câu 4
a. Kỷ nguyên của sự thay đổi
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, quyền lực của nước Mỹ dang tăng lên; những cuộc cách mạng trong linh vực công nghệ và những cuộc đụng độ mạnh mẽ ở bên ngoài nước Mỹ đã tạo ra một bước chuyển lịch sử. Theodore Roosevelt và Woodrow Wilson là những người có ảnh hưởng rất lớn đến thời đại ngày nay, vì họ đã suy nghĩ và đã nỗ lực xúc tiến các quan điểm của mình về vai trò của một nước Mỹ trong một hệ thống quốc tế mới. Nhiệm vụ hàng đầu của vị tổng thống Mỹ kế tiếp là phải kiến tạo được sự ủng hộ của nhân dân đối với chiến lược nhằm định hình thế giới; cũng như phải bảo vệ và cải thiện các quyền lợi và các giá trị của Mỹ trong vòng 50 năm tới.
Vào thời điểm chiến tranh lạnh, tổng thống George Bush đã phát triển di sản của Ronald Reagan bằng cách tiến hành sửa lại chính sách đối ngoại cho phù hợp với cục diện đã biến đổi. chính phủ Bush đã ký Hiệp định Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), ủng hộ Thỏa thuận Mậu dịch tự do với Chile. Hoa Kỳ sẽ tận dụng vị thế vượt trội của mình để đẩy mạnh hòa bình ở một số khu vực quan trọng. Chính phủ của Bush cố tìm cách tái định hình bức tranh chiến lược giữa châu Âu và Nga bằng cách kết nạp Đức vào NATO năm 1990; mở rộng tổ chức này cho các kẻ thù cũ vào các năm 1990 và 1991; thương lượng cắt giảm vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân nhằm hỗ trợ cho một hiệp định khung mới về an ninh. Hiệu quả của mối quan hệ Mỹ - Nga đã đạt tới độ gây ấn tượng; điều này được minh chứng thông qua sự hợp tác của hai bên trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh. Những nối kết giữa Mỹ và Trung Quốc cũng dần được cải thiện sau thảm kịch Quảng trường Thiên An Môn, nhờ việc Chính phủ Bush đã lái những bất đồng sâu sắc giữa hai bên theo hướng cho phép nước Mỹ hy vọng về một sự biến đổi khả quan trong tương lai, Vào cuối nhiệm kỳ, Chính phủ Bush đã tạo ra được một môi trường hợp tác giữa các trung tâm quyền lực chủ yếu trên thế giới.
b. Những khiếm khuyết trong các tiếp cận của B.Clinton:
Tuy nhiên sau đó, CP B.Clinton dã không vạch ra được 1 chiến lược xuyên suốt, thậm chí còn ko thể hiện được thái độ nhất quán trong chính sách đối ngoại. những kế sách đối ngoại của B bị hạn chế bởi 5 khuyết điểm:
Thứ nhất, miễn cưỡng duy trì những ưu tiên đã được cam kết trước đó; điều này thể hiện rõ qua sự lệch hướng trong thương mại quốc tế. Sau năm 1994, chính phủ Clinton đã đổi hướng: các cam kết thực thi tự do mậu dịch tuy được đưa ra nhưng trên thực tế, các chính sách lại không ăn khớp với những điều đã hứa hẹn. Thay vì tự do thương mại, Hoa Kỳ yêu cầu hạn ngạch thương mại với Nhật Bản phải được kiểm soát – một đối sách rõ ràng là sai lầm đối với một nước đang cần dỡ bỏ quy chế bảo hộ mậu dịch một cách triệt để hơn nữa từ phía nhà nước. Lo sợ trước sự bất bình của những cử tri theo đường lối bảo hộ mậu dịch, B.Clinton đã triển khai NAFTA với thái độ miễn cưỡng và thậm chí ngay cả trong việc bảo vệ hiệp ước này. Đầu những năm 90, các nước châu Mỹ Latinh đua nhau đàm phán, nhằm ký kết hiệp định tư do thương mại với Hoa Kỳ. Hiện nay, không một nước nào ở châu Mỹ Latinh, hay ở đâu đó, lại trông đợi vào việc chính phủ Hoa Kỳ đương thời sẽ tuân thủ đúng những tuyên bố của nó. Khi các nền kinh tế Đông Á phải đối mặt với cú sốc tài chính lan truyền lớn nhất của chúng thì cũng chính là lúc mở ra cơ hội cải cách cơ chế, nhằm thay thế chế độ bảo hộ bằng chủ nghĩa tự do đa phương – thế nhưng trong tình thế đó, các nhà đàm phán thương mại Hoa Kỳ lại chỉ biết khoanh tay đứng nhìn. Washington có đủ sức mạnh để định hình những mối quan hệ kinh tế toàn cầu trong vòng 50 năm tới, nhưng nó lại tự hạn chế bản thân trong lĩnh vực quan trọng này.
Thứ hai là đã để cho tín nhiệm bị xói mòn, do lời nói không đi đôi với việc làm; điều này đã gây phương hại đặc biệt cho các đồng mình của Hoa Kỳ. Liên minh chiến tranh vùng Vịnh là một thứ “vô dụng”, do đóm không có gì ngạc nhiên, sau nhiều năm lớn tiếng về những nguy hiểm của bộ máy chính quyền Saddam Hussein, Liên minh này vẫn tiếp tục những hành vi nhạt nhẽo và thiếu suy nghĩ. Còn các đồng minh châu Âu đã kết luận rằng họ cần phải xây dựng một liên minh quân sự của chính mình để thoát khỏi sự lãnh đạo về chính trị và an ninh của Hoa Kỳ. Mặc dù trước đó Trung Quốc đã chỉ trích gay gắc Nhật Bản về việc nước này đã chấp thuận một đường lối phòng thủ mới với Mỹ, nhưng trong chuyến thăm Trung Quốc 5 ngày, B.Clinton đã không dành thời gian, dù là một phút để bày tỏ thái độ bảo vệ người đồng minh Nhật Bản của mình.
Điểm yếu thứ ba của chính quyền Clinton là sự bất lực trong việc dàn dựng các chiến lược khả thi. Điều này đặc biệt đã làm tổn hại đến mối quan hệ với Trung Quốc và Nga. Thái độ ngờ vực do chính phủ gây ra đã khiến Hoa Kỳ gặp nhiều khó khăn trong việc hợp tác. Quan hệ của Clinton với cả Trung Quốc lẫn Nga – hai thế lực lớn mà những đường lối của các nước này trong tương lai đang tiềm ẩn nhiều bất định và bất ổn – là một trong số các quan hệ căng thẳng, nghi kỵ đang trở nên ngày một xấu đi. Đối với Trung Quốc, lúc đầu chính quyền Mỹ gắn vấn đề nhân quyền với các quan hệ thương mại thông thường, nhưng về sau này đã rút lại tuyên bố - một dấu hiện chứng tỏ sự yếu kém rõ ràng của chính quyền này. B.Clinton cũng mắc sai lầm khi hứa với Trung Quốc rằng, Mỹ sẽ không cấp thị thực du lịch cho tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy; và sau đó quyết định này của Clinton bị đảo ngược hoàn toàn đã làm cho mối nghi ngờ và những phản ứng tiêu cực giữa Bắc Kinh và Đài Bắc tăng lên. Thỏa thuận hồi tháng 11/1999 với Trung Quốc về vấn đề gia nhập WTO, mặc dù được hoan nghênh, nhưng chỉ làm nổi bật một điều là Clinton có thể thực hiện thỏa thuận ấy sớm hơn nữa – lẽ ra đây là cách tốt để tránh được cuộc khủng hoảng đã xảy ra và với những di chứng không cần thiết. Chính sách của Clinton đối với Nga đã gây ra sự hoài nghi đối với các nền kinh tế thị trường tự do, sự lãng phí tiền bạc của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và làm cho chủ nghĩa chống Mỹ lan rộng. Thái độ dửng dưng của chính quyền Clinton đối với sự áp chế của Yel’cin với cơ quan lập pháp Nga cho thấy chính phủ đã không nhận thức hết được ý nghĩ của Luật pháp và quá trình dân chủ đối với nước Nga. Việc để cho một “Sa hoàng” đắc cử và giám sát quá trình tư nhân hóa ở Nga đã biến quá trình ấy thành tệ trộm cắp phổ biến, và phải chịu trách nhiệm chính trước nạn tham nhũng hiện đang lan tràn khắp đất nước Nga. Không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy hệ thống này đã không thành công trong việc cải thiện mức sống của những người dân Nga bình thường và do đó, dẫn đến tình trạng bất ổn trong tương lai.
Điểm yếu thứ tư là tính không kiên định của B.Clinton, thường xuyên do dự, sau đó thất hứa và thường đưa ra các biện pháp không ăn nhập với mục tiêu đề ra. Thất bại của B.Clinton trong việc “xây dựng một nhà nước” tại Somali đã phải trả giá đắt, cũng như sự chiếm đóng Haiti và những nỗ lực tốn kém hàng tỉ Đôla của Hoa Kỳ nhằm đưa lại “một nền dân chủ” đã trở thành một kỷ niệm buồn. Hoa Kỳ còn tiếp tục bị lôi kéo vào các cuộc chiến nhỏ ở Balkan, với những mục tiêu không rõ ràng hoặc không chính đáng. Lịch sử của bước khởi sự sai lầm và những sai lầm kéo theo đã thể hiện rõ trong “Học thuyết dính líu mới” của Clinton đối với những xung đột kiểu như vậy. Lúc đầu, lời nói của Clinton gây được ấn tượng sâu sắc, nhưng sau đó nhanh chóng được giải thích lại, khiến thế giới nghĩ rằng Mỹ hoặc bị nhầm lẫn hoặc không đáng tin cậy, hoặc cả hai.
Cuối cùng, nhiều kế hoạch mang tính phiêu lưu của B.Clinton bị chi phối một cách đáng kể bởi những bầu bán và toan tính chính trị; do vậy, khiến cho đòi hỏi của Clinton về các chính sách đối ngoại lưỡng đảng đáng tin cậy – trở nên quá khó khăn. Khi các chính sách đối ngoại chuyên biệt của Clinton bị xói mòn, chính phủ lập tức công kích lại những người chỉ trích và gọi họ là những kẻ theo chủ nghĩa biệt lập. Các lời phát biểu của Clinton mang đầy tính tự cao, nhưng lại quá ít độ tin cậy. Đối với thế giới, quyền lực của Hoa Kỳ là điều hiển nhiên, nhưng B.Clinton đã không sử dụng nó một cách khôn ngoan, khéo léo.
c. Những nguyên tắc của Đảng Cộng hòa:
Thứ nhất, nó bắt nguồn từ sự tôn trọng quyền lực, đeo đuổi những quyền lợi của dân tộc Mỹ một cách công khai, cũng như sử dụng mau lẹ sức mạnh của đất nước. Chính sách của Hoa Kỳ cần tôn trọng lịch sử, hoàn cảnh, và phải quan tâm đến các dân tộc khác, nhưng nó không được phép bị tê liệt bởi các thiên hướng trí tuệ nghiêng về thuyết tương đối đạo đức. Khi gánh vác những trọng trách quốc tế, nước Mỹ cần giữ lại quyền tự do hành động chống lại những hiểm họa nghiêm trọng.
Thứ hai, chính sách đối ngoại mới của Đảng Cộng hòa nhấn mạnh việc xây dựng và duy trì các khối liên minh và đồng minh. Các đồng sự Liên minh và Đồng minh phải gánh vác phần trách nhiệm của mình một cách hợp lý; nếu họ làm được như vậy, thì quan điểm của họ mới có tính đại diện và được tôn trọng.
Thứ ba, các thành viên Đảng Cộng hòa coi những hiệp ước và thể chế quốc tế như là phương tiện để đạt mục đích, chứ không phải là hình thức của liệu pháp chính trị. Các hiệp ước và thể chế quốc tế có thể tiện dungj hóa công việc thương lượng, có thể ghi nhận các lợi ích chung và giải quyết những bất đồng trên tinh thần hợp tác. Nhưng luật pháp quốc tế chỉ có tác dụng luật hóa thành văn những vụ việc hợp tác đã được ký kết. Do vậy, không phải bất cứ vấn đề nào cũng có thể dàn xếp trên cơ sở đa phương.
Thứ tư, chính sách đối ngoại mới của Đảng Cộng hòa phải bao quát được những thay đổi cách mạng trong thông tin và truyền thông, trong công nghệ, thương mại và các khu vực tài chính – tất cả những cái đó sẽ định hình một môi trường chính trị và an ninh toàn cầu. Hoa Kỳ cần phải tiến hành những bước đi thực tế nhằm đưa thế giới tới gần hơn nữa sự tự do và nhân quyền. Nước Mỹ cần phải liên kết với các tác nhân gây biến đổi trên toàn thế giới – dựa vào các mạng lưới mới của tự do thương mại, của thông tin và đầu tư.
Cuối cùng, chính sách đối ngoại mới của Đảng Cộng hòa nhận thức rõ được rằng vẫn còn những nguy hiểm trên thế giới này – những kẻ thù ghét đất nước và quan điểm của Mỹ. Ngày nay, chúng ta phải đối mặt với những kẻ thù đang ra sức phát triển các loại vũ khí như hạt nhân, sinh học và hóa học, các tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Hoa Kỳ cần phải duy trì cảnh giác và phải đủ mạnh để đánh bại kẻ thù của mình.
d. Quyền lực và Kinh tế:
Chính sách đối ngoại mới của Đảng Cộng hòa cần áp dụng những nguyên tắc này vào chiến lược dài hạn, nhằm thúc đẩy hòa bình, an ninh và tự do. Hoa Kỳ và những đồng sự của nó cần liên kết các khu vực châu lục trên thế giới vào một hệ thống kinh tế toàn cầu, nhằm bảo đảm lợi ích của việc hội nhập, đồng thời đối phó với những căng thẳng không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Trong thời đại thông tin ngày nay, nước Mỹ phải triển khai một cấu trúc mở, nhằm khai thác nguồn tài lực hùng mạnh nhất của mình: một nền kinh tế năng động, không ngừng đổi mới; và một xã hội luôn tự tái điều chỉnh. Hầu hết các chính phủ đều đang hướng đến tư nhân hóa và phi điều tiết để giúp đất nước mình duy trì được nhịp độ phát triển. Nhà doanh nghiệp Mỹ đang đưa ra những chỉ thị khiến thế giới phải nể sợ và điều đó cũng giống như sự tôn trọng mà người ta dành cho quân đội Mỹ. Khu vực kinh tế tư nhân của Mỹ có một sức cuốn hút mạnh mẽ.
Nhưng sự mất cân đối của thị trường và sự tăng trưởng đang dẫn đến thâm hụt thương mại lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ, và còn quá nhiều nước khác vẫn đóng cửa đối với Hoa Kỳ. Các nước phải chấp nhận những biến đổi – những cái sẽ tác động đến mức sống và bản sắc của tất cả mọi người trên thế giới; phải cải thiện mức sống và sức khỏe cộng đồng; và phải mở cửa cho sự tự do. Muốn thành công, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cũng phải dựa vào một nền giáo dục ưu việt trong nước, một mức thuế thấp – có tác dụng bù đắp cho sản xuất và cho những hoạt động kinh doanh khai phá có tính rủi ro cao, đồng thời bảo đảm các nguồn quỹ tiết kiệm, hưu trí cho những người thôi việc. Hoa Kỳ cần một chương trình nghị sự về đàm phán kinh tế mang tính chiến lược, phối hợp được các hiệp ước khu vực với việc triển khai những luật lệ toàn cầu, để tạo ra một nền kinh tế mở. EU và Hoa Kỳ cần phải theo sát sự dẫn dắt các hoạt động kinh doanh đang không ngừng hội nhập vào nhau của mình, bằng cách mở ra ngày một nhiều khu vực hơn cho các hoạt động đầu tư đan chéo nhau, và cho sự cạnh tranh mạnh hơn – nhằm mục đích thực thi mậu dịch tự do xuyên Đại Tây Dương. Các chương trình nghị sự này là những việc cần phải làm cho được: từ các sản phẩm nông nghiệp cho đến thương mại điện tử. Thuế quan cần được cắt giảm hơn nữa. Hoa Kỳ cần khuyến khích những dự án kinh doanh áp dụng các sáng kiến nhằm hợp lý hóa hệ thống chuẩn mực chung. Hoa Kỳ cần thúc đẩy việc bãi bỏ các quy định và mở ra các thị trường toàn cầu mới cho các dịch vụ, chẳng hạn như năng lượng, hàng không, tài chính và giải trí. Hoa Kỳ cần phải áp dụng những tiền lệ kinh tế sang các khu vực khác hoặc sang đàm phán toàn cầu thông qua WTO. Mỹ cần khuyến khích một cơ chế cạnh tranh, nhằm hỗ trợ việc mở cửa và công khai thông tin. Cạnh tranh có thể mở ra nhiều điều kỳ diệu: trong khi Hoa Kỳ tiếp tục đeo đuổi NAFTA và APEC, thì EU cuối cùng đã cảm nhận được áp lực phải hoàn tất các thỏa thuận thương mại trong Vòng đàm phán Uruguay. Nếu các nước khác gây cản trở cho vòng đàm phán mới của WTO, thì Hoa Kỳ cần phải lập lại chiến lược khu vực hóa để tiến tới mục tiêu toàn cầu, và để phá vỡ thế bế tắc. Dự thảo mới này của Đảng Cộng hòa thừa nhận những lợi ích của việc hội nhập khu vực và tìm cách tận dụng sự hội nhập đó cho các mục tiêu toàn cầu; hội nhập khu vực có thể giúp các nước giải quyết một cách có hiệu quả hơn những vấn đề xuyên quốc gia. Thực tiễn hoạt động hợp tác trong khu vực, nhất là thông qua các tổ chức thuộc khu vực kinh tế tư nhân – cần được mở rộng tới mức có thể gắn kết được với những vấn đề chính trị chung và thậm chí là an ninh chung. Sự hội nhập sâu hơn với các nước Mỹ Latinh, châu Âu và Đông Á sẽ hỗ trợ cho những cam kết an ninh của Hoa Kỳ, vì khi đó những công dân thuộc các khu vực này sẽ nhận thức được những lợi ích chung của họ. Dự thảo chiến lược này hỗ trợ cho các thị trường mở, các xã hội mở, cũng như cho các luồng chảy tự do của thông tin, tư tưởng, và cho sự phát triển khu vực tư nhân – tức là cho tất cả những yếu tố góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế, phát triển tầng lớp trung lưu và các quyền tự do. Nếu Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và những nước khác muốn duy trì được vị thế hiện nay của họ, thì họ sẽ phải mở cửa. Kế hoạch này cũng đòi hỏi nước Mỹ duy trì sự mở cửa của mình – một đặc điểm lôi cuốn các nhà tư tưởng và các chủ thể lớn trên thế giới. Kế hoạch này tạo ra một cơ chế gắn kết tính đa dạng của xã hội và chia sẻ mục đích; đồng thời nó giữ gìn quyền tự do và nền tự do. Các thể chế tài chính quốc tế chung – đặc biệt là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) – cũng cần được tái thiết toàn bộ để đáp ứng được yêu cầu của kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hóa các thị trường tài chính. Trước hết, những hoạt động của IMF và WB cần trở nên minh bạch hơn, đúng lúc và đúng chỗ hơn. Chúng cần phải đấu tranh chống tham nhũng – cái đang bòn rút kiệt quệ ngân sách và long tin. Nhưng những tổ chức này không được phép thổi phồng tư tưởng kỹ trị, để rồi tiếm quyền và chức năng chính đáng của các chính phủ trong hoạt động cho vay cũng như đi vay; hay của khu vực tài chính tư nhân. IMF vẫn giữ vai trò giảm nhẹ những cơn sốc đối với các thị trường tài chính quốc gia với cách thức sao cho không làm tăng thêm tính bất ổn của các nguồn tài chính dài hạn theo kiểu khuyến khích những mạo hiểm mà các nhà đầu tư không sẵn sàng chi trả. IMF phải đứng về phía các chủ nợ chứ không được bỏ rơi họ. Các chủ nợ có thể gia hạn lại khoản cho vay, thu về tỷ lệ chiết khấu và dưới sự giám sát nghiêm khắc, có thể cho vay bổ sung. WB cần tập trung giúp đỡ quần chúng điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi. Ở một số nước nghèo, chương trình nghị sự này có thể bao gồm việc kết hợp cải thiện sức khỏe cộng đồng và những nhu cầu thiết yếu với tạo dựng các cơ hội kinh tế. Ở một số nước mà thu nhập thấp, WB có thể tham dự vào việc phát triển thị trường – để biến nó thành phương tiện cho phép mọi người tự cứu lấy bản thân.
e. Đồng minh, kẻ thù và người trung lập:
Khi theo đuổi một chiến lược đối ngoại có sức sống mới, trước hết Hoa Kỳ cần phải cơ cấu lại toàn bộ quan hệ với các đối tác và các đồng minh của mình: các nước láng giềng Bắc Mỹ và hai đối tác hàng đầu ở nước ngoài của mình là châu Âu và Nhật Bản. … Để tiến hành hoạt động một cách có hiệu quả ở môi trường hải ngoại, Hoa Kỳ cần đảm bảo được rằng nó hiện đang có một láng giềng mạnh mẽ tại sân nhà. Nhưng quan hệ hiệp đồng như vậy có thể nâng cao năng lực của Mỹ, và giúp nó tập trung vào các tiền đồ không xác định của Trung Quốc và Nga. EU và Nhật Bản cũng là các đồng sự quan trọng trong việc đảm bảo một nền kinh tế quốc tế thích hợp cho sự tăng trưởng, cho tính năng động và tinh thần sáng tạo. Về quốc phòng, Hoa Kỳ nên khuyến khích các đồng minh NATO đối mặt với hiện thực về khoảng cách giữa các nghị luận và bản thân các chi phí thực tế, và thừa nhận lợi ích cho cả hai phía khi châu Âu có được các lực lượng phòng vệ riêng, nhưng lại hoạt động trong sự phối hợp chặt chẽ với quân đội Mỹ, thông qua cơ chế liên minh. Cuối cùng, để có được một nền quốc phòng châu Âu có hiệu quả, cần đến sự tham dự nghiêm túc của quân đội Anh, Pháp, Đức. Nhật Bản cần triển khai dần việc đảm đương trách nhiệm đối với an ninh Đông Á nhiều hơn nữa trong sự phối hợp cùng với Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Duy chỉ có Hoa Kỳ là người có đủ khả năng giúp các láng giềng của Nhật Bản chấp thuận sự điều chỉnh lịch sử này. Bước khởi sự là giữa Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Australia sẽ hình thành nên những mối quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn. Sau đó, quân đội của Nhật Bản được hội nhập chặt chẽ hơn vào việc ủng hộ quân đội Mỹ ở châu Á. Những bước đi này sẽ làm cho vị thế của nền dân chủ Thái Bình Dương mạnh lên và tạo áp lực đối với Bắc Triều Tiên, và làm cho Trung Quốc thấy rằng cần phải tìm kiếm sự hợp tác an ninh với các nền dân chủ châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời cho phép chuyển hóa bất cứ tiềm năng nào đang tăng lên của Nhật Bản thành một sự tái khẳng định kế hoạch chung.
Thứ hai, Hoa Kỳ và các đối tác của nó phải đương đầu với ba thách thức lởn ở khu vực Âu – Á là Trung Quốc, Nga và Ấn Độ. Trung Quốc đang trỗi dậy, Nga đang yếu đi, còn Ấn Độ đang xác định lại quan điểm của mình. Đây là những nước lớn và nếu để những sai lầm tiếp tục xảy ra trong quan hệ với họ, thì rất có thể nước Mỹ sẽ phải trả giá đắt trong tương lai. Những nước này vẫn nằm trong “trạng thái quá độ”; họ vẫn chưa phải là bạn và chắc chắn – không phải là đồng minh, nhưng điều cần nhất là làm cho họ không trở thành kẻ thù. Hoa Kỳ và các đồng minh của mình cần giải thích cho cả Trung QUốc và Nga thấy những tiến bộ được xây dựng trên cơ sở chia sẻ các lợi ích và giảm thiểu bất đồng. Cuối cùng, Mỹ sẽ tự đánh giá khả năng hợp tác của chính mình – và thế giới cũng sẽ đánh giá về thiện chí của Mỹ trong hành vi đó. Ấn Độ, vì mục tiêu tăng trưởng và thịnh vượng, sẽ phải điều chỉnh để thích nghi với nền kinh tế toàn cầu. Để gây ảnh hưởng với Ấn Độ, nước Mỹ cần quan tâm hơn đến một Ấn Độ cởi mở, thấu hiểu về địa vị của mình trên thế giới. Đi kèm với dự kiến tự do hóa thương mại và đầu tư, Hoa Kỳ phải mở ra một cuộc đối thoại an ninh cấp cao và thương xuyên với Ấn Độ về các vấn đề thuộc khu vực Âu – Á, và về những thách thức đối với sự ổn định của khu vực này.
Thứ ba, Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản cần vươn rộng tới những nhóm nước liền kề có khả năng trở thành đồng sự. Đặc biết là đối với Mỹ Latinh. Hoa Kỳ vẫn duy trì cái thói quen cũ và xấu là xem nhẹ các láng giềng của mình, và chỉ quan tâm khi nào có vấn đề.
Thứ tư, Hoa Kỳ cần phải chống lại những quốc gia nguy hiểm, đe dọa những người bạn thân nhất của mình, chẳng hạn như Israel; hay những quyền lợi sống còn của bản thân – như duy trì huyết mạch dầu lửa ở cùng Vịnh Persic. Trong quan hệ với các nước như Iraq và Bắc Triều Tiên, Hoa Kỳ phải đưa ra những chỉ dẫn dài hạn và kiên định cho các đồng minh nhằm ngăn chặn, và thậm chí phế bỏ chế độ tàn bạo của các nước này. Hoa Kỳ cần phải giữ được thế chủ động sao cho những thế lực thù địch phải lo ngại về cái mà Hoa Kỳ đang toan tính, đến mực chúng không dám mưu toan tấn công hay bày đặt những hình thức hăm dọa mới. Vị trí địa lý và hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia sẽ cho phép Hoa Kỳ đánh trả các tên lửa mang đầu đạn hủy diệt hàng loạt.
f. Sức mạnh quân sự:
Sự lãnh đạo của Mỹ trong thế kỷ tới đòi hỏi phải có một quân đội mạnh, được sử dụng một cách khôn ngoan. Chính quyền Clinton đã quá tin tưởng vào quân đội Hoa Kỳ khi coi đây là một cứu cánh, giúp thoát khỏi những kế hoạch ngoại giao mạo hiểm và võ đoán khi những kế hoạch này trở nên xấu đi. Với những đòi hỏi như hiện nay đối với quân đội Hoa Kỳ, Lầu Năm Góc đã chuốc lấy một sự lựa chọn phiền hà: tiêu xài tương lai để phục vụ hiện tại. Thất bại trong việc chuẩn bị cho tương lai sẽ trở thành hiện thực nhãn tiền trong vòng 10 năm tới, khi cỗ máy chiến tranh không còn thích hợp với những vũ khí lạc hậu sắm cách đây 25 năm. Đối với vị Tổng thống tiếp theo, điều thách thức không phải là chi tiêu nhiều hơn cho quốc phòng, mà là chi tiêu một cách khôn ngoan. Hoa Kỳ cần phải đầu tư vào việc phối hợp giữa các yếu tố công nghệ thông tin, công nghệ truyền thông đương đại và vũ khí dẫn đường chính xác – các yếu tố sẽ cho phép các dịch vụ tư nhân cạnh tranh sát cánh bên nhau trên cơ sở liên doanh liên kết. Các lực lượng trong màng lưới quốc phòng sẽ trở nên nhỏ hơn về quy mô, phản ứng nhanh nhạy hơn, triển khai dễ dàng hơn, ít mang tính tập trung hơn và có khả năng hủy diệt các mục tiêu với số lần tấn công ít hơn và tư khoảng cách xa hơn. Các lực lượng này phải có khả năng phối hợp đồng bộ, trong khi vẫn đảm nhiệm những nhiệm vụ chuyên biệt, chẳng hạn như lực lượng phòng không – trong khi khống chế bầu trời vẫn phải tiêu diệt các mục tiêu nhỏ di động trên mặt đất. Lầu Năm Góc cũng có thể học hỏi từ khu vực tư nhân về việc cắt giảm chi phí. Mặc dù chi phí cho hệ thống công nghệ thông tin dân sự đang giảm xuống ghê gớm, thế nhưng giá cả của một hệ thống quân sự tương tự thì vẫn không hạ. Ở những khu vực trọng yếu, các đồng minh của Hoa Kỳ tại châu Âu và Thái Bình Dương cần phải chia sẻ những gánh nặng đáng kể và cần phải thực hiện những đóng góp chính. Để chiến đấu cùng nhau, quân đội của họ phải có khả năng thích nghi với việc phối hợp chéo. Và các đồng minh cần phải đảm đương vai trò lớn hơn nữa trong hoạt động gìn giữ hòa bình, dưới sự bảo trợ của sức mạnh động nhất vô nhị của Hoa Kỳ, và với sự hậu thuẫn của các đợt công kích do quân đội hùng mạnh của nó thực hiện.
g. Hướng đi đúng:
Ngày nay, thế hệ mới cần phải vạch ra được đường hướng để đưa nước Mỹ thâm nhập vào những thay đổi mang tính cách mạng của công nghệ, kinh tế, xã hội và vũ khí. Sẽ là sai lầm nếu nước Mỹ chỉ đơn thuần phản ứng một cách thụ động trước các biến cố. Nước Mỹ cần đến một chiến lược cho phép kết hợp chân lý truyền thống với cơ hội do mạng lưới thị trường mang lại và một đội quân đã được hiện đại hóa. Nước Mỹ cần phải triển khai sức mạnh của nó một cách khôn ngoan, có chọn lọc và nhất quán – nhằm định ra một hệ thống các quan hệ quốc tế, có tác dụng nâng cao ảnh hưởng của Mỹ đối với các sự kiện trong tương lai. Tận dụng ảnh hưởng này, các thành viên hiện nay của Đảng Cộng hòa tin rằng họ có thể cộng tác được với những người ngả về phía Đảng Dân chủ, sao cho nước Mỹ có thể triển khai được cả lợi ích lẫn tư tưởng của nó.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro