đồng nội đạm bạc của quê nghèo, vậy mà ngót mười lăm năm sau ngày giải phóng, năm nào, mùa còng nào cậu cũng gởi lên cho tôi. Vì một lý do riêng đối với cậu cháu tôi, mắm còng trở thành món ăn để hoài niệm.

    Trong chiến tranh, cậu làm du kích, tôi làm phóng viên mặt trận. Năm đó, quê tôi là chiến trường, lại vào chiến dịch nên tôi thường về sống với đội du kích của cậu. Sông Ba Lai hạ nguồn mùa khô nước mặn đắng, dân lại tản cư, du kích mất nguồn tiếp tế nước ngọt và thức ăn.

    Để có nước ngọt cầm hơi, du kích phải ngược dòng sông, bơi miết về trên nguồn nơi giáp nước, nhận xuồng cho nước ngọt tràn vào đầy óc ách rồi bơi về, tiện tặn chi xài cho qua mùa, qua chiến dịch

    Có một lần, địch phục kích, mấy đội viên lấy nước ngọt không trở về nữa.

    Còn thức ăn, du kích ăn toàn chữ C: thịt cò, cua, còng, cá chốt, đọt chà là, dây cóc kè... được coi là món ăn "chiến lược". Căn cứ núp trong rừng cò, ăn tỉa cò mới ra ràng lột da, xẻo đùi hầm với củ hủ chà là hoặc rô ti đường chảy, ăn ngày này qua tháng nọ. Tỉnh ủy sợ lô căn cứ, sợ cò bỏ đi nên buộc phải ngưng, thế là tắt nguồn, chúng tôi phải quay sang cua, cá chốt. Những thứ này phải câu và cũng hiếm nên cứ phải luân phiên từ cá cua, tới còng.Mùa còng lột vỏ, mỗi năm một lần vào mồng năm tháng năm ta. Lớp áo giáp đủ màu được trút bỏ, những chú còng mềm như lụa, thân ngậm đầy sữa, chỉ cần nấu qua loa cũng thành món ăn "cao cấp" liền. Nhưng còng lột nhiều vô kể, ăn đâu hết một lần, nên phải làm mắm để dành ăn dài hạn cả năm. Lại cũng có mùa, mắm đầy hũ nhưng không nhá được vì nhớ tới máu của một đội viên du kích thấm vào đó...

    Như thế, mùa mắm còng đâu chỉ là mùa mắm còng, nó đã trở thành mùa để nhớ quê nghèo, nhớ đồng đội, nhớ cậu Năm. Cậu biết vậy nên cứ tới mùa còng làm mắm gởi lên thành phố cho tôi. Lần duy nhất đích thân cậu mang lên cho tôi khi cậu về hưu cách đây ba năm nhưng cũng là lần buồn nhất: thằng con trai nhỏ bảy tuổi của tôi phản đối quyết liệt, không ăn mắm. Bảo nó mắm ngon, của ông Năm cực khổ mang từ quê lên, nó rán nhắm mắt nhắm mũi gắp một đũa tí tẹo. Chưa kịp nuốt nó đã nôn ra mật xanh mật vàng. Bàn ăn lặng đi. Cậu tôi buông đũa, làm bộ cười khà khà nhưng mặt tái đi như bị hớp hồn. Lầ đó cậu về, buồn, giận, thôi không gởi mắm còng, cũng không lên nữa.

    Tôi tưởng cậu sống để vậy chết mang theo, người du kích già sẽ không tha thứ đứa cháu trai kêu bằng ông sanh ra tại chốn thị thành không biết giá trị mắm còng. Nào ngờ, chỉ mưới hôm sau tờ lịch mách bảo cho tôi mùa mắm còng tới, vợ tôi tới cơ quan làm việc thì nhận được cái giỏ đệm con con. Vừa mở ra đã nghe mùi khăng khẳng quen thuộc của mắm còng. Thật thần kỳ, cậu đã hết giận. Tháo bọc nylon xếp cạnh keo mắm còng ra còn thấy một gói chuối khô, loại chuối hồng phơi nắng tại nhà! Trong bọc chuối hồng, có lá thư, nét chữ quen thuộc của cậu tôi xấu như gà bươi:

    " Mắm còng tao gởi cho vợ chồng mày. Còn gói chuối hồng khô tao gửi cho thằng Dân, nó khôg ăn được mắm thì ăn chuối cũng không sao. Hôm hổm tao coi truyền hình thấy nó đờn tranh được giải thưởng tao mừng, hết giận. Không ăn mắm còng nhưng đờn được bài Khổng Minh tọa lầu nhịp ngoại là tốt lắm, được cả xóm mình khen. Tao nay già rồi, vợ chồng mày có dịp dắt nó về cho tao thăm. Cậu".

    Vợ tôi vừa đọc thư vừa khóc. Còn tôi thì chỉ biết xếp bức thư lại để tối về nhà đọc riêng một mình.

Cơm Trắng

Vào thành phố làm thuê đã gần chục năm nay, Tết này anh ở lại ăn Tết với vợ chồng tôi. Sáng ba mươi làm cỗ cúng ông bà ông vải, nhìn vợ tôi xới ra mấy lưng cơm trắng đặt lên mâm, anh bảo: “Ông có tin là tới khi lấy vợ, tôi mới biết thế nào là cơm trắng không?” Rồi không đợi tôi trả lời, anh nói tiếp, giọng bùi ngùi: “Giờ nói ra chắc chẳng ai tin. Nhưng có một thời những người nông dân quê tôi không biết thế nào là cơm trắng. Thế mà mấy ông mấy bà nhà văn cứ viết thế này thế nọ. Tài thật!...” Rồi anh kể cho chúng tôi nghe một chuyện ở làng anh. Tôi nghe xong định bụng sẽ có sao chép vậy. Cầu mong những vong hồn ở quê anh có khôn thiêng chứng giám. Mâm cơm này xin được cúng cả cho những oan hồn ngày ấy. Còn sau đây là câu chuyện của anh:

    Năm đó chị Thắm về thăm làng đúng vào dịp giỗ bà nội của chị là bà Gái. Đã mấy chục năm trôi qua. Cái chết của bà nội lúc nào cũng ám ảnh chị. Bà chết vì lên cơn dại sau mấy ngày bị chó cắn. Lúc đó chị mới lên chín tuổi. Ôi! Bà chết mới thương tâm, kinh sợ làm sao. Bắt đầu là những triệu chứng sợ gió, sợ nước, những trận run không hãm lại được. Rồi bà lên cơn, miệng sùi bọt mép, tấm thân già nua co giật dữ dội, bố mẹ chị phải cố hết sức mới giữ cho bà khỏi lăn xuống nền nhà. Bố mẹ chị khóc không thành tiếng. Cái Thắm bấy giờ sợ quá đứng ôm nép một bên cột nước mắt ràn rụa. Nó gào khóc ầm ĩ. “Ối bà ơi... bà làm sao thế bà ơi...” Hàng xóm láng giềng đổ đến. Mấy ông già cao tuổi nhìn cảnh ấy lắc đầu. Rồi có những lúc cơn dại tạm lui, bà mềm nhũn như một cọng bún, người đẫm mồ hôi, dúm dó. Mặt bà tái dại đi. Song bà vẫn tỉnh táo. Bà biết bà sắp chết. Bố mẹ cũng biết bà sắp chết mà không làm sao được. Tất cả chỉ còn biết nhìn nhau thê thảm. Đôi mắt đã thất thần của bà vẫn như muốn dõi tìm cái Thắm. Bà giơ hai tay lên, muốn kéo nó lại gần. Bà phều phào lẩy bẩy mấy lời trăn trối: “Con... ơ... ơi... Cháu... ơ... ơi... Đừng bao giờ mơ cơm trắng nữa... ng... nghe... chư...chưa...” Chỉ được có thế, rồi một cơn dại khác lại ập đến...

    Chị Thắm xin phép bố mẹ để chị đi chợ mua đồ về làm lưng cơm cúng bà. Đặt đĩa xôi, con gà lên bàn thờ, chị xới ra lưng bát cơm trắng để lên trước bát nhang rồi thắp hương, cúi đầu lầm rầm khấn vái. Khấn xong, chị chắp tay ngẩng nhìn tấm di ảnh nhăn nheo của bà nội trên bàn thờ. Khói hương như những con giun ngoằn ngoèo cuộn lên rồi toả ra xung quanh thành những vòng tròn nằm ngang. Qua làn khói, chị cảm thấy đôi mắt của bà lung linh như vừa chớp một cái, lúc nhìn chị, lúc lại nhìn xuống bát cơm trắng đặt trước mặt. Cặp môi răn reo của bà hình như vừa mấp máy điều gì. Bất giác, chị cảm thấy một luồng hơi lạnh chạy giần giật dọc sống lưng, toàn thân chị sởn hết gai ốc, chị muốn quị xuống.

    Chị sực tỉnh khi bố chị nhắc chị đứng ra ngoài để ông vào cúng. Giọng cúng của ông đều đều, ấm áp như một bài tụng kinh siêu thoát làm tâm thần vừa nặng trĩu của chị vơi đi được phần nào. “Nam mô A di đà Phật, tái thế tế thứ... Thượng hạ Đông Tây Nam Bắc... Thượng hạ mồ ma đống cao...” Cứ sau mỗi đoạn của bài cúng, ông lại lấy hơi bằng cách “suýt” nhẹ một tiếng rõ dài. Chị đứng nghe mà không cầm nổi nước mắt. Cúng xong, ông đưa hai tay lên bàn thờ sửa lại mấy nén hương. Bỗng ông hoảng hốt kêu thét lên: “Ối giời đất ôi! Cái gì thế này?...” Chị giật mình thấy ông bố mặt tái mét đang trỏ tay vào bát cơm trên bàn thờ, miệng ú ớ nói không nghe ra tiếng nào nữa. Chị vội lao tới, nhìn theo hướng ngón tay trỏ của ông. Ngay lập tức, đến lượt chị cũng rụng rời hồn xiêu phách tán. Bát cơm trắng muốt chị vừa xới ra, giờ đỏ lòm như một bát máu. Kí ức của cái Thắm bé bỏng ngày xưa tưởng đã quên đi, giờ lại đột ngột dội về...

    Cuối làng có một túp nhà tranh, tường đắp đất như cái lô cốt. Đó là nhà Rốp Đực. Rốp Đực mới gần ba mươi, học mất sáu năm trường làng lên tới lớp ba rồi nghỉ luôn. Bố mẹ lấy vợ cho gã rồi cho gã ở riêng. Cái đĩ Nhài con nhà Phẹt quắt queo, thò lò mũi thế mà về làm vợ gã độ nửa năm bỗng trổ mã phổng phao câu, má đỏ hây, ngực căng muốn nứt áo, nom ngon như một con bò cái tơ. Vợ chồng lực điền son rỗi thành ra cũng không đến nỗi, đủ ngày hai bữa cơm độn, không phải ăn cháo rau như khối nhà khác trong làng. Từ khi trổ mã, cái Nhài được đích thân thằng Tấn, bí thư Đoàn tuyên truyền giác ngộ rồi kết nạp vào Đoàn... Riêng gã vẫn thành phần thanh niên chậm tiến. Thằng Tấn con Bí thư Nục quyền sinh quyền sát trong làng. Nó cũng chỉ học đến lớp bảy rồi phá ngang, suốt ngày lêu lổng, tụ tập mấy đứa ranh con đi ăn cắp trứng gà hoặc rình đàn bà con gái tắm. Từ ngày ông Nục đưa nó lên chức bí thư Đoàn, lúc nào nó cũng cố tỏ ra chững chạc ta đây cán bộ cán bèo, song vẻ lưu manh thì không giấu đi đâu được.

    Cái Nhài sinh hoạt Đoàn được mấy tháng thì thằng Tấn tỉ tê hứa sẽ bồi dưỡng để nó được đứng trong hàng ngũ của Đảng quang vinh. Thế thì có mà đổi đời. Rốp Đực chả tin điều đó. Song con vợ cứ hí hửng thì thầm vào tai gã: “Bố nó là Bí thư, nó muốn làm gì chả được...” Gã gắt lên với vợ: “Dưng mà tao đếch thích cái thằng ấy, cả bố con nhà nó...” Rồi một buổi tối, sau khi sinh hoạt Đoàn xong, thằng Tấn dẫn cái Nhài ra phía cánh đồng, vừa đi vừa khoát chân khoát tay “bồi dưỡng” lý tưởng... cho nó. Tới tít cánh Rộc cùng, giọng “bồi dưỡng” của thằng Tấn chợt run lên lào phào, trộn lẫn những hơi thở gấp. Cả người nó bỗng ngùn ngụt như muốn bốc cháy. Nó kéo cái Nhài ngồi thụp xuống bờ ruộng. Cái Nhài chợt tỉnh ra, sợ quá la lên: “Tôi là gái có chồng...”. Thằng Tấn vội vàng dùng tay bóp chặt mồm nó lại không cho kêu rồi đè ngửa ra, rứt vội một nắm cỏ nhét đầy vào mồm nó. Cái Nhài ú ớ giẫy giụa. Không ăn thua gì. Thằng con trai kia vẫn một tay ghì chặt ngang cổ nó, một tay giật phựt phựt những nút áo. Đoạn rồi gã nhổm đít, co một chân lên, móc ngón cái vào cạp quần ngay dưới rốn cái Nhài, đạp mạnh xuống...

    Suốt mấy ngày đêm, cả nhà Rốp Đực lẫn nhà Phẹt đổ đi tìm con Nhài. Không thấy tăm tích nó đâu. Cả đời nó đi xa nhất chỉ sang đến chợ Đò. Vậy mà mấy đứa trong ban chấp hành Đoàn cả quyết rằng tối ấy sinh hoạt xong sớm, chúng nó thấy cái Nhài rủ đi xem phim tận bên Gia Trung... Ba ngày sau, xác cái Nhài nổi lên ở cuối đoạn sông gần cánh đồng Rộc cùng, người nó mắc vào một chân cột vó bè, mồm ngậm đầy những cỏ, hai mắt nó trợn ngược, trắng dã, quần áo rách te tua phơi cái bụng trương sình, trắng như lợn cạo. Lão Phẹt nghe tin sét đánh vội vã lao tới. “Ối con ơi!...” Vừa lúc ấy từ miệng cái Nhài, nắm cỏ ộc ra ngoài kèm theo một ngụm máu lẫn nước dãi, nom nhờ nhờ như máu cá. Bí thư Nục vội vàng triệu tập họp những cán bộ chủ chốt để phổ biến tình hình trật tự an ninh trong khu vực. Ông ta thông báo rằng gần đây có một nhóm cướp mới tụ tập, chuyên lảng vảng làng này, làng nọ. Công an đang tổ chức truy bắt. Trường hợp của đồng chí Nhài chắc chắn do nhóm cướp đó gây ra... Tiếc quá, bên Đoàn đã giới thiệu đồng chí nữ đoàn viên tích cực ấy vào diện cảm tình, đối tượng...

    Rốp Đực phát điên từ ngày đó. Một hôm gã vác con dao bầu đến nhà ông Nục đòi gặp thằng bí thư Đoàn. Gã cho rằng chính vì chuyện sinh hoạt Đoàn điếc cái con mẹ nhà chúng nó ấy đã khiến vợ gã chết oan. “Ối Nhài ơi... em cứ ở nhà với anh thì đâu ra nông nỗi... Đoàn điếc gì để người ta hiếp chết em ơi...” Lúc ấy, thằng Tấn cùng mấy đứa trong ban chấp hành Đoàn đang tụ họp đánh chén trong nhà hoảng hốt chui hết vào buồng, đóng chặt cửa lại. Mãi sau, một thằng được phân công lẻn cửa sau đi báo công an. Lập tức công an có mặt. Giải thích, thuyết phục thế nào gã cũng không nghe, lại còn chửi vung xích chó. Một anh công an xông vào, gã múa tít con dao bầu, xuýt xảy ra án mạng. Một anh khác thấy thế chĩa súng lên trời bắn một phát chỉ thiên. Cả làng giật mình sợ chết khiếp. Rốp Đực cũng giật nảy mình, ngơ ngác. Nhân lúc đó, một anh công an vòng phía sau lao vào ôm chặt lấy gã. Rồi mấy anh kia xông tới cướp lấy con dao, đè nghiến gã xuống, trói gô lại như một con chó, giải về trụ sở. Rốp Đực biến một lèo sáu tháng, lên huyện, rồi lên tỉnh... Dân làng đồn gã bị khép tội phản động. Bỗng một hôm người ta chở gã về, người như cái xác ve, rũ rượi. Từ đó gã càng điên loạn hơn trước, song những cơ bắp lực điền ngày xưa biến đâu hết cả, sức vóc hầu như chẳng còn gì đáng kể. Cũng may, gã tuy điên nhưng lành như cục đất, chẳng dọa nạt con nít bao giờ.

    Hôm ấy, Rốp Đực xúc đầy một rá gạo, đem ra nhúng cả vào vại nước, vừa vo vừa ngửa cổ lên trời ca một câu rất dở hơi:“Hơ hơ!, đĩ vợ ta ơi... về ăn cơm trắng rồi chơi... Bố mày!... Hơ hơ!...” Hai tiếng “Bố mày” gã quát lên thành tiếng chửi, không biết chửi ai? Vo gạo xong, gã trút hết vào cái xoong nhôm nhăn nheo, đổ đầy nước rồi đem vào đặt lên bếp, nhóm lửa. Có tiếng gà lúc cúc đi ngang qua sân. Gã vọt ra. Không kịp rồi. Con gà mái đã lao thẳng vào vườn chuối, vừa chạy vừa quác lên mấy tiếng như muốn chửi vào mặt gã: “Mả cha mày, định giết bà hử...” Gã ngây người tiếc rẻ, lững thững quay vào bếp. Gã nhìn ngọn lửa đang liếm láp cái đít xoong, thở dài. Cái đít xoong đen óng ả như mái đầu của đĩ Nhài dạo nào. Gã bỗng tưởng tượng vợ gã đang ngồi đấy như mọi lần, một tay cầm que cời, một tay đưa lên vấn lại mái tóc, da thịt Nhài tròn căng trong lớp vải pô pơ lin mỏng tang, thơm lịm... Gã đưa hai bàn tay lên bưng lấy mặt, rồi lại mở ra, rồi lại bưng lấy như trẻ con chơi trò trốn tìm... mắt gã hau háu nhìn vào cái chỗ trống trơn ấy. Bỗng gã cúi xuống, luống cuống tụt quần ra, rồi hai tay ôm cứng lấy bộ hạ, gã bước lò dò tới đứng trước cái bếp lửa. Ngửa mặt lên nóc bếp, gã tru lên mấy tiếng như một con chó đực, bọt mép trào ra hai khoé môi. Cứ thế, những thớ thịt nhão nhoét hai bên đùi gã giật lên những cơn nhè nhẹ trước chậm sau nhanh dần, nhanh dần. Hai bàn tay gã cũng hối hả giật ra giật vào dưới hạ bộ. Mồ hôi gã túa ra, chảy nhễ nhại trên khuôn mặt. Gã giật mình cảm giác như có mùi hương bồ kết, mùi da thịt ngầy ngậy quen thuộc của vợ gã lẩn quất đâu đây. Rồi theo một thứ phản xạ nào đó của giống đực, gã kiễng hai chân, rướn người lên... Vừa lúc ấy, có tiếng “xèo!...” một cái, búng nước nhờn từ chỗ hạ bộ gã vừa vọt ra theo hình vòng cung, bắn thẳng vào giữa ngọn lửa. Xoong cơm trên bếp chợt bục lên một tiếng, phì hơi ra ngoài, cái nắp vung mấp máy. Cơm sôi. Bất giác, thân hình Rốp Đực cũng giật nhẹ một cái. Gã hơi cong người há hốc mồm nhìn cái vung xoong đang sùi bọt, hấp háy. Từ một lỗ châm kim đâu đó, một tia hơi nước mảnh như que tăm phun mạnh lên, phát ra tiếng kêu ri rỉ như tiếng khóc của một oan hồn. Gã lạnh toát người, mắt hoa lên, nảy đom đóm, miệng thở phì phò như kéo bễ. Lùi lại một bước, gã nhắm mắt lại rồi thả phịch người xuống thùng trấu, nằm lăn ra thở dốc.

    Gã thức dậy lúc trời đã xế chiều. Xung quanh vắng lặng. Tiếng khóc ri rỉ ban nãy đã nín bặt. Dường như oan hồn đã bỏ gã mà đi. Xoong cơm trở lại im lìm trên bếp, ngọn lửa đã tàn từ lúc nào. Bê xoong cơm ra giữa sân, gã kéo lê cả cái rổ bát lỏng chỏng đặt bên cạnh. Rồi gã lấy bát, xới cơm ra. Xoong cơm trắng muốt bốc hơi thơm lựng, ngào ngạt điếc mũi. Mấy con chim sẻ đang bay trên trời bị cái mùi thơm ấy quyến rũ vội sà xuống, nhảy nhót loạn xạ xung quanh song không dám đến gần. Cái mùi ấy bay lên trời, toả đi khắp nơi, ra tới tận đầu làng. Bất giác dân làng ai cũng ứa nước miếng. Trẻ con ngơ ngác, tuôn dãi ra rề rề. Đám thanh niên hỏi nhau: “Mùi gì mà lạ thế, chửa được ngửi bao giờ?” Các cụ già lẩm bẩm: “Mùi cơm gạo mới ngày mùa đây mà. Đã hàng chục năm giời nay mới lại ngửi thấy. Nhưng ở đâu ra thế nhỉ...”

    Rốp Đực bưng bát cơm lên, lùa một miếng vào miệng. Bỗng gã trợn mắt dừng lại, cơn điên lại bùng phát. Gã phun miếng cơm trong miệng ra, rồi nâng bát cơm lên khỏi đầu, quật mạnh xuống nền gạch. Choác! Cái bát sứ vỡ tan, cơm trắng văng ra tứ phía. Lũ chim sẻ đang nhảy nhót xung quanh hoảng sợ bay vọt lên. Lập tức, mấy con chó đói đang nấp trong vườn chuối phía tây lao tới, thì ra chúng rình từ nãy. Những con chó vừa gầm gừ, vừa vùng vằng ăng ẳng tranh nhau liếm vội những hạt cơm. Nhìn khung cảnh náo nhiệt của bầy chó, gã thấy mình dường như đỡ cô đơn. Gã lại xới một bát nữa, lại... choác! Bầy chó hơi giật mình, khựng lại một giây rồi chợt hiểu. Nhờ có cái tiếng “choác” đó chúng mới có cơm mà liếm. Chúng chẳng sợ, chẳng cần để ý đến gã nữa.

    Bà Gái nuốt vội miếng nước bọt. Cái gì mà bên nhà Rốp Đực cứ bốp bốp, chát chát như đập bát đập đĩa thế nhỉ? Lại còn tiếng chó ăng ẳng, hình như chúng đang tranh ăn. Đích thị là tranh ăn. Người tranh ăn có khi còn kín tiếng chứ chó tranh ăn thì không giấu tiếng vào đâu được. Lại còn cái mùi thơm lựng giời? Ở đó chứ còn ở đâu ra nữa. Mấy hôm trước sang xin lửa, bà ngó cót nhà nó dễ còn mấy yến thóc, mình nó ăn đâu đã hết. Chỉ có điên như nó mới dám thổi cơm trắng. Từ khi có hợp tác xã, cả làng trừ những nhà Bí thư, Chủ nhiệm... còn lại nhà nào khá lắm cũng chỉ dám thổi cơm khoai, cơm sắn, còn đâu toàn cháo loãng, kể cả trong những ngày mùa, lúa gặt về chất đầy sân kho mà đâu có được chia ngay. Còn phải đợi cán bộ “cân đối”, “lên phương án”.... Nước bọt lại ứa ra, bà Gái nhìn cái Thắm đen đúa như củ súng đang ngồi rũ một xó. Đôi mắt nó sáng quắc, cái cổ thụt vào giữa hai bờ vai gầy nom như một con cóc. Tội nghiệp nó, đang tuổi ăn tuổi lớn. Già ngót tám mươi tuổi, sắp xuống lỗ như bà còn đói không chịu nổi nữa là nó. Húp một bát cháo độn xu hào loãng từ trưa tới giờ, bụng cả hai bà cháu đã quắt lại như dán chặt quanh xương sống. Nó cũng đang thèm cái mùi thơm như bà. “Đi! đứng lên đi” bà ra lệnh rồi quả quyết đứng dậy, lôi đứa trẻ theo.

    Hai bà cháu từ ngoài cổng nhà Rốp Đực ngó vào. Ối giời ôi! Nó đang đập những bát cơm trắng xuống sân kìa. Phí của thế hả giời? Lũ chó kia sẽ ăn hết mất thôi. Cơm trắng quá, trắng đến loá mắt. Lâu lắm rồi bà không còn được nhìn thấy những hạt cơm như thế nữa. Phải cứu lấy cơm trắng. Bà nghĩ bụng rồi dắt theo cái Thắm, xăm xăm đi vào. Tới sân, bà chợt sững người, xấu hổ đỏ bừng mặt. Cái thằng Rốp Đực nó cởi truồng nồng nỗng, ngồi trật ra cả một đống hạ bộ đen sì. Cái Thắm nép sau lưng bà tỏ vẻ sợ hãi, vậy mà đôi mắt vẫn hau háu nhìn cái xoong cơm. Bà muốn quay ra. Nhưng còn cơm trắng? Nhìn vẻ man dại của Rốp Đực, nhất là cái đùm đen sì hôi hám của gã đang tô hô thế kia, bà bỏ ý định sấn tới cạnh gã, giằng lấy cái xoong cơm. Thôi thì vớt vát được chừng nào hay chừng nấy. Sự xấu hổ nhất thời đã không thắng được bản năng tiếc của. Hai bà cháu cố tránh nhìn gã, cứ thế len lén đi vào. Rồi bà ngồi thụp xuống, đứa cháu như con cóc cũng ngồi bệt xuống theo. Bà cháu bắt đầu hối hả đưa cả hai tay ra vét lấy những hạt cơm trắng đang vãi tung toé. Phía đối diện, bầy chó dường như cảm thấy có thêm đối thủ, chúng gừ lên mấy tiếng như để thị uy rồi sấn xổ lao vào giữa đống cơm trắng vương vãi lẫn những mảnh bát vỡ.

    Rốp Đực nhìn cái cảnh bên chó bên người ấy lại càng thấy ngồ ngộ. Đúng là cái thằng điên. Hai bàn tay gã vừa nâng một bát cơm lên qua đầu chợt ngừng lại. Gã nghĩ sao lại hạ bát cơm xuống, nhoai người đặt ra xa trước mặt, cố ý để nó lệch về phía hai bà cháu. Bà Gái chợt ngừng nhai miếng cơm lẫn cát đang lạo xạo trong miệng. Bà nhìn bát cơm trắng, rồi nhìn gã, nghi ngờ. Nó cho mình bát cơm? Không nhẽ nó tử tế đến thế. Dễ đến chục năm nay, bà không hề được bưng trên tay một bát cơm trắng tinh như thế. Đứa cháu kia thì phải nói là từ lúc đẻ ra đến giờ. Có thật nó cho mình không? Ôi bát cơm quý hoá, bụng bà réo sôi ùng ục, bà run bắn người lên, vừa nghi ngờ, vừa lo sợ mấy con chó sẽ nhanh hơn bà. Bà nhìn gã, nhìn lũ chó như canh chừng rồi nhích dần, nhích dần. Bà đã tới rất gần, rất gần cái bát cơm quý hiếm có một không hai ấy. Cái Thắm ngồi phía sau cũng đang nín thở mong bà. Đợi đấy! Rồi bà cháu ta chia nhau bát cơm này nhá. Lũ chó không hiểu sao cũng chợt yên lặng. Hình như chúng chưa kịp hiểu điều gì đang diễn ra. Chó mà, chúng đâu có thông minh được như người. Hay chúng muốn nhường nhịn? Bà đã tới gần lắm rồi, chỉ cần đưa tay ra chộp xuống là được, bà hồi hộp nghĩ, mắt vẫn không rời gương mặt man dại của gã. Bỗng bà cúi nhanh xuống, nhìn thẳng vào bát cơm, đoạn chụp cả hai tay ôm gọn lấy nó. Ngay lúc ấy, lũ chó dường như cũng chợt tỉnh. Chúng sủa rộ lên, rồi một con lao tới. Nó há cái mõm đầy răng nham nhở của nó đớp mạnh vào tay bà. Á! một tiếng thét đau đớn bật ra. Song bà quyết không rụt tay lại, bà vẫn ôm chặt cái bát cơm, cố giằng nó vào lòng mình. Máu từ tay bà trào ra. Giây lát, màu trắng của cơm chuyển hẳn sang màu đỏ. Bát cơm vừa nãy giờ đã nhuộm đầy máu tươi...

Bà Phéophile

Bà Théophile ” là một con mèo màu hung đỏ có bộ ức trắng, mũi màu hồng nhạt và tròng mắt xanh màu da trời. Bà được đặt tên như vậy chỉ vì bà đã sống chung với chúng tôi một cách vô cùng đầm ấm, ngủ ngay dưới chân giường chúng tôi, mơ màng ngay trên tay ngai ghế chúng tôi khi chúng tôi viết lách, và xuống vườn theo chúng tôi đi dạo, tham dự những bữa ăn của chúng tôi và có khi còn cướp giật cả miếng ăn khi chúng tôi đưa lên miệng nữa.

    Một hôm, một người bạn của chúng tôi có việc bận đi xa vài bữa, đem gửi chúng tôi con vẹt để nhờ chúng tôi chăm nom trong thời gian anh đi vắng. Con chim, cảm thấy mình đến nơi xa lạ không có bạn bầu, liền lấy mỏ cặp vào cành cây nó đang đậu để leo lên đứng trên cao, còn đôi mắt nó khá hoảng loạn đưa đảo nhìn khắp xung quanh, đôi mắt nom tựa như những chiếc đanh đóng ghế bành, nheo nheo tấm màng trắng dùng làm mi mắt.

    Bà Théophile chưa từng khi nào trông thấy một con vẹt cả, nên con chim kia đã khiến bà hết sức ngạc nhiên. Im lặng bất động hệt như con mèo ướp của Ai Cập, bà Théophile nhìn con chim với một vẻ tư duy sâu sắc, cố công cố sức tập trung các kiến thức khoa học tự nhiên đã từng học được trên các mái nhà, trong vườn và ở ngoài sân. Hình bóng các tư tưởng của bà hiện qua tròng mắt long lanh thay đổi, và chúng tôi có thể đọc được trong đó câu kết luận của bà, sau khi đã xem xét kỹ đối tượng nghiên cứu: “ Chắc hẳn đó là một con gà giò màu xanh lá cây ”.

    Sau khi đã đi tới kết luận đó rồi, con mèo nhảy khỏi cái bàn nơi nó lập trạm quan sát và đi vào một góc phòng, mình bò sát đất, đầu cúi thấp, sống lưng cong lên, căng thẳng sẵn sàng bật dậy bất cứ lúc nào…

    Con vẹt nhìn theo cử động của con mèo với một vẻ lo ngại rõ rệt. Nó xù lông ra làm cho xích giữ nó kêu lên loảng xoảng, co một chân lên và cựa quậy các ngón chân, quẹt mỏ vào máng thức ăn. Bản năng nó cho nó biết rằng đang có một kẻ thù nghiền ngẫm một âm mưu gì đây.

    Còn đôi mắt con mèo vẫn chăm chăm nhìn vào con vẹt với một vẻ cực kỳ mãnh liệt khác nào bị thôi miên, đôi mắt nó nói lên bằng một ngôn ngữ mà chắc hẳn là con vẹt nghe thật rõ chẳng chút mập mờ úp mở: “ Xanh thì có xanh đấy, nhưng con gà giò này ăn hẳn phải ngon đấy ”.

    Tất cả chúng tôi đều theo dõi cảnh đó một cách thú vị, sẵn sàng can thiệp khi cần. Bà Théophile đang rón rén tới gần: cái mũi hồng hồng của bà run rẩy, mắt bà hơi nheo lại, móng vuốt bà xoè ra cụp lại. Trên sống lưng bà thấy run rẩy khẽ, hệt như cái run rẩy của người đói ăn được ngồi vào bàn ăn trước một đĩa thức ăn ngon lành. Và rõ ràng bà đang hưởng thụ trước trong tưởng tượng cái bữa ăn hiếm có bà sắp được xơi. Món ăn lạ kia ve vuốt tính nhục cảm của bà.

    Chợt lưng bà cong lên như một cánh cung và bằng cú nhảy bật mạnh, bà bám được đúng vào cành đậu của con vẹt. Con vẹt, thấy rõ mối nguy, bằng một giọng trầm và sâu, liền kêu to lên:

    - Jack, ăn sáng chưa?

    Câu nói đó làm con mèo hoảng sợ khó tả, khiến nó nhảy lùi về phía sau. Không có cái gì khiến con thú kinh hoàng như bị lăn từ trên vực cao xuống hơn thế, kể cả một hồi kèn trận rầm rĩ bên tai, kể cả một chồng bát đĩa vỡ cùng một phát súng lục bắn ghé ngay bên tai nó. Tất cả các quan niệm của nó về loài chim đã bị lật nhào ráo…

    - Ăn món gì nào? Ăn món thịt xào cho vua! – Con vẹt tiếp.

    Bộ mặt con mèo diễn tả rõ rệt ý nghĩ sau: “Đây không phải là con chim, đây là ông lớn đang nói! ”.

    “Khi ta uống chén rượu ngon lành.

    Đất strời liền đảo lộn xung quanh….”

    Con chim cất giọng hát chói tai, vì lúc này nó đã hiểu tác động của lời nó nói ra, đó là vũ khí phòng thủ tuyệt diệu của nó vậy. Con mèo ném về phía chúng tôi một ánh mắt dò hỏi và câu trả lời của chúng tôi không làm nó thoả mãn, nó liền chui vào gậm giường nằm suốt ngày, gọi cũng chẳng buồn ra nữa….

     Sáng hôm sau, bà Théophile, bụng dạ đã yên vì tự tin hơn, liền thử tấn công con vẹt một lần nữa, cũng bị đánh lui như bữa trước. Nó liền tự nhủ rằng, con chim kia chính là một con người vậy…

Con Kì Đà Nhồi Trấu

Một thời phái đầu bù chiếm lĩnh xã hội, thật khó tìm ra một hiệu cắt tóc. Hỏi thăm qua hai phường mới đến được nhà ông Thu. Ông có một chặng đời làm giáo viên, lương ba cọc ba đồng, không đủ nuôi sống gia đình đông con, phải thôi việc, chuyển sang nghề cắt tóc. Phòng cắt tóc tại gia của ông có giá sách cho khách xem, cho thuê và mua bán. Chưa đủ kiếm thêm, ông còn mua bán và trưng bày những động vật nhỏ nhồi trấu của rừng suối. Ngồi trên ghế cắt tóc, quay một vòng, khách được xem trên giá: cáo, chồn, rắn, trăn, khỉ, kì nhông, kì đà...Trước ghế dừng lại lâu nhất, chiếu ngay vảo mắt khách trong gương là con kì đà nhồi trấu da nâu đen hoa lang, có đầu cổ mình đuôi và tứ chi nguyên vẹn như sống. Bắt chuyện , tôi hỏi:

    - Con kì đà này, ông bán bao nhiêu?

    Ông điềm nhiên trả lời:

    - Ba vạn chín nghìn!

    Tôi nghĩ ông này có ý mỉa mai gì đây? Con kì đà chắc có chuyện gì chăng?

    Thấy tôi có vẻ băn khoăn, ông nói:

    - Giá bán thực thà đấy! Nói thách bốn mươi, nói bán ba chín. Cũng chỉ có ông Tây nào lai vãng tới đây mới chịu mua về làm cảnh. Có người bảo da kì đà làm thuốc Nam gì đó. Nhưng vẫn chưa có ông lang nào hỏi cả?

    Tôi lại hỏi:

    - Con kì đà sống, ông mua vào bao nhiêu?

    Ông khua kéo kêu lách cách:

     - Hai ngàn một kí. Con kì đà này 15 kg. Ba mươi rồi! Công lột da nhồi trấu sấy khô đánh thuốc và bán được chín. Chỗ lãi là thịt kì đà sào nấu ăn được!

    Tôi vẫn muốn tìm hiểu:

    - Thịt kì đà có ngon không ạ?

    Ông cười:

    - Biết cách nấu, ăn cũng ngon. Thịt nó vừa có hương vị loài bò sát vừa có hương vị loài cá. Người ta nói nó sống được cả trên cạn và dưới nước, thuộc họ lưỡng cư.

    Bỗng ông khua kéo ròn rã, giọng nói trở nên hứng thú:

    - Chà! Con kì đà sống trong rừng suối là một con thú cơ hội có sừng có mỏ ghê gớm! Tôi kể chuyện này, khách đừng cho là bịa đặt vì đó là câu chuyện của một giấc mơ. Chiều hôm mua con kì đà này ở chợ về, tôi đã tiến hành lột da nhồi chấu nó. Đúng là tôi đã thực hiện một bản án tử hình vậy. Số thịt lọc ra chế biến thành thức nhắm, cùng bầu bạn uống hết vài ba lít rượu làng Vân. Tôi say đánh một giấc mê man.

    Tôi vẫn chú ý nghe ông Thu kể tiếp:

    - Thoạt tiên tôi thấy cảnh trời nước hiện ra mênh mông như biển rộng sông dài. Phía trước cầu vồng bảy sắc. Phía sau nhài quạt tím quét lên trời xanh. Tôi đang đắm mình trước cảnh thiên nhiên ngoạn mục thì có một người mặc áo lính biển tự xưng là liên lạc của Thủy Tinh mời tôi xuống Long Cung. Tôi vui vẻ đi theo vào bụng cá heo pha lê có gắn động cơ phản lực. Chỉ chớp mắt đã vào điện ngọc lưu li giữa một quần tiên cá nhảy múa chào mừng trong sóng đàn gió sáo dặt dìu. Một người đàn ông mặc y phục vẩy cá muôn màu ngàn sắc. Đầu đội mũ thủ cá chép có hai vây xòe làm tai tựa cánh chuồn miện vương vua chúa. Ngài tự xưng là Thủy Tinh mời tôi ngồi sập vàng. Khay trà bạc khảm ngọc trai. Chén ốc óng ánh năm màu bày ngửa. ấm vàng khảm đồi pha trà Thủy tiên. Thủy Tinh giót mời:

    - Long Vương biết ông là người trần. Tuy làm nghề cắt tóc nhưng vốn là một nhà giáo có học thức, muốn giữ thiên lương mà về sớm để tránh hậu họa hổ đòi ăn thịt mèo. Hổ chưa kịp vồ thời mèo đã ở trên cây rồi! Song ông đã lột da nhồi chấu con kì đà xảo quyệt độc ác. Nó đã làm hại Thủy Tộc suối hồ hàng chục năm trời, đáng phạm tội chém đầu ở Thủy giới. Nay tôi rất hân hạnh, thay mặt Long Vương được vinh hạnh tiếp ông xuống chơi Thủy Cung, có lời cảm ơn và chúc ông hạnh phúc.

    Hôm qua cũng có mời cả ông đánh cụp

    trong hồ đã bắt được kì đà. Nhưng không thấy đến. Có lẽ vì ông ấy sợ cá trả thù chăng? Mỗi ngày mỗi cụp bắt vài mạng nhân ngư. Nghe nói ông ấy còn dùng thuốc nổ kíp mìn tàn sát Thủy tộc từ cái trứng trở đi. Trong cái xấu có cái tốt. Một cô cá nheo tham mồi vào cụp. Tiếc rẻ cô cá tơ, lão tham mồi kì đà rượt theo. Lẫy cụp bật. Lồng cụp sập xuống. Kì đà đã bị nhốt lại như tướng giặc bị cũi. Người đánh cụp bắt được kì đà, bán cho thợ phe cá. Thợ phe cá bán kì đà cho ông. Và ông đã tử hình nó theo ý trời. ý trời là ý dân. Dưới ánh sáng của Long Cung, ai làm việc nghĩa, dù ít dù nhiều, được trọng thưởng và nhớ ơn. Do đó ông đã vui lòng xuống chơi Thủy Cung, nghe chúng tôi tỏ bày lòng ái mộ người hiền.

    Tôi nói lời phúc đáp: “Cảm ơn!”. Uống xong tiệc trà thì sang tiệc cơm. Trên sập đồi mồi rát bạc, đệ vào mâm cỗ nửa nóng nửa lạnh, với trăm món hải vị nghi ngút hương thơm kích thích ăn uống. Nào là lõi càng cua bể luộc ăn khai vị. Thịt tôm hùm bóc nõn chưng sâm. Mực tươi mực khô nướng dòn. Các món á Âu về chim thu nhụ đé. Sò huyết tươi, cá gỏi nước mặn nước ngọt. Có cả món gỏi Nghìa Lâm Thao Phú Thọ tự thời các vua Hùng. Các thức huyết yến, bạch yến và chả nem chim đảo. Rượu các loại cổ kim không thiếu. Có cả rượu vang của ông Magienlăng bị thổ dân đánh chìm tàu ở vũng Philippin. Phải nói thủy cung là cái rốn tụ về mọi thứ thức ăn cao cấp hảo hạng của thế giới. Thủy Tinh cùng các nàng tiên cá tiếp tôi, cũng nâng lên, đặt xuống, cũng bù khú say sưa, ngất ngà ngất ngưởng. Sau mỗi lần cạn chén, lại cùng nhau “dô” lên một tiếng vang lừng Thủy Cung. Các cụ nói tửu sắc chả sai. Có tửu mà không có sắc thì giảm mất nửa độ khoái khẩu và niềm vui ăn uống. Tôi cáo đã say thịt rượu kì đà với bè bạn lúc chiều, nhưng vẫn cạn chén với Thủy Tinh và các nàng tiên cá chuốc mời. Lúc chuyếnh choáng, tôi nắm tay Thủy Tinh nói:

    - Ông khởi binh từ ngày biển tiến đánh Sơn Tinh, gây đại hồng thủy thế giới, cách đây 30 nghìn năm. Ông có gì hộ mệnh mà sống lâu vậy?

    Thủy Tinh cười tự hào:

    - Trong thế giới nước, tôi làm theo sức hút của Mặt Trăng với thủy triều lên xuống và vòng quay của Quả Đất từ Đông sang Tây. Tôi từng là học trò của vua Hùng nên nắm chắc luật cân bằng âm dương, giải quyết mâu thuẫn trong hòa đồng, do đó bất tử.

    Liếc nhìn các nàng tiên cá, khề khà tôi lại hỏi:

    - Thủy Cung muôn vàn người đẹp, phải nói là tuyệt mỹ. Cớ gì mà ông cứ phải tranh với Sơn Tinh để dành nàng công chúa Ngọc Hoa của chúng tôi?

    Thủy Tinh nắm chặt tay tôi:

    - Trần giới các ông có câu bụt chùa nhà không thiêng mà lị! Hơn nữa đều là con cháu ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ tôi muốn rể đi dâu về thắt chặt tình người biển người núi mãi mãi. Song từ nay, tôi đã đổi mới tư duy theo thời đại biển lùi, mở mang hồ nước trên ngọn núi, phát triển ngư dân vùng đầu nguồn, khai thác nguồn năng lượng của nước mà các ông gọi là vàng trắng, đồng thời để tránh lúc nổi giận ghen tuông làm lòa lụt đồng bằng...

    Tôi khen cả hai câu trả lời được. Cơm nước đã thỏa, Thủy Tinh dẫn tôi vào bụng cá kình trong suốt pha lê có gắn động cơ siêu tốc đến xem ca múa nhạc ở nhà văn hóa Long Cung. Hôm sau, chơi vườn san hô, đảo đồi mồi, và chiêm ngưỡng cột đá chêu sóng Thái Bình Dương, vũng sâu 11 km Mariana Philippin. Ngài còn mời tôi du lịch năm đại dương. Nhưng nhớ bà xã nhà tôi nên cáo lui về. Ngài cũng chiều.

    Hôm ra về, ngài tổ chức cuộc gặp gỡ các linh hồn cá và thân nhân của họ tại điện Ngọc Trai. Tôi ngồi giữa sập kim cương như một ông thánh chưa bằng. Các linh hồn cá tụ về đầy điện các. Tôm tép, đòng đong, cân cấn, cá cờ, mương, rói, rô, diếc, chép, trôi, trắm, chày, mè, nheo, chiên, ngạnh, trê, chuối, măng, nhồng, ngão, thiểu, rưng, vền...Cá lớn cá bé hết khóc lại cười. Họ vây chặt lấy tôi mà hô lời chúc tụng, lời cảm ơn. Thân nhân của họ tung ngọc sò như mưa sao lên đầu lên cổ tôi. Những vòng ngọc lưu li, những chàng hạt kim cương, bạc vàng, đá quí, liên tiếp khoác đầy cổ đầy vai. Họ coi tôi như người anh hùng cứu tinh được quàng vòng nguyệt quế chưa bằng. Thủy Tinh cũng khóc cười với họ, cũng không ngớt lời mừng tôi.Vợ yêu của ngài ôm một chùm phong lan bể tặng tôi và một mâm san hô năm màu cực đẹp. Bỗng ngài căm hờn, mắt nảy lửa kể tội ác của kì đà đã xâm phạm chủ quyền Thủy Phủ ngọn nguồn, vừa hại trăm ngư, vừa làm hư hỏng cả đội ngũ quản lí của ngài. Ngài dẫn chứng hùng hồn bằng bộ phim phóng sự băng hình Vidiocatset thu từ màn huỳnh quang vô tuyến điện tử viễn thông vũ trụ của nhà trời. Con kì đà hiện ra. Nó bơi như con thuyền lướt trên nước. Bốn chi có màng mỏng là bốn mái chèo kì tài. Đuôi dài lái tha thướt như đuôi trĩ cuộn sóng. Trên mặt nước xanh lưng nó xanh màu nước. Bụng trăng trắng lẫn màu trời sáng. Các loài cá nhỏ tưởng con thuyền có thể dựa, tới gần là nó đớp. Cá tầng dưới ngoi lên cạnh đấy nó liền bắt. Có khi nó giả vờ chết trôi chết nổi, xì ra mùi tanh và bọt nhãi váng nước. Mương rói lao xao tìm đến. Nó cất vó dốc vào miệng. Chán bơi nổi nó bơi chìm ở mọi tầng nước như tàu ngầm. Khi còn tuổi nhóc xuôi ngược nó nói:

    - Ta là cá mối vùng nước lợ lên chơi đây! Ai có thân nhân hãy đến nhận thư này!

    Có con cá nào đến là nó đớp.Chiên con tìm đường ra biển chưa biết nước lợ là gì, đến phỏng vấn, nó đớp. Lúc khác gặp đàn rồng rồng trăm ngư nó lại nói:

    - Các bạn học sinh trăm họ thân mến! Anh là con cá thời nguyên sinh cổ đại về đây! Nếu muốn biết loài cá biến thành loài bò sát như thế nào hãy đến nghe anh diễn thuyết!

    Nhiều mương rói thích chí, há mồm hóng chuyện hươu vượn, không cảnh giác, nghe theo, nó xơi tái. Bơi trong nước nó bàng bạc như nước. Bò trên mặt bùn nó đen trũi như bùn. Nó nằm im trong bùn chờ các loài cá ăn ở tâng đáy như rưng diếc chiên ngạnh trê tới là nó phóng ra đớp. Để chống lại chuối măng tranh mồi, nó quẫy đuôi lầm bùn như tung hỏa mù mà lẩn thoát. Có lần kì đà chòi bị ngũ ngộc chuối bắt đem hành hình, nó ngạo mạn nói:

    - Các người muốn sống phải thả ta ngay! Ta là con của cá sấu đây! Ta gọi bố đến thì các ngươi cái vẩy không còn!

    Ngũ ngộc chuối coi bộ nó hao hao giống cá sấu, sợ tái mặt, vội nhả ra. Được thể, nó càng lên mặt chúa sơn lâm của vùng nước. Đến tuổi ngộc, kì đà mỗi lần xuống nước là xưng danh:

    - Ta là cá sấu của núi. Ngài Thủy Tinh cử ta chuyên thanh tra công việc chấp hành luật Long Cung của Hà Bá và trăm ngư!

    Những đàn cá vô chính phủ sợ cuống vây, xin cúng mạng cho nó. Nay biếu con trắm cỏ. Mai biếu con chép vàng. Kia hối lộ con trôi tơ. Kìa quà cáp con mè bạc. Cứ thế nó lấy oai cá sấu mà trị dân. Trong đám vô chính phủ, có ngọc sộp bất phục tùng. Sộp gửi thư nặc danh tố cáo kì đà lên Hà Bá. Hà Bá phái Thuồng Luồng thanh tra bắt trị tội kì đà. Nhưng lạ thay, kì đà hớn hở bơi đến hôn hai chi trước Thuồng Luồng:

    - Bác kính mến! Con là kì đà có chung cụ tổ với bác. Lão sộp tranh mồi nhái với con, ghen ăn tức ở, xin bác trị tội nó. Con như thế này sao dám phạm thượng được!

    Thuồng luồng thấy kì đà có dạng bò sát như mình cho là có họ hàng liền tha tội. Quay ra bắt chuối sộp nộp cho Hà Bá. Chuối sộp bị Hà Bá kết tội ăn thịt cá con và vu khống cho kì đà đã vốn là bạn của nước có công diệt nhái. Thế là sộp bị lên thớt làm gỏi. Tin sộp bị tử hình khiến cho bọn cá ăn thịt cá càng sợ uy của kì đà. Từ nay có dù che của Hà Bá và Thuồng luồng, kì đà càng lên mặt hơn nữa.

    Tháng bảy đến. Mưa to nước lớn. Thủy Tinh cất quân đánh Sơn Tinh để trả hận thù xưa. Cá sấu được huy động lên núi chiến đấu. Chuối ngộc đi đón cá sấu tận ngoài cửa sông:

    - Con xin báo cáo với ngài! Trên nguồn có một con kì đà đã giả mạo là ngài để áp bức trăm ngư, làm tổn thất uy tín thanh danh của ngài. Xin ngài trừ khử nó. Hơn nữa trong cuộc chiến này, nó là một phần tử lợi hại, vừa ở cạn vừa ở nước, nó sẽ làm thám báo cho Sơn Tinh thời rất nguy hiểm. Cá sấu tức lộn cả ruột, lao gấp vượt dòng ngược thác theo chuối ngộc lùng bắt kì đà. Không ngờ kì đà đã leo cây bắt khỉ con và chim non làm quà, phóng theo dòng chảy để đón cá sấu. Nó nói:

    - Kính chào bác cá sấu! Con là kì đà có chung cụ tổ bò sát ở nước với bác. Nay bác lên! Con mang quà đặc sản của xứ núi xin biếu bác! Lão chuối ngộc tranh mồi ngóe với con, ton hót bậy, xin bác đừng nghe!

    Nhìn kì đà cũng hao hao hình dạng họ hàng, cá sấu hết giận, nó quay về đớp chuối ngộc ăn kèm với khỉ và chim ngon ơi là ngon! Cá sấu nhận kì đà làm liên lạc dẫn đường lên ngọn suối đầu khe để chống Sơn Tinh. Nhờ vậy, cá sấu vượt rừng leo núi, vào hang bắt sạch cáo, chồn, kì nhông, sóc, chuột núi, qua đồng cỏ săn hươu, nai, khỉ, gà rừng, cun cút... xơi tái không biết bao nhiêu là sinh mạng của thần núi. Sơn Tinh cử chúa rừng hổ xám săn bắt cá sấu. Cá sấu chạy thục mạng về hồ. Kì đà bị hổ vồ hụt, leo lên cây cao nói:

    - Xin chúa sơn lâm xét lại! Con là kì đà chuyên ở cạn thần dân của chúa! Con bị cá sấu bắt làm tù binh. Cớ chi chúa lại vồ con? Cũng may là con học được miếng võ trèo của thầy mèo rừng!

    Hổ xám cũng là trò của mèo nên nguôi gầm thét:

    - Lần này tao tha. Nhưng mày phải làm gì để chuộc tội?

    Kì đà tươi tỉnh đáp:

    - Dạ! Con có thể xuống nước do thám Thủy Tinh. Con sẽ thông tin cho chúa rừng rõ tình hình của địch. Và sẽ biếu chúa món quà đặc sản của nước.

    Quả nhiên hôm sau kì đà từ dưới hồ lên nói:

    - Xin báo cáo chúa rừng! Đêm qua mưa lớn. Thủy tộc đã đưa hàng vạn quân lên hồ. Tại ngư phủ, Hà Bá, Thuồng Luồng, Cá Sấu đang bàn xin Thủy Tinh chi viện để tiến công núi vào một ngày gần đây!

    Được bọn cá vô chính phủ cống nạp con chép đỏ, kì đà dâng lên chúa rừng:

    - Lũ chép vượt đập. Con bắt được một con chép đỏ xin biếu chúa làm bữa điểm tâm!

    Hổ xám vồ chép đỏ bỏ miệng nhai ngốn ngấu. Chén xong ngài thòm thèm giục:

    - Xuống hồ ngay! Bảo Hà Bá đem Thuồng Luồng Cá Sấu lên nạp mạng. Có Thủy Tinh lên phải về báo cáo gấp. Nhớ mang theo cho tao một con chiên mập.

    Kì đà dạ ran nhảy xuống hồ. Nó bơi đến hôn chân Thuồng Luồng Cá Sấu xu nịnh:

    - Con hùm xám vẫn rình các bác trên bờ. Tất thời đồng cỏ phía tây nó bỏ ngỏ. Các bác xin được mưa lớn đêm nay ở vị trí ấy. Ta sẽ lên làm cỏ bọn quân dân Sơn Tinh.

    Thuồng Luồng Cá Sấu cho là phải yêu cầu Hà Bá điện cho Thủy Tinh. Thủy Tinh cử rồng đen lên làm mưa lớn từ giờ dậu đến giờ tí. Đồng cỏ chìm trong nước. Thuồng Luồng Cá Sấu đưa quân lên bắt sạch châu chấu cào cào giun dế ếch nhái chuột bọ hươu nai chạy không kịp, chết đuối, làm mồi cho cá vô kể. Trứng và chim non sặc nước, cá tha hồ liên hoan còn đóng thành bè đưa ra suối về hồ. Lúc ấy vào giờ sửu. Quân Hà Bá thắng to. Kì đà bò lên báo Sơn Tinh thì đã muộn. Nó nói:

    - Thưa chúa rừng! Thua ván này ta bày ván khác. Ngày mai ngài cho phục kích ở khe phía nam cửa hồ. Thế nào ngài cũng thắng lớn. Khi quân Thủy Tinh vào đầy khe, ngài cho chắn đăng phía dưới. Đơm rọ vào cửa đăng. Phía trên ngài cho trâu bò rừng xuống dồn. Quân Thủy Tinh chạy vào đầy các rọ!

    Hổ xám cho là phải, khai triển ngay kế hoạch. Kì đà xuống hồ phao lên rằng:

    - Trâu của Sơn Tinh mắc bệnh dịch tễ chết đầy khe!

    Hà Bá lùa quân lên lấy thực phẩm đen kịt lòng khe. Thế là bị chúa rừng bắt hàng ngàn quân.

    Một hôm chúa rừng ra khe phía Bắc hồ đón tin tức của kì đà. Ngài đi thật sớm. Vợ ngài nhắc:

    - Anh hãy xơi cái mông bò tươi đi đã!

    Ngài đáp một tiếng gầm rợn gai núi:

    - à uôm! Ta để bụng đói để ăn thịt con cá chiên mập cơ!

    Đến nơi, ngài ngồi chầu trên phiến đá dưới bóng cây. Mặt trời lên ngọn cây cổ thụ, kì đà vẫn chưa mang cá chiên lên. Ngài đói hoa cả mắt, vừa ngồi vừa ngáp ngủ. Đến khi mặt trời đã xuống bên kia núi, đói quá ngài lăn ra làm một giấc, ngáy khò khò như sấm. Lúc bấy giờ kì đà mới bò tới. Ngài đánh hơi rất tinh vùng dậy gầm quát:

    - Cá chiên đâu? Tao chờ mày đói hết hơi rồi!

    Kì đà sực nhớ lời hứa lần trước. Nó chắp hai chi trước vái ba vái thản nhiên thưa:

    - Con vẫn chưa tóm được cá chiên dâng chúa. Vì Hà Bá tập trung cá chiên luyện tập chuẩn bị tấn công bắt sống chúa. Sở dĩ con lên muộn vì phải nghe bài giảng chính trị của Hà Bá cho quân đoàn chiên ngạnh quất. Hà Bá nói là phải bắt được chúa để lấy xương nấu cao hổ cốt dâng vua Thủy Tề. Lấy phổi để chữa ho hen cho trăm ngư. Lấy râu cắm măng tre để lấy ròi làm thuốc độc giết trâu bò rừng. Lấy da chống chó sói. Lấy vuốt làm đồ trang sức và phòng bệnh cho công chúa mới sinh của Long Vương. Vậy xin chúa gắng chờ hôm nào họ xung phong lên núi, thời chúa sẽ được một bữa thoải mái xơi thịt cá chiên.

    Nghe nói chúa rừng vừa lo vừa mừng. Nhưng cơn đói bụng vẫn không nguôi , lại thét gầm:

    - Chờ đến hôm đó tao chết đói rồi! Bây giờ tao ăn thịt mày.

    Chúa rừng vung đuôi quật xuống đất định vồ, kì đà vẫn vui vẻ đáp:

    - Chúa rừng ăn thịt kì đà cũng được thôi! Nhưng chỉ sợ chúa đau bụng chết vì con có mật độc. Vả lại thịt kì đà rất tanh không ngon bằng thịt mương rói dưới suối. Mương rói tuy bé nhưng bổ đáo để. Chúa muốn ăn một thúng cũng có ngay. Xin mời chúa quá bộ xuống khe.

    Hổ xám vừa đói vừa khát đi theo kì đà. Kì đà biết rằng mỗi lần hổ gầm, mùi thối ở mồm vung ra như cóc chết. Chả là hổ ăn thịt chẳng chịu xỉa răng. Tới khe, kì đà yêu cầu chúa đằm xuống nước như trâu đằm. Há mồm ngâm trong nước. Nước mát thấm vào da chúa sinh dễ chịu như cây khô gặp nước tươi lại. Nước lùa vào miệng hổ rồi chảy ra. Mương rói đánh hơi thấy, lao xao bơi đến ùa vào miệng hổ rỉa đớp. Hổ để cá con xỉa răng càng thấy dễ chịu, càng há to mồm và ngâm càng lâu. Đến khi đã có một mồm đầy mương rói, kì đà hớn hở nói:

    - Xin chúa mím miệng lên bờ, nhe răng hở môi cho nước chảy đi mà ăn cá!

    Hổ xám làm theo. Thế là được vô số cá nuốt vào dạ dày. Cứ vậy hổ xám lại ngâm mồm trong suối để ăn mẻ cá nữa cho đến no thì thôi. Chúa rừng nghĩ:

    - Cái thằng kì đà ma quỉ thật! Thế này thì ta vừa được tắm mát, vừa bớt hôi mồm, vợ càng ưa hôn mà lại tiêu diệt sinh lực của Thủy Tinh và bổ dưỡng sức chiến đấu cho ta. Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh là thế này chăng? Khá thật kì đà!

    Cứ thế suốt mùa mưa. Kì đà thám tử tham mưu cho cả Sơn và Thủy rất gian ngoan, lợi hại. Thành ra lên cạn nó có dù che của núi, xuống suối hồ nó có dù che của nước. Chiến tranh kết thúc, cá sấu về biển. Nó lại càng bạo ngược. Bây giờ nó tính chuyện không mất gì mà làm bá chủ thiên hạ. Giầu quyền giàu của cỡ tỷ phú rừng suối. Nó dùng săn sắt cá cờ nạp mạng để nuôi cá chuối. Nó buộc cá chuối săn bắt mương rói cống nạp để nuôi nhồng măng. Nó buộc nhồng măng săn lùng đòng đong cân cấn cống nạp để nuôi cá ngão. Cứ thế nó sai bảo được tứ hổ hung thần của suối hồ. Hễ con cá nào thành tinh thành tướng, tranh hùng là nó khử. Không khử được, nó liên minh với rái cá tiêu diệt. Trăm ngư được nó ban ơn, sinh ra lòng sùng kính kì đà như một vì phúc tinh. Chưa có con cá núi nào đủ chữ hiểu ra rằng nó lột vẩy kẻ khác đắp cho mình, lột vẩy mình đắp cho kẻ khác. Còn nó ăn trên ngồi chốc, chỉ tay năm ngón, không mất vốn tốn lãi gì. Thậm chí không một chữ trong đầu mà nó có cả thiên hạ. Dân cá suối hồ hao hụt. Nó bày cho Hà Bá báo cáo láo chim chả rái cá bắt. Dân cá khổ quá nhân cửa đập mở, hoặc mưa to tràn đập trốn ra sông bể. Nó làm như thủy cung không tính toán gì được sự hơn thiệt trong lẽ cân bằng sinh thái.

    Thủy Tinh nói:

    - Có lẽ con kì đà vô học ranh ma này đã đến ngày trời điểm huyệt tử. Do đó mới chịu tham mồi chui vào cạm cụp. Phúc lành cho 70 đời dân cá mạn ngược chúng tôi.

    Tôi nói:

    - Những kẻ giàu bao giờ cũng tham. Những kẻ tham bao giờ cũng ngốc. Giàu tiền tham tiền, giàu của tham của, giàu quyền lực tham quyền lực, giàu quyền mưu tham quyền mưu. Tham thì thâm. Tất yếu sẽ ngốc vì không lường được mình tự lao thân vào cạm bẫy đã bầy đặt của tạo hóa. Tôi đã lột da nhồi trấu kì đà là phù hợp với lẽ tự nhiên những kẻ tích ác được ác!

    Muôn linh hồn cá và thân nhân của họ vây vỗ vang lừng. Thủy Tinh trịnh trọng nói:

    - Tôi thay mặt Long Vương và thủy tộc xin thành thực cảm ơn ông đã trừ diệt kẻ thù cơ hội của thủy tộc bằng một hình luật thích đáng lột da nhồi trấu làm bù nhìn cảnh cáo ở cõi đời cho mọi người thấy tính cách xảo quyệt vụ lợi và tội ác của nó. Để ghi nhớ ơn, Long Vương tặng ông cả một điện ngọc trai này về cõi trần làm kỉ niệm.

    Tôi nói lời phúc đáp cảm ơn. Còn quà thưởng xin lưu lại. Bởi cố mang về cõi trần thì quê hương thành sông hồ biển cả. Tôi nhận tấm lòng của thủy cung cao quí hơn tất cả những gì nước muốn dành cho đất. Thủy tộc lại vây vỗ lừng vang. Thủy Tinh cùng trăm ngư rẽ nước dẫn tôi lên bờ. Một đàn cá chép xanh đỏ trắng vàng tím xếp thành chữ họ tên tôi nhảy lên không trung chào tống biệt tôi lần cuối.

    Vừa đặt chân lên đất cạn. Bỗng phía sau từ nước, ếch nhái nhảy theo lên bờ ào ào. Phía trước từ núi đồng, nhái ếch nhảy tới ầm ầm. Tất cả phô yếm trắng phập phồng. Đôi mắt tròn thi nhau giương lên thô lố. Cặp đùi dế thi nhau khoe mập mạp. Con chầu lưng gù gù. Con bò lưng lổm ngổm. Con đứng lên bằng hai chi dưới, hai chi trên ôm lấy thân tôi. Hết con này đến con khác nhảy lên bám lưng bám ngực và ngồi trên vai tôi. Nào là ếch đá ếch đất ếch núi ếch đồng ãnh ương chẫu chuộc nhái bén um oam chẽo ngóe cóc cộ đen vàng nâu tía...Lạ thay họ nhà cóc nhái cũng khóc như mưa. Mắt mắt lệ lệ ngọc ngọc rơi muôn hạt lóng lánh quanh tôi. Hết khóc họ nhà nhái lại cười. Ai nấy lớn bé đều một cái miệng ngoác đến tận chân mây. Tiếng cười râm ran như sau trận mưa đêm tháng tư ngoài đồng trong ao mà họ nhà nhái hội tấu. Bỗng im bặt. Một cóc cộ da sần sùi còn vết bôi vôi, ngồi trên bàn tay tôi ngẩng đầu thưa:

    - Coọc coọc! Kính ông! Họ nhà chúng con đón chờ ông ở đây để bày tỏ lòng biết ơn. Ông đã cứu linh hồn chúng con thoát cái bụng tăm tối của kì đà. Con là cậu của ông trời. Thiên Đình có thiếp mời ông lên chơi!

    Cóc cộ đưa cho tôi tờ thiếp có hoa văn mặt trời trăng sao:

    “Ngày 20 tháng10 năm 1989.

    Kính gửi ông Lê Thu nước Việt Nam Địa Cầu.

    Qua màn ảnh vô tuyến viễn thông vũ trụ , nhà trời đã biết ông lột da nhồi chấu con kì đà gian ác. Việc làm đó phù hợp đạo lý của trời đất. Thiên Đình kính mời ông lên chơi và nhận Huân chương chiến công diệt ác của vũ trụ năm 1989. Thiên Đình rất hân hạnh được đón tiếp ông.

    NgọcHoàng”

    Cóc cộ nói tiếp:

    - Coọc coọc! Lạy ông! Cháu trời có dặn con bằng giá nào phải mời và đưa ông lên sớm ạ!

    Tôi không dám trái lệnh trời. Vừa đi theo cóc cộ và họ nhà nhái lên mây. Không rõ lên trời bằng cách nào? Chỉ nghe thấy tiếng ù ù gió thổi. Chớp mắt tôi đã ngồi trong lầu khách của Ngọc Hoàng. Đó là một cái lầu trong suốt như pha lê. Trên salong làm bằng ánh sáng, tôi ngồi đối diện với ông trời. Ngài đúng là một người ngọc tỏa ánh hào quang rực rỡ và êm dịu. Tóc râu ngài trắng như mây tuyết. Mặt ngài đỏ như mặt trời mọc trên biển cả. Biết tôi là người Lạc Việt, ông trời cho mời công chúa Tiên Dung và chàng Chử Đồng Tử cùng tiếp tôi cho thêm phần thân mật ấm cúng. Hai người vẫn trẻ trung như trong truyền thuyết. Vẻ kiều diễm của nàng và điển trai của chàng đúng là con cháu chưa tưởng tượng hết được. Hai người rót trà thiên tiên mời tôi và Ngọc Hoàng. Khi Tiên Dung mời tôi thì Chử Đồng Tử mời Ngọc Hoàng. Khi Chử Đồng Tử mời tôi thì Tiên Dung mời Ngọc Hoàng. Tôi có ngờ đâu một gã cắt tóc như tôi mà trở thành thượng khách của nhà trời. Tôi cảm thấy vô cùng vinh dự và hạnh phúc, làm cháu con được gặp gỡ ông bà tổ tiên và người đứng đầu vũ trụ ngoài sức tưởng tượng. Phải nói là Thiên Đình tràn ngập ánh sáng tinh thần dân chủ bình đẳng bác ái. Lúc đầu tôi e ngại vì sợ có hành vi phạm thượng, thời Ngọc Hoàng nói:

    - Ông cứ tự nhiên như ở nhà. Đại thi hào Tago đã nói rồi !

    Tôi thưa:

    - Vâng! Tôi có nhớ câu: “Đã mặc áo gì cứ thế mà đến” và “ Trong sân chầu vũ trụ mỗi ngọn cỏ cùng ngồi với mặt trời mặt trăng!”

    Công chúa Tiên Dung thỏ thẻ nói với chồng:

    - Anh thấy chưa? Con cháu sau 4.000 năm còn giữ được tinh thần của anh đó!

    Chàng Chử Đồng Tử mỉm cười:

    - Tinh thần đó bắt đầu tự ở em!

    Tiên Dung vẻ tự hào với Ngọc Hoàng, mời thưởng tôi chén trà ngào ngạt hương vị thiên liên. Và hỏi nhỏ:

    - Dưới nhà còn bệnh gia trưởng phải không?

    Tôi se sẽ đáp:

    - Dạ!

    Công chúa có thoáng nét mặt buồn trên môi và ánh mắt.

    Ngọc Hoàng trịnh trọng nói:

    - Thưa ông ! Nhà trời rất phấn khởi và hân hạnh được tiếp ông lên chơi. Vừa qua ông bận tiếp khách nhiều ở hạ giới. Nhưng đã không ngại lên chơi nhà trời. Thiên Đình đánh giá cao hành vi có ý thức làm theo ý trời của ông, đã xử tử tên kì đà cơ hội ở trần gian. Do đó nhà trời rất vui mừng, khuyến khích, đã quyết định tặng ông huân chương như đã nói và lưu ông một tháng du lịch Thiên Cung. Hôm về hạ giới , nhà trời cử lễ trao tặng huân chương và mít tinh tống tiễn. Bây giờ mời ông dự bữa cơm dưa muối với nhà trời.

    Tôi có lời cảm ơn vừa dứt. Bỗng chớp nhoáng như có hiện tượng bật tia lửa điện. Tôi và Ngọc Hoàng cùng các vị quan khách đã có mặt trong phòng ăn. Quả là cỗ bàn chưa từng có ở trần gian. Người ta nói chín phương trời mười phương đất là có thực. Mỗi mâm ăn bưng ra một món của một phương trời, một phương đất. Từ cái bát, đôi đũa cái thìa đều có nét hoa văn và sắc màu riêng của phương ấy. Người đầu bếp phải giới thiệu xuất sứ, giá trị và cách ăn từng món. Ăn món nào thì người đầu bếp bưng ra món ấy theo một trình tự khoa học vệ sinh ăn uống hợp khẩu vị. Thành ra ăn được nhiều mà không thấy chán. Tôi nhớ nhất những món ăn lạ và càng nhớ những món ăn quen.Nghe giới thiệu , tôi đã ăn chả trâu ướp tỏi chế biến từ sao Ngưu. Thịt vịt hầm và trứng tráng của sao Vịt. Mầm đa sào của cung Trăng. Thịt chuột vàng quay tẩm gừng của sao Hỏa. Tim hổ chưng sâm của sao Sâm. Rêu tảo hấp của sao Kim. Gà ri luộc lá chanh của thiên hà số 9. Dê tái của thiên hà số36 tỷ. Giò lợn của Trái đất ngoài Ngân Hà...Món ăn của Trái Đất thuộc Ngân Hà có pít tết thịt bò của Anh Quốc. Bánh mì pa tê của Pháp Quốc. Súp khoai tây của Nga La Tư. Bánh bao Thượng Hải. Nem của Việt Nam...Biết tôi nhớ nhà, công chúa Tiên Dung nói thầm với người đầu bếp: “ Tìm chợ trời cho một đĩa rau muống luộc với quả cà dầm tương! “Chỉ một ánh chớp, người đầu bếp có ngay món đó dâng lên tôi. Tôi cảm động ứa nước mắt. Lúc ăn uống xong, tôi mạnh dạn hỏi công chúa mới được biết ở nước nhà có món gì thì ở trời có món ấy. Măng đắng, rau má, rau sắng chùa Hương , rêu đá Nha Trang...đều có. Chỉ có đắt vì của không trọng bằng công. Một đĩa rau muống như tôi đã ăn tính ra tiền Việt Nam 500. 000 đồng. Tôi nghĩ mà xót ruột. Song không lo bởi có trời bao tất. Chớp nhoáng tôi đã thấy mình ở phòng trà. Vừa uống trà được một chén thứ trà thơm của thiên hà thứ 360 thì chớp nhoáng tôi đã ở phòng ăn hoa quả. Hoa trái của mười phương đất gửi tới. Có hàng vạn thứ quả khác nhau về hình thù, hương vị, màu sắc, đậm nhạt, chua ngọt, bùi ngon...Chớp nhoáng tôi đến phòng uống rượu cất từ mười phương Đất. ở trời ăn riêng uống riêng không tạp nham như hạ giới. Chớp nhoáng tôi đã ở phòng ngủ. Nằm trên đệm không khí. Đầu đặt trên gối mây và đắp chăn mây mỏng màu cầu vồng bảy sắc. Chớp nhoáng tôi đã tham quan các phòng làm việc của Thiên Đình. Mỗi người một máy vô tuyến truyền hình vũ trụ. Cần liên lạc với người sao Hỏa, bấm nút là thấy nhau trên màn ảnh và trò chuyện với nhau. Nhà trời làm việc cả vũ trụ đều thấy qua các kênh ti vi. Chớp nhoáng tôi đã họp báo và lên vô tuyến truyền hình vũ trụ. Trời có ti tỉ tờ báo ngày báo tuần và ti tỉ kênh ti vi thông tin toàn vũ trụ, liên lạc với bất kì đâu. Chớp nhoáng tôi đã tham quan viện bảo tàng nhà trời, biết hết lịch sử vũ trụ của Ngọc Hoàng quản lí với ti tỉ thiên hà có không, không có. Và các nền văn minh chói lọi trong vũ trụ với loài người thông thái ngoài Trái Đất. Tất cả vũ trụ hiện ra đại thể và chi tiết trong màn hình không gian bốn chiều. Đến một con kì đà bắt một con cá nhỏ cũng hiện ra mồn một. Thế giới vô hình thành có hình. Vì thế mà người trời kiểm soát cả vũ trụ. ở hạ giới có câu: “Trời có mắt” cũng vậy. Trong 10 quả đất ở 9 thiên hà, có quả đất thứ 10 chưa tôn trọng luật cân bằng sinh thái, chưa có hòa đồng, con người và con vật còn xâu xé nhau như chó sói với cừu non. Nơi này có nhiều kì đà nhất trong vũ trụ. Nhoáng cái nữa tôi đã ở thăm các trường đại học của nhà trời đào tạo các nhà khoa học, các nhà nghệ sỹ cho chín phương trời mười phương đất mà ở ấn Độ gọi là phật mười phương. Tôi được giới thiệu cụ tổ Lạc Long Quân đã tốt nghiệp ở đây, đã từng về Việt Nam sau này đời hiện ra là Hùng Vương, đời hiện ra là Tản Viên, đời hiện ra là Thánh Gióng, đời hiện ra là Rùa Vàng. Cụ đã làm luận án tiến sỹ cấp 3 thành công về đề tài “Tứ bất tử đời đời hiện thân giữ nước dựng nước Việt Nam”. Hiện nay cụ đang làm việc trong viện cơ mật của nhà trời. Nhoáng cái nữa tôi đã thăm cột chống trời cao dài dọc chín tầng mây chín thiên hà các hướng Đông Tây Nam Bắc. Cột làm bằng các hạt cơ bản cực mạnh nhằm cân bằng vũ trụ tránh các sự cố các thiên hà nuốt lẫn nhau, các hành tinh va chạm bắn phá nhau. Các hành tinh, các thiên hà xoay quanh cột chống trời của nơi mình. Ví dụ cột chống trời Bắc Nam thì Quả Đất của ta xoay quanh nó từ Đông sang Tây. Tôi có nguyện vọng thăm hết các làng các phố người Việt Nam ở Thiên Cung. Nhưng phải mất năm năm. Thành ra chỉ được gặp cụ Nguyễn Trãi và cụ Hồ Chí Minh trong một phút. Hai cụ đang bàn bạc với nhau trước màn hình vô tuyến viễn thông về Việt Nam. Thấy tôi chào, cụ Nguyễn Trãi dặn:

    - Con trở về nói với đồng bào rằng:

    Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược

    Có nhân có trí có anh hùng.

    Cụ Hồ cũng dặn:

    - Chú về nói với cả nước là: “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Làm sao cho dân ta có việc làm, cơm áo và chữ” !

    Nhoáng cái tiếp tôi đã đến ngày hồi hương. Nhà trời tổ chức lễ trao tặng Huân chương và mít tinh tiễn biệt tôi. Quảng trường rộng vô biên. Người trời các hành tinh xem vô tuyến truyền hình vũ trụ bộ phim phóng sự: “Con kì đà của Quả Đất” có quan hệ với việc làm của tôi như đã kể. Song có những mảng hình ảnh mới. Bây giờ tôi thấy là lần đầu.

    Một hôm trời lạnh. Đá đổ mồ hôi. Kì đà mỏi mệt không ra khỏi hang. Đói mèm. Nó nằm thò đầu ra cửa như chờ sung rụng vào miệng. Cóc cộ nhảy qua một cách nhọc nhằn. Lưng gẫy gập xuống, miệng kêu coọc coọc đau đớn. Chả là từ ngày cóc thăm chuột trên cây cao bị ngã thành tật nguyền. Vẻ hào hiệp , kì đà ngóc đẩu lên lè lưỡi chẽ đôi nói:

    - Cụ cóc cộ ơi! Tôi có thuốc chữa được bệnh của cụ đó. Mời cụ vào chơi. Tôi biếu cụ bài thuốc tự chữa và liều thuốc sẵn có. Bài này chỉ cần bấm huyệt ở lưng, nhổ bão ở cột sống là khỏi ngay tật gù. Uống mấy con nhộng cây rừng là khỏi đau ê ẩm!

    Cóc cộ hơi chột dạ. Nhưng biết mình có gan độc và dấu bôi vôi thiềm tố nguy hiểm sẵn sàng trừng trị kẻ nào làm hại cóc. Nên vững tâm coọc một tiếng nhận lời vào chơi. Kì đà bưng một hòn đá vuông thành sắc cạnh nói dối là hộp thuốc, giả vờ đánh rơi giáng mạnh xuống đầu cóc cộ. Thế là gục xuống bẹp đầu thè lưỡi ra ngoài. Kì đà dùng cạnh sắc của hòn đá chặt bỏ đầu, lột da rất khéo không rây tí nhựa trắng nào, lấy ra cái thân thịt cóc cộ, moi bỏ lòng gan, rồi nhai ngọt sớt như đường. Kì đà hèm một tiếng khoái chí nói:

    - Món pờ rô tit thiềm cực bổ với trẻ thơ và người già đây! Thuốc thiềm quả là có hiệu lực!

    Sáng hôm sau, kì đà khỏi mệt lao ra ngoài hang săn bắt lùng sục. Nó phát hiện ra ếch đá trên núi liền dồn đuổi. Ếch đá nhảy từ núi xuống đồng thung. Kì đà tụt nhanh xuống rượt theo. Ếch đá lặn xuống kênh nước lủi đi. Kì đà lặn theo truy lùng. Ếch đá nhảy thia lia trên mặt hồ. Kì đà phi thuyền theo. Ếch đá hụp xuống chui vào bùn. Kì đà sục đáy hồ tìm. Nước vẩn lên đục lòm. Ếch đá nhảy qua đập rơi tõm xuống suối. Kì đà leo qua đập nhảy ùm theo. Ếch đá chuồn theo dòng chảy. Kì đà bám hậu. Ếch đá lẩn ngược dòng. Kì đà cũng quay theo. Ếch đá nhảy lên bờ tạt vào vườn rừng. Kì đà leo lên theo đuổi đến kì cùng. Ếch đá nhảy phốc qua đám cỏ rơi bụp xuống một cái giếng cạn sâu hun hút. Kì đà vụt theo cùng rơi xuống giếng như trời giáng. Ếch đá va đầu vào hòn đá đau điếng ngất xỉu. Cóc tía bị sa đáy giếng đã lâu chưa lên được. Thấy vậy , kêu cấp cứu oọc oọc eẹc eẹc vang đến trời. Ông trời sai Thiên Lôi xuống cứu cậu, giết kì đà. Đứng trên bờ giếng, Thiên Lôi quát ra sấm sét kinh hoàng:

    - Con kì đà gian ác kia! Trời có lệnh xử tử mày!

    Thiên Lôi vung lưỡi tầm sét tóe tia lửa điện. Cóc tía sợ chớp lóe, hai chi ôm che mắt. Miệng nghiến răng eẹc eẹc kêu chết lây. Thiên Lôi dừng tay quát:

    - Kì đà lên ngay!

    Nó ngoác mồm nói:

    - Tôi không ăn thịt cóc tía! Gan cóc tía rất độc! Tôi thấy ếch đá lâm nạn. Tôi có biết giếng sâu khó lên. Nhưng cứ liều mình cứu bạn. Cứu người khổ thân. Làm phúc phải tội thế này sao?

    Thiên Lôi nghe nói cũng mủi lòng, tạm hoãn bổ búa để lo cứu cậu ông trời cái đã. Thiên Lôi thả dây xuống cho cóc tía cắn vào đầu dây, tứ chi ôm xác ếch đá, từ từ kéo lên. Sơ cứu xong, Thiên Lôi quay lại vung lưỡi tầm sét đánh kì đà. Một tiếng nổ dữ dội. Năm quả cầu lửa từ miệng giếng vụt lên. Khói bay khét lẹt. Khi khói tan, trong giếng chỉ có một hòn đá cuội. Thì ra kì đà đã lợi dụng thời cơ vắng mắt Thiên Lôi đã nhanh chân leo lên chuồn thẳng. Thiên lôi buồn bã đưa ếch đá về bệnh viện nhà trời chạy chữa. Xem lại băng hình camera nhà trời quay được, Thiên Lôi biết mình để sổng kẻ thù xin chịu kỉ luật tội chết. Ông trời xem xét Thiên Lôi có công cứu cậu cóc tía và ếch đá nên tha cho. Để Thiên Lôi chỉ đâu đánh đó được chính xác ông trời phát cho vũ khí mới súng lade thay búa bổ.

    Trong phim còn có thêm hình ảnh tôi mua kì đà lột da nhồi trấu. Sau là cảnh hội đồng thi đua nhà trời họp ra quyết định tặng tôi huân chương diệt ác năm 1989. Bộ phim có ý thuyết minh lí do tôi được trời tặng huân chương và phơi trần tội ác của kì đà đã cơ hội tích ác được ác. Tiếp theo bộ phim là lễ trao tặng huân chương. Ông Nam Tào Bắc Đẩu đọc quyết định. Ngọc Hoàng trao tặng và ôm hôn tôi nồng nhiệt trong tiếng vỗ tay như sấm động và pháo hoa như mưa sao trên không trung. Ngực tôi chói lọi huân chương 9 cánh sao vàng tượng trưng cho 9 phương trời và bông hồng 10 cánh tượng trưng cho mười phương đất. Tất cả đều làm bằng ánh sáng. Trong buổi lễ tất nhiên là tôi phát biểu cảm tưởng cam ơn nhà trời đã dành cho tôi niềm vinh dự quá lớn, mà thành tích của tôi chưa xứng được như vậy. Sau đó là đại biểu người Việt Nam ở Thiên Cung đến chúc mừng và tặng hoa trời làm bằng mây ngũ sắc. Trong số người Việt có Bà Ỷ Lan Phu nhân nguyên là Phật Bà sống thời Lý có công phục hưng văn hóa văn nghệ khôi phục nhân phẩm giải phóng nữ tì, cấm giết trâu bò, chăm lo việc nông tang. Khi bà chấp chính đích thân vi hành bắt bọn mọt dân và xử tội lột da nhồi trấu. Bà có hỏi nhỏ:

    - Nước nhà vẫn còn những kẻ đi với phật mặc áo cà sa ở với ma mặc áo giấy phải không?

    Tôi sẽ gật đầu:

    - Dạ!

    Trong đôi mắt sáng mày sắc của bà bỗng vương nét u buồn. Khách nhà trời và đồng bào tiễn tôi lên phi thuyền con rồng cùng các linh hồn nhà nhái ra về trong niềm lưu luyến vô biên.

    Trở lại nhà, cóc cộ và bầy nhái còn vây quanh tôi đọc thơ li biệt bịn dịn: “Ôp ộp, Oọc oọc, Uôm uôm, Chẳng chuộc” râm ran một hồi lâu rồi biến. Tỉnh ra tôi biết mình vừa qua một giấc mơ dài...

    Kéo ngừng khua. Tông đơ thôi chạy. Dao cạo mặt ngừng lem lém. Lược đặt lên bàn. Cắt cái tóc đã xong. Câu chuyện vừa kể hết. Tôi mở ví lấy tiền trả ông thợ:

    - Thực lòng cảm ơn ông Thu đã kể một câu chuyện hay! Thì ra con kì đà nhồi trấu này đã từng là một quái vật pha tạp ở đất ở nước đáng nguyền rủa, có cái giá ba vạn chín nghìn (!)...

Kết Thúc (END)

Quỷ Sống

Hai mẹ con sống trong căn họ nhỏ xíu lọt thỏm trong chung cư sát bên nhà tôi. Tôi không hề có cảm tình với mẹ con nhà ấy. Chẳng phải vì họ gây phiền phức gì cho tôi, cũng chẳng có thù oán gì với nhau. Chỉ đơn giản tôi cảm thấy ghê sợ cách sống lạ lùng của hai mẹ con: Họ sống bằng nghề kỳ quặc: Khóc mướn!

     Ai đời lại kiếm sống trên sự chết chóc, đau khổ của người khác. Tự dưng không quen biết chi lại vật vã than khóc mù trời mù đất, rồi lại rỏ nước mắt một cách vô tội vạ. Kịch đến thế là cùng!

     Có lẽ bị ảnh hưởng nghề nghiệp hay sao ấy mà tôi chưa bao giờ thấy họ cười. Bà mẹ thì chẳng nói gì, đứa con mới mười bốn mười lăm tuổi cũng chẳng biết cười một cái để... làm duyên. Cứ lầm lầm lì lì, bộ dạng lúc nào cũng chuẩn bị khóc òa đến nơi.

     Bà mẹ chắc do khóc nhiều nên thân thể teo tóp lại, mắt trũng sâu. Ánh mắt nhờ nhờ như mặt người chết. Da mặt tái mét nhăn nheo như bà cụ tám mươi - dù tuổi cao lắm cũng chỉ ngoài bốn mươi.

     Đứa con vừa xấu lại vừa ngây ngô. Trong khi bạn cùng lứa đều áo dài trắng dài tha thướt đến trường thì nó lại lững thững đi dạo quanh xóm với bộ đồ xám xịt, dơ bẩn. Chẳng được học hành nên một chữ bẻ đôi cũng không biết. Chỉ biết mỗi một việc: khóc!

     Trong xóm chẳng ai chơi với nó. Tôi bảo với tụi bạn chung cư "Hê, coi chừng con nhỏ khóc mướn, chơi với nó rủi có gì nó bù lu bù loa chịu sao thấu!?". Tụi nó khoái chí cười ầm lên, đồng loạt tẩy chay con nhỏ mà chẳng một lời giải thích. Y như rằng số phận con nhỏ là vậy, không thắc mắc lôi thôi.

     Những ngày sau không có dám, con nhỏ lủi thủi trong nhà. Buổi chiều thấy chúng tôi ra khu đất trước chung cư chơi, nó lững thững đi ra nhìn với vẻ thèm thuồng nhưng không thể đến gần.

     Tôi xuỵt tụi bạn:

     - Ê, chuẩn bị "tò te tí te". Một... hai... ba...

     Tôi lĩnh xướng, lập tức cả bọn hè nhau rống lên, nhại kèn đám ma. Có đứa rú lên: "Ê nhỏ, khóc đi, khóc đi!".

     Nhỏ khóc thiệt, không um sùm, không bò lăn ra đất, cũng không bứt tóc giật tai ra điều đâu đớn. Nó quay đi, tôi vừa kịp thấy trong mắt nó hai giọt long lanh.

     - Ê, nó khóc kià!

     - Nước mắt cá sấu, lêu lêu...

     Tôi thấy hơi tội nghiệp nó, nhưng mình đã lỡ đầu tiên gây ra vụ này, chẳng lẽ lại hối hận trước mặt đám bạn, tụi nó sẽ cười mình chết. Tôi bèn nói cứng:

     - Đáng đời, ai biểu không biết thân!

     - Ừ, đồ khóc mướn! - Tụi bạn phụ.

     - Xuỵt - Tôi ra dấu im lặng - Lại đây tao nói cái này cho nghe.

     Cả bọn túm lại thành vòng tròn. Dĩ nhiên tôi làm cái tâm. Tôi ra vẻ quan trọng nói từng tiếng một:

     - Con nhỏ bị ma nhập đó tụi bây!

     - Xạo!

     - Tụi bây không tin thì thôi...

     Vài đứa tò mò:

     - Tin! Tao tin, đứa nào hổng tin kệ nó, kể tao nghe đi!

     Tôi hạ giọng:

     - Tao thấy rõ ràng. Mười hai giờ đêm nhỏ hay đi lang thang ra đường, mặc cái áo vải mùng trắng...

     - Đồ tang phải hôn?

     - Ừ... - Tôi xác nhận - Tao nghi nó đi đám ma nhiều nên bị ma bắt...

     - Mười hai giờ đêm thì ra nghĩa địa chớ còn đi đâu nữa!

     - Chắc không ai chơi với nó nên nó phải chơi với ma đó tụi bây!

     - Chỉ có quỷ mới chơi với ma thôi!

     - Ừ, quỷ sống!

     Thằng Thành bĩu môi ra vẻ không tin:

     - Nhảm nhí, nó xạo tụi bây đó!

     Tụi bạn nghe nó nói đâm nghi ngờ, quay qua hỏi tôi:

     - Mày thấy thiệt hôn?

     Tôi nóng mũi:

     - Không tin tối nay tụi bây rình thử coi!

- o O o -

     Chiều hôm sau, bọn bạn lại tụ tập dước sân chung cư. Thằng Dũng đen vẻ mặt nghiêm trọng, thì thào:

     - Tối qua tao thấy bóng trắng đi ra đường!

     Vài đứa nhao nhao:

     - Tao cũng thấy nữa!

     - Nó đội miếng vải trắng như vậy nè...

     - Tao thấy nó đi hổng chân cách mặt đất cả... tất lận!

     - Xạo, nhà mày tuốt tầng năm làm gì thấy nó đi hổng chân ra làm sao mà bày đặt nói.

     - Ơ... nhưng mà tao thấy có bóng trắng thiệt, nói dóc "hộc máu"!

     Tôi đắc chí bảo:

     - Tụi bây thấy chưa? Tao nói đâu có sai!

     - Ê, ma kià...!

     - Quỷ sống!

     Con nhỏ lững thững đi ra. Cả bọn ù té chạy. Con nhỏ ngỡ ngàng đứng lại, chẳng hiểu sao bọn trẻ lại sợ nó như vậy, nó đưa mắt ngơ ngác ngó quanh.

- o O o -

     - Ê, con nhỏ khóc mước chết rồi.

     - Thiệt hả? Sao chết?

     - Bị té xuống giếng. Người ta nói nó tự tử...

     - Không phải - Nhỏ Hoa tỏ vẻ biết chuyện - Má nó kể vậy nè, trước hôm nó chết nó nói nó quen một đứa bạn. Má nó hỏi ở đâu, nó nói ở ngoài giếng nước. Mấy ngày liền nó ra giếng nước trò chuyện với bạn. Nó nói bạn nó thương nó lắm, không sợ nó như người ta, lại mặt đồ giống y chang nó nữa.

     - Chắc nó bị ma xúi giục nhảy xuống giếng đó!

     - Ê, đi coi đám ma hôn?

     - Đi...

     Cả bọn kéo nhau đi "đưa đám".

     Đám ma con nhỏ buồn hơn đám ma thường. Không kèn trống, không còn tiếng tụng kinh. Và không có cả tiếng khóc... Mẹ nó khóc cho người đời quá nhiều, chẳng còn nước mắt mà khóc cho con nữa. Bà nất lên, khuôn mặt nhăn nheo càng choắt lại, già nua hơn, đôi mắt trắng dã vô hồng càng đờ đẫn, dài dại như người điên.

     Buổi tối tôi nghe tiếng rống nhỏ, như tiếng chó tru, kéo dài rờn rợn. Tôi dựng tóc gáy, kéo chân trùm kín đầu. Sợ con nhỏ về báo oán mình. Tôi lầm bầm khấn, rằng tôi chỉ giỡn chơi không ác ý. Tôi giả làm bóng người đi trong đêm chỉ vì bất đắc dĩ, do lỡ "nổ" với bụi bạn.

- o O o -

     Sáng hôm sau, người ta thấy bà mẹ gục bên quan tài, mái tóc thưa rối bời. người ta lật bà lên, thấy bà đã chết, hai khéo miệng trề ra như cười - lần đầu tiên người ta thấy bà cười. Chắc bà tin rằng sẽ tìm gặp được con bà ở thế giới bên kia!?

     Tôi không dám nhìn bà. Tôi hốt hoảng vụt chạy ra đường và thấy đám bạn đang tụm lại hào hứng bàn tán tiếp về cái chết của bà khóc mướn.

Con Ngỗng Trời Bị Rơi

Tuyết tháng tư tan ra trên bờ con hói, nơi bác Abel đang uể oải khua mái chèo cho con thuyền ván mỏng trôi theo con nước chảy xuôi. Bên cạnh những thân cây đã bị băng giá làm nứt vỡ trong mùa đông là những thân cây mới mọc ngả bóng trên những đám tuyết còn rớt lại. Khi bác Abel đi ngang con sông Hudson lộng gió, từng cuộn bụi tuyết như thủy tinh rơi vào tay bác. Rồi chúng tan ngay trong bàn tay sần sùi, sứt sẹo, ấm nóng – bàn tay to và đen không khi nào thay đổi màu sắc bởi vì công việc của chúng không khi nào thay đổi. Trên trời cao, xa xa phía xuôi, vang lên tiếng nhạc, bác nở một nụ cười thanh thản:

    - Về đó hử? Đã về rồi đó hử?

    Trên ngọn trơ trụi của cây tần bì đã chết, một con chim hét ẩn dật đang hót ngọt ngào. Đầu con chim in hình thật rõ trên nền trời, và bác Abel có thể thấy rõ cái ức con chim màu nâu có điểm trắng đang thở phập phồng. Khi thuyền bác lướt dưới gốc cây, bác lại nghe thấy con chim bạn đáp lại ở những cây tuyết tùng ở xa xa.

    Xung quanh khuỷu sông, những cây roi cao mọc thẳng, những con chim đen có cánh đỏ đậu chót vót trên ngọn cây đang hót vang mặt sông. Khi tới chỗ khuỷu sông đổ ra sông lớn, bác mỉm cười thú vị, vì bác đã nhìn thấy bông hoa xuân đầu tiên - một cây dương mai với một nụ trắng và một nụ hơi hồng hồng.

    Mặt nước dần dần ầm vang tiếng nhạc ngày xuân - tiếng rì rào của dòng thủy triều với những thân cây đổ trôi xuôi, tiếng xào xạc những lá non cây phỉ và cây sống-qua-đông. Nơi nước lặng phản chiếu ánh mặt trời, bác nghe thấy tiếng ríu rít của những con vịt hoang sống trong các ô làm bằng gỗ, do chính tay bác đặt cho chúng sống qua mùa đông. Sau đó bác nghe tiếng nhạc xa xôi, một tiếng nhạc hoang dã hơn nữa ở rất xa. Để nghe rõ hơn, bác ghé mái chèo lên đầu gối và ngóng nhìn về phía trời Đông. Trong gần sáu chục năm qua, bác vẫn thường hay háo hức ngóng chờ những tiếng kèn trận hoang dã như thế, trên trời cao vào ngày xuân và vào ngày thu, và niềm vui được nghe tiếng nhạc như thế sau những ngày lặng lẽ không bao giờ tan trong lòng bác cả. Với bác, tiếng kêu của những con ngỗng trời mang một ý nghĩa gì đó còn hơn là cả tiếng nhạc nữa. Dòng nước rút va mạnh vào thuyền bác và có một tiếng ộp oạp phá tan cảnh yên tĩnh trong chốc lát. Bác ghé thuyền vào một gốc cây sống-qua-đông và rê thuyền lên một đám huệ. Ở chỗ đó mặt trời chiếu thoải mái lên người bác. Bác cất mũ đi để hưởng thụ nắng ấm mơn trớn đôi má xương xẩu, dạn dày gió mưa của mình. Gió làm rối tung mớ tóc đen đã điểm bạc nơi gáy.

    Mắt bác dõi nhìn bầu trời phương Nam. Một đàn vịt hoang ùa từ đám sậy ra, cánh vỗ rào rào, miệng quàng quạc, khiến trong một lúc bác không nghe rõ tiếng nhạc xa xa nữa. Sau đó, lại càng nghe rõ hơn, và lần này thì gần hơn. Sau cùng, một hình xếp chữ V, những con ngỗng trời – hơn ba chục con – bay tới phía sông. Bác thấy rõ là chúng mệt mỏi sau một đêm bay ngược gió, chúng vỗ cánh nặng nề. Chúng bay trong nắng loá, khiến bác nhìn rõ những đầu cánh nhọn đang vỗ. Trong khi dõi theo chúng, bác còn thấy một hiện tượng mệt mỏi khác nữa trong đàn chim đang bay. Con đầu đàn, bay mở đường trong chuyến bay vô cùng dài, bỗng kêu lên một tiếng, gọi một con khác thay phiên cho nó công việc nhọc nhằn kia. Đội hình bỗng tan ra, và lập lại để một con khác thay cho vị trí đi đầu. Hình chữ V lại được lập lại và bay ngang đầu bác Abel.

    - Nào, các chú lại về rồi!

    Một lần nữa bác lại mỉm cười trước vẻ đẹp của chúng. Sau đó bác thấy lo lắng trong lòng, bác lấy bàn tay làm loa và gọi chúng:

    - Đây rồi! Đây rồi!

    Bác biết rằng, lắm khi, nhất là sau một chuyến bay đêm dài, chúng thường lầm lẫn và có thể bỏ qua những địa điểm nghỉ chân, một mái lều to như vùng nước này.

    Lúc này những con ngỗng trời đã ở ngay trên đầu bác. Chúng đã nghe thấy tiếng bác gọi. Con đầu đàn lái xuống thấp và bay vòng trên vùng nước, hình chữ V hạ thấp dần, những con đầu tiên đã dang cánh hạ xuống. Đúng vào lúc đó, bác Abel nghe thấy một tiếng kêu to ở vùng ngã ba sông. Bác cứ ngỡ đó là một tiếng reo mừng của một ai đó đang ngóng đón đàn ngỗng trời như bác. Bác sắp cất tiếng gọi đàn ngỗng một lần nữa, thì bỗng một phát súng nổ từ hướng đó. Bác thấy giận dữ. Bác lắng nghe lo lắng về phía tiếng súng mới vang lên. Bác không sao nghĩ rằng lại có một kẻ có gan bắn như vậy. Và bác lo lắng nhìn đàn ngỗng.

    Chúng đã nghe thấy tiếng nổ. Chúng đang im lặng bay nốt quãng đường ngắn hạ xuống bãi sông. Hình chữ V tan ra đột ngột. Tiếng kêu của chúng vang lên trên cao, nghe thảm thương, tiếng kêu sợ hãi và lúng túng. Một con chim bay cuối hàng chữ V nhào xuống một cách lạ lùng như lá rơi. Những con khác bay cuống cuồng loạng choạng sau con đó. Sau rồi có những tiếng quàng quạc lộn xộn vang lên, và bác Abel biết rằng đã có chuyện gì đó không hay xảy ra trong đám ngỗng non một tuổi bay ở cuối đội hình. Khi con chim bị nạn vẫy cánh và rơi xuống, bác biết có chuyện gì đã xảy ra. Phát súng kia, bắn ra vô mục đích, đã trúng nó.

    Con chim bị thương rơi khuất sau những cây liễu bên bờ sông, nơi đó lá liễu đang mọc nom như sương mờ xanh nhạt.

    Bác Abel cay đắng tự trách mình vô ý gọi đàn ngỗng để chúng lên nông nỗi ấy. Vì bác mà một con đang nằm chết bên bờ. Hình ảnh đó làm bác đau lòng. Đã lâu lắm rồi bác không bắn những con chim trời này nữa, vì bác không thích phá rối vào cuộc sống của chúng, vào những chuyến bay nặng nhọc qua đây. Lúc này bác đã vô tình đánh vào một con trong bọn đang bay về phương Bắc quê cha đất tổ với những ổ trứng và những con chim non mới ra đời.

    Bác thấy đau lòng khi thấy mình bó tay không làm gì nổi, ngoài việc quyết định từ nay sẽ không bao giờ lên tiếng gọi ngỗng trời như thế nữa. Nhưng ngay sau khi nghĩ thế, bác vẫn không thể cưỡng lại việc vớ lấy mái chèo và bơi xuôi về phía bờ dưới kia. Trên đường bác đi, mọi niềm vui xuân về - những mầm của hàng ngàn cây táo, tiếng hót con chim hét và hoa dương mai rực rỡ - đã thay đổi, không phải là sự đau khổ mà là một nỗi sầu muộn, như thể bác vừa học được một bài học không sao hiểu nổi.

    Có một con tàu lướt dưới những cây liễu, rúc lên một còi hiệu. Đẹp lộng lẫy, vỏ tàu màu xanh da trời in hình lên nền trời, và thành cầu tàu màu trắng in lên bóng mây, một con tàu chở hàng loại nhẹ hiện ra nơi cửa rừng. Theo sau vệt nước nó xé ra, là vô số con mòng biển bay loạn xạ. Mới đầu bác Abel ngỡ là lũ chim bay theo tàu kiếm ăn. Nhưng không phải, chúng đang đáp lại tín hiệu của các con mòng khác, bác không thấy vì khuất kín trong lau sậy.

    Bác Abel biết rằng giống mòng biển quen thói yên lặng. Chúng bay suốt ngày đêm nên cũng đói suốt ngày đêm. Ngoại trừ khi đói cồn cào vào buổi sáng, chúng chỉ im lặng tìm mồi. Chúng đói ăn lắm nên mắt rất tinh, chúng quan sát ra từng vật đang trôi, ngay cả một mẩu áo cũ. Bác thường thấy khi đó miếng mồi làm chúng sung sướng thế nào. Lắm khi bác chứng kiến chúng nó có những hành vi độc ác, ngay cả trong vườn nhà bác, khi chúng xà xuống như diều hâu và xâu xé một con thỏ chết. Giờ đây bác đang thấy chúng sung sướng như thế.

    Thuyền bác cặp bờ. Bác lên một doi cát, khi đó bác nhìn thấy bọn mòng biển lùi ra. Chúng bay xuôi, bốc cao lặng lẽ, rồi nhào xuống. Khi nhào xuống chúng kêu to. Sau đó chúng lại bốc bay cao, từng tốp tám chín con, rồi lại nhào xuống và kêu.

    - Mày rơi nơi nào hử, ngỗng con?

    Bác Abel nghĩ hình như vừa nghe thấy một tiếng kêu trầm trầm từ một con vật màu xám, bác ngỡ đó là một con vịt trời địa phương lạc bày đang bị lũ mòng biển tiến công. Bác từng thấy như vậy nhiều lắm, và vẫn bỏ qua, chấp nhận, coi đó là việc của thiên nhiên. Thế nhưng cái dự cảm ban đầu không tha bác. Nghe một tiếng kêu lần nữa – không phải tiếng kêu con mòng – bác cảm thấy cái dự cảm lúc trước phát triển thành một tính cảm khác: phải hành động. Bác chưa từng nghe thấy một tiếng như thế bao giờ. Chưa khi nào bác thấy một con mòng hoặc một con vịt hoang kêu như vậy.

    Sau một nhát chèo mạnh cho thuyền đi xuôi, bác đã biết cái gì kêu lạ lùng như vậy: một con ngỗng trời đực. Một con ngỗng trời đang vùng vẫy mà không cất mình lên nổi vì cánh đập yếu lắm. Khi ngực nó nhô lên khỏi những gợn sóng lăn tăn, bác Abel thấy có vết máu ứa ra. Một con mòng nhào xuống và mổ vào đầu con ngỗng. Con ngỗng tránh và cố lặn xuống nước. Nhưng nó không lặn nổi. Cánh nó vùng vẫy tránh đỡ trận tiến đánh tiếp theo của lũ mòng. Một con, một con, lại một con nữa lao xuống. Và con ngỗng trời chỉ còn biết nhờ làn nước mỏng manh che chở. Bọn mòng tìm cách làm cho con ngỗng trời bị chết đuối. Khi nó ngoi lên thở, một con mòng mổ vào mắt nó. Máu loang trên má trắng con ngỗng.

    Con ngỗng đã nom thấy những bụi sậy bên bờ. Nó cố bơi vào đó. Những trận tiến đánh liên tiếp khiến nó không thể tiếp tục đi theo hướng đó và đi theo cách đó. Nó thử bay, cánh nó dang ra vùng vẫy. Nó mất nhiều sức vì việc đó quá, cánh nó xoè ra trên mặt nước đang trôi xuôi, mỏ nó gục trong làn nước. Hai con mòng bơi tới và đuổi theo phía cái đầu con ngỗng. Bác Abel chèo nhanh con thuyền chen ngang giữa các con mòng và con ngỗng trời. Bác bế bổng con ngỗng vào trong thuyền. Các con mòng lẳng lặng bay đi.

    Trong khi thuyền bơi ngược con hói, con ngỗng nằm nghiêng một bên. Nó như là chết rồi. Máu tuôn ra từ phía bên ngực trái. Bác Abel biết rằng vết thương đó chính là do chính phát súng gây ra. Bác bơi thuyền ra giữa dòng ở chỗ con hói chảy xiết. Sau đó bác bọc con ngỗng trong một miếng bạt mềm và lên bờ, đi theo một con đường mòn vào cái nông trại nhỏ có ngôi nhà xinh xắn xây bằng đá tự tay bác làm đã bao năm nay rồi. Bác mang con ngỗng ra coi. Chính ở đó bác thấy một vết thương khác nữa do đạn gây ra khi viên đạn sượt qua lưng con ngỗng. Khi bác cắt rửa vết thương ở lưng, con ngỗng khẽ lấy mỏ mổ bác. *

    - Hay lắm ngỗng ạ! Còn cố sức như thế thì còn sống.

    Bác băng vết thương cho con ngỗng bằng băng dính, sau đó bác cho nó nằm trong một cái hộp lót rơm và đặt gần cái lò trong bếp. Sau khi theo dõi một lúc, bác thấy con ngỗng không cất đầu lên nổi. Bác liền buộc một khúc gỗ làm giá đỡ và buộc nhẹ cổ nó vào, cố tránh không làm nó nghẹt thở. Một lát sau, con ngỗng phát ra một tiếng kêu yếu ớt khò khè và lấy mỏ mổ một cách yếu ớt.

    - Nào cu cậu, nếu sống nổi qua đêm nay, thì ngày mai tớ sẽ chữa nữa cho. Nghe chưa?

    Cả đêm, con ngỗng không ngớt kêu, kêu thật to, khiến bác Abel phải vào xem có chuyện gì. Khi bác chạm tay vào nó, nó vẫy cánh thật mạnh. Thấy thế bác lại mừng và bác bỏ cái khúc gỗ làm giá đỡ đi. Khi làm việc đó bác phải đụng chạm tay vào con ngỗng. Con ngỗng nằm im trong nệm rơm cho bác làm mọi việc, và bác Abel thấy rằng con vật đã thôi không sợ hãi bác như trước. Sáng ngày, bác nấu cháo mạch, bác lấy chút ít trộn với sữa và dùng thìa bón cho nó; nó ăn không nhiều, nhưng nó không vùng vẫy phản đối.

    Hôm sau, khi ở vườn về nhà, bác thấy con ngỗng đã ra ngoài ổ. Nó không đi được xa. Chiều tối đó, con ngỗng sục mỏ vào đĩa cháo mạch và ăn ngấu nghiến.

    Đến hôm chủ nhật, bác Abel cho con ngỗng ra bãi cỏ nắng ấm bên bờ cái ao lớn nhà bác, định bụng cho nó có thích nước thì cứ việc đi tới ao mà vùng vẫy. Ở ao nhà bác có hai chủ nhân, một cặp vịt trắng, một con tên Henry và một con tên Alise. Nhiệm vụ của chúng chỉ là làm cảnh đẹp. Cả hai con đều đón tiếp con ngỗng một cách thân tình và không phản đối khi con ngỗng tới ăn chung với chúng. Bác Abel mặc cho ba con ở với nhau. Khi trở về, bác thấy con ngỗng đã ở dưới ao, nó không bơi nhưng thả người bồng bềnh ven bờ.

    Những ngày sau, con ngỗng trở nên gần như thân thiện hẳn với hai con vịt, mặc dù đôi khi hai con kia vẫn nhìn nó một cách không được thiện cảm tí nào. Nó bắt đầu bơi xa dần hai con vịt. Song nó vẫn coi bác Abel là người bạn tốt hơn cả. Khi chiều xuống, bác Abel vỗ hai tay vào nhau, thế là nó từ bụi sậy chui ra, trở về nhà nằm trong cái ổ nơi nhà bếp.

    Vài ngày sau nữa, con ngỗng thử tập bay. Các con vịt cả đời lạch bạch, bỗng thấy kinh dị trước chuyến bay đầu tiên của con ngỗng. Khi con ngỗng cất cánh bay, hai con vịt không nhìn theo ngỗng mà lại nhìn nhau. Bác Abel theo dõi con ngỗng bay cao dần, cao mãi. Khi đã bay cao hơn những cây du, con ngỗng reo lên một tiếng kêu vui sướng. Nó bay giỏi rồi, và cả vết thương nó đã lành. Song bác Abel vẫn ngại con ngỗng không thể một mình đi về phương Bắc, như vậy nó phải bay nhọc nhằn một mình. Nhìn nó bay, bác Abel thấy nó đẹp quá, bác như không muốn xa nó nữa. Bác vỗ tay kêu nó về, và con ngỗng sà cánh hạ xuống bờ ao.

    Mặc dù rất thích thú có con ngỗng bên cạnh, bác Abel cũng sớm nhận ra rằng, một lần nữa bác lại can thiệp vào đời sống các con vật khác. Bác có ý nghĩ đó vào một đêm mưa, giữa đêm trên trời có một đàn ngỗng bay ngang, chúng bay quá thấp, sát mái nhà đến nỗi bác bừng thức giấc. Tiếng chúng kêu đánh thức cả con ngỗng bác nuôi, nó bắt đầu kêu to, hai ba lần nó vẫy cánh trong ổ.

    Trước khi con ngỗng bay chuyến bay lần sau ở ao, nó đang còn nằm yên dưới những cánh bồ đề đang nhú những chồi non. Đầu nó cúi thấp xuống, trông như đang ấp trứng. Đôi ba lần nó lấy mỏ rỉa lông ngực. Khi đôi vịt lang thang ngoài bãi sậy cất tiếng chào nó, con ngỗng đực bay lên. Lần này nó bay còn cao hơn lần trước, rất cao, đến nỗi bác Abel nghĩ nó chẳng trở về nữa. Trên cao, con ngỗng kêu như đang than van.

    Nó cưỡi trên gió bay về phía sông và từ từ lái thành một đường vòng trên các ngọn cây táo đang nở đầy hoa trắng. Bác Abel biết rõ mục đích những chuyến bay như vậy. Đó là những chuyến bay để ghi hằn trong ký ức con chim hình ảnh nơi nó ra đời, các vịnh cùng các đảo xung quanh. Chúng học biết phong cảnh bằng cách đó. Bằng cách đi theo mẹ trong những ngày đầu tiên lội nước, sau đó qua những chuyến bay ngắn, chúng bay xa dần khỏi tổ và chỉ tới khi tối trời mới trở về. Mỗi ngày bay một quãng xa hơn, chúng quen thuộc dần với các vùng nước. Trước khi bắt đầu các chuyến bay di trú, chúng đã bay xa hàng ngàn dặm và quay về được. Khi các cơn gió mạnh và băng giá buộc chúng phải bắt đầu những chuyến bay di trú ngắn ban đầu, khi ấy chúng lại thuộc thêm những xứ nước mới nữa.

    Bác Abel nghĩ bụng thế và không còn gọi con ngỗng về như mọi khi. Như vậy, nó sẽ gặp gỡ những con ngỗng, ngày ngày tới vùng này và chọn những đàn nào thích hợp nhất tìm ra bạn bầu và cùng nhau di thực về phương xa. Bác bèn đi nằm. Nhưng sáng ra, bác thấy con ngỗng đã đứng chờ ngoài bậu cửa.

    - Không nên con ạ. Con nên đi về phương Bắc cùng với các bạn.

    Thế là, đến bữa chiều, bác gọi con ngỗng lại, cho nó ăn thật ngon, và ôm nó xuống thuyền. Bác chèo xuôi con hói. Tới khúc sông chảy quanh, dưới những cây liễu bắt đầu mọc lá non, bác lắng nghe. Bác nghe thấy tiếng vịt rừng và gà lôi đỏ quàng quạc trong bụi. những con vịt rừng bay tỏa ra.

    Bác cho thuyền ghé vào một bãi lúa cao bên bờ. Ở đó, những con ngỗng đang huyên thuyên chuyện trò. Có ba con đi ra ngoài, những con khác đi theo, cả thảy bốn chục con bơi bồng bềnh thơ thẩn trên mặt nước.

    - Nào, ngỗng ơi, đây là bạn đích thực của con. Đến với chúng đi. Nghe rõ chưa? Tạm biệt, và chúc con may mắn…và đừng trách ta giữ con lại lâu đến thế nhé.

    Bác đặt con ngỗng xuống nước. Nó rời búi sậy và bơi đi. Dòng thủy triều xuôi đưa nó đi tới đàn ngỗng trời. Đàn ngỗng kia từ từ đi tới nó - một con trong đàn cất cao đầu và mắt nhìn thận trọng, cảnh giác. Cả đàn đón chào người bạn mới với những tiếng kêu khẽ, khúc khích.

    Sau khi con ngỗng đã nhập đàn, bác Abel thong thả chèo thuyền đi. Như những trận gió mạnh, đàn ngỗng ùa bay xuôi theo dòng sông. Chúng bay vọt lên phía mặt trời cao. Trong một lát, bác Abel chẳng thấy gì nữa vì mặt trời làm mắt bác loá. Sau đó, tít trên cao, một đội hình chữ V bay về phương Bắc….

    - Tạm biệt, tạm biệt, con ngỗng của ta, tạm biệt!

Vượt Ao

Một cái ao tù. Nước hãm quanh năm, lúc nào cũng đục ngầu. Quả hoa mới sinh đần rồng rồng lứa đầu tiên đông ơi là đông. Đàn con cuộn vào nhau bên mẹ như một trái bưởi ủng vàng lập lờ trên mặt ao.

    Đáng lý phải vui mừng thì Chòi Sộp lại lo âu cau có:

    -Thôi thế là hết thời thanh niên và tình ái. Còn ai khen và cảm phục thằng Chòi Sộp nầy, vừa qua tuổi chõn, mới như cái răng bừa đen đủi xám mốc mà đã chinh phục được trái tim cô thiếu nữ Quả hoa xinh đẹp nhất họ nhà cá chuối ở trong ao làng. Thật đáng kiêu hãnh lắm chứ! Thế là còn đâu những ngày nắng hồng, những đêm trăng vàng, hai đứa dắt nhau dạo chơi tình tự, khiến cho bao chàng trai Chòi Quả tức ghen lộn tiết. Đang lúc tròn trăng nở hoa của cuộc đời, Chòi đã phải từ bỏ để làm ông bố, bà mẹ non của đàn rồng rồng có ác không chứ? Cái thời các cụ có quan niệm nhiều con hơn nhiều của đã qua rồi! Cái thuở có con lúc trẻ được nhờ về già cũng đã thuộc về dĩ vãng. Một tí tuổi mà quả hoa đẻ nhiều rồng rồng ghê gớm vậy? Vỡ kế hoạch gia đình chỉ có mà lam lũ đói ăn quanh năm, còn đâu ước mơ và sự tiến bộ thành đạt của tuổi trẻ, còn đâu khả năng và điều kiện thực hiện lý tưởng trong đời cá chòi cá chuối?

    Sau khi sinh nở, rời nhà hộ sinh đến giờ, vẫn chưa được điểm tâm một con nhái nào, đói cồn đói cào cả bụng, mẹ trẻ quả hoa vẫn tươi cười:

    -Tại bố rồng rồng đấy! Chị em trong thủy tộc vừa rời ghế nhà trường phổ thông, đã bay nhảy đó đây. Học trường nầy, trường kia, làm việc nầy công tác nọ. Du lịch nơi nơi. Hội hè khắp chốn. Còn mình cứ ru rú trong ao làng tù hãm. Quanh đi bắt con nhái, quẩn lại bắt con giun. Tối ngày chẳng đủ no. Bây giờ có hối tiếc thì cũng đã muộn rồi. Đã chót thì phải chét. Đã cấy thì gặt chứ còn gì. Thôi thì đằng nào nòi giống vẫn là cao quý. Mình làm mình chịu có sao đâu. Tự gắng lên muôi đàn con không đếm xuể, mai ngày thành chõn, thành Chòi, thành Sộp, thành Quả thời được nhàn, thành Gộc, thành ngộc thì được nhờ. Sông có khúc, họ nhà Chuối nầy có lúc mát mặt mà. Các cụ bảo sướng trước khổ sau không bằng khổ trước sướng sau. Ở đời có phúc hậu là hơn. Bây giờ em nhờ bố Rồng Rồng chạy thuốc thang phòng bệnh hậu sản cho mẹ, phòng dịch bệnh cho Rồng Rồng sơ sinh nhé !

    Chòi Sộp thở dài đánh thượt, uể oải cựa vây, đến nhà bà lang Trắm cỏ:

    -Chào bà Trắm cỏ. Quả hoa mới sinh. Có thuốc phòng hậu sản và phòng dịch cho mẹ con Rồng Rồng, mỗi thứ bán cho một liều.

    Bà nhìn bố Chòi Sộp, hai cái vây cổ dưới mang, phân vân nói:

    -Cháu có bao nhiêu?

    -Thưa bà, dốc túi chỉ còn 2000 thủy kim.

    -Thế thời lấy hai gói. Một gói lá vàng cho mẹ. Một gói lá xanh cho con.

    Chòi Sộp trố mắt kinh ngạc:

    -Thuốc gì mà lồng phồng một ôm thế nầy?

    Lang Trắm cỏ cười gợn sóng má:

    -Thuốc nam dân gian chả thế còn thế nào?

    Chòi Sộp nhìn vào cửa hang bà lang toàn cỏ là cỏ, cây là cây. Từng bó khô, bó tươi treo linh tinh các nơi. Trả tiền xong, anh bố non hí hửng về ngay:

    -Thuốc đây nhà ơi !

    Quả hoa hớn hở mở ra xem hai gói thuốc. Gói vàng cỏ khô. Gói xanh cỏ tươi. Bật cười rũ rượi:

    -Bố Rồng Rồng chưa biết rồi. Họ chuối mình ăn uống chi được cây cỏ bao giờ? Trả lại người ta không nhận. Dùng không xong. Đang lúc túng bấn mà phí tiền.

    Chòi Sộp càu nhàu:

    -Để anh đem trả. Phải cự cho mụ lang băm lá, lang băm cỏ một chưởng. Tôi đã bảo mua thuốc cho Quả Hoa và rồng rồng uống cơ mà ! Mụ Trắm cỏ không biết tôi là Chòi Sộp hay sao?

    Quả Hoa can:

    -Bây giờ lang nào cũng cần bán được thuốc mà. Đã bảo là cá nào ngày nay cũng chỉ biết gọi tiền ơi là tiền. Bố Rồng Rồng nhà ta cũng bờm quá nữa. Thời gian đem trả lại thuốc thì mất việc vừa khó nhọc nên thôi nhà

    ạ ! Hình như em còn 2.000 thủy kim trả viện phí còn lại. Bố Rồng Rồng lại đi mua hiệu thuốc khác vậy nhé !

    Chòi Sộp cầm tiền lao đến nhà thầy thuốc Trắm ốc. Anh hớt hải nói:

    -Thưa thầy Trắm ốc. Quả Hoa mới sinh, thầy có thuốc phòng hậu sản và phòng dịch bệnh cho mẹ con Rồng Rồng bán cho một liều !

    Thầy Trắm ốc đang phân loại thuốc: ốc nhồi, ốc vặn, ốc nứa, ốc ma đanh... có nghe giọng anh Chòi Sộp vừa qua tuổi chõn ngày nào đã làm bố rồi, tặc lưỡi nói vọng ra:

    -Có bao nhiêu?

    -Hai ngàn thủy kim.

    -Thế thì trao tiền lấy thuốc: ốc nhồi cho mẹ, ốc vặn cho con !

    Chòi Sộp vừa nhận thuốc trả tiền vừa ngẫm nghĩ: họ trắm chỉ có hỏi bao nhiêu tiền. Không ai hỏi có bao nhiêu rồng rồng. Thì ra cá bây giờ quý tiền hơn rồng rồng ư? Chưa dứt mạch nghĩ ngợi, đã về đến nhà:

    -Mẹ Rồng Rồng ơi ! Thuốc đây !

    Quả Hoa thấy hai con ốc mà cười ngặt nghẽo:

    -Bố Rồng Rồng bờm thật rồi ! Họ nhà Chuối ăn uống chi ốc bao giờ? Trắm ốc hay Trắm cỏ vẫn đều là trắm cả mà thôi. Bố Chòi Sộp ít hiểu y dược học quá. Giờ thì tìm đâu ra tiền? Chỉ còn có cách mua chịu. Thời buổi tiền đẻ tiền chắc gì ai bán chịu. Ngân đen, ngân đỏ đều muốn vỡ kế hoạch sinh đẻ tiền. Cá thì giới hạn đẻ hai con. Tiền thì một đồng muốn đẻ ti tỉ đồng. Tiền vay, tiền nợ đều phải trả lãi ngày lãi tháng lãi năm, lãi đón đầu sóng đầu gió trượt giá. Ai có tiền vỏ hến lá cây mà cho người thiếu tiền vay trong cơn sốt tiền bây giờ? Nhưng vẫn có người bán chịu. Không bán chịu để thuốc mốc ư? Ồ em nghĩ ra rồi. Bố Rồng Rồng đến y viện ao làng gặp cụ tiến sĩ y học Chuối Ngộc xem sao? Chỗ cùng họ hàng, không mua chịu được thuốc cũng sẽ đựợc một lời chỉ bảo tự tìm thuốc, tự cứu lấy bệnh cho mình anh à! Cụ tiến sĩ vốn có tiếng giàu y đức mà. Bố rồng rồng nghe em đi đi nhé!

    Chòi sộp lại lao đầu đến y viện cá ao. Gần đến nơi, anh gặp bác gộc sộp ẵm vác thằng cu chõn đã chết cứng, nhợt nhạt vẩy ra về. Anh sửng sốt hỏi:

    -Chõn sao thôi ngáp rồi?

    Bác gộc sộp méo xệch cả mồm:

    -Vì không có thủy kim Chòi à!

    Đi một quãng nữa, lại thấy chị Diếc khóc đỏ mắt, cõng thằng dô don bụng giun to như quả táo, xanh xao, gầy gò, anh Chòi kinh ngạc hỏi:

    -Sao lại đưa don về?

    Chị diếc lấy vây gạt nước mắt:

    -Về ngoại trú! Không có thủy kim đấy!

    Chòi Sộp lại ngẫm nghĩ chắc là không có tiền mua thuốc hoặc nạp viện phí đây chăng? Vào phòng khám, Chòi Sộp hỏi cá áo vẩy trắng:

    -Cho tôi gặp cụ tiến sĩ...

    -Xuống nhà xác rồi !

    Chòi Sộp vào nhà xác hỏi cụ tiến sĩ. Cá coi nhà xác mở từng cái lồng tử thi cho tìm:

    -Chép Văn Chôi tiến sĩ giáo sư!

    -Không phải!

    -Ngư Mè Hoa tiến sĩ văn chương!

    -Không phải!

    -Quất Ngạnh Chiên tiến sĩ vật lý thiên văn!

    -Không phải!

    -Hôm nay tiến sĩ chết có ba.

    -Thế hôm qua?

    -Chết bảy!

    -Ngày mai?

    -Chưa biết có thể nhiều hoặc ít, có hoặc không!

    Cá coi nhà xác hỏi lại:

    -Anh tìm tiến sĩ nào?

    -Tiến sĩ Chuối Ngộc!

    -Cụ ấy chưa chết vừa xem xét tử thi ở đây!

    -Sao tiến sĩ chết nhiều thế?

    -Chất xám rẻ như bèo. Không có thủy kim hộ mệnh!

    Chòi sộp vẫn còn trố mắt:

    -Tiến sĩ chuối ngộc cũng sắp chết à?

    Cá coi nhà xác phát cáu:

    -Đã bảo là chưa. Cụ ấy lên phòng làm việc rồi!

    Bố chòi tìm đến phòng cụ chuối ngộc:

    -Con chào cụ tiến sĩ y học cá! Con là Chòi Sộp. Quả hoa nhà con mới sinh. Cụ có thuốc phòng hậu sản và phòng dịch bệnh cho rồng rồng, bán cho con một liều.

    Cụ chuối ngộc chỉ ghế mời chòi ngồi:

    -Anh có bao nhiêu?

    -Dạ! Bao nhiêu gì ạ?

    -Bao nhiêu để có thuốc?

    -Bao nhiêu chịu ạ!

    Cụ tiến sĩ y học cá cười trơ lợi. Rụng hết răng từ bao giờ chẳng rõ:

    -Thuốc anh hỏi, dược viện ao làng không bào chế được. Phải mua bằng ngoại tệ. Một triệu thủy kim một liều.Tôi lấy đâu ra tiền mà cho anh mua chịu. Lương tôi mỗi tháng chưa đủ nửa liều thuốc. Nên anh cảm thông cho cái nghèo của tôi nhé! Thời kinh tế thị trường nó vậy! Bây giờ gặp ca bệnh cấp cứu, tủ thuốc y viện ao làng không có tiền mua, đành bó tay. Khi ấy, người nhà bệnh nhân có tiền mua thuốc ngoài hiệu tư nhân mang vào thì chữa, mà không có thì đành cho chuyển bệnh nhân đi bệnh viện tuyến cấp trên...Quả hoa sinh đẻ nạp bao nhiêu viện phí? Mỗi cháu rồng rồng chẳng may sơ nhiễm lao, còi xương, suy dinh dưỡng, vào viện bây giờ cũng phải chục ngàn thủy kim chụp phim. Ba ngàn thủy kim xét nghiệm BK. Năm chục ngàn thủy kim viện phí. Bốn ngàn thủy kim một ngày ăn. Nằm viện có khi hàng sáu tháng, một năm. Hỏi anh lấy tiền đâu? Rồng rồng nhà anh có bao nhiêu cháu?

    -Dạ! Nhiều chưa đếm hết ạ! Cụ chuối ngộc nói tiếp:

    -Ngày xưa tôi làm giám đốc nhà thương từ thiện những cá nghèo như anh vào viện không phải mất tiền. Hai thập kỷ qua, tôi làm trưởng khoa, cá bệnh vào viện được bao cấp không phải mất tiền. Ngày nay kinh tế thị trường, vào viện phải nạp tiền viện phí gồm tiền khám bệnh, tiền điều trị, tiền thuốc, tiền giường bệnh... Nếu anh có mua bảo hiểm y tế thì thừa bù thiếu anh vào viện được chữa bệnh. Nếu quá nghèo thì anh vẫn được chữa. Viện có thuốc gì thì cho thuốc ấy, có nhiều cho nhiều , có ít cho ít tùy theo bệnh. Có thể anh phải tự túc một phần. Bằng không thì bệnh lâu khỏi, khó khỏi...Bao giờ ao làng được đô thị hóa kinh tế phồn vinh giàu có, có thể có bệnh viện từ thiện hoặc bao cấp người nghèo chữa bệnh không mất tiền. Hiện tại ta phải chấp nhận việc chữa bệnh chưa được cải thiện.

    Vậy anh chòi hãy thông cảm cho khả năng của tôi. Lúc nầy, tôi chỉ còn tí chất xám lương y nữa thôi. Nên mách cho anh tự tìm thuốc tự cứu lấy mình. Đó là con kỳ đà, lấy mật làm thuốc cho mẹ, lấy thịt làm thuốc cho con. Bài thuốc cho rồng rồng còn là kiến đen đỏ vàng, trứng ruồi bọ nhặng. Trong ao làng tù hãm khó tìm kiếm. Nhưng tôi tin vợ chồng anh có thể tìm được!

    Chòi Sộp trố mắt há mồm:

    -Toàn những thứ ở ngoài ao làng, ngoài nước, tìm sao được mà tìm. Cụ đùa hay đánh đố con ư?

    Cụ chuối ngộc lại cười:

    -Có bệnh thì vái tứ phương. Gặp thầy gặp thuốc thì có phúc. Tôi không đùa không đố. Anh cố mà tìm cho vợ con nhé!

    Chòi Sộp vẫn càu nhàu bỏ ra về quên cả chào cụ chuối ngộc. Về đến nhà, kể lại sự việc không kết quả cho vợ nghe một cách tuyệt vọng. Nhưng Quả hoa vẫn tươi cười nói:

    -Bố rồng rồng được việc lắm! Nhưng bây giờ chưa làm ngay được. Tốt nhất anh đi kiếm cho em một con ngóe. Em đói lâu rồi! Sợ hạ đường huyết thì khốn!

    Chòi Sộp mỏi vây, đờ vẩy như muốn rụng ra từng cái. Nhưng vợ con đói, đầu gối phải bò. Anh lò dò bơi quanh bờ ao một lượt. Không bắt được con gì. Về gần đến nhà thì trời sập tối. Bỗng nghe có tiếng lõm bõm chạy thia lia dài trên mặt ao về phía mình. Thì ra một con nhái đánh hơi thấy đàn rồng rồng lao tới nhà chòi. Lập tức lấy hết sức bình sinh, quẫy bốp một tiếng, chòi đớp con nhái đánh “bập”. Nhái kêu ẽo ẽo cấp cứu, vẫn chưa nhận ra lòng tham mù quáng như lợn dẫn thân đến miệng hùm. Chòi nghĩ vài giây cho hết cơn run rẩy vì mừng và mệt. Nghe tiếng nhái kêu rắn nước lao đến rờn sóng, cướp luôn mồi trên miệng của chòi. Anh bơi theo rắn van nài:

    -Vợ chồng tôi mới vào tuổi chòi chưa có nghề nghiệp. Làm ăn cửu vạn thu nhập kém. Vợ lại đang ở cữ. Từ lúc đẻ xong đến giờ một ngày chưa có gì ăn lót dạ. Nên em cắn cỏ xin anh tha cho!

    Rắn nước trả lại con nhái, quẫy đuôi đánh bịch vào đít:

    -Từ nay phải đeo cái mặt mẹt vào lưng đề: thu nhập thấp, vợ đẻ, con thơ để bọn tao biết khỏi mất công rình mò săn đuổi trấn lột hiểu chưa?

    Đom đóm thấy chòi sờ soạng chưa nhận ra lối về, bay tới, lập lòe ánh sáng, soi đường giúp bố Chòi Sộp về nhà, trao mồi cho mẹ con Rồng Rồng ăn. Quả Hoa tủm tỉm cười:

    -Bố Rồng Rồng nhường em, nên đói lắm phải không?

    Để Quả Hoa ăn được ngon, anh Chòi bảo:

    -Em ăn đi ! Anh cũng đã xơi con cào cào rồi !

    Quả Hoa biết ý, xẻ một đầu nhái cho chồng để có sức trông đàn con đêm nay. Chòi chiều vợ ăn một tí cho vui. Quả Hoa vuốt vây lưng chồng, nói:

    Trai nuôi vợ đẻ gầy còm

    Gái nuôi chồng ốm béo tròn cối xay.

    Cả hai bố mẹ rồng rồng đều cười rúc rích.

    Đã qua tuần ở cữ, vợ chồng chòi ra công tìm kiếm thức ăn nuôi con. Anh chòi lùa đàn bọ quăng từ đầu bờ ao nầy tới. Quả hoa xua đàn bọ gậy từ đầu bờ ao kia lại. Hai phía cùng dồn đàn bọ vũ quăng võ gậy cho rồng rồng xem rồi đánh chén. Chúng vừa ăn vừa lao xao bình luận:

    -Cái giống bọ quăng vung gậy đánh nhau suốt cả ngày thế mà ngon quá!

    -Ưa đánh nhau, khoe võ nghệ dọa đời thì phải xơi cho hết sạch sanh.

    Quả hoa vừa coi rồng rồng vừa kể chuyện cho các con nghe:

    -Nó là ấu trùng của loài muỗi đó. Thích chinh chiến để hóa thân thành bọ hai cánh bay vo ve hút máu các loài thú trên cạn và truyền nhiều dịch bệnh nguy hiểm như sốt rét, sốt xuất huyết, viêm màng não Nhật Bản và bệnh giun chỉ...

    Rồng rồng đồng thanh nói:

    -Nếu vậy thì chúng con không để sót một con lột xác thành muỗi bạc ác, mẹ ạ!

    Bố chòi khen:

    -Các con ngoan lắm! Mới là rồng rồng đã là hiệp sĩ rồi đó!

    Nhưng rồi bọ quăng cũng hết. Đàn rồng rồng khôn lên bao nhiêu thì cơ thể còi cọc đi bấy nhiêu. Con nào con ấy suy dinh dưỡng giơ bộ xương sườn xương sống như thần chết. Hình như cũng sơ nhiễm lao nên hay sốt về chiều. Một số rồng rồng ít hoạt động cứ lờ đờ nghe chừng bị bại liệt. Chòi bố ít biết lo xa. Quả hoa cả lo, lại lam lũ kiếm ăn nuôi con nên gầy rạc đi, vây vẩy xanh xao chẳng còn xuân sắc như ngày nào nữa. Đang tuổi thanh niên mà đã ra mẹ rồng. Thâu đêm quả hoa trằn trọc thao thức không ngủ lo nỗi lo làm mẹ tần tảo nuôi con, làm thế nào để chữa bệnh cho con bây giờ? Chị nhớ lời chồng kể. Cụ chuối ngộc đã dặn dò: “Tự tìm thuốc, tự cứu lấy mình”. Phải lắm! Đã hết thời bao cấp mà lị! Không tự cứu còn chờ vào ai nữa? Không thể quen cái thói ăn sẵn mà học theo lối há miệng chờ sung rơi vào. Không thể hơi ốm đau, đã vào viện chờ cấp thuốc. Nguồn thuốc trong thiên nhiên không thiếu, chỉ sợ mình thiếu can đảm, bé trí khôn. Mật và thịt kỳ đà. Kiến đen đỏ vàng. Trứng ruồi bọ nhặng. Chúng vừa là thức ăn bổ dưỡng vừa là vị thuốc thần hiệu. Trong ao không có thì phải tìm ngoài ao. Ước mơ và hành động. Nói đi đôi với làm. Không thể chờ đợi trời cứu và cái chết. Cha mẹ nào nỡ lòng bó tay để con khổ con bệnh? Nghĩ đến đây, thì trời sáng bạch. Quả Hoa quyết định cứu con trước cứu mình sau. Chị gọi chồng dậy, lôi vây nói:

    -Bố rông rồng ơi! Hôm nay em thực hiện lời chỉ dẫn của cụ chuối ngộc đây! Anh có tin là được không?

    Bố cu chòi còn ngái ngủ đã càu nhàu:

    -Lão già đánh đố để quay về mua thuốc của lão. Mình chẳng còn tí nhan sắc nào bán để có thủy kim.

    Quả hoa cười trêu:

    -Em còn xuân chán! Em bán hoa, bố rồng rồng có ghen không đấy?

    Anh chòi hai vây choàng vai vợ:

    -Đứa nào dùng thủy kim mua em làm bồ nhí không còn cái đầu với anh đâu. Thân em có tàn tạ như hoa héo vẫn là người vợ đẹp của anh!

    Quả hoa vui vẻ phân công:

    -Anh đi tìm nhái. Em dẫn con đi tìm thuốc. Thi đua xem ai lập được công to.

    Chòi Sộp tán tỉnh:

    -Có thành tích được thưởng cái gì?

    -Em thưởng cái nầy!...

    Chòi Sộp nói quả quyết:

    -Anh thưởng em con ngóe thật mập!

    Phải khó nhọc lắm, Quả hoa mới đưa được đàn rồng rồng sang bờ bên kia. Nơi ấy, có bóng cây to. Trên cành có tổ kiến đen, kiến vàng. Dưới gốc chắc chắn có tổ kiến đỏ. Quả hoa chưa nhảy cao bao giờ. Nhưng chị quyết chí nhảy lên gốc cây ấy. Ngày còn đi học, đến giờ thể dục nhảy xa nhảy cao là bỏ trốn. Bây giờ mới thấy tiếc. Nếu nhảy lên được thì ai trông con? ếch đến ăn thịt thì sao? Biết vậy bảo Chòi Sộp đi cùng có tiện lợi không? May quá có cụ cá trê ngồi dưới bóng cây. Quả hoa bơi đến:

    -Chào cụ trê ạ! Cụ làm ơn cho con gửi đàn rồng rồng một lát nhé!

    Cụ trê cười móm mém cái miệng bẹp:

    -Được!

    Quả hoa lấy hết sức mình, quật đuôi đánh bốp lên mặt nước, tung sóng, nhảy phốc lên mặt bờ dưới gốc cây, nằm thẳng đuôi như chết. Vài phút sau thấy đầu còn nghĩ mới biết mình còn sống. Chị bắt đầu cảm giác buồn buồn, ngứa ngứa, tê tê rồi đau nhoi nhói toàn thân. Ở mang ở miệng như bị rứt ra từng miếng thịt. Quả hoa sẽ he hé mắt:

    -Trời ơi! Cơ man nào là kiến...

    Kiến đen, đỏ, vàng thi nhau kéo đến bu đầy mình Quả Hoa. Kiến chúa rung râu vung kiếm hò hét khiêng chị lên tổ. Nó phùng mồm trợn má quát:

    -Tất cả nghe ta nói đây! Ta hô một mó tay. Ta hô hai chuẩn bị. Ta hô ba cùng bốc con mẹ nầy khiêng đi!

    Đàn kiến thợ ba mầu dạ ran:

    -Sẵn sàng!

    Kiến chúa lập tức nhún chân, múa tay, hô liên tiếp:

    -Một hai ba ! Một hai ba ! Một hai ba !...

    Quá tam ba bận, đàn kiến dốc tổng lực, liên hiệp đen đỏ vàng khênh không nổi. Kiến chúa nói:

    -Chủ quan nóng vội, mơ mộng hão, hỏng việc. Con mẹ nầy ngoan cố ì ra đấy. Ta chia xác nó làm ba phần: đầu cho kiến đen, giữa cho kiến đỏ, đuôi cho kiến vàng. Hãy xả thịt nó ra mà ăn cho no. Còn lại tha về tổ mau !

    Thế là hàng vạn cặp răng kiến tới tấp rứt vây, rứt thịt, xẻ ra từng mảnh nhỏ li ti. Miệng kiến cắn xé. Đít kiến châm đốt, tiêm nọc độc cho Quả Hoa chết. Quả Hoa đau đớn quá, không chịu được, liền cựa vây. Đàn kiến tung tóe chạy tản ra. Chị lại nằm yên, giả chết nhử chúng vào. Lần nầy, chị cắn răng chịu đựng nỗi đau đớn cực hình, ngoài sức tưởng tượng. Dù chị có phải hy sinh vì Rồng Rồng cũng cam lòng. Khi lũ kiến mê mải xé xác mình, bất ngờ chị lật thân, quăng ùm xuống ao mang theo hầu hết đàn kiến đen đỏ vàng. Đàn Rồng Rồng đang mếu máo gọi mẹ thì thấy nước tung tóe, mẹ hiện ra giữa những đám kiến trôi nổi lềnh bềnh. Chúng khúc khích cười ùa đến đòi quà chợ. Quả Hoa mừng tủi giục các con:

    -Kiến đấy! Quà thuốc của mẹ, các con ăn đi ! Ăn cho khỏi bệnh. Ăn cho khỏe mạnh, để lớn thành chõn thành chòi, cho bố mẹ nhờ. Ăn mạnh lên các con ơi !

    Đàn Rồng Rồng lúc đầu sợ sệt ngập ngừng, sau càng ăn càng quen, càng quen càng ngon. Chúng há mồm đớp kiến nhai rau ráu, động nước lách tách rất là vui. Cụ cá trê trông cảnh tượng ấy, mà thèm lây, cười mãi cái miệng bẹp dài chỉ còn có lợi. Mẹ Quả Hoa tươi cười nói:

    -Cảm ơn cụ ! Các cháu có ngoan không cụ?

    Cụ trê đáp:

    -Có chi mà cảm ơn ! Rồng Rồng nhà chị cũng như cháu chắt của tôi. Có điều là chị kiếm mồi quả lâu. Nên chúng nó nhớ. Có lão ếch đến quấy rầy. Bị tôi mắng cho, xấu hổ bơi về hang rồi. Tôi cứ lo cho chị ở trên bờ không được bình yên. Chẳng may mà gặp chim, chuột, mèo thì không còn. Vả lại kiến đốt chết voi mà sức chị thì đáng là bao.

    Mẹ Quả Hoa e lệ cúi đầu:

    -Con cũng liều cụ ạ ! Người ta vẫn nói Rồng Rồng cá chuối đắm đuối vì con mà !

    Đàn con được bữa kiến no, khỏe hẳn lên, lượn tung tăng. Chúng cùng nhau há miệng đớp không khí. Cùng hụp lặn xuống tầng nước sâu. Lên lên xuống xuống. Bọt khí tung ra như hoa bay.

    Khi ra về Quả Hoa bảo Rồng Rồng:

    -Ạ, cụ đi các con !

    Đàn con quay đầu về phía cụ trê đồng thanh ạ vang dậy ao. Mẹ con đi rồi cụ Trê mỉm cười một mình:

    -Con mẹ Quả Hoa nầy can đảm thật !

    Vừa về đến nhà, bố Chòi Sộp cũng đã tha ba con nhái về. Anh hớn hở nói:

    -Phần thưởng của bố Chòi mừng mẹ Rồng Rồng đây !

    Quả Hoa ôm chồng hôn:

    -Còn đây thưởng bố Rồng Rồng như đã hứa !

    Bố mẹ quay ra ngắm đàn con xúm xít xung quanh: Mắt đứa nào đứa ấy đen lay láy. Vây bơi, đuôi quẫy nhanh nhẹn ngộ nghĩnh.

    Bố Chòi cười cười:

    -Em kiếm được kiến cho con phải không?

    Quả Hoa liếc chồng:

    -Sao anh biết?

    Anh chòi đặt nụ hôn lên má vợ:

    -Coi Rồng Rồng hớn hở như lớn ra đó !

    Quả Hoa xé mồi, đưa chồng ăn rất ngon miệng:

    -Chỉ một tí nữa hôm nay, vợ anh Chòi bị kiến đen đỏ vàng khênh lên tổ trên cây cao.

    Anh Chòi trố mắt:

    -Phục em quá đi ! Dám nhảy lên gốc cây bắt kiến xuống ao cho con ăn ! Ai trông con để em làm việc đó?

    Quả Hoa nói:

    -Có cụ trê tốt bụng coi hộ !

    Anh Chòi vẻ nghi ngờ:

    -Nghe nói họ nhà trê có kẻ xấu bụng, một là ăn thịt, hai là nhận xằng Rồng Rồng con mình.

    Quả Hoa kể thêm:

    -Các cụ vẫn kể ngày xưa, trê cướp nòng nọc của cóc. Cóc kiện lung tung, đục nước béo cò. Còn với cụ trê bây giờ hiền lắm. Trông mặt gửi vàng. Ai dại gì gửi trứng cho ác phải không anh !

    Chòi Sộp cảm động nói:

    -Em hơn anh cả sự hiểu biết lẫn tài nhảy cao vượt bờ. Ngày xưa cụ tổ nhà chuối thi vượt vũ môn cũng được giải vàng của Ngọc Hoàng.

    Anh Chòi ngồi ngắm vợ ăn và chuyện trò vui vẻ. Nhưng càng nhìn anh càng thương vợ. Ăn được mà sao cứ gầy nhanh thế kia? Rồng Rồng lớn lên bao nhiêu thì Quả Hoa gầy đi bấy nhiêu. Hình như có tí sinh lực nào mẹ nhường hết cho con. Được thuốc kiến cho Rồng Rồng thì mẹ bị đầu độc và tăng bệnh lên. Đúng là Quả Hoa mắc chứng hậu sản rồi. Anh Chòi nghĩ miên man. Tìm đâu được cái mật con kỳ đà? Con vật đó có hình thù ra sao cũng chưa biết? Cứ quẩn quanh trong ao tù nầy, bao giờ biết được muôn vật trên đời. Thấy chồng tư lự, Quả Hoa quay lại:

    -Em gầy lắm sao?

    Chòi âu yếm nói:

    -Cũng gầy ! Cố ăn hết khẩu phần đi ! Em sẽ khỏe ra...

    Quả Hoa bàn:

    -Sáng mai bố Rồng Rồng cùng em đi lấy thuốc thứ hai cho con để khử nọc bệnh nhé !

    Anh Chòi thắc mắc:

    -Thuốc gì mà hiệu quả thế?

    -Trứng ruồi, ròi nhặng ấy mà !

    Anh Chòi vẫn chưa tin:

    -Ruồi nhặng có ở nước đâu mà tìm. Em mà bay lên trời bắt được chúng ư?

    Quả Hoa tủm tỉm gật đầu:

    -Chúng mình cùng bay lên nhé !

    Sáng hôm sau. Trời quang quẻ. Nắng vàng long lanh. Vợ chồng Chòi dẫn đàn con đến bờ ao trước mặt. Anh Chòi thương vợ yếu nhận đi lấy thuốc thay. Quả Hoa không nghe. Chị nói:

    -Bố Rồng Rồng có khỏe nhưng chưa có kinh nghiệm. Tính nóng vội dễ hỏng việc. Bố Chòi trông con và canh gác cho em. Nếu có ác thú trên trời dưới đất phải báo cho em biết.

    Nói rồi Quả Hoa quẫy đuôi nhảy phốc lên mặt bờ ao, nằm sõng soài giả chết như hôm trước nhử kiến. Một lát sau mùi tanh cá bay đi. Dưới nắng ngày càng to, Quả Hoa bị khô cong cả vẩy. Miệng khát như điên. Thân phát sốt như nằm trên chảo gang nóng. Đánh hơi, một con nhặng xanh trên trời bay tới. Nó lượn vòng tròn, giương mắt nhòm ngó, hạ cánh xuống mang Quả Hoa. Đôi cánh xòe xòe. Cái vòi dài thọc vào khe mang khua khoắng. Rồi đít chổng lên trời cắm đầu hút máu. Đã căng bụng nó lùi ra vỗ cánh bay vù đi. Tiếp theo một con ruồi trâu cũng hạ cánh bò khắp thân Quả Hoa. Bốn chân có móng cấu vào buồn buồn. Quả Hoa không dám cười. Nó cũng thò cái vòi vào khe môi hút máu. Được một bầu no nó cũng vỗ cánh bay đi. Quả Hoa biết chúng là loại nhặng ruồi thám thính. Một lát sau, một đàn nhặng xanh kêu như ong vỡ tổ vo vo ve ve vang trời đất, bay như đám mây đen lần lượt đỗ xuống thân Quả Hoa. Tiếp theo là đàn ruồi trâu ào ào kéo đến. Tranh nhau hạ cánh xuống thân Quả Hoa. Có đến ngàn vạn nhặng ruồi bu kín mít. Quả Hoa ngạt thở. Con nào con ấy cắm đầu chổng đít hút máu. Chốc chốc một con mòng trâu bay đến. Đàn ruồi nhặng bay vù lên kêu rầm rĩ. Khi con mòng hút máu no bay đi, đàn nhặng ruồi lại tụ về xô bồ hỗn loạn. Một con nhặng có đôi mắt to thố lố ra lệnh:

    -Đã no máu cá bắt đầu truy hoan. Đẻ trứng vào mang vào vẩy con cá quả nầy cho ta !

    Một con ruồi ngố cũng tuyên bố:

    -Truy hoan đẻ trứng ngay ! Chậm trễ nhặng tranh mất phần. Tất cả hãy vì tương lai con em chúng ta !

    Thế là chúng nhậu ôm, hút ôm, đẻ ôm. Cắm đầu hút. Cắm đít đẻ trứng liên tục như máy. Trứng nhặng to hơn trứng ruồi. Trứng nhặng ruồi to vừa phải. Khắp thân Quả Hoa trứng trắng dã. Trứng nầy vừa đẻ ra, trứng kia đã nở ấu trùng, đua nhau lách mang, lách vẩy, cắm vòi, bám răng đục khoét máu thịt Quả Hoa. Chị đau đớn âm thầm không dám kêu, không dám cựa quậy, chịu chồng chất nỗi ô nhục của cõi đời. Tưởng là không thể chịu đựng được nữa, nhưng nghĩ đến Rồng Rồng chị càng cố gắng thêm. Vì đàn con, chịu gánh tất mọi khổ nhục trần gian. Thình lình trên trời có con diều hâu đánh hơi tanh cá bay đến. Nó lượn vòng. Mắt cú vọ đảo đi đảo lại soi mói. Nó lăm lăm cái mỏ khoằm, bổ nhào xuống, định cắp Quả Hoa bay lên trời. Bố Chòi dưới ao lo sợ gọi ầm lên:

    -Diều hâu đến ! Xuống ao ngay !

    Quả Hoa nghe tiếng chồng, lập tức lật mình, quăng thân xuống ao đánh “bõm” một tiếng, tung sóng trắng lên trời. Diều hâu xà xuống vồ hụt. Ruồi nhặng bay rầm lên như đám khói đen sì. Con diều hâu còn tiếc rẻ, đảo lại một vòng nữa, mới chịu bỏ đi. Dưới ao, bố Chòi dìu mẹ Quả Hoa. Chị vẫn run lên cầm cập. Hơi thở hổn hển chưa hết nỗi bàng hoàng. Rồng Rồng vây lấy mẹ. Anh Chòi bảo đàn con:

    -Trứng ruồi bọ nhặng trắng dã trên thân mẹ đó ! Chúng là thuốc bổ dưỡng và chữa bệnh, các con hãy ăn đi !

    Rồng Rồng nghe bố, đua nhau đớp ăn thật vui mắt. Đàn con rúc rích đớp trứng bắt ròi làm cho mẹ dễ chịu hẳn đi. Chị thấy tiêu tan hết nỗi đau đớn cực hình. Trong lòng dào dạt niềm yêu thương chồng con. Anh Chòi nhìn đàn con ăn thuốc rau ráu mà an tâm. Nhưng lại xót xa thương vợ, tự giận mình chưa có nghị lực làm công việc tìm thuốc cứu con như thế. Anh nói:

    -Mẹ Rồng Rồng vất vả lắm ! Lần sau phải để bố Rồng Rồng lấy thuốc nhé !

    Quả Hoa nở nụ cười hiền hòa:

    -Em có mệt nhưng chưa bằng anh săn nhái khó nhọc hơn !

    Rồng Rồng ăn no cũng nổi một loạt há miệng trên mặt nước thở hít khí trời. Cùng một loạt lặn xuống sâu gây động nước như mưa rào. Chúng khỏe khoắn hẳn lên, tung tăng bơi lội cuộn tròn như quả bóng vàng, quay quay trong nước rập rờn hơi thở của sự sống. Những bọt nước sủi lên như bóng bay vui mắt.

    Một tháng qua. Rồng Rồng đã lớn bằng ngón tay người. Tuổi sơ sinh bệnh tật đã lùi vào dĩ vãng. Từ nay mang tên mới là chõn. Chõn kiếm ăn tự lập được rồi. Chúng tạm biệt bố mẹ chia nhau từng nhóm đi kiếm sống nơi nơi. Lúc nào nhớ bố mẹ chúng tìm về thăm hỏi quấn quít một lúc lại ra đi. Vợ chồng anh Chòi được thanh nhàn hơn. Nhưng bệnh hậu sản của chị trở nên trầm trọng. Anh Chòi kiếm được mồi nhường nhịn nuôi vợ mà vẫn không lại sức. Có ăn mà chưa có thuốc trị bệnh cũng chưa khỏe được. Nhiều lúc Quả Hoa không nhấc nổi cái vây lên được. Cứ nằm ngửa trong nước mà há đôi mang. Trong cái ao tù đã có bao nhiêu sản phụ chết vì bệnh nầy, khó mà đếm hết tên. Anh Chòi đâm lo lắng dữ lắm. Kiến, trứng ruồi bọ nhặng có thể tìm ra. Còn kỳ đà thì quả là khó khăn vô cùng. Tìm nó bằng cách nào hả trời? Trời có lụt đâu mà phóng ra khỏi ao tù đi khắp chốn xem sao? Cứ thế nầy, thì cái ao làng quanh năm đục ngầu cướp mất em Quả Hoa của ta thôi !

    Quả Hoa ú ớ mơ giấc chẳng lành. Chị bị con kỳ đà săn đuổi nên choàng dậy. Thấy chồng ngồi vò đầu thức trắng mà thương quá. Chị quờ vây ôm chồng nũng nịu:

    -Anh đừng lo em chết nhé !

    Anh chòi nói:

    -Anh đang nghĩ cách tìm kỳ đà cho em!

    Quả Hoa tâm sự:

    -Ngày còn đi học có biết con kỳ đà vẽ trong trang sách. Nó là loài bò sát họ thằn lằn nhưng to. Nó vừa sống trên cạn vừa sống dưới nước. Nó ăn thịt chim, nhái, cá. Chuối ngộc có thể đánh được nó? Trong ao tù , chờ đến ngày làm mồi cho bọ quăng cũng chưa thấy nó. Muốn tìm được nó phải vượt cái ao nầy. Nếu đến được suối hồ mới có hy vọng. Anh còn nhớ địa lý vùng nầy không?

    Anh chòi gõ vây lên đầu mấy cái:

    -Không! Ngày bé ham chơi, lười học, óc bã đậu vẫn chưa hình dung ra suối hồ thế nào?

    Quả Hoa sửng sốt:

    -Thế thì em nhớ ra rồi!Thế nầy nhé: Bờ ao kia là đường nhỏ đi ra đường lớn qua một cái cầu trên suối. Ngược suối lên một cái hồ nước tận nguồn núi cao rừng sâu. Phải ra được suối ấy mới có cơ hội.

    Anh Chòi chau mày:

    -Chỉ có chờ mưa lụt to mới lách ra được!

    Quả Hoa nén bực dọc:

    -Nói như anh có mà chờ đại hồng thủy. Phải nghĩ cách nào thực hiện ngay bây giờ. Cứu bệnh như cứu hỏa mà lị!

    Anh Chòi cảm thấy đầu mình tối như hũ nút:

    -Đã bảo anh vô học thức. Người ta bảo bé học lớn làm. Bé anh lười học, lớn làm gì có khôn? Tìm được cách chi?

    Quả Hoa trình bày dự kiến:

    -Nếu anh vững lòng bền chí đi cùng em thì cùng nhảy lên bờ ao kia! Có người đi ra đường lớn. Họ sẽ bắt chúng mình xâu chung một lạt xách đi. Lúc qua cầu, thình lình chúng ta cùng rãy mạnh. Chắc chắn người ấy tuột tay. Chúng mình cùng lao xuống suối. Nếu lạt không đứt thì ta cắn đứt lạt mà bơi đi. Trừ khi lạt là sợi giây thép mới chịu bó tay.Thôi thì đằng nào cũng chết một lần. Chết vì sự khám phá tìm đường vượt ao tù còn hơn sống khổ nhục tật bệnh nơi nầy.

    Anh Chòi trầm ngâm:

    -Đúng là phiêu lưu mạo hiểm quá!

    Quả Hoa nói quả quyết:

    -Từ cái chết tìm ra con đường sống là thế!

    Anh Chòi sát vây vào vây Quả Hoa:

    -Anh nghe em!

    Hôm sau bố Chòi mẹ Quả Hoa gọi đàn chõn về nhà căn dặn:

    -Các con chịu khó học hành làm ăn, phải rèn luyện cách bơi nhảy. Nhất là nhảy xa nhảy cao nhảy cầu vồng để vượt bờ và tránh kẻ thù. Phải rèn cách bò và chịu đựng lâu trên cạn. Phải trau dồi kiến thức khoa học và đời sống. Khi nào mưa to nước lớn các con thành chòi thì vượt ao tù nầy, ra suối ngược lên hồ tìm bố mẹ. Bây giờ bố mẹ tạm biệt các con. Bố mẹ đi tìm một con kỳ đà để chữa bệnh. Hẹn gặp lại các con một ngày không xa.

    Trời đã sáng rõ. Tiếng người í ới trong xóm gọi nhau đi chợ đi làm. Một cô gái quẩy gánh đi qua đường bờ ao. Vợ chồng anh Chòi phục sẵn nhảy lên mặt đường đón đầu. Cô gái giật mình:

    -Ồ! Hai con Chòi Sộp và Quả Hoa! Chúng mầy đuổi nhau lên đây à! Tao cho đi chợ nhé!

    Cô gái bắt hai con cá chuối vào rổ tiếp tục gánh đi. Đến đầu cầu cô gái gặp bà lão. Thấy hai con chòi, bà lão chép miệng:

    -Ngon quá! Câu được hay sao?

    Cô gái ỏn ẻn kể lại chuyện bắt được cá nhảy lên bờ ao. Bà lão giật mình bảo:

    -Chim sa cá nhảy chớ bắt. Điềm xấu lắm!

    Cô gái dẫy nẩy cuống lên:

    -Thế thì cháu cho chúng nó xuống suối !

    Miệng nói tay cầm rổ chưa kịp hất thì vợ chồng anh Chòi đã quẫy đuôi nhảy cầu vồng xuống suối ùm ùm hai tiếng. Một lúc sau Quả Hoa mới đỡ mệt. Anh Chòi dìu vợ sang bờ phải cùng nhau bơi ngược nguồn. Đến một vũng xoáy, Quả Hoa chóng mặt hoa mắt phát sốt. Mặt rát như châm lửa. Anh Chòi dìu vợ tìm nơi dưỡng bệnh. Bỗng gặp một cái hàm ếch rộng rãi nước lặng. Trong hang lão ba ba đang ngủ. Đầu cổ chân co tất cả vào trong mai, chẳng khác cái chảo úp xuống đất. Thấy động đầu lão thò ra:

    -Anh Chòi vào đây làm gì?

    -Thưa cụ ! Chúng con mới từ ao tù ra, chẳng may Quả Hoa nhà con sốt, xin cụ cho trú nhờ.

    Lão ba ba ân cần bảo:

    -Được ! Ta nhường cho một buồng tử tế. Hãy dìu cô ấy vào !

    Lão ba ba biết ngay Quả Hoa bị bệnh hậu sản trầm trọng. Quen ở ao lặng, nay ra dòng chảy sinh cảm nhiệt. Ba ba liền bẻ một miếng dìa mai của mình đưa cho anh Chòi:

    -Đây là thuốc mát. Anh đưa cho cô ấy ngậm sẽ giảm sốt.

    Quả Hoa máy môi cảm ơn và cho thuốc vào miệng. Lão ba ba nói:

    -Cô hãy yên tâm nằm nghỉ sẽ khỏe ngay !

    Quay ra lão hỏi chuyện anh Chòi:

    -Trong ao có sự cố gì mà phải vượt đi?

    Anh Chòi kể lại cái ao tù của làng: “Đồng thủy kim ngự trị. Từ Rồng Rồng đến tiến sĩ Chuối Ngộc cũng không sống nổi. Các giáo sư, nhà văn, nhà bác học tầm cỡ Ngộc Chôi, Ngộc Mè, Ngộc Chày, Ngộc Trắm... đều chết bệnh vì chất xám rẻ mạt không có thủy kim hộ mệnh. Bọn trắm cỏ, trắm ốc chỉ coi trọng đồng tiền. Vợ con mắc hậu sản. Không có tiền mua thuốc. Tiến sĩ y học Chuối Ngộc bảo tìm con kỳ đà tự cứu lấy bệnh của mình. Do vậy chúng con vượt ao tù ra đây ạ !”

    Lão ba ba khen:

    -Vợ chồng anh can đảm tự cứu mình. Khá lắm ! Hết bao cấp tất thời phải thế. Thanh niên bây giờ phải tự khẳng định vị trí của mình, tự lực tự cường, không có ông thần bà thánh nào cấp ăn, cấp mặc, cấp việc làm cho đâu. Học được câu nầy của cụ Nguyễn Trãi thời ung dung: “ Khó bền, mạnh gắng, khôn ngay, khéo đầy “. Kỳ đà là một hung thần lưỡng cư cơ hội thích ứng linh hoạt trên cạn dưới nước. Chỉ một lẽ sống ăn thịt các loài vật nhỏ yếu. Không dễ lấy mật của nó. Không mưu trí đoàn kết không địch được nó. Vợ chồng anh còn trẻ mà có gan to tày núi, miệng cọp lăn mình thế nầy thì tất thành đạt. Trên đầu nguồn suối nầy, kỳ đà sống hàng đàn. Từ đây lên đó, có vũng xoáy lớn rái cá kiểm soát. Không khôn khéo và gặp may khó bề thoát nạn. Đã có chí vượt ao tù, thời có chí thắng nó. Nên đừng sợ !

    Anh Chòi nghe mà tưởng rụng hết vây, vẩy. Quả Hoa lui sốt, sáng lên niềm hy vọng tìm được thuốc cứu bệnh. Sáng hôm sau, Quả Hoa khỏi sốt họ tiếp tục ra đi. Ba ba lưu luyến tiễn khách một quãng đường. Vợ chồng Chòi nói:

    -Cảm ơn cụ nhiều ! Trên đời ít người có tâm đức như cụ. Chúc cụ thọ an !

    Đến trưa họ tới vực xoáy to. Cá tụ ở đây ăn mồi, nghỉ ngơi, nhảy múa. Vì thế rái cá đến săn. Vợ chồng Chòi dìu nhau vào một quán nghỉ. Chỗ nầy ăn. Nơi kia nhảy, lắc. Bọn cá nào cũng tìm chỗ có ôm, có sập sình, vừa náo nhiệt vừa xa lạ. Ở cái ao tù của Chòi chưa nhập cái lối sống nầy. Một ngày cũng sẽ đến quấy động làm ao đã đục càng đục hơn. Hai vợ chồng Chòi đang xẻ cho nhau cái đùi nhái thì có tiếng la thét đỗ vỡ ầm ầm:

    -Rái cá đến ! Rái cá đến ! Rái cá...

    Chưa nghe dứt tiếng loa báo động, Rái cá đã tung bốn vó có màng bơi đến. Anh Chòi lôi vợ chạy rúi đầu xuống bùn. Chị Quả Hoa lăn theo ngất xỉu. Rái cá nắm lấy đuôi Quả Hoa giơ lên:

    -Con chuối quả nầy thanh niên mà sao ra mẹ rồng rồi? Mầy mắc bệnh gì mà ghê tởm làm vậy? Mẹ kiếp ! Hôm nay ra ngõ gặp gái, xúi quẩy mất rồi! Ông trói con mẹ nầy đây. Không kiếm được con nào hơn thì ông sẽ ăn gỏi mầy !

     Rái cá sục lùng một lát không thấy bóng cá nào. Rô diếc xuống bùn. Trê ngạnh vào hang. Nó càu nhàu chửi bới. Quay về ăn thịt Quả Hoa:

    -Ê con kia ! Mầy ở cái ao tù nào mà hôi thế?

    Quả Hoa sẽ thưa:

    -Tôi ở trong ao làng...

    -Tao biết mà ! Chỉ có ao xóm ao làng tăm tối tù hãm mới có cái giống tật bệnh như mầy. Họ tao vốn không chê vũng nhỏ, nên đành phải bắt mầy làm bữa. Đằng nào mầy cũng được hóa kiếp một lần.

    Rái cá nắm lấy ngang lưng Quả Hoa. Chị kêu:

    -Ông ăn thịt tôi không sợ lây bệnh sao?

    -Bệnh gì mà lây được?

    -Bệnh đường ruột !

    -Tao có thuốc lá cây chó đẻ là xong hết !

    -Bệnh tôi đang lan thành dịch không thuốc nào chữa được.

    -Vi trùng gì mà không diệt được bằng thuốc?

    Quả Hoa có lần được nghe loài người nói có dịch Sida do virus gây ra, liền nói:

    -Không phải vi trùng mà là virus !

    Rái cá nôn nóng quát:

    -Virus gì nói mau?

    -Virus HIV ! AIDS !

    Rái cá sợ hóc xương cá chuối, xây xát khoang miệng chảy máu sẽ bị nhiễm HIV, hoảng sợ ném Quả Hoa xuống bùn:

    -Bỏ mẹ tao rồi ! Sao mầy không nói từ đầu? Tao chót sờ vào có việc gì không?...

    Rái cá vội vàng rửa chi trước rồi tháo chạy ra khỏi vũng xoáy. Anh Chòi chui ra khỏi bùn dìu vợ tìm chỗ nghỉ khác. Đang đói bụng gặp may nhặt được giun dế của họ nhà chiên bỏ chạy. Vợ chồng bón cho nhau ăn miệng vẫn còn run rẩy.

    Từ hôm nghe có dịch Sida đến vũng xoáy, Rái cá không về nữa. Dân cá lại tụ về làm ăn vui hơn xưa. Vợ chồng anh Chòi được cá chuối cho theo đàn. Do đó, cũng kiếm được miếng ăn trong dòng chảy thoáng khí ngon thơm sạch sẽ hơn, chẳng như ngày ở ao tù.

    Ông Chuối Gộc đầu đàn hỏi:

    -Cô Quả Hoa mắc bệnh hậu sản lâu chưa?

    Sẽ sàng, Quả Hoa nói:

    -Dạ ba tháng lẻ rồi ạ !

    -Thế thì trầm trọng rồi đó ! Hôm nay ta sẽ cho đàn chuối bắt một con kỳ đà !

    Vợ chồng chòi theo đàn chuối ông Gộc lên nguồn.

    Trong hang đá, một con kỳ đà chòi đen xám đầu to, cổ nhỏ, mình to, đuôi thuôn dài nhỏ dần. Tứ chi có màng bơi và móng vuốt. Nó trèo cây giỏi, lội nước tài. Từ hang nó bò ra nhảy ùm xuống suối săn lùng cá. Nó sục vào trận địa của ông Chuối Gộc. Một chú chuối chõn bơi ra nhử mồi. Kỳ đà chòi lao như mũi tên vào đích. Thế là bốn phía đàn chuối xông vào bắt. Ông Gộc đớp luôn cái đầu kỳ đà. Bốn anh chuối đớp bốn chân. Còn anh Chòi Sộp cắn đuôi giữ chặt. Kỳ đà dẫy dụa trong cái thế sáu phía giằng thây, một lát sau chết. Đàn chuối tụ lại một vũng xoáy nước. Ông Gộc trao kỳ đà cho vợ chồng Chòi, Quả Hoa. Cái thân kỳ đà to gấp rưỡi lần anh Chòi Sộp. Ông Gộc nói:

    -Bắt kỳ đà không dễ. Kỳ đà ngộc nuốt được cả ta ! Phải có mưu mẹo và sức mạnh tập đoàn mới bắt được nó. Trời nắm phần cho cô Quả Hoa hiền lành nhân hậu. Cho nên hôm nay, mới dễ dàng tóm được kỳ đà chòi. Cô hãy uống mật và ăn hết thịt nó sẽ trở thành cá quả hùng mạnh. Nếu vợ chồng cô thích sống tập đoàn thì ta kết nạp vào hội chuối suối hồ.

    Quả Hoa mừng rỡ nói:

    -Con xin đa tạ ông Gộc và anh em họ chuối ta đã hết lòng giúp đỡ vợ chồng con và cứu bệnh cho con. Ơn nầy chúng con không bao giờ quên !

    Anh Chòi nói:

    -Từ hôm nay, vợ chồng con chính thức có nguyện vọng xin nhập đàn chuối ông Gộc. Xin hứa sống chết cùng với đàn suốt đời.

    Ông Chuối Gộc tuyên bố:

    -Ta có loài có giống phải thương nhau. Thủy tộc là một nhà. Phải biết điều ba cây chụm lại. Từ lúc nầy ta chính thức tiếp nhận bố Chòi Sộp mẹ Quả Hoa làm một thành viên của đàn. Chờ một trận mưa lớn nước tràn bờ, ta cử tốp chuối về ao tù làng đón đàn chõn nhóc ra suối hồ cho cha mẹ Chòi Sộp Quả Hoa !

    Hàng trăm vây mang chuối vỗ vào nhau, reo mừng, múa lượn, quay tròn trong vũng xoáy của dòng suối tự do dài thoáng...

Tết Quê

Mới đây vợ ất có một nhận xét về thế thái nhân tình sắc lẹm, không chỉ đo bằng một Tết một năm mà là hàng chục Tết hàng chục năm. Nói như thời nay là sự trưởng thành trải đời khác hẳn với bản chất mộc mạc chân quê của Thị:

    -Nghe theo miệng lưỡi của người thời nay chỉ có đổ vỡ gia đình, hỏng hết mọi việc. Chồng vợ mình bồ bịch thì xé xác tan thây. Trong khi chồng vợ người bồ bịch thì khen hết lời, nào là ga lăng, nào là sõi đời, nào là tân tiến.

    ất tự hào: “ấy là chốn tận cùng của nhân văn vậy!”.

    Nhưng Thị có sự mâu thuẫn khiến ất giật mình. Trong khi lên án gay gắt thói bồ bịch đa thê, như là đi tiên phong trong đạo đức mới, thì Thị lại kể đầy tự hào khi đụng đến thân nhân, gia đình, quê hương Thị.

    Thị kể như hát:

    Hồi bé hễ đến Tết là em được sang ăn Tết với ông em. Ông em đẹp trai, tài hoa lắm. Đi đến đâu là các cô các bà cứ chết mê chết mệt. Ông lại rất quí cháu, em sang là được ngồi vào lòng ông. Có một Tết em nhận ra chuyện buồn cười lắm. Mâm cỗ bày trang trọng trước ban thờ, ông ngồi giữa, mặt đối diện với ngọn đèn lớn, mọi người cứ thế nối nhau theo vòng tròn. ánh nến chiếu vào da ông đỏ au. Vào cỗ, sau hồi lâu nhâm nhi chén rượu thuốc, ông cầm đôi đũa mun gõ một tiếng “keng” vào cái bát sứ trắng muốt tức thì bà già mà em biết là vợ ông đưa tay xới cho ông bát cơm gạo tám thơm phức. Đến khi ông gõ hai tiếng, thì một bà trẻ hơn xới cơm cho ông. Đến ba tiếng gõ thì lại một bà khác xới... Cứ thế cho hết bữa cỗ. Khi ông gõ lên bốn tiếng cuối cùng vào bát mình thì một người đàn bà còn trẻ đưa bàn tay còn xuân sắc ra...

    Tôi ấy về em mới dám hỏi mẹ:

    - Ông gõ đũa thế là thế nào hả mẹ?

    Mẹ cười rồi tắt nụ cười ngay:

    - Gia phong của nhà mình đấy. Lớn lên con sẽ hiểu. ông con có bốn bà vợ. Vậy mà các bà cứ tăm tắp theo tiếng gõ đũa của ông không hề tị nạnh, giành giật nhau. Mọi chuyện khác cũng thế. Vì các bà yêu ông mà!

    Nói rồi mẹ vuốt đầu con gái, như thể nhấn những chuyện lạ lùng ấy vào đầu cho con gái hiểu.

    Năm nào Thị cũng xăng xái về quê trước Tết dăm hôm. Mang theo lòng nhớ thương và tự hào gia tộc quê hương như cái túi quà nén chặt nơi tay. Mang theo cả độ trải đời và những điều phi lý ở Thị.

- o O o -

    Tàu hỏa đến ga tỉnh sau non một giờ như đi du lịch đồng bằng Bắc Bộ. Xuống tàu đi về con đường huyện càng có nét du lịch hơn. Gió biển Bắc thổi lộng. Vải thiều và vườn chuối, vườn cam xanh mươn mướt quanh năm. Đi sâu vào càng có cảm giác hơi ẩm của biển của sông. Đường liên xã có bến đồ, qua mùa lũ lớn năm trước bị sạt đi nay đã lan lấp lại. Các rặng vải thiều càng nhiều. Đã như nghe được tiếng các loại chim đồng và tiếng cá quẫy...

    Từ bến phà Hệ đến cái xóm Trường Hạ thân yêu của Thị còn phải non chục cây số xe ôm. Đường đất chạy dọc con mương lớn, có cả những mái thuyền nan đây đó. Thị có thói quen cuốc bộ dù mỏi rã rời để ngắm lại con đường tuổi thơ. đã về đến đây chẳng dại gì còn ngồi xe cộ như ở phố xá.

    Quê Thị có con sông Vân úc đầy phù xa. Con sông và những rặng vải thiều ghi vào trí nhớ Thị sâu nhất. Sóng dờn dợn không nhanh không chậm, không ào ạt như bến Bính, Bạch Đằng... Nó nhởn nhơ thanh cao nhưng đầy nội lực bồi đắp. Những bến sông gợi cảnh bà xưa ra bến sông giặt giũ, nó không lớn không nhỏ, không chuyển dịch bao nhiêu trước biến thiên thời gian. Nó có độ bền vững hiếm có. Thị nở nụ cười mãn nguyện trên gương mặt lúc này đỏ như đàn ông say rượu. Ngọn gió mát lạ lùng. Nghe cả những rợn sóng dồn nhau đến tận bờ xa của con sông Vân úc, chạy đến tận đất An Lão quê ngoại ken dày bóng cau. Trầu cau từ xưa thuộc về quê Thị. Thị thở dốc rồi lại cười mãn nguyện.

    Lát nữa Thị đi qua cái cầu đá xanh có từ xửa xưa qua mấy hàng cau, rặng nhãn, là đến mảnh vườn rộng như trang trại và ngôi nhà thân yêu. Mẹ Thị tóc bạc phơ sẽ ra hái hai quả bưởi đường ngọt đến tận gan ruột mà chỉ quê Thị mới có. ông bố đang sắp ban thờ, không quên đưa ra ít vải khô mùa trước còn thơm thoảng vị đường mật của trời đất. Cậu em ra ao vườn lùa cá, cô em dâu hạ vào buồng chuối xanh còn lại để nấu nồi canh cá gia truyền. Tiếng reo lên từ cuối vườn rộng của lũ trẻ cùng ông dồn con lợn chó để chuẩn bị xẻ thịt. Như chỉ quê Thị vườn rộng bát ngát mới có thú nuôi con lợn thả rông từ Tết trước. Điều này thì chàng rể ất đi nhiều vùng quê, công nhận chỉ quê Thị mới có.

    Trẻ con lau nhau mười mất đứa nội ngoại sau khi cùng ông rượt đuổi chú lợn chó, giờ đứng cả ở sân để ăn kẹo bánh bác cả đưa từ phố xá về. Chúng rào rào như cá mặt ao. Vừa ăn quà bánh chúng vừa hứng chí dở “món võ gia tộc” ra với nhau...

    - Ê, cái Tèo giống hệt bố mày!...

    - Ê, cái Xoan giống mẹ thì xinh gái. Còn cái Thơm giống bên bố nó thì xấu điên!

    Cái Xoan vểnh mặt lên, còn cái Tèo, cái Thơm thì khóc rống. Cái Tèo là con cô Thùy, cô út của ông bà, lấy chồng xã trên. Cái Thơm là con cô Thiểu, lấy chồng xã dưới. Tết nào cũng vậy, năm nào cũng vậy, đùa trêu thế nó thành lệ rồi. Tức là chỉ con cháu họ mạc bên Thị là đẹp, còn lai vào họ khác là xấu, khó coi. Loại chuyện này Thị đã kể nhiều lần vào các Tết trước, khiến ất có lúc thấy khó hiểu, đến mức gai người lên.

- o O o -

    Quê duyên hải thuộc cái rốn Bắc Bộ nắng gió hào phóng, đồng đất mênh mông, trù phú đấy nhưng vắt kiệt sức người, nhất là giới đàn bà. Các bà phần nhiều sinh đẻ mấy lứa liền, cả trai lẫn gái khôi ngô, xây được cái nhà mái bằng cuối đời, là kiệt sức. Nhớ Tết trước Thị đã nói: “Quê em lạ lắm anh ạ, toàn các bà chết trước. Thương lắm!”.

    Đàn ông đến ngoài thất thập “cổ lai hy” lại phải gà trống nuôi con, lại phải hồi xuân. Mỗi cụ ông mỗi kiểu, họ quật lên để sống. Phần nhiều dáng cao, mũi thẳng, nước da sóng gió. Giờ họ chống can, đội mũ phớt, áo bành tô, đi lại trên đường thôn. Họ say, họ tỉnh, họ tốt, họ xấu. Đủ cả.

    Chú Láng của Thị đã sang tuổi bảy tư, nằm trong số đàn ông đặc biệt đó. Chú cao, khỏe, nổi tiếng vó bè một vùng. Chú đầy tính cách và tự tin, thời trẻ lấy thím có khuôn mặt đẹp nhất làng, sinh đàn con cả trai lẫn gái. Nghèo nhưng đầy chất đàn ông, đầy tự trọng. Nổi tiếng vó bè dọc một nhánh con sông Vân úc, chú kéo lưới, các con trai chú dồn cá dọc hai bờ, vui lắm. Cảnh này Thị cũng đã kể từ ngày mới quen ất.

    Như phận nhiều người đàn bà ở quê, thím Láng đẹp người, đẹp nết sau khi xây xong cái nhà mái bằng ở giữa mấy sào vườn rộng rãi thì lăn ra chết. Chú Láng khi thím sống thì chửi bới, mỗi lần thím đi phiên chợ Hệ về là phải có thứ ngon cho chú nhắm rượu, không có là bị chửi. Từ ngày vợ mất chú có nỗi buồn hận lạ lùng, chú uống rượu ít hơn trước, chuyển qua thói nghiện nghe băng cát-sét, nhất là những bài nhạc buồn. Chú nghe ở nhà chòi góc vườn cao vọi, mở vô-lum to, ngỡ cả xã nghe được. Nhiều nhà suốt đêm thao thức vì những bài hát từ cái chòi của ông Láng.

    Các bà khuất bóng sớm, các ông sống dai dẳng. ở quê sinh ra cách “làm mối ngược”, tức là con cháu to gan làm mối cho các cụ. Ngày chớm xuân, sau khi nghe một loạt bài ca buồn ở cái đài của mình, chú Láng diện áo bành, đội mũ phớt, cầm can đi ra đình làng.

    Ô, cụ Láng diện bảnh quá, da dẻ cứ như trai tráng.

    - Cụ Láng đẹp giai ơi, cụ đẹp duyên được rồi đấy.

    Chú Láng nghe lạ tai, thấy đám trẻ cứ chỉ trỏ mình mà cười. Chú đập cái can xuống đất, chửi một thôi một hồi. Lũ trẻ không tha, cứ cười ầm lên. Chú Láng thấy vành tai nóng, khuôn mặt cũng nóng ran. Bất chợt có đám các cô đi chùa về. Lũ trẻ càng cười trêu mạnh hơn.

    Chú Láng cảm thấy không nên chửi đổng nữa. Chửi thế nó phàm phu tục tử. Trong đám các cô đi chùa về có một người nhà dọc bờ sông Vân úc đã biết tài vó bè của ông Láng từ năm nao, sau khi chồng mất một mình nuôi con thì đêm đêm không ngủ được vì tiếng đài nỉ non của ông Láng. Vườn nhà ông to đẹp mê hồn, các con cũng yên bề cả, ông ấy lại có máu đàn hát đến hay... Lũ trẻ tinh ranh biết tỏng điều đó.

    - Cụ Láng ơi. Cụ về với cô Tân đi!

    Cô Tân gần năm mươi, tóc còn xanh lắm, dáng đậm tần tảo, da dẻ còn thanh xuân. Cô liếc ông già Láng rồi mất hút vào lùm cây vải lối chùa...

    Đêm ấy chú Láng không ngủ. Lâu nay bữa cơm rượu sáng tối, chú có thói bắt bí đàn con thay nhau dâng hầu. Mấy hôm chú bắt bí nhiều hơn. Thậm chí có ngày chú bỏ ăn. Đàn con đâm hoảng:

    - Sao vậy bố? Hay cơm rượu nhà con sắm không ngon?

    Chú Láng vùng dậy:

    - Chúng mày sang thưa chuyện với nhà cô Tân cho tao!

    Các con trố mắt:

    - Sao ạ?

    Chú Láng quát:

    - Giăng sao gì! Tao muốn sống với cô ấy!

    Đàn con hiểu, chẳng đứa nào ích kỷ, chuẩn bị lễ mọn sang hỏi cô Tân cho bố. Cô Tân về êm thấm với ông Láng. nhà không còn tiếng chửi như trước.

    Chú Láng trẻ khỏe ra. Diện cái mũ phớt, áo bành mới, chú năng ra đình làng chơi. Nhiều lần chú khen cô Tân tuổi đầu năm mà mông má còn đẫy đà đáo để, tính lại hiền thục, sống êm ấm lắm.

    Mừng chó chú Láng. Làng quê từ Tết Ngựa này chắc có nhiều người đàn ông theo gương chú Láng.

- o O o -

    Ngày cận Tết. Điện thoại réo liên hồi:

    - Chị em bị cảm. Báo anh biết...

    Tối lại réo:

    - Chị em bị cảm, chưa lên được!...

    Rồi vợ ất cũng lên được như con sứa dạt vào bờ. Thị về quê ăn phải món canh cá, thịt lợn chó, hay là hoa quả như cam Tàu nên bị “thổ tả” nặng lắm. Cả nhà hoảng hồn. May có anh bác sĩ về Tết tìm cho dăm vị thuốc mới đỡ. Thị sốt cao lắm.

    Thị sốt triền miên. Cả ngày đêm trong mê sảng. Chưa bao giờ Thị lâm cảnh ngộ như vậy. ất hoảng. Bây giờ ất mới biết hoảng.

    Tỉnh dậy Thị hốc hác như đã nằm lịm đi hàng năm trời. Chỉ ăn được múi bưởi vườn nhà đưa lên cúng Tết. Má tóp, mắt đỏ quạch, tay run run cầm múi bưởi. Thị nói như mê sảng:

    - Chuyện chú Láng vui lắm. Lũ trẻ reo hò quanh ông nhà ta hôm lùa bắt con lợn chó vui lắm. Mà các cháu con mấy thằng em mới tuyệt chứ. Giống ông bà nội, cứ như tranh vẽ...

    Rồi lại nói:

    - Hôm nào anh về mà xem. Cầu phà Hệ cũng sắp bắc rồi đấy. Tết sau anh về thẳng nhà được rồi. Năm nay nhà em lại nuôi con lợn chó như các năm trước. Chắc còn thơm thịt hơn năm trước!

    Ất nhắm mắt lại thấy một cây cầu mới bắc qua con sông hiền hòa trong xanh và một chú lợn chó chạy loạn trong khu vườn rộng.

    Đêm mùng 3 Tết Ngựa khó quên

Cõi Ất Dậu

1. Mẹ sinh tôi vào giờ đói, ngày đói, tháng đói, năm đói. Đã thế lại còn giờ ất, ngày ất, tháng ất, năm ất. Bấy giờ có con gà như con gà rừng bỗng đập cánh gáy lênnhững tiếng như quát, như khóc, rồi trầm xuống giai điệu như có thơ có nhạc. Tôi bước qua cửa tử ất Dậu, khởi thủy là một chú gà con đỏ hỏn, như chó như lợn bao tử. Lại như thi sĩ đồng trinh giáng thế, như tráng sĩ giẫm lên xác người chất đầy các ngả đường.

    Thật chẳng còn gì để mà nói nữa!

    2. Tôi vội vã tìm lên phía núi Trúc (gần Bách Thảo), một địa chỉ xuất bản sách uy tín, cầm cuốn tuyển thơ đồ sộ mới toanh về. Được nhận hai cuốn tác giả, cho tôi, Lại Công Vấn và em trai Lại Công Đắt. Tôi sinh ất Dậu, năm đói chết người, còn chú Đắt sau đó hai năm. Tôi một đời lặn lội thân cò, học đại học văn rồi lao vào làm thơ thì chỉ được chọn một bài. Chú Đắt học toán, là tiến sĩ toán học, giàu sang nhẹ nhàng như một bài thơ, chỉ coi thơ là một trò chơi ất ơ, thì được chọn những ba bài. Hỏi, thì được nói: “Cầm về đi. Thời nay in cho là may rồi”. Hỏi nữa thì được nói: “Ông đa tài, viết cả văn. Trừ hai xuất thơ là phải”.

    Cầm về vội khoe với anh bạn cùng làm ở Sở. Anh này lứa chú Đắt, đời những thành đạt nhẹ nhàng như một bài thơ.

    Anh chỉ một bài, trong khi chú em anh nghiệp dư những ba bài. Không công bằng. Không được!

    - Thôi ông ạ. Cuộc đời như cây mía đầy mắt. Tuổi ất Dậu chúng tôi là cái mắt sâu. Các ông là phần mềm, phần ngọt...

    Anh bạn cười rất lạ, hiện hậu nhưng không ra tán đồng, không ra phản ứng. Cái lứa sau đến nụ cười cũng rất khác. Cười giả, cười nhạt cũng đã thấy sướng.

    Sau đó có liên hoan bún ngan theo “mốt”,mừng sinh nhật anh bạn lứa em cũng giàu sang phú quý, xê dịch hai, ba tuổi gì đó, không lợn thì chó. Từ đầu năm 2001, các công sở làm ăn được đua nhau mừng sinh nhật mấy anh cuỗm được nhiều tiền, bằng một hình thức rất dân tộc và đơn sơ là bún ngan. Lối thường trực thoắt trở thành góc chợ quê bún mắm tôm, gọi cửa hàng đem vào, bún ngan, rau thơm bày nham nhở. Đang ngơ ngác ở cổng không biết nên vục vào ăn hay biến thì có tiếng gọi rất lạ:

    - Vấn ơ!! Lại Công Vấn ơ!...

    Chưa kịp định hình thì thấy một thằng người lạ hoắc, kính trắng áo đen, mái tóc thưa nhuộm lâu ngày bạc phếch như lông bò xứ sở xa xôi nào, không rõ tuổi tác, thần sắc... đưa bàn tay như lưu manh vỗ đet vào vai:

    - Trông cứ như lý trưởng!

    - Lý trưởng cái con... Mày là ai?

    - Trướng đây mà!

    - “Biến” lâu rồi cơ mà?

    - Về rồi.

    - Về hẳn à?

    - Khô... ông...!

    Thằng Trường bây giờ là ông tây nói giọng tây thứ thiệt, chứ không phải giả cầy. Thằng bạn trí lự, mắt lúc nào cũng nheo cười sau cặp kính, tinh quái nhưng không hề xoi mói. Hồi cùng lứa đầu xanh tuổi trẻ về cùng cơ quan, một lần Trướng ghé sát cặp kính vào tai tôi.

    - Cùng ất Dậu đấy nhé! Liệu mà sống với nhau!

    Trướng làm việc giỏi. Hồi tình hình lộn xộn, khó khăn đủ thứ, một lần Trướng xin phép đi công tác Hải Hòng, rồi mất tích. Hóa ra Trướng ta sung vào đội thuyền nhân đưa vợ con di tản Hồng Kông. Lần ấy thuyền gặp nạn, cá mập xơi gần hết, cả cặp vợ chồng ca sĩ nào đó. Trướng thoát nạn. Chẳng hiểu vợ con có thoát được không, người ta không hỏi, không nói về gia cảnh của một thằng di tản. Chỉ biết “thằng Trướng di tản rồi”. Thế là đủ!

    Ngồi cùng mẹt bún ngan thời mới ở công sở sau hơn hai chục năm xa, tôi thấy Trướng là một người lạ hoắc. Không ra già không ra trẻ. Không ra tây không ra ta. Không ra trí thức không ra lưu manh cao bồi. Không ra giầu sang, không ra thất cơ lỡ vận... Tóm lại là một thằng người tạp phí lù lạ nhất hành tinh. Chỉ để lại di vết ở anh “Trướng ất Dậu” xưa chút tình, chút ma mãnh mà khờ khạo của người đồng tuế. Tôi gắp miếng tiết ngan thâm xịt bỏ vào bát Trướng, mừng Trướng trở về thăm Tổ quốc. Trướng ngượng nghịu: “Cám ơn”. Tôi đế vào vô duyên “Thanh-kiu”. Trướng đẩy cặp kính trắng hếu, tay cầm đôi đũa ngượng nghịu như không quen nữa:

    - Bên Mỹ, tớ lái xe đi làm xa đến trăm cây số...

    - Làm gì?

    - Tạp phí lù. Làm báo thì từ chân Tổng biên tập đến tay đưa báo. Công nghệ tin học thì từ giám đốc phần mềm đến việc khiêng máy, bán máy, ăn cắp máy... Rồi quán ăn, bưng bê, rửa bát, giặt bàn, đủ cả...

    Bất chợt Trướng vươn cái cổ cò xuống đĩa rau thơm, cười hồn nhiên, phô hai hàm răng khập khễnh: “Bên ấy cũng có món húng này ông ạ. Chỉ tuyệt nhiên không có món thịt chó. Tớ từng làm đủ thứ hàng ăn. Xả thịt nấu nướng đủ loại con vật. Duy không thịt chú cẩu nào. Bên Tây họ trừ chó...”

    Đang nói hồn nhiên thì quặt sang chuyện khác, như người lẩn thẩn:

    - Tuổi ất Dậu thì dù gà què ăn quẩn cối xay xem ra thành đạt như các ông, hoặc phiêu bạt đến xứ sở thần tiên nào như cánh tớ, thì vẫn khổ như kiếp chó ông ạ. Người ta trừ chó ra là đúng đấy!...

    Nói rồi Trướng đẩy thẳng cặp kính lên, kính và mặt đều trắng hếu, trơ ra vô cảm như tượng. Đến lượt tôi phải hích anh ta một cái:

    - Về hẳn chứ?

    - Chưa biết!

    - ở hẳn chứ?

    - Chưa biết!

    - Làm gì nữa để sống?

    - Chưa biết!...

    Trước mắt tôi lúc này rõ ràng là anh bạn Trướng ất Dậu đáng thương, còm nhom như một thầy dòng đọc lên những câu kinh mơ hồ “chưa biết”. Hoặc giả một chú chim lạ lạc loài bay hết cả vòng trái đất mà chưa tìm được chốn đỗ đến mức phải kêu lên những tiếp “khiếp... khiếp”...

    Bất chợt Trướng thò đôi đũa run run gắp lên miếng gan ngan rồi cứ thế mà soi mãi trước cặp kính như thể người ở hành tinh kỳ dị nào lần đầu mới nhìn thấy. Miếng gan ngan vàng ệch như chính mầu da anh Trướng vậy.

    3. Đoàn ma đói năm ất Dậu xộc vào nhà tôi lúc nửa đêm. Tiếng thanh la não bạt như diêm vương đi bắt người.

    Thiếu một thằng ất Dậu nữa. Trốn đâu ra mau. Tìm mấy chục năm nay!

    - Chẳng có ai ất Dậu ở đây cả. Xin các quan!

    Mở mắt thì thấy hai thằng bạn thân cùng tuổi ất Dậu học với nhau bốn năm ở bậc đại học đi đầu đoàn người. Đó là thằng Định và thằng Hải, cả hai đều học giỏi, tài hoa.

    Một thằng nói:

    - Cho tao vại bia!

    Thằng kia nói:

    - Cho tao chén rượu!

    Thằng Định gầy nhom, đầu đội khăn xếp, cũng kính trắng, dưới lại com lê giầy đen. Nó chết hơn hai chục năm nay rồi. Vào đời làm việc giỏi, đẹp duyên với một cô vừa trí thức vừa nghệ sĩ. Chỉ tội thể chế ganh ghét, cô vợ cũng ghét bỏ, chàng đâm nghiện bia rượu. Bán hết sách vở nhà cửa, cuối cùng phải bán trộm đến cả cái phích nước cơ quan. Bị kỷ luật đuổi việc cho đến ngày thân tàn ma dại, đắp chiếu chết trong một túp lều, thò hai bàn chân vàng như bôi nghệ.

    Thằng Hải vẫn đẫy người như hồi đi học. Bây giờ là ma rồi, nó bận bộ y phục mầu điều như nhà sư. Hồi đi học nó ghét thơ kinh khủng. Vào đời đến quá tuổi “tri thiên mệnh” qua chiến trường khói lửa rồi, mọi thứ gần đủ rồi, nó trở chứng yêu thơ đến phát rồ phát dại. Nó bảo: “Làm thân con gà năm đói thì chỉ làm thơ mới sống được”. Nó chán tất cả, tiền bạc, chức tước, tình ái, hạnh phúc, chỉ có thơ, từ câu lục bát cho đến trường ca. Cuối cùng thơ không cứu được nó, nàng thơ cũng hắt hủi nó. Một buổi nó tìm ra bãi cỏ ven hồ, nhìn trời đất rồi đọc vang lên mấy câu thơ vô vọng nào đó, nhảy xuống hồ tự tử...

    4. Khi người đàn ông tóc hoa râm da mồi mà ngổ ngáo như thanh niên, tự xưng là Đinh Văn Dậu, táp vào nửa căn hộ của người đàn bà quá lứa tên là Miến, thì người ta chỉ biết ông ta từ Thái Bình lên, bỏ vợ con đi phiêu bạt tứ chiếng.

    Trình chứng minh thư nhân dân để làm hôn thú hẳn hoi thì chính tên là Đinh ất Dậu. Sau chạm húy hoặc để che ất Dậu đi cho dễ làm ăn, nên gọi nôm là Đinh Văn Dậu.

    Dậu khoe văn vẻ rằng nhà mình ở cột ki-lô-mét đầu tiên của đất Thái Bình, nơi ngày xưa cái ông Võ An Ninh đã chụp bức ảnh nổi tiếng năm 1945 về nạn người chết đói. Nơi ấy dạo trước mọc lên cây xăng đầu tiên, gọi là “Cây xăng Đinh Văn Dậu”. Xe cộ đi qua ai cũng biết.

    Bấy giờ ông Dậu còn là trưởng phòng vật tư hét ra lửa của một tỉnh vùng lúa. ít lâu nghe nói cây xăng ấy là “cây xăng tham nhũng”, tự dưng bốc cháy. Chủ của nó bị khởi tố và trốn đi đâu mất tích.

    Người đàn ông mất tích có mặt khắp nơi, tự xưng là giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn, một ngày táp vào đời cô Miến. Dậu cười nói hềnh hệch, mở mồm là tiền và xe, lời và lãi... Tóc bạc da mồi, áo quần hôi hám bẩn thỉu. Mà tuyên bố:

    - Tôi sẽ đổi đời cho cô Miến!

    Lại nói:

    - Đây có nhiều cô quá tuổi. Tôi sẽ mở cửa tất!

    Nghe nói đàn ông Thái Bình có kiểu táo tợn như vậy.

    Một ngày ông Dậu kéo về nhà cô Miến một lũ bủng beo như tù trốn trại. Hóa ra ông Dậu gom người ở bễne bến tàu về nhà cô Miến dựng lên cái gọi là “Cơ quan ma”. Lũ này mở miệng là “báo cáo xếp”. Rồi cũng họp giao ban phân công việc này việc nọ. Chỉ tội cô Miến lỡ thì ba chân bốn cẳng lo bữa ăn theo xuất lính trại.

    Hóa ra ông Dậu xua bọn này lên mạn ngược, nhận làm một đoạn đường núi khỉ ho cò gáy nào đó. Bặt tin hàng năm rồi nghe đâu đổ bể, lũ quét trôi cả đoạn đường làm dối, làm ẩu, chủ thầu là Đinh Văn Dậu bị khởi tố. Chỉ tội cô Miến.

    Một ngày ông Dậu xuất hiện. Hôi hám và đờ đẫn, chỉ khoác độc chiếc áo dày sụ. Về với cô Miến ban đêm, sáng mai lại đi ngay như ma. Kẻ thóc mách được dịp mồm mép: “Tù trốn trại”. Điện thoái réo các nhà chung quanh như có lệnh bắt. Đêm từ hộp nhà cô Miến nghe tiếng đàn ông ho như ai bóp cổ, rồi tiếng ngáp nửa chừng như có bàn tay đàn bà bít lấy mồm. Sau đó “người ma” lại mất tích. Cô Miến đóng cửa chờ đợi trong vô vọng. Chẳng hiểu cái ông Đinh Văn Dậu ấy đi đến đâu rồi. Người ta xì xầm: “Ông ta bảo tuổi ất Dậu đã khổ, gặp phải cô Miến cũng ất xung nữa,thành ra việc gì cũng đổ bể”. Người ta còn nói: “Đáng đời con trống già hợm của”.

    Bên này bức vách là nhà thơ Lại Công Vấn, cũng bạn đồng tuế ất Dậu với nhau. Không muốn cũng cứ nghe rõ mồn một.

    Thật sợ cho những gì khởi đầu bằng ất. Thật khổ cho cõi ất Dậu. Cả ma, cả người và những thứ chưa được thành người.

    Mưa Đi Qua Đồng Năn

Cứ vào lúc sẫm tối, ông Bảy Triết lại lủi thủi đi về phía chân đồng với cây dá trên vai. Cả một vùng cỏ năn nhạt nhòa dưới ánh sao trời.

    Xóm tôi chỉ có 9 nhà. Đó là những người đầu tiên trở về vùng đất nhiễm phèn này sau ngày giải phóng miền Nam. Tôi nhớ mang máng đâu chừng giữa năm 78, hay là cuối gì đó. Đêm đêm, nhìn qua ô cửa nhỏ, tôi thấy thú vị hơn những ngày tản cư ở tỉnh lỵ Kiến Hòa, là được chiêm ngưỡng bầy đom đóm lập lòe trên những cây bần dọc triền sông Ba Lai. Nhưng rồi chán cũng nhanh, nhanh lắm. Tuổi trẻ chóng chán sau giây phút choáng ngợp. Ban ngày, nắng rơi chan chát như đổ lửa, như muốn hút hết nước trên đồng, như muốn nổ tung cả mắt. Xa tít tắp mới có cây mù u đứng trơ vơ, buồn bã. Mẹ tôi nói: "Giặc đã rải chất độc xuống đây". "Chi vậy?" - Tôi hỏi. "Chúng tạo vành đai trắng cho căn cứ Bình Đức". "Vành đai trắng là gì?". Mẹ tôi có vẻ bực mình: "Lớn lên sẽ biết". Chị tôi đế thêm: "Đồ ngu!".

    Người lớn hay hẹn cho trẻ nhỏ bốn chữ lớn lên sẽ biết. Năm đó, tôi học lớp 7. Tuổi của lớp 7 llúc ấy ít hiểu biết hơn tuổi của lớp 7 bây giờ. Nhưng máy bay, đạn pháo thì tôi thấy nhiều hơn, nhiều đến nỗi mỗi khi nghe tiếng pháo rít qua mái nhà và nổ phụp đâu đó, tôi vẫn bình thản như nghe một bản nhạc êm đềm từ Radio.

    Mỗi khi tan học, cơm nước xong là tôi tót ngay đến nhà ông Bảy. Chị tôi thì thào, vẻ bí mật: "Ông Bảy điên, đừng sang!". Mẹ tôi mỉm cười độ lượng: "Điên nhưng hiền". "ổng chém thằng Tý có ngày" - Chị tôi gắt um lên. "Tao có thấy ổng giết một con gà hay con vịt gì đâu". Chờ cho mọi người không để ý, tôi băng qua cánh đồng năn để đến căn chòi vách đất ven sông.

    Ông Bảy không hề điên trong mắt tôi. Ông chỉ hơi ngớ ngẩn thôi. Mỗi lúc vào mùa khô, nắng gắt, ông thường lang thang trên đường, miệng lảm nhảm những câu không đầu không cuối, rồi cười. Tay ông cầm ngọn cỏ tranh, phất qua phất lại giống như một nhạc trưởng. Chỉ có vậy, ông không hại ai, không chửa ai. Ngay cả con chó dữ nhà bà Sáu Lòng Tong thấy ông cũng biết vẫy đuôi mừng và ông cũng vui vẻ chào lại nó. Mùa mưa, ông ru rú ở nhà. Sẫm tối thì vác dá đi, đi đâu cũng chẳng ai thèm ngó ngàng bởi mọi người còn mải lo kiếm cái ăn trên vùng đất phèn chua, cằn cỗi.

    Ông Bảy không có tên. Ngay cả cái thứ Bảy cũng do bà bán xôi ở chợ xã đặt cho. "Hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy... anh thích thứ nào?" - Bà hỏi lớn khi cho ông gói xôi. Ông cười hề hề: "Bảy". Mọi người liền nhao nhao: "Anh Bảy Bắc kỳ! Anh Bảy Bắc kỳ!". Hai Tập Kết giữ chân thư ký ủy ban, ngồi uống cà phê gần đó rầy: "Chọc tầm bậy tầm bạ. Nói vậy người ta sẽ cho quê mình phân biệt xứ này xứ nọ". Ai đó đỡ lời: "Vậy thì gọi là Bảy Triết Gia Đường Phố đi!". "Là sao?" - Có tiếng người thắc mắc. "Tôi thấy ở tỉnh lỵ người ta gọi mấy người bị "chạm dây" đi lang thang như vậy". "Nghe cũng hay!" - Hai Tập Kết vỗ tay tán thưởng. Và cái tên Bảy Triết Gia Đường Phố đeo theo ông Bảy từ đó. Được vài tháng, hình như gọi một cái tên dài cũng mệt cái miệng cho nên cuối cùng chỉ gọi tắt là Bảy Triết.

    Ông Bảy Triết sống trong một căn nhà ven sông, cạnh cây trâm có trái chín như màu mực. Nói là nhà chứ thực ra nó nhỏ như tổ chim, mái lá, vách đất, có những chỗ bị nước mưa làm bong ra, lòi loe hoe mấy cọng rơm. Ông thường bận chiếc áo bộ đội đã bạc màu, đầu chít khăn rằn, dưới thì cái quần đùi, phơi đôi chân vàng ệch vì phèn, vàng như nắng của buổi hoàng hôn.

    Nước phèn trên cánh đồng năn trong vắt, nhìn rõ đàn cá bơi lội tung tăng. Một vài con cá bị chất độc làm cho biến dạng, chỉ có nửa thân trên mà vẫn biết đớp móng, vẫn biết đón mặt trời lên. Mỗi khi bắt được những con cá ấy đem về cho ông, chẳng hiểu sao ông lại giận tôi đúng một tuần, không thèm giáp mặt, cũng không nở lấy một nụ cười.

    "Thằng Tý theo chú Bảy vớt cá lia thia suốt, bỏ cả bọc hành, người đen ngợm, lớn lên chỉ có nước chăn trâu" - Chị tôi càu nhàu.

    "Đang Hè mà" - Mẹ tôi nhỏ nhẻ - "Vả lại cũng cho nó quen với đồng đất một chút. Cha mày không còn. Hai anh mày thì nằm xuống ở Ba Chúc trong lần đánh tụi Pôn - Pốt. Cũng phải có người phụ việc ruộng nương chứ. Tao còn có một tay thì làm cũng cầm chừng thôi".

    Mủi lòng, chị tôi ôm mẹ, khóc ròng. Xin nói thêm, cha tôi mất hồi Tết Mậu Thân, lúc ông dẫn một cánh quân tiến vào thị xã. Mẹ tôi cũng phải cưa cánh tay vì bị thương sau cái đêm kinh hoàng đó. Thỉnh thoảng, gia đình tôi nhờ ông Bảy sang phụ cuốc đất để trồng mì, trồng khóm. Đổi lại ông chỉ lấy số gạo vừa đủ ăn, có cho thêm nải chuối ông cũng dứt khoát không nhận. Không nhận với nụ cười muôn thuở.

    Có một lần theo ông đi hái bần, tôi đánh bạo hỏi: "Quê chú Bảy ở đâu ta?". Ông chợt dừng lại, nhìn tôi với ánh mắt xa xăm; rồi lẳng lặng, ông leo lên đọt cây, liệng xuống cho tôi những trái bần mơn mởn. "Coi chừng ong!" - Tôi la lên. Chỉ nghe ùm một tiếng. Lúc lâu sau mới thấy ông từ dưới sông trồi lên, mỉm cười. Cười trên mặt nước Ba Lai đục ngầu. Tôi trở nên thích ông từ cái mỉm cười hồn nhiên đó.

    Mùa mưa đến, đến bằng màn trắng đục phía Tây Nam. Nó đi chậm rãi qua vườn dừa, qua cánh đồng năn như một cô gái làm duyên, đỏng đảnh. Thế rồi nó đổ ụp xuống, rào rào trên mái lá lúc nào tôi cũng chẳng hay. Cả vùng lịm đi trong mưa và tôi có cảm giác như mình đang trôi vào một cõi nào đó thật mơ hồ.

    Đằng sau lưng, đột nhiên ông Bảy ư ử hát:

    "Trời mưa lâm râm

    Cây trâm có trái

    Con gái có chồng

    Đàn ông có vợ

    Đàn bà có con

    Bỏ vô lon

    Nhảy ton ton"

    Hát xong, ông nhảy cẫng lên như một đứa trẻ. Tôi phì cười. Lần đầu tiên tôi nghe ông hát. Chẳng lẽ mưa xuống đã làm dịu đi sự ngớ ngẩn của ông? Thấy ông có vẻ vui, tôi hỏi: "Chú có con không?". Ông lắc đầu. Rồi ông nói cái gì đó về làng quê. Tôi đoán là quê ông ở chỗ có sông, có núi, có những người đàn bà ăn mặc sặc sỡ mỗi khi đến phiên chợ. Vậy thôi. Tôi chưa bao giờ thấy núi nên chỉ ừ hử cho qua. Đột ngột, ông nói: "Võ Tòng qua Cảnh Dương Cang một mình". "Võ Tòng nào?". "Chết rồi! Chết hết rồi! 108 người". Và ông ôm mặt khóc nức nở. Tôi chỉ biết an ủi ông bằng cách chùi vệt bùn khô bám trên vai áo bạc màu của ông.

    "Võ Tòng là ai hở mẹ?" - Tôi đem điều thắc mắc về hỏi mẹ. Bà đáp: "Một nhân vật trong Thủy Hử". "Thủy Hử là cái gì?". "Là truyện". Ngày ấy chữ truyện đối với tôi giống như một cái gì thiêng liêng, giống như Tiên, như Phật vậy. Thì ra ông Bảy cũng là người học cao, hiểu rộng. Chỉ phiền cái là ông điên, điên tự bao giờ không ai rõ. Ngay cái ngày ông đến cánh đồng hoang này để định cư cũng không ai rõ. Chỉ nghe đồn phong phanh là ông bị chế độ của ông Thiệu giam ở Phú Quốc. Xóm 9 nhà chấp nhận ông như chấp nhận một đồng loại.

    Đường đất sau một đêm mưa nhớp nháp sình lầy. Đồng cỏ như hiu quạnh hẳn đi. Vẳng từ đâu đó, tiếng con chim cu gù, man mác.

    Tôi với lấy cái nơm. Chị tôi liền cất tiếng: "Lại đi chơi nữa!". "Đi kiếm đồ ăn mà!" - Vừa đáp tôi vừa lao đi sợ mẹ ngăn cản vì ngại tôi gặp rắn. Tôi tạt qua nhà ông Bảy để mượn cái hom giỏ. Bên trong vẳng ra tiếng rên của người bệnh.

    Ông nằm đó, mặt tái xanh. Cái dá dựng một bên còn dính đầy bùn. Nghe tiếng động, ông hé mắt nhìn vu vơ, mệt mỏi, hơi thở khò khè như người đang lên cơn hen suyễn. Tôi biết ông không còn đủ sức mỉm cười với tôi là có chuyện lớn. Tôi lao ra sân, hét lên cầu cứu. Lập tức, mọi người ở xóm 9 nhà đổ xô tới. "Sao vậy?" - Họ hỏi rối rít khiến tôi líu cả lưỡi. Họ ùa vào nhà. Người xoa bóp bấm dọc theo sống lưng ông. Người cạy miệng đổ nước gừng vào. Chưa đầy 15 phút sau, ông đã ngồi dậy với nụ cười ngơ ngác, có lẽ ông tự hỏi vì sao nhà mình hôm nay có quá nhiều người như vậy. Bà Sáu Lòng Tong nói ông bị cảm lạnh, chắc là do dầm mưa. Ông cúi đầu lí nhí: "Cám ơn!" Lần đầu được một người điên nói lời cảm ơn, ai nấy đều hể hả và rơm rớm nước mắt vì cảm động.

    "Tối nào chú cũng đi đào đất để làm chi vậy?" - Không nén nổi tò mò, tôi hỏi. "Cám ơn!" - Ông đáp khẽ khàng. "Con không cần chú nói cám ơn". Ông lại nhìn tôi với ánh mắt ngớ ngẩn. Giận, tôi bỏ đi về phía chân đồng xem ông đã làm trò gì trong đêm. Thì ra, đó chỉ là những cái hố con con nhưng đã bị lấp lại. "Đúng là điên!" - Tôi phì cười. Ông ấy cứ đào và đấp. Tôi đếm cả thảy có 8 hố, nằm chéo góc theo hình chữ Z. Tôi lắc đầu, tự hỏi không biết ông đang chơi trò gì.

    Biết chuyện, mẹ tôi trừng mắt: "Con đừng lẩn quẩn đến chỗ đó!". "Có sao đâu?". "Chỗ đó tao nghe bà Sáu nói hồi trước đụng trận nhiều lắm". "Ăn thua gì tới mình?". "Người chết vô số. Bà Sáu còn kể đêm đêm nghe văng vẳng tiếng khóc than ở đó. Ma quỷ nó biết mặt con, biết tên con, nó bắt bỏ vào giữa bụi tre cho ăn đất sét". Tôi rùng mình, hoảng sợ. Thế là chiều chiều tôi chỉ còn biết ngồi nhìn những thân dừa ốm quắt queo, lỗ chỗ vết đạn đang ngả nghiêng theo gió, nơi mà ngày trước bà Sáu Lòng Tong nói là có một tiểu đoàn lính Việt cộng đụng với lính Sư đoàn 7 của ông Thiệu. Thế nào là Việt cộng, thế nào là Sư đoàn 7, tôi nghe và để bụng chứ tôi không dám hỏi tới vì ngỡ hỏi tới thì ma quỷ sẽ bắt mình thật. Nửa tháng trời tôi chẳng hề bén mảng đến cánh đồng năn để bắt cá lia thia và lượm trứng cút hoang. Chị tôi còn hù thêm: "Tuần rồi ở xóm Bờ Tre, anh Hai Chi vướng phải M.79, cưa đôi chân đến háng".

    Một hôm, mẹ tôi hỏi: "Sang thăm thấy chú Bảy đỡ chưa, Liên?". Chị tôi đáp: "ổng như con trâu nước". Rồi chị nói thêm: "Con nghe ổng hát. Cái gì mà trời mưa lâm râm; cây trâm có trái...". "Em biết rồi" - Tôi xen vào và đọc hết một mạch. Chị tôi cười khùng khục: "Thằng này cũng bày đặt thuộc thơ".

    Ba tháng trôi qua thật nhanh nhưng ký ức về những ngày ấy không bao giờ lạt phai trong tôi. Lên lớp 8, chuyển trường mới, đi về khoảng 7 cây số. Thời gian tôi gặp ông Bảy Triết Gia Đường Phố thưa thớt dần. Thỉnh thoảng, đi ngược chiều nhau trên con đường làng, ông chỉ nhìn tôi, rồi cười và lại cặm cụi bước thấp bước cao, tay cầm cọng cỏ tranh phất qua phất lại như một nhạc trưởng lành nghề. Cũng vẫn cái đầu trần chít khăn rằn, cũng cái quần đùi nhăn nhúm và đôi chân mốc thếch vì phèn, như thể nắng, gió, mưa của vùng đồng bằng này không hề hấn gì đến ông.

    Năm sau, nhà nước hạn chế dùng dầu lửa. Vả lại cũng chẳng ai đủ tiền để mua vì trước mắt phải chạy gạo từng bữa. Riết rồi gạo cũng đâm ra khan hiếm bởi nạn rầy nâu. Không riêng gì xã tôi, tỉnh tôi mà cả đồng bằng sông Cửu Long đều như vậy. Người ta ào ào trồng cao lương. Ngày ăn cao lương trộn khoai mì, đêm thắp ngọn đèn mù u nhợt nhạt như xác người chết. ấy thế mà mọi người đều không ca thán, mọi người vẫn đều đặn đến chợ mỗi sáng, đến để ngắm mấy cái cửa hàng lương thực trống huơ trống hoác, mạng nhện giăng đầy, rồi về. Hình như tôi nghe nói có chiến tranh nổ ra ở đâu đó.

    Một đêm cuối tháng Mười, khi những lát mù u cuối cùng đã cháy gần hết, mẹ tôi bảo: "Sang nhà chú Bảy xin đỡ vài trái, Tý!". "Con sợ ma!". "Ma cỏ gì. Đây đến đó chỉ có một khoảng ruộng. Trong nhà chỉ có mày là đàn ông". Tự ái, cực chẳng đã tôi phải đi, vừa đi vừa bắt ấn tý. Đêm hắt xuống đồng năn những vì sao lạc loài.

    "Có nhà không, chú Bảy?" - Tôi hỏi lớn khi vừa bước vào nhà. Đập vào mắt tôi là cảnh ông Bảy đang lúi húi mở dây cột bao, thứ bao đựng lúa. Cạnh đó là mấy cây nhang cháy lập lòe. Thứ khói nhang hòa với khói mù u khiến tôi nôn nao cả ruột gan. "Làm gì đó, chú Bảy?". Ông quay lại nhìn tôi, ánh mắt đỏ hoe: "Cậu về đó hở Kiên?". "Kiên nào? Con đây! Con là thằng Tý con Hai Sa đây!". "Tớ có lỗi với các cậu!". Ông khóc nấc lên, cả thân thể như muốn đổ ụp xuống. "Tý đây!" - Tôi vội chồm tới níu ông lại. "Tụi mày chịu khó ngủ chung nghe. Giải phóng rồi tao sẽ về tìm" - Ông nói với giọng mơ màng. Rồi ông hát khe khẽ. Tôi chợt thấy ái ngại cho một ông già đang lên cơn lú lẫn.

    "Để con phụ cho!" - Tôi hăm hở cầm dây đèn mù u và vạch rộng miệng bao. Bên trong, những mẩu xương và mấy cái xương sọ đen xỉn với hai hố mắt nhìn tôi đăm đắm.

    Bến Tre, 1997

Quán Cóc

Không biết cái quán cóc gốc là từ năm Sài Gòn giải phóng người ta hay la cà vỉa hè uống rượu lậu - tiếng lóng là nước trắng, nước mưa, hay là "bia xanh" nhắm với quả cóc chấm muối mà thành tên là quán cóc, - chợ cóc rồi cái tên về sau lan ra Hà Nội thành quán cóc là những hàng rượu chợ như thế, và tên quán cóc, chợ cóc là như vậy chăng?

    Bấy giờ tôi hay uống ở quán cóc bà Xiếc. Gọi quán bà Xiếc chỉ bởi cái quán nước của bà ở cạnh bến tô Kim Liên trông sang rạp xiếc bên vườn hoa Thống Nhất ở đường bên kia. Bà là người Hà Nội cũ. Bà bán hàng cho vui - mà cũng có thể là kiếm được. Trông cái tay bà đếm lóng cóng tùng đồng hào giấy, cùng biết không phải là người bán quan. Rượu bà Xiếc cũng là quốc lủi tạp nhưng được cái đều giọng. Chỉ vì bà lấy rượu một thổ quanh năm - cái thổ rượu hiểm hóc mà thật chắc đấy. Rượu đồng chiêm trũng nào chò chỉ, nào Phú Xuyên... Cứ lâu lâu lại có một xe cứu thương ở phía nam lên. Xe lừ lừ không bóp còi toe toe, hai bên sườn xe có hai chữ thập đỏ, cứ thế mà bon bon. Đến chỗ mấy cây si bờ hồ Thiền Quang của vào Công viên Thống Nhất, cái xe cứu thương ấy đỗ từ từ. Bác lái xe mặc áo đại cán chỉnh tề xách ra một cái bọc nilông xám bước vào hàng bà Xiếc. Bà cất ngay vào nhà trong cai bọc nilông ấy. Nó là cái bìu đựng rượu chui đồng chiêm lên. Người nghĩ ra được cái xe cứu thương đụng rượu lậu đã là mưu mẹo hơn một đầu các tay bắt rượu bấy giờ.

    Thỉnh thoảng bà Xiếc cũng lấy rượu của ông Đặng Đình Hưng. Bà cười: "Ông này vừa bán rượu vừa uống rượu. Nhưng cái rượu Chương Mỹ quê ông, khách khen cái Chương Mỹ đậm”.

    Ngồi quán cóc như ngồi xem sách, có khi ham hơn xem sách vì cứ ngồi mà đoán ra lắm kiểu người. Cứ đến buổi tan cơ quan, đi làm về buổi trưa, buổi chiều người đi xe đạp tíu tít qua. Người vào quán lăng lặng, bà hàng đã biết lệ, rót ngay cho một chén, hai chén. Ông ghếch xe, uống đứng, rồi đạp xe bay luôn. Chắc ông này uống rượu vụng, nhà đương đợi cơm. Có hôm thấy thằng Viễn con ông Đoàn Giói làm ở Công ty Cây Xanh bên Công viên Thống Nhất. Nó chào lễ phép, mời tôi uống. Khác Nguyễn Đỉnh Chính có hôm nhác qua quán đi ngay, làm như không trông thấy. Cũng như cái quán ở gần rạp Đông Đô, Lưu Quang Vũ vào mua chai rượu con con rồi lủi ngay.

    Cũng như uống rượu với cụ Nguyễn Tuân ở nhà hàng trước cửa ga Hàng Cỏ, cụ Tuân bước sang bàn bên kia chào cụ Cao Xuân Huy. Hai cụ bắt tay nhan. Tôi biết cụ Cao có con rể là nhà nghiên cứu văn học Văn Tâm, nhà ở phố gần đấy. Cụ Cao ngồi một mình, uống một cốc bia ngữ nhỏ. Cụ khẽ ho. Cụ lặng lẽ lấy mảnh báo trong túi ra khạc đờm rồi gấp lại, bỏ vào túi áo vét. Có lẽ cả thành phố chỉ còn cụ Cao giữ vệ sinh công cộng lịch sự đến thế? Thành phố ngày ngày báo động, có lúc bị bắn, bị ném bom, chiều chiều người ta la đà uống bia. Trên phố Tông Đản, quán bia thường mở sớm. Người mua bia xếp hàng dài lằng lặng. Cụ Nguyễn hay đạp xe lên uống bia ở đây vì ở đây thường có bia mới rót ở thùng ra. Mà cụ đi đâu chăng có người phục dịch vô tư. Cụ vào ngồi trong sân cơ quan có cây đại cổ thụ, cán bộ miền Nam tập kết ở, cụ cứ việc ngồi đấy. Có người kẹp hai ngón tay xách vào hai vại bia trước tiên. Cụ ưa cái quán này uống được hơn cái bia chuồng cọp bên hồ Thiền Quang. "Bia Chuồng Cọp" hay "phở không người lái" là tiếng lóng thời sự chớp nhoáng, thời sự chiến tranh cả đấy. Ở ngoài Côn Đảo mấy phóng viên nước ngoài ra viết phóng sự về tù binh ngoài ấy đã mày mò tìm ra được những khu xà lim giam đặc biệt các chiến sĩ Việt Cộng bị án nặng, chúng tôi đặt tên chỗ ấy là "chuồng cọp". Sự việc được phanh phui lên tin tức và báo chí thế giới. Các ông háu bia ở Hà Nội cũng đặt tên chỗ xếp hàng mua bia là cái "chuồng cọp" chỉ vì nhà mậu đóng song hành hai vành gỗ như vành móng ngựa để người sắp hàng phải lên lĩnh bia lần lượt không thể chen ngang được. Trong kia bia không rót ở thùng mà bia đổ ra cái bể ximăng, cô nhà mậu lấy cái gáo nhựa mục bia ở bể ra cho nhanh. "Phở không người lái" có sự tích ác liệt của Thủ đô và của chiến trường miền Nam trong kia đang ác liệt cả đấy. Ngày ngày máy bay Mỹ không người lái vẫn do thám trời Hà Nội, người ta bèn đặt tên cho hàng phở ban không thịt là phở không người lái, và canh không người, cơm cũng không người lái!

    Những hôm bia nhạt, các cô nhà mậu pha nước lã liều lượng quá tay chăng, tôi phải đến các quán cóc ở cạnh rạp Đông Đô. Vì mềm môi, rồi hay rủ rê nhau, tôi cũng uống lân ở quán này. Cái quán chăng ra cái hàng quán gì cả. Vào một ngách nhà như vào trong lối đi của phu đổi thùng phân mỗi nhà ngày trước. Thế rồi lọt một cái buồng con. Bà bán rượu chít khăn lượt, đầu bạc, bà lôi rượu ở nhũng chai đã đong sẵn ở bịch nilông ra. Bà chỉ có thức nhắm lạc luộc, mấy bị lạc treo quanh tường.

    Cái bà bán rượu trong hẻm này người Công giáo, sáng chú nhật bà đi lễ nhà thờ Hàm Long. Trong gian buồng chỉ có cái phản gỗ ba miếng ván. Bà lấy chai rượu và đĩa chén ở gầm giường ra. Chúng tôi đều ngồi cả trên phản, người bó gối, có người thòng cả hai chân xuống. Như ngồi xem bói tướng tay. Không còn nhở ngồi trên cái phản chỉ có một hai tấâm ván ấy thì rồi mùa hè tới, mùa đông qua thế nảo. Chỉ nhớ mỗi khi gió thổi hun hút như ống sao đầu tường, chúng tôi vẫn dựa vào tường, nói, cười ầm ĩ.

    Có cái anh Hùng viết kịch. Tôi chỉ thấy anh ngồi uống rượu trong quán cóc này. Có lẽ thấy nhiều người văn thơ đến uống thì anh tương là viết văn, viết kịch thì phải uống rượu, hôm nào Hùng cũng đến, ngồi lúc nhúc với mọi người. Vóc người anh tợn tạo, uống bợm lắm. Ít lâu không gặp, lại lâu lắm không gặp. Có người bảo anh chết rồi, người ta cãi anh chết vì ốm, không phải vì uống rượu.

    Ở đây tôi cùng gặp lại anh Nghĩa làm ở cơ quan thông tấn, quê trong Quảng Ngãi. Nghĩa uống rượu như uống nước. Nghĩa hay dắt cả vợ đến cùng uống. Chị ấy cũng uống ra trò. Lúc về, chồng đèo xe đạp đi thong thả như không. Mấy năm, khi đất nước đã thống nhất, Nghĩa có ra Hà Nội chơi. Bà bán rượu đã mất, chị ấy cũng đã mất. Nghĩa già quăn queo, lúc nào cũng đội mũ nồi, vì tóc rụng trọc cả đầu. Nghĩa chịu khó đi tìm đến chơi với bạn rượu. Nhưng Nghĩa chùa rượu từ lâu. Ở các quán gần chợ Hôm này, tôi cũng hay gặp Nguyễn Thế Phương. Ấy là nhũng hôm tôi thường cùng Dương Bích Liên, khi đã uống vài vại tà tà ở bãi Chuồng Cọp rồi đến làm thêm đôi ba chén trắng cho khỏi nhạt miệng ở cái quán trước cái may nước cụt vòi ở ngã tư chợ Hôm.

    Bấy giờ cũng gần lên đèn. Bà chủ quán, như người Đình Bảng chợ Dầu đã cứng tuổi chít khăn nhung đen, đôi mắt sắc như dao. Hàng nhà bà chỉ kê chiếc ghế dài, đặt hai cái ấm giỏ. Khách uống nước chè có chén bên cạnh. Khách dùng cái trắng thì chén cất vào trong, rồi bà chủ lấy ra rót ở ấm khác. Ông thuế chỉ bắt rượu. Chúng tôi đến quán này khi nào cũng đã sẩm tồi. Nhà hàng chưa bật đèn, ở góc tường có cai đèn hoa kỳ cho người hút thuốc lào.

    Hôm nào ông Phương cũng ngồi ở góc tường trong, chốc lại cầm cái điếu cày hút thuốc lào, lúc ấy mới chỉ có một ngọn điện le lói. Cái mặt rượu lừ đừ của ông như trông thấy tôi mà cũng như không trông thấy tôi. Mấy năm nay, Nguyễn Thế Phương đã viết những truyện ngắn và mấy truyện dài. Ông hay uống bia pha cái trắng. Không biết ông nghiện hay không, ông ngồi từ chập tối đến lúc lên đèn, cạnh cái ấm giỏ đựng rượu và cái điếu cày. Cứ một chỗ như thế.

    Ít lâu, nghe nói Nguyễn Thê Phương lại về Thanh. Rồi nghe tin ông mất. Cái quán cóc có hai cái ấm đụng nước chè và đụng rượu, đi qua không thấy và các mảnh gỗ đóng kín Cái quán ở phố Bà Triệu ngày trước có bà hàng hay có đậu nghệ nướng, đã có hôm cụ Nguyễn Tuân nhớ bánh đậu nướng có mùi nghệ chấm muối cũng mò đến. Cụ Nguyễn ngồi cái ghế dài ngoài cửa hàng, ngồi uống chen vai với khách. Thế là cụ đã chịu khó lắm. Những mặt các người quen lại tụ tập cả. Hoàng Trung Thông, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Trọng Hứa... Nhưng một cái phiền khác lại đến, gần đấy có một bệnh viện. Các thầy thuốc vãn việc ra uống rượu, mặc cả áo trắng. Các nhà thuốc uống nhanh và uống nhiều. Hồi này có một ông thầy thuốc trẻ đi guốc mộc hút thuốc lá, đi nghênh nghênh. Tôi đành bỏ ông ngầu pín.

    Tôi được mách ông giáo Xưởng ở Sinh Từ. Cụ Nguyễn Tuân cũng hay dùng rượu ở quán ông giáo. Cụ cho là rượu ông giáo uống được. Nhưng cụ cũng chỉ cho cậu Đảo con cụ đi mua về uống thôi.

    Ông giáo là người Cầu Giấy. Ngày trước tôi có quán ông giáo Mai, hoạt động phong trào Mặt trận bình dân ở dưới ấy nên ông giáo với tôi biết nhau ngay. Tôi nói tôi về hưu, làm kế toán Bộ Văn hoá - ngày xưa tôi cũng biết làm sổ sách nhà giày ba ta mà! Cái rượu của ông giáo Xương được đấy. Đầu phố nhà ông buổi sáng có một bác phở gánh đông khách. Sáng sớm ngà ngà rồi điểm tâm bát phở chín cũng hay. Rồi lại không lui tới được rượu ông giáo Xưởng. Một hôm, cậu con trai đi dạy học về, trông thấy tôi cậu chào vồn vã. Thế rồi, ngay bấy giờ ông Xưởng lập cập đem trong nhà ra cho tôi một quyển vở, ông nhờ tôi đọc hộ mấy bài thơ Lamáctin của ông dịch để kỷ niệm bà ấy mất. Họa sĩ Nguyễn Sáng ưa cái rượu hơi khê khê của ông giáo. Cũng tiếc. Nhưng Sáng bảo cái rượu ở quán Thủy Hử mới đặc biệt. Sáng kết nghĩa với chủ quán. Một hôm, tôi đến rủ Sáng. Nguyễn Sáng đương mặc quần áo sắp đi đâu. Nghe tôi nói, Sáng nói như quát: “Đi chỗ khác thôi! Tao vừa đánh nhau với nó”.

    Làm sao mà Nguyễn Sáng đánh nhau được với người ta. Không biết cái tay còn cái hồn vẽ không, chứ cái miệng đã rụng hết răng, chỉ đi ăn cháo tiết ở chợ cửa ga Trần Quý Cáp cho khỏi phải nhai thì còn hùng hổ với ai. Nhưng cái tính hùng hố bất thường của ông này thì biết rồi. Có lần người yêu của ông đến chơi, không hiểu trò chuyện hay cãi cọ ầm ầm thế nào, Nguyễn Sang đuổi cô ấy hốt hoảng chạy xuống cầu thang gác rơi cả mũ mà không dám quay lại nhặt.

Làng "Chí Phèo "

Tôi không hư cấu câu chuyện này thành tiểu thuyết, bởi chính bản thân nó cũng đủ làm nên những bi kịch của ngôi làng này. Ở đó, người gánh chịu nặng nề là các em tôi, bạn bè tôi đã được sinh ra và lớn lên, là những người mẹ, người chị ngày ngày phải cắm mặt vào đất nhẫn nhịn, bị dẫm nát tuổi thanh xuân. Tôi kể hoàn toàn những sự thật về những gì tôi đã thấy, đã hứng chịu bằng cách liệt kê. Tôi bất lực trước những nổi đau, nỗi đau thể xác chỉ là một ngày một bữa, nhưng nỗi đau tinh thần giằng xé, đè nặng lên những con người ấy, mà có người đã chết vì uất ức phải tự tử, có kẻ tù tội. Họ cam chịu với trò đùa số phận và hoạch định cuộc đời mình theo lời phán của những ông thầy tướng số. Hạnh phúc là một từ xa xỉ đối với họ.

- o O o -

    Đứng ở đồi thông đầu làng sẽ nhìn thấy rõ con đường đất uốn quanh dẫn vào một ngôi làng nằm lọt thỏm giữa những màu xanh bát ngát của cây rừng. Ở đó, có khoảng một trăm ngôi nhà, có một ngôi trường cấp một với 6 phòng học, có một cái chợ, nhóm hàng ngày vào buổi sáng sớm, có vài tiệm tạp hóa. Như bao nhiêu ngôi làng khác của Tây Nguyên, nghề nghiệp chính của họ vẫn là nương rẫy, là cà phê, cao su...

    Nhà Duy có bốn anh em, nhưng chỉ có hai mẫu rẫy cà phê, tiền thu không đủ trang trải chi phí cho anh em Duy đi học, mẹ phải nấu thêm lò rượu. Từ đó, làng này thêm một nghề nữa là nghề nấu rượu và nuôi heo. Nấu rượu thì tất nhiên sẽ có nuôi heo, vì bã hèm khi đã cất rượu xong thì trộn cho heo ăn, chúng ăn thứ đó rất bổ và nhanh lớn, không phải tốn thức ăn cho heo nên thường lãi khá cao. Nhờ đó mà gia đình Duy khấm khá dần, mẹ không phải cằn nhằn chạy vạy từng bữa cơm hàng ngày nữa, anh em Duy dễ dàng có áo mới mặc đến trường.

    Đầu ra chủ yếu của lò rượu nhà Duy là các tiệm tạp hóa trong làng, từ ngày nhà Duy nấu, các dì chủ các tiệm này không phải cực khổ sang các làng khác hoặc vào thị trấn để lấy rượu về bán. Những tháng cần phải chi tiên nhiều, mỗi ngày má phải dậy đốt lò sớm hơn, để kịp thời gian nấu hai nồi rượu, để số lượng rượu mỗi ngày được tăng gấp đôi, ba đem hàng đến những buôn khác của dân tộc để bán. Duy cũng thường được ba đèo trên chiếc xe đạp để vào buôn với mình, từ đó Duy cũng biết người dân tộc cũng thân thiện không đến nỗi độc ác hay man rợ như cái vẻ bề ngoài họ thể hiện và nghe người lớn kể, mà thật ra hồi ấy bọn nhóc con của Duy nghịch ngợm đủ trò, người lớn chỉ bày ra để kể thì ít mà hù thì nhiều. Đứa nào nghịch thì bị nhát là đem cho dân tộc, đứa nào đen đúa xấu xí quá bị ghẹo là con của dân tộc thế nào cũng lăn ra mà khóc bù lu bù loa.

    Năm đó Duy chín tuổi. Cái tuổi thấy cuộc đời qua những trò chơi, thấy ngôi làng của mình từ trên đồi thông đầu làng. Hồi ấy, làng Duy chưa có điện. Ngọn đen dầu tù mù, đường đen kịt. Duy là con trai nhưng là đứa sợ ma nhất làng, sợ hơn cả con gái, nên nó thường là đích ngắm của bọn con nít trong xóm mỗi khi đêm về, nhất là những đêm trăng còn khuyết, ánh sáng lờ mờ không nhận ra rõ hình người. Duy không hiểu vì sao mình sợ ma, có lẽ nó bắt đầu từ những câu chuyện của ba, những câu chuyện rùng mình mà ba hay kể vào ban đêm cho những người bạn của mình, nó ngồi kế bên nghe lén. Hồi Duy chín tuổi, xung quanh làng của Duy còn nhiều rừng rậm, chuyện về ma lai rút ruột đi ăn thịt người vào ban đêm làm cho nó luôn sợ hãi. Nó tưởng tượng ra những chiếc đầu người mang theo nào là ruột gan phèo phổi bay lửng lờ trên những ngọn cây, những con ma lai đó hút máu người nào thì người bị hút máu đó không chết nhưng cũng biến thành ma lai như nó. Những con ma lai này ban ngày là một người bình thường như bao người khác, chỉ thành ma vào ban đêm. Nếu người trong gia đình phát hiện ai đó trong nhà mình là ma lai thì canh lúc nó rút ruột đi ăn ban đêm, lật nghiêng cái mình nó lại để nó không thể nhập vào xác, nó than khóc ngoài cửa và mặt trời lên sẽ chết. Không biết chuyện này bắt đầu từ cái gì, từ ai, nhưng qua mỗi người kể nó ly kì một kiểu khác nhau.

    Trước cổng nhà Duy có cây gòn, loại cây mà người ta lấy ruột của trái nó ra làm gối ngủ. Lúc nhỏ, tụi nó hay chẻ trái gòn ra và cho bông bay tứ tung trong gió, thích thú. Rồi từ ngày nó nghe người ta kể ma hay ở trên ngọn các loại cây cao như cây gòn, thì ban đêm nó đóng chặt luôn cửa trước để mắt không nhìn ra hướng ngõ nữa. Đồn rằng trên những chạc ba của các cây cổ thụ, thường có những oan hồn của phụ nữ ru con, họ chết do bị ruồng bỏ rồi tự tử, hoặc bị đánh đập cho tới chết, đều là những người sống quanh đó. Có người bạn của ba khẳng định chắc nịch là bà Tư bán tạp hóa kể lại rằng chính bà đã thất kinh hồn vía khi tờ mờ sáng đi chợ, đến cây cổ thụ đầu làng, có người phụ nữ gửi tiền nhờ mua dùm hộp sữa cho con và xị rượu đế cho chồng. Nhưng đến chợ thì bà mói tá hỏa khi nhận ra tiền trên tay mình là tiền...âm phủ. Khi bà về ngang đầu làng thì không thấy ai, cũng không thấy ngôi nhà nào như lúc sáng, rồi nghe có người bảo nửa đêm thường nghe tiếng trẻ con khóc và tiếng ru con phát ra từ gốc cây.

    Duy tin những điều đó vì khi mặt trời bắt đầu lặn, thì những cành cây bên ngoài đong đưa như những cánh tay đưa võng cho trẻ con.

    Đến khi Duy mười chín tuổi, Duy mới hiểu được những câu chuyện người ta hay kể cho nhau ngày xưa chỉ để giải khuây trong lúc rỗi rãi, mà không có chuyện nào hấp dẫn bằng chuyện ấy cả. Không hề có con ma lai nào, cũng như không thể có oan hồn nào hiện về thành người nữa. Tất cả chỉ là thêu dệt nhưng làm cả quãng đời tuổi thơ Duy là sự hãi hùng bóng đêm. Thậm chí, khi ngủ chung với em trai mình, thỉnh thoảng nửa đêm nó quay sang sờ xem em mình có còn đầy đủ đầu mình tay chân không? Hay đã "rút ruột" đi ăn đêm rồi?

    Hồi ấy, mẹ thường có việc phải ra ngoài vào ban đêm, vì ban ngày lo việc trong nhà tối mặt tối mũi, đêm mẹ đến nhà bà Tư kêu chở gạo qua, mua men, hoặc mua bất cứ gì mà ban ngày mẹ thấy thiếu không còn để làm. Trời tối như mực, mẹ hay kêu Duy đi cùng. Duy cầm đèn pin soi đường, không bao giờ Duy dám đi tụt lại đàng sau mẹ, vì sợ có ai đó níu từ phía sau.

    Tối nay, Duy theo mẹ sang nhà dì Tư mua dầu thắp. Cầm chiếc đen pin soi thẳng con đường mòn, mẹ vừa đi vừa cầm cây khua hai bên vệ cỏ cho rắn rít đi hết. Bỗng chiếc đèn pin pha lướt qua một vật gì chuyển động, bò lồm cồm trước mặt, nó hét lên, đánh rơi cây đèn pin và níu lấy chân mẹ. Mẹ lượm đen pin lên vào soi kỹ vào vật đang chắn ngang đường đi thì thấy ông Thạch, ba của Như. Ông say khướt đang lếch về nhà.

- o O o -

    Trong làng có Như con của ông Thạch là thân với Duy nhất, nó cùng học lớp với Duy từ lúc mẫu giáo, nó là con gái nhưng lại không sợ ma, nó là đứa thường vạch mặt chỉ tên đứa nào dám làm ma nhát Duy. Duy thấy phục con Như lắm, riêng về lĩnh vực này thì Như là một anh hùng trong mắt nó.

    Có lần Duy hỏi:

    - Như không tin có ma à?

    - Không biết, nhưng làng mình thì không có

    - Sao Như chắc vậy được?

    - Chắc! Vì nếu có đã bắt ba Như đi rồi. Có ngày nào ba Như về nhà trước mười giờ tối đâu.

    Mà cũng phải, ngày nào ba Như cũng khật khà khật khưỡng đi về lúc nửa đêm, té lăn lóc ngoài đường, có lúc nằm ngủ luôn, rôi tỉnh dậy đi tiếp, có ma nào bắt đâu. Duy nghe tiếng Như cười chua chát:

    - Ông ấy cũng có một con ma theo bảo vệ và dẫn đường rồi, nên không có ma nào dám bắt, Duy biết ma gì không? Ma men đó.

    Duy nhớ đến những lần Như đi học bầm một bên mắt, hay tay chân bầm tím, tứa máu. Hỏi tại sao thì Như chỉ trả lơi tỉnh queo "ma bắt". Lúc chín tuổi, tất nhiên Duy tin thật, nhưng mười chín tuổi thì Duy biết quá rõ, tuổi thơ của Như đã bị con "ma men" ám ảnh, trực tiếp trên cơ thể này, chứ không phải trong tâm trí trẻ con của Duy nữa. Sau này Duy mới hiểu vì sao Như hay bảo Duy rằng "không có con ma nào mình không nhìn thấy nó mà đáng sợ cả!".

    Có lần Như bảo phải chi đừng có ai nấu rượu, đừng ai bán rượu thì nhà nó đâu có khổ vầy. Duy chạnh lòng, đâu phải lỗi ở gia đình Duy, những gia đình nấu rượu, nhà Duy nấu rượu nhưng ba Duy đâu có uống, thỉnh thoảng ông chỉ uống một tí, có bao giờ say mèm như thế đâu? Nếu nhà Duy không nấu, những người như ba Như cũng sẽ có rượu uống, bằng chứng là mấy dì bán tạp hoá lại phải vào tận thị trấn hoặc qua làng khác mà mua về bán.

    Nhà ông Thạch có đến 8 người con, 3 trai và 5 gái. Sau này, tất cả những nghiên cứu khoa học cho rằng rượu bia có tác hại đến sức khoẻ con người trong đó có chuyện dẫn đến vô sinh, Duy đều bác bỏ. Bằng chứng là ông ấy uống rượu trong suốt từ năm 20 tuổi đến giờ, 8 đứa con ra đời không thể nói ông ấy vô sinh. Còn chuyện vợ ông ngoại tình có con với người khác càng không. Vợ ông là người đàn bà nhẫn nhịn, cắm mặt vào đất, bàn tay bàn chân tứa máu để có tiền cho 10 miệng ăn và một miệng nhậu. Cả đời người không có chút thời gian rảnh rỗi cho riêng mình, chưa có ngày nào mặc trên mình bộ quần áo mới thì làm sao ngoại tình được. Vợ ông cũng như những người đàn bà của làng này, có ai hư thân hay đua đòi. Có lúc Duy nghĩ những người như mẹ của Như phải chi biết sống cho mình thì đỡ bi kịch hơn không?

    Như là đứa con thứ tư trong nhà, trên Như có hai anh và một chị. Năm Như mười lăm tuổi, hai người anh của Như đều đi làm ăn xa, chị Như đã lấy chồng. Như cũng mong đến ngày mình đủ mười tám tuổi, như tất cả các thành viên khác của gia đình, mong đủ tuổi để ra đi, xa ngôi nhà "ma ám" này.

    Như may mắn hơn những anh chị của mình là được học hết cấp ba và đậu cả đại học.

    Ngày nhận giấy báo trúng tuyển đại học, Như mừng rơn đem sang khoe với Duy, ngay lúc Duy nhận được tin mình trượt đại học. Như an ủi Duy:

    - Duy rớt thì năm sau thi lại, mình phải đậu để rơi xa ngôi nhà của mình, tờ giấy báo trúng tuyển này đã giúp mình bay đi, bay đi Duy biết không? Mừng cho mình đi, còn Duy, Duy không cần đến nó bằng mình đâu, vì Duy có một gia đình hạnh phúc.

    Như nói, không cho Duy nói, Duy cũng không có quyền buồn trong lúc này. Vì niềm vui của Như lấn át hết rồi, một niềm vui hồn nhiên còn sót lại sau một tuổi thơ gian truân.

    Nhà Như còn lại sáu người, ba mẹ và bốn đứa nhỏ, bốn đứa chưa đủ tuổi để bay như anh chị nó. Nhưng đến một ngày chúng cũng sẽ đi, chỉ còn mẹ Như ở lại, người đàn bà mấy mươi năm ban ngày sống bán thân mình cho rẫy rừng, cho cơm áo, ban đêm chịu những đòn roi của người chồng độc ác.

    Ông đánh bà với bất cứ lý do gì, thậm chí những đứa con đi xa điện thoại về hỏi thăm bà mà không gọi cho ông, ông cũng đánh bà, lúc đánh thì luôn miệng hỏi:

    - Nhà này mày là chủ hay tao là chủ?

    - Mẹ con mày mưu mô lấy cái gì trong nhà này đi hết phải không?

    - Lúc nào cũng mẹ con mày với nhau thôi, tao không là gì hết hả? hả? hả?

    Sau đó là tiếng roi quất, tiếng đấm đá bịch bịch hự hự, tiếng bát chén vỡ tang hoang, tiếng long bong của nồi niêu xoong chảo, tiếng khóc thét của những đứa trẻ. Khi những đứa nhỏ này đủ lớn, đủ lớn để chấp nhận những chuyện này là chuyện bình thường của gia đình thì chúng không khóc nữa, chúng trân trân đứng nhìn, nhìn hiên ngang.

    Rồi cũng có một ngày, thằng con trai nhỏ nhất trong nhà đủ mười tám tuổi, ngày cha nó say lướt khướt về nhà, cất giọng lè nhè:

    - Bà à, mẹ tụi bây đâu, chết hết rồi à...

    Thì nó không cho phép mẹ cho nó đỡ ba nó vào nhà nữa, nó bắt mẹ ngồi im. Tự nó ra đưa ông vào. Ông hất nó ra, nhưng làm sao sức của một ông già say xỉn bằng sức của một thanh niên mười tám. Nó khóa trái hai tay cha nó lại, cột luôn hai chân, rồi bế cha nó quăng lên giường. Ông chửi:

    - Mày dám trói cha mày à, ngon ha, con bất hiếu, bất hiếu.

    Nó câm lặng không nói gì, bảo mẹ nếu thấy điếc tai quá thì nhét nùi giẻ vào miệng ông ấy là xong. Người mẹ trừng trừng nhìn con rồi khóc:

    - Con làm thế với cha con à? Được à con?

    - Mẹ làm sao vậy? Mấy chục năm mẹ chịu hành hạ chưa đủ hay sao? Ngưng một đêm không được hả mẹ? Đêm nay thôi, ngày mai khi con đi rồi, mẹ hãy thả ông ấy ra.

    - Con à, mày học cái thói đánh lại cha từ khi nào thế hả?

    - Ông ấy không xứng đáng là cha con, mẹ để con yên. Mai con sẽ đi, như anh chị của con. Đi và không bao giờ về nữa! Mẹ biết không? - Nó hét lên, hét lớn hơn cả cha nó. Mấy đứa nhỏ lại khóc ré lên. Mẹ nó gục mặt xuống bàn, khóc tức tưởi.

    Duy viết thư cho Như kể chuyện ở nhà. Như bảo lần sau những chuyện ấy Duy đừng kể nữa, Như quen rồi, ngày nào mà Như chả thấy. Như bảo nếu có kể, Duy kể về đồi thông đi, dạo này đứng từ đồi thông, Duy có thấy làng mình khác đi không?

    Duy chẳng thấy nó khác đi tí nào hết, vẫn thế, vẫn chừng trăm nóc nhà, vẫn một ngôi trường cấp một và một cái chợ. Chiều chiều khói vẫn tỏa trên những nóc nhà, quyện trong sương và trong những tán cây rừng. Rừng vẫn xanh, làng vẫn nghèo như thế. Không khác gì. Chỉ có vào một ngày...

- o O o -

    Bà Năm, nhà ở đầu làng, ngôi nhà rộn ràng người ra vào bỗng vắng như nhà từ đường ngay sau ngày anh Minh, con bà Năm chết.

    Anh Minh chết vì tai nạn giao thông! Tin này làm nhốn nháo cả làng. Ai cũng thương cảm rằng cái thằng đó hiền lành, chịu làm ăn, vợ đẹp con ngoan, sao lại chết trẻ? Chết oan? Ngàn đổ xuống như cây chuối trong bão, đứa con khát sữa ngằn ngặt khóc trong tay.

    Bà Năm có chồng là lính ngụy bị bắn chết năm 1974, lúc đó anh Minh con bà tròn hai tuổi. Bà sống bằng đủ thứ nghề, rồi lưu lạc về ngôi làng này đâu khoảng năm tám lăm, năm đó Duy được mười hay mười một tuổi, Duy nhớ không rõ lắm.

    Khi anh Minh hai mươi lăm tuổi thì anh cưới vợ, vợ anh là Ngàn, là một trong những đứa bạn của Duy, năm ấy Ngàn cũng hăm ba. Ở cái làng heo hút này mà ở tuổi Ngàn thì cũng đã thuộc gái lỡ thì. Ngàn xinh, hiền lành nhưng chỉ có mỗi tội là Ngàn tuổi dần. Theo mấy thầy tướng số thì con gái tuổi dần có số "sát chồng", nên quen mấy người đều bị gia đình người ta phản đối, cho tới khi quen anh Minh. Bà Năm cũng phản đối dữ lắm, nhưng anh Minh yêu Ngàn và không tin vào những điều mê tín dị đoan nên anh quyết cưới. Ai ngờ vận đen lại vướng vào Ngàn, anh Minh có tật hay nhậu bù khú với bạn bè sau giờ làm việc, Ngàn khuyên can mãi mà không được. Rồi hôm ấy chỉ vì quá chén, anh chạy xe về nhà, qua đường mà không bật đèn ra hiệu, một chiếc xe chạy cùng chiều đâm sầm vào anh từ phía sau, anh chết ngay tại chỗ.

    Đứa con mới được hai tháng tuổi, khóc ngằn ngặt đòi sữa, Ngàn rũ người bên quan tài chồng. Anh Minh chết, mẹ chồng đổ tội cho Ngàn, vì Ngàn tuổi dần.

    Nhưng có một điều sao không ai chịu hiểu là anh đã say xỉn khi lái xe và chạy sai luật giao thông? Ở cái làng này, luật giao thông là một thứ gi đó của chính phủ, của nhà nước chứ không liên quan đến họ. Cuộc đơi họ gần với những ông thầy tướng số hơn.

    Sau đám tang chưa tròn một tuần, Ngàn bị bà Năm đuổi thẳng về nhà mẹ ruột sống. Vì tội đã dám dụ dỗ và giết con trai bà, bà đã dùng tất cả những từ ngữ nặng nề để đay nghiến Ngàn.

    Ngàn không còn cách nào khác, mẹ ruột Ngàn cũng giận dữ trước những gì mà gia đình chồng của con gái bà đối xử tệ bạc với nó. Hơn ai hết, bà nghĩ rằng mẹ chồng Ngàn phải hiểu nỗi đau mất chồng lớn như thế nào, đàng này lại giáng thêm xuống con gái bà một nỗi đau, một nỗi nhục không gì bù đắp nổi.

    Bà Năm sống một mình, trơ trọi, bà làm bạn với rượu. Bà không còn bước ra khỏi nhà nữa. Bà bảo bà uống cho đến chết thì thôi, nhưng uống rượu dễ gì chết nhanh như thuốc độc được. Nên bà vẫn sống, sống dày vò và khổ sở trong sự cô đơn, những người xung quanh không ai dám đến gần bà.

    Rồi không lâu sau, Ngàn lại mặc thêm một lần áo tang nữa, áo tang cho mẹ chồng. Bà Năm chết cong queo dưới đất, xung quanh là chai rượu và ngổn ngang chén bát. Người ta phải mua gần hai mươi lít rượu để tắm cho chân tay bà duỗi thẳng ra.

    Rượu, lại rượu. Như hỏi Duy có khi nào mai đây Duy cũng là một người đàn ông nghiện rượu, lại đánh đập vợ con và sống hiến xác cho ma men? Duy nghe xót lòng, niềm tin của Như mất hẳn vào những người đàn ông, cho nên tuổi này Như vẫn sống như thế, không yêu ai cả, không dám tin tưởng trao cuộc đời mình cho ai.

    Có lần mẹ Như đã khuyên "con à, chuyện lập gia đình theo một quy luật tự nhiên, con không thể sống khác được, sự lựa chọn của con người chỉ có giới hạn, còn số phận mình do ông trời quyết định". Như không thể sống như mẹ, Như phải sống khác, những người đàn ông trong làng Như phải khác. Như hỏi Duy có cách nào đưa cái "văn hóa" trong chuyện uống rượu này về ngôi làng mình không? Để họ biết sống cho người khác, biết dừng lại đúng lúc và chừng mực trong bàn nhậu. Nhưng Duy biết bắt đầu từ đâu? Từ đâu hả Như?

    Duy nhớ ông nội quá, ông hiền lành, phúc hậu. Ông cũng rất thích uống rượu, ông uống không nhiều, mỗi chiều ông chỉ uống một ly nho nhỏ để ăn cơm cho ngon miệng. Hôm nào ông thèm, uống đến ly thứ ba là ông say. Khi ông say, ông ôm hết nhưng đứa cháu mà hôn, ông lấy kẹo cho ăn, thậm chí bạn của Duy hay em Duy tới chơi ông cũng nựng nịu như cháu ông vậy. Duy rất thích lúc ông say, nhưng ông bị huyết áp nên bác sĩ không cho uống nhiều nữa. Vì thế mỗi chiều ba chỉ cho uống một ly nhỏ thôi và dặn anh em Duy đừng để ông nội uống ly thứ hai. Nhưng thỉnh thoảng anh em Duy ham chơi, thế nào ông cũng rót ly thứ hai thứ ba. Rồi thế nào anh em Duy cũng nghe lại cái điệp khúc "cha à, con không tiếc một ly rượu nhưng bác sĩ không cho cha uống nhiều, cha uống một ly là vừa rồi đừng uống thêm nữa". Ông gật đâu, hiền lành, như biết lỗi...

    Rồi ông mất.

    Sau này cha Duy cũng vậy, chiều chiều là uống một ly nhỏ trước bữa ăn. Má hay ghẹo ba "mai mốt già như ông nội, thằng Duy chiều chiều cũng dặn con tụi nó canh chừng đừng để ông nội rót ly thứ hai, rồi nó nói y chang mấy câu anh nói với ông nội tụi nó". Ba lại cười, cái cười hiền lành của ông nội.

    Chiều chiều, Duy lên đồi thông, nhìn uống làng xem có gì mới không để kể cho Như nghe. "Cuộc sống ở đó vẫn tiếp diễn như mọi ngày. Như biết không, Duy thấy nhớ Như lắm, tuổi thơ bọn mình trôi qua ở đây, những ký ức còn lại là sự hãi hùng và nỗi đau thân xác. Đôi khi Duy lo sợ cho Như, liệu quê người có dung dưỡng cho Như không? Liệu sau khi không còn miềm tin vào ai Như có sống được với cộng đồng xung quanh không?

    Khi đến tuổi này, Duy mới nhận ra hình như trái tim của Duy đã gửi đi tận phương trời nào rồi? Hạnh phúc của Như, nỗi đau của Như lúc nào cũng làm tim Duy nhói lên một nỗi niềm khó tả. Duy làm gì đây, làm gì để đưa Như về gần hơn? trong khi trách nhiệm gia đình không cho phép Duy ra đi thì Như đã bỏ nơi này như chạy trốn. Chạy trốn một cuộc đời nghiệt ngã, Như ơi.

- o O o -

    Chiều nay, lúc đang thơ thẩn đi về phía đầu làng, Duy thấy nhiều người hớt hơ hớt hải chạy vào chạy ra nhà Tư Quắn. Duy dừng lại nghe ngóng và hỏi thăm thì người ta bảo ông Tư Quắn đã giết chết vợ ông rồi, đang nằm trong vũng máu trong nhà. Người đã đã gọi công an, còn ông đã bỏ trốn đâu đó.

    Một cảnh tượng hãi hùng đang hiện ra trước mắt Duy, bà Tư Quắn đang nằm trên vũng máu dưới sàn nhà, một chân nằm dưới đất, chân còn lại vắt trên giường. Gương mặt không còn nhận ra bà nữa, hai đường chém ngang mặt, một con mắt bị rơi ra ngoài, đầu bị chẻ ngang một đường giữa trán. Chứng tỏ ông Tư đã cố ý giết bà chứ không phải là những trận đòn trong lúc ông say như trước đây nữa. Trên bàn thờ, di ảnh đứa con gái nhìn xuống gia đình với ánh mắt thất thần, vô hồn, vô cảm. Nó nhìn mẹ một cách bình thản, có lẽ nó đã mong có ngày này lắm, để nổi đau mẹ không phải chịu dai dẳng nữa.

    Ông an xã đến, lập biên bản, chụp hình, vẽ vẽ gì xuống nền nhà rồi đi, yêu cầu người nhà mai táng nạn nhân. Hai đứa con trai, cháu nội còn bi bô và đứa con dâu chân đứng như chôn trước thi hài của mẹ.

    Ông Tư Quắn nổi tiếng là người sành nhậu ở làng, ông có thể ăn thịt cầy và đi săn bất cứ con thú nào trong rừng về nhậu. Nhưng trong làng không ai dám ngồi nhậu với ông. Vì ngồi chung, thế nào tới khi tàn cuộc thì cũng xuất hiện dao búa và đánh nhau. Vì thế, ông nhậu một mình hoặc sang các làng khác nhậu. Ông nhậu không nhiều, chừng một lần một tuần. Nhưng khi uống xong thì vợ con ông phải cuốn chiếu mềm mùng trốn ra rẫy ngủ. Ngủ lăn lết dưới đất, ngủ trong sương lạnh buốt. Nếu để ông nhìn thấy ai trong nhà thế nào ông cũng hành hạ dã man, ông bắt quỳ sắp hàng trước mặt ông và ông đánh. Ông tát trên mặt, đấm trên ngực hay đạp từ phía sau cho chúi nhụi. Không ai được khóc, nếu khóc ông sẽ cột dây vào chân và treo ngược lên xà nhà, hàng xóm không cứu kịp là chết.

    Thuý, con gái ông, năm mười sáu tuổi, nó cầm dao dọa sẽ giết ông nếu ông dám hành hạ mẹ con nó nữa. Ông đã tát nó bạt tai, chúi nhủi. Trong lúc ông sơ ý, nó chém đứt ngón tay út của ông. Rồi bỏ chạy. Nó chạy hoài chạy hoài, ba ngày sau, người ta phát hiện xác nó trong một cái giếng trong rẫy của ai đó ở cuối làng. Lúc đem cái xác trương phình của nó về, ông Tư đứng chết trân, ông nhìn nó rồi nhìn xuống ngón tay vừa bị chém đứt của mình.

    Bất giác, Duy nhớ đến Chí Phèo, Chí Phèo uống rựơu, nhưng suốt cuộc đời mình, hắn chỉ rạch mặt ăn vạ và chửi. Hắn giết Bá Kiến, vì Bá Kiến là tên đáng chết, là tên đẩy hắn vào con đường cùng. Ngoài ra hắn cũng yêu, có một tình yêu và không hại ai cả.

    Còn ở đây, Ông Tư Quắn lại hại chính người vợ ông và những đứa con do ông sinh ra. Hổ còn không ăn thịt con. Vậy ông là gì?

    Duy nhìn con người ấy một cách khinh bỉ. Những con ma của tuổi thơ Duy không đáng sợ bằng con người này. Như đã nói đúng "không có con ma nào mình không nhìn thấy mà đáng sợ cả".

    Những tưởng sau cái chết tức tưởi của con gái, ông tu tâm lại, ai ngờ ông còn độc ác hơn, tàn nhẫn hơn gấp bội lần. Vì ông bảo chúng đã dám chống lại ông, ông sẽ giết hết, giết chết sạch những đứa còn lại, để không đứa nào chống lại ông nữa

    Vợ và hai đứa con trai còn lại sống vất vơ vất vưởng ngoài đường, không ai dám đưa vào nhà mình trú ngụ. Nếu ông biết, ông đặt thuốc nổ ngoài cổng và hăm làm nổ tung cả làng.

    Năm thằng Hoà hai mươi tuổi, sau hai năm kể từ ngày con Thuý em nó chết, thằng Hoà có vợ. Nhưng nó không biết gia đình nó sẽ đi hỏi vợ cho nó bằng cách nào. Cha nó làm cái gia đình tan nát từ lâu rồi. Đó là địa ngục của nó chứ không phải gia đình.

    Thằng Hiệp, em trai út bỏ học, tụ tập chơi với bạn bè hư. Mà dù bạn bè nó có hư hay quậy phá thì không bằng một góc sự tàn nhẫn của cha nó kia mà. Rồi một hôm, cha nó lè nhè đi về, lớn tiếng trước cổng nhà. thì có chừng sáu, bảy đứa choai choai tay cầm gậy đứng trước cửa nhà và đánh ông tới tấp. Ông nhìn thấy chẳng đứa nào quen, chúng đánh gãy hai chân ông và doạ, nếu còn đánh ai nữa, dù là người trong gia đình ông sẽ bị chúng giết chết

    Đám hỏi vợ cho thằng Hoà, mỗi mình má nó đại diện, vì ba nó không đi lại được. Đó là lý do tốt nhất để ba nó không có mặt mà không ai trách cứ gì. Vì nó sợ, khi tiệc hỏi do nhà gái đãi chưa tàn cha nó lại tay dao tay búa làm nhốn nháo cả dòng họ người ta. Mất mặt nó, mà có thể nó mất luôn vợ, cô gái rất ngoan hiền mà nó muốn hi sinh cả cuộc đời mình vì cô ấy. Mình sẽ không bao giờ sống như cha. Em sẽ hiểu khi về làm vợ mình. Còn bây giờ nó rất lo, nếu người ta biết được cha nó như thế nào, họ sẽ từ hôn ngay, vì quan niệm "cha nào con nấy".

    Hai mẹ con lén cha nó bán một mẫu rẫy cà phê trong làng. Nó ra mua lại một mẫu rẫy khác ở tận Gia Lai. Mẹ nó bán cà phê thu được mùa trước, cho nó cất nhà.

    Đám cưới xong, hai vợ chồng ra riêng, ra tận Gia Lai ở nhà mới, đi như chạy trốn, không giám nói với ông tiếng nào.

    Cơn cuồng nộ của ông càng dâng cao khi tất cả các thành viên trong gia đình đều làm việc sau lưng ông. Ông giải quyết sự cuồng nộ ấy bằng những trận đòn chí tử trên cơ thể vợ ông.

    Buộc thằng con trai út của ông phải nhờ đến bạn đánh cho ông gãy chân lần nữa. Gia đình ông luôn luôn hành xử theo luật rừng, không tình nghĩa, không đạo lý, người nào mạnh người ấy thắng không kể cha con.

    Đến khi ông gãy chân lần thứ tư thì ông phát hiện ra những việc làm đó là của thằng con trai út ông. Việc đó đã đưa đến kết quả ngày hôm nay, người vợ xấu số của ông đã chết dưới tay ông. Vì như lời ông là "chúng" dám chống lại ông.

    Thằng con út quỳ sụp xuống thi thể mẹ "phải chi hồi ấy con đánh ông ấy bể đầu thì đâu có cơ sự này, con chỉ nghĩ là gãy chân thôi cũng làm ông ấy sợ rồi, mẹ ơi ".

    Đám tang bà tư Quắn, đám bạn thằng út ở đâu kéo về chừng hai chục đứa, đứng gác quanh nhà để canh chừng ông có thể quay về. Trong cơn giận hừng hực của bọn chúng, ông Tư quay về lúc này ông sẽ không còn đường sống. Vài anh công an xã sẽ không làm bọn trẻ này nao núng, nhất là những anh công an chờ có tiền lót tay mới làm việc.

    Duy lại viết thư kể cho Như nghe, dù đã cố gắng lắm, muốn kể cho Như những chuyện vui, những chuyện không liên quan gì đến rượu, nhưng ngôi làng nhỏ này, những chuyện tốt đẹp thì có ai biết đâu, những tấm gương sáng là những người siêng năng cần mẫn sáng vác cuốc ra đồng, chiều vác về. Những chuyện tày trời như thế mới làm xôn xao, nó làm Duy bức bối, và muốn Như nghe. Dù Duy biết, khi kể những chuyện này, Như sẽ sợ hãi chính quê hương mình, Như sẽ xa Duy nhiều hơn.

    Tính đúng vào cái hôm đám tang bà Tư Quắn thì Duy tròn hai bảy. Nghĩa là Như xa nhà chín năm. Một tuần sau đó, Duy nhận được thư Như và lời chúc mừng sinh nhật. Cộng thêm một tin làm Duy ngỡ ngàng rằng Như có người yêu.

- o O o -

    Tất nhiên việc Như có người yêu không có gì lạ với Duy cả, Như có phải là trẻ con đâu, cũng sắp hai bảy rồi. Như sống ở thành phố, đông đúc, ồn ào. Không lẽ trong những ồn ào đó, chín năm trời Như không tìm ra một bờ vai cho riêng mình? Trước đây, Duy luôn nghĩ rằng niềm tin của Như vào đàn ông ít lắm, Như mạnh mẽ, nên sẽ không tìm một nơi nào để tựa vào. Nhưng Duy chưa kịp hiểu rằng, sống ở xứ người, dẫu niềm tin có cạn kiệt vào lòng người dành cho nhau, Như buộc mình phải bám víu, phải tin vào một điều gì đó, một ai đó để tìm sức lực mà đứng lên sau những mệt mỏi tưởng chừng có thể buông xuôi. Những dòng thư của Duy không đủ cho Như bám vào, chính những dòng thư đó cũng chưa cho Như trọn vẹn niềm tin vào những gì tốt đẹp ở ngày mai.

    Nên Như bảo, nếu lỡ yêu Như rôi, Duy hãy quên đi, quên những gì tốt đẹp thì nhẹ nhàng lắm, nó không như những con ma và những trận đòn đã khắc sâu một thời thơ ấu. Nên đừng chờ đợi Như, con đường Như đi không thể nào dẫm lên dấu chân của mẹ, dẫm lên những rẫy cà phê của ngôi làng mà Duy đã dính chặt vào nó, dẫu Như rất tin rằng Duy là người đàn ông tốt, mẫu mực, không giống cha Như.

    Như cũng tuổi dần, nếu về ngôi làng này, số phận Như sẽ như Ngàn, sẽ bị gán cho những điều độc ác nghiệt ngã. Nào ai biết trước được những rủi may của cuộc sống?

    Duy hiểu, những người đàn bà ở ngôi làng này, tất cả đều tin vào lời một ông thầy tướng số. Cất nhà xem thầy, cưới gả xem thầy, thậm chí cất cái... chuồng heo cũng xem thầy. Mẹ Duy cũng không phải ngoại lệ. Nên cái tuổi dần của Như sẽ bị ông thầy ấy cản không cho bước chân về nhà Duy, giống ngày xưa ông ấy đã cản Ngàn về làm dâu bà Năm.

    Như nói ở thành phố, người ta sống thực tế và hiện đại hơn, cưới gả gì cũng không xem thầy nữa, người ta chỉ xem vào cuốn lịch ngày ấy có phải hẹn đối tác nào không? chỉ thế thôi. Nên những nhà hàng tiệc cưới thường rình rang vào chiều thứ bảy và chủ nhật, chỉ có những ngày ấy khách mới rảnh rang mà đi dự tiệc. Không như ở quê mình, đi xem thầy, thầy bảo hai cái tuổi ấy phải rước dâu lúc năm giờ sáng, vậy cũng cố mà nghe theo, đánh thức họ hàng dậy từ nửa đêm. Như cười, chẳng biết như vậy để làm gì, những cái đám cưới như thế rồi về sống cùng nhau cũng đánh nhau ầm ầm, trong nhà hục hặc chuyện mẹ chồng con dâu, êm đẹp gì đâu! Duy cũng biết, Duy chứng kiến nhiều lắm, thấy rồi chỉ lắc đầu, rõ là những trò ngớ ngẩn. Cái ông thầy tướng số ấy quả là có sức mạnh ghê gớm khi "phán" và sai khiến biết bao nhiêu con người đang hộc tốc làm theo ý mình. Biết đâu vào cái giờ mà hàng chục người thức dậy để làm cái việc ông cho là tốt, thì chính ông, ông lại trằn trọc suy nghĩ không biết thức dậy, ngày mai đời mình sẽ ra sao?

    Cũng vì thế mà Như chọn người đàn ông này, người ấy tên Quân. Là một trưởng phong trong công ty Như làm việc, không đẹp trai hào hao phong nhã, nhưng nhiệt tinh và hoà đồng với xung quanh, sống được lòng mọi người. Như yêu Quân vì những thứ đơn giản ấy, vì cảm thấy anh rất đáng tin.

    Còn Quân yêu Như ở điểm nào? Như bảo Quân yêu Như vì Như là người lạnh lùng và bất cần, lúc nào cũng tỏ ra như thế, nên anh quyết chinh phục. Và đó là tình yêu của anh.

    Duy ngẩn người, hóa ra tình yêu của họ cũng giản đơn như thế, chông chênh như thế!

    Tết năm ấy, sau chín cái tết xa quê, Như về làng, có cả Quân.

    Không có gì thay đổi nơi ngôi làng này, em Như đã xa nhà gần hết, mẹ Như già đến héo hắt, cha vẫn không bỏ được rượu. Ông đã nghiện từ lâu rồi, chỉ có điều sức ông không còn đi đây đi đó bù khú nữa mà uống ngay tại nhà, ông khát là ông uống rượu, uống như người ta uống nước, nên chẳng khi nào tỉnh.

    Khi Như và Quân vào nhà thì gặp cha Như ngay cửa, ông lè nhè nhìn Quân:

    - Bọn mày là đứa nào? Vào đây làm gì?

    - Ba, đây là anh Quân, bạn trai con!

    - Bạn trai à? Mày bỏ nhà đi theo trai giờ vác cái mặt về nhà à? Thằng kia, mày làm gì con gái tao rồi hả?

    - Từ xưa giờ con có là con gái ba đâu mà giờ ba nói với anh ấy như vậy?

    Dù mẹ Như có ra can ngăn, ông cũng chẳng tiếc lời mắng nhiếc. Như mặc kệ và kéo Quân vào nhà. Bảo Quân coi như không có ông. Nhưng làm sao Quân mặc kệ được, khi nhìn thấy tất cả những gì xảy ra quanh Như.

    Ở nhà Như được ba hôm thì Quân xin phép về thành phố trước, Quân không thể ở lại khi vì anh mà chén bát trong nhà liên tục vỡ tan tành, anh không chịu nổi những lời mắng nhiếc của ba Như, anh chưa bao giờ phải sống và nghe những lời như thế. Anh bảo Như vào thành phố rồi mình gặp lại nhau, mình tính cách khác.

    Cách khác của Quân chỉ là một tin nhắn, nhắn chỉ sau đó hai hôm, khi Như chưa kịp vào lại thành phố cùng anh. "Anh nghĩ chúng ta khó mà hòa hợp nhau khi gia đình em và gia đình anh quá khác biệt".

    Như cười trừ, không nhắn lại. Rồi hỏi Duy "thế này thì Duy bảo Như tin được ai, tin vào cái gì?"

    Chiều mồng năm tết. Duy đưa Như lên đồi thông đầu làng.

    - Duy biết không? Như thèm ngửi mùi lá thông, thèm được nằm trên lớp lá thông êm và sạch thế này. Như thèm tất cả những gì thuộc về ngôi làng này, từ khí hậu, đến mùi khói chiều, đến sương sớm, thèm tất cả, chỉ trừ gia đình. Mà không! Trong gia đình, Như cũng yêu hết mọi người, chỉ trừ ba Như thôi. Như không biết có bao giờ Như tha thứ nổi cho ông không?

    Duy nắm lấy bàn tay Như, bàn tay nay ngày xưa đã kéo Duy chạy khỏi lũ bạn làm ma nhát Duy, bàn tay ngày xưa từng níu áo Duy đi chậm lại để lâu đến nhà. Nó gần lắm, thân lắm. Như để yên bàn tay trong tay Duy, giữ chút hơi ấm cho nhau trong một chiều sương lạnh. Cái nắm tay như sẻ chia, là sự thông hiểu. Duy biết mình không nên nói gì cả, lời nói của Duy sẽ trở thành vô nghĩa nếu chỉ là những lời khuyên sáo rỗng. Rồi Như khóc.

    - Cứ tưởng anh Quân là người mình tin được, lúc mới quen, anh ấy vưng chải lắm, tưởng không gì làm ảnh đổ cả. Vậy mà, đứng trước nổi đau của gia đình Như, anh ấy phủi hết những kỷ niệm đẹp của hai đứa. Có lẽ anh ấy xem thường gia đình Như lắm, Duy ạ! Ở thành phố chẳng có gia đình nào như thế cả!

    Rõ ràng Duy thấy tình yêu của Quân dành cho Như ít quá, ích kỷ và nhỏ nhen quá, chỉ một chút thôi mà không chiến thắng được cái tôi, cái tự kiẹu trong lòng mình. Đáng lý anh phải biết chia sẻ và cảm thông cho Như, anh phải biết trong cái vẻ bất cần đời của Như kia là sự cô đơn khủng khiếp, là cái vỏ bọc xù xì đang chứa một trái tim yếu đuối, sao anh chỉ hiểu quá giản đơn, anh tưởng Như quá đủ đầy nên bất cần đời hay sao? Nông cạn quá Quân ơi!

    Như tựa đầu lên vai Duy, tựa một cách tự nhiên và bình yên. Như cũng đang tìm nơi để bấu víu, sau nhưng mệt mỏi tìm kiếm của đời mình. Ở cái tuổi lỡ thì con gái, Như thấy mình quá chênh chao.

    Duy choàng tay qua vai Như, để kéo Như về gần hơn nữa, để Như khóc, khóc sau chín năm xa nhau, sau chín năm chạy trốn, sau chín năm hi vọng nhưng không có sự đổi thay. Duy vẫn đang cố gắng làm cho Như tin rằng cuộc sống còn nhiều lắm những người đáng tin cậy. Duy muốn làm điểm tựa cho Như suốt cuộc đời này.

    Nhưng có phải cuộc sống lúc nào muốn cũng được đâu, Duy muốn nhưng Như không muốn, vì lúc nào Như cũng muốn thoát khỏi cái làng nhỏ bé này. Dẫu khi xa, Như nhớ mùi khói chiều, mùi sương sớm, mùi lá thông... Vì khi sống, Như buộc phải đối mặt với những nổi đau của mẹ, như không còn đủ can đảm để nhìn mẹ héo hắt từng ngày trôi qua như thế nữa.

    Rồi Như đi. Cầu nối giữa hai người chỉ là những bức thư, kể về những chuyện xảy ra trong làng. Duy như một ký giả, viết hết lại những gì xung quanh, để gửi cho Như.

    Ba tháng sau kể từ ngày Như đi thì thằng Ninh, em trai Như bị bắt. Vì tội giết người. Cùng bị bắt với nó có thằng Hiệp con ông Tư Quắn và mấy đứa khác nữa.

- o O o -

    Thằng Ninh đi bụi ngay sau cái hôm nó trói cha nó rồi quăng lên giường, không mở trói cho đến hết đêm. Nó không biết rằng sáng hôm sau, khi nó đi rồi, mẹ nó vừa khóc vừa cởi trói cho cha, thì cha nó đã đánh mẹ nó ngã chúi nhụi với lời mắng nhiếc là bà đã dạy con thế đó hả? dạy thế hay sao? sao không dạy nó giết tôi đi?

    Nó đi với thằng Hiệp con ông Tư Quắn, chính nó đã tham gia vào vụ mấy lần đánh ông Tư Quắn gãy chân. Nó cũng tính, lúc nào thấy cần thiết, nó cũng làm thế đối với cha mình. Nhưng nghĩ, dù sao ông cũng chưa ác bằng cha thằng Hiệp. Nên thôi.

    Như biết tính thằng Ninh, nó là đứa không giống hai người anh, không cam chịu, nó phản kháng bằng cách rất cực đoan. Mới học lớp tám đã bỏ, không chịu đến trường nữa, nhà trường gửi giấy mời phụ huynh nó xé bỏ ngay trước mặt thầy hiệu trưởng, thầy đã tát cho nó bạt tai. Nó hầm hầm chỉ vào mặt thầy "thầy ra đường nhớ ngó trước ngó sau!" rồi bỏ đi, nghe sau lưng vọng theo "đồ mất dạy", nó nhếch mép cười, có ai dạy tôi đâu mà mất!

    Nó sống ngoài thị trấn cùng với nhóm bạn bụi đời, đêm đêm đam mã tấu, dao găm, dao bấm múa sáng loáng đường quốc lộ làm kinh hãi người đi đường. Buồn buồn thì...chém ai đó chơi, nhìn thấy ai đi đường có cái mặt nghênh nghênh tỏ ra không sợ ai thì tụi nó chém cho vài nhát. Quốc lộ dần dân trở thành con đường dành cho xe ô tô đi qua, không một ai dám ra đường vào ban đêm, học sinh cũng không dám đi học thêm nữa. Ban đêm, thị trấn chịu sự "thống trị" hoàn toàn của bọn cướp nhí này. Công an ở thị trấn chẳng làm được gì bọn chúng. Mà chẳng riêng gì công an thị trấn, cả cái huyện này, chẳng có anh công an nào làm việc đúng chức trách của mình cả, dân kêu cứu bằng điện thoại thì không nghe, chờ dân lên tận nơi, trao phong bì tận tay mới gật đầu làm vài việc lấy lệ thôi. Vì vậy nên giang hồ mới lộng hành.

    Hàng tháng, thuế vụ đến thu thuế, Duy bực bội hỏi thuế mấy anh dùng để làm gì? chúng tôi nuôi các anh mà đến một nhóm nhóc con như thế lộng hành ngoài phố các anh cũng chịu thua, cũng chẳng màng ngó tới? Nói xong thì thấy cũng chẳng được gì, nói cho đỡ tức, vậy thôi. Mẹ Duy la, sao nói năng lung tung lần sau tụi nó lại làm khó dễ chuyện buôn bán của mình.

    Từ ngày nhà Duy thuê một căn nhà ngoài thị trấn để buôn bán, ba Duy không còn nấu rượu nữa, chuyển sang trồng cây kiểng và mua bán chậu hoa, hình như ba già rồi, cái lam lũ tất bật của ngày xưa dần dần mất đi, thay vào đó là sự thư thái của tuổi già, khi mà mức sống được cải thiện dần, thì điều đó tốt hơn cho những người nông dân như ở quê Duy.

    Có lần Duy gặp thằng Ninh, bảo chị Như hỏi thăm em, nó ngồi thật lâu, rồi sực nhớ điều gì, nó bảo "anh nói với chỉ là nếu chỉ có lấy chồng, em cho tiên mướn một ông già nao đó làm cha đứng ra làm lễ cho chỉ, đừng để cha em đứng trước hai họ làm việc đó, nhục lắm, chắc gì ổng nói ra câu nào cho có ngô có khoai". Cặp mắt thằng Ninh lúc đó trừng trừng sự căm hận, sự già đời trong một con người háo thắng bùng dậy dữ dội.

    Lúc ấy, Duy không dám nói câu này cho Như nghe, nên Như mới đưa Quân về nhà, nên Như mới khóc trên vai Duy chiều hôm ấy. Những giọt nước mắt còn nóng hổi trên vai Duy.

    Trong máu của cha Như có con "ma men" thống trị, nên chuyện phải thay đổi và làm lại cuộc đời như nhiều người khác là điều rất khó làm. Như biết điều đó, nhưng Như cố gắng hi vọng, vi dẫu sao, một lễ cưới vẫn cần có đủ cha lẫn mẹ.

    Thằng Ninh thì bất cần, bạn bè có thân hơn gia đình, đường phố là nhà. Nó không cần ai torng gia đình ấy, nhưng ai cần đến nó, nó sẽ làm hết mình. Nó sòng phẳng một cách lạnh lùng. Cũng đúng thôi, gần hai mươi năm tuổi thơ của nó, có ngày nào nó được dạy là phải sống yêu thương? Sách vở trên trường không vào được đầu nó, vì tình cha con, tình vợ chồng, cha nó đã thể hiện bằng đòn roi.

    Vào cái đêm ông tư Quắn, cha thằng Hiệp về nha, ông lén lút chui từ cửa sau. Tụi nó đang nhậu trong nhà, ngôi nhà ấy bây giờ là của bọn nó, là chỗ ngủ qua đêm của băng nhóm này. Ông Tư tìm lục cơm nguội dưới bếp, không may bị rơi cái nắp nồi. Tụi nó xuống xem, ông vội vàng bỏ chạy, tụi nó rượt theo nhưng trời tối mà đứa nào cũng ngà ngà say nên chỉ rượt một đoạn rôi nó quay về, ngôi nhậu tiếp.

    Đến khi không con rượu và mồi nữa chúng kéo nhau ra thị trấn "làm ăn", cuộc sống của chúng, giang sơn của chúng là ở đó. Hôm ấy, tụi nó a thì gặp một nhóm thanh niên chừng 5, 7 đứa chạy xe máy rê rề ngoài đường, có lẽ tụi này từ nơi khác đến nên không biết ở đây có một băng cướp nhí thường ra tay rất dã man. Tụi thằng Ninh ao ra gây sự, mấy đứa kia thất thế, bỏ chạy, nhưng có 3 đứa không thoát được, đã bị tụi nó chém cho tới chết. Bỏ xác ba nạn nhân nằm đó chúng lấy xe và tất cả tư rang đem đi tìm chỗ nhậu tiếp.

    Ngay đêm hôm sau, khi chúng chuẩn bị "xuất quân" thì công an tỉnh đã mai phục trước, bắt gọn nguyên nhóm.

    Nếu công an huyện và công an thị trấn có trách nhiệm thì tụi nó đã bị bắt ngay hôm gây án chứ không đợi đến hôm sau, vi tụi nó đâu có trốn, vẫn nhởn nhơ ngoài đường phố thế thôi. Nghe đâu sau đó, một số công an cấp huyện trở xuống bị cách chức. Xóm làng như mở cờ, vui như hội. Chỉ có mẹ Như là héo hắt thêm.

    Người ta nói tội của thằng Ninh nhẹ cũng 20 năm vì đó là tội giết người cướp của. Cũng may nó không phải là chủ mưu, chủ mưu như thằng Hiệp sẽ lãnh án tử hình.

    Giá như bọn chúng có những ngươi cha tốt, những người cha không uống rượu, không vũ phu, lo làm ăn thì chúng đã không hận đời, không chém những nháat dao lạnh lùng vào người khác. Chính cha chúng đã đánh, giết những người trong gia đình không thương tiếc, kể gì người dưng, vài người dưng chết dưới tay bọn nó thì có sao đâu?

    Chính bọn nó đã nói như hế tong phiên xử, nói tước tòa. Thằng Hiệp nói nếu ngày xưa, mấy lần cha nó đánh mẹ nó, mấy chú công an chịu đến cứu thi nó đs4 bình an, nó không phải khổ sở nghĩ cách tự cứu mình rồi gây ra thảm họa như bây giờ. Các anh công an xung quanh đứng im lặng, dửng dưng, ừ, ngày xưa, nó có gọi cho mình đâu.

    Duy đứng phía sau, nhin thằng Ninh nhỏ thó đứng trước vành móng ngựa, mà lòng đau như cắt, cũng may Như không về, Như không thấy cảnh này, gia đình Như cũng không ai đến. Mẹ Như đã lên cơn sốt từ tối hôm qua, đến sáng nay vẫn không nhấc đầu lên nổi. Bà đang gọi mấy đứa nhỏ đưa mẹ lên tòa, mẹ muốn gặp thăng Ninh, mẹ muốn gặp nó coi nó có bị người ta đánh nhiều không? Ninh ơi!...

    Thằng Hiệp bị án tử hình, thằng Ninh án chung thân, án tuyên nặng nề, dưới hàng ghế phía sau có những tiếng thở phào xen lẫn tiếng khóc. Thằng Hiệp không biết ngay sau hôm nó bị bắt, cha nó trở vê, sống đàng hoàng trong ngôi nhà ấy, mà không thấy anh công an nào đến trói bắt ông đi.

- o O o -

    Dù ông Tư Quắn không bị pháp luật trừng trị, thì những bóng ma của vợ ông, của các con ông cứ lẩn quẩn mãi. Đâu chừng nửa tháng kể từ ngày thằng Hiệp bị tuyên án tử hình, ông cũng kết thúc đời mình bằng chai thuốc diệt cỏ.

    Cha Như cũng bừng tỉnh sau mấy mươi năm, ông chặt phăng hai ngón tay thề sẽ cai rượu.

    Như hỏi Duy có thể tin điều này được không?

    Cuộc sống vẫn tiếp diễn nơi ngôi làng nhỏ ven đồi ấy, vẫn có những người phụ nữ chịu thương chịu khó, vẫn có những người đàn ông biết yêu thương vợ con, cũng có những người đã, đang và sẽ bị "ma men" dẫn lối đi về. Đó là cuộc sống, Như à, ai trở về thì hãy đón nhận, cho người khác một cơ hội nghĩa là cho mình một cơ hội.

    Như hiểu, Như vẫn thèm được nằm trên lá thông, thèm đươc ngửi mùi khói làng. Và cũng nhớ lắm bờ vai vững chải của người đàn ông đang chờ đợi Như nơi ngôi làng này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: