Các vùng đất ngập nước ở Việt Nam - Tiềm năng và thách thức
1. Mở đầu
Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về kiểu loại, phong phú về tài nguyên, đa dạng sinh học (ĐDSH), có nhiều chức năng và giá trị (kinh tế, xã hội, văn hóa...) rất quan trọng. Với hơn 10 triệu ha, ĐNN phân bố ở hầu khắp các vùng sinh thái của nước ta, gắn bó lâu đời với cộng đồng dân cư, có vai trò lớn đối với đời sống nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội.
Năm 1989, Việt Nam là quốc gia thứ 50 trên thế giới tham gia Công ước Ramsar. Trong 15 năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực triển khai các hoạt động nghiên cứu, kiểm kê, xây dựng các công cụ và kỹ thuật khác nhau để bảo tồn, sử dụng, quản lý ĐNN theo tinh thần của Công ước Ramsar.
Tuy nhiên, những cố gắng này chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng khôn khéo, bảo tồn và phát triển bền vững ĐNN. Việc rà soát, đánh giá những thành tựu, tồn tại và xu thế của các hoạt động liên quan đến ĐNN nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất định hướng để quản lý, bảo tồn, sử dụng khôn khéo và phát triển bền vững ĐNN là hết sức cần thiết.
2. Tổng quan về đất ngập nước Việt Nam
2.1. Đất ngập nước ở Việt Nam
Hiện nay, trên thế giới có nhiều định nghĩa khác
nhau về ĐNN, tùy theo mỗi quốc gia và mục đích
quản lý, sử dụng ĐNN. Định nghĩa về ĐNN ghi tại
Điều 1 của Công ước Ramsar (Phụ lục A), được sử
dụng chính thức ở Việt Nam trong các hoạt động
liên quan đến ĐNN: "ĐNN là những vùng đầm
lầy, than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên
hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước
chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước
biển, kể cả những vùng nước biển có độ sâu không
quá 6m khi triều thấp".
Theo định nghĩa này, các yếu tố địa mạo, thủy văn, thổ
nhưỡng, động vật, thực vật, hiện trạng sử dụng đất đai
là những tiêu chí quan trọng để xác định các vùng ĐNN.
2.1.1. Các đặc điểm tự nhiên chủ yếu
hình thành đất ngập nước Việt Nam
Đặc điểm địa mạo: 2/3 diện tích tự nhiên Việt Nam
là đồi núi, có hướng nghiêng chung từ Tây sang
Đông. Đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ là những
vùng trũng, tạo nên hai vùng ĐNN tiêu biểu cho
địa mạo vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu
Long.
Đặc điểm khí hậu: thuộc vùng khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm khá cao
(hơn 200
C/năm), độ ẩm tương đối lớn (hơn
80%/năm), lượng mưa dồi dào (1.500mm/năm).
Sự khác nhau về chế độ khí hậu giữa các vùng, đặc
biệt là chế độ nhiệt - ẩm có ảnh hưởng đến chế độ
thủy văn của từng vùng như thời gian ngập nước,
độ sâu ngập nước, chế độ nhiệt của nước, dẫn đến
sự khác nhau giữa các loại hình ĐNN.
Đặc điểm thủy văn: hệ thống dòng chảy với một
mạng lưới tiêu nước ra biển khá dày. Tổng số các
con sông lớn nhỏ ở Việt Nam lên tới 2.500, trong đó
những con sông dài trên 10 km là 2.360 sông (Phan
Nguyên Hồng, 1996). Theo số liệu tính toán cho
thấy hệ thống sông Cửu Long có nguồn nước chảy
vào Việt Nam là lớn nhất, chiếm 61,4% tổng lượng
dòng chảy sông ngòi của cả nước. Các dòng sông
chảy ra biển đã tạo thành hệ thống cửa sông là một
trong những loại hình ĐNN quan trọng của Việt
Nam. Hiện nay, cả nước có trên 3.500 hồ chứa nước
nhỏ và 650 hồ chứa nước vừa và lớn, các hồ chứa
nước lớn như hồ Thác Bà có diện tích mặt nước
23.400 ha, hồ Hòa Bình 218 km2
, hồ Dầu Tiếng
35.000 ha, hồ Trị An 27.000 ha (Nguyễn Viết Phổ,
Vũ Văn Tuấn, Trần Thanh Xuân, 2003).
Thổ nhưỡng: có 15 nhóm đất, trong đó có 7 nhóm
đất liên quan đến các đặc trưng của các vùng
ĐNN, đó là đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất
glây, đất than bùn, đất xám và đất cát. Do các đặc
điểm khác nhau về địa mạo, khí hậu, thổ nhưỡng
đã hình thành các đặc trưng về thực vật của các
vùng ĐNN với hai dạng điển hình là thực vật
vùng ĐNN mặn và thực vật vùng ĐNN ngọt.
Hộp 1: Hệ thống các sông lớn của Việt Nam
1. Sông Mêkông
2. Sông Hồng
3. Sông Thái Bình
4. Sông Kỳ Cùng - Bằng
5. Sông Mã
6. Sông Cả
7. Sông Thu Bồn
8. Sông Ba
9. Sông Đồng Nai
2.1.4. Các hệ sinh thái đất ngập nước
Đất ngập nước Việt Nam gồm 2 nhóm: ĐNN nội
địa và ĐNN ven biển. ĐNN nội địa có mặt ở cả ba
miền và các vùng sinh thái, đa dạng về kiểu loại,
hình thái, tài nguyên, chức năng và giá trị cũng
như khả năng khai thác, sử dụng và bảo vệ. Các
kiểu ĐNN nội địa gồm: châu thổ ngập nước
thường xuyên; lạch nước; sông suối chảy thường
xuyên, tạm thời; hồ nước ngọt; than bùn; đầm lầy;
hồ nước mặn; ĐNN trên núi; ĐNN địa nhiệt; đầm
nuôi thủy sản; ao lớn hơn 8 ha, đầm lầy... ĐNN
ven biển phân bố rộng khắp vùng bờ biển Việt
Nam bao gồm ĐNN cửa sông, bãi triều, ĐNN đầm
phá và vùng nước biển có độ sâu nhỏ hơn 6 m khi
triều kiệt. Rừng ngập mặn và bãi sình lầy tập trung
chủ yếu ở các vùng châu thổ, vùng cửa sông và
vùng triều. Các đầm phá cũng tập trung ở vùng bờ
biển miền Trung (từ Huế đến Ninh Thuận). Các
rạn san hô và hệ rong tảo - cỏ biển phân bố nhiều
ở vùng bờ biển Nam Trung Bộ.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ báo cáo này chỉ đề cập
đến 5 vùng ĐNN quan trọng, đó là: ĐNN vùng
cửa sông đồng bằng sông Hồng (ĐBSH); ĐNN các
đầm phá ở miền Trung; ĐNN châu thổ sông Cửu
Long; ĐNN các hồ và một số kiểu ĐNN khác.
a. Đất ngập nước vùng cửa sông đồng bằng sông
Hồng
Theo bản đồ ĐNN của vùng cửa sông ĐBSH tỉ lệ
1/100.000 (Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng
Nam Bộ và Hội khoa học Đất Việt Nam, 2004 - Phụ
lục C1), diện tích ĐNN ở vùng này là 229.762 ha
(chiếm 76,01 % diện tích tự nhiên). Trong đó, diện
tích ĐNN mặn là 125.389 ha, gồm 22.487 ha ĐNN
ven biển và 102.482 ha ĐNN mặn cửa sông, phân
bố chủ yếu ở các cửa sông Nam Triệu, Cấm, Lạch
Tray, Văn Úc, Thái Bình, Ba Lạt, Lạch Giang, cửa
Đáy với loại hình sử dụng đất chính là sản xuất
nông lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản (NTTS);
diện tích ĐNN ngọt là 103.373 ha, với loại hình sử
dụng đất chính là canh tác nông nghiệp.
b. Đất ngập nước đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thuộc lãnh
thổ Việt Nam là phần cuối cùng của lưu vực sông
Mêkông, có diện tích khoảng 3,9 triệu ha, chiếm
khoảng 12% diện tích tự nhiên cả nước, bao gồm 13
tỉnh và thành phố: Long An, Tiền Giang, Đồng
Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau
(ảnh 2), Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long,
Bến Tre và thành phố Cần Thơ.
ĐNN của ĐBSCL là một trong những hệ sinh thái
giàu có nhất của lưu vực (đồng bằng ngập triều, đầm
lầy ven biển, đầm than bùn, cửa sông...), là bãi đẻ
quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía
thượng nguồn sông Mêkông. Theo bản đồ ĐNN
vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ 1:250.000 (Phụ
lục C3), diện tích ĐNN có 4.939.684 ha chiếm 95,88
% diện tích tự nhiên, bao gồm diện tích ĐNN nội địa
và ĐNN ven biển ngập thủy triều dưới 6m (biểu đồ 1).
ĐNN mặn ven biển phân bố dọc ven biển Đông,
phía Tây Nam bán đảo Cà Mau và vịnh Thái Lan.
Trong đó, ĐNN mặn ven biển - ngập thường xuyên
có diện tích 879.644 ha, phân bố ở vùng biển nông
có độ sâu nhỏ hơn 6 m khi triều kiệt; ĐNN mặn ven
biển - ngập không thường xuyên có diện tích
756.425 ha. Các kiểu ĐNN chính trong vùng này là
ĐNN mặn thường xuyên, không có thực vật; ĐNN
mặn không thường xuyên, canh tác nông nghiệp;
ĐNN mặn không thường xuyên, nuôi trồng thủy
sản. Các dải rừng ngập mặn phân bố dọc ven biển,
ở những vùng bãi bùn ngập mặn, có vai trò rất quan
trọng trong hệ sinh thái ĐNN ven biển
Hộp 4: Hệ thống các đầm phá ở miền Trung
Việt Nam:
1. Tam Giang - Cầu Hai
2. Lăng Cô
3. Trường Giang
4. An Khê
5. Nước Mặn
6. Trà Ổ
7. Nước Ngọt
8. Thị Nại
9. Cù Mông
10. Ô Loan
11. Thuỷ Triều
d. Một số kiểu ĐNN khác ở ven biển Việt Nam
Rừng ngập mặn: theo kết quả thống kê của Viện
Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam năm 2001 cho
thấy, Việt Nam có khoảng 155.290 ha rừng ngập
mặn, trong đó diện tích rừng ngập mặn tự nhiên là
32.402 ha (chiếm 21%), rừng ngập mặn trồng là
122.892 ha (79%), phân bố như sau: vùng Đông Bắc
có 22.969 ha (14,8%), đồng bằng Bắc Bộ 20.842 ha
(13,4%), Bắc Trung Bộ và thành phố Hồ Chí Minh
20.092 ha (16,8%) và nhiều nhất là ĐBSCL 82.387
ha (53%). Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng
bảo vệ bờ biển, chắn sóng, chắn bão; ổn định khí
hậu khu vực; là nơi thăm quan du lịch; cung cấp
nguồn dược liệu và thức ăn gia súc...
Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị rất
quan trọng như: cung cấp các sản phẩm gỗ, củi,
thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn
và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản
có giá trị kinh tế khác; xâm chiếm và cố định các
bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống
lại tác động của sóng, bão và sóng thần; là nơi cư
trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã (chim,
thú, lưỡng cư, bò sát), gồm các loài địa phương và
các loài di cư
Rạn san hô: là một trong các hệ sinh thái đặc sắc
của biển Việt Nam, nơi có ĐDSH rất cao, năng xuất
sơ cấp lớn, cảnh quan kỳ thú. Các rạn san hô ở Việt
Nam phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam trên diện
tích khoảng 1.122 km2
, tập trung nhiều ở vùng biển
Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa (ảnh 8, 9). San hô Việt Nam rất đa
dạng và phong phú với khoảng 350 loài tạo rạn
kèm theo khoảng 3.000 loài sinh vật khác có đời
sống liên quan và sống gắn bó với vùng rạn san
hô. Trong đó, có khoảng 2.000 loài sinh vật đáy, cá
(500 loài) và nhiều loài có giá trị kinh tế cao như
tôm hùm (Panulirus), bào ngư (Haliotis
diversicolor), trai ngọc (Pteria martensi), hải sâm
(Holothuria),...
Thảm cỏ biển: là hệ sinh thái có giá trị cao (Biểu đồ
4), là nơi cư trú, bãi đẻ, bãi ương giống của nhiều
loài sinh vật khác như tảo bì sinh, động vật đáy, cá
biển, thú biển; là môi trường sinh sản thuận lợi; là
nguồn thức ăn quan trọng của nhiều loài sinh vật
(cá tôm, đồi mồi, vích, bò biển); là nguồn nguyên
liệu để sản xuất giấy, phân bón hóa học, thức ăn
gia súc đồng thời là nơi để thăm quan du lịch và có
tác dụng tích tụ trầm tích, chắn sóng, hạn chế xói
lở bờ biển,... Ở Việt Nam, đã xác định được 15 loài
cỏ biển (Seagrass) /16 loài cỏ biển ở vùng Đông
Nam Á. Các thảm cỏ phân bố ở các trong vùng
triều ven biển, ven đảo, vùng cửa sông, rừng ngập
mặn, vịnh, đầm nước lợ ở độ sâu từ 0-20 m, trong
dải độ muối rộng từ 5-32% (ảnh 11). Ở đầm phá
Tam Giang - Cầu Hai, diện tích bãi cỏ biển khoảng
1.000ha, với 5 loài cỏ biển có tổng trữ lượng các loài
khoảng 95.500 tấn tươi (Nguyễn Văn Tiến, 2003).
Tuy nhiên, hệ sinh thái cỏ biển cũng là một trong
những hệ sinh thái nhạy cảm và rất dễ bị tổn
thương khi môi trường thay đổi. Hiện nay, thảm cỏ
biển ở nước ta đã bị suy thoái nghiêm trọng do ô
nhiễm môi trường, đánh bắt thủy sản bằng thuốc
nổ, các hoạt động khai thác các vùng đất bồi có cỏ
biển vào mục đích nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản làm cho diện tích bãi cỏ biển bị thu hẹp, gây
mất nơi cư trú của các nguồn lợi hải sản có giá trị
và hạn chế sự phát triển của cỏ biển (ảnh 12). Rõ
rệt nhất, năm 2003, về diện tích cỏ biển bị mất là
6.775 ha chiếm 63% (so với năm 1997). Đặc biệt,
nhiều nơi đã bị mất hẳn cỏ biển như Đồng Rui,
Chương Cả, Tuần Châu (Quảng Ninh), Tràng Cát,
Gia Luận (Hải Phòng) hoặc gần mất hẳn như ở
Vụng Bầu (Phú Quốc). Sự suy giảm và mất các
thảm cỏ biển của nước ta đang có nguy cơ gia tăng,
ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường sinh thái
biển: suy giảm chất lượng môi trường nước và
trầm tích, mất cân bằng dinh dưỡng, sinh thái và
ĐDSH, giảm trữ lượng cá và nguồn trứng cá và cá
con trong hệ sinh thái này, giảm nguồn cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp và nông nghiệp, mất
diện tích sa bồi các vùng cửa sông gây ảnh hưởng
tới quá trình bồi tụ và mở rộng quỹ đất...
e. Đất ngập nước thuộc hồ (hồ chứa, hồ tự nhiên)
Các hồ tự nhiên tiêu biểu ở Việt Nam là: Hồ Ba Bể
(Bắc Kạn - ảnh 13), Hồ Chử (Phú Thọ), Hồ Tây (Hà
Nội), Biển Hồ (Gia Lai), Hồ Lăk (Đăk Lăk), Hồ Đơn
Dương, Đan Kia (Đà Lạt), Hồ Biển Lạc (Bình
Thuận). Một số có diện tích lớn có thể kể đến là:
Hồ Lăk có diện tích 600 ha, thực vật trong hồ
phong phú với hơn 100 loài thực vật nổi, 50 loài
động vật nổi, 20 loài động vật đáy và 49 loài cá,
ngoài ra có cả cá sấu, kì đà, chim di trú; Hồ Tây có
diện tích 526 ha với 12 loài thực vật nổi, 33 loài cá
chép (Cypriniformes); Biển Hồ có diện tích 300 ha,
122 loài thực vật nổi, 54 loài động vật nổi, 15 loài
động vật đáy và 27 loài cá
f. Sông suối
Việt Nam có lượng mưa lớn, cùng với đặc điểm địa
hình (75% lãnh thổ là đồi núi) đã hình thành một
hệ thống sông, suối dày đặc. Đặc trưng cho loại
hình thủy vực này là quần xã thực vật nổi khá
phong phú, nhưng có số lượng thấp. Sông, suối là
nơi cư trú rất quan trọng của các quần thể cá: các
sông miền Bắc có 243 loài, sông miền Trung có 134
loài, sông miền Nam có 255 loài.
Tuy nhiên, các hoạt động xây đập, kè, khai thác
khoáng sản (cát, sỏi,...), giao thông thủy, xả thải,...
đã và đang làm suy thoái môi trường và tài
nguyên của hệ sinh thái này.
2.1.5. Xu thế biến động đất ngập nước
Việt Nam
a. Biến động về diện tích
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (năm 2004),
tổng diện tích ĐNN Việt Nam là khoảng hơn 10
triệu ha. Trong 15 năm qua, diện tích ĐNN tự
nhiên giảm đi, diện tích ĐNN nhân tạo tăng lên:
• Các khu rừng ngập mặn tự nhiên ven biển
đã mất dần, thay vào đó là các đầm nuôi
thủy sản, các công trình du lịch và một số ít
diện tích rừng trồng. Diện tích rừng ngập
mặn đã giảm đi 183.724 ha trong 20 năm qua
(từ năm 1985). Trong khi diện tích nuôi
trồng thủy sản đã tăng lên 1,1 triệu ha vào
năm 2003.
• Các khu rừng Tràm tự nhiên và các trảng cỏ
ngập nước theo mùa ở Đồng Tháp Mười
cũng đã mất dần, thay vào đó là diện tích
khai hoang trồng lúa và các khu rừng trồng
tràm.
• Diện tích ĐNN mặn ven biển năm 1982 là
494.000 ha, đến năm 2000 là 606.792 ha, do
mở rộng diện tích nuôi tôm
b. Biến động về chất lượng môi trường
Môi trường Việt Nam nói chung và ĐNN nói riêng
đang theo xu hướng xấu do một số nguyên nhân
chính sau:
• Ô nhiễm do chất thải công nghiệp: các chất
ô nhiễm công nghiệp, từ tàu thuyền, các xí
nghiệp sản xuất và chế biến đã và đang gây
ra những tác động nghiêm trọng đến chất
lượng các vùng ĐNN (sông, hồ và kênh rạch
chứa nước)
• Ô nhiễm dầu: nghiêm trọng nhất là ở các
cửa sông, cảng biển
• Ô nhiễm do sử dụng hóa chất bảo vệ thực
vật trong nông nghiệp
• Ô nhiễm chất hữu cơ: xu hướng tăng cao
hàm lượng các chất hữu cơ kèm theo các
chất dinh dưỡng, hóa chất độc sẽ gây hiện
tượng tảo nở hoa, tảo độc đe doạ lớn cho tài
nguyên sinh vật vùng ĐNN.
• Sử dụng các hóa chất độc trong khai thác tài
nguyên ĐNN: việc sử dụng thuốc nổ, độc tố
xyanua để đánh bắt cá gây ô nhiễm môi
trường đáy, phá huỷ cấu trúc và sinh thái
rạn san hô (Cô Tô, Bạch Long Vĩ, Côn Đảo),
huỷ diệt quần xã sinh vật và để lại nhiều tác
động lâu dài cho môi trường, ĐDSH.
2.2. Giá trị và chức năng của đất
ngập nước Việt Nam
2.2.1. Chức năng của đất ngập nước
Việt Nam
Đất ngập nước Việt Nam có nhiều chức năng rất
quan trọng như: nạp và tiết nước ngầm, cung cấp
nước ngọt, điều hòa sinh thái và khí hậu, xuất
khẩu sinh khối, hạn chế lũ lụt, chắn sóng và gió
bão, chống xói lở và ổn định bờ biển, là nơi du lịch
giải trí, duy trì ĐDSH, tạo môi trường hoạt động
cho nhiều ngành kinh tế như thủy sản, lâm nghiệp,
giao thông vận tải thủy, sản xuất năng lượng, du
lịch, khai khoáng... ĐNN là nguồn sống của một
bộ phận khá lớn người dân Việt Nam, mang lại lợi
ích và giá trị to lớn về kinh tế - xã hội - văn hóa -
môi trường, đóng góp rất quan trọng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
• Chức năng nạp, tiết nước ngầm: vào mùa
mưa, khi dư lượng nước mặt lớn, các vùng
ĐNN có tác dụng như một bể chứa nước để
sau đó nước ngấm dần vào lòng đất trong
mùa khô. Quá trình này diễn ra liên tục
nhằm bổ sung lượng nước cho các tầng nước
ngầm. Mặt khác, quá trình nạp và tiết nước
liên tục giữa vùng ĐNN với các tầng nước
ngầm cũng góp phần thấm lọc, làm cho các
tầng nước ngầm trở nên sạch hơn
• Chức năng lắng đọng trầm tích, độc tố: các
vùng ĐNN (đặc biệt là hồ, rừng ngập mặn,
bãi triều, vũng vịnh ven bờ...) có tác dụng
như là các bể lắng giữ lại trầm tích, các chất
ô nhiễm, độc hại và chất thải nói chung, góp
phần làm sạch nước và hạn chế ô nhiễm môi
trường nước biển.
• Chức năng tích lũy chất dinh dưỡng: giữ lại
các chất dinh dưỡng (nitơ, photpho, các
nguyên tố vi lượng...) cho vi sinh vật, phát
triển nguồn lợi thủy sản và lâm nghiệp, hạn
chế bớt hiện tượng phú dưỡng như ở các
vùng ĐNN ĐBSH, ĐBSCL và các thủy vực
khác.
• Chức năng điều hòa vi khí hậu: đặc biệt, ở
vùng có cỏ biển, rừng ngập mặn, rạn san hô,
góp phần cân bằng O2 và CO2 trong khí
quyển, điều hoà khí hậu địa phương (nhiệt
độ, độ ẩm, lượng mưa) và giảm hiệu ứng
nhà kính.
• Chức năng hạn chế lũ lụt: ĐNN (rừng ngập
mặn, hồ tự nhiên, hồ nhân tạo...) có thể đóng
vai trò như bồn chứa lưu giữ, điều hòa
lượng nước mưa và dòng chảy mặt, góp
phần giảm lưu lượng dòng chảy lũ và hạn
chế lũ lụt ở các vùng lân cận như hồ Hòa
Bình, hồ Thác Bà, hồ Trị An,...
• Chức năng sản xuất sinh khối: là nơi sản
xuất sinh khối, tạo nguồn thức ăn cho các
loại thủy sản, gia súc, động vật hoang dã
hoặc vật nuôi.
• Chức năng duy trì ĐDSH: nhiều vùng ĐNN,
đặc biệt là các vùng ĐNN có rừng ngập
mặn, rạn san hô, cỏ biển, là môi trường thích
hợp cho việc cư trú, đẻ trứng, sinh sống và
phát triển của nhiều loại động, thực vật
hoang dã.
• Chức năng chắn sóng, chắn gió bão ổn định
bờ biển, chống xói lở, hạn chế sóng thần:
nhờ có thảm thực vật, đặc biệt thảm thực vật
rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô mà
các vùng ĐNN ven biển có chức năng bảo
vệ bờ biển khỏi bị tác động của sóng,
thủytriều, xói lở, sóng thần.
• Các chức năng khác: Ngoài các chức nói
trên, ĐNN còn đóng vai trò quan trọng tạo
môi trường thuận lợi cho các hoạt động
kinh tế của nhiều ngành khác nhau: nông
nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, giao thông
thủy, dịch vụ du lịch, khai thác khoáng
sản... Đặc biệt, ĐNN là nơi sinh sống của
80% dân số Việt Nam.
2.2.2. Giá trị của đất ngập nước
Việt Nam
Giá trị kinh tế của ĐNN: Góp phần quan trọng cho
sự phát triển của các ngành nông nghiệp, thủy sản,
lâm nghiệp, năng lượng, giao thông thủy. Các
dòng chảy thường xuyên tạo các vùng châu thổ
rộng lớn phì nhiêu (là vùng sản xuất nông nghiệp
trù phú), có khu hệ cá phong phú với sản lượng
cao, là nguồn lợi cung cấp cho nhiều cộng đồng Ảnh 14: Khu du lịch ven biển Cù Lao Câu, BìnhThuận dân cư sống xung quanh Giai đoạn sau năm 1989, các vùng ĐNN góp phần
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu 1 triệu tấn
gạo/năm (giai đoạn 1976-1988) đã trở thành nước
không chỉ cung cấp đủ gạo ăn mà xuất khẩu 3,4
triệu tấn gạo/năm (năm 2003 - bảng 4), đưa Việt
Nam trở thành nước xuất khẩu thứ 2 thế giới. Kim
ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản liên tục tăng,
thúc đẩy sự phát triển của một số ngành như công
nghiệp chế biến thủy hải sản. Năm 2002, khai thác
ven bờ đạt 1.434.800 tấn, đưa ngành thủy sản đạt
kim ngạch xuất khẩu 2 tỷ USD, đứng vị trí thứ 3 cả
nước (bảng 5). Nổi bật trong giai đoạn này là sự
phát triển mạnh của ngành du lịch dựa trên các giá
trị của ĐNN. Vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà, Côn Đảo,
các bãi biển nổi tiếng Phan Thiết, Vũng Tàu,
Phong Nha - Kẻ Bàng, các khu căn cứ cách mạng ở
VQG U Minh Thượng, các khu du lịch sinh thái
như VQG Xuân Thủy, VQG hồ Ba Bể... là điểm thu
hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước
(ảnh 14, 15, 16, 17).
Nguyễn Hữu Ninh, Mai Trọng Nhuận và nnk
(2003), lượng giá kinh tế một số vùng ĐNN điển
hình ven biển Việt Nam: cửa sông Bạch Đằng, cửa
sông Ba Lạt, cửa sông Văn Úc, cửa Đáy (bãi triều
Kim Sơn), đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, đầm Thị
Nại, cửa sông Tiền, bãi triều Tây Nam Cà Mau
(Phụ lục E). Kết quả cho thấy: vùng bãi triều Tây
Nam Cà Mau đạt giá trị cao nhất (tổng giá trị kinh
tế - TEV tính cho 1 ha ĐNN là: 4.593,91 USD), tiếp
đó là vùng cửa sông Tiền, cửa sông Ba Lạt và đầm
phá Tam Giang Cầu Hai (có TEV là 2.301,21
USD/ha), các điểm có giá trị thấp hơn như cửa
sông Văn Úc, đầm Thị Nại và thấp nhất là cửa
sông Bạch Đằng (TEV là 503,57 USD/ha). Theo số
liệu của khu Ramsar - VQG Xuân Thuỷ, tổng giá
trị khai thác loài Ngao năm 2004, ước tính đạt 7-10
triệu USD, góp phần rất quan trọng cho đời sống
nhân dân địa phương.
Giá trị văn hóa của ĐNN: ĐNN có những giá trị
văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng và khảo cổ quan trọng đối với cộng đồng địa phương cũng như quốc gia.
ĐNN Việt Nam là cội nguồn của nền văn minh lúa nước
2.2.3. Đa dạng sinh học
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, được coi là
một trong những trung tâm có mức ĐDSH cao trên
thế giới. ĐDSH có ý nghĩa rất lớn, là cơ sở sinh tồn
cho mọi sinh vật; cung cấp cho con người nguồn
lương thực và thực phẩm, các nguồn dược liệu
quan trọng, nguồn nguyên liệu cho công nghiệp,
cho xây dựng; duy trì và bảo vệ sức khoẻ cho con
người, văn hóa và thẩm mĩ,...
Các hệ sinh thái nước ngọt có khoảng 2611 loài
thủy sinh vật, có 1.403 loài tảo, 190 loài giáp xác,
147 loài trai ốc, 546 loài cá, 157 loài động vật
nguyên sinh,... Các vùng ĐNN nội địa lớn như
Đồng Tháp Mười, U Minh và hệ thống sông suối là
nơi chứa nhiều loại động thực vật đặc hữu. Các hệ
sinh thái ĐNN ven biển (rừng ngập mặn, rạn san
hô, cỏ biển, đầm phá, cửa sông) là nơi cư trú của
nhiều loài cá, chim di cư, cỏ biển, rong tảo,... Ở
vùng ven biển Việt Nam đã xác định được 350 loài
san hô tạo rạn (sống gắn bó cùng 2.000 loài sinh
vật đáy, cá và nhiều loài hải sản khác), 15 loài cỏ
biển, 667 loài rong biển, 94 loài thực vật ngập mặn.
Các loài này tạo nên nét độc đáo về sinh cảnh tự
nhiên và giá trị ĐDSH cao. ĐNN vùng cửa sông là
nơi có sự đa dạng về các loài chim định cư, di cư,
nơi phân bố của rừng ngập mặn, đầm lầy nước
mặn, cỏ biển và tảo. Các đầm phá miền Trung là
nơi cư trú của nhiều loài cá và chim di cư, có nét
độc đáo về sinh cảnh tự nhiên, chứa đựng giá trị
ĐDSH lớn.
Hiện nay, sản lượng thủy sản nước ta đạt trên 2.536
triệu tấn, trong đó khai thác hải sản đạt 1.426 triệu
tấn và nuôi trồng 1.110 triệu tấn. ĐDSH còn duy trì
và cung cấp nguồn gen quý như: Trai ngọc (Pteria
martensi), Bào ngư (Haliotis diversicolor), Đồi mồi
(Eretmochelys imbricata), Bò biển (Dugong
dugon)...
Tuy nhiên, sự mất mát và suy giảm ĐDSH có chiều
hướng gia tăng trong nhiều năm gần đây.
3.5.2. Một số tồn tại, thách thức trong quản lý đất ngập nước
a. Về hệ thống luật pháp
Việt Nam chưa có luật riêng về ĐNN, còn thiếu các quy định, pháp luật về quản lý, bảo tồn, sử dụng khôn khéo và phát triển bền vững ĐNN; thiếu những quy định cụ thể và rõ ràng về hệ thống quản lý nhà nước; thiếu sự thống nhất về cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban ngành, địa phương trong các hoạt động liên quan đến ĐNN và thiếu các chế tài để thi hành. Những quy định điều chỉnh trực tiếp hoạt động quản lý và bảo tồn ĐNN chủ yếu do Bộ và các địa phương ban hành, còn thiếu các văn bản mang tính pháp lý cao như Nghị định của Chính phủ. Hiện nay, mới chỉ có Nghị định 109/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất liên quan trực tiếp đến phân công trách nhiệm quản lý ĐNN. Các văn bản do Uỷ ban Nhân dân các địa phương
ban hành còn nặng nề về biện pháp hành chính,
thiếu các chế tài huy động sự tham gia của cộng
đồng trong khai thác ĐNN. Do đó, các văn bản
pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu của việc bảo tồn
và phát triển bền vững ĐNN.
Hệ thống chính sách và pháp luật để quản lý ĐNN
còn thiếu đồng bộ và chưa hoàn thiện. Các điều
khoản qui định pháp lý có liên quan đến ĐNN bị
phân tán, chồng chéo trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau, thiếu cụ thể, chưa đảm
bảo được tính khoa học và đồng bộ, chưa tính hết
các yếu tố kinh tế - xã hội nên rất khó thực thi hoặc
thực thi kém hiệu quả.
Nhiều thuật ngữ và khái niệm liên quan đến ĐNN
đã không được quy định thống nhất và giải thích
rõ ràng trong các văn bản pháp luật và chính sách
của Việt Nam
b. Về quản lý đất ngập nước
Một trong những thách thức rất to lớn đối với quản
lý, bảo tồn và phát triển bền vững ĐNN là sự gia
tăng dân số (khoảng 1,32%/năm), mật độ dân số ở
nhiều vùng ĐNN rất cao (ví dụ 276 người/km2
ở
các huyện ven biển), tỷ lệ đô thị hóa nhanh (đến
năm 2010 khoảng 33%) mà không được kiểm soát
hợp lý.
Các nhà quản lý và những người được hưởng
quyền lợi chưa hiểu biết đầy đủ, thấu đáo về chức
năng và giá trị của ĐNN đối với kinh tế, xã hội, sinh
thái, tầm quan trọng của quản lý, bảo tồn dẫn đến
việc sử dụng và ra quyết định liên quan trực tiếp
đến ĐNN còn thiếu tính thực tiễn và tính khả thi.
Hiện nay, quản lý ĐNN ở Việt Nam còn mang tính
đơn ngành, chồng chéo, thiếu phối hợp, thiếu tập
trung, chức năng quản lý ĐNN chưa được phân
định rõ.
Các chính sách về quản lý ĐNN thường không
nhất quán, thiếu tính hệ thống và thường bị thay
đổi theo thời gian nên đã gây ra những tác động
xấu như gây suy thoái, mất mát ĐDSH, ô nhiễm
môi trường.
Thiếu quy hoạch tổng thể quản lý ĐNN, các quy
hoạch cụ thể hoặc còn thiếu hoặc không phù hợp
với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng
vùng. Điều đó đã gây ra xung đột môi trường
trong việc sử dụng ĐNN, làm suy thoái tài
nguyên. Các quy hoạch quản lý lãnh thổ, phát
triển kinh tế, giao thông, hồ chứa, thủy lợi, thủy
điện, du lịch làm thay đổi hoặc gây trở ngại cho
việc quản lý ĐNN.
Việc quản lý theo mệnh lệnh hành chính từ trên
xuống thường khó huy động và khuyến khích
được sự tham gia và quyền tự chủ của cộng đồng.
Thiếu cơ sở dữ liệu ĐNN Việt Nam đồng bộ, hệ
thống, độ tin cậy cao, dễ cập nhật và sử dụng.
Các vùng ĐNN có giá trị cao vẫn chưa được quy
hoạch bảo tồn và quản lý có hiệu quả. Theo thống
kê của Cục Bảo vệ Môi trường năm 2001, "Các
vùng đất ngập nước có giá trị đa dạng sinh học và
môi trường cao", nhiều vùng ĐNN chưa có chính
sách quản lý, bảo tồn phù hợp
Đầu tư nguồn lực cho việc bảo tồn và phát triển bền
vững ĐNN chưa tương xứng với tiềm năng và giá
trị của nó. Nguồn vốn đầu tư cho đào tạo nhân lực,
nghiên cứu khoa học, xây dựng các mô hình phát
triển bền vững ĐNN, cho việc bảo tồn, bảo vệ môi
trường và tài nguyên vùng ĐNN còn ở mức thấp,
không hợp lý, thiếu cân đối.
Việc nghiên cứu và điều tra tổng hợp về ĐNN chưa
đầy đủ, thiếu đồng bộ và tính hệ thống. Đội ngũ
những người nghiên cứu và điều tra tổng hợp về
ĐNN chưa được chú trọng bồi dưỡng và đào tạo.
Các phương pháp nghiên cứu hiện đại chưa được
quan tâm đúng mức để cải tiến, vận dụng vào thực
tiễn Việt Nam. Chưa có được cơ sở dữ liệu đầy đủ
về ĐNN, kiểm kê và đánh giá đáp ứng được yêu
cầu phát triển bền vững cũng như quản lý và bảo
tồn ĐNN.
Nhận thức và kiến thức về quản lý và bảo tồn
ĐNN còn thấp, sự hiểu biết về chức năng, giá trị và
tầm quan trọng của ĐNN còn hạn chế. Công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức về ĐNN chưa
được chú trọng, chưa phù hợp với từng đối tượng
khác nhau. ĐNN chưa được đề cập trong các
chương trình giáo dục môi trường.
3.5.3. Một số đề xuất về quản lý đất ngập nước ở Việt Nam
a. Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về bảo tồn và phát triển bền vững đất ngập nước
b. Nâng cao hiệu quả và hiệu lực của hệ thống thể chế quản lý về đất ngập nước
c. Thực thi các biện pháp hỗ trợ cho việc quản lý đt ngập nước
d. Phát triển các biện pháp quản lý, bảo tồn và sử dụng đất ngập nước
e. Quy hoạch bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học vùng cửa sông, ven biển
f. Xây dựng và thực hiện quy chế quản lý tài nguyên ĐNN
4. Kết luận
4.1. ĐNN Việt Nam rất đa dạng và phong phú về
kiểu loại phân bố rộng khắp các vùng sinh
thái, có giá trị và vai trò to lớn đối với phát
triển kinh tế - xã hội, bảo vệ đất nước, xóa đói
giảm nghèo, duy trì và phát triển văn hóa, hạn
chế tai biến, bảo vệ môi trường, duy trì và phát
triển ĐDSH.
4.2. ĐNN Việt Nam là những hệ sinh thái rất nhạy
cảm, kém thích nghi với những thay đổi đột
ngột, dễ mất cân bằng. ĐNN Việt Nam đã và
đang bị suy thoái (môi trường sống, nơi di cư
của nhiều loài sinh vật bị phá huỷ, bị ô nhiễm,
ĐDSH và các nguồn tài nguyên ĐNN bị suy
giảm nghiêm trọng).
4.3. Những thách thức chủ yếu đối với ĐNN Việt
Nam là: dân số gia tăng quá nhanh, phương
thức và tập quán lạc hậu, sự nghèo đói tại các
vùng ĐNN và vùng xung quanh; hệ thống
chính sách và pháp luật để quản lý ĐNN còn
thiếu đồng bộ và chưa hoàn thiện; việc quản lý
thiếu thống nhất, thiếu phối hợp và thiếu tính
liên ngành; khai thác, sử dụng và bảo tồn
ĐNN chưa hợp lý; nguồn vốn đầu tư cho đào
tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học, xây dựng
các mô hình phát triển bền vững ĐNN, cho
việc bảo tồn, bảo vệ môi trường và tài nguyên
vùng ĐNN còn ở mức thấp, không hợp lý,
thiếu cân đối; chưa có được cơ sở dữ liệu đầy
đủ về ĐNN, đáp ứng được yêu cầu phát triển
bền vững cũng như quản lý và bảo tồn ĐNN;
nhận thức và kiến thức về quản lý và bảo tồn
ĐNN còn thấp; các quá trình tự nhiên như xói
lở, bão lũ, cháy rừng, mặn hóa, ngọt hóa và do
tác động của toàn cầu hóa, biến động môi
trường toàn cầu.
4.4. ĐNN Việt Nam đã và đang trải qua biến đổi
khá mạnh theo các xu thế sau đây:
a. Số lượng kiểu loại và diện tích ĐNN nhân
tạo (hồ thủy điện, thủy lợi, đầm nuôi thủy
sản, ruộng lúa, vùng xử lý nước thải...) tăng
lên, nhưng diện tích các kiểu ĐNN tự nhiên,
đặc biệt là rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn
san hô, bãi triều lầy, rừng tràm, hồ tự nhiên
giảm đi ngày càng mạnh.
b. Vai trò, giá trị sử dụng ĐNN đối với phát
triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, hạn
chế tai biến của ĐNN ngày càng tăng.
c. Chất lượng môi trường và hệ sinh thái ĐNN
ven đô thị, khu công nghiệp, vùng nuôi
trồng thủy sản và sản xuất lúa nước, rừng
ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô,... bị suy
thoái ngày càng mạnh, ĐDSH các vùng
ĐNN có xu hướng suy giảm.
d. Các đe dọa đối với ĐNN có xu hướng gia
tăng: thiên tai, chiến tranh, sức ép dân số,
khai thác quá mức và bất hợp lý, bất cập về
phương thức, cơ chế, bộ máy quản lý, thiếu
sự kết hợp giữa chiến lược phát triển kinh tế
với bảo vệ tài nguyên, môi trường, ĐNN.
e. Nhận thức về chức năng, giá trị, về bảo tồn
ĐNN ngày càng được nâng lên nhưng còn
xa mới đáp ứng được yêu cầu của sử dụng
khôn khéo và phát triển bền vững ĐNN.
f. Cách tiếp cận, công cụ quản lý ĐNN ngày
càng hiện đại, khoa học, đa dạng hơn. Số
lượng các văn bản pháp luật liên quan tới
ĐNN, số lượng cơ quan, bộ phận quản lý
ĐNN ngày càng tăng, nhưng sự phối hợp,
hiệu lực, tính hiệu quả, tác động tích cực của
hệ thống thể chế, quản lý không tăng tương
ứng và còn khiêm tốn.
g. Số lượng các đề tài, dự án, công trình khoa
học liên quan tới ĐNN tăng mạnh, tiềm lực
khoa học (số lượng cơ quan, số lượng cán
bộ, trang thiết bị,...), nghiên cứu về ĐNN
tăng lên nhưng kết quả nghiên cứu khoa
học về ĐNN chưa được sử dụng và phát
huy hiệu quả.
h. Công tác tuyên truyền giáo dục về ĐNN
ngày càng được chú ý, nhưng công tác đào
tạo chính quy về ĐNN chưa được quan tâm
đúng mức, chưa đáp ứng được yêu cầu về
sử dụng, quản lý và bảo tồn ĐNN.
i. Số lượng đề tài, dự án hợp tác quốc tế, số
lượng các cơ quan nước ngoài, tổ chức quốc
tế liên quan ĐNN mà Việt Nam có tham gia
ngày càng tăng và càng có tác dụng tích cực
cho việc bảo tồn, sử dụng, quản lý ĐNN.
4.5. Bảo tồn và phát triển bền vững ĐNN cần có sự
quan tâm, tham gia của các ngành, các cấp, cần
có một chiến lược quản lý tổng hợp lâu dài cùng
với một khung pháp lý và thể chế phù hợp.
Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái
ĐNN ở Việt Nam mới chỉ là bắt đầu, rất cần
cần sự hỗ trợ của các nhà tài trợ, các tổ chức
quốc tế và trong nước.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro