Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Câu hỏi ôn tập luật HSQT

Câu hỏi ôn tập luật HSQT

1.                  Khái niệm và sự hình thành của luật hình sự quốc tế?

Khái niệm: Luật hình sự quốc tế là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp lý quốc tế điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của cộng đồng quốc tế

Lịch sử hình thành: - Sau WW2, áp dụng các nguyên tắc và quy phạm của luật hsqt; sự ra đời của các tòa án hình sự quốc tế; trong khuôn khổ hoạt động của LHQ, thuật ngữ luật hsqt đã đc ghi nhận trong tài liệu làm việc của Ủy ban luật QT của Đại hội đồng LHQ; phát triển khi xuất hiện các chế định dẫn độ tội phạm, thẩm quyền tài phán, chế định liên quan đến loại hinh tội phạm iuris gentium…

2.                  Đặc điểm của luật luật hình sự quốc tế?

- Luật hình sự quốc tế là một lĩnh vực của Luật quốc tế hiện đại nhằm bảo vệ những lợi ích chung, quan trọng của cộng đồng quốc tế thông qua việc quy định tội phạm, hình phạt và những thiết chế tư pháp quốc tế bảo đảm. Hệ thống pháp luật quốc tế điều chỉnh nhiều lĩnh vực của quan hệ giữa các chủ thể, trong đó luật hình sự quốc tế được xem là một lĩnh vực quan trọng bởi nó liên quan đến hòa bình và an ninh quốc tế, đến việc bảo đảm quyền con người....

- Luật hình sự quốc tế bao gồm các nguyên tắc, quy phạm xác định những hành vi nào đặc biệt  nguy hiểm cho các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế là những tội phạm quốc tế (hoặc những tội phạm có tính chất quốc tế), đồng thời quy định các biện pháp hình phạt và chế định pháp lý khác áp dụng đối với người phạm tội. Đây là đặc điểm quan trọng có tính xuất phát điểm để hình thành nên những nội dung khác của luật hình sự quốc tế.

- Luật hình sự quốc tế không chỉ bao gồm những quy định về tội phạm, hình phạt mà còn có những quy định về thủ tục giải quyết vụ án là hợp tác quốc tế trong việc đấu tranh, ngăn chặn đối với tội phạm quốc tế. Nói cách khác, phạm vi điều chỉnh của luật hình sự quốc tế bao gồm ba nội dung:

+ Luật nội dung: những quy định về tội phạm và hình phạt

+ Luật hình thức: trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với những tội phạm quốc tế.

+ Hợp tác quốc tế trong việc đấu tranh phòng ngừa đối với những tội phạm quốc tế.

Nhiều bộ phận nghiên cứu đều thống nhất cho rằng ba nội dung này là những phần không thể thiếu trong phạm vi điều chỉnh của luật hình sự quốc tế do đó tạo sự khác biệt khi so sánh với khái niệm luật hình sự quốc gia.

3.                  Các nguyên tắc của luật hình sự quốc tế?

-                      Nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế

-                      Nguyên tắc riêng biệt:

o        Theo nghị quyết LHQ nhấn mạnh các nt ghi nhận trong Quy chế tòa án Nurumbe: Cấm chiến tranh xâm lược; trừng phạt bằng hình luật các tội ác quốc tế; cá nhân không được miễn trách nhiệm hình sự đối với tội ác quốc tế; không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với tội ác quốc tế

o        Theo tuyên ngôn nhân quyền 1948 và Công ước 1966 về quyền dân sự chính trị: Hợp tác giữa các quốc gia trong đấu tranh chống tội phạm; phù hợp với plqt; bình đẳng trước pháp luật và tòa án; xét xử công khai; độc lập và công bằng của tòa án; nghiêm cấm tra tấn; hạn chế hoặc thủ tiêu án tử hình; đối xử nhân đạo đối với ng bị giam giữ

o        Năm 1973, LHQ thông qua nghị quyết về nguyên tắc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực truy tìm, bắt giữ, dẫn độ và trừng phạt các cá nhân phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại

4.                  Khái niệm và nguồn của luật hình sự quốc tế?

Khái niệm: Luật hình sự quốc tế là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp lý quốc tế điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của cộng đồng quốc tế

Nguồn: Các ĐƯQT, TQQT, nghị quyết của tổ chức quốc tế, phán quyết của Tòa án hình sự quốc tế, học thuyết của các học giả danh tiếng….

-                      Điều ước quốc tế

o        Hiệp ước London 1945: thành lập tòa án quân sự quốc tế Nurumbe xét xử các tội phạm chiến tranh đầu sở của Đức phát xít

o        Quy chế tòa án hình sự quốc tế 1998

o        Các ĐUQT chống khủng bố: CU Tokyo 1963; Lahay 1970 (hàng không); CU và NDT Rome 1998 (hàng hải); nhóm CU về biển 1958, CU Luật biển 1982; CU 1979 về ngăn chặn và trừng phạt tội phạm bắt cóc con tin, CU 1979 về bảo đảm an toàn hạt nhân, CU 1997 về trừng trị tội phạm khủng bố bằng bom

o        Các DUQT về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy: CU 1961 thống nhất về các chất ma túy; CU 1971 về các chất hướng thần; CU 1998 của LHQ về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần

o        CU Gionevo 1929 về chống tội phạm làm tiền giả; CU Palecmo về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia

o        DUQT về tương trợ tư pháp hình sự: Chủ yếu là song phương hoặc đa phương khu vực: CU Châu âu về tương trợ tư pháp 1959, CU CÂ 1957 về dẫn độ tội phạm, hiệp định tương trợ tư pháp Asean 2004.

-                      Tập quán quốc tế

Tập quán hoặc dẫn độ hoặc xét xử ; tập quán không ai có thể gánh chịu trách nhiệm hình sự hai lần đối với một hành vi phạm tội ; tập quán không có tội phạm nếu không có luật ; không có hình phạt nếu ko có luật

5.                  Mối quan hệ giữa luật hình sự quốc tếluật hình sự quốc gia trong đấu tranh chống chống tội phạm quốc tế?

 

Mối quan hệ giữa luật hình sự quốc tế với luật hình sự quốc gia là vấn đề chuyển hóa những quy phạm pháp luật hình sự quốc tế khi xây dựng pháp luật hình sự quốc gia là nội dung được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ giữa luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia là thực tế khách quan, không thể phủ nhận và nội dung của mối quan hệ này nằm trong khuôn khổ chung của mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Từ phương diện lịch sử hình thành và phát triển, hệ thống luật quốc tế xuất hiện muộn hơn hệ thống luật quốc gia. Luật hình sự quốc tế hình thành và phát triển dựa trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật, các định chế cũng như các quy phạm pháp luật của luật hình sự quốc gia. Tuy nhiên, khác với luật hình sự quốc gia,  luật hình sự quốc tế có tính chất tổng hợp, bao gồm các quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự cũng như những quy phạm về sự hợp tác quốc tế trong việc đấu tranh ngăn chặn tội phạm. Mối quan hệ giữa luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia là sự tác động tương hỗ hai chiều: Sự hình thành và phát triển của luật hình sự quốc tế chịu sự chi phối và tác động của luật hình sự quốc gia; Luật hình sự quốc tế tác động tới luật hình sự quốc gia bằng việc tạo dựng các nguyên tắc, định chế pháp luật mới trong luật quốc gia về hình sự và việc xây dựng các chuẩn mực quốc tế về hình sự là cơ sở, khuôn mẫu để xây dựng và phát triển luật hình sự quốc gia.

Xuất phát từ mối quan hệ này mà về nguyên tắc, các quốc gia có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp nhằm hài hòa hóa luật quốc gia với các nghĩa vụ pháp lý quốc tế mà họ tự nguyện cam kết thực hiện. Trong trường hợp có xung đột giữa các quy phạm của luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia nhìn chung, các quốc gia đều thể hiện quan điểm cho rằng, luật quốc tế có ưu thế hơn so với luật quốc gia thể hiện ở hai nội dung: Vai trò hàng đầu của luật quốc tế trong toàn bộ hệ thống pháp luật; Nghĩa vụ của các quốc gia phải tuân thủ luật quốc tế trong các quan hệ quốc tế của mình, mà không phải các nguyên cớ kích hoạt khác như: quân sự, kinh tế hoặc các quyền lợi và lợi ích thuần túy quốc gia bất kỳ nào khác.

 

6.                  Tội ác quốc tế?

 

Theo Uỷ ban luật quốc tế, Tội ác quốc tế được xác định là các hành động chống lại luật pháp quốc tế, phát sinh do hành vi vi phạm nghĩa vụ của quốc gia, xâm hại nghiêm trọng đến hoà bình và an ninh quốc tế. Theo khoản 1 Điều 5 Quy chế Rome, Tòa án hình sự quốc tế (ICC) có quyền tài phán đối với các tội phạm nghiêm trọng nhất gây lo ngại cho toàn thể cộng đồng quốc tế (tức tội ác quốc tế).

Tội ác quốc tế bao gồm tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội ác chiến tranh và tội xâm lược. 

-                      Tội diệt chủng: Quy chế Rome đã kế thừa những nội dung của định nghĩa “tội giết chủng” của Công ước quốc tế về ngăn ngừa tội phạm diệt chủng năm 1948, theo đó tội diệt chủng có những đặc điểm: thực hiện một hoặc nhiều hành vi nguy hiểm; đối tượng hướng tới nhằm vào một nhóm dân tộc, sắc tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo; có ý định hủy diệt toàn bộ hay một phần nhóm người

-                      Tội chống nhân loại: Có hành vi tấn công (ví dụ, tàn sát) có quy mô lớn và có hệ thống; hành vi đó trực tiếp chống lại một cộng đồng dân cư-dân thường; hành vi được thực hiện theo chính sách của nhà nước hoặc tổ chức. Có thể thực hiện trong cả thời bình lẫn thời chiến

-                      Tội ác chiến chanh:

o        Nhóm 1: Những hành vi vi phạm nghiêm trọng các Công ước Giơnevơ 1949 áp dụng cho các cuộc xung đột vũ trang mang tính quốc tế với điều kiện được thực hiện như một phần trong một kế hoạch hoặc chính sách hoặc như một phần của tội phạm này được thực hiện trên quy mô lớn

o        Nhóm 2: Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật pháp và tập quán được áp dụng trong xung đột vũ trang có tính chất quốc tế (điểm b khoản 2 Điều 8). Ở nhóm này, các hành vi chủ yếu bắt nguồn từ Công ước La Hay 1907; Nghị định thư bổ sung I các Công ước Giơnevơ năm 1977. Tuy nhiên, Quy chế Rome cũng quy định một số điểm mới đó là thừa nhận các hành vi vi phạm về giới tính, tình dục, cưỡng bức nhập ngũ, tuyển mộ trẻ em dưới 15 tuổi vào quân ngũ và tấn công nhân viên làm công tác nhân đạo là tội ác chiến tranh.

o        Nhóm 3: Những hành vi vi phạm nghiêm trọng Điều 3 chung của các Công ước Giơnevơ ngày 12/8/1949 trong trường hợp xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào được thực hiện nhằm vào những người không tham gia tích cực vào chiến sự, kể cả các binh sĩ đã hạ vũ khí và những người đã bị loại khỏi vòng chiến đấu do bị ốm, bị thương, bị giam giữ hay vì bất kỳ lý do nào khác

o        Nhóm 4: Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật và tập quán áp dụng trong xung đột vũ trang không mang tính quốc tế, trong khuôn khổ pháp luật quốc tế. Cần lưu ý một điểm là những tội phạm này chỉ có thể xảy ra khi có xung đột vũ trang diễn ra trên lãnh thổ của một quốc gia giữa quân đội của quốc gia đó với các nhóm vũ trang có tổ chức hoặc giữa các nhóm này với nhau

-                      Tội xâm lược: “vạch kế hoạch, chuẩn bị, khởi xướng hoặc thừa hành bởi một người thực sự có quyền kiểm soát, hoặc ra lệnh tiến hành hành động chính trị hoặc quân sự của một nước, một hành động xâm lược mà theo tính chất nghiêm trọng và quy mô vi phạm rõ ràng Hiến chương Liên hợp quốc”

 

7.                  Tội phạm xuyên quốc gia?

Theo Công ước quốc tế của Liên hiệp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia thông qua ngày 15 tháng 12 năm 2000 tại Palermo, Italia có nêu: “Một tội phạm xuyên quốc gia, nếu: Tội phạm đó được thực hiện ở nhiều quốc gia; Tội phạm đó diễn ra ở một quốc gia, nhưng phần chủ yếu của việc chuẩn bị, kế hoạch, chỉ đạo và điều khiển diễn ra ở một quốc gia khác; Tội phạm đó diễn ra ở một quốc gia nhưng có liên quan đến một nhóm tội phạm có tổ chức mà đã tham gia vào các hoạt động phạm pháp ở một quốc gia khác; hoặc tội phạm diễn ra ở một quốc gia này nhưng có ảnh hưởng sâu rộng đến một quốc gia khác”.

Tội phạm có tính chất quốc tế là nhóm tội phạm có mức độ nguy hiểm không bằng tội ác quốc tế, mặc dù được thực hiện nhằm xâm phạm trật tự pháp luật quốc gia cũng như xâm hại đến quyền lợi của cộng đồng quốc tế. Trong một số tài liệu khoa học, tội phạm này còn được gọi là tội phạm điều ước quốc tế. Thực tiễn quốc tế đã khẳng định, hợp tác quốc tế đấu tranh chống tội phạm có tính chất quốc tế đã được thực thi thành công ở những mức độ nhất định, trong khuôn khổ các điều ước quốc tế đa phương. Thuộc nhóm này là cướp biển, khủng bố quốc tế, tội phạm làm tiền giả, tội buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần, tội buôn bán nô lệ, tội buôn bán phụ nữ và trẻ em… Tội phạm có tính chất quốc tế mang lại thiệt hại to lớn cho quan hệ quốc tế và liên quan đến các quốc gia.

Về bản chất pháp lý, tội phạm có tính chất quốc tế cũng là tội phạm hình sự chung nhưng chứa đựng yếu tố nước ngoài. Tội phạm có tính quốc tế ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng hơn khi trong việc thực hiện tội phạm, người phạm tội sử dụng các biện pháp khoa học – kỹ thuật hiện đại làm tăng tính nguy hiểm của các loại tội phạm này. Đặc điểm của tội phạm có tính chất quốc tế bao gồm:

- Đây là tội phạm nhìn chung được thực hiện trên lãnh thổ của một vài quốc gia hoặc trên lãnh thổ không thuộc thẩm quyền tài phán của quốc gia bất kỳ nào;

- Tội phạm có chứa đựng yếu tố nước người (chủ thể tội phạm có quốc tịch khác nhau, khách thể của tội phạm là lợi ích của các quốc gia khác nhau bị câm phạm, sự kiện phạm tội xảy ra ở nước ngoài…)

- Cuộc đấu tranh chống tội phạm có tính chất quốc tế không thể có kết quả nếu không sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế.

8.                  Phân biệt tội phạm xuyên quốc gia với tội phạm quốc tế?

Về tội phạm có tính quốc tế trong luật hình sự quốc tế, các nhà luật học đã phân biệt các tội phạm quốc tế nói trên với các tội phạm xâm phạm trật tự pháp luật quốc tế, hay còn gọi là các tội phạm có tính quốc tế (Tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài). Các tội phạm có tính quốc tế, tuy có xâm hại hòa bình và an ninh quốc tế, nhưng về mức độ nguy hiểm, không đến mức gây nguy hại cho toàn thể cộng đồng quốc tế. Chủ thể của tội phạm có tính quốc tế là thể nhân, pháp nhân, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự không nhất thiết phải đủ 18 tuổi như đối với tội phạm quốc tế, điều này do các công ước quốc tế liên quan có qui định.

Từ góc độ này, có thể hiểu tội phạm có tính quốc tế là những hành vi nguy hiểm mà các công ước quốc tế thừa nhận, xâm phạm trật tự pháp luật quốc tế.

9.                  Phân loại tội phạm hình sự có tính chất quốc tế?

Tội phạm có tính quốc tế là những hành vi nguy hiểm mà các công ước quốc tế thừa nhận, xâm phạm trật tự pháp luật quốc tế.

Tội phạm có tính quốc tế gồm bốn nhóm sau:

Nhóm thứ nhất: Các tội xâm phạm tội hợp tác hữu nghị và sự tồn tại bình thường của các quan hệ quốc tế, bao gồm tội khủng bố, tội cướp máy bay, phương tiện giao thông khác…

Nhóm thứ hai: Các tội xâm hại môi trường sống của con người, di sản văn hóa của dân tộc trên thế giới như buôn lậu, buôn bán trái phép chất ma túy, làm và buôn bán tiền giả…

Nhóm thứ ba: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người, tội cướp biển, tội tuyên truyền các xuất bản phẩm đồi trụy…

Nhóm thứ tư: Các tội phạm có tính quốc tế khác như phá hoại các công trình ngầm dưới biển, các tội phạm được thực hiện trên máy bay, tàu thủy..

10.              Hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong đấu tranh chống tội phạm hình sự quốc tế?

Hợp tác quốc tế đấu tranh chống tội phạm bao gồm toàn bộ các hoạt động cần thiết của thành viên cộng đồng quốc tế nhằm ngăn ngừa, trừng trị, loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống quốc tế cũng như đời sống quốc gia. Hoạt động hợp tác quốc tế bao gồm các hành động cụ thể, được thực hiện trong nhiều lĩnh vực thuộc các hoạt động tư pháp, đó là:

- Phân định thẩm quyền xét xử của các quốc gia trong trường hợp phát sinh xung đột về thẩm quyền tài phán. Trong thực tiễn hợp tác quốc tế, vấn đề xung đột này thường liên quan nhiều nhất đến các tội phạm có tính chất quốc tế.

- Thỏa thuận thành lập tòa án quốc tế xét xử các tội phạm quốc tế (các cá nhân phạm tội) về tội diệt chủng, tội ác chiến tranh… Ví dụ như Tòa án quốc tế Nurumbe, Tòa án quân sự quốc tế Tokyo, Tòa án hình sự quốc tế về tội phạm diệt chủng ở Nam Tư cũ và Rwanda.

- Tương trợ tư pháp của các quốc gia trong các vụ việc hình sự, về các hoạt động có tính chất tư pháp như thẩm vấn kẻ phạm tội; chuyển giao tài liệu, giấy tờ; tập trung các vật chứng, lấy lời khai nhân chứng và các hoạt động điều tra khác; dẫn độ tội phạm và chuyển giao phạm nhân để thụ án tại quốc gia mà phạm nhân là công dân…

Sự xuất hiện của tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và tính quốc tế hóa đặc biệt của loại tội phạm này trong thời gian gần đây làm tăng lên yêu cầu phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm.

11.              Đấu tranh chống tội phạm hình sự có tính chất quốc tế trong phạm vi của các tổ chức quốc tế?

Liên hợp quốc

Theo Hiến chương của Liên Hiệp quốc, thì vấn đề hợp tác giữa các quốc gia trong đấu tranh chống tội phạm trực tiếp được thực hiện bởi một cơ quan trong số những cơ quan quan trọng của LHQ - đó là Hội đồng kinh tế và xã hội, nằm trong cấu trúc của Hội đồng này có Ủy ban về kiểm soát ma túy; Tiểu ban phòng chống ma túy và tội phạm; Ủy ban chuyên trách về chống tội phạm khủng bố quốc tế; Ủy ban về phòng ngừa tội phạm và xét xử hình sự. Tuy nhiên, giữ vai trò chủ đạo trong hợp tác quốc tế về đấu tranh chống tội phạm của LHQ chính là Ủy ban về phòng ngừa tội phạm và xét xử hình sự. Ủy ban này có nhiệm vụ nghiên cứu và trình lên Hội đồng kinh tế và xã hội những đề nghị, kiến nghị, phương hướng nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm và xử lý những người phạm tội. Ủy ban này có chức năng chuẩn bị cứ 5 năm một lần tổ chức Hội nghị về vấn đề phòng ngừa tội phạm và xử lý những người phạm tội ở cấp độ của LHQ.

Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL

Interpol hoạt động độc lập theo tôn chỉ tôn trọng chủ quyền các quốc gia thành viên, không can thiệp vào công việc nội bộ. Đối tượng điều tra chỉ là tội phạm hình sự. Lực lượng này không điều tra các vấn đề liên quan đến chính trị, tôn giáo, quân đội, kỳ thị chủng tộc...

INTERPOL không phải là một tổ chức cảnh sát thuần túy mà nhiều người thường hay hiểu lầm. Vì Interpol chỉ là một cơ quan đầu não chuyên về điều tra, theo dõi, cung cấp tư liệu liên quan đến tội phạm hình sự, khủng bố. Interpol không tham gia vào công việc bắt bớ hoặc can thiệp vũ trang. Các hoạt động đó đều do cơ quan cảnh sát địa phương của quốc gia có liên quan xử lý. Nhưng, Interpol có thể giúp đỡ các tổ chức cảnh sát địa phương trong việc theo dõi tiến trình hoạt động của các kẻ bị truy tầm và phát lệnh truy nã cho các quốc gia thành viên.

Công việc chính của Interpol là theo dõi, điều tra phát hiện các tội phạm như rửa tiền, buôn bán người, trẻ em, buôn bán ma tuý, vũ khí, chống tội phạm công nghệ cao, chống tội phạm có tổ chức, chống khủng bố... nhằm góp phần giữ gìn trật tự xã hội trên toàn cầu.

Hiệp hội cảnh sát các nước Đông Nam Á ASEANAPOL

Xuất phát từ quan điểm cơ bản, hoà bình và an ninh là điều kiện tấl yếu cho sự phát triển của mỗi nước và cả khu vực; an ninh của mỗi quốc gia gắn liền với an ninh chung của cả khu vực. Nhặn thức được tám quan trọng và vai trò to lớn của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, tính cấp bách, cán thiết của việc nâng cao hiệu quả đấu tranh chống các loại tội phạm. ASEAN đã thành lập một tổ chức hợp tác chuyên ngành, đó là Hiệp hội cảnh sát các nước ASEAN (Asean Chiefs of National Police - ASEANAPOL) vào năm 1981. Hàng năm, ASEANAPOL tiến hành hội nghị một lần luân phiên từ các nước thành viên. Mục tiêu của Hội nghị là nhằm tăng cường nghiệp vụ, thúc đẩy sự hợp tác khu vực trong đấu tranh với tội phạm và phát triển tình hữu nghị giữa cảnh sát các nước ASEAN.

12.              Trợ giúp pháp lý về các vụ án hình sự?

NGUYÊN TẮC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

Ngày 20/12/2012, Đại hội đồng Liên Hiệp quốc đã đưa ra tuyên bố mới nhất về nguyên tắc và những hướng dẫn về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự:

Nguyên tắc 1. Quyền được trợ giúp pháp lý

Thừa nhận rằng trợ giúp pháp lý là một thành tố cơ bản của một hệ thống tư pháp hình sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền, là cơ sở cho việc thụ hưởng các quyền khác, bao gồm quyền có phiên toà xét xử công bằng và là một sự bảo đảm quan trọng để bảo đảm sự công bằng cơ bản và niềm tin của công chúng đối với tiến bộ của hệ thống tư pháp hình sự, Nhà nước cần bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý trong hệ thống pháp luật quốc gia ở mức độ cao nhất có thể.

Nguyên tắc 2. Trách nhiệm của Nhà nước

Nhà nước cần coi trợ giúp pháp lý như trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, cần quan tâm đến việc ban hành các văn bản pháp luật cụ thể và các hướng dẫn để bảo đảm có một hệ thống trợ giúp pháp lý phù hợp để có thể tiếp cận, hiệu quả và đáng tin cậy. Nhà nước cần bố trí nguồn lực con người và tài chính cần thiết cho hệ thống trợ giúp pháp lý. Nhà nước không nên can thiệp các tổ chức bảo vệ cho người được trợ giúp pháp lý hoặc sự độc lập của người thực hiện trợ giúp pháp lý.

Nhà nước cần tăng cường nhận thức của người dân về quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật theo những phương thức phù hợp để ngăn chặn việc vi phạm pháp luật hình sự và trở thành nạn nhân.

Nhà nước cần nỗ lực để nâng cao nhận thức của cộng đồng về hệ thống tư pháp và chức năng của nó, các kiến nghị trước toà và cơ chế giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thay thế.

Nhà nước cần quan tâm đến việc thông qua những biện pháp phù hợp để thông báo cho cộng đồng về những hành vi vi phạm luật hình sự theo quy định của pháp luật. Việc cung cấp những thông tin như vậy cho những người đến các cơ quan tư pháp khác là một biện pháp phòng ngừa tội phạm cốt yếu.

Nguyên tắc 3. Trợ giúp pháp lý cho những người bị tình nghi hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự

Nhà nước cần bảo đảm tất cả những người bị bắt, bị giam giữ, bị tình nghi hoặc vi phạm luật hình sự bị tù có thời hạn hoặc bị kết án tử hình đều có quyền được trợ giúp pháp lý ở tất cả các giai đoạn của tư pháp hình sự.

    Trợ giúp pháp lý cần được cung cấp mà không tính đến các điều kiện của một người nếu như lợi ích công lý đòi hỏi, chẳng hạn trong trường hợp khẩn cấp hoặc tính chất phức tạp của vụ việc hoặc tính nghiêm trọng của hình phạt có thể áp dụng. Trẻ em cần được tiếp cận trợ giúp pháp lý với những điều kiện tương tự hoặc tốt hơn những điều kiện dành cho người lớn.

Cảnh sát, công tố viên và thẩm phán cho trách nhiệm bảo đảm rằng những người xuất hiện trước họ mà không có đủ khả năng thuê luật sư và/hoặc yếu thế thì được tiếp cận trợ giúp pháp lý.

Nguyên tắc 4. Trợ giúp pháp lý cho nạn nhân của tội phạm

Nhà nước cần trợ giúp pháp lý cho nạn nhân của tội phạm khi thích hợp.

Nguyên tắc 5. Tợ giúp pháp lý cho nhân chứng

Nhà nước cần trợ giúp pháp lý cho người làm chứng khi thích hợp.

Nguyên tắc 6. Không phân biệt đối xử

Nhà nước cần bảo đảm trợ giúp pháp lý cho tất cả mọi người, không phân biệt độ tuổi, chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc tín ngưỡng, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội hoặc tài sản, tư cách công dân hoặc nguồn gốc, trình độ giáo dục hoặc các tình trạng khác.

Nguyên tắc 7. Trợ giúp pháp lý phù hợp và có hiệu quả

Nhà nước cần bảo đảm cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý có hiệu quả và phù hợp ở tất cả các giai đoạn của tiến trình tư pháp hình sự.

Trợ giúp pháp lý hiệu quả bao gồm tiếp cận công khai với người thực hiện trợ giúp pháp lý của người bị giam giữ, giao tiếp riêng tư, tiếp cận với hồ sơ vụ án và có đủ thời gian, điều kiện thích hợp chuẩn bị cho việc bảo vệ.

Nguyên tắc 8. Quyền được thông báo

Nhà nước cần bảo đảm rằng trước bất kỳ cuộc thẩm vấn nào và vào bất kỳ thời điểm nào bị tước quyền tự do, mọi người có quyền được thông báo về quyền được trợ giúp pháp lý của họ và những biện pháp bảo vệ mang tính thủ tục khác cũng như hậu quả có thể xảy ra của việc tình nguyện từ bỏ các quyền đó.

Nhà nước nên bảo đảm rằng công chúng cần được tiếp cận thông tin miễn phí về quyền của mình trong tiến trình tư pháp hình sự và về dịch vụ trợ giúp pháp lý.

Nguyên tắc 9. Các biện pháp thay thế và bảo vệ

Nhà nước nên thiết lập các biện pháp thay thế và bảo vệ để có thể áp dụng khi việc tiếp cận trợ giúp pháp lý không thích hợp, bị trì hoãn hoặc bị từ chối hoặc một người không được thông tin phù hợp về quyền được trợ giúp pháp lý.

Nguyên tắc 10. Công bằng khi tiếp cận trợ giúp pháp lý

Các biện pháp đặc biệt nên được áp dụng để bảo đảm tiếp cận trợ giúp pháp lý có ý nghĩa đối với phụ nữ, trẻ em và nhóm người có nhu cầu đặc biệt, bao gồm người già, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người có nhược điểm về tinh thần, người nhiễm HIV và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác, người sử dụng ma túy, người bản địa, thổ dân và người không quốc tịch, người lánh nạn, công dân nước ngoài, người nhận cư và lao động nhập cư, người tỵ nạn. Những biện pháp này nên giải quyết những nhu cầu đặc biệt của những nhóm đối tượng này, bao gồm các biện pháp có sự nhạy cảm giới và phù hợp với lứa tuổi.

Nhà nước nên bảo đảm trợ giúp pháp lý được cung cấp cho những người sống ở nông thôn, vùng xa xôi có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và những người là thành viên của các nhóm bị bất lợi về kinh tế và xã hội.

Nguyên tắc 11. Trợ giúp pháp lý trong quyền lợi tốt nhất của đứa trẻ

Trong tất cả các quyết định về trợ giúp pháp lý ảnh hưởng đến trẻ em thì quyền lợi tốt nhất của trẻ em cần được cân nhắc đầu tiên.

Trợ giúp pháp lý cho trẻ em cần được ưu tiên vì quyền lợi tốt nhất của trẻ, có thể tiếp cận, phù hợp với lứa tuổi, có tính kỷ luật, hiệu quả và đáp ứng những nhu cầu pháp lý và xã hội của trẻ em.

Nguyên tắc 12. Sự độc lập và bảo vệ của người thực hiện trợ giúp pháp lý

Nhà nước nên bảo đảm tất cả người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể thực hiện nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả, tự do và độc lập. Cụ thể, Nhà nước nên bảo đảm để người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể thực hiện nhiệm vụ chuyên môn mà không bị đe dọa, cản trở, làm phiền hoặc can thiệp trái phép; có thể đi lại, tham vấn hoặc gặp gỡ khách hàng một cách tự do và hoàn toàn riêng tư cả trong và ngoài nước, tự do tiếp cận hồ sơ buộc tội và các hồ sơ liên quan; không bị đe dọa buộc tội hoặc biện pháp xử phạt hành chính hay kinh tế vì thực hiện những công việc phù với chức năng nhiệm vụ, tiêu chuẩn và đạo đức nghề nghiệp.

Nguyên tắc 13. Thẩm quyền và trách nhiệm giải trình của những người thực hiện trợ giúp pháp lý.

Nhà nước nên có cơ chế bảo đảm người thực hiện trợ giúp pháp lý phải được đào tạo, tập huấn, kỹ năng và kinh nghiệm để đáp ứng được yêu cầu công việc.

Các khiếu nại đối với người thực hiện trợ giúp pháp lý phải được điều tra theo đúng quy định và theo đúng tiêu chuẩn đạo đức, nghề nghiệp trước khi khởi kiện tại Tòa án.

Nguyên tắc 14. Quan hệ đối tác

Nhà nước nên thừa nhận và khuyến khích sự đóng góp của Hiệp hội luật sư, trường đại học, xã hội dân sự và các tổ chức khác tham gia trợ giúp pháp lý.

Khi thấy phù hợp, các hình thức đối tác công - tư nên được thiết lập để mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý.

13.              Khủng bố và khủng bố quốc tế?

Khủng bố là hành vi gây thiệt hại (hoặc đe doạ gây thiệt hại) nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người dân và các mục tiêu dân sự khác gây hoảng loạn trong cộng đồng dân cư nhằm đạt được mục đích chính trị (ép buộc Chính phủ, tổ chức, cá nhân hành động hoặc không được thực hiện hành động nào đó; vì lý do tôn giáo; tư tưởng…) do các cá nhân hoặc tổ chức thực hiện, trái với pháp luật hình sự quốc gia và pháp luật quốc tế.

“Khủng bố quốc tế là khủng bố nhằm vào cá nhân, tổ chức hoặc mục tiêu được pháp luật quốc tế bảo vệ: giết người đứng đầu nhà nước, Chính phủ, đại diện ngoại giao và các đại diện khác, phá hủy tấn công đại sứ quan, trụ sở của phái đoàn đại diện của các tổ chức giải phóng dân tộc, các tổ chức quốc tế; phá hoại hệ thống giao thông quốc tế… với mục đích gây sức ép đối với chính sách đối nội, đối ngoại của các quốc gia”.

Đặc điểm của hoạt động khủng bố quốc tế

-                      Hoạt động khủng bố thường nhắm đến mục tiêu là cộng đồng dân cư với mục đích gieo rắc sự sợ hãi, nỗi kinh hoàng trong một bộ phận nhân dân. Những kẻ khủng bố muốn thông qua các hành động đó để gây ra ảnh hưởng xấu đến ổn định xã hội, đến phát triển kinh tế của quốc gia, qua đó thực hiện cho được mục đích chính trị của chúng.

-                      Hoạt động khủng bố quốc tế thường được thực hiện dưới nhiều hình thức, đó là những hành vi sử dụng bạo lực hoặc đe dọa sử dụng bạo lực; hành vi phá hoại, phá hủy hoặc đe dọa phá hoại, phá hủy… Việc sử dụng bạo lực đối với con người được thực hiện dưới nhiều hành vi như bắt cóc, giết người, hành hung, gây thương tích…Việc phá hủy, phá hoại các mục tiêu vật chất khác được thực hiện dưới hình thức như đặt bom mìn, gây nổ, thiêu hủy hoặc sử dụng các loại vũ khí hết sức nguy hiểm khác.

-                      Hoạt động khủng bố luôn gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng đối với một quốc gia hoặc một chính phủ.

Đặc điểm pháp lý của tội khủng bố

-                      Chủ thể của tội phạm khủng bố quốc tế: các cá nhân hoạt động dưới hình thức băng nhóm, tổ chức có kỷ luật chặt chẽ, có tôn chỉ mục đích, có thế lực vững mạnh và có quy mô toàn cầu hoặc khu vực. Hiện nay có một số quan điểm cho rằng chủ thể thực hiện hành vi khủng bố bao gồm cả quốc gia – nhà nước khủng bố, nhưng theo quan điểm của nhóm chúng tôi thì quốc gia không thể là chủ thể của tội phạm này.

-                      Khách thể của tội phạm khủng bố quốc tế: là các quan hệ xã hội được các điều ước quốc tế đa phương về ngăn ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế bảo vệ và bị tội phạm khủng bố quốc tế xâm hại. Tội phạm khủng bố xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội do vậy khách thể của tội phạm này rất đa dạng bao gồm: quyền, tự do cơ bản của con người, trật tự an toàn công cộng, hoà bình và an ninh quốc tế, mối quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia... Tuy xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội nhưng khách thể trực tiếp, thể hiện đầy đủ nhất tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khủng bố quốc tế chính là hoà bình và an ninh quốc tế.

-                      Mặt khách quan của tội phạm khủng bố quốc tế: là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm khủng bố quốc tế, diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.

Trong mặt khách quan của tội phạm khủng bố quốc tế, hành vi là biểu hiện cơ bản nhất. Hành vi khủng bố là có thể là các hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực hoặc hành vi không mang tính vũ lực như chống phá bằng công nghệ thông tin (tin tặc); làm ô nhiễm nguồn nước, phát tán mầm bệnh...

-                      Mặt chủ quan của tội phạm khủng bố quốc tế: tội phạm khủng bố quốc tế được thực hiện một cách cố ý trực tiếp, thủ phạm thực hiện các hành vi khủng bố này nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình, thấy trước hậu quả nghiêm trọng của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.

-                      Tính quốc tế của tội phạm khủng bố quốc tế: ở tội phạm khủng bố quốc tế, "tính quốc tế" là dấu hiệu đặc biệt quan trọng. "Tính quốc tế" của tội phạm khủng bố quốc tế được thể hiện ở nhiều yếu tố khác nhau: địa bàn hoạt động, chủ thể thực hiện, việc đấu tranh phòng, chống tội phạm khủng bố quốc tế…

14.              Vấn đề hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp?

Tương trợ tư pháp hình sự là một hình thức hợp tác quốc tế, theo đó các quốc gia thành viên tìm kiếm và cung cấp sự trợ giúp trong việc thu thập chứng cứ để xử dụng trong quá trình điều tra, truy tố xét xử các vụ án hình sự.

15.              Dẫn độ và trợ giúp pháp lý về hình sự ?

Khái niệm

Có rất nhiều quan điểm khác nhau trong các từ điển, tác phẩm nghiên cứu liên quan đến khái niệm dẫn độ tội phạm. Tuy nhiên, hầu hết các khái niệm đều cho rằng dẫn độ tội phạm là việc đưa một cá nhân trở lại quốc gia mà họ đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của quốc gia đó để xét xử hoặc thi hành bản án đã có hiệu lực.

Trên thực tế, đây là hoạt động hợp tác dựa trên sự thoả thuận giữa các quốc gia hữu quan nhằm đưa cá nhân đang hiện diện trên lãnh thổ của quốc gia được yêu cầu cho quốc gia yêu cầu để tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án đã có hiệu lực đối với cá nhân đó.

Khi xem xét khái niệm dẫn độ tội phạm, cũng cần phải đặt trong tương quan so sánh với một số thuật ngữ có liên khác như: trục xuất, chuyển giao, nhượng bộ, để làm rõ hơn khái niệm dẫn độ cũng như sử dụng các thuật ngữ theo đúng hoàn cảnh của nó.

Cơ sở pháp lý của dẫn độ tội phạm

Về cơ sở pháp lý của hoạt động dẫn độ: Các điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia hữu quan chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động dẫn độ. Vì việc tiến hành dẫn độ tội phạm là quyền của quốc gia trong quan hệ quốc tế trên cơ sở chủ quyền quốc gia, hoạt động này sẽ chỉ trở thành nghĩa vụ mà quốc gia phải thực hiện trên cơ sở các điều ước quốc tế được ký kết với các quốc gia khác.

Về nguồn của hoạt động dẫn độ tội phạm: Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, luật quốc gia chính là nguồn của hoạt động dẫn độ tội phạm.

Điều ước quốc tế điều chỉnh hoạt động dẫn độ tội phạm gồm điều ước quốc tế đa phương toàn cầu hoặc khu vực (Công ước châu Âu về dẫn độ năm 1957, Hiệp định mẫu về dẫn độ của Liên hợp quốc năm 1990, Hiệp ước dẫn độ giữa các quốc gia thành viên Cộng đồng Kinh tế Tây Phi năm 1994..); Các điều ước quốc tế song phương (Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa Hoa Kỳ và Pháp năm 1996, Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và Đại Hàn Dân Quốc năm 2003..)

Tập quán quốc tế có thể kể đến như: nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình, nguyên tắc có đi có lại..

Luật quốc gia bao gồm các văn bản pháp lý quốc gia điều chỉnh hoạt động hợp tác về dẫn độ tội phạm (thẩm quyền, trình tự, thủ tục...) của chính quốc gia trong quan hệ với quốc gia khác như: Luật dẫn độ năm 1999 của Canada, Đạo luật dẫn độ của Trung Quốc năm 2000…)

2.2.3. Các nguyên tắc pháp lý về dẫn độ tội phạm

Các nguyên tắc pháp lý về dẫn độ tội phạm là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có già trị bắt buộc đối với các chủ thể khi áp dụng chúng trong hoạt động dẫn độ.

a. Nguyên tắc có đi có lại

Đây là một trong những nguyên tắc rất phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống quốc tế. Nội dung của nguyên tắc có đi có lại đối với hoạt động dẫn độ tội phạm quy định rằng các quốc gia được yêu cầu dẫn độ chỉ tiến hành các hoạt động dẫn độ tội phạm, nếu nhận được sự bảo đảm chắc chắn từ phía quốc gia yêu cầu rằng trong trường hợp dẫn độ tương tự phát sinh thì quốc gia này cũng sẽ đảm bảo chắc chắn trong thực tế sẽ thực hiện dẫn độ tội phạm cho quốc gia đối tác hữu quan theo yêu cầu của quốc gia này

b. Nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình

Xuất phát từ chủ quyền quốc gia đối với dân cư và xuất phát từ việc nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo các quyền và lợi ích của công dân (cá nhân mang quốc tịch của quốc gia đó), thì nội dung nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình là quốc gia được yêu cầu dẫn độ có quyền từ chối không thực hiện yêu cầu dẫn độ của quốc gia khác, nếu cá nhân bị yêu cầu dẫn độ là công dân nước mình (người mang quốc tịch của quốc gia được yêu cầu).

c. Nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị

Đây là một trong những nguyên tắc gây ra khá nhiều tranh cãi về việc áp dụng nguyên tắc này trong thực tế quan hệ giữa các quốc gia. Nội dung của nguyên tắc này là quốc gia được yêu cầu có thể từ chối yêu cầu dẫn độ của quốc gia khác đối với các cá nhân mà quốc gia này cho rằng đã phạm các tội về chính trị (có lý do hoạt động và tư tưởng chính trị đối lập tại quốc gia yêu cầu). Việc lý giải được “tính chính trị” của các loại tội phạm này phụ thuộc vào quan điểm chính trị của chính quốc gia được yêu cầu.

d. Nguyên tắc định danh kép

Nguyên tắc này được coi là nguyên tắc quan trọng và không thể thiếu được của hoạt động dẫn độ tội phạm. Nội dung của nguyên tắc này hoạt động dẫn độ chỉ được tiến hành khi hành vi do cá nhân bị dẫn độ thực hiện được định danh là hành vi phạm tội theo quy định hiện hành của pháp luật cả hai quốc gia (quốc gia yêu cầu và quốc gia được yêu cầu dẫn độ), đồng thời hành vi phạm tội phải được định án ở mức trừng phạt cụ thể theo ý chí của các quốc gia hữu quan và được ghi nhận trong pháp luật nước mình, hoặc được các nước này thoả thuận nhất trí và được quy định trong các điều ước quốc tế giữa các quốc gia hữu quan.

2.2.4. Các trường hợp không dẫn độ tội phạm

a. Không dẫn độ nếu cá nhân bị dẫn độ sẽ bị kết án đối với tội phạm khác

Theo đó, cá nhân được yêu cầu dẫn độ sẽ chỉ bị truy tố và xét xử đối với hành vi phạm tội trên cơ sở định danh tội phạm được áp dụng tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội đó, hành vi này đã được cung cấp như là cam kết để được dẫn độ của quốc gia yêu cầu. Quốc gia được yêu cầu hoàn toàn có thể từ chối dẫn độ tội phạm nếu quốc gia yêu cầu tiến hành xét xử đối với tội phạm khác mà cá nhân đó đã thực hiện trong quá khứ (không nằm trong yêu cầu dẫn độ).

b. Không dẫn độ trong trường hợp cá nhân sẽ bị kết án tử hình

Trong quan hệ hợp tác dẫn độ tội phạm, các quốc gia có thể đưa ra thoả thuận về trường hợp quốc gia được yêu cầu sẽ từ chối dẫn độ nếu như cá nhân được dẫn độ sẽ bị kết án tử hình đối với hành vi vi phạm của mình tại quốc gia yêu cầu hoặc quốc gia đó sẽ chấp nhận dẫn độ nếu nhận được sự cam kết của quốc gia yêu cầu rằng cá nhân đó sẽ không bị lĩnh án tử hình.

d. Một số trường hợp khác

Một số trường hợp không dẫn độ tội phạm khác bao gồm: Không dẫn độ trong trường hợp cá nhân bị xét xử về cùng một tội; Không dẫn độ nếu hành vi phạm tội của cá nhân được thực hiện ở quốc gia này mà quốc gia khác lại đưa ra yêu cầu dẫn độ; Cá nhân không bị dẫn độ nếu thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã chấm dứt; Cá nhân sẽ không bị dẫn độ nếu các hành vi phạm tội được ghi nhận trong đề nghị dẫn độ thuộc sự điều chỉnh đặc biệt của quốc gia được yêu cầu; Một số trường hợp từ chối dẫn độ khi cân nhắc các vấn đề nhân đạo đối với cá nhân bị dẫn độ.

2.2.5. Trình tự, thủ tục dẫn độ

Một là: Đối tượng và phạm vi dẫn độ

Các hoạt động tương trợ tư pháp đều quy định, nước được yêu cầu sẽ dẫn độ những người bị yêu cầu dẫn độ đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước yêu cầu để “truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật đối với người bị yêu cầu dẫn độ”. Trường hợp dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự, các hoạt động tương trợ tư pháp đều quy định, hành vi mà người bị yêu cầu dẫn độ phải bị coi là tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự của các Bên ký kết và phải chịu hình phạt tù trên một năm hoặc hình phạt nặng hơn. Trường hợp dẫn độ để thi hành hình phạt của bản án đã có hiệu lực pháp luật, các hoạt động tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký từ năm 1980 đến năm 1992 quy định, hình phạt mà người bị dẫn độ phải thi hành là hình phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên hoặc nặng hơn. Tuy nhiên, các HĐTTTP ký từ năm 1993 đến năm 2002 lại quy định hình phạt tù có thời hạn từ sáu tháng trở lên hoặc hình phạt khác nặng hơn.

Hai là: Hồ sơ yêu cầu dẫn độ

Theo quy định của các hoạt động tương trợ tư pháp, yêu cầu dẫn độ phải được lập thành văn bản và phải chứa đựng các nội dung sau đây: Tên cơ quan yêu cầu; các thông tin về nhân thân như họ tên, dân tộc, quốc tịch, giới tính, nơi cư trú, tạm trú, đặc điểm nhận dạng người bị yêu cầu dẫn độ (hình dáng, ảnh, dấu vân tay...); tên vụ việc; điều luật để chứng minh hành vi đó là tội phạm, khung hình phạt của tội phạm bị yêu cầu dẫn độ; bản sao lệnh bắt (nếu yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự); bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật (nếu yêu cầu dẫn độ để thi hành án); các thiệt hại do tội phạm gây ra; các Hiệp định đều quy định, Bên được yêu cầu có thể yêu cầu Bên yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu bổ sung nếu thấy cần thiết và ấn định một thời hạn nhất định để tiếp nhận (trong trường đặc biệt có thể gia hạn).

Ba là: Thủ tục dẫn độ

Tất cả các hoạt động tương trợ tư pháp đều xây dựng thủ tục dẫn độ hành hai bước cơ bản sau đây:

Bước 1: Chuyển giao, tiếp nhận và xử lý văn bản, hồ sơ yêu cầu dẫn độ

Các hoạt động tương trợ tư pháp đều quy định, việc chuyển giao và tiếp nhận yêu cầu dẫn độ sẽ được thực hiện thông qua các cơ quan tư pháp trung ương của các Bên ký kết. Trường hợp nhiều nước cùng yêu cầu dẫn độ một người, tất cả các hoạt động tương trợ tư pháp đều quy định, việc xem xét để chấp nhận yêu cầu dẫn độ của nước nào là do Bên được yêu cầu quyết định dựa vào các yếu tố: Quốc tịch của người bị yêu cầu dẫn độ; Nơi thực hiện hành vi phạm tội; tính chất, mức độ nghiêm trọng và hậu quả của tội phạm gây ra; ngày, tháng, năm yêu cầu; theo quy định của các hoạt động tương trợ tư pháp, khi nhận được văn bản yêu cầu dẫn độ.

Bước 2: Quyết định, chuyển giao và tiếp nhận người bị yêu cầu dẫn độ

Sau khi có quyết định dẫn độ, Bên được yêu cầu sẽ thông báo cho Bên yêu cầu biết thời gian, địa điểm chuyển giao và tiếp nhận người bị dẫn độ. Việc chuyển giao, tiếp nhận người bị dẫn độ sẽ được thực hiện trong một thời gian nhất định do hai Bên thỏa thuận. Nếu Bên yêu cầu không tiếp nhận người đúng thời gian và địa điểm mà Bên được yêu cầu đã ấn định mà không có lý do chính đáng hoặc không giải thích rõ rang thì người bị dẫn độ có thể sẽ được trả tự do. Phần lớn các hoạt động tương trợ tư pháp đều quy định thời hạn là mười lăm ngày và các Bên có thể thỏa thuận để gia hạn thêm nhưng tối đa không quá mười lăm ngày.

Ngoài các nội dung cơ bản nói trên, các hoạt động tương trợ tư pháp còn quy định các vấn đề về hoãn dẫn độ, dẫn độ tạm thời, dẫn độ lại, quá cảnh và chi phí dẫn độ.

Tuy nhiên, do không có Luật khung để đàm phán, ký kết nên tên gọi, bố cục, nội dung, phạm vi của các vấn đề, cũng như nội dung của từng điều khoản trong phần dẫn độ của các hoạt động tương trợ tư pháp không có sự thống nhất với nhau. Mặt khác, do được ký kết trước khi nước ta ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tương trợ tư pháp nên một số quy định liên quan đến ngôn ngữ sử dụng, cơ quan đầu mối trung ương trong việc tiếp nhận, chuyển giao, xem xét, giải quyết các yêu cầu dẫn độ của nước ngoài, thẩm quyền quyết định dẫn độ, chi phí và cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan trong việc dẫn độ đã không còn phù hợp Luật Tương trợ tư pháp.

16.              Việt Nam và việc gia nhập Quy chế Roma về Tòa án HSQT năm 1998 ?

Việt Nam đã chính thức tham gia quá trình đàm phán, soạn thảo Quy chế Rome từ năm 1998. Trước đó, Việt Nam cũng đã có những chuyên gia được cử đến tham dự và theo dõi các phiên họp của Uỷ ban đặc biệt và Ủy ban trù bị thành lập Tòa án Hình sự quốc tế từ năm 1995. Việt Nam cũng đã cử đoàn tham dự Phiên họp cuối cùng của Uỷ ban trù bị thành lập ICC, họp từ ngày 16/3 đến ngày 3/4/1998 để hoàn tất Dự thảo quy chế Rome và tham dự Hội nghị ngoại giao thành lập ICC, họp từ ngày 15/6 đến ngày 17/7/năm 1998. Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa ký và tiến hành các thủ tục tham gia Quy chế Rome.

Một trong những vấn đề pháp lý nhiều nước gặp phải trước khi tiến hành thủ tục tham gia Quy chế Rome là giải quyết sự xung đột giữa các quy định của Quy chế với quy định của Hiến pháp quốc gia. Phổ biến nhất trong số các quy định xung đột này là các quy định về chuyển giao người bị tình nghi cho Tòa án; về quyền miễn trừ của người đứng đầu nhà nước, chính phủ…; về áp dụng hay không áp dụng hình phạt tử hình, tù chung thân. Trên thực tế, giải quyết sự xung đột giữa quy định của Quy chế Rome với Hiến pháp quốc gia có thể trải qua nhiều thủ tục và kéo dài, làm chậm quá trình gia nhập Tòa án của quốc gia

Chúng ta chưa có được nhiều sự chuẩn bị để khi gia nhập Quy chế Rome có thể hoàn thành các nghĩa vụ với ICC như các quốc gia khác. Chẳng hạn, hệ thống văn bản pháp luật về hình sự nói chung của Việt Nam còn nhiều điểm chưa có sự tương đồng với Quy chế Rome, nhất là phần các tội danh, hình phạt, một số nguyên tắc áp dụng, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự… Năng lực hoạt động của các cơ quan tư pháp Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được tốt các yêu cầu của Quy chế Rome, trong công tác xét xử vẫn có tình trạng tồn đọng án, xét xử oan sai, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp chưa chặt chẽ và hiệu quả… Việt Nam thiếu nhiều cán bộ, chuyên gia giỏi về pháp luật quốc tế, đặc biệt là luật hình sự quốc tế, để có thể đảm trách tốt công tác nghiên cứu, vận dụng Quy chế Rome.

17.              Pháp luật VN về dẫn độ ?

Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003

Văn bản này quy định về vấn đề dẫn độ trong Điều 343 và 344 với các vấn đề về thẩm

quyền tiến hành các hoạt động hợp tác dẫn độ và các trường hợp từ chối dẫn độ.

Về thẩm quyền tiến hành hoạt động hợp tác dẫn độ: Các cơ quan có thẩm quyền về tố tụng của Việt Nam (các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Toà án nhân dân các cấp) sẽ là chủ thể đại diện cho Việt Nam đưa ra các yêu cầu về dẫn độ trên cơ sở điều ước quốc tế và tập quán quốc tế khi tiến hành các hoạt động hợp tác dẫn độ (Điều 343)

Về căn cứ từ chối dẫn độ: Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 của Việt Nam đưa ra 6 căn cứ từchối dẫn độ (Điều 344). Bao gồm: trường hợp cá nhân là công dân Việt Nam; trường hợp hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc lý do hợp pháp khác; trường hợp cá nhân đã bịcơ quan có thẩm quyền của Việt Nam kết án bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ hoặc đã bị đình chỉ; trường hợp cá nhân bị yêu cầu dẫn độ có khả năng bị truy bức ở quốc gia yêu cầu dẫn độ vì lý do chính trị, dân tộc, quốctịch, tôn giáo, thành phần xã hội; trường hợp theo pháp luật của Việt Nam, hành vi của cá nhân bị yêu cầu dẫn độ thực hiện không phải là tội phạm; trường hợp cá nhân bị yêu cầu dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở Việt Nam về hành vi được nêu trong yêu cầu dẫn độ.

Luật Tương trợ Tư pháp 2007

quy định về Dẫn độ tội phạm nằm trong Chương IV với 17 Điều (từ Điều 32 đến Điều 48). Gồm các nội dung: Dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án;

trường hợp bị dẫn độ; không truy cứu trách nhiệm hình sự, dẫn độ cho quốc gia thứ ba; từ chối dẫn độ cho nước ngoài; hồ sơ yêu cầu dẫn độ; văn bản yêu cầu dẫn độ và tài liệu kèm theo; tiếp nhận yêu cầu dẫn độ; xem xét yêu cầu dẫn độ của nhiều quốc gia đối với một cá nhân; Quyết định dẫn độ; thi hành quyết định dẫn độ; áp giải người bị dẫn độ; hoãn thi hành quyết định dẫn độ và dẫn độ tạm thời; dẫn độ lại; chuyển giao đồ vật, vật chứng liên quan đến vụ án; quá cảnh; chi phí về dẫn độ.

Luật Tương trợ Tư pháp 2007 đã hướng tới hoàn thiện các quy định của pháp luật quốc gia liên quan đến hoạt động hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm hết sức quan trọng này. Bên cạnh việc quy định về các nguyên tắc, thẩm quyền, căn cứ dẫn độ và từ chối dẫn độ, trình tự, thủ tục dẫn độ, các biện pháp tạm thời, quá cảnh… là cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đáp ứng hoặc đưa ra yêu cầu đối với các cá nhân là đối tượng của hoạt động dẫn độ.

Tuy nhiên, một số vấn đề cần thiết chưa được Luật quy định cụ thể:

Một là, chưa có quy định cụ thể về trình tự của hoạt động dẫn độ từ Việt Nam và dẫn độ đến Việt Nam.

Hai là, chưa có quy định về cụ thể bắt giữ tạm thời (thẩm quyền, thủ tục, thời hạn..) mà chỉsử dụng thuật ngữ “các biện pháp tạm thời”, để hỗ trợ cho hoạt động dẫn độ tội phạm.

Ba là, hiệu lực của Luật Tương trợ Tư pháp 2007 chưa được phát huy một cách hiệu quả, các hoạt động bắt giữ, giao và tiếp nhận các đối tượng phạm tội chủ yếu được thực hiện thông qua INTERPOL và ASEANPOL.

18.              Các cơ quan của ICC ?

Theo Điều 34 Quy chế Rome thì Tòa Hình sự quốc tế gồm có 4 cơ quan chính: Chủ tịch Tòa án (The Presidency); 1 Bộ phận phúc thẩm (Appeals Division); 1 Bộ phận xét xử (Trial Division) và 1 Bộ phận Tiền xét xử (Pre-Trial Division); văn phòng Công tố viên (The Office of the Prosecutor) và Thư ký Tòa (Registrar).

- Chủ tịch Tòa án (The Presidency)

Theo Điều 38, Chủ tịch Tòa án bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch thứ nhất và Phó Chủ tịch thứ hai. Những người này sẽ được bầu trong số các thẩm phán với đa số tuyệt đối. Chủ tịch Tòa án là cơ quan chịu trách nhiệm về các công việc hành chính của Tòa trừ những chức năng thuộc về Văn phòng Công tố viên cũng như những chức năng khác được quy định trong Quy chế.

- Các Bộ phận của Tòa (Bộ phận xét xử, Bộ phận tiền xét xử và Bộ phận Phúc thẩm)

Theo Điều 39, ngay sau khi bầu ra các thẩm phán, Tòa sẽ tự lập ra các Bộ phận cụ thể càng sớm càng tốt. Các chức năng tư pháp của Tòa sẽ do các Ủy ban trong từng Bộ phận thực hiện. Bộ phận Phúc thẩm (Appeals Division) sẽ bao gồm Chủ tịch Tòa án và 4 thẩm phán khác; Bộ phận Xét xử (Trial Division) sẽ gồm không quá 6 thẩm phán và Bộ phận Tiền xét xử (Pre-Trial Division) sẽ gồm không quá 6 thẩm phán. Nhiệm vụ cụ thể của các thẩm phán trong từng Bộ phận nói trên sẽ căn cứ vào tính chất của từng loại Bộ phận, tiêu chuẩn và kinh nghiệm của các thẩm phán.

Các Ủy ban (Chambers) chính là những bộ phận hành chính của các Bộ phận. trong mỗi Bộ phận có thể sẽ có nhiều hơn một Ủy ban tùy thuộc vào nhu cầu việc thực hiện có hiệu quả khối lượng công việc của Bộ phận.

- Văn phòng Công tố viên

Văn phòng công tố viên là một cơ quan độc lập của Tòa chịu trách nhiệm tiếp nhận các đệ trình từ phía các quốc gia thành viên cũng như những đệ trình của Hội đồng Bảo an và những thông tin khác nhằm chứng minh về các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa đồng thời tiến hành xem xét và thực hiện các hoạt động điều tra và truy tố các tội phạm đó trước Tòa. Công tố viên (Prosecutor) là người đứng đầu Văn phòng Công tố viên, có toàn quyền quyết định các vấn đề về quản lý và hành chính của văn phòng, như nhân viên, phương tiện bảo đảm hoạt động và những vấn đề khác

- Ban Thư ký Tòa án

Ban Thư ký của Tòa án sẽ chịu trách nhiệm về những vấn đề không thuộc chức năng tư pháp liên quan đến việc quản lý hành chính và phục vụ của Tòa.

19.              Quy chế tòa án hình sự quốc tế?

-                      Có giá trị như một điều ước quốc tế đa phương, vừa là cơ sở cho sự ra đời và hoạt động của ICC và đưa ra các tội danh, yếu tố cấu thành tội phạm, biện pháp xử phạt cũng như trình tự điều tra, tuy tố, xét xử.

-                      Có thể xem như một đạo luật hình sự:

Đây là công cụ pháp lý hình sự cơ bản và quan trọng của cộng đồng quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế. Điều này thể hiện ở việc hiện diện trong Quy chế Rome  một loạt các quy định về Luật hình sù, như các tội phạm thuộc quyền tài phán của Toà án (Điều 5, 6, 7, 8), các yếu tố cấu thành tội phạm (Điều 9), những nguyên tắc chung của Luật hình sự (Phần 3 từ Điều 22 đến Điều 33), hình phạt (Phần 7 từ Điều 77 đến Điều 80). Không  chỉ  có  các  quy  định  của  Luật  hình  sù,  Quy  chế  Rome  còn  chứa đựng các quy phạm pháp luật của Luật Tố tụng hình sự, như quyền tài phán, thụ lý và luật áp dụng (Phần 2), điều tra và truy tố (Phần 5), xét xử (Phần 6), phúc thẩm và xét lại (Phần 8), hợp tác quốc tế và trợ giúp tư pháp (Phần 9), thi hành án (Phần 10).

20.              Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế?

Về thẩm quyền tài phán, theo Điều 5 của Quy chế Rome, ICC có thẩm quyền xét xử những tội phạm nghiêm trọng nhất đối với cộng đồng quốc tế, đó là tội diệt chủng, tội chống lại nhân loại, tội phạm chiến tranh và tội xâm lược. Tuy nhiên, ICC không có hiệu lực hồi tố, có nghĩa là ICC chỉ có thẩm quyền xét xử đối với các vụ việc xảy ra sau khi Quy chế Rome có hiệu lực (sau ngày 1-7-2002).

-                      Tội diệt chủng: Quy chế Rome đã kế thừa những nội dung của định nghĩa “tội giết chủng” của Công ước quốc tế về ngăn ngừa tội phạm diệt chủng năm 1948, theo đó tội diệt chủng có những đặc điểm: thực hiện một hoặc nhiều hành vi nguy hiểm; đối tượng hướng tới nhằm vào một nhóm dân tộc, sắc tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo; có ý định hủy diệt toàn bộ hay một phần nhóm người

-                      Tội chống nhân loại: Có hành vi tấn công (ví dụ, tàn sát) có quy mô lớn và có hệ thống; hành vi đó trực tiếp chống lại một cộng đồng dân cư-dân thường; hành vi được thực hiện theo chính sách của nhà nước hoặc tổ chức. Có thể thực hiện trong cả thời bình lẫn thời chiến

-                      Tội ác chiến chanh:

o        Nhóm 1: Những hành vi vi phạm nghiêm trọng các Công ước Giơnevơ 1949 áp dụng cho các cuộc xung đột vũ trang mang tính quốc tế với điều kiện được thực hiện như một phần trong một kế hoạch hoặc chính sách hoặc như một phần của tội phạm này được thực hiện trên quy mô lớn

o        Nhóm 2: Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật pháp và tập quán được áp dụng trong xung đột vũ trang có tính chất quốc tế (điểm b khoản 2 Điều 8). Ở nhóm này, các hành vi chủ yếu bắt nguồn từ Công ước La Hay 1907; Nghị định thư bổ sung I các Công ước Giơnevơ năm 1977. Tuy nhiên, Quy chế Rome cũng quy định một số điểm mới đó là thừa nhận các hành vi vi phạm về giới tính, tình dục, cưỡng bức nhập ngũ, tuyển mộ trẻ em dưới 15 tuổi vào quân ngũ và tấn công nhân viên làm công tác nhân đạo là tội ác chiến tranh.

o        Nhóm 3: Những hành vi vi phạm nghiêm trọng Điều 3 chung của các Công ước Giơnevơ ngày 12/8/1949 trong trường hợp xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào được thực hiện nhằm vào những người không tham gia tích cực vào chiến sự, kể cả các binh sĩ đã hạ vũ khí và những người đã bị loại khỏi vòng chiến đấu do bị ốm, bị thương, bị giam giữ hay vì bất kỳ lý do nào khác

o        Nhóm 4: Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật và tập quán áp dụng trong xung đột vũ trang không mang tính quốc tế, trong khuôn khổ pháp luật quốc tế. Cần lưu ý một điểm là những tội phạm này chỉ có thể xảy ra khi có xung đột vũ trang diễn ra trên lãnh thổ của một quốc gia giữa quân đội của quốc gia đó với các nhóm vũ trang có tổ chức hoặc giữa các nhóm này với nhau

-                      Tội xâm lược: “vạch kế hoạch, chuẩn bị, khởi xướng hoặc thừa hành bởi một người thực sự có quyền kiểm soát, hoặc ra lệnh tiến hành hành động chính trị hoặc quân sự của một nước, một hành động xâm lược mà theo tính chất nghiêm trọng và quy mô vi phạm rõ ràng Hiến chương Liên hợp quốc”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: