Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

cau hoi tu tuong ho chi minh

Tài liệu ôn tập môn “Tư tưỏng Hồ Chí Minh”

Câu 1: Trình bày nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đáp án:

Bất cứ một TT nào cũng phải có nguồn gốc, cơ sở hình thành, đó chính là tuân theo qui luật hình thành TT từ ít đến nhiều, từ hình thức đến nội dung, bản chất. Vì vậy, TTHCM cũng ko nằm ngoài qui luật đó.

1. Nguồn gốc:

a. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc:

-         Lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước được hình thành từ rất sớm và trở thành một tính chất của mọi người dân Việt và đây là một yếu tố quan trọng nhất để Nguyễn Tất Thành đi vào con đường cách mạng (Lòng yêu nước là cái vốn có của người dân Việt. Vấn đề đặt ra là Đảng phải khơi gợi).

-         Cho đến nay, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam kể cả thắng lợi công cuộc đổi mới đều có cội nguồn từ lòng yêu nước, với học thuyết được du nhập vào Việt Nam đều phải thông qua lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước của người dân Việt.

-         Truyền thống đoàn kết, đoàn kết là sự gắn bó hợp tác với nhau để tạo nên sức mạnh. Truyền thống đoàn kết được hình thành cùng với sự hình thành của dân tộc Việt và cũng là cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt. Có 4 hình thức đoàn kết cơ bản:

+ Đoàn kết gia đình

+ Đoàn kết trong cộng đồng và dòng họ

+ Đoàn kết trong cộng đồng làng xã.

+ Đoàn kết quốc gia dân tộc thể hiện ở chỗ: Có tính nội dung, có văn hóa chung và có ngày giỗ tổ chung (10/3. âm lịch)

-         Truyền thống nhân văn nhân ái quý trọng con người, hướng con người vào làm điều thiện, đồng thời xử lý tinh tế các mối quan hệ, gia đình, vợ chồng, anh em, họ hàng và đề cao tình nghĩa, quy tắc ứng xử trong xã hội. Do đó người Việt sống tình cảm hơn, nhân nghĩa hơn, thông minh hơn.

-         Trong lối sống của người Việt: giản dị, khiêm nhường, cởi mở và đặc biệt không cực đoan, cố chấp. Vì vậy có thể tiếp thu những cái hay, cái tốt, cái đẹp của dân tộc khác.

-         Truyền thống văn hiến: Văn hiến là sự kết hợp nhuần nhuyễn của 3 yếu tố sau đây. Tri thức, đạo đức, cái đẹp.

-         Dân tộc Việt có khả năng học, hiếu học, coi trọng sự học, luôn luôn tôn vinh những người học cao, đỗ đạt.

b. Tinh hoa nhân loại:

-         Tinh hoa văn hoá phương Đông: Người tiếp thu Đạo phật và Nho giáo

+ HCM ra đời trong 1 gia đình Nho giáo nên Người đã tiếp thu những quan điểm tốt đẹp của Nho giáo. Người đánh giá rất cao Khổng Tử. Ngày 19/5/1966, Người đến thăm Khổng Tử, khắc chữ lên bia đá: “Khổng Tử là người thầy vĩ đại nhất của nhân loại”.

+ Người dùng rất nhiều những khái niệm, phạm trù nho giáo như: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” (Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân)

+ Người đánh giá rất cao tư tưởng bình đẳng của nhà Phật: “Ta là Phật đã thành còn chúng sinh là Phật sẽ thành”

-   Trong tinh hoa văn hóa phương Tây.

+ HCM đã nghiên cứu tiếp thu TT văn hoá dân chủ và CM của CM Pháp, CM Mỹ, trong đó có Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp và Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ.

+ Người đánh giá rất cao về chúa Jêsu. Người tiếp thu những tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp.

c. Chủ nghĩa Mác-Lênin       

            Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”

            Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh hồn sống của nó, là phương pháp biện chứng duy vật, học tập, lập trường quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

            Các tác phẩm, bài viêt của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất tư tưởng cách mạng của Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

            Là yếu tố quan trọng nhất, quyết định việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

d. Những phẩm chất cá nhân riêng của Hồ Chí Minh

-         Hồ Chí Minh có một tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với một đầu óc phê phán tinh tường sáng suốt trong việc tìm hiểu tinh hoa tư tưởng văn hoá cách mạng trong nước và trên thế giới.

-         Sự khổ công rèn luyện học tập để chiếm lĩnh những tri thức phong phú của thời đại và với kinh nghiệm đấu tranh trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lênin một cách khoa học.

-         Có một tâm hồn của nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành và một trái tim yêu nước thương nòi, yêu thương những người cùng khổ, sãn sàng chịu đựng hi sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì hạnh phúc của đồng bào.

Kết luận: Tóm lại, TTHCM là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện chứng TT văn hoá truyền thống của dân tộc, tinh hoa TT văn hoá của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa M-L làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của HCM - một con người có tư duy sáng tạo, có PP biện chứng, có nhân cách, phẩm chất CM cao đẹp tạo nên. TTHCM là TT VN hiện đại

Câu 2: Trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

            Dân tộc là vấn đề rộng lớn. Mác-Ănghen không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản. Trong giai đoạn quốc tế chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới. Mác, Ănghen và Lênin đã nêu những quan điểm biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sạh lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nhưng trong điều kiện từ đầu thế kỷ XX trở đi, cần vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin cho phù hợp với thực tiễn, chính Hồ Chí Minh là người đáp ứng yêu cầu đó.

            1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.

               1.2 Tất cả các dân tộc trên TG đều bình đẳng

- TT này của HCM thể hiện rõ trong hành động và trg rất nhiều bài nói, bài viết của mình, song rõ nhất và tập trung nhất là ở “Tuyên ngôn độc lâp” khai sinh ra nước VNDCCH năm 1945. Mở đầu bản Tuyên ngôn, HCM đã trích 1 đoạn của bản Tuyên ngôn năm 1776 của Mỹ nói về quyền bình đẳng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền ko ai có thể xâm phạm được. Trg những quyền ấy có quyền đc sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người nhận định đây là lời bất hủ, suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên TG đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đồng thời Người còn trích dẫn Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của CMTS Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra có quyền tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tụ do và bình đẳng”. Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải ko ai chối cãi được”.

- Thiên tài HCM là người đã sử dụng Tuyên ngôn TS để đấu tranh cho lợi ích của dân tộc mình, biến quyền tự do, bình đẳng, hạnh phúc cá nhân theo kiểu TS thành quyền bình đẳng của cả dân tộc VN, của các dân tộc trên TG, ko phân biệt màu da, chủng tộc.

=> TT vĩ đại này của HCM mang tính quốc tế, tính thời đại và tính nhân văn sâu sắc.

1.2 Độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn.

-         Một dân tộc không những có quyền bình đẳng với các dân tộc khác trên thê giới mà còn phải được hửong nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn. Chỉ khi nào được hưởng độc lập thật sự thì dân tộc đó mới thật sự bình đẳng.

-         Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn theo Hồ Chí Minh phải đảm bảo những nguyên tắc sau:

+ Dân tộc đó có đầy đủ chủ quyền quốc gia về chính trị, kinh tế, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ.

+ Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết. Mọi sự ủng hộ giúp đỡ Việt Nam đấu tranh giành độc lập tự do đều được nhân dân Việt Nam hoan nghênh ghi nhớ song nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệt thô bạo nào.

+ Giá trị và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc phải thể hiện ở quyền tự do hanh phúc của nhân dân. Theo Người, quyền độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, là trên hết. Dù có phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho được độc lập.

1.3  Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính

+ Hồ Chí Minh luôn giơ cao ngọn cờ đấu tranh giành độc lập, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

+ Hồ Chí MInh là hiện thân của khát vọng hòa bình, tư tưởng này của Người được thể hiện rất rõ mỗi khi nên độc lập dân tộc bị đe dọa.

2. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đấu tranh giành độc lập.

Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra giống như ở phương Tây. Từ sự phân tích đó, Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế cộng sản là: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản.....Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi...nhận định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa Quốc tế.

Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộcmà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy và Người cho đó là “một chính sách cách mạng mang tính hiện thực tuyệt vời”.

3. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.

            Ngay từ khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấo, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xã định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Tư sản dân quyền cách mạng” (tức là cách mạng dân chủ tư sản) và “Thổ địa cách mạng” (tức là cách mạng ruộng đất) để đi tời xã hội cộng sản.

Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa giải phóng được. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức bóc lột, chỉ có thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân mới đảm bảo cho người lao động quyền làm chủ, độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức.

Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.

Kết luận: Tóm lại, TTHCM về vấn đề dân tộc là hệ thống quan điểm vừa mang tính KH đúng đắn, vừa có tính CM sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. TT này ko chỉ có giá trị trg lịch sử CMVN mà còn có ý nghĩa lớn lao đối với CMTG trg thời đại ngày nay.

Câu 3: Trình bày nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Cách mạng giải phóng dân tộc, chỉ ra sự sáng tạo và sự phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin và của Hồ Chí Minh.

Đáp án:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Cách mạng giải phóng dân tộc là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về con đường cứu nước, chiến lược CM, sách lược CM và PPCM nhằm giải phóng ách áp bức, nô dịch, XD một nước VN hoà bình thống nhất, độc lập và CNXH.

* Cơ sở hình thành

- Lý luận: Theo chủ nghĩa M-L: CM là sự nghiệp của quần chúng, còn ở VN: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.

- Thực tiễn: Khảo sát những PTCM GPDT (CM Pháp, Mỹ, Nga).

=> Muốn thoát khỏi ách áp bức phải tiến hành CMTS.

* Nội dung

1. CMGPDT muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS

-         Ngay từ khi mới ra đời, gc TS đóng vai trò là người lãnh đạo các tầng lớp ND đấu tranh chống chế độ PK, chống ách áp bức bóc lột PK đối với các dân tộc, góp phần hình thành nên các QG dân tộc cơ bản.

-         Khi CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN chính nó đã trở thành kẻ áp bức bóc lột các dân tộc khác một cách dã man và tàn bạo, ngọn cờ dân tộc đã chuyển sang tay gc VS, người đại diện cho LLSX tiên tiến của thời đại.

-         Gc VS là gc lãnh đạo CMGPDT vì mang những phẩm chất:

+ Là người CM triệt để nhất

+ Có tính kỷ luật và đoàn kết cao

+ Đại diện cho LLSX mới

+ Có hệ tư tưởng riêng

-         Sau khi khảo sát các PT trg nước và trên TG, Người thấy sau CM người dân vẫn chưa được hưởng tự do, hạnh phúc, Người đã gọi đó là cuộc CM chưa đến nơi. Còn ở CM Nga, Người đã gọi đó là cuộc CM đến nơi. Vì thế VN phải đi theo con đường CM Nga. HCM khẳng định: Sự nghiệp GPDTVN phải đặt dưới sự lãnh đạo của gc CN, phải đi theo con đường CMVS, phải đặt CMDTDCND trong quĩ đạo của CMVS, là một bộ phận của CMTG. “Đây là sự phát hiện đầy sáng tạo của HCM”.

2. CMGPDT phải do ĐCS lãnh đạo

-         Các vấn đề đặt ra trong CMGPDT là:

+ Ai là người lãnh đạo PT?

+ Những giai cấp nào, những liên minh giai cấp nào là lực lượng nòng cốt?

-         Người khẳng định: Trong điều kiện CMVN muốn thành công phải có ĐCM lãnh dạo, Đảng có vững CM mới thành công, Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm nòng cốt.

-         Theo HCM: Trong thời đại ngày nay, CMGPDT phải chống lại một kẻ thù tàn bạo và to lớn, giữa chúng có sự liên minh mang tính quốc tế, muốn đánh thắng chúng cần có bộ tham mưu đủ khả năng, đường lối đúng đắn, PP đấu tranh khoa học, đó chính là ĐCSVN.

3. Lực lượng của CMGPDT là toàn dân tộc.

-         CM là việc chung của cả dân tộc có nghĩa là: Sĩ, Nông, Công, Thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Trong lực lượng đó Công, Nông là gốc của kách mệnh còn học trò, điền chủ nhỏ cũng bị TS áp bức song không cực khổ bằng công nông. 3 lực lượng ấy đều là bạn của cách mệnh.

-         Người xác định: Kẻ thù chính của CMVN là bọn đế quốc + PK tay sai, còn phải tập trung lực lượng của toàn dân tộc để đánh đổ chúng giành lấy chính quyền.

-         Khi phát động cuộc khánh chiến toàn quốc chống thực dân Pháp. Người kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người VN thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu nước.

-         Tính sáng tạo: Theo Lênin: mới chỉ là lời kêu gọi, còn trg TTHCM, cuộc CMGPDT lực lượng là toàn dân.

4. CMGPDT cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô sản ở chính quốc

-         Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của CM vô sản ở chính quốc. Đề cương về phong trào CM ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1/9/1928) cho rằng: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này vô hình chung đã giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào CM ở thuộc địa. Còn theo HCM: Ko nhất thiết phải như vậy mà CMVS ở thuộc địa có thể thắng lợi trc CMVS ở chính quốc; và thực tế đã chứng minh điều đó là đúng.

-         Trong tác phẩm Đường kách mệnh, HCM có sự phân biệt về nhiệm vụ của CM và CM giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ CM đó tuy có khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của HCM vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi của phong trào CM giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

5. CMGPDT phải được tiến hành bằng con đường CM bạo lực

-         Bạo lực CM trong CM giải phóng dân tộc ở Việt Nam: Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc tay sai. Hồ Chí Minh cho rằng: Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.

-         Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong CMGPDT: Trước những kẻ thù lớn mạnh, HCM chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: “Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”. Kháng chiến phải trường kỳ vì đất nước ta hẹp, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị của toàn dân. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Người khẳng định chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Các thành phố có thể bị tàn phá song nhân dân ta quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng, to đẹp hơn.

Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong TTHCM. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu qủa cả về vật chất và tinh thần kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.

Câu 4: Con đường hình thành tư duy Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của Chủ nghĩa xã hội. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công cuộc xây dựng đất nước hiện nay?

Đáp án:

1.      Con đường hình thành tư duy HCM về CNXH

a.      Các nhà kinh điển tiếp cận CNXH

-         Các nhà kinh điển của CN M-LN đã làm sáng tỏ bản chất của CNXH từ những kiến giải KTXH, CTrị, Triết học ở Tây Âu. Từ đó các ông đã thấy rõ vai trò và sứ mệnh của giai cấp VS là đào mồ chôn CNTB và CNTB tất yếu sẽ bị thay thế bằng 1 chế độ XH cao hơn, tiến bộ hơn, chế độ CSCN. Vì thế học thuyết về CNXH của các ông được coi là vũ khí lí luận để g/c VS thực hiện sứ mệnh của mình và trên cơ sở đó nhân dân tiến bộ thế giới hướng tới 1 XH vì con người.

-         Khi CNTB chuyển từ tự do cạnh tranh sang CNĐQ, Lê Nin đã bổ sung, phát triển và hiện thực hóa học thuyết XHCN KH ở Liên Xô. CNXH KH với tư cách là 1 chế độ XH sau khi được hoàn thiện sẽ là bước phát triển cao hơn và 1 bước PTriển về chất so với CNTB

b.      HCM tiếp cận học thuyết CNXH KH

-         HCM cũng tiếp cận CNXH từ những phân tích kinh tế, Ctrị, xã hội, triết học của CN M-L. Cụ thể là từ học thuyết về sứ mệnh lịch sử của g/c công nhân. Tuy nhiên từ 1 người yêu nước đến với CN M-L, HCM còn tiếp cận CNXH KH từ lập trường yêu nước và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc đặc biệt là về phương diện đạo đức.

-         Toàn bộ những quan điểm của HCM về CNXH là sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố kinh tế XH, Ctrị với các nhân tố nhân văn, đạo đức văn hóa tạo ra những nét riêng trong sự kế thừa làm cho nó phù hợp với điều kiện lịch sử và khát vọng dân tộc VN. Từ bản chất ưu việt của CNXH, HCM khẳng định tính tất yếu của sự lựa chọn khi đi lên CNXH ở nước ta hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thời đại và sự phát triển của lịch sử nhân loại.

2. Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của Chủ nghĩa xã hội:

- Theo Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa xã hội có 5 đặc trưng bản chất.

+ Về kinh tế: CNXH là chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển cao, gắn với sự phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hóa, dân giàu, nước mạnh.

+ Nền tảng kinh tế là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.

+ Về chế độ chính trị: Có chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân lao động là chủ và làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, dựa trên nền tảng liên minh công-nông-trí thức, do Đảng Cộng Sản lãnh đạo.

+ Về xã hội: Có hệ thống các quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn bóc lột, áp bức, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển giữa xã hội và tự nhiên.

+ Về lực lượng: Chủ nghĩa xã hội là của quần chúng nhân dân và do quần chúng nhân dân tự xây dựng lấy.

Các đặc trưng này phản ánh bản chất dân chủ, nhân đạo của Chủ nghĩa xã hội, vượt hẳn các chế độ xã hội trước đó.

3. Ý nghĩa quan niệm của Hồ Chí Minh

Quan niệm của Hồ Chí Minh định hướng tư tưởng lý luận cho Đảng ta, nhân dân ta hoàn thiện, cụ thể hóa mô hình Chủ nghĩa xã hội được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Mô hình đó bao gồm 6 đặc trưng cơ bản. Nêu 6 đặc trưng này: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội:

-         Do nhân dân lao động làm chủ;

-         Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;

-         Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

-         Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;

-         Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;

-         Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Câu 5: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, các chuẩn mực đạo đức và các biện pháp xây dựng nền đạo đức mới?

Đáp án:

1. Nguồn gốc hình thành

    a, Truyền thống đạo đức của dân tộc VN

    - Đạo đức luôn luôn khuyên con ng sống phải có tình nghĩa, thuỷ chung, biết trung biết hiếu.

    - Dân tộc VN là dân tộc đề cao đạo lý làm ng, trg đó yêu nước giữ vị trí trung tâm, đứng đầu bảng giá trị đạo đức, đó chính là tình yêu và lòng trung thành đối với tổ quốc và ND.

    - Thông qua lối hành xử của nhg người thân trg gia đình Bác.

    b, TT đạo đức phg Đông và phg Tây

    - HCM chú trọng, chắt lọc nhg tinh hoa đạo đức nhân loại: Nho giáo, Phật giáo…và tinh thần của CM DCTS (nhân nghĩa, tương thân của Nho giáo; từ bi của Phật giáo; nhân đạo, bác ái của Thiên chúa giáo).

c, Quan điểm của Mác, Angghen, Lênin về đạo đức

- HCM ko chỉ tiếp thu nhg quan điểm, TT chính trị của các nhà sáng lập CNXHKH mà còn học tập nhg tấm gương cao đẹp của họ để lại.

- HCM cho rằng: Với ng phg Đông, 1 tấm gương sáng còn giá trị hơn 100 bài diễn thuyết.

d, Thực tiễn hoạt động CM của HCM

- HCM trải qua 1 quá trình hoạt động đầy bão táp, rất sôi nổi. Người đã chứng kiến sự tàn bạo, vô đạo đức của chủ nghĩa thực dân trg việc nô dịch các dân tộc thuộc địa.

- Người đã tìm đến 1 học thuyết nhân đạo nhằm giải phóng và phát triển con ng, tạo ra mqh tốt đẹp giữa ng với ng, 1 học thuyết đấu tranh cho sự tự do, ấm no, hạnh phúc với NDLĐ. Đó là CN M-L.

2. Nội dung

a.      Quan điểm về vai trò của đạo đức cách mạng

-   HCM là lãnh tụ quan tâm đến đạo đức, xây dựng đạo đức mới ngay từ rất sớm, được thể hiện trong bài giảng tập huấn ở Quảng Châu 1927 “Đường cách mệnh”, nêu lên 23 điều về tư cách của người chiến sĩ cách mạng.

-   Nâng cao đặc điểm CM, quyết sach chủ nghĩa cá nhân.

-   Mỗi chiến sĩ CM phải có đạo đức CM. Để có được phẩm chất đặc điểm tốt đẹp ấy cần trang bị cho họ lý luận thực tiễn thực hành đạo đức . Người quan tâm đến cả 2 phương diện.

-   HCM đã xây đựng được quan điểm, chuẩn mực đạo đức đúng đắn phù hợp mang tính chiến đấu cao.

-   HCM đã để lại 1 tấm gương đạo đức sáng ngời, tiếp thu đạo đức từ nhiều yếu tố, học thuyết nhất là tấm gương của LNin.

-   HCM coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người CM. Đạo đức là lòng cao thượng của con người. Đạo đức là động lực giúp chúng ta vượt lên khó khăn.

-   Người quan niệm nước là nước của dân, dân là chủ của nước vì vậy trung với nước, hiếu với dân là thể hiện trách nhiệm dựng nước và giữ nước.

-   Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới: Nói đi đôi với lám; phải neo gương đạo đức; Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi; Tu dưỡng rèn luyện đạo đức thường xuyên.

b. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có 4 chuẩn mực đạo đức cách cơ bản.

- Trung với nước, hiếu với dân: Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, điều chỉnh hành vi giữa cá nhân với cộng đồng. Trung, hiếu là các khái niệm đạo đức truyền thống, nhưng được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào những nội dung mới.

+ Trung với nước: yêu nước, gắn liền với yêu Chủ nghĩa xã hội; trung thành với lý tưởng, con đường cách mạng mà đất nước, dân tộc đã lựa chọn; có trách nhiệm bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

+ Hiếu với dân: Thương dân, quý dân, lấy dân làm gốc; chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân một cách tự giác; đấu tranh giải phóng quần chúng nhân dân để dân trở thành người chủ và làm chủ.

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: Đây là chuẩn mực đạo đức trung tâm, điều chỉnh hành vi ứng xử trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người.

Phân tích nội hàm các khái niệm:

Cần: Cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai, biết phân công, tổ chức hoạt động hợp lý, lao động với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.

Kiệm: Tiết kiệm, không hoang phí, tiêu dùng hợp lý; không chỉ tiết kiệm của cá nhân mà còn tiết kiệm của công; tiết kiệm toàn diện: tiền của, nguyên vật liệu, thời gian, sức lao động.

Liêm: Liêm khiết, trong sạch, không tham tiền tài, địa vị, danh vọng.

Chính: Chính trực, ngay thẳng, thật thà đối với mình, đối với người, đối với việc.

Chí công vô tư: Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết, hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.

Mối quan hệ giữa các khái niệm: Các tiêu chuẩn đạo đức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề cho nhau. Hồ Chí Minh xác định cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần thiết của một con người, là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của một dân tộc.

- Yêu thương con người: Yêu thương tất cả mọi người, trước hết là người lao động nghèo khổ, bị bóc lột, áp bức, những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội: trẻ em, người già, phụ nữ; yêu thương con người trên lập trường của giai cấp công nhân; chăm lo mọi mặt đời sống con người để con người được thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

- Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung: Chuẩn mực đạo đức này điều chỉnh hành vi ứng xử của con người trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc; nó có cơ sở từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Về nội dung, chuẩn mực đạo đức này bao gồm: Tôn trọng, thương yêu các dân tộc; ủng hộ, giúp đỡ các dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng; xây dựng khối đoàn kết quốc tế trên cơ sở cùng có lợi, có lý, có tình.  

c. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới

* Nói phải đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức:

- Người nhấn mạnh đổi mới với mỗi người thì lời nói phải đi đôi với việc làm mới đem lại hiệu quả cho bản thân mình và mới tác dụng cho những người khác. Nếu nói nhiều mà làm ít, nói mà không làm, nói 1 đằng làm 1 nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng. Đó là thói đạo đức giả của những g/c bóc lột trong lịch sử, phải xây dựng 1 nền đạo đức mới về chất so với nền đạo đức trước đó.

- Để xây dựng đạo đức mới cho con người, HCM nhấn mạnh phương pháp nêu gương. Người ta coi đó là phương pháp thiết thực nhất, có sức mạnh thuyết phục to lớn trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho mọi người.

- Đối với HCM, tấm gương đạo đức có thể hiểu theo nghĩa rộng phải có những tấm gương chung, riêng, lớn, nhỏ, xa gần chẳng hạn như trong gia đình đó là tấm gương cha mẹ đối với con cái; trong tổ chức đoàn thể, trong XH .....

- Người coi một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên cái nền rộng lớn vững chắc khi có những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực đạo đức đã trở thành thói quen hành vi đạo đức hàng ngày phổ biến trong toàn XH mà tấm gương đạo đức có ý nghĩa và thúc đảy qúa trình ấy.

** Xây dựng đi đôi với chống phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.

- HCM khẳng định muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách mạng cho hàng triệu con người cán bộ Đảng viên thì cùng với việc xây dựng bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp phải nhất thiết phải chống những biểu hiện xấu xa, trái với yêu cầu của đạo đức mới.

- Theo Người, việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình, nhà trường và ngoài XH.

- Theo Người để xây và chống có hiệu qủa phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi nhằm thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân để với mọi người phấn đấu, tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Người đặc biệt nhấn mạnh phải quýet sạc chủ nghĩa cá nhân vì nó nảy sinh nhiều căn bệnh nguy hiểm như tham ô, lãng phí....

*** Phải tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời

- HCM chỉ rõ, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời xa xuống mà nó do đáu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố cũng như ngọc càng mài càng sáng, vậy càng luyện cang trong.

- Theo HCM việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mối quan hệ XH và mối quan hệ qtế.

Kết luận: TTHCM về đạo đức cách mạng là những quan niệm, tư tưởng về 1 nền đạo đức mới (cách mạng và tiến bộ). Cùng với tư tưởng, tấm gương đạo đức HCM mãi soi sáng cho nhân dân VN học tập và noi theo đặc biệt là trong xây dựng dân tộc VN ngày càng văn minh như mong ước của Người.

Câu 6: Luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam.

Đáp án:

I. TTHCM về ĐCSVN

            Cơ sở hình thành: TTHCM về ĐCSVN bắt nguồn từ học thuyết của CN Mác về ĐCS mà trực tiếp là học thuyết về Đảng kiểu mới của g/c công nhân đã được LêNin đưa ra từ những năm đầu TK20. Nhưng xuất phát từ những điều kiện cụ thể của VN, HCM đã vận dụng sáng tạo để đua đến việc thành lập Đảng CSVN 1930. Với những luận điểm mới làm phương pháp thêm học thuyết M-LN về Đảng CS và giải đáp những yêu cầu thực tiễn cách mạng VN đặt ra.

            Bên cạnh cơ sở về tư tưởng, TTHCM về ĐCS cần được hình thành trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm hoạt động tư tươtng của sự thành lập các ĐCS trên thế giới. Bằng năng lực hoạt động tu tưởng sôi nổi đã học hỏi ở các chiến sĩ cộng sản và các vị lãnh tụ của g/c VS trên thế giới để đưa tới sự thành lập ĐCSVN.

1. Những luận điểm cơ bản của HCM về ĐCSVN

-         ĐCSVN là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng VN đến thắng lợi

-         Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa M-LN cũng như truyền thống dân tộc HCM KD. Nhưng sức mạnh của QCND chỉ được phát huy thành 1 lực lượng to lớn khi được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo 1 đường lối đúng đắn.

-         Người KĐ CM trước hết phải có Đảng CM để trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và CMVS mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy đúng hướng.

-         ĐCS là chính Đảng của giai cấp công nhân, là đơn vi tiên phong, bộ tham mưu của g/c VS, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng luôn tận tâm, tận lực phục sự tổ quốc và nhân dân, trung thành tuyệt đối với lợi ích của g/c, của nhân dân và của dân tộc. Ngoài lợi ích đó ra thì Đảng không có lợi ích gi khác.

2. ĐCSVN là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa M-LN với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.

-         Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa M-LN về sự ra đời của các ĐCS là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa M-LN với phong trào công nhân. HCM từ 1 người VN yêu nước đã bắt gặp ánh sáng của chủ nghĩa M-LN và vận dụng vào TT cách mạng VN. Người khái quát quy luật ra đời của ĐCSVN là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa M-LN với PTCN và PTYN.

-         Sự ra đời của ĐCSVN tất yếu phải dựa vào cơ sở XH là PTYN vì đó là phong trào rộng lớn nhất chiếm 90% dân số, trong đó có g/c công nhân. Giai cấp công nhân là nòng cốt có vai trò vạch ra đường lối chủ chương đúng đắn để lãnh đạo PTYNVN giành thắng lợi cuối cùng.

-         Từ sự nhận thức cần giác ngộ sức mạnh dân tộc với sức mạnh giai cấp, HCM kiên định cần phải gắn bó chặt chẽ với PTCN và PTYN. Phải nắm lấy vũ khí sắc bén là CN M-LN và ngọn cờ dân tộc. Mỗi người cộng sản trước hết phải là 1 người yêu nước, thường xuyên truyền bá chủ nghĩa M-LN, quan điểm đường lối của Đảng trong PTCN và QCND để thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Vì vậy ĐCS là Đảng của g/c công nhân đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc, lãnh đạo dân tộc thấy được thắng lợi to lớn.

3. ĐCSVN là đảng của g/c công nhân đồng thời cũng là Đảng của dân tộc.

-         Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa M-LN cho rằng: không có Đảng siêu g/c mà bất cứ 1 Đảng nào ra đời cũng đều mang tính giai cấp, đều đại diện cho quyền lợi và lợi ích của 1 g/c nhất định. Do đó HCM chỉ ra ĐCSVN là Đảng của g/c công nhân đồng thời là Đảng của dân tộc VN.

-         Bản chất g/c công nhân của Đảng được thể hiện ở chỗ:

+ Nền tảng TT của Đảng là chủ nghĩa M-LN

+ Mục tiêu đường lối của Đảng thực sự vì độc lập dân tộc gắn liền với CNXH vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng XH và giải phóng con người.

+ Đảng nghiêm túc tuân thủ những nguyên tắc Đảng kiểu mới của g/c công nhân.

-         Sự thống nhất giữa bản chất g/c công nhân với tính dân tộc của Đảng thể hiện:

+ Lợi ích của g/c công nhân thốngnhât với lợi ích của dân tộc. Đó là mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền CNXH nhằm giải phóng g/c, xh và con người.

+ Cơ sở XH để thành lập Đảng là được quần chúng nhân dân ủng hộ và thừa nhận.

+ Thành phần kết nạp Đảng không phải chỉ có g/c công nhân mà bao gồm những người ưu tú với mọi tầng lớp nhân dân có sức mạnh lãnh đạo nhân dân thực hiện lợi ích chung: GPDT, GPCN, trong đó con người làm nòng cốt. Vì vậy mà Đảng vừa mang tính bản chất g/c, vừa mang tính dân tộc.

4. HCM khẳng định ĐCSVN phải lấy chủ nghĩa M-LN làm nòng cốt

-         CM muốn thành công thì trước hết phải có Đảng lãnh đạo. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt. Trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, không có bảy chỉ Nam. Trong thế giới bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa M-LN.

-         Khi nhấn mạnh chủ nghĩa M-LN làm nòng cốt, HCM nhấn mạnh phải nắm vững tinh thần và phương pháp của nó đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kinh nghiệm của các nước để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của VN. Từ đó người lưu ý phải tách 2 khuynh hướng giáo điều và xem xét lại chủ nghĩa M-LN.

5. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam fải xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.

- Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc tổ chức của Đảng:

            + Theo Hồ Chí Minh dân chủ và tập trung là 2 mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau theo một nguyên tắc. Dân chủ là đi đến tập trung, dân chủ là cơ sở của tập trung chứ không phải theo kiểu phân tán tuỳ tiện vô tổ chức. Còn tập trung trên cơ sở dân chủ chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.

            + Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng:

-> Người phân tích 1 người dù tài giỏi máy cũng không thể thấy hết được mọi việc càng không thể hiểu hết được một vấn đề.

-> Về cá nhân phụ trách Người chỉ rõ việc gì đã bàn bạc kỹ lưỡng rõ ràng cần giao cho một người phụ trách. Vì vậy tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau.

            + Nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng:

-> Người chỉ rõ một Đảng mà dấu khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng, một Đảng mà có gan thừa nhận những khuyết điểm của mình, vạch rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách sửa chữa khuyết điểm đó như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn chắc chắn chân chính.

-> Nhấn mạnh tự phê bình và phê bình Người coi giống như việc soi gương rửa mặt hàng ngày phải thường xuyên tự giác và nghiêm túc thực hiện.

-> Hồ Chí Minh chỉ rõ tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học c/m mà còn là của nghệ thuật c/m đòi hỏi mỗi cán bộ Đảng viên phải khéo dùng. Trong đó mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, phải có tính đồng chí thương yêu lẫn nhau tránh những thái độ lệch lạc sai trái như che dấu khuyết điểm của bản thân mình hay lợi dụng phê bình để nói xấu.

->Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Đây là một nguyên tắc của Đảng kiểu mới, của giai cấp công nhân trong đó:

* Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, là kỷ luật đối với mỗi cán bộ Đảng viên không phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp mà mọi Đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng.

* Tự giác: Là thuộc về mỗi cán bộ Đảng viên tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng vì vậy phải thực hiện chủ trương nghị quyết của Đảng, có như vậy Đảng mới hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của mình.

            + Đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đây là một nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin:

-> Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân. Trong đó đoàn kết trong Đảng là nòng cốt cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân.

-> Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong đảng là đường lối quan điểm và điều lệ Đảng. Đây là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động của Đảng nhằm biến những chủ trương của Đảng thành hành động của giai cấp nông dân.

-> Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu cầu phải nghiêm túc thực hiện những nguyên tắc của Đảng kiểu mới, mỗi Đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham ô lãng phí.

KL: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới là sự kế thừa lý luận về Đảng kiểu mới của Lênin vào điều kiện cụ thể của VN. Đó là nguyên tắc cơ bản có quan hệ chặt chẽ trong quá trình xây dựng một Đảng kiểu mới. ND nguyên tắc này được Đảng ta tiếp tục phát huy và vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

6. Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

-         Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân.

-         Đây là một luận điểm lớn và nhất quán khi Người xác định vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ Đảng viên. Người chỉ rõ: Khi Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền xây dựng chính quyền và lãnh đạo chính quyền xây dựng mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH thì Đảng là Đảng cầm quyền. Nhưng Đảng phải ý thức được mình là người đầy tớ của dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước trong đó dân là chủ. Do đó mối quan hệ ở đây là Đảng là cầm quyền nhưng dân là chủ.

-         HCM khẳng định là đầy tớ trung thành của nhân dân Đảng có quyền lợi gì riêng ngoài quyền lợi giai cấp, quyền lợi dân tộc. Vì vậy Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Đảng không ở trên dân, ngoài dân mà ở trong dân, Đảng phải lấy dân làm gốc.

7. Đảng phải thường xuyên đổi mới, tự chỉnh đốn để thực sự trong sạch vững mạnh.

-         Để xứng đáng là một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp to lớn của dân tộc, một Đảng vừa là đạo đức vừa là văn minh tiêu biểu cho trí tuệ danh dự lương tâm của dân tộc và thời đại thì Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới.

-         Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh cả về 3 mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức ; làm cho đội ngũ cán bộ Đảng viên nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.

-         Khi nhấn mạnh vài trò cầm quyền của Đảng Người chỉ rõ: quyền lực của Đảng có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới trong lĩnh vực của đời sống. Nhưng nó cũng có sức phá hoại nếu người cầm quyền thoái hóa biến chất đi ngược với quyền lợi giai cấp nd.

-         “Người khẳng định một dân tộc một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại có sức hấp dẫn lớn không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sạch nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

KLC:Tư tưởng HCN về ĐCSVN là hệ thống những luận điểm cơ bản về ĐCS dựa trên sự kế thừa quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, các phong trào cách mạng trên thế giới và những tư tưởng tiến bộ của nhân loại để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của VN. ND tư tưởng ấy không chỉ có vài trò chỉ đạo cho Đảng lãnh đạo c/m giành thắng lợi mà đặc biệt trong giai đoạn hiện nay trước những biến cố mới của LS, Đảng vẫn không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo nhân dân thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự lãnh đạo của ĐCS là nhân tố quyết định thắng lợi của c/m VN trong thời kỳ lịch sử. Đảng đó là Đảng của dân tộc VN đồng thời là Đảng của mỗi con người VN.

Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta

Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện nhân cách Đảng viên Cộng sản

Tháng 212

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đội ngũ đảng viên. Ngay từ năm 1925, bài giảng đầu tiên của Người cho những cán bộ cách mạng trẻ tuổi của Việt Nam là vấn đề “tư cách một người cách mệnh”.

Nghiên cứu những bài nói và viết của Người, chúng ta đều thấy mối quan tâm hàng đầu của Người là xây dựng một đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Sự giác ngộ lý tưởng cộng sản, lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của giai cấp công nhân, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là phẩm chất hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra cho mỗi đảng viên cộng sản.

Người căn dặn mỗi đảng viên “không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”; phải biết đặt lợi ích của giai cấp, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết; nếu khi “lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân thì phải quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng”. Người chỉ rõ: suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân “là phẩm chất cao quý của người cách mạng. Đó là đạo đức cách mạng. Đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của đảng, của giai cấp, của nhân dân”. Người đánh giá rất cao những đảng viên luôn luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp và của dân tộc, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đồng thời phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cá nhân làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lạo động.

Chủ tịch Hồ chí Mình đòi hỏi mỗi đảng viên cộng sản cùng với phẩm chất cách mạng cao quý còn phải có năng lực, vì có năng lực mới hoàn thành tốt được nhiệm vụ của Đảng giao cho. Người dạy rằng, “Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”. Muốn vừa thạo về chính trị, vừa giỏi về chuyên môn, mỗi đảng viên phải ra sức “học tập chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác của mình”. Bởi vì, có học tập lý luận Mác – Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt được công tác Đảng giao cho mình; “có nắm vững đường lối cách mạng mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”. Người cũng chỉ rõ rằng, muốn học tập có kết quả tốt, phải có thái độ đúng và phương pháp đúng, lý luận phải liên hệ với thực tế, phải “biến những điều đã học thành hành động cách mạng thực tế. Học phải đi đôi với hành, chứ không phải học để nói suông”.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một yêu cầu quan trọng về phẩm chất đảng viên là liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể và sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng. Bởi lẽ, Đảng là đội tiên phong của quần chúng, nhưng Đảng chỉ có sức mạnh nếu giữ vững được mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Muốn làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng, người đảng viên “phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai. Phải nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành mọi chủ trương, chính sách của Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay thẳng, không được giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo…Phải luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng. Phải “chí công, vô tư” và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. “Người nghiêm khắc phê phán những đảng viên “xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng…ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng…mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, không yêu…” và họ không làm nên trò trống gì.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm. Người chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu cầu mọi đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công. “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ những biện pháp thiết thực để mỗi đảng viên cộng sản phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng nhân cách của mình. Trước hết, mỗi đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nếu để cho chủ nghĩa cá nhân ám ảnh, chi phối, người đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự tước bỏ danh hiệu cao quý của mình. Vì vậy, muốn giữ được tư cách, đảng viên nhất thiết “phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu…sẽ bị xã hội tiến bộ sa thải”.

Việc giữ gìn bản chất, tư cách đảng viên cộng sản cần gắn với xây dựng, củng cố các tổ chức của Đảng, nhất là chi bộ, vì chi bộ “là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”. Thực tế đã chứng minh rất rõ: ở đâu chi bộ mạnh, cấp ủy mạnh thì đảng viên mạnh, ở đâu chi ủy, chi bộ rệu rã thì ở đó cán bộ, đảng viên tê liệt sức chiến đấu, dễ trở thành hư hỏng, thoái hoá. Cho nên, trong xây dựng tổ chức đảng, xây dựng chi bộ, các cấp ủy đảng phải thực hiện dân chủ nội bộ, quan tâm đến đời sống của cán bộ, đảng viên, kịp thời giúp họ giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống và công tác. Song, phải nghiêm khắc đối với những cán bộ, đảng viên phạm sai lầm, khuyết điểm; tẩy bỏ những phần tử hủ hoá nhằm giữ gìn nghiêm kỷ luật từ trên xuống dưới.

Cùng với việc giữ nghiêm kỷ luật, phải “mở rộng phong trào phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan, các đoàn thể, trên các báo chí cho đến nhân dân. Phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên”. Người còn vạch rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình”. Đồng thời, Người yêu cầu phải tăng cường công tác kiểm tra trong Đảng nhằm “thúc đẩy và giáo dục đảng viên làm trọn nhiệm vụ…,làm gương mẫu cho nhân dân” và xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đứng trước những vận hội mới và thách thức mới, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hơn bao giờ hết chúng ta phải giương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, xây dựng các tổ chức chi bộ vững mạnh, rèn luyện tư cách đảng viên với phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Việc nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong rèn luyện phẩm chất, tư cách đảng viên cộng sản nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm củng cố tổ chức đảng, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Công tác tư tưởng, lý luận và việc chống quan liêu theo quan điểm Hồ Chí Minh

Tháng 212

Là một nhà chiến lược thiên tài và nhà hoạt động thực tiễn sâu sát tỉ mỉ, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến việc chống quan liêu trong điều kiện Đảng cầm quyền. 

Đúng 15 ngày sau Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sự xuất hiện những mầm mống đầu tiên của bệnh quan liêu trong cán bộ, đảng viên. Ngày 17-9-1945, viết thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (Nghệ An), Hồ Chí Minh chỉ rõ cán bộ ở các địa phương mắc phải những khuyết điểm nhất là: hẹp hòi, bao biện, lạm dụng hình phạt, hủ hoá, lên mặt làm quan cách mạng, độc đoán chuyên quyền, lấy của chung làm của riêng, thậm chí dùng pháp luật nhà nước để trả thù riêng. Từ đó trở đi việc chống quan liêu luôn được Hồ Chí Minh thể hiện một cách đậm nét cả trong tư duy lý luận lẫn hoạt động thực tiễn. Vào đến những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, Hồ Chí Minh viết bài “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Trong bài viết này, Hồ Chí Minh phê phán gay gắt những người “tham danh trục lợi”, thích địa vị quyền hành, tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh”.

Trong các bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh gọi quan liêu là một loại bệnh mà đảng viên, cán bộ dễ mắc phải. Mắc loại bệnh này chủ yếu là “những người và những cơ quan lãnh đạo, nhất là khi Đảng cộng sản nắm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội. Theo Hồ Chí Minh: “Quan liêu là cán bộ phụ trách xa rời thực tế, không điều tra, nghiên cứu đến nơi đến chốn những công việc phải làm, việc gì cũng không nắm vững, chỉ đạo một cách đại khái, chung chung”. Hồ Chí Minh đã trực tiếp hỏi một cán bộ địa phương: “Mùa màng năm nay thế nào?”. Anh ta trả lời: “Việc đó tôi đã động viên nhân dân, đã bày tỏ vấn đề đó một cách đầy đủ nên “công tác xem chừng khá…, chắc là có tiến bộ”. Người hỏi tiếp: “Tóm lại là đã cày cấy được mấy mẫu?”. Anh ta trả lời: “Ở vùng chúng tôi, cày cấy hiện nay chưa đâu ra đâu cả”.

Một người được Hồ Chí Minh gọi là “ông quan liêu”", khi người đó chạy theo hình thức, chỉ biết khai hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ bệnh khai hội là “khai hội không có kế hoạch, không thiết thực, khai hội lâu, khai hội nhiều quá”. Trong các buổi khai hội đó “cán bộ khu về tỉnh, cán bộ tỉnh về huyện, cán bộ huyện về làng thì khệnh khạng như ông quan”. Lúc khai hội thì trăm lần như một: “Tình hình thế giới, tình hình Đông Dương; thảo luận, phê bình, giải tán”. Mỗi lần phát biểu “ông cán” nói hàng giờ, nói đâu đâu, còn “công việc thiết thực trong khu, trong tỉnh, trong huyện, trong xã đó thì không đụng đến”. Do đó lúc “ông cán” phát biểu kẻ ngáy, người ngủ chỉ mong ông thôi để được về nhà. Hồ Chí Minh kết luận việc làm hình thức, xa rời thực tế đó khiến “quần chúng sợ khai hội, mỗi lần họ đi khai hội chẳng khác gì đi phu”. Hồ Chí Minh thừa nhận: “Trong Đảng ta, có một số người như thế. Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”. Hồ Chí Minh cho rằng những ai làm việc chủ quan, thoát ly quần chúng, bắt phong trào quần chúng phải đi theo ý muốn chủ quan của mình là những người “khoét chân cho vừa giầy”. Với Hồ Chí Minh những người mắc bệnh quan liêu chỉ biết đóng cửa viết báo cáo, xem báo cáo trên giấy chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn. Hồ Chí Minh coi đó là những người lười biếng, những người “nghị quyết đầy túi áo, thông báo đầy túi quần”.

Do xa rời quần chúng, xa rời thực tế, làm việc chủ quan, duy ý chí, nên những người quan liêu, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sợ phê bình và tự phê bình”. Với Hồ Chí Minh những cán bộ, đảng viên cốt sao “xong chuyện thì thôi”, không phê bình người khác cũng chẳng tự phê bình mình là “những đảng viên và cán bộ ươn hèn, yếu ớt”. Người mắc bệnh quan liêu tất yếu dẫn đến mất dân chủ, độc đoán, chuyên quyền. Tình trạng mất dân chủ, độc đoán, chuyên quyền lại là nguyên nhân của việc vi phạm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Vì vậy khi phác thảo chân dung “ông quan liêu”, Hồ Chí Minh tập trung nêu bật đặc điểm “”thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách”. Hồ Chí Minh đặt câu hỏi “Quan liêu là gì?”. Câu trả lời của Người là: Quan liêu là những người phụ trách bất kỳ cấp nào không gần gũi cán bộ, không theo dõi công việc thiết thực, không theo dõi cán bộ để biết tính nết, khả năng, để thấy điều tốt thì khuyến khích, điều xấu thì can ngăn, giáo dục, giúp đỡ sửa chữa. Thế là cán bộ xa thực tế, xa bộ đội, xa dân, không dân chủ.

Theo Hồ Chí Minh, các ông quan liêu khi được phân công phụ trách ở vùng nào thì như một vua con, ở đấy tha hồ hách dịch, hạnh hoẹ. Đối với cấp trên thì xem thường. Đối với cấp dưới thì cậy quyền lấn át. Đối với quần chúng thì ra vẻ quan cách mạng làm cho quần chúng sợ hãi. Cái đầu óc ông tướng, bà tướng ấy làm cho cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân.

Hồ Chí Minh cho rằng bệnh quan liêu để lại những hậu quả nặng nề trên nhiều lĩnh vực. Trước hết nó gây khó khăn cho sự lãnh đạo của Đảng. Ngay từ năm 1952, Hồ Chí Minh đã viết: “Nói tóm lại vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấu suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững”. Đây thực sự là nguy cơ đối với một đảng cẩm quyền.

Trong điều kiện đảng cầm quyền, quan liêu là nguyên nhân chính gây nên nhiều tệ nạn cho nhà nước và xã hội, đặc biệt là tham ô, lãng phí. Theo Hồ Chí Minh muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì bị cỏ át đi, muốn thành công trong tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm cũng phải nhổ cỏ cho sạch, nghĩa là phải tẩy sạch bọn tham ô, lãng phí. Sở dĩ có tham ô, lãng phí là vì có những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu. Do đó “những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí”. Năm 1952 trong bài “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”", Hồ Chí Minh viết bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Có nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu (Hồ Chí Minh nhấn mạnh). Do đó “muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”". Mười năm sau, năm 1962, nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, Hồ Chí Minh vạch rõ: kinh nghiệm chứng tỏ rằng ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó chắc có tham ô, lãng phí. Nơi nào bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô. Hồ Chí Minh kết luận “Bệnh quan liêu là nguồn gốc sinh ra lãng phí, tham ô… Cho nên muốn triệt để chống tham ô, lãng phí thì phải kiên quyết chống nguồn gốc của nó là bệnh quan liêu”. Do ý thức sâu sắc quan liêu là nguồn gốc của tham ô, lãng phí nên trong di sản Hồ Chí Minh chúng ta tìm thấy có những bài viết với tiêu đề “”Chống quan liêu, tham ô, lãng phí” nghĩa là quan liêu đặt trước tham ô, lãng phí.

Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII), 1-1994 của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu lên bốn nguy cơ đối với chế độ. Một trong bốn nguy cơ đó là nạn tham nhũng và tệ quan liêu. Từ đó đến nay Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và giải pháp để chống tham nhũng, quan liêu, nhưng xem ra nguy cơ này vẫn chưa bị đẩy lùi, kết quả đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu chưa được như ý Đảng, lòng dân mong muốn. Vì vậy, cuộc đấu tranh chống các tệ nạn ấy không thể dừng lại và phải kiên quyết hơn. Tuy nhiên, phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung vào việc đề ra các chủ trương, giải pháp thiết thực chống nguyên nhân của nạn tham nhũng là tệ quan liêu.

Theo Hồ Chí Minh: “Cần khẳng định dứt khoát rằng số đông cán bộ và công nhân ta đều tận tuỵ và trong sạch” nhưng vẫn còn một số người “phạm sai lầm tham ô, lãng phí và còn mang nặng bệnh quan liêu… Vì vậy chúng ta phải kiên quyết chống lại những tệ hại ấy”. Do mối liên hệ chặt chẽ giữa quan liêu với tham ô, lãng phí nên việc đấu tranh chống lại những tệ nạn này cũng không thể tách rời nhau.

Với Hồ Chí Minh, quan liêu, tham ô, lãng phí là không thể chấp nhận được. Tuy vậy, tuỳ theo quy mô tính chất và hậu quả do quan liêu, tham ô, lãng phí gây nên, Hồ Chí Minh có những cách xử lý, phê phán khác nhau.

Trước hết, quan liêu, tham ô, lãng phí có hại cho nhân dân, cho Chính phủ, đoàn thể, cho kháng chiến và kiến quốc nên quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác, là kẻ thù nguy hiểm của dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng dù cố ý hay vô tình, quan liêu, tham ô, lãng phí làm chậm trễ cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta, phá hoại đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính. Do vậy, quan liêu, tham ô, lãng phí là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến, tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám nếu không phải là tệ hơn thế.

Tháng 1 – 1946, nghĩa là khi Đảng ta đã tuyên bố tự giải tán, sự thực là Đảng rút vào hoạt động bí mật trong một lần trả lời phỏng vấn các nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: “Vì hoàn cảnh và trách nhiệm, tôi phải đứng ra ngoài mọi đảng phái… Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh gọi chống quan liêu, tham ô, lãng phí là việc làm cách mạng.

Do tính chất nguy hiểm của tệ quan liêu và nếu không có những chủ trương, giải pháp thiết thực thì tệ nạn này có khả năng tăng lên cùng với thời gian đảng cầm quyền, nên Hồ Chí Minh chỉ rõ việc chống quan liêu là rất cần thiết và phải làm thường xuyên.

So sánh với đế quốc, với giặc ngoại xâm, Hồ Chí Minh gọi quan liêu, tham ô, lãng phí là giặc nội xâm “giặc ở trong lòng”. Người yêu cầu để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, mọi người cần đoàn kết thành một khối chống cả hai loại giặc: Chiến sĩ xuất công, nhân dân xuất của để đánh giặc cứu nước. Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ giặc “giặc ở trong lòng”. Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình. Hồ Chí Minh quan niệm chống giặc nội xâm “là một cách mạng nội bộ”, cuộc đấu tranh gay go giữa cái xấu và cái tốt, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư với kẻ địch là tệ nạn quan liêu, tham ô, lãng phí. Tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham ô, lãng phí còn ở chỗ, Hồ Chí Minh chỉ rõ kẻ thù này không mang gươm, mang súng mà nó nằm ngay trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta. Thấu hiểu tâm tư, tình cảm và cả những vướng mắc, những điều khó nói thành lời của một số cán bộ khi tiến hành cuộc vận động chống quan liêu, tham ô, lãng phí, Hồ Chí Minh viết: Cán bộ và công nhân đều nhất trí tán thành, ai cũng cho là cần phải có cuộc vận động này nhưng khi thi hành thì một số người lo lắng, lo sợ. Nguyên nhân vì trong ba chứng bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí bản thân mình chắc có một bệnh, hoặc nặng hoặc nhẹ. Do tính chất phức tạp, “tế nhị” của cuộc đấu tranh này nên Hồ Chí Minh đòi hỏi: Mọi người dũng cảm tiến lên, mặt khác muốn thắng lợi ở mặt trận này phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức.

Hồ Chí Minh cho rằng cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham ô, lãng phí có hai ý nghĩa quan trọng:

Thứ nhất, làm cho mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần làm chủ, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, để nâng cao đời sống của nhân dân và bản thân mình.

Thứ hai, giúp cho cán bộ, đảng viên giữ gìn phẩm chất cách mạng, một lòng một dạ, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Do đó nhân dân ta đã đoàn kết càng đoàn kết thêm, lực lượng ta đã hùng mạnh, càng hùng mạnh thêm.

Theo Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, công tác tư tưởng, lý luận có vai trò to lớn. Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Tư tưởng đúng thì hành động đúng, tư tưởng nhất trí thì hành động mới nhất trí. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tư tưởng có thống nhất, hành động mới thống nhất. Tư tưởng và hành động có thống nhất mới đánh thắng được giặc.

Hồ Chí Minh kết luận, sở dĩ có quan liêu, tham ô lãng phí cũng như mọi khuyết điểm khác là do tư tưởng không đúng. Người nêu thí dụ vì thiếu quan điểm quần chúng nên trong công tác mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh.

Để khắc phục được quan liêu mệnh lệnh và những căn bệnh có thể nảy sinh trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, chỉnh đốn tổ chức.

Trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm (khoá IX) “”về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” rất coi trọng chống bệnh quan liêu trong cán bộ, đảng viên, trong bộ máy Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.

Tại Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) trong phần “Tình hình tư tưởng, lý luận và công tác tư tưởng, lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Nỗi bức xúc của nhân dân hiện nay là còn những bất công xã hội, tệ quan liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn có hiệu quả.

Từ thực tiễn đó ở phần phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu và giải pháp công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) viết: Đề cao trách nhiệm của mỗi tổ chức Đảng và đảng viên, đấu tranh loại trừ tham nhũng, quan liêu ở cơ quan đơn vị cơ sở mình. Nghị quyết khẳng định: Cần phải tổ chức học tập một cách nghiêm túc, có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.

Theo Sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng, lý luận”

(NXB Chính trị quốc gia)

Học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân trong giai đoạn hiện nay

Tháng 212

Hiện nay, trong công cuộc đổi mới, thực hiện Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế có nhiều thuận lợi to lớn, nhưng cũng lắm nguy cơ, thách thức phức tạp, hơn lúc nào hết chống chủ nghĩa cá nhấn là vấn đề đã và đang đặt ra bức thiết cho quá trình xây dựng phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình xây dựng, phát triển hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới, những mặt trái của cơ chế thị trừơng xuất hiện ngày càng nhiều và tinh vi hơn tác động mạnh đến việc xây dựng phát triển kinh tế, tác động đến công tác xây dựng Đảng, tác động trực tiếp vào đội ngũ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Trong quá trình thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh việc ngăn chặn, chống CNCN đã và đang là vấn đề cấp bách của toàn xã hội. Chúng ta thấy rằngviệc xây dựng qui chế, qui định, kû c­¬ng, kû luËt ngày càng chặt chẽ và được chú ý nhưng việc thực hiện ch­ưa thật sự được mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực và mỗi cán bộ đảng viên tuân thủ một cách nghiêm túc và triệt để.

Để nhận diện ra được, đề ra biện pháp đề phòng và chống một cách triệt để nhất, chúng ta phải nhìn nhận CNCN nó như thế nào?

Dưới góc độ tìm hiểu, nghiên cứu xin nêu ra một số hình thức biểu hiện của Chủ nghĩa cá nhân.

CNCN biểu hiện dưới nhiều hình thức, trong mọi khía cạnh, mọi lĩnh vực, nhưng tựu trung có thể thấy, người mang tư tưởng CNCN là muốn mọi người vì mình, muốn mình là “trung tâm”, “trong đầu luôn thể hiện cái tôi là trên hết” và không muốn ai hơn mình; đòi hưởng thụ, đòi thỏa mãn ham muốn cá nhân; không muốn khổ trước, sướng sau mọi người. Bác Hồ đã chỉ ra “Họ yêu cầu hưởng thụ, yêu cầu nghỉ ngơi, họ muốn lựa chọn công tác theo ý thích cá nhân mình, không muốn làm công tác mà đoàn thể giao phó cho họ. Họ muốn địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm nặng” từ những phân tích đó Bác cũng chỉ ra những ai như thế, những cá nhân có tư tưởng như vậy là bị CNCN thao túng “dần dần tinh thần đấu tranh và tính tích cực của họ bị kém sút, chí khí anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng cũng kém sút; họ quên rằng tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng cho cách mạng” từ đó chúng ta thấy rằng trong nền kinh tế thị trường, những mặt trái của cơ chế sẽ tác động vào mỗi người trong từng lúc, từng nơi, tác động vào mọi ngõ ngách cuộc sống, nếu không có quan điểm lập trường vững vàng, thì không sao tránh khỏi, sẽ bị sa ngã là điều tất yếu.

CNCN còn là thái độ kiêu ngạo, công thần, quan liêu, Bác chỉ ra: một số ít đảng viên bị CNCN trói buộc…họ phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; họ không tự phê bình hoặc phê bình không thật thà, nghiêm chỉnh; họ sợ tự phê bình sẽ mất thể diện, mất uy tín. Họ không lắng nghe ý kiến của quần chúng, họ xem khinh những cán bộ ngoài Đảng. Ta thấy, tự cá nhân những cán bộ như vậy đã đánh mất niềm tin của mọi người. Bản thân những người đó tự xem mình cái gì cũng giỏi, xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng, mà chỉ muốn làm thầy thiên hạ, họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Những người như vậy còn tự cho mình được quyền hành động tự do, vô tổ chức, Bác nêu rõ: những đối tượng cán bộ như thế làm giảm sút niềm tin, ngăn trở sự nghiệp của Đảng, cản trở bước đi lên của Cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, đó là tình trạng không chấp hành chỉ thị, nghị quyết, trên bảo dưới không nghe; hoặc mặc dù được phổ biến quán triệt vì sự nghiệp chung, tổng thể, nhưng khi thực hiện lại nửa vời, làm qua loa, đại khái, chiếu lệ. Như phân tích, CNCN có lúc biểu hiện một cách tinh vi, kín đáo, nhưng cũng có những lúc thể hiện một cách trắng trợn, lộ liễu, từ đó Bác nói: CNCN nó làm cho một số cán bộ, đảng viên xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách, kỷ luật của Đảng; làm cho một số cán bộ, đảng viên tha hóa, mất phẩm chất, đạo đức. Dẫn đến đẻ ra hàng trăm thứ “bệnh nguy hiểm”: bè phái, quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan, tham ô, lãng phí…dẫn đến mất lòng tin của dân đối Đảng, đối với chế độ.

Để chống lại CNCN,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: Đối với tự mình, đừng tự mãn, tự túc; nếu tự mãn, tự túc thì không tiến bộ; phải tìm tòi, học hỏi cầu tiến bộ; đừng kiêu ngạo, học lấy điều hay của người. Đối với công việc; việc gì cũng phải điều tra cho rõ ràng, xem xét kỹ, khi thực hiện phải làm đến nơi đến chốn, chống tư tưởng nửa vời, được chăng hay chớ, trước hết phải nghĩ cho kỹ, có việc làm trước mắt có hiệu quả, nhưng về sau không có lợi. Đối với đồng chí phải thân ái với nhau, không che đậy những điều dở; học lấy cái tốt; không tranh giành ảnh hưởng của nhau; không ghen ghét đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình. Bỏ lối hiếu danh, hiếu vị…Đối với nhân dân, phải biết lắng nghe và cố gắng nghe được nhiều thứ, phải hiểu được nguyện vọng của nhân dân, biết được sự cực khổ của dân; phải tôn kính dân, phải làm gương, mọi cán bộ phải lấy dân làm gốc. Trong giai đoạn hiện nay tỉnh Bình Định đã và đang cùng cả nước bước vào hòa nhập với nền kinh tế thế giới thì mỗi cán bộ, công chức, mỗi đảng viên phải thật sự xây dựng là người “trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu” nghĩa là:

Thứ nhất: Trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam; kiên định lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói và làm đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất, đạo đức, nhận thức chính trị của người cán bộ, công chức, viên chức; tích cực đấu tranh phê bình và tự phê bình.

Thứ hai:Nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ trương,đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào hoạt động thực tiễn. Tìm  tòi nghiên cứu, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, công nghệ; việc với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao nhất. Tích cực học tập, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm chủ các thiết bị khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong quá trình thực thi công vụ.

Thứ ba:Khi thực thi công vụ phải tận tụy hết mình, thực hiện mình vì mọi người; không lợi dụng vị trí, chức vụ được giao gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân, thực hiện lời dạy của Bác Hồ “cán bộ là công bộc của nhân dân”. Hoàn thành tốt công việc được giao với chất lượng tốt nhất, đảm bảo thời gian, tiến độ theo yêu cầu nhiệm vụ.

Thứ tư:Gắn bó mật thiết với nhân dân, đồng nghiệp; sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, tiết kiệm. Tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước và hành động cách mạng. Đoàn kết xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh; xây dựng gia đình văn hóa; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, quan liêu và các tệ nạn xã hội; tích cực tham gia các hoạt động xã hội.

Chúng ta thấy rằng trong quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội Đảng ta đã, đang và rất coi trọng quán triệt học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về chống CNCN; đây là nhiệm vụ cực kỳ bức thiết, có ý nghĩa to lớn nhiều mặt và là một công việc tất yếu của cách mạng. Không thể khác – nếu muốn giữ vững là một Đảng chân chính của giai cấp công nhân, để xây dựng thành công CNXH; bởi vậy hơn lúc nào hết, mỗi đảng viên, cán bộ phải triệt để chống CNCN, đem hết toàn tâm, toàn trí và toàn lực cống hiến xây dựng đất nước nói chung và tỉnh Bình Định đi lên.

Với nhìn nhận của cá nhân về những biểu hiện của Chủ nghĩa cá nhân và những nghiên cứu để góp phần chống tư tưởng CNCN trong giai đoạn hiện nay; xin nêu ra để cùng nghiên cứu, trao đổi.

Tôn Võ Xuân – Ban Tổ chức Tỉnh ủy  (Cập nhật ngày 29-09-2011)

Đánh giá cán bộ theo Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tháng 212

Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan trọng, đây là nhiệm vụ mang tính chính trị, khoa học và nhân văn.

Học tập tư tưởng của Bác và thực tế cho ta thấy,trongcông tác tổ chức cán bộ nói chung và trong việc nhận xét đánh giá cán bộ, thìcông tác đánh giá cán bộ là khâu quan trọng nhất và cũng khó nhất, bởi nếu đánh giá đúng, sử dụng đúng, bố trí phù hợp thì sẽ có tác động tích cực trong thực hiện nhiệm vụ; nếu làm không đúng qui trình, không đánh giá mang tính tập thể, thì dễ phiến diện hoặc không chính xác, đánh giá không đúng, sẽ dẫn đến bố trí sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm không có hiệu quả,có những lúc ảnh hưởng đến công tác tổ chức cán bộ;xét về khía cạnh tâm lý, thì nó hết sức nhạy cảm, vì nó tác động trực tiếp đến con người, tác động về sinh mệnh chính trị.Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác đánh giá cán bộ; Người có những nhìn nhận hết sức thấu đáo, chí tình về mỗi người, Người đã nhìn nhận đặt “tên” cho mỗi đồng chí theo tính cách, chí hướng cách mạng từ đó mỗi người và mọi người nhìn nhận thấy như vậy là đúng; Người đã chỉ ra rằng mỗi người đứng đầu, mỗi tổ chức để nhận xét, đánh giá cán bộ thấu tình, đạt lý phải có sự nhìn nhận và có phương pháp; Người viết “Kinh nghiệm cho biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì người hủ hóa cũng lòi ra”(1). Chúng ta thấy rằng thực hiện việc nhận xét đánh giá cán bộ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều mặt và khía cạnh như, vị trí, mối quan hệ của người được đánh giá với tập thể, với cấp ủy, với cán bộ lãnh đạo; về trình độ, sự nhìn nhận và uy tín của người đứng đầu tập thể, cơ quan,…Trong quá trình thực hiện nhận xét, đánh giá cán bộ mỗi cấp, mỗi ngành với qui trình làm thì tuân thủ theo qui định; song vấn đề đặt ra là tất cả những đánh giá về cán bộ đã thật sự khách quan, công tâm và vô tư chưa? Hay thường nói “nặng” về ưu điểm; nói “nhẹ” phê bình chung chung về khuyết điểm, tồn tại; tập thể tham gia nhận xét, đánh giá đã thật sự khách quan, vô tư và công tâm không; có nhìn nhận thật sát, thật đúng với bản chất của cá nhân được đánh giá và có khuyến khích cho tập thể nhận xét, đánh giá hay không? và mọi người có nói hay chỉ “im không nói”? hay “im lặng để xem”. Một biểu hiện khác nữa trong đánh giá cán bộ là “dễ” với người, để người “dễ” với mình; hoặc nhận xét cán bộ là dựa theo ý, theo nhìn nhận của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, nếu lãnh đạo nhận xét, góp ý thẳng thắn thì cán bộ sẽ được tập thể góp ý một cách chân tình; hoặc ngược lại nếu đối tượng được góp ý, phê bình bị lãnh đạo chỉ trích gay gắt, thì cán bộ đó có thể sẽ có những nhận xét chưa thật xác đáng. Một khía cạnh khác cũng có thể xảy ra trong nhận xét, đánh giá cán bộ là có những người trên cương vị của mình “tài” không bao nhiêu nhưng lại sống cơ hội, làm việc khéo che đậy tồn tại, nhược điểm…thì được “coi” là cán bộ tốt, “mẫn cán”; ngược lại có những người thật sự có năng lực nhưng sống không “biết”, ngay thẳng và cương trực, thì ít được quan tâm.

Mỗi chúng ta, đều nhận thức và thấy rằng Đảng đã xác định: Xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Thực hiện nhiệm vụ chính trị đó, công tác cán bộ có ý nghĩa quyết định, vì “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng nói chung và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng phát triển kinh tế, ổn định an ninh chính trị thì đòi hỏi việc nhận xét, đánh giá cán bộ phải làm chặt chẽ, chính xác; có như vậy mới củng cố và làm vững tin trong nhân dân đối với Đảng và công cuộc xây dựng đưa đất nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.

Vậy nhận xét, đánh giá cán bộ như thế nào là đúng?

Chúng ta cần nhận thức và quán triệt rằng phải tuân thủ nghiêm ngặt các quan điểm, nguyên tắc yêu cầu chung về đánh giá cán bộ do Đảng đã qui định. Để nhìn nhận đúng, đánh giá chính xác Đảng đã chỉ đạo, lãnh đạo các cơ quan chức năng đi sâu nghiên cứu, hoàn thiện và cụ thể hóa công tác nhận xét, đánh giá cán bộ từng lĩnh vực, từng thời điểm, từng giai đoạn để ngày càng đáp ứng tốt hơn việc thực hiện nhiệm vụ mỗi ngành, mỗi địa phương. Tuy nhiên, để sát yêu cầu từng loại và cụ thể ở từng địa phương, từng ngành, tùy địa bàn, nhiệm vụ cụ thể thì có sự linh hoạt qui định những điều kiện cần ở mỗi cán bộ phải có để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Việc đánh giá cán bộ, một nguyên tắc cơ bản có thể nói là “bất dy bất dịch” phải khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển; để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi những cơ quan, cán bộ có trách nhiệm thực hiện phải nhìn nhận, đánh giá cán bộ có phương pháp khoa học, logic; phân biệt được hiện tượng với bản chất, có sự phân tích biện chứng để đánh giá đúngbố trí sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm có hiệu quả, có tác dụng tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ.

Công tác đánh giá cán bộ trong những năm qua, được các địa phương, đơn vị thực hiện thường xuyên nghiêm túc theo quy chế, quy định định kỳ; cán bộ diện đánh giá hàng năm là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ tỉnh đến cơ sở, đã gắn đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý với đánh giá cán bộ, công chức và  phân loại đảng viên hàng năm. Cán bộ cấp nào quản lý thì cấp đó cho ý kiến kết luận đánh giá xếp loại cán bộ. Những cán bộ có dư luận của quần chúng về đạo đức, phẩm chất, về năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành, được cấp uỷ có thẩm quyền gợi ý để cán bộ đó kiểm điểm, liên hệ trong đánh giá có khuyết điểm hay không khuyết điểm để kết luận đúng sai, nếu có vi phạm thì phải xử lý theo quy định. Với động thái này đã có tác dụng tích cực đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, có sự rèn luyện, tu dưỡng trong công tác, sinh hoạt.

Tiêu chí đánh giá cán bộ được cụ thể thành các tiêu chí:

- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định đường lối đổi mới; nhận thức và chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao theo yêu cầu về thời gian khối lượng, chất lượng; tinh thần trách nhiệm, hiệu quả của việc thực hiện nhiệm vụ.

- Ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, tinh thần tự phê bình và phê bình. Tinh thần thái độ công tác, phục vụ nhân dân; giữ gìn và bảo vệ đoàn kết trong nội bộ.

- Tinh thần học tập, tự nghiên cứu nâng cao trình độ, năng lực công tác.

- Gương mẫu về đạo đức lối sống, thực hiện các nghĩa vụ của công chức, không vi phạm những điều cán bộ đảng viên không được làm…

Đối với cán bộ diện đề bạt, bổ nhiệm làm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, khi hết thời gian bổ nhiệm đều thực hiện việc đánh giá để bổ nhiệm lại theo quy định. Những cán bộ được đánh giá chưa hoàn thành nhiệm vụ hoặc vi phạm chính sách, pháp luật thì không bổ nhiệm lại, đã có tác dụng thiết thực, đánh giá đúng, sát thực đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở từng địa phương, đơn vị.

Trên đây là những ý kiến cá nhân xin đưa ra trao đổi, mong rằng khi mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình thực thi chức trách cố gắng tu dưỡng, rèn luyện tiếp tục thực hiện chức trách, nhiệm vụ ngày một tốt hơn để đưa tỉnh Bình Định hội nhập phát triển nhanh, mạnh và vững vàng hơn./.

Võ Xuân – Ban Tổ chức Tỉnh ủy  (Cập nhật ngày 05-07-2011)

“Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để thực hiện “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”

Tháng 212

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên muốn xứng đáng với vai trò tiền phong, được nhân dân tin yêu và kính phục, thì phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng, chống và đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, chống lại sự suy thoái về đạo đức và lối sống bằng phương thuốc đặc trị – đó là “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.

 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực của tấm gương đạo đức cách mạng “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Quyết tâm và dũng khí đấu tranh của Người xuất phát từ tấm lòng yêu mến nhân dân, “sức mạnh và uy tín to lớn của Người cũng bắt nguồn từ sự giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân”[1] và “điều mà Người đã truyền bá, đó cũng là hình ảnh một con người mới, vì mọi người mà phục vụ; điều mà Người khắc sâu trong cả một dân tộc, đó là nền đạo đức trong sáng, một nền đạo đức cao quý mà không có nó thì mọi cuộc cách mạng đều sẽ không thành”[2].

Đặc biệt quan tâm đến vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và sự nêu gương của những người cách mạng, không chỉ nói về đạo đức cách mạng, yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thường xuyên phấn đấu rèn luyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta còn luôn gương mẫu thực hành đạo dức cách mạng, thống nhất nguyên tắc “nói đi đôi với làm”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên muốn xứng đáng với vai trò tiền phong, được nhân dân tin yêu và kính phục, thì phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng, chống và đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, chống lại sự suy thoái về đạo đức và lối sống bằng phương thuốc đặc trị – đó là “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.

Mùa xuân năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (Báo Nhân dân đăng ngày 3-2-1969, số 5409), chào mừng 39 năm ngày thành lập Đảng. Trong tác phẩm này, khi khẳng định về Đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh “là đạo đức, là văn minh”, là hiện thân của “danh dự và lương tâm của dân tộc”, Người viết: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”[3]. Thực tiễn cho thấy, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thực hiện thống nhất nước nhà, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã không ngừng phấn đấu, sẵn sàng hy sinh tất cả vì thắng lợi của cách mạng, vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Trên mọi lĩnh vực sản xuất, chiến đấu, nghiên cứu khoa học, v.v.. cán bộ, đảng viên đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt, lãnh đạo đã gương mẫu đi đầu, trở thành mực thước cho nhân dân noi theo. Những người con ưu tú đó của dân tộc và của Đảng đã thấm nhuần “tư cách người cách mạng”, nên “nhân dân ta và Đảng ta rất tự hào vì có những người con xứng đáng như thế”[4].

Tuy nhiên, trong những năm tháng cả nước cùng đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó, “tâm lý thời bình”, bệnh “ham danh lợi”, cùng những tệ nạn vốn là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân đã trở thành kẻ địch thứ ba luôn ẩn náu trong mỗi con người, là đồng minh của hai kẻ địch (chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù số một nguy hiểm; thói quen cố hữu là kẻ địch to thứ hai), đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng. Vì thế, trong tác phẩm này, Người nói: vì cá nhân chủ nghĩa mà không ít người mang trong mình những căn bệnh, những thói hư, tật xấu, “không lo mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”; “ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa”; “tham danh trục lợi”; “tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền”,“xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh” mà trở thành xa lạ với nhân dân; “không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu khó học tập để tiến bộ”[5] nên trở thành người “thoái bộ”. Họ không thích tự phê bình và phê bình, sợ mất thể diện trước quần chúng, nên phạm nhiều sai lầm, khuyết điểm.

Những tệ nạn nghiêm trọng này, một mặt, làm rạn nứt khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng, làm giảm đi nguồn sức mạnh của Đảng, tlàm mất đi tính tiền phong của đội ngũ cán bộ đảng viên và đe dọa sự tồn vong của một Đảng cầm quyền. Mặt khác, cho thấy nhiệm vụ cấp bách và thường xuyên “phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”[6] trên tinh thần “phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng” và “phải hoan nghênh khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên”. Không chỉ nhấn mạnh, coi tự phê bình và phê bình là phương thuốc đặc hiệu để chữa bệnh “cá nhân chủ nghĩa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đồng thời khẳng định rằng: tự phê bình và phê bình một cách chân thành trên cơ sở của tình đồng chí thương yêu lẫn nhau theo một “chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”[7] là những yêu cầu bắt buộc để một Đảng Mácxít luôn trong sạch, vững mạnh.

Luôn lo lắng và quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, bận tâm và trăn trở về nhiệm vụ trọng yếu này, mùa xuân cuối cùng cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại một di huấn thiêng liêng cho toàn thể cán bộ, đảng viên của Đảng, đó là tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Hàm ý sâu sắc trong di huấn của Người là Đảng không chỉ thực hiện tuyên truyền về đạo đức cách mạng chung chung không thôi, mà Đảng thường xuyên “phải bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật” cho cán bộ, đảng viên nhất là đội ngũ lãnh đạo chủ chốt. Vì rằng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, Đảng không chỉ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng bằng đường lối, chủ trương đúng, Đảng còn lãnh đạo cách mạng bằng sự mực thước và nêu gương của đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng. Cho nên, trong mọi hoàn cảnh, thì, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, hướng lòng mình đến chí công vô tư là “một cách tốt nhất để xây dựng Đảng”, thiết thực làm cho Đảng xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc.

2. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: vì sa vào chủ nghĩa cá nhân nên một số cán bộ, đảng viên đã thoái hóa, biến chất, kéo bè kéo cánh, vi phạm kỷ luật Đảng,v.v.. gây mất đoàn kết trong Đảng, từ đó làm giảm sút niềm tin của nhân dân với Đảng. Và 43 năm sau khi Người viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, tình trạng “cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ…” đã ngày càng trở nên trầm trọng.

Nhất là khi “công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”; khi “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”, thì rất kịp thời và “đặc hiệu”,Nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã ra đời vào mùa xuân năm 2012.

Từ những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong tác phẩm này và từ nội dung của Nghị quyết cho thấy, trong bối cảnh mới, những vấn đề quan trọng: “Học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, chỉnh đốn tổ chức – là những việc cần kíp của Đảng”[8] càng trở nên có ý nghĩa thời sự. Theo đó, để Nghị quyết số 12 đi vào cuộc sống, thì một nhiệm vụ vừa xuyên suốt và cấp bách cần phải thực hiện là phải “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng”.

Để Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy được sức mạnh nội lực của trí tuệ và đạo đức, ngày một trưởng thành và vững mạnh, hoàn thành nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó; để cán bộ, đảng viên thực sự là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân thì mỗi người phải không ngừng học tập, thực hiện việc rèn luyện theo 4 nguyên tắc đạo đức cách mạng, làm theo tấm gương của Bác Hồ – tấm gương của một người luôn xa lạ với mọi thứ chủ nghĩa cá nhân. Đó là, cùng với việc phải luôn Nói đi đôi với làm, “cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”[9]; “đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”, cán bộ, đảng viên- nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt phải thấm nhuần, thực hiện sự Nêu gương về đạo đức.  một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền, nên “lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng”. Trong quá trình triển khai thực hiện, chú trọng giải pháp Xây đi đôi với chống, kết hợp giữa Xây và chống, để đồng thời với việc xây dựng và thực hiện những chuẩn mực đạo đức cách mạng là việc kiên quyết phòng chống và đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, nhằm vừa nhân rộng cái tốt, vừa phê phán, loại bỏ dần cái xấu. Và để mỗi người thật “ít lòng ham muốn về vật chất”, thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, đời tư trong sáng, thì nhất định Phải tu dưỡng suốt đời. Vì nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, có đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Làm tốt theo 4 nguyên tắc Người từng chỉ rõ này và “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh” theo tinh thần của Nghị quyết số 12, trong toàn Đảng phải thực hiện nghiêm túc “nguyên tắc tập trung dân chủ” để Đảng ta luôn thống nhất trong tư tưởng, ý chí và hành động; phải nghiêm khắc và chân thành “tự phê bình và phê bình” – “cốt để đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Quan trọng nhất, cần thiết nhất, phải làm thật tốt, thật hiệu quả “công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống” của cán bộ, đảng viên nói chung và “nêu gương những việc làm đúng, gương người tốt” của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt nói riêng, để “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, thì nhất định sẽ góp phần ngăn chặn và xóa đi “môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển”; để mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần “công bình, chính trực” khi thực hiện chức trách người “công bộc” của nhân dân; gần gũi, lắng nghe và gắn bó mật thiết hơn với nhân dân – “xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”./.

TS. Văn Thị Thanh Mai

[1] Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb.KHXH, H,1990, tr.120.

[2] Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, H,1971, , t.III, tr.90

[3], [4], [5], [6], [7], [9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1996, t.12, tr.438, 438, 438-439, 439,439 439,

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 6, tr.167

Theo Tạp chí tuyên giáo, Thứ Tư 01/2/2012

Nguyễn Ái Quốc và con đường đi đến thắng lợi của Đảng

Tháng 212

Nguyễn Ái Quốc, ra nước ngoài chỉ với hai bàn tay trắng cùng tinh thần yêu nước, thương dân và với một trí tuệ thiên tài, một nghị lực phi thường, một ý chí quyết tâm tìm ra con đường cứu nước, cứu dân.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam chìm đắm trong “đêm trường nô lệ”, nhân dân Việt Nam sống rên xiết dưới gót giày của quân xâm lược. Một số phong trào yêu nước của các sĩ phu phong kiến thức thời và trí thức Tây học diễn ra mạnh mẽ nhưng đều thất bại. Sự thất bại này là do thiếu đường lối cứu nước khoa học và cách mạng nên không phát huy được nội lực, ý chí độc lập, khát vọng tự do của dân tộc.

Trong bối cảnh lịch sử ấy, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết định đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn cho nhân dân Việt Nam.

Khi học ở Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành tiếp cận lịch sử, văn hóa, văn minh phương Tây, quan tâm tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản diễn ra ở Hà Lan, Anh, Mỹ và nhất là cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789. “Tự do – bình đẳng – bác ái” là những ngôn từ đẹp đẽ và cũng là khát vọng đặc biệt hấp dẫn đối với Người. Đó là quyền sống chân chính của mỗi dân tộc, mỗi con người nhưng sao các nước văn minh phương Tây lại xâm chiếm và nô dịch phương Đông qua chiêu bài khai hóa văn minh? Với nhãn quan chính trị sắc bén vượt thời đại, Nguyễn Tất Thành quyết định ra nước ngoài – sang phương Tây, nước Pháp – nơi mở đầu cuộc cách mạng tư sản điển hình, lại là nước đang cai trị Việt Nam để tìm hiểu.

Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba, nhận làm phụ bếp trên con tàu A-mi-ran La-tu-sơ Tơ-rê-vin của hãng Năm Sao rời cảng Nhà Rồng đi Mác-xây (Pháp). Hơn mười năm sau, chính Nguyễn Tất Thành với tên mới là Nguyễn Ái Quốc đã trả lời nhà báo, nhà thơ Nga Ô-xip Man-den-stam rằng: Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ “Tự do – bình đẳng – bác ái”. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi.

Chuyến đi lịch sử của Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây khác xa với các vị tiền bối. Cụ Phan Bội Châu ra nước ngoài với 3.000 đồng do Duy Tân hội quyên góp. Cụ Phan Châu Trinh đến Pháp bằng chiếc vé mời của Hội Nhân quyền Pháp. Với Nguyễn Ái Quốc, ra nước ngoài chỉ với hai bàn tay trắng cùng tinh thần yêu nước, thương dân và với một trí tuệ thiên tài, một nghị lực phi thường, một ý chí quyết tâm tìm ra con đường cứu nước, cứu dân.

Bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu những cuộc cách mạng thế giới đã giành thắng lợi như cách mạng tư sản Mỹ năm 1776, cách mạng nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789 và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở những nước này nhưng thấy không thể đi theo cách làm của họ. Bởi vì, theo Người: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”(1).

Năm 1917, Người trở lại Pháp tham gia phong trào công nhân Pháp. Tháng 11 năm đó, diễn ra một sự kiện rung chuyển thế giới, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử xã hội loài người: Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi, đưa học thuyết cách mạng của C.Mác từ sách vở trở thành hiện thực đầu tiên, đưa cách mạng thế giới bước sang thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Ba năm sau, tại Thủ đô Pa-ri diễn ra cuộc gặp lịch sử giữa Nguyễn Ái Quốc và Chủ nghĩa Mác-Lênin qua Bản Sơ thảo lần thứ nhất “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng xã hội Pháp. Luận cương của V.I.Lênin đã chỉ ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc, nên “Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”(2).

Giữa năm 1923, Người rời Pháp sang Liên Xô. Ở đây, Người tiếp thu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm hiểu kinh nghiệm cuộc Cách mạng Tháng Mười và tham gia vào Quốc tế Cộng sản. Trong cuốn sách Đường Kách mệnh, Người viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(3). “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(4). Và “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức”(5).

Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Nga Xô viết trở về Quảng Châu – Trung Quốc trên cương vị và nhiệm vụ mới: phiên dịch cho đồng chí Bô-rô-din – cố vấn Liên Xô bên cạnh Chính phủ Quốc dân đảng, vừa phụ trách mục tuyên truyền của tờ báo Ca-non Ga-zet-te bằng tiếng Anh của Trung ương Quốc dân đảng. Về gần Tổ quốc là điều kiện thuận lợi để Người truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Người tiếp xúc với những thanh niên yêu nước hăng hái nhất trong nhóm Tâm tâm xã như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong… Trên cơ sở đó, tháng 5-1925, Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên – tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí Trung Quốc, Hội bí mật đưa một số thanh niên trong nước sang Quảng Châu tham gia các lớp học chính trị; ra tờ báo Thanh niên in bằng giấy sáp, bí mật gửi về nước để truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào đấu tranh của công nhân và quần chúng nhân dân. Qua đó, Người tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập một đảng mác-xít ở Việt Nam.

Cuối năm 1929, đầu năm 1930, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời ở Việt Nam đã khẳng định bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng Việt Nam. Song một nước có ba tổ chức cộng sản cùng hoạt động sẽ không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thống nhất về tư tưởng và hành động. Trước yêu cầu lịch sử đặt ra, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam – Hội nghị từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930 tại Hương Cảng – Trung Quốc.

Hội nghị thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Cương lĩnh đã chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi chủ nghĩa thực dân Pháp và phong kiến tay sai, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại. “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình”(6).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, liên tiếp giành nhiều thắng lợi.

Năm 1939, đại chiến thế giới II bùng nổ, quân Pháp đầu hàng phát-xít Nhật. Chúng cấu kết chặt chẽ với nhau đàn áp phong trào cách mạng và tăng cường bóc lột nhân dân thuộc địa, làm cho nhân dân Việt Nam “một cổ hai tròng”. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương… liên tiếp diễn ra nhưng bị dìm trong bể máu, nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng và hàng ngàn quần chúng ưu tú đã bị bắt, giết hại và tù đày…

Được sự nhất trí của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc rời Mát-xcơ-va với nhiệm vụ đến Trung Quốc để công tác trong Đảng Cộng sản Đông Dương.

Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về tới cột mốc 108 trên biên giới Việt – Trung (thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng). Sau một thời gian khảo sát, nghiên cứu, đánh giá đặc điểm tình hình, từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, tại Khuổi Nậm-Pác Bó-Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Hội nghị đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”. Vì vậy “bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”(7). Đây là sự chuyển hướng quan trọng nhất về chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng, đồng thời đáp ứng đòi hỏi, nguyện vọng của nhân dân là giành độc lập dân tộc, thoát khỏi ách nô lệ. Tư tưởng này không những khắc phục quan điểm không đúng về đấu tranh giai cấp, mà còn tạo điều kiện cho tư tưởng giải phóng dân tộc của Bác tiếp tục phát triển, đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.

Sự ra đời của Mặt trận Việt Minh – một chủ trương mang tính chiến lược, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhằm đoàn kết hết thảy các lực lượng yêu nước trong một mặt trận để cứu nước, giải phóng dân tộc. Ở Lào cũng thành lập mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh và Cam-pu-chia thành lập mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh… thể hiện rõ nét chính sách “dân tộc tự quyết”, hợp với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, giai cấp, các dân tộc Đông Dương, hợp với cuộc đấu tranh chung của toàn thế giới chống phát-xít xâm lược, bảo đảm cho cách mạng Đông Dương thành công.

Trước sự biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới và trong nước, bên cạnh việc dự báo thời cơ khởi nghĩa, Đảng và Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã đưa ra một sách lược cần kíp là chuẩn bị lực lượng và đưa Đảng vào hoạt động bí mật. Bên cạnh Mặt trận Việt Minh, các đội Cứu quốc quân I, II, III, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời. Dù non trẻ, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng đã liên tiếp đánh thắng hai trận Phai Khắt và Nà Ngần. Cùng với chiến thắng đó, những thắng lợi của Cứu quốc quân, các đội du kích, tự vệ ở các địa phương đã góp phần củng cố, mở rộng khu căn cứ cách mạng Cao-Bắc-Lạng, Thái-Hà-Tuyên và động viên toàn dân đẩy mạnh phong trào đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.

Chiến tranh thế giới II bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 9-5-1945, phát-xít Đức đầu hàng đồng minh. Đêm 13-8-1945, ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 – hiệu triệu toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(8). Lúc này Bác đang ốm nặng. Ở lán Nà Lừa đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: Dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, cả dân tộc muôn người như một vùng lên “chớp thời cơ ngàn năm có một” giành chính quyền về tay mình.

Ngày 15-8-1945, phát-xít Nhật đầu hàng đồng minh. Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, Thừa Thiên Huế giành được chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng. Ngày 25-8, nhân dân Sài Gòn-Gia Định giành được chính quyền… Hành động vùng dậy “lay trời chuyển đất” của hàng triệu quần chúng, tạo nên một ưu thế áp đảo, giáng một đòn quyết định vào tất cả cơ quan đầu não của bọn việt gian, làm tê liệt mọi sự kháng cự của các thế lực thù địch, chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra trang sử mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thắng lợi đầu tiên của một nước thuộc địa nửa phong kiến do đảng cộng sản lãnh đạo, là thắng lợi của đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi này đã tạo ra thế và lực mới, quyết định tiến trình đi lên của dân tộc Việt Nam; là nền tảng vững chắc đoàn kết, huy động sức mạnh của cả nước đồng lòng chung sức làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; anh dũng kiên cường, bền bỉ đấu tranh hơn hai thập kỷ, quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam vào mùa xuân năm 1975, thu non sông về một mối, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

______

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 2, tr.274. (2) Sđd, tập 10, tr.127. (3) Sđd, tập 2, tr.268. (4) Sđd, tập 9, tr.314. (5) Sđd, tập 10, tr.128. (6) Sđd, tập 10, tr.9. (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, NXBCTQG, H.2000, tr.55, tr.536. (8) Sđd, tập 3, tr.554.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: