Câu7: Cấu trúc và nhận dạng thông tin quản lý
Thông tin quản lý hệ thống SMI (System Management Information) định nghĩa một cơ cấu tổ chức chung cho thông tin quản lý . SMI nhận dạng các kiểu dữ liệu trong MIB và chỉ rõ cách thức miêu tả và đặt tên các tài nguyên trong cơ sở dữ liệu thông tin quản lý MIB. SMI mô phỏng sáu loại dữ liệu, đó là bộ đếm, kiểu (gauge), tích tắc thời gian (Time Ticks), địa chỉ mạng, địa chỉ IP và số liệu đếm không trong suốt (opaque). Bộ đếm được sử dụng để diễn đạt sự lấy mẫu tích tụ của chuỗi thời gian. Kiểu (gauge) diễn đạt các mẫu của chuỗi thời gian, tích tắc thời gian được sử dụng để đo thời gian tương đối, còn loại số liệu không trong suốt thì được sử dụng để mô tả một chuỗi bít bất kỳ. Người ta cũng sử dụng các loại dữ liệu cơ sở chung như số nguyên chuỗi octet, đặc điểm nhận dạng vật thể xác định số liệu bị quản lý . Việc giới hạn các loại dữ liệu trong SMI và hạn chế quy mô của các hạng mục số liệu trong MIB đã làm giảm nhiều độ phức tạp của việc tổ chức lưu trữ, mã hóa, giải mã số liệu.SMI duy trì tính đơn giản và khả năng mở rộng trong MIB. Vì thế MIB chỉ lưu những loại dữ liệu đơn giản gồm các đối tượng vô hướng và các mảng hai chiều của các đối tượng vô hướng. SMI không cung cấp cách tạo hoặc truy xuất các cấu trúc dữ liệu phức tạp. Các MIB sẽ chứa các loại dữ liệu do nhà cung cấp tạo ra. Thông tin quản lý hệ thống hỗ trợ cho liên điều hành trong quản lý mạng dựa trên các cơ sở thông tin quản lý MIB, nó đặc tả và hiển thị các thông tin tài nguyên trong MIB cũng như tiêu chuẩn kỹ thuật định nghĩa cho các đối tượng đơn lẻ khác. Để cung cấp phương pháp tiêu chuẩn biểu diễn thông tin quản trị, SMI cần thực hiện những công việc sau:
+Cung cấp kỹ thuật tiêu chuẩn để định nghĩa cấu trúc của MIB đặc biệt.
+Cung cấp kỹ thuật tiêu chuẩn để định nghĩa các đối tượng đơn lẻ, bao gồm cú pháp và giá trị của mỗi đối tượng.
+Cung cấp kỹ thuật tiêu chuẩn để mã hoá các giá trị đối tượng.
*,Cấu trúc của MIB:
Các đối tượng quản lý trong môi trường SNMP được sắp xếp theo cấu trúc hình cây có thứ bậc. Lá của cây là đối tượng quản lý thực, mỗi thành phần trong đối tượng này biểu thị cho tài nguyên, sự hoạt động hoặc các thông tin liên quan được quản lý. SNMP tận dụng cây đăng ký của OSI như là một thư mục thông tin bị quản lý.Các cây con được sử dụng để biểu thị nội dung logic, còn các biến số bị quản lý được lưu trữ tại các lá cây. Người ta sử dụng các biến số này để biểu diễn các thời điểm của thực thể tương ứng. Cấu trúc cây cơ sở dữ liệu này được các nhà thiết kế MIB định ra theo kiểu tĩnh. Còn sự thay đổi mở rộng chỉ có trong các giá trị của cơ sở dữ liệu và trong việc tạo ra hay xóa đi các hàng của bảng.
Người ta sử dụng cây đăng ký để đánh dấu các định nghĩa của các tiêu chuẩn khác nhau. Mỗi nút của cây được đánh dấu bằng một tên (đặc điểm nhận dạng chung) và một con số (đặc điểm nhận dạng tương đối). Một nút được xác định duy nhất bằng cách nối các con số từ gốc đến nút đó.
Với mục tiêu quản lý các nhóm giao thức trong mô hình TCP/IP và mạng Internet, một mô hình cây có tên gọi MIB II (RFC1213) có nhánh Internet được chia ra thành 4 nhóm lớn: Thư mục, quản lý , thực nghiệm và vùng chỉ số cá nhân.
+Nhóm thư mục (Directory): Hỗ trợ các thư mục trong OSI X.500
+Nhóm quản lý (Management): Gồm các đối tượng của Internet
+Nhóm thực nghiệm (Experimental): Sử dụng cho quá trình thực nghiệm trước khi chuyển sang nhóm quản lý .
+Nhóm cá nhân (Private) : Gồm các đặc tả của các nhà cung cấp thiết bị và các vùng gia tăng giá trị.
Theo nhánh nhóm quản lý , MIB-II đưa ra các biến số để quản lý các giao thức gồm 11 cây chức năng con (Hình 2.6). Các cây con này lại tiếp tục được chia ra thành các cây con cấp thấp hơn như đối tượng hệ thống và các bảng con tương ứng với các lá. Lá được sử dụng để đánh dấu các biến số bị quản lý thuộc một loại nhất định. Một số lá như mô tả hệ thống sysDesc chỉ đánh dấu một thời điểm duy nhất của biến số bị quản lý và chỉ đòi hỏi một phần tử lưu trữ duy nhất. Những lá khác như mô tả trạng thái một đường kết nối TCP tcpConnState có thể chỉ dẫn nhiều thời điểm khác nhau. Các thời điểm khác nhau này được tổ chức thành các cột của tế bào. Các cột này tạo thành một bảng mà các hàng của bảng này biểu diễn những thời điểm khác nhau của một thực thể (như một đường kết nối TCP hoặc một giao diện).Việc đánh số theo thứ tự hình cây đem lại lợi thế cho quá trình truy nhập thông tin trạng thái chính xác nhưng khá phức tạp về mặt chỉ dẫn do thể hiện trạng thái của cùng một đối tượng tại các thời điểm khác nhau là khác nhau. Vì vậy, phương pháp chỉ dẫn theo bảng sẽ hỗ trợ các chỉ dẫn đối với các đối tượng có sự thay đổi. Agent có thể bổ sung thêm hoặc xóa đi các đầu mục mới. Bằng các cột chìa khóa người ta có thể xác định duy nhất một đầu mục của bảng thông qua việc sử dụng nội dung của các cột chìa khóa làm chỉ dẫn. Bảng giao diện đưa ra một chỉ dẫn đặc biệt đóng vai trò như chìa khóa. Giá trị lưu trữ trong cột này cho phép ta xác định các hàng cột một cách duy nhất.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro