Các Vĩ Nhân Tỉnh Lẻ-Lenghiabk05
CÁC VĨ NHÂN TÌNH LẺ
Trời mưa mãi. Cái quán giải khát của phố huyện chỉ một mình tôi ngồi. Cốc cà phê đã hết từ lâu, lớp nước đá tan đọng bên dưới. Góc này và góc kia, những chiếc bàn bằng đá li- tô nhớp nháp đứng giữa những chiếc ghế chân sắt, trông lạnh lẽo và thô bỉ. Làn ánh sáng trắng đục từ ngoài trời hắt vào như một thứ nhựa dính bám lên các đồ vật, khiến chúng thảm hại hơn. Ở quầy hàng, cô mậu dịch viên quai mồm ngáp, không buồn che đậy hai hàm răng đã hỏng men. Lát sau, cô lấy chiếc lược ra, cẩn thận chải lại mớ tóc uốn loăn xoăn, kiểu tóc thường thấy ở các thị xã xa đường quốc lộ. Một lũ ruồi vo ve lượn từ bàn này qua bàn khác, va đập vào tủ kính rồi tìm cách lọt vào trong, mon men bò trên những chồng bánh nướng bánh dẻo đã khô cứng.
Tôi cứ nhìn đồng hồ mãi, muốn điên lên vì cơn mưa rả rích. Thời tiết này, dễ phải chôn chân ở đây rồi kiếm một chỗ ngủ vạ vật cho qua đêm, chờ sáng mai mới về được. Tỉnh lỵ Q quê tôi ở bên kia một dòng sông lớn. Trời mưa này, nhà thuyền nghỉ không chở khách. Dù có hò rát cổ hay khóc hú lên họ cũng cứ khép cửa, neo thuyền không sang. Cầu không, phà không, mà phương sách cuối cùng là bơi vượt sông cũng không thể được vì tôi vốn nhát nước và yếu phổi.
- Mưa thối trời thối đất. Kiểu này đến phải đong thóc phòng đói thôi…
Cô mậu dịch viên nói bâng quơ. Hai bàn tay mập mạp của cô đập chiếc lược xuống mặt quầy hàng, rõ là đôi bàn tay của một người đã quen cày cấy.
Tôi hỏi cô:
- Mưa này hại lúa lắm phải không?
Cô gật đầu đáp:
- Lúa thối mà khoai ven bãi cũng thối luôn. Rồi còn đói vàng mắt.
Tôi nhìn những lớp nước xiên cheo chéo bên ngoài, không hề hứa hẹn một tia hy vọng nào, vừa lo vừa nản:
- Trời này tôi đành bó tay thôi.
Cô gái gốc quê gật mái đầu tóc quăn, có ý làm dáng:
- Bó tay là cái chắc. Nhưng từ giờ tới chiều còn một chuyến ô tô nữa, thế nào cũng có khách chờ đò. Anh kết bạn với họ mà thuê nhà trọ.
Ý nghĩ của cô ta xác thực. Chưa bao giờ tôi phải ngủ qua đêm ở phố huyện. Nhưng tôi thường nghe mọi người nói rằng muốn ngủ trọ ở đây ít nhất phải có một, hai người bạn đồng hành. Cái dãy phố ven sông này giống như cửa gió, nó đón mọi thứ gió của bốn phương trời hội tụ. Đủ các loại người buôn xuôi bán ngược, những kẻ lỡ độ đường, những người thất cơ lỡ vận theo đường tỉnh lộ và theo dòng sông mà ghé độ ở đây một vài đêm, một vài ngày, nghỉ ngơi hoặc toan tính, nuôi dưỡng những hy vọng hoặc chất chồng thêm những thất vọng cho quãng đường sắp tới của mình. Những câu chuyện ly kỳ về thân phận con người thường được truyền đi từ các phòng trọ. Các may mắn và tai ương cũng thường xảy ra nơi ấy, nhưng tai ương bao giờ cũng nhiều hơn. Tôi nhớ lại lần lượt những chuyện đã được nghe về phố huyện ven sông này. Rồi lo âu phấp phỏng, từ phút ấy tôi chỉ ngóng ngóng chờ xem chuyến xe thứ hai đã tới phố huyện hay chưa?
Chừng như hiểu được tâm trạng tôi, cô mậu dịch viên nói:
- Thế nào cũng có chuyến xe nữa. Mọi hôm nó tới bến lúc ba giờ.
Nhưng trời đất này, có khi phải sập tối.
Ngừng vài giây, cô nói thêm:
- Anh có đói bụng thì mua bánh mà ăn. Ở đây, chẳng - có gì hơn đâu.
Vâng, cám ơn cô.
Tôi đáp rồi bước tới quầy, mua một cặp bánh chưng. Quả tình tôi muốn chờ ngớt mưa đi tìm một quán bún hoặc phở khả dĩ ăn một bát cho ấm bụng. Nhưng tình thế này, suy tính ấy đã trở nên sai lạc. Trở lại chỗ ngồi của mình, tôi bóc bánh ăn. Mỗi chiếc bánh có một cục lá độn bên trong. Gạo nếp dẻo nhưng nhân lại bằng thứ đậu cua nhạt nhẽo. Cô bán hàng buồn bỗng cất tiếng hát một điệu chèo. Tiếng mưa rì rào không ngớt bên ngoài làm nhạc đệm cho khúc hát của cô. Xưa nay, tôi không thích nghe hát chèo, nhưng tôi biết làn điệu chèo đạt tới đỉnh cao những cảm xúc của con người. Không một ca khúc mới nào chiếm lĩnh được miền đất ấy, không ca khúc mới nào có thể gây cho con người trạng thái hoàn tất và trọn vẹn đến thế khi nó muốn dẫn dắt họ bước tới vùng hoan lạc khi hay trượt xuống vực sâu của nỗi xót xa. Những làn điệu thảm khốc của chèo dường như không còn là âm thanh đơn thuần mà chúng đã trở thành sự huyến dụ vật chất tựa bàn tay lôi kéo, tựa ánh mắt đắm chìm, tựa tiếng kêu xé ruột đẩy con người tới cõi tận cùng của đau đớn não nề. Phải chăng vì cơn mưa này, vì tiếng rì rào bất tận của dòng sông chìm trong màn nước trắng bạc kia, vì khoảng không gian bao la không còn hạn hẹp bởi các phố xá, tường vách, không còn chói chang bởi tiếng nhạc disco và ánh sáng đèn thuỷ ngân, phải chăng cảnh trí thay đổi đã đem lại cho tôi một tâm trạng mới và một cảm xúc thâm sâu khi tôi nghe tiếng hát chèo sai lạc…
Mải mê với ý nghĩ ấy, tôi chợt giật mình khi hai người khách mới bước vào quán. Bất thần, tôi liếc đồng hồ:
- Bốn giờ mười lăm phút. Chuyến ô tô thứ hai đã trễ không quá một tiếng rưỡi.
Hai người khách mới cởi áo mưa, rũ xoàn xoạt một cách tự nhiên, rồi quẳng chúng lên chiếc bàn trống gần cửa, bước vào tìm chỗ ngồi. Họ lượn đi lượn lại hai lần, để tìm chiêc bàn sạch nhất:\
- Thôi, ngồi đây.
Người cao gầy, trắng trẻo bảo bạn. Anh kia da bánh mật, thấp đậm, đôi mắt đen dài. Họ cùng xách thứ cặp giả da, mài đen với những khóa lớn, khóa nhỏ mạ kền. Chắc chắn đó là thứ hàng của nước ngoài.
- Kiếm vài chiếc bánh chưng chén đã. No bụng rồi muốn nói chuyện trên trời dưới biển gì cũng xong.
Người cao gầy nói tiếp. Đoạn, anh ta giơ tay vẫy cô mậu dịch viên:
- Đem cho anh vài chiếc bánh ra đây.
- Vâng ạ.
Cô gái to béo đáp rồi cung cúc xách chùm bánh chưng tới đặt trên bàn. Tôi chưa hết ngạc nhiên anh ta đã lại nói tiếp, cũng với giọng sai phái như lúc trước:
- Pha ấm chè tráng miệng nhé. Hồi này chè có khá hơn không hay vẫn thứ chè bồm ngang nhà lúc trước:
- Không đâu ạ…
Cô mậu dịch viên đáp: Em đã mua chè Thái chính cống rồi.
Nói xong, cô hối hả chụp chiếc nón vẫn ném lăn lóc dưới sàn lên đầu, vượt qua khoảng sân đang rào rào mưa để tới dãy nhà nhỏ phía sau, chắc hẳn là kho hay và bếp. Vẻ lười nhác thô lậu biến mất, cô gái xăng xái, tươi tỉnh hẳn lên. Và dường như một nỗi sợ hãi mơ hồ nào đó chế ngự cô, khiến ánh mắt cô vừa thăm dò lấm lét. Chừng hai phút sau, cô trở lại với chiếc phích Trung Quốc cũ, được bọc cẩn thận bằng giẻ vụn. Buông gấu quần xuống, cô lôi trong quầy ra một chiếc ấm trà nhỏ có lẽ đã mốc thếch từ lâu, rửa đi rửa lại bằng nước mưa hứng ở mái hiên. Rồi, cô tráng lần nữa bằng nước sôi trong phích, đổ trà vào pha. Trong lúc đó, hai vị khách bóc bánh ăn. Họ ăn tóp tép, ngon lành. Khi cô gái bưng đĩa ấm chén tới, bốn chiếc bánh chỉ còn là một đống lá trên mặt bàn.
- Dọn đi, dọn đi cho anh.
Người cao gầy hất hàm bảo cô mậu dịch. Dáng điệu uy quyền ấy càng khiến tôi tò mò. Trong lúc tôi đang cố cắt nghĩa mối quan hệ giữa người khách lạ với cô bán hàng thì chính anh ta đã ngẩng lên nhìn tôi qua đôi kính cận dày cộp:
- Lại đây, lại đây uống nước cậu.
Cách ăn nói suồng sã khiến tôi ngạc nhiên nhưng vẻ tự tin của anh ta chinh phục tôi. Dường như bị ảnh hưởng sự phục tùng tôi đi tới ngồi bên anh ta, trước chén nước trà nghi ngút khói.
Lúc đó, cô mậu dịch viên cất tiếng:
- Anh ấy cũng về Q đấy.
Người đeo kính trắng nhìn chõ vào mặt tôi:
- Cậu dân ở Q à?
Tôi gật đầu:
- Vâng.
Anh ta nhíu mày, lục tìm trí nhớ:
- Quái lạ, sao tôi không biết nhỉ. Hồi nhỏ, cậu học trường nào?
Tỉnh lỵ có ba trường phổ thông cấp I. Nhưng tôi không học ở một trong số ba trường ấy mà học ở một làng chuyên trồng thuốc lá với hành tây ngoại thị. Cái làng ấy nổi tiếng về sự trù phú cũng như về những người đàn bà có biệt tài ứng đối trong giao tiếp. Tôi đáp:
- Trường tôi học ở Ngàn Sơn.
- À, thể nào tôi không nhớ được mặt cậu. Nhưng dẫu sao, chúng ta cũng là đồng hương. Anh em ta kết bạn được đấy. Tôi là Vũ Sơn, nhà báo. Còn đây là thi sĩ Thanh Dương. Cậu tên là gì?
- Tôi tên Nam, làm thợ buồng tối.
Tôi đáp, với một chút mặc cảm vì nghề nghiệp của mình chẳng có gì đặc sắc so với họ. Nhưng Vũ Sơn đã thân mật vỗ vai tôi:
- Nghề ấy là sướng nhất đấy. Mưa không đến mặt nắng không đến đầu. Giá mà đổi được tôi đổi nghề cho cậu ngay. Thôi, uống nước đi cho nóng.
Bàn tay anh ta mỏng, mềm. Nhưng tôi thấy nó lạnh như con cá nhơm nhớp mồ hôi. Đó không chỉ là một cảm thức mơ hồ, mà giống như sự đoán định. Tuy thế, tôi cũng thầm cảm ơn vẻ hồ hởi của anh ta vì nó bớt cho tôi rất nhiều lo âu vẩn vơ và nỗi cô đơn. Chúng tôi lặng lẽ uống chè, hết tuần này tới tuần khác. Khi nước nhạt, Vũ Sơn lại gọi cô mậu dịch viên pha ấm trà khác. Cô gái vẫn ngồi phía sau quầy hàng, đon đả phục vụ ngay. Vẻ mặt cô ta ngoan ngoãn như vẻ mặt của một con cún tới bữa ăn. Tôi đưa mắt nhìn Vũ Sơn dò hỏi, nhưng anh ta dường như không thèm để ý tới vẻ băn khoăn của tôi. Gỡ kính lau song lại đeo vào, đầu ngẩng cao nghiêm nghị anh nhìn ra làn mưa trắng xóa. Những đợt nước rây chéo qua khung trời, lúc thưa lúc mau, không một phút ngừng. Ánh nắng chiếu qua màn nước lúc đang trưa ánh lên như bạc giờ đã ngã sang màu tro tím. Hơn năm giờ chiều rồi. Chẳng mấy chốc trời sẽ tối sập xuống ngay. Lẫn trong tiếng rì rào êm nhẹ của dòng sông, tôi đã nghe tháy những cơn gió reo qua dãy cột điện trong các khu vườn quanh phố.
- Có lẽ chúng ta nên đi tìm quán trọ.
Tôi rụt rè đề nghị hai người. Lúc này, nhà thơ Thanh Dương mới lên tiếng:
- Anh Nam có lý đấy. Đi thôi.
- Ờ, đi.
Vũ Sơn đáp với giọng thờ ơ rồi đứng lên. Chúng tôi trùm áo mưa đi tới quán trọ gần nhất. Suốt quãng đường, vẻ đăm chiêu trên gương mặt nhà báo khiến tôi không dám bắt chuyện. Anh ta đang mải nghĩ gì đó, những nếp nhăn hằn trên trán. Cần cổ gầy guộc vươn ra phía trước. Những giọt nước mưa bám đầy trên hai má và chảy dọc theo sống mũi nối nhau rơi xuống cằm.
Chúng tôi lội bùn lép nhép, cố giơ cao gót chân để bùn khỏi bắn lên. Đi ngược lại phía chúng tôi, một đứa bé dong chiếc xe bò chở gạch. Chú bé ở trần, mưa chảy thành dòng từ đầu xuống chân. Những món tóc tơ của nó dính bết vào trán. Nhiều lắm, nó mới được mười hai tuổi.
- Vắt rừ rừ rừ…
Chú bé quất cái dây da đen lên lưng con vật và đưa mắt tò mò nhìn chúng tôi. Đột nhiên, Vũ Sơn cất tiếng quát:
- Mưa gió thế này còn dong xe đi hử? Bố mẹ mày đâu rồi?
Chú bé đánh xe bò đứng khựng lại, sợ hãi nhìn người đàn ông không quen biết vừa quát nó một cách vô lý. Mắt anh ta đỏ hoe, giương lên sau cặp kính. Thằng nhỏ đứng như trời trồng, không nói năng chi. Tôi ngỡ rằng Vũ Sơn sẽ còn nói tiếp điều gì đấy với đứa trẻ, nhưng anh ta đã lằm lằm bỏ đi, giẫm những bước chân giận dữ xuống bùn khiến nhà thơ Thanh Dương lẫn tôi cuống cuồng bước theo và đứa bé nhìn ngơ ngác. Vượt qua hai ngôi nhà nữa, Vũ Sơn đột ngột cất tiếng:
- Thời tiết chó đẻ.
Chúng tôi cùng im lặng không đáp. Anh ta nói tiếp, với một giọng gộc lên vì đau đớn:
- Thật khốn nạn cho chúng ta. Trời đất này, con em người ta ngồi trong cung văn hóa tập múa, gõ đàn hay chơi bóng. Còn con em mình dong xe bò đi chở gạch kiếm tiền. Cái trái đất ông Bàn cổ nặn ra thì tròn mà số phận con người lại méo. Các cậu thử nghĩ xem có quốc gia nào nghèo khổ hơn nước mình hay không.
Cả nhà thơ trầm tư lẫn tôi đều im lặng. Chẳng có gì mới hơn để trả lời câu hỏi ấy. Nhưng tôi đồng cảm với nỗi cay đắng của Vũ Sơn. Anh ta vẫn bước đi hối hả, đầu cúi gằm, và từ đôi mắt đỏ hoe những giọt nước mắt thầm lén chảy qua mi, hòa với nước mưa, chảy dọc theo sống mũi nhọn.
Chừng dăm phút sau chúng tôi tới quán trọ. Một ngôi nhà rất rộng, với bốn căn phòng vuông như hình bánh chưng, các bức tường ám khói ẩm nước; những chiếc giường gỗ cũ kĩ, thô kệch kê đối diện nhau như giường ở bệnh viện. Cứ hai giường có một bàn nước nhỏ, trên đặt ngọn đèn dầu hỏa bóng hình trái đào. Một cái lọ thủy tinh khô khốc xưa kia dùng để cắm hoa, giờ là nơi trú náu cho vài ba con nhậy. Không có tủ đứng, cũng không có kệ chứa đồ nên khách trọ tùy ý đặt hành lý của mình ở cuối giường ngủ hoặc trên bàn nước. Chủ trọ là một người đàn bà to béo, khuôn mặt dài, hai hàm răng thô và khỏe như răng ngựa. Bà ta sắp cho ba chúng tôi ở phòng với một ông lão người Nùng, gầy gò, ủ ê. Ông cụ từ miền thượng du sông theo đò dọc xuống đây. Ngày mai, ông cụ sẽ gửi mua vé ô tô chợ đen để về Hà Nội thăm đứa con trai độc nhất mổ dạ dày.
Sáu giờ rưỡi, trời tối sập. Mưa càng nặng hạt hơn. Gió từ thượng nguồn sông đổ về. Tiếng rít lạnh lẽo, thâm chú bao quanh các căn nhà, vây bọc con người bằng những ảnh hình huyền bí, biến họ trở thành những đứa bé yếu đuối cần chở che. Vào thời khắc ấy không ai muốn bước chân ra ngoài. Những cây đèn trái đào được thắn lên trong các căn phòng. Khách trọ túm tụm tán chuyện hoặc theo hành lang chung đi tới căn bếp của bà chủ trọ. Ở đây bà chủ bán trứng vịt luộc, bánh sắn và xôi với giá cắt cổ. Trong ba người, tôi ít tuổi hơn cả nên tự nguyện xuống bếp, mua đồ ăn đem lên. Chúng tôi vừa ăn vừa hỏi chuyện ông lão người Nùng.
- Cậu có vợ con chưa?
- Chưa.
- Thế là khỏe xác.
Nhà báo nói to: Tôi một vợ hai con rồi. Cậu Thanh Dương này cũng thế. Chỉ có điều khác là vợ con tôi ở Q, còn cậu ta lấy được gái Hà Nội, gia đình ở cả bên ngoại.
Tôi nói:
- Không phải tôi muốn khỏe xác, mà tôi chưa tìm được người cả tôi lẫn bố mẹ tôi đều ưng thuận.
Vũ Sơn quay lại nhìn tôi như quái vật, rồi anh ta xì bọt qua kẽ răng:
- Tại sao cậu lại có những ý nghĩ đần độn thế. Cậu muốn bố mẹ cậu và cậu yêu chung một người à? Vậy thì hoặc là cậu hoặc là ông bà già của cậu phải mắc chứng liệt thần kinh và không còn làm chủ được ý nghĩ của bản thân nữa. Liệu cậu có muốn ôm ấp một cô nàng răng đen, váy lĩnh, tóc bỏ đuôi gà không? Nhưng đó chính là người đẹp lý tưởng của cố nội, cố ngoại, ông nội, ông ngoại cậu. Người cùng một thế hệ còn khó dung hòa được các quan niệm sống nừa là người cách biệt nhau hàng vài chục tuổi…
Nhà báo ngừng lại. Xưa nay, chưa ai nói nặng lời với tôi đến thế nhưng vẻ chân thành và nồng nhiệt của anh ta khiến tôi không mảy may tự ái. Vũ Sơn không để ý tới tôi, nói tiếp:
- Nếu còn tự do thì hãy giữ lấy tự do cc mình, được ngày nào hay ngày ấy. Vợ con là thứ xiềng xích ghê gớm nhất mà đã chui đầu vào anh chớ hy vọng thoát ra…
Dứt lời, anh ta vớ lấy điếu cày móc ở bàn nước, nạp thuốc châm lửa rít sòng sọc. Đốm lửa cháy sáng trên nỏ cày rọi vào gương mặt, rõ những nếp nhăn li ti trên gò má và đuôi mắt. Chợt, anh ta quay lại chăm chú nhìn tôi:
- Nhưng thôi, vớ được cô nào tử tế thì cưới tắp lự cho xong. Dễ mấy ai sống được cảnh độc thân trên cõi đời này. Có cha, có mẹ có vợ, có con còn buồn như trấu cắn nữa là trơ trọi một mình. Cậu tuổi gì nhỉ… Tuổi Sửu à, vậy thì sang năm cưới vợ là đúng số.
Thanh Dương ngồi bó gối từ lâu, lặng lẽ nhìn ngọn lửa, anh ta thuộc loại người thầm kín. Tôi cũng không nói gì thêm. Vũ Sơn nhắm đôi mắt mệt mỏi vài giây rồi lại mở ra, nhìn đăm đăm ô cửa. Bên ngoài lớp kính cũ kỹ, hoen ố, đêm đen như than. Thi thoảng, một tia chớp mỏng manh vẽ lên chân trời rạch lửa ngoằn ngoèo, sáng chói. Khoảnh khắc đó, thấy rõ những hạt mưa thu mài miệt rơi.
° ° °
Tỉnh lỵ Q có tất thảy năm dãy phố. Đa phần là những dãy phố đã được dựng lên sau thời kỳ tiêu thổ kháng chiến, rồi dần dà người ta sửa mái, nâng tầng, cải cách dáng nhà hoặc nắn lại khuôn cửa. Tùy theo túi tiền, tùy theo con mắt thẩm mỹ, tùy theo các cơn hứng khởi của các khổ chủ mà những ngôi nhà nơi đây được định hình. Không còn một mớ hổ lốn nào đa tạp hơn kiến trúc ở đây. Từ thứ nhà hiên bức bàn cổ tới các biệt thự tí xíu, rập khuôn theo kiểu kiến trúc của các biệt thự tiểu chủ mà ta hay gặp nhan nhản ở Cần Thơ, Thủ Đức, Long An hoặc Mỹ Tho sau ngày giải phóng. Từ những căn nhà lợp nứa, tường trét tốc- xi xoàng xĩnh tới những nhà mươi, mười lăm gian, cổng uốn nặng nề, long chầu phượng múa gắn mảnh thủy tinh hoặc mảnh sứ vỡ trông lóa mắt. Duy chỉ hè phố là vẫn lát đá trắng như xưa. Giữa các phiến đá ấy, lún phún từng đám cỏ kim và nơi chân tường, những dây cỏ leo mềm mại vươn lên những chiếc vòi xanh nõn.
Trong thị xã, đám người trung niên có thể biết rõ lai lịch từng căn nhà, xây cất năm nào, sửa chữa năm nào, nhờ món lợi tức trời cho hoặc nhờ từng đồng xu tích cóp… Cũng như thế, dường như người ta quen biết nhau từ đầu phố tới cuối phố, rồi từ phố nọ sang phố kia. Tôi rời Q, năm mười hai tuổi, ra Hà Nội làm phụ buồng tối cho ông chú ruột.
Từ đó, tôi ở lì ngoài thủ đô, họa hoằn mới về quê một hai bữa. Lần này, bố tôi ốm nặng, chú tôi thuê thợ buồng tối ở một cửa hàng khác, bảo tôi về Q, chăm sóc phụng dưỡng bố vài tháng. Cũng dịp đó, Vũ Sơn nghỉ dưỡng bệnh tràn nước phổi, Thanh Dương được ba tháng tự do sáng tác, không còn bị quản thúc bởi tờ báo của bộ X nữa. Trời đã cho chúng tôi cơ hội đó để gắn bó, thân thiết với nhau.
Ngay từ hôm đầu tiên, tôi đã chứng kiến cảnh Vũ Sơn, đi giữa các đường phố kiêu hùng như một gã gà trống độc nhất vô nhị dạo qua những chuồng gà mái. Ví như thế kể cũng lố, nhưng quả tình tôi đã phải sửng sốt thán phục khi cả ông chủ tịch thị xã lẫn mấy bà ngồi bán vé số đều chào anh ta niềm nở, vồn vã như nhau. Ở quán thịt chó bến ô tô nội tỉnh, ông chủ quán đầu hói, vác bụng lặc lè chạy ra:
- Nhà báo, vào đây đã. Hôm nay tôi có món dồi nướng và nhựa mận ngon tuyệt vời.
Tới cuối vườn hoa thiếu nhi, một thiếu phụ chải chuốt, mặc áo lụa thêu vẫy gọi rối rít:
- Vào đây. Hôm nay chị nấu xôi gấc vừng dừa. Chưa bán cho ai đâu. Thật may, chú nếm trước đã.
Vũ Sơn ngẫm nghĩ vài giây rồi tặc lưỡi:
- Vào.
Anh ta giơ tay ngoắc chúng tôi. Thiếu phụ chủ quán hớn hở đơm xôi vào chiếc đĩa Giang Tây hoa cúc, cẩn thận ém những hạt xôi đỏ tươi, nhẫy mỡ cho gọn gàng. Rồi bàn tay héo úa của chị rải những hạt vừng đã lột vỏ lẫn với những sợi dừa nạo lên trên, khéo léo và say mê như múa.
- Ăn đi các cậu.
Vũ Sơn ra lệnh rồi cầm đũa trước. Trong khi đó, chủ nhân sửa soạn ấm chén, pha trà. Mùi chè ướp hoa nhài ngào ngạt bay.
- Thằng Lữ nhà chị dạo này sao?
Vừa ăn, Vũ Sơn vừa buông tiếng hỏi thiếu phụ. Người đàn bà chắc chỉ chờ có thế, vội vã lấy giọng than vãn:
- Khổ quá chú ơi. Lâu ngày chú không về…
Nhưng chính lúc đó, anh ta giơ tay lên cắt đứt câu chuyện một cách tàn nhẫn:
- Thôi đã, lúc khác nói chuyện ấy. Giờ tôi phải đưa hai người bạn đến gặp anh Dự.
Dự là ông chủ tịch xã. Thiếu phụ im bặt. Chị bưng khay trà đặt lên bàn rồi quay vào nhà trong. Chúng tôi uống trà xong đứng dậy cáo từ. Thiếu phụ vội vã chạy ra:
- Chào các chú, lúc nào rảnh mời các chú tới chơi.
Chị cười đon đả, nhưng những nếp nhăn hằn sâu hai bên đuôi mắt. Vũ Sơn gật đầu, dáng điệu của một viên tướng hạ cố tới ăn suất cơm đại táo với binh sĩ. Chúng tôi đi theo anh, như hai kẻ tháp tùng. Dọc hè phố, người ta thần thì chỉ trỏ. Không cần thính tai lắm, cũng biết được họ phẩm bình:
- Nhà báo Vũ Sơn đi với ai thế?
- Thanh Dương, người vẫn có thơ ngâm trong buổi tiếng thơ trên đài.
- Không, Thanh Dương còn lạ gì, cái anh chàng tóc rậm mặc áo trắng kia.
- Anh, tay ấy thì chưa nghe nói đến…
- Chắc cũng là một nhân vật quan trọng. Anh Vũ Sơn là gì có thời gian mà chơi với những kẻ tầm xàm…
Đi hết dãy phố đó, tới ngã tư, Vũ Sơn quay lại bảo tôi:
- Cậu thấy đấy, ở Q người ta coi những ai được chơi với tôi là vinh hạnh. Cậu phải khao chúng tôi vì niềm vinh hạnh ấy.
- Vâng, tôi sẵn lòng khao hai anh - Tôi đáp - Vì nhờ có anh mà đêm qua tôi yên tâm ngủ. Đó là đêm đầu tiên tôi ngủ xa nhà.
Vũ Sơn cười. Thanh Dương cũng cười theo, đôi mắt đen của nhà thơ này lúc nào cũng ẩm ướt. Tôi cùng họ vòng trở lại bến ô tô nội tỉnh. Ở đó, trong quán thịt chó của ông chủ hói, chúng tôi thưởng thức thứ rượu cuốc lủi cháy cổ với dồi nướng ướp mỡ, thịt luộc ướp giềng, nhựa mận, móng chó hầm nhừ. Trời mát, những làn gió tung tăng đuổi đám lá kim phượng trên đường. Đôi khi, một lớp bụi trắng mờ mờ bốc lên rồi lát sau không gian lại trở nên trong suốt. Tiếng chim từ vòm cây hoàng lan bên đường vọng sang, lẫn với mùi nước hoa lãng đãng. Bên ngoài đám người đang say sưa chè chén và la hét quanh những chiếc bàn nhớp nháp kia là khung trời thu tím. Màu tím mơ hồ như có bụi phấn rắc trong khí quyển. Và sát những nóc nhà phố xá, vài đám mây trắng lững thững trôi. Rượu ngà ngà khiến máu tôi rạo rực. Bỗng dưng, tôi buột miệng kêu:
- Giá mà có một cây đàn. Và ai biết hát…
Thanh Dương đang lau miệng. Anh ta bỏ chiếc khăn xuống, trả lời tôi:
- Điều ước đó thì Vũ Sơn có thể rút từ túi áo của anh ấy ra ngay.
Vũ Sơn gỡ kính xuống lau rồi lại đeo vào theo thói quen, anh bảo chú bé phụ bếp:
- Đi gọi anh Ngọc Sang cho chú. Nhớ bảo đem theo đàn.
Chú bé vâng một tiếng gọn lỏn rồi chạy vụt đi. Chừng mười phút sau, nó hổn hển quay lại:
- Có rồi chú Vũ Sơn ạ.
Chú bé chưa dứt lời, một chiếc Vet- spa đã lượn tới đỗ sát cửa quán cơm. Một chàng trai thấp đậm, tóc dài gần chấm tai bước vào: anh ta cúi thấp đầu chào khiến những món tóc rũ xuống che kín mặt. Khi người trai trẻ ngước lên, tôi thấy đôi mắt anh ta rất lớn, luôn mở rộng và như luôn bị bao phủ bởi một lớp nước trong suốt. Vũ Sơn bảo:
- Bạn tôi nghe tiếng tăm cậu từ Hà Nội. Hôm nay về quê anh ấy muốn được thưởng thức giọng ca của Ngọc Sang.
Người ca sĩ cười chào tôi lần thứ hai. Còn Thanh Dương, hẳn đã nhiều lần gặp gỡ. Chàng trai gỡ cặp kính mát, bỏ vào túi áo. Anh ta mặc một chiếc sơ mi in các khối màu đậm nhạt chồng chéo lên nhau, xen vào đó là những chấm trắng li ti như những hạt bột sắn bị một bàn tay vô tình ném tới. Chiếc quần Jin bó sát cặp đùi. Đôi giày da đế rất cao và thô khiến ta liên tưởng tới hai hột lạc được cắm vào hai que tăm. Dẫu sao, dáng vẻ bên ngoài của anh ta cũng trung thành với một ca sĩ tỉnh lỵ.
Vũ Sơn quay sang tôi, nghiêm mặt nói:
- Tôi nói cho cậu rõ, cả đám ca sĩ nổi tiếng ngoài trung ương cũng chẳng có thằng nào nghệ sĩ như cậu Ngọc Sang này. Đã ba bốn lần phóng viên đài phát thanh về đây thu giọng hát của cậu ấy. Rồi trong nháy mắt trở nên êm dịu, âu yếm, anh gật đầu bảo người ca sĩ kia:
- Hát đi mày. Trời đất này mà không được nghe hát thì phí cả tuổi xuân…
Ngọc Sang lên dây đàn, dạo một khúc nhạc ngắn rồi bắt đầu hát. Giọng anh ta ấm và khỏe, nhưng trong lối phô diễn tình cảm có cái gì đó sai lệch và thô nháp, những cảm xúc anh ta đem tới cho người nghe thường chênh vênh hoặc vượt quá cái ranh giới của sự no đủ, khiến họ muốn co lại, muốn được đẩy lùi ra, tựa như khi đi xem phim màn ảnh rộng mà phải ngồi quá gần, hay ngắm một người đàn bà đẹp mà bị soi vào từng vết mụn ruồi hay từng mụn trứng cá.
…”Hỡi ơi Vê- ra, thành phố mênh mông, làm sao anh tìm được, ôi cặp mắt đắm say của người tôi yêu…”
Cặp mi rậm của người ca sĩ khép lại, tiếng ngân rung động không gian, những sợi gân cổ nổi trên cần cổ lực lưỡng. Giây phút ấy, anh ta không còn hát cho người khác nghe mà hát để thỏa mãn cơn đam mê của chính mình. Những ngón tay búng trên đàn run rẩy, hai gò má chàng ca sĩ đỏ rực lên, cặp mắt lút chìm sau lớp nước long lanh của những cảm hứng khiến anh ta hoàn toàn biệt lập với người nghe, với cái quán cơm xoàng xĩnh ám khói nơi bến xe, với khoảng không gian chú sầu nơi tỉnh lỵ. Phải chăng phía sau những âm thanh cuồng nhiệt kia là tro bụi của rất nhiều hy vọng và thất vọng, là vết xé của một quãng đời dài đắm chìm trong những huyễn dụ và những ảo tưởng, là nỗi đau không vùi lấp được của tâm hồn… Tôi nhìn chàng ca sĩ, xót xa. Là sao những người môi nhờn mỡ đang tóp tép nhai thịt chó kia hiểu được tâm tình thầm kín của anh ta sau mỗi câu hát.
Lúc đó, Vũ Sơn đột ngột cất tiếng:
- Hay, hay… cậu khá thật. Tôi cam đoan ở tỉnh này, bói không ra một thằng thứ hai nghệ sĩ được như cậu.
Ngọc Sang ngẩng lên, anh ta chưa hết bàng hoàng bởi chính nỗi đam mê chế ngự mình. Vũ Sơn đã nói luôn:
- Lại đây, làm chén rượu với chúng tôi.
Xin phép anh - Chàng ca sĩ từ chối - Hôm nay nhà em có giỗ.
Vừa buông bát đũa thì thằng nhỏ ở đây sang gọi.
- Thế hở?
Vũ Sơn nói, giọng ráo hoảnh: Thế thì về nhà nghỉ lúc khác tôi đến chơi. Ở cái quán thịt chó này khét mù mù.
Tôi sững người. Chàng ca sĩ xoay xoay cây đàn vài vòng rồi sượng sùng chào chúng tôi, ra về. Thanh Dương bình thản cầm một cọng rau ngổ, nhấm nháp. Có lẽ anh ta đã quen với lối cư xử của Vũ Sơn. Còn tôi, không thể chịu được, tôi ném một cái nhìn dữ dội vào mắt nhà báo. Sau cặp kính trắng, đôi mắt anh ta vẫn mở rộng, trơ như hai hòn bi:
- Tụi này chỉ biết hát thôi. Nói chuyện với chúng nó chán phè. Nghe hát xong thì đuổi chúng nó về cho rảnh việc.
Tôi đứng lên, trả tiền chủ quán rồi bước ra đường. Thanh Dương đi bên tôi. Vũ Sơn đi cuối cùng hai tay đút túi quần, miệng chẩu ra huýt sáo. Chúng tôi vượt qua một dãy nhà hai tầng, tới công viên dành cho trẻ nhỏ. Ở đó nhưng bụi cây tử vi đang độ nở hoa… Khắp các lối đi rải sỏi, cánh hoa tử vi rắc đều như lớp thảm mỏng manh, tươi thắm. Vài khóm xương rồng xanh xám, gai đen, trông gớm ghiếc mọc ở cuối khuôn viên.
Tôi chợt nghĩ cơn giận dữ của mình với Vũ Sơn là vô lý. Anh ta là một con người riêng biệt, ngoài tôi. Để phá vỡ sự im lặng nặng nề, tôi quay lại hỏi:
- Giờ anh tới chơi nhà ông Dự chứ?
Vũ Sơn thôi không huýt sáo nữa, hỏi lại tôi:
- Đến đấy làm gì?
Tôi đáp:
- Buổi sáng anh đã bảo với bà chủ quán xôi…
Vũ Sơn cất tiếng à à… rồi tủm tỉm cười:
- Bảo bà ta thế chứ đến đấy làm gì… Dương này, hay chúng ta ra bãi cát làng Mơ đi. Đã lâu lắm rồi tôi chưa trở lại nơi đó.
Thanh Dương quay sang hỏi tôi:
- Anh Nam đã tới làng Mơ bao giờ chưa?
Tôi thú nhận:
- Chưa.
Thi sĩ nói:
- Vậy thì nên đi. Làng ấy đẹp nhất trong toàn tỉnh. Con gái cũng trắng nhất vùng. Từ đây tới đó chừng ba cây số, chúng mình đi bộ cho vui. Mấy khi rảnh rỗi thế này. Ở Hà Nội, suốt ngày đêm tôi đánh vật với bài vở, hết chủ nhiệm lại tới tổng biên tập báo quấy rầy. Bài cứ đổ lên đổ xuống. Còn anh, chắc anh cũng phải chúi mũi vào buồng tối, đúng không?
Tôi cười:
- Vâng. Cũng có khi tôi đi chơi nhưng chỉ quanh quẩn vài rạp chiếu bóng với hai cái hồ.
- Xì…
Vũ Sơn tia bọt qua kẽ răng khinh bỉ: Hồ Hoàn Kiếm so với hồ Ba Mẫu quê ta chỉ là một vũng nước trâu đầm. Còn Hồ Tây có khá hơn nhưng trông trơ trẽn như một con bé nhà quê tròn trùng trục lại mặc quần Jin trắng.
Chúng tôi ra khỏi thị xã, qua một miền cỏ êm đềm để tới hồ Ba Mẫu. Con hồ rộng, phẳng lì như tấm gương. Bốn chung quanh cỏ lót thảm nhung xanh. Xa chút nữa, một ngọn núi đứng kiêu hãnh với những dải mây bao quanh. Nó in bóng xuống mặt hồ, vừa lẻ loi vừa xa vời như để tự chiêm ngưỡng nỗi cô đơn kì diệu của mình, nỗi cô đơn già hơn đất đá, sung mãn hơn khí trời, nước nôi, cây cỏ… Mặc dù đã hơn trưa, những bụi cỏ chưa tan hết sương ánh lên như ngọc trai, Thanh Dương khẽ đọc một câu thơ của Véc- Len. Rồi chúng tôi im lặng đi vòng qua con hồ, vượt một khúc ngòi tới bãi cát làng Mơ.
Gọi là bãi, thực ra đó chỉ là một lưỡi cát chạy dọc bờ đê. Phía trong là bãi cỏ dưới bóng si cổ thụ. Từ bãi cát này, nhìn thấy dòng sông trước mặt, quay lại, hồ Ba Mẫu ngay kề sau lưng. Bên trái là những mái ngói xen bóng tre, bóng trúc làng Mơ. Bên phải là con đường chạy trên sống đê, dẫn về phía tây tỉnh lỵ.
Tôi chưa thấy một cảnh trí phóng khoáng, rực rỡ như vậy bao giờ. Kì thay, nó lại nằm trên chính mảnh đất chôn nhau cắt rốn của tôi. Mười hai năm niên thiếu, tôi ốm ông, nhút nhát, không dám rời mẹ nửa bước chân. Từ nhà tới trường, từ trường về nhà chỉ qua một cánh đông hẹp mẹ tôi cũng phải đưa đón. Khu vườn xanh om bóng cây của bà ngoại với lũ chim chích chòe, sáo sậu, những con vành khuyên đỏm dáng, những ả chim sâu tí hon là một thế giới no đủ cho trí tưởng tượng và mối tương giao bạn hữu của tôi. Ba bốn ông bình vôi treo lủng lẳng trên cây vối già, ngôi miếu thờ trong bụi duối, bức tranh ngũ hổ hoen ố nước mưa và bụi bặm… tất cả đủ thêu dệt nên những huyền thoại của cõi sống và cõi chết, của kiếp người trên dương thế và nơi lòng đất. Lần đầu tiên, khung cảnh khoáng đạt, tràn trề sinh khí của thiên nhiên tràn vào lòng tôi, khơi mở một vùng tươi mói. Tôi chợt thấy quãng đời trai trẻ đã qua của mình thẫm thê, èo ọt. Những tấm phim được cắt rời, ném vào chậu thuốc. Những khuôn mặt hiện hình hoặc đen thẫm hoặc nhờ nhợt. Cây banh trong tay xáo trộn và vớt phim lên như một cái máy vô tri vô giác. Ngón tay thấm nước bọt đếm những tờ bạc thù lao cuối tuần. Ly cà phê hoặc tấm vé xem phim cứu chuộc lại thời gian bị tiêu hủy… Tất cả đã từng là nguồn vui trong quá khứ. Giờ, chúng héo úa, tẻ nhạt. Trước mắt tôi, dòng sông đang chảy. Những lượn sóng cuộn xoáy rồi duỗi ra như bắp thịt của một vị thần khổng lồ. Những đám bọt rác từ thượng nguồn sông đổ về bị sóng đánh tan tác rồi tụ lại nơi xoáy nước và chìm nghỉm trong vực sâu tàn bạo của thủy vương. Ngay cả tiếng sóng dào dạt dồi đập vào hai bờ, cũng trào dâng sức mạnh của sự tăng trưởng và biến cải. Dòng nước ấy, đã mang trong lòng sâu của nó bao nhiêu hình ảnh kì thú của núi non, rừng rú, những cánh hoa rực rỡ đã tàn lụi và những đám lá ngàn tuổi giữa thung sâu, những lưu vật của con người đã ngã xuống trong cuộc tranh đấu khốc liệt với số phận hoặc những xác thú bị dập vùi trong cơn tai biến… Mọi huyền bí của dòng phù sa kia là cái tiền đề vĩnh cửu để tạo nên sự sống mới, luôn non trẻ và quyến rũ, tựa như đám lúa trên cánh đồng ban mai.
Tôi đắm chìm trong ý nghĩ của mình. Hai người bạn đồng hành im lặng. Lát sau, Vũ Sơn cất tiếng:
- Cậu cần phải đi, Nam ạ. Làm người đàn ông phải từng trải. Các cụ đã nói rồi: Làm trai cho đáng nên trai, Non Đông cũng trải non Đoài cũng qua. Sống đời công tử bọc nhung thì chán lắm.
Mới chỉ cần đến bãi cát này, ngồi ở đây, óc cậu đã vỡ vạc ra bao nhiêu điều mới mẻ, đúng không nào?…
Tôi không đáp nhưng thầm thán phục con người đó. Anh ta có tư chất của một ông thầy phù thủy. Không nhìn tôi, Vũ Sơn nói tiếp:
- Rồi hôm nào, tôi sẽ nói cho cậu nghe về…
Vừa lúc ấy, tiếng hét của một người đàn ông khiến chúng tôi giật mình:
- Đứng lại, con đĩ, đứng lại…
Phía trước anh ta, một người đàn bà trẻ đang chạy về phía bờ sông như cơn cuồng phong. Họ từ ngôi nhà ở bìa làng chạy ra. Thiếu phụ nhỏ bé nhưng chắc chắn. Cơ thể chị ta gọn gàng. Mái tóc đen sổ xuống tận thắt lưng. Chị ta chạy rất nhanh khiến người đàn ông đuổi phía sau thở hổn hển. Vừa đuổi vừa cất tiếng gào, anh ta giống như con lợn bị hoạn sổng chuồng - Tao bảo mày đứng lại i i i…
Mặt tái nhợt, tay cầm chiếc chày giã cua, loại chày tiện bằng gỗ cứng thường dùng ở nông thôn. Đôi mày cau có, vầng trán hẹp trên sống mũi dồ, món tóc láng dầu dán xuống sọ… trông anh ta vừa hung bạo vừa hèn nhát. Tôi đứng dậy:
- Tôi xuống đây. Các anh có xuống không?
Vũ Sơn kéo áo tôi lại:
- Cậu đừng anh hùng rơm, kệ xác chúng nó.
Tôi vùng khỏi bàn tay anh rồi chạy xuống lưỡi cát. Thiếu phụ đã vượt qua đám ruộng ớt, ruộng cà ở bìa làng. Chị bắt đầu leo ngược lên sườn đê. Người đàn ông còn chạy giữa các luống ớt. Đột nhiên, thiếu phụ vướng quần ngã. Ở chỗ đó, sườn đê bị lở hõm vào một quãng sâu nên chị rơi xuống hố và cứ thế lăn trở lại chân đê. Người đàn ông rú lên, hắn ta đạp ào ào lên các luống ớt, rạch cà, lao tới con mồi vớt tất cả nỗi sung sướng của loài dã thú. Ước lượng khoảng cách giữa tôi và hắn, rồi thu toàn bộ sức lực, tôi lao tới người thiếu phụ vào đúng lúc gã giẫm chân lên bụng chị và giơ chiếc chày. Đầu tôi húc vào nách hắn, và sức nặng toàn thân tôi đẩy hắn ngã xuống. Cánh tay cầm chày của hắn đập xuống chân đê, điên rồ, hắn dùng cánh tay kia đấm vào mặt tôi. Tôi tránh được cú đấm nhưng hắn quào lại rất nhanh và lần này, ngón tay hắn móc rách đuôi mắt tôi. Cảm giác đau đớn nhục thể khiến máu tôi sôi thêm. Huy động sức lực và sự tinh khôn của mình, tôi đá bật cái chày đi, lẩn tránh mọi ngón đòn điên rồ tuyệt vọng của hắn và đánh hắn không thương tiếc. Hắn chửi tục, cào cấu, nhổ nước bọt vào mặt tôi, giống như con rắn, vừa phun phì phì vừa quằn quại lê lết trên mặt đất. Tôi nhìn gã, giáng cho gã những cú đấm liên tục, chính xác. Lần đầu tiên trong đời tôi lao vào cuộc ẩu đả với niềm say mê dữ dội đến thế. Tôi cũng không còn nhận thấy Vũ Sơn và Thanh Dương đã rời chỗ ngồi của họ, xuống can tôi dừng tay. Khi tôi dừng tay, hắn nằm phơi bụng trên bãi đất, bọt mép sùi ra lẫn những gợn máu, hai cánh tay nhợt như bụng cá thõng thẹo vắt lên mái đầu bê bết đất lẫn lá cỏ.
- Thôi, đủ rồi.
Vũ Sơn bảo tôi: Đuôi mắt cậu rách kia kìa, lo về nhà mà rửa kẻo nhiễm trùng. Vả lại, chúng mình cũng phải chuồn đi thôi, dân làng nó kéo ra bây giờ là rầy rà to đấy.
Lúc ấyy, người đàn bà cất tiếng:
- Em lạy các anh, các anh đi bây giờ thì em chết.
Hai tay chị chắp lại trước ngực và đôi mắt như lạc đi vì sợ hãi. Tôi nhìn người đã gây ra cuộc giao chiến đầu tiên trong đời mình. Chị trạc hai mươi bảy, hai tám. Cũng có thể là ba mươi hoặc hơn nữa nhưng gương mặt còn tươi mát. Cặp môi nhỏ, tròn đầy, quyến rũ. Cái mũi hếch xinh xắn nằm giữa hai bầu má tròn, ửng đỏ. Đôi mắt lớn, đen như than với cái nhìn dường như luôn ngạc nhiên, luôn tìm kiếm. Một vết thâm lớn ở sát đuôi mắt trái, dấu vết của một cú đấm tàn nhẫn, khiến cho vẻ đẹp của chị nhuốm nỗi đau đớn khó quên.
- Em lạy các anh…
Chị nhắc lại lần thứ hai, ngước đôi mắt nhìn chúng tôi cầu cứu. Lúc ấy, một đám đông từ trong làng kéo ra, cả đàn ông lẫn đàn bà cả thanh niên lẫn con nít. Có người đi tay không, có kẻ cầm hèo cầm gậy. Họ nói gì đó với nhau, tôi nghe không rõ. Vũ Sơn kéo tôi lại phía sau lưng anh, Thanh Dương cũng lùi một bước, đứng bên trái tôi, thì thầm:
- Anh Nam đừng nói gì với họ, để cho anh Sơn ứng đối nhé.
Đám người trong làng đã tiến gần chúng tôi. Trước tiên một bà già cao gầy, quấn khăn đen, xỉa xói vào mặt thiếu phụ:
- Con trời đánh thánh vật kia, con trốn chúa lộn chồng kia, mày lội ao chết đuối, mày qua sông đắm đò, mày lên bàn đẻ đẻ ngang đẻ ngược, trời chu đất triệt, diều tha quạ mổ thứ đàn bà như mày…
Bà ta vỗ tay đen đét, rồi nhảy lên: Lại đây, lại đây, bà xé xác mày ra, bà móc mắt mày ra cho con ác là nó rỉa…
Một gã đàn ông trạc tứ tuần có lẻ, cao lớn, lòng khòng, vẻ mặt và màu da nhang nhác như gã đàn ông vừa bị tôi đánh, cau có túm áo bà già giật lại:
- Thôi đi, bà đừng la quang quác làm gì, để tôi cho nó mấy hèo là yên chuyện.
Gã nhảy một bước, tới sáp mặt Vũ Sơn. Thiếu phụ đã lùi về phía sau anh, cũng như tôi, cầu một sự che chở. Lúc đó, Vũ Sơn quắc mắt lên, nhìn chòng chọc vào mắt gã đàn ông cầm hèo. Mắt anh ta vốn đã lớn, lại lộ tròng, giờ vằn những tia máu li ti và phát ra những chùm tia sáng lạnh lùng, nhọn sắc. Gã đàn ông thô kệch kia không chịu nổi luồng nhỡn quang đó, cụp đôi mi xuống. Vũ Sơn giơ tay chỉ chiếc chày lăn lóc dưới đám ruộng khô:
- Hãy nhìn kia.
Đám đông lia mắt nhìn theo tay anh, cả gã đàn ông kia cũng vậy.
- Hãy nhìn cho kĩ.
Vũ Sơn nhắc lại lần thứ hai, rồi anh nhếch mép cười nhạt, nụ cười ấy vừa khinh thị vừa dữ tợn. Nó khiến đám đông rúm lại vì mặc cảm nhục nhã, cái mặc cảm thường chỉ nhận ra khi giáp mặt với những người hoàn toàn xa lạ và có một đời sống quá cách biệt, vượt hẳn đời sống của cá nhân mình.
Vũ Sơn hiểu rằng anh đã khống chế được đám đông, và vẻ mặt anh trở lại ngạo mạn, kiêu hùng như khi anh đi giữa các phố xá của tỉnh lỵ:
- Luật pháp nào cho phép các người bao che cho gã đàn ông kia cầm chày đánh vợ. Luật pháp nào cho phép các người hà hiếp đàn bà. Đây là nước Việt Nam cộng hòa xã hội chủ nghĩa hay nước An- nam của vua Khải Định? Đây là những năm cuối thế kỉ hai mươi hay đang thế kỉ mười lăm?… Trả lời tôi đi…
Giọng nói anh vang động, đầy quyền uy và sức thuyết phục. Đám nông dân đứng im thin thít. Nghe rõ tiếng bầy ong rù rì dưới đám ruộng cà vọng tới. Vũ Sơn vẫn tiếp tục nhìn chòng chọc vào đám đông, cặp mắt anh như muốn lột truồng họ ra, phơi bày vẻ trơ tráo và nghèo nàn của tâm hồn họ, phơi bày bản tính hung bạo chung đụng với sự hèn nhát bên trong một đời sống bản năng, thiếu hụt nhân cách.
Gã đàn ông bị tôi đánh đã tỉnh lại, chống tay ngồi lên. Gã đưa mắt tìm kiếm vợ, rồi chìa nắm đấm về phía chị ta:
- Rồi mày biết tay ông, con đĩ.
Anh trai gã ngẩng đầu lên, hằm hè nói theo:
- Con đàn bà ngoại tình, phải đánh. Phép vua thua lệ làng.
Bà già nanh nọc lúc nãy lại chống nạnh, nói xe xé:
- Mày cứ đánh chết con đĩ ấy cho tao. Tội vạ đâu tao chịu.
Gã đàn ông cầm hèo huơ lên, nhưng chân gã vẫn dính chặt xuống mặt đất. Vũ Sơn khoanh tay nhìn họ. Cứ như thế thời khắc im lặng trôi qua. Chừng vài phút sau, một người đàn ông nữa từ trong làng hối hả đi ra. Trông dáng điệu và cách ăn mặc của anh ta, chúng tôi đoán là bí thư hoặc chủ nhiệm xã. Bước từng bước dài nóng nảy, anh ta vượt qua những mô đất, những ruộng rau, hai cánh ta vung vẩy. Khi anh ta vừa tới giữa đám đông, Vũ Sơn cất tiếng hỏi lạnh lẽo:
- Xin lỗi, anh là chủ tịch xã?
Anh chàng chủ tịch giật mình vì sự đoán định chính xác và giọng nói không hứa hẹn điều gì tốt đẹp, vội vã đáp:
- Vâng, vâng…
Vũ Sơn tiếp:
- Tôi là Vũ Sơn, phóng viên báo X. Tôi được lệnh viết một thiên phóng sự về tình hình dân chủ và luật pháp trong các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Trước tiên là tỉnh Q. Tôi đã làm việc với anh Quang tuần vừa qua.
Vũ Sơn ngừng lời. Tôi thấy gương mặt chủ tịch xã nhợt nhạt. Những ý nghĩ luân chuyển qua óc anh ta có thể đọc được rõ ràng. Chắc chắn anh ta có mối liên hệ nào đó về gia tộc hoặc quyền lợi vật chất với gã đàn ông vừa đánh vợ. Chắc chắn là lương tâm anh ta không đủ chiến thắng mối liên quan máu mủ hoặc các cám dỗ vật chất để ngăn cản những hành động ngoài pháp luật. Nhất là những hành động đó được che đỡ bằng ngôn án của đám đông, bằng những thiên kiến lưu truyền từ đời này qua đời khác. Sự xuất hiện bất ngờ của những người lạ mặt những người có quan hệ với chủ tịch tỉnh - người có quyền lực cao nhất trong mọi mối giao tiếp, và việc, họ chứng kiến tội ác ngay trên lãnh địa của mình khiến vị chủ tịch xã hụt hơi. Anh ta quay lại đám đông, quát:
- Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi? Các người cứ làm bậy rồi tội vấy oan sang kẻ khác. Tất cả về ngay, nếu không tôi sẽ huy động lực lượng dân quân ra giải quyết.
Rõ ràng đây là thái độ cứng rắn lần đầu tiên của anh ta với gia đình kẻ hành hung. Ngay trong câu quát tháo đó, đã hàm chứa sự hốt hoảng và giả trá. Đám đông cúi đầu, lục tục đi về phía làng. Chủ tịch xã quay lại, nửa mời mọc, nửa năn nỉ:
- Trường hợp này phức tạp lắm. Mời các đồng chí vào ủy ban chơi rồi tôi sẽ trình bày.
- Tôi bận, không có thời gian.
Vũ Sơn đáp gọn lỏn: Nhưng nếu sự việc này còn xảy ra, tôi sẽ yêu cầu đích thân chủ tịch Quang xuống đây chứng kiến, để anh ấy không còn trách móc được chúng tôi trong việc phản ảnh tình hình dân chủ và thi hành luật pháp ở tỉnh nhà.
Mặt chủ tịch xã trắng bệch ra. Anh ta lắp bắp cái gì đó không nghe rõ. Vũ Sơn hất tay phác một cử chỉ cắt đứt cuộc đối thoại:
- Thôi, anh về đi.
Nói xong, anh quay lưng bước về phía bãi cát. Chúng tôi đi theo anh; bỏ lại thiếu phụ với gã chồng hung bạo của chị. Khi tới nơi, chúng tôi lại ngồi dưới gốc si. Chủ tịch xã đã đi tới bìa làng. Còn người đàn bà khốn khổ đang dìu chồng trở lại căn nhà sau bụi trúc. Gã đàn ông bước tập tễnh, nhăn nhó. Vừa đi, hắn vừa làu bàu chửi vợ. Và cứ mươi bước chân hắn lại đấm chị một quả vào lưng hoặc giật tóc chị một cái. Người đàn bà nhẫn nhục bước. Không thấy chị ta khóc hoặc kêu rên một lời.
Tất cả chúng tôi đều chăm chú nhìn họ, Vũ Sơn nhếch môi cười, làu bàu:
- Đấy cậu xem, cậu nhảy vào như một đấng anh hùng cứu nạn, đến nỗi rách cả mặt, suýt nữa bị người nhà nó giã làm tương. Vậy mà bây giờ thì… Có khi đêm nay hai đứa lại hú hí với nhau và mươi tháng nữa một thằng lỏi con oe oe khóc chào đời… Hi hi hi…
anh ta cất tiếng cười. Nhưng hai dòng lệ đục ngầy lăn xuống má. Vũ Sơn giả bộ gỡ kính ra lau. Anh ta cúi xuống, chùi nước mắt vào đầu gối.
° ° °
Ba chúng tôi đã qua tuần lễ đầu tiên, mài miệt với những chuyến du lịch ngắn. Các trái núi, các ngôi chùa, các bến sông quanh tỉnh lỵ, Vũ Sơn đã đưa Thanh Dương và tôi thăm thú hết. Sang tuần thứ hai, anh tuyên bố đưa chúng tôi tới nhà những người hâm mộ anh. Đám này khá đông, đủ loại. Từ các chú học trò cấp ba yêu thích văn chương mơ tưởng một chân phóng viên báo trong tương lai đến các khổ chủ muốn nhờ cậy Vũ Sơn giúp con cái họ vào một trường đại học, một cơ quan trung ương kiếm một tấm giấy phép làm nhà hoặc tìm một vị thẩm phán có đủ năng lực trong vụ kiện chia đồ hương hỏa… Về tất cả những lãnh vực ấy, ở đâu Vũ Sơn cũng có những người quen thuộc, thân tín, biết nắm giữ một cách thông thạo những nhu yếu tinh thần và vật chất của đời sống. Vả chăng, ở tất cả mọi môi trường xã hội, Vũ Sơn đều hiểu biết, tuy không mấy chính xác, nhưng các kiến thức của anh đủ cho những con người quen sống biệt lập trong góc đời cỏn con của mình phải kinh ngạc. Sự thiếu hụt trong bề rộng và chiều sâu của kiến thức được bù đắp bởi lòng tự tin bẩm sinh của anh. Và lòng tự tin ấy đôi khi được thánh hóa lên nhờ đức khiêm nhường quen thuộc của cư dân tỉnh lỵ.
Chiều hôm trước anh đưa chúng tôi tới nhà một ông hiệu trưởng cấp hai vừa được bổ nhiệm nhờ sự phát hiện và biểu dương của anh trước Ty giáo dục tỉnh. Con trai ông bắt được một con ba ba lớn trong đầm Những, nơi chàng trai làm việc. Cậu hì hụi đạp ba mươi cây số về nhà biếu bố. Ông hiệu trưởng lại đạp xe năm cây số nữa để mời một người bạn cố tri có biệt tài nấy ba ba tới nấu bữa cỗ đãi chúng tôi. Ông già này là cán bộ ngân hàng tỉnh đã về hưu, một người tính tình nhẹ nhõm, thích giao tiếp. Ông tên là Hưu, nhỏ bé, lẹm cằm. Ông mời chúng tôi tới nhà ông thăm thú cảnh điền viên và ăn cơm thanh đạm vào trưa hôm sau. Vũ Sơn thay mặt chúng tôi nhận lời, anh nói với ông bằng một giọng nửa đùa nửa thật:
- Quý bác lắm mới đi đường đột thế này đấy nhé. Còn bao nhiêu nơi chờ đợi…
- Vâng, quý hóa quá…
Ông già đáp: Đã mấy khi các anh về tới tỉnh nhà…
Hôm sau Thanh Dương đến rủ tôi trước. Rồi sau đó, hai chúng tôi tới nhà Vũ Sơn. Anh còn đang cuộn tròn trong chăn, đôi mắt đỏ kè ngáy ngủ:
- Mấy giờ rồi?
Thanh Dương đáp:
- Bảy rưỡi. Dậy được rồi nhà báo trứ danh ạ.
Vũ Sơn ngáp một tràng vài ba cái rồi mới bò trong đống chăn như chiếc kén tằm chui ra:
- Đêm qua tôi đọc lại Đốt, ba giờ sáng mới tắt đèn đi ngủ.
Chúng tôi chờ anh làm vệ sinh buổi sáng và thay quần áo rồi đạp xe theo tỉnh lộ, ngược lên phía bắc thị xã. Nhà ông già Hưu ngay ven đường, một ngôi nhà nửa cổ nửa kim nhưng thuận mắt. Mảnh sân vuông đặt hai dãy chậu cây cảnh, từ cây trắc bá tới cây trúc kim, từ lan hoàng diệp tới cúc gấm và hồng Đà Lạt. Có lẽ, bộ sưu tập này là tất cả niềm say mê và kiêu hãnh của chủ nhân. Tôi đã từng tới nhiều nhà nuôi trồng cây cảnh, nhưng chưa ở đâu gặp sự chăm chút tới mức phi lý như ở đây. Những chiếc chậu cổ men xanh được lau bóng như chén uống trà Tàu trong các gia đình quý phái. Những viên sỏi rải trên gốc trúc kim hoặc tùng cảnh sạch như mỗi sớm chúng được lượm lên và lau rửa bằng bọt xà phòng. Ngay cả tới những chậu cây lớn đổ bằng đá li- tô hồng hoặc nâu cũng lấp lánh như mặt kính. Chẳng chậu cây nào có một mảy lá úa hoặc viên đất dính. Từ búp lá nõn đầu cành cho tới những chiếc lá già cuối cùng bám sát gốc cây đều tinh khiết tựa hồ được chạm từ thứ ngọc xanh sắc màu đậm nhạt khác nhau.
Thanh Dương thốt tiếng trầm trồ:
- Bác có một vườn cảnh lý tưởng. Tìm khắp thành phố Hà Nội cũng khó mà có những chậu cảnh như ở đây.
Chủ nhân sung sướng mỉm cười, và đáp lại với giọng khiêm nhường:
- Còn thiếu nhiều thứ cây quý lắm anh ạ. Tôi dự tính năm năm nữa mới đủ chơi.
Vũ Sơn chắp tay đi đi lại lại trong sân, anh ngước nhìn giàn dưa Tây đang trổ hoa vàng chóe trên đầu, ghé sát tai tôi thì thầm:
- Sáng nay Thanh Dương sẽ đỡ chuyện cho chúng mình. Nào là cây cảnh, nào nghề nuôi chim, chọi gà, nuôi cá vàng, gây giống vẹt… Cái khoản ấy tôi với cậu phải chắp tay lạy hắn ta. Trong hình hài của Thanh Dương có một lão già đích thực.
Quả nhiên, ông già Hưu bám sát lấy Thanh Dương ngay tức khắc. Anh chàng thi sĩ trầm mặc này thủ thỉ với ông đủ các thứ chuyện về thú điền viên. Hai người ngồi ngay trên sân, giữa những chậu cây cảnh ma say mê đối thoại.
Vũ Sơn rủ tôi ra mảnh ao nhỏ sau nhà, nơi có những bụi cây móng ròng thơm nức trùm lên một cây vối. Anh nói với tôi về Đốt- tôi- ép- ski, Tôn- stôi, Hê- min- uây… vì tôi ham đọc sách, tôi có thể hiểu được những khúc mắc, những kiến giải của anh, nhẫn nại nghe anh bày tỏ. Anh nói lưu loát, cuốn hút, tôi không biết được thời gian trôi qua. Chợt chủ nhân chạy ra, rối rít xin lỗi và mời chúng tôi vào nhà uống nước. Hóa ra, ông già Hưu cũng là một người say mê, bồng bột. Bị câu chuyện bất tận của Thanh Dương hấp dẫn, ông đã quên khuấy cương vị chủ nhân.
Chúng tôi bước vào nhà, cùng lúc bà vợ và cô con gái duy nhất của ông đi chợ về. Họ cất tiếng chào, chúng tôi chào lại họ. Bà già cũng nhỏ bé tươi tắn như chồng, với đôi mắt đen và sâu, cặp môi đều đặn, chắc chắn bà đã gây sóng gió cho những trái tim trai trẻ thời bà còn là một thiếu nữ má hồng răng trắng. Nhưng cô gái mới thật là một nhan sắc lộng lẫy, đầy sức chinh phục. Cô thâu tóm đủ những nét trội của mẹ nhưng tất cả những nét đó đều được biến cải, nâng cấp lên một cách đáng kinh ngạc. Nhìn cô, người ta biết chắc chắn cô là kết quả của cuộc hôn phối giữa hai con người dưới mái nhà ấy, đồng thời người ta cũng ngờ vực tạo hóa vì nó đã nhào nặn lại một cách uyển chuyển và khiến cho mọi đường nét, mọi hình khối đạt tới mức hoàn mỹ. Cả bố và mẹ cô đều thấp bé, nhưng cô lại dong dỏng cao. Tấm thân thon thả, săn chắc bó trong tấm áo lụa giản dị cổ tròn và chiếc quần hàng tuýt- xi may theo kiểu Jin ống hẹp. Mắt cô đen, đắm đuối như mắt bà mẹ nhưng cặp mi dài rậm hơn khiến đôi mắt ấy trở thành những con sóng đầy ma lực. Sống mũi, cặp môi, những món tóc mai, nốt ruồi tí xíu bên cằm… Cô khiến cả ba chúng tôi sững sờ. Không tin được ở góc tỉnh lỵ quê nhà lại có một thiếu nữ đẹp đến thế, mặc dù các thiếu nữ xinh đẹp nhất Hà Nội chúng tôi đã được ngắm nhìn dăm bảy lượt, hoặc gần, hoặc xa…
- Mời các anh xơi nước. Chè Thái Nguyên mua cân, bà nhà tôi ướp lấy. Năm trước, bà ấy ướp hoa ngâu. Năm nay, ướp hoa nhài. Mấy bụi nhài ở bờ ao cơ man là hoa nở. Giá ở Hà Nội đã có tiền, nhưng ở đây thả cho lũ ong rờn…
Một gã bán kem rong đi qua, bóp chuông hơi: Tí toe, tí toe… kèm theo tiếng rao: “Kem cây đặc biệt, ăn mau kẻo sắp hết mùa”. Rồi một cỗ xe bò lọc cọc đi tới, ông già đánh xe ngồi giữa đống rơm, gà gập ngủ. Chừng mươi phút nữa, mới có một đám dân buôn hồng, buôn bưởi gánh hàng về chợ, vừa đi vừa chuyện trò. Khung cảnh đơn điệu của tỉnh lỵ diễn qua, trong khuôn cửa có hai lần cánh. Sát khuôn cửa ấy, treo lửng lơ chiếc xích- đông bằng gỗ lát. Trên khuôn đó, thấy những cuốn sách quen thuộc: một anh hùng thời đại của Léc- mông- tốp. Bác sĩ Ji- va- gô của Pa- têch- nác. Cha và con của Tuốc- ghê- nhi- ép. Thơ E- xe- nhin và thơ Pus- kin. Các trường thiên tiểu thuyết của Sô- lô- khốp. Rồi các tác phẩm của Đốt và tuyển tập. Con đường đau khổ của A- lếch- xây Tôn- stôi… Chắc chắn đây là tủ sách của người con gái, một chiếc kẹp tóc nằm bên dưới chiếc lọ nhỏ xíu, cắm độc nhất bông hồng.
Chúng tôi chưa uống hết tuần trà cô đã xuất hiện, đĩa bánh rán trên tay:
- Mẹ bảo đem lên cho bố mời khách uống trà.
Cô nói, với dáng vẻ tự tin tuy có đôi chút ngượng ngùng. Ông già Hưu giới thiệu chúng tôi, lần lượt từng người. Rồi ông quay lại rót nước tiếp. Cô gái đi xuống bếp, ông nói:
- Con gái tôi tên Hạnh, Thúy Hạnh. Nó đang học đại học y năm thứ nhất, tôi gặp nạn. Cảnh nhà neo bến, côi cút, bà già tôi đổ bệnh khùng. Suốt ngày bà ấy khấn vái, ra sân vái trời, vào nhà vái bàn thờ tổ tiên gia tộc. Cơm nước không chịu nấu, chỉ mua hoa sen ăn. Cháu Hạnh bỏ học về nhà chăm mẹ. Năm sau, vận hạn qua đi, tôi xin về hưu vui thú cảnh gia đình. Mẹ cháu hoàn toàn khỏi bệnh, chúng tôi giục cháu đi học tiếp nhưng nó không chịu đi nữa. Bây giờ, suốt ngày nó ngồi đọc sách. Ngoài thời giờ đọc sách, nó nhận hàng về may. Nhờ trời, chúng tôi sống không đến nỗi nào. Nhưng thấy con bé cứ quanh quẩn ở nhà, chán chường mọi thứ mà tôi buồn quá. Cái tai nạn không chỉ làm tổn thương mình tôi, con gái tôi trẻ mỏ thế, làm sao tôi tạo lại cho nó được nguồn vui và lòng tin bây giờ?…
Cái cằm nhỏ của ông run lên. Lát sau, cơn xúc động trôi qua, ông lại vui vẻ nói tới cách trồng cây cảnh, cách chiết hồng Thúy Kiều và gây các loại phong lan quý, cách tỉa tùng và trúc vào những thời tiết khác nhau. Thanh Dương tiếp chuyện ông, Vũ Sơn và tôi bó gối ngồi nghe.
Đồng hồ điểm mười hai tiếng, cô gái bưng mâm cơm lên, đặt giữa phản:
- Mời bố và các anh xơi cơm.
Nói xong, cô xách phích nước xuống sân. Ông già Hưu bê vò rượu, mở nùi lá chuối khô, rót vào chiếc thẫu thủy tinh. Từ miệng vò sành, chảy ra thứ rượu màu đỏ sẫm. Khi rượu tới ngang lưng thẫu, một con rắn thò cái đầu cứng đơ khỏi miệng vò. Ông già dừng tay, thận trọng dựng vò rượu lên, dùng lá chuối chùi rồi nút chặt lại. Xong, ông lấy chiếc phễu thủy tinh nhỏ xíu từ tủ chè ra, rót rượu ở thẫu vào chai. Từ chai, ông mới lại rót ra từng chiếc chén sứ nhỏ, nhỉnh hơn chén trà hạt mít đôi chút, mời rượu chúng tôi:
- Không mấy khi tôi gặp được các anh…
Ông già nói: Ở đây buồn lắm, vài ba tháng mấy thằng bạn cố tri mới lọc cọc đạp xe tới gặp nhau một lần. Lúc gặp đã vậy, lúc rủi không gặp lại đạp xe về chán nẫu cả ruột. Mà mỗi lúc mỗi già, nhìn con đường nắng lóa, mắt cứ như mờ đi, cẳng chân tê cứng lại, lâu dần rồi ai nấy cũng chỉ quanh quẩn với xó nhà của mình. Cái tuổi già nó mau tồi tệ lắm các anh ạ. Kìa, các anh lên đũa đi. Bà nhà tôi với cháu Hạnh ăn dưới bếp. Ở đây không có lệ đàn bà, con gái ngồi nhắm rượu với đàn ông.
Trên chiếc mâm đồng bóng loáng, đĩa xào còn bốc khói nghi ngút, nem rán cũng nóng nhưng các món quay, món hầm đã nguội. Rõ ràng những người đàn bà trong nhà ít làm cơm đãi khách và cũng không có năng khiếu về mặt này. Tuy nhiên, mọi món ăn cũng như các thứ vật dụng đều tinh tươm, sạch sẽ, khiến ta yên tâm. Ông già uống rượu, hai gò má hồng lên, cặp mắt long lanh trong cơn ngây ngất của những cảm xúc bị dồn nén quá lâu đã đến giây phút muốn giãi bày. Chúng tôi đáp chuyện ông, nhẹ nhàng dò chừng nỗi ưu uất của một tâm hồn nhạy cảm và nồng nhiệt. Cuối bữa ăn, ông gạt đôi đũa sang một bên, rồi kể cho chúng tôi nghe cái tai nạn lớn nhất trong đời ông. Ông phụ trách ngân hàng, một cơ quan quan trọng bậc nhất tỉnh này. Vốn người trung thực, đặt nhiệt tâm vào công việc, ông không biết cương vị của ông được các cán bộ dưới quyền mình thèm khát. Luôn luôn bận rộn, luôn luôn bị lôi kéo bởi các cuộc họp cấp tỉnh. Ông không thường xuyên kiểm tra lại hành vi những người dưới quyền, những người này đã từng có quan hệ tình cảm khăng khít với ông, đã từng được ông giúp đỡ khi gặp sóng gió. Với niềm tin thơ ngây ở sự thẳng thắn và tấm lòng nhân hậu của bản thân, ông không thăm dò được những tăm tối. Ông không đo đếm được các mưu kế hiểm độc, ông không đủ từng trải để hình dung được sự đê tiện của con người. Và như thế, ông rơi vào trận đồ bát quái của các dục vọng âm hiểm. Ông, người có quyền lực cao nhất cơ quan, người chịu trách nhiệm trước chữ ký của mình đã buộc phải lãnh án tù bởi sự tham nhũng của những kẻ dưới quyền. Cố nhiên, phó giám đốc ngân hàng, người chủ mưu bày đặt và điều khiển trận tấn công âm thầm trong ba năm dài đã thế chân ông. Y đã đạt được cái cao vọng y hằng thèm khát. Một chiếc xe sang trọng có người lái mở sẵn cửa chờ đợi, những tiệc tùng liên miên nơi này và nơi khác, ưu thế chính trị và tài chính cho cả đám con cháu, họ hàng nội ngoại nhờ cậy, chút danh vọng để đặt lên bàn thờ gia tộc ngày giỗ tết… Ông vào tù, bà vợ mắc chứng tâm thần, và con gái ông bỏ học…
Ông chớp mắt để tránh cho một giọt lệ khỏi lăn ra, kết thúc câu chuyện bằng câu hỏi ai oán:
- Bây giờ mọi chuyện qua rồi. Tôi có thể vui thú với những chậu cảnh của tôi hơn mọi vui thú ở cõi đời. Bí thư tỉnh đã về tận đây mời tôi ra làm việc, tôi từ chối. Một bông hồng Thúy Kiều nở với tôi quan trọng hơn việc tiếp chuyện các vị cán bộ tỉnh ủy… Nhưng còn con Hạnh, tôi không muốn nó sống mãi trong tâm trạng này. Nó còn trẻ quá, và tôi không thể…
Vũ Sơn đặt một bàn tay lên vai ông:
- Bác cứ yên tâm. Trăng tới rằm trăng tròn, hoa tới thì hoa nở. Đã là kiếp con người, ai cũng trải qua những khoảnh khắc bi lụy, đau thương. Nhưng nỗi đau nào cũng sẽ qua. Cô ấy sẽ trở lại bình ổn, khi yêu.
Ông già lắc đầu:
- Trong vòng hai năm nay, dễ có tới non hai chục đám hỏi. Con trai ông đại tá Thinh, con trai ông trung tá Tú ở tỉnh đội, con trai bà giáo Giang hiện làm ở Viện khoa học xã hội Hà Nội…
- Thôi, thôi…
Vũ Sơn cắt đứt cái danh sách dài dằng dặc của ông: Tình yêu không phải cái thứ hỏi han ấy. Rồi bác cứ nghiệm xem… Cháu bảo đảm với bác rằng cô Hạnh sẽ vui vẻ, trẻ trung như trước. Chắc chắn sẽ có ngày đó. Và chúng cháu tới đây mở vò rượu rắn của bác ra…
Chúng tôi cáo từ. Chủ nhân đi theo dặn đi dặn lại:
- Ôi, chào các anh. Nhớ quay lại thăm chúng tôi đấy nhé. Thật quý hóa quá…
Khi tới cổng, tôi chợt nhớ rằng chưa xuống bếp chào bà chủ với cô con gái. Tôi ghé tai Vũ Sơn thì thầm:
- Cả anh, cả Thanh Dương, cả tôi đều đoảng vị. Làm sao bây giờ?
Anh nháy mắt:
- Thôi kệ, còn tới chơi lần khác.
Nhưng lúc đó, Hạnh đi ra, đem rổ chanh tặng chúng tôi, nói là chanh vườn nhà. Chúng tôi lên xe, cô còn đứng ngó theo.
- Con bé đẹp quá. Vũ Sơn nói: Của này mà sang Hà Nội đắt chồng như tôm tươi. Đủ loại mũ cao áo dài tới xếp hàng chầu chực. Vậy mà ở đây quanh ra quẩn vào thở than với dăm chậu cây cảnh. Nay mai, lấy một anh chồng lèn quèn nữa là xong đời. Các cụ nói đúng thật:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay…
Thanh Dương không nói, cắm cúi đạp xe. Nhưng đôi mắt đen ẩm ướt của anh ta ẩn giấu vẻ bồn chồn.
Trong tuần lễ, chúng tôi còn tới chơi vài nhà quen thuộc của Vũ Sơn. Thanh Dương vốn ít nói, giờ đây càng lơ đãng hơn trong các cuộc giao tiếp. Dường như chàng thi sĩ luôn đuổi theo các ý tưởng riêng, phiêu diêu trong cái thế giới ấy cho tới khi câu hỏi hay một cái vỗ vai đột ngột kéo anh về thực tại. Đôi lần, trước vẻ sững sờ, hốt hoảng, Vũ Sơn giương đôi mắt hầu tròn xoe lên, nhìn bạn chòng chọc. Nhưng rồi anh ta không nói gì mà chỉ lẳng lặng quay đi. Tới buổi tối thứ hai tuần lễ sau đó Vũ Sơn hẹn đưa chúng tôi đến dự đám chơi tổ tôm của ông chú vợ anh:
- Tôi với các cậu ù ù cạc cạc biết gì tổ tôm với tổ tép. Nhưng sống ở đời cái gì cũng nên để mắt ngó qua. Vả lại, rã đám tổ tôm bà thím tôi sẽ nấu một nồi cháo gà và một nồi chè đậu xanh đãi khách.
Tối hôm đó, đúng bảy rưỡi chúng tôi đã có mặt ở nhà ông chú Vũ Sơn. Khoảng non một chục ông già, bà lão đã tề tựu ở đấy. Người phì phèo hút thuốc, kẻ tóp tép ăn khế đường hoặc kẹo bột. Vẻ mặt ai nấy hí hửng như trẻ con được quà. Hóa ra, người già cũng ham chơi hệt như con nít - Tôi thầm nghĩ và để tâm quan sát từng người một - Quả nhiên, tới lúc chủ nhà dọn chỗ, xếp bàn tổ tôm, họ cũng hồi hộp, nao nức dường như cuộc chơi quyết định quãng đời còn lại của mình. Người này, kẻ khác đôi co, kiện tụng đòi được ngồi chung chiếu với những người ưa thích hoặc chắc chắn không đủ khả năng tiêu diệt mình một cách tàn bạo. Ông chú Vũ Sơn là người từng trải lịch lãm, chỉ trong vài ba phút ông đã dàn hòa được mọi mối mâu thuẫn, làm cho tất cả hài lòng với nụ cười hóm hỉnh và những câu đùa nhẹ nhàng. Khoảng tám giờ kém năm, cuộc chơi bắt đầu. Bắt chước Vũ Sơn, tôi cũng ngồi rìa một đám. Nhưng chỉ mươi phút sau, biết mình không thể hiểu được tôi đành đứng lên. Thanh Dương không còn trong phòng, anh ta đã chuồn trước tôi. Chỉ một mình Vũ Sơn hòa nhập vào đám đánh bài say mê, sung sướng. Tôi mở cửa, lững thững đi dọc phố. Trời đêm, hơi thu se lạnh. Chân trời trong ngần đọng trên các dãy núi, tựa lớp nước nhuốm phẩm lam. Vài ngôi sao hiếm hoi nhưng sáng rực, bắn tóe ra từng chùm tia bạc. Những vòm kim phượng, ẩm ướt và run rẩy, khẽ thở than vì tình yêu muộn màng với mùa thu đã tàn úa trước thời khắc biệt ly. Tôi bước chậm rãi, không nghĩ ngợi gì. Đột nhiên, tôi thấy phố đã hết, phía trước là cánh đồng mờ mờ dưới ánh sao. Cách tôi hai bước chân, một bụi cây tử vi khum khum như cánh diều. Và sau bụi tử vi ấy, nhô lên hai mái đầu của một cặp tình nhân.
- Thật dơ dáng.
Tôi thầm rủa mình vì rời vào tình thế trớ trêu. Chỉ cần tôi bước thêm một bước hay xoay lưng đi trở lại, cặp tình nhân kia sẽ nhận ra tôi. Họ vừa rời nhau ra sau một cái hôn dài. Tôi nghe người con gái thở dồn dập, nói:
- Em sợ quá.
Người con trai khẽ cất tiếng cười, đáp lại:
- Không có gì đáng sợ trên đời…
Ngập ngừng vài giây, anh ta nói thêm: Trừ tình yêu.
Tôi nhận ra giọng Thanh Dương, như cái máy tôi lẳng lặng ngồi xuống, cố gắng không gây nên một tiếng động nhỏ. Sau đó, người con gái lại cất tiếng, và tôi biết cô chính là Thúy Hạnh, thiếu nữ xinh đẹp đã đứng sau cánh cổng nhìn theo chúng tôi trong buổi chia tay hôm trước. Giọng cô bồn chồn, day dứt:
- Khi ngồi bên anh, cảm giác sợ hãi không còn. Nhưng khi chỉ có một mình, nỗi ân hận làm em đau đớn. Em sợ từng cái nhìn của mẹ, hay một câu hỏi vô tình của bố, hoặc chuyện kể về một mối tình vụng trộm nào đó… Và nỗi tủi hổ bám riết lấy em, như chiếc móc sắt cắm vào da thịt, không thể gỡ.
- Anh hiểu những ý nghĩ của em.
Thanh Dương ngắt lời cô gái. Giọng nói của anh cũng giống như đôi mắt ẩm ướt của anh, thì thầm, lôi cuốn:
- Tình yêu luôn vô tội, trước đất trời cũng như trước con người. Bởi vì tình yêu không phải là sản vật được tạo nên do ý muốn của chúng ta, mà do tạo hóa. Trước khi gặp em, anh đâu biết mình còn có thể bị lay động, bị mê muội trước một người con gái. Nghề của anh, em biết rồi đấy, luôn luôn gặp những thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp, ăn mặc diêm dúa và biết đủ cách ăn chơi. Trong các cuộc họp báo, trong các cuộc đọc thơ, trong các cuộc du lịch dài và ngắn… cơ man nào là cơ hội, cơ man những khuôn mặt đàn bà… Nhưng anh đã nhìn tất cả bọn họ như những con rối bằng cao su, những con búp bê nhồi mùn cưa hoặc vải vụn… Vợ anh, người đàn bà đê tiện, độc ác ấy đã khiến anh ghê sợ và thù ghét toàn bộ thế giới đàn bà. Anh cảm thấy sau những gương mặt tô son trát phấn ấy là bộ mặt thật của họ, bệnh hoạn và nhàu nát. Họ sẽ gào lên: Tiền đâu? Lấy gì cho tôi mua giày dép, áo lông, lấy gì cho tôi đặt bánh kẹo sinh nhật, lấy gì cho tôi thuê người mắc công- tơ riêng và chữa lại máy nước. Họ sẽ nhiếc móc anh đủ điều nếu anh không thỏa mãn nhu cầu ấy hoặc sẽ hành hạ anh em thân thích của anh, một khi đụng chạm đến quyền lợi mà họ cho là bất khả xâm phạm. Cuộc sống địa ngục đã xây đắp cho anh một thành lũy chắc chắn, mọi sự công phá của đàn bà đều vô hại. Thế mà giờ đây, tất cả đã tan tành. Không, anh không muốn thế. Bàn tay của thượng đế dẫn dắt anh tới với em. Nếu có lỗi lầm, lỗi lầm ấy thuộc về thượng đế, cả anh và cả em đều không dự phần trong chuyện đó.
- Nhưng xã hội sẽ lên án. Và trước tiên, gia đình em đau khổ. Không thể giải thích cho bố mẹ em hiểu được chuyện này. Các cụ không tha thứ, không bao giờ tha thứ.
- Em đã hòa đồng đời sống của em vào nỗi đau khổ của bố mẹ em. Rõ ràng, đó là một hy sinh lớn lao mà những kẻ tầm thường không làm nổi. Bố mẹ em sẽ tha thứ cho em tất cả, vì lòng hiếu dễ ấy… Vả chăng, nếu các cụ không tha thứ được, em cũng phải tự quyết định cuộc sống của mình.
Thúy Hạnh thở dài:
- Em sợ lắm.
- Đừng sợ. Cuộc đời này cũng giống như những cái mặt hổ phù, nhìn phía trước thì hung tợn, lật phía sau lên chỉ là mấy lớp giấy bồi. Anh đã nói với em, không có gì đáng sợ trên thế gian, trừ tình yêu. Tình yêu hủy diệt con người hơn bom đạn, bệnh tật, đói khổ. Tình yêu cũng cho con người khả năng chiến thắng hơn bất cứ sức mạnh nào khác. Thanh Dương ngừng lời. Tôi tưởng tượng đôi mắt đa tình của anh ta đang khép lại trong bóng tối. Vài giây sau, anh ta khẽ cất tiếng cười:
- Thật trớ trêu. Chỉ cách đây một tuần, khi chưa biết em, cuộc sống của anh bình ổn. Vậy mà sau lúc gặp em, tất cả đổi thay, tất cả quay cuồng. Như một thân cây bị bão nhổ bật rễ, anh không còn đứng vững nữa. Anh đã mất toàn bộ khả năng tự điều khiển. Suốt những ngày vừa qua, anh mừng hay tủi, vui hay buồn, nhìn cõi đời tươi sáng hay chú tối, hy vọng hay tuyệt vọng… tất cả tùy thuộc vào em.
Cô gái im lặng. Tôi tin chắc cô đang đắm chìm trong cảm giác thần thánh của tình yêu. Một giây đi qua. Rồi mái đầu Thanh Dương cúi xuống. Lợi dụng cái hôn dài của cặp tình nhân, tôi rón rén đứng lên, quay trở lại thị xã.
Đám tổ tôm vừa kết thúc. Mọi người còn đang hoan hỉ bình phẩm về các ván bài. Bà chủ nhà bưng nồi cháo gà với hai chồng bát chiết yêu ra. Tay áo xắn tới khuỷu, bà thận trọng múc cháo vào từng bát, rắc thịt gà xé, lá chanh, hành tươi thái nhỏ và hạt tiêu nhanh thoăn thoắt như một bà bán cháo thực thụ. Những bát cháo nóng được sắp vào hai chiếc mâm đồng cỡ lớn, đặt lên chiếu. Ông chủ xoa tay:
- Xin mời các bác.
Vũ Sơn đã ngồi chồm hỗm trong một góc chiếu, ngẩng lên bảo tôi.
- Ngồi vào đi cậu.
Rồi, đưa cặp mắt tròn xoe liếc qua gian phòng, anh hỏi:
- Thanh Dương đâu?
Tôi ngồi xuống, bưng cháo lên ăn vài thìa rồi mới thủng thẳng đáp:
- Chắc là đi dạo phố. Anh ấy thuộc phố xá ở đây hơn tôi.
Vũ Sơn vẫn nhìn chòng chọc vào mặt tôi, văng tục:
- Dạo mát cái con khỉ. Chỉ những thằng điên mới lang thang một mình lúc này.
Tôi chưa kịp đáp, anh ta đã quay sang ông già to béo ngồi bên cạnh, nói lem lém:
- Bác ù ván cuối cùng non quá. Không ai dại gì ù vào lúc đó…
Bác chủ nhà đi tới các mâm, nhẩm đếm số khách ăn, cất tiếng:
- Anh Sơn này, còn anh Thanh Dương chưa thấy về. Thím bắc lại nồi cháo lên bếp than nhá?
Vũ Sơn đáp gọn lỏn:
- Kệ nó thím ạ. Cứ vét hết cho mọi người ăn.
Tới chầu thứ hai, chè đỗ xanh đường cát cũng không thấy nhà thơ xuất hiện. Chúng tôi ăn xong còn ngồi chơi với hai ông bà chủ tới quá nửa đêm mới trở về. Vũ Sơn đạp xe chầm chậm bênt, cái bóng dài nghêu in xuống đường. Lúc đó, tôi mới thấy vai anh gầy và so như vai người nghiện.
- Tại sao cậu im lặng mãi thế Nam?
Đột nhiên, anh cất tiếng hỏi.
Tôi nói:
- Thế anh muốn tôi nói gì?
Vũ Sơn không trả lời. Lúc ấy, đã gần tới nhà anh. Cả hai chúng tôi cùng lặng lẽ đạp xe đến tận cái cổng hẹp và có mái như cổng tam quan. Anh nhảy xuống, nói:
- Sáng mai đến tôi đấy nhé.
° ° °
Hôm sau, khoảng tám giờ sáng tôi thức dậy. Hai mẹ con tôi nấu xôi ăn còn bố tôi ăn cháo thịt. Từ hôm tôi về, ông cụ khỏe hẳn ra. Ngày vài lần cụ nhắc tôi lấy vợ. Cụ cố ăn hết hai bữa cháo với một bữa cơm để giữ được chân cứng đá mềm tới ngày bế cháu đích tôn. Biết tôi đến chơi nhà Vũ Sơn, cụ bảo:
- Anh ấy là người danh giá nhất tỉnh này. Mày chơi với kẻ hèn bố cũng không cấm, nhưng chơi với người sang như thế thì tự khắc sáng mắt ra.
Vũ Sơn đã thức dậy, khoác chăn ngồi chồm hổm trên giường. Tôi bước vào, ngồi xuống chiếc ghế mây tự pha chè uống, và hỏi:
- Bà xã của anh đi làm rồi?
Vũ Sơn đáp:
- Đi rồi.
Hai mắt anh đỏ dọc, đầy gỉ, chưa kịp rửa. Tôi nói:
- Anh rửa mặt đi.
Vũ Sơn không trả lời, ngồi thừ ra. Lúc ấy, vợ anh dắt xe đạp đi vào cổng. Chiếc xe của chị choáng lộn, râu tôm bật tanh tách. Đồ phụ tùng toàn của ngoại. Trông dáng điệu, tôi biết người đàn bà hoàn toàn mãn nguyện vì chiếc xe đạp mới lắp và bộ đồ đắt tiền đang mặc cũng vừa may. Chị chào tôi, đi lại thu vén vài thứ đồ vặt rồi bảo chồng:
- Trưa nay em không về đâu, anh liệu mà cho lũ trẻ ăn cơm.
Vũ Sơn đáp:
- Biết rồi, cô đi đi.
Rồi ngay sau đó, anh quay sang tôi:
- Cậu có thấy thứ mào gà tiên ở nhà ông Hưu bữa trước kì lạ không. Giá nó thuần một màu vàng lòng trứng hay màu tím đen thì quý quá. Màu đỏ thường rồi, người ta thích loại hồng màu xanh, cúc màu đen và thược dược màu tím vi- ô- lét…
Vợ anh vừa dắt xe ra khỏi ngõ, bài diễn văn về hoa tức khắc dừng lại. Tôi chưa hỏi, anh đã giải thích.
Tôi với vợ tôi vừa cãi nhau suốt đêm qua. Tôi buồn lắm nhưng thấy cô ta quay về, phải nói tào lao với cậu cho vui. Đàn bà là quái vật. Nó biết rằng nó làm khổ được mình thì cứ thế, nó hành cho đến lúc chết. Với một người đàn ông thực sự, kẻ thù lớn nhất là hai thứ này: sự ngu dốt và vợ con của anh ta.
Tôi ngẫm nghĩ đôi chút, rồi tìm cách an ủi:
- Vợ chồng nào mà chẳng có lúc cãi nhau. Tôi thấy chị ấy cũng lành.
- Cậu dốt lắm…
Vũ Sơn đột nhiên quát lên, trán nhăn hẳn lại: Thế nào là lành? Sao còn ít tuổi mà cậu có những ý tưởng già nua, cằn cỗi như vậy? Sự ngu đần tiêu diệt nhân loại thê thảm hơn mọi tội sát nhân ta thấy hằng ngày bằng mắt thịt. Một tên đao phủ chém rụng năm bảy cái đầu dễ bị người đời căm ghét hơn một gã thầy mo đưa từng bộ lạc vào chỗ chết bằng những lời huyễn dụ. Cái phép so sánh giản đơn thế mà ai cũng bỏ qua. Tôi căm ghét sự ngu đần, nhất là khi nó kèm theo quá nhiều dục vọng…
Anh hất chăn khỏi vai, quơ chân tìm dép. Tôi lại uống trà. Hai đứa con trai anh dắt nhau vào nhà, giương mắt nhìn tôi rồi gọi:
- Bố ơi, bố…
Vũ Sơn từ sân đáp vóng lên:
- Xuống bếp tao bảo…
Tôi nghe anh dặn đứa con lớn rằng cơm ủ trong giành tích, thức ăn đã bày sẵn trong mâm với bát thìa, buổi trưa chỉ việc mở lồng bàn lên mà ăn.
Thằng bé hỏi:
- Thế bố đi đâu?
- Đi đâu là việc của tao, cấm hỏi.
Ông bố gắt, bước lên nhà. Mái đầu vừa nhúng nước của anh nhỏ tong tong. Vũ Sơn cởi sơ mi, lau tóc rồi ném nó lên sợi dây thép chăng ngoài hồi. Thân hình anh khẳng khiu, ngực lép dẹt. Vừa mặc quần áo, anh vừa nói:
- Lòng tham với sự ngu đần cùng sống trong một người sẽ biến thành thứ quả ung thối. Nhưng khi nó được đặt trong quan hệ vợ chồng, cha con, bè bạn thì nó sẽ làm ung thối các mối giao kết ấy. Tôi có thể nói trắng ra cho cậu biết điều này…
nhưng tới đó, anh đột nhiên dừng lại:
- Xe đạp cậu đâu, ta đi đi thôi.
Chúng tôi dong xe ra phố, đạp đi. Thấy Vũ Sơn ở trong tâm trạng ấy, tôi im lặng. Dọc đường, anh dừng lại chào chủ tịch Dự, đồn phó công an huyện, bà Thoa, chủ nhiệm hợp tác xã thêu ren, một ông thiếu tướng về hưu to béo. Khi tới gần khuôn viên, chúng tôi rẽ vào nhà thiếu phụ bán xôi gấc hôm trước. Hôm nay, chị đem xôi vò chè đường đãi chúng tôi. Vũ Sơn ăn xong, bảo thiếu phụ gọi đứa con trai của chị lên. Anh mắng chú bé một trận nên thân vì đủ thứ tội hư hỏng, lêu lổng, phá tán tiền bạc của cải gia đình… Chú bé cúi gằm mặt trước con người được dân cư cả thị xã kính nể. Trước lúc đi, Vũ Sơn ghé tai thiếu phụ, nói nhỏ:
- Phải nghiêm thế cho nó sợ. Nhưng chị yên trí, tôi sẽ nói với anh Dự cho.
Người đàn bà mừng rỡ:
- Vâng, may mắn cho tôi quá, trăm sự nhờ cậy chú.
- Đừng có mừng vội - Anh ngắt lời chị một cách thô lỗ - Tôi chỉ giúp lần này nữa thôi. Chị không nghiêm với nó, hỏng lần nữa tôi sẽ tống vào trại cải tạo.
- Vân, vâng…
Người mẹ tội nghiệp đáp: Tôi nhớ lời chú bữa trước rồi. Chờ cho cuộc trao đổi giữa hai người chấm dứt, tôi hỏi Vũ Sơn:
- Anh định đưa tôi đi đâu bây giờ?
Vũ Sơn hất tay:
- Đi, cứ đi đi đã.
Tôi đành lặng lẽ đạp xe theo anh, ngạc nhiên vì chính sự cả nể của mình. Chúng tôi tới một ngôi nhà khá lớn gần chợ. Cánh cửa khép hờ, Vũ Sơn đẩy tung ra:
- Bố có nhà không đấy?
Một ông già ngồi hút thuốc trên tràn kỉ ngẩng lên:
- Bố có nhà, con về bao giờ mà không thấy đến?
Vũ Sơn bảo tôi ngồi xuống tràng kỉ, giới thiệu:
- Đây là Nam, bạn con.
Sau đó, anh mới trả lời ông bố vợ:
- Về hai tuần, nhưng bận liên miên, không lúc nào xuống hầu cụ được.
Ông già niềm nở hỏi chuyện tôi. Hóa ra ông cụ cùng trong hội chơi chim với bố tôi hàng chục năm nay. Xong, ông quay ra hỏi Vũ Sơn về công việc, về sức khỏe của anh, sốt sắng, ưu ái.
- Bây giờ hai anh em ngồi chơi, bố ra chợ gọi mẹ về nấu cơm trưa. Nhà có con cá quả sống trong chum rồi, bảo bà cụ mua cái chân giò về luộc nhắm rượu.
Vũ Sơn giơ tay xua;
- Thôi bố ơi, đừng cơm cháo gì nữa. Con đang có chuyện buồn nẫu ruột đây…
Ông già ngồi lại xuống tràng kỉ, thu hai tay lên đùi:
- Có chuyện gì?
- Có, có…
Vũ Sơn gật đầu lia lịa:
- Có chuyện về cô gái yêu của cụ đây…
Ông già không hỏi thêm, nhưng vẻ mặt hiện lên nỗi lo lắng. Cậu con rể ông kể:
- Bữa trước con xuống viết bài cho nhà máy gạch M. Cậu giám đốc vốn là bạn học cũ thời phổ thông. Nó xuất cái hóa đơn năm vạn gạch giá rẻ. Con đã bảo cô ấy chỉ dùng ba vạn thôi, còn hai van để cho cô Cúc, em vợ cậu giám đốc lấy. Dặn đứt lưỡi rồi, nhưng cô ấy tham quá, cô ấy bán sạch năm vạn lấy tiền bỏ túi. Cô em vợ cậu bạn con lên xe gạch thấy bãi đất trống lẳng lặng bỏ về, không thèm nói nửa lời. Cụ co hiểu như thế nghĩa là gì không?… Người ta khinh, khinh bằng rác cái giống coi đồng xu to như bánh xe bò. Trời đất ơi, con bé Cúc ấy, tuổi ít hơn, trình độ văn hóa thấp hơn, mà nó xử sự cao thượng như vậy. Còn con gái cụ thì… Thế gian đã có câu rồi: Đi buôn có bạn, đi bán có thuyền… Cô ấy làm thế này là bôi gio trát trấu vào mặt con. Làm sao con dám ngẩng lên nhìn anh em, bè bạn? Làm sao con còn dám vác cặp tới nơi này nơi kia mà viết lách?… Một đồn mười, mười đồn trăm, ở cái tỉnh nhỏ như vạt áo này chuyện gì thiên hạ không biết?… Thôi, con chịu rồi, con gái cụ đem trả cụ, cụ gọi cô ấy về mà nuôi…
Vũ Sơn ngừng lời, mặt đỏ phừng phừng, bọt sùi cả ra mép. Ông bố vợ anh ngồi thẫn thờ, hai ngón tay bất giác xoa vào nhau như đang vê mồi thuốc lào. Trông vẻ mặt ông cụ tội nghiệp quá, khiến tôi bỗng ngượng lây. Tôi đứng dậy, đi lòng vòng quanh nhà, xem mấy bức tranh gà lợn. Chợt, tôi thấy tấm ảnh chụp một vị lãnh tụ nhà nước. Vị lãnh tụ đang đi, tay chỉ về phía trước, dáng điệu hối hả. Khung cảnh xung quanh cho ta rõ đó là một công trường. Sát bên tay trái ông là Vũ Sơn, tay phải và phía sau là cả một đám đông những chuyên viên, thư ký, cán bộ hướng dẫn tham quan, người tháp tùng, bảo vệ… Có lẽ, đây là ngày đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời phóng viên của Vũ Sơn, anh ta đã cố gắng lưu giữ lại niềm vinh hạnh đó. Bức ảnh được phóng to, lồng khung kính, treo nơi trang trọng nhất của căn nhà. Bên dưới, sát lề ảnh, ghi dòng chữ:
Tặng bố mẹ và các em. Kí: Vũ Sơn.
Tôi trở lại chỗ ngồi, tự rót nước uống cho không khí thân mật. Ông bố vợ Vũ Sơn bảo tôi:
- Cháu Nam ở lại ăn cơm với hai bác cho vui. Rồi có chuyện gì ta bàn tính sau.
Tôi chưa kịp trả lời, Vũ Sơn đã gạt phắt đi.
- Thôi thôi, chẳng bụng dạ nào mà cơm cháo nữa. Vả lại, đã có chỗ mời chúng con trưa nay rồi.
Nói xong, anh rít thêm điếu thuốc lào rồi đứng dậy ra về. Tôi chào ông lão tội nghiệp, đi theo anh. Khi chúng tôi đã đạp xe tới ngã tư, thấy vẻ mặt Vũ Sơn dịu đi, tôi mới hỏi:
- Bây giờ đi ăn cỗ ở đâu?
Vũ Sơn đáp:
- Cỗ bàn gi. Tôi phải chơi võ ấy cho họ sợ. Ông bà cụ tốt nhưng con gái họ thì tôi ngán tới tận mang tai… Đi với tới đừng lo đói, a… vào đây.
Nhà của Thanh Dương đứng kề một hiệu may lớn. Ngôi nhà hai tầng xinh xắn, tuy kiểu kiến trúc có hơi cổ. Bố mẹ Thanh Dương trước có đại lý nước mắm nhưng mười năm trở lại đây đã dẹp hàng mắm muối để mở quầy bán sách. Một tấm biển tôn sơn vàng nhạt, kẻ dòng chữ đen treo phía trước:
Hiệu sách Hoa Mai
Bán và cho thuê các loại sách.
Không hiểu một hiệu sách ở tỉnh lỵ lời lãi hàng tháng bao nhiêu nhưng gia cảnh nhà Thanh Dương khang trang lắm. Có thể, bố mẹ anh còn giữ được vốn liếng cũ và biết cách bắt nó sinh sản, cũng có thể vì họ đã quen nếp sống phong lưu. Lúc chúng tôi đến, hai ông bà đang ngồi gật gù uống trà sen, ông vừa đọc vừa bình Kiều, bà ngồi nghe chăm chú và ngưỡng mộ như một khán giả lý tưởng. Vũ Sơn đã quen, anh bước sồng sộc vào, cất tiếng hỏi:
- Thanh Dương đâu hai bác?
Ông bà cụ cùng ngẩng lên chào chúng tôi rồi đáp:
- Em nó đi từ sáng, bảo tới chỗ hai anh.
Vũ Sơn đáp ngay:
- Cháu với Nam có việc đột xuất phải đi từ năm giờ sáng. Chắc không gặp chúng cháu nó lại rẽ vào nhà Ngọc Sang đàn hát rồi. Dạo này thằng Sang có mấy cô bạn khá lắm.
Đoạn, anh ngồi xuống ghế, uống một lúc ba chén trà. Bà mẹ Thanh Dương đứng lên:
- Sáng nhà mới đồ xôi đỗ, ông ấy lại nấu cả chè hạt sen mời các anh xơi.
- Thôi thôi…
Vũ Sơn kêu to, xua tay lia lịa như đuổi một nỗi ám ảnh khủng khiếp nào đó: Từ sáng đến giờ chúng cháu đã phải ăn đủ thứ xôi chè rồi. Nào là xôi gấc, xôi đỗ, xôi trắng thịt quay. Nào là chè đỗ đen, chè đường, chè bà cốt… giờ bác có xôi ngọc chè vàng cháu cũng chịu. Chỉ thèm một bát bún thôi…
Bà già đon đả:
- Vậy tôi chạy quàng ra chợ mua bún với lòng về nhé.
Vũ Sơn đưa mắt nháy tôi, đáp:
- Thôi, bún lòng làm gì cho tốn. Bác cứ kiếm con cá quả kha khá vào, làm món bún cá quả rau cải là nhất. Cháu đã đi đủ nơi, sơn hào hải vị đủ thứ nhưng chỉ mê độc nhất món bún cá quê mình.
Bà lão sắm sắn vào trong nhà thay áo, cắp rổ đi chợ. Vũ Sơn kéo tôi ngồi nghe ông cụ bình thơ Kiều. Quả là anh có nghệ thuật tung hứng, và cái nghệ thuật ấy chỉ những thằng ma lanh, quen tiếp xúc với đủ loại người như tôi mới nhận ra. Những ngày làm việc trong phòng giao dịch ghi biên lai và trả ảnh đã dạy tôi cách đón bắt ý nghĩ thật của con người, cách lọc chúng khỏi những ngôn từ giả trá, mềm mỏng, cách lôi chúng từ dưới đáy sâu của những đối thoại vòng vèo, chằng chịt… Ông già nghiêng đầu, lên giọng đọc một câu thơ mới, rồi gõ ngón tay khô khỏng xuống khay nước, cất tiếng:
- Anh có nhận với tôi rằng chẳng còn ai theo được Nguyễn Du không? Cụ ấy không còn là thi nhân mà đã vượt lên bậc thánh. Thời đại của các anh bây giờ nhảm nhí, chẳng còn thơ phú nữa, chỉ có trò ghép chữ ba lăng nhăng. Thời chúng tôi, mấy gã thầy đồ gàn, không manh áo che thân cũng đủ tài bịa ra hàng tá văn chương thứ ấy. Hồi trai trẻ thơ Là mác- tin, thơ Véc- len, thơ Bô- đờ- le tôi đọc chán chê rồi, thích thì có thích nhưng vẫn thấy nó là loại thứ hai. Kiểu như ta uống chè búp ướp sen rồi mà phải uống chè bồm gói…
- Phải phải, bác nói chí phải…
Vũ Sơn tiếp lời: Hội nghị thơ toàn quốc năm ngoái cháu đã phát biểu ý kiến rồi: Nền thơ đang lâm nguy, đang cần phải nuôi dưỡng và chữa chạy. Đám thi sĩ trẻ bây giờ làm thơ như đàn bà thái rau cải vậy, họ có để tâm nghiền ngẫm nghề nghiệp đâu. Cứ nghe thấy tên một nhà thơ châu Âu là họ cuồng lên. Biết đâu rằng ngay cả Răm- bô, Prê- ve, A- pô- li- ne cũng đều là cát bụi trước cụ Nguyễn Du nhà mình.
Ông già lim dim mắt, nhìn Vũ Sơn trìu mến:
- Tôi không ngờ ở tuổi anh mà đã biết được điều ấy. Cái thằng Dương nhà này không có nổi một phần ba trí óc tinh khôn, tỉnh táo như anh.
Vũ Sơn cười:
- Không, nó tinh khôn gấp ba lần cháu.
Ông già lắc đầu:
- Tinh khôn nỗi gì?
Vũ Sơn đưa mắt nhìn tôi rất nhanh, rồi đáp:
- Nó lại để cho bác thấy sự tinh khôn thì hỏng chuyện… Vừa lúc ấy bà già đi chợ về, giơ con cá khoe:
- Ông xem, con cá gần hai cân cơ đấy. Đám thợ câu quăng vừa đưa dưới hồ lên.
Ông già bảo:
- Ngon đấy, bà nấu cẩn thận cho các anh ấy ăn.
Khoảng nửa giờ sau chúng tôi được thết một bữa bún ngon lành. Nói không ngoa, tìm cả mùa đông ở Hà Nội cũng không có một hàng bún nào ngon như thế. Sau bữa ăn, ông bố Thanh Dương đưa cuốn an- bom cho tôi xem. Tình cờ, tôi lại lật đúng bức ảnh chụp vị lãnh tụ nhà nước đi cùng với nhóm người tháp tùng và các nhà báo, trong đó có Vũ Sơn. Bên dưới, là dòng chữ đề:
Tặng hai bác và Thanh Dương.
Chữ ký kéo loằng ngoằng như những sợi bún rối. Tôi lật qua các tấm ảnh, gấp cuốn sổ lại, uống nửa chén trà rồi cáo từ.
Tối hôm ấy, bố tôi ngồi nói chuyện với đám khách từ quê lên. Họ đem theo nào tay nải gạo, lồng gà, buồng chuối lỉnh kỉnh. Tuy là họ hàng, tôi chẳng biết ai. Bố tôi phải giới thiệu lai lịch của từng người, mối liên quan nội ngoại người tôi phải chào là bá, người tôi phải xưng là anh…
Sau khi thủ tục đã hoàn tất rồi, cụ sung sướng bảo với đám người trong gia tộc:
- Thằng cháuNam nhà tôi chịu khó đọc sách lắm. Mọi việc trên đời nó đều thông tỏ. Đúng là cha mẹ sinh con trời sinh tính, vợ chồng tôi cả đời có cầm đến quyển sách đâu. Dạo này, cháu nó chơi với nhà báo Vũ Sơn, các anh các chị biết chứ, anh ấy là cố vấn đặc biệt của lãnh tụ nhà nước, cả tỉnh này nể vì…
° ° °
Vết rách ở đuôi mắt tôi đã thành sẹo. Tuy vậy, đôi khi, hình ảnh người thiếu phụ nhỏ bé có nước da ngà và cặp mắt đam mê luôn mở rộng, luôn nhìn đời như tìm kiếm hiện lên trong óc não tôi. Cứ mỗi lần ấy, tôi lại thấy chị mới lạ như từ một ngọn triều xa ngái trở về. Nhưng rạch cây, những vườn cà, vườn ớt, bờ đê dốc và dòng sông gào réo sủi bọt… tất cả tạo dựng lại khoảng không gian khoáng đạt, lồng lộng mây gió, mời gọi, xáo trộn, uy hiếp tâm hồn vốn dĩ bình lặng của tôi. Có một tiếng nức nở, yếu ớt, nhưng không thể dập xóa được cất lên dai dẳng trong đáy sâu trái tim thầm kín, không sao cắt nghĩa nổi nó từ đâu tới, không sao hiểu được nó sẽ đi về đâu như cơn mê triền miên ám ảnh. Giữa các cuộc chơi, giữa những buổi giao tiếp ồn ào, vui vẻ, tôi chợt nhớ tới lưỡi cát vàng, bờ đê nghiêng nghiêng, và ngọn núi in vẻ đẹp cô đơn xuống lòng hồ. Có lẽ, mình cần trở lại nơi đó một lần nữa chăng? Có lẽ, cảnh phố xá đông đúc muôn thuở đã gieo vào mình nỗi thèm khát thiên nhiên, và nỗi thèm khát ấy chưa thỏa?…
Một sáng, tôi đang ngồi rọc tờ báo mới cho bố, chợt có tiếng nói rụt rè:
- Em xin hỏi các bác, đây có phải nhà cậu Nam không ạ?
Tôi ngẩng lên, một bà già nhỏ bé đội thúng gạo nếp, tay xách nải đứng thập thò trước cửa.
- Cháu là Nam, xin mời bác vào.
Tôi đáp lời, đỡ thúng gạo trên đầu bà lão xuống. Bà đưa mắt rụt rè liếc quanh căn buồng, sờ lên mặt chiếc ghế mây như thử xem có chắc chắn không rồi mới ngồi lên. Tôi pha trà, rót mời bà. Bà bưng chén trà, đắn đo, rồi đặt xuống:
- Tôi là mẹ cháu Hồng - Bà tự giới thiệu với nỗi bối rối.
- Cái con bé bữa trước bị chồng đánh.
Thấy tôi à lên một tiếng, hai mang tai bà lão đỏ ửng, bà cúi mặt, nói tiếp:
- Tôi vừa ở đằng nhà báo Vũ Sơn lại đây. Anh ấy nói rằng cậu là người cứu cháu. Thằng chồng con bé đã đánh cậu rách mặt mà cậu không quản ngại… Chúng tôi có lỗi với cậu nhiều quá. Ở đời, con dại cái mang. Xin cậu cho hai chữ đại xá…
Chúng tôi có chút quà mọn, gọi là của bạc lòng thành…
Bà loay hoay cởi tay nải, lấy ra mấy khuôn bánh ngũ vị, một cân chè, một gói mứt sen và đặt tất cả lên thúng nếp:
- Thể nào cụ ông cụ bà cũng phải cúng hương hoa một tháng đôi lần, xin cậu vui lòng nhận.
Nói xong, bà lão ngước mắt nhìn tôi, van vỉ và buồn tủi như mắt kẻ tội đồ. Giây phút ấy, tôi chợt nghĩ rằng nếu tôi là con gái, tôi cũng trạc tuổi thiếu phụ kia, nếu sự bất hạnh rủi ro rơi vào số kiếp tôi, một ngày nào đấy mẹ tôi cũng sẽ phải bưng thúng gạo nếp và các thứ quà tặng kia tới nhà ai đó, nói với họ bằng giọng run rẩy, và ngước lên nhìn họ khẩn cầu. Sự liên tưởng ấy khiến tim tôi se lại. Tôi nói:
- Bác hãy coi đây là một hành động bình thường, cậu mọi người đàn ông.
Bà lão lắc đầu:
- Không, không, cậu đừng từ chối. Cậu từ chối chúng tôi đau lòng lắm. Từ thuở nhỏ tới nay, tôi chưa ăn ở bạc ác với ai, sao số kiếp trớ trêu, oan uổng…
Hai giọt lệ mờ đục trào ra từ đôi mắt sâu, mí đã gấp nếp nhưng còn ánh lên vẻ đẹp của thời xa xôi. Rồi những giọt khác nối tiếp nhau lăn qua gò má dăn deo, chi chít vết thời gian đầy ải. Bà lão cởi tấm khăn vuông đội đầu xuống, chặm nước mắt, hỉ mũi, cố chặn lại tiếng nức nở.
Tôi khép cửa, ngồi xuống chờ đợi. Lát sau, khi những tiếng nức nở dịu dần, bà cụ bắt đầu kể chuyện.
Ở làng Mơ, gia đình bà vốn là một nhà trung lưu, nền nếp, được mọi người kính nể. Ông bà cụ khéo tính toán làm ăn nên đời sống khá dư dật. Những dịp giỗ tết, cưới cheo, đình đám… trong làng ngoài xã không ai dám buông một tiếng ỉ eo. Ông bà cụ có ba con: hai trai, một gái. Anh con cả là sĩ quan, cấp tá đóng tít tận miền Nam, thi thoảng mới về làng, đem theo một cô vợ Sài Gòn những ríu rít như tiếng chim, quần áo là lượt, môi son má phấn. Thoạt đầu, người làng đi theo chị xem hệt như xem người ngoại quốc. Sau ve dịu dàng lẫn tiếng cười hồn nhiên của chị chinh phục được họ. Hai đứa con trai chị cũng nói giọng miền Nam nhưng cực kỳ kháu khỉnh, lễ phép, gặp ông già bà cả chúng đều vòng tay cúi đầu chào, khiến ai nấy nức nở khen ngợi. Lũ trẻ mất dạy trong làng phát ghen lên vì những tấm sơ mi sạch bong, không dây vết mực, những đôi dép đế kếp, những chiếc quần Jin thứ thiệt của chúng. Tóm lại, gia đình người con cả tuy xa xôi nhưng luôn nuôi giữ cho hai ông bà mối hãnh diện với bà con xóm mạc. Anh con trai thứ hai dạy cấp hai ở một huyện cách làng vài chục cây số. Tuần một hai lần anh phóng xe máy về. Ông bà cụ đã cưới cho anh một cô dâu hiền lành đảm đang, làm trong ban quản trị hợp tác. Người con dâu thứ hai tuy có kém nhan sắc nhưng bù lại, chị rất khéo léo chiều bố mẹ chồng, lo từ chai rượu của ông bố tới miếng trầu, tấm áo cho bà mẹ. Vả lại, chị khỏe mạnh, ngay từ năm đầu tiên về làm dâu đã đẻ cho hai cụ một đứa cháu trai lọt lòng vừa đúng bốn cân. Việc nặng trong nhà, một tay chị quán xuyến. Trai làng, dẫu xốc vác, chưa chắc đã có nhiều người giúp sức, lo toan mọi sự trơn tru như chị. Quả tình, trời đã cho hai ông bà đứa con dâu ấy để làm cột trụ trong nhà, gánh vác gia cảnh lúc họ vào tuổi xế bóng. Ngày ngày, cứ bế đứa cháu to như chiếc cối đá, trắng phau phau họ đã nở nang gan ruột, chẳng cần phải mâm cao cỗ đầy. Cả cuộc đời cần cù làm lụng, ăn ở có nhân có đức với kẻ dưới người trên của họ được đền bù xứng đáng nếu không có người con gái út, cái cô Hồng đa đoan kia…
Người con gái út thông minh, nhanh nhẹn từ thuở nhỏ. Lên năm lên sáu, cô bé đã chỉ huy cả đám trẻ chăn trâu trong làng đánh trâu vượt đầm, vượt sông dăm bảy cây số tới bãi cỏ xã khác. Xã ấy, toàn dân buôn nên ruộng bỏ hoang, cỏ đồng tốt lút chuôi dao. Tuy vậy, thấy trâu làng khác tới ăn họ vẫn vác hèo ra đuổi. Cô bé Hồng bày ra đủ thứ trò tinh quái chống lũ người ích kỷ. Cuối cùng, lũ trẻ chăn trâu đủ nhẫn nại để thắng họ, và đàn trâu làng Mơ trở thành đàn trâu lý tưởng cho bất cứ hợp tác xã nào trong vùng. Lớn thêm một chút, Hồng đi học. Bao giờ cô bé cũng dẫn đầu lớp. Bọn con trai muốn nhờ cô giải toán hoặc làm văn hộ đều phải cõng cô qua ngòi, hoặc nộp những thứ quà mà chúng có trong túi: Từ quả nhót cho tới nắm xôi. Năm mười ba, sang tuổi dậy thì, Hồng lớn vùn vụt, và nhan sắc cũng biến đổi từng ngày. Chỉ một mùa hè, cô đã từ đứa bé trở thành một thiếu nữ má đỏ như gấc chín. Học ở đâu cũng thế, đám con trai lớn tuổi lẫn những ông thầy giáo trẻ quanh quẩn nhét thư vào túi áo hoặc kẹp giữa những trang sách của Hồng. Cô gái chưa yêu ai cả, suốt ngày chơi đùa với chúng bạn và cười như đứa trẻ.
Thế nhưng, nhan sắc lồng lộng của cô đã khiến bố mẹ cô lo lắng. Hồng nhan phải kiếp đa đoan, lời các cụ đã nhắc. Hai ông bà bàn tính, cố tránh cho con gái một số mệnh trầm luân nen buộc cô thôi học. Hai cụ nghĩ rằng sự nhiễu loạn do cô gái gây nên cho đám con trai ở bất cứ nơi nào cô đến sẽ là tai ương giáng xuống đầu họ. Tốt nhất cho cô ở nhà, làm hợp tác xã hoặc xin dạy mẫu giáo, kiếm một người chồng tử tế. Năm ấy, Hồng đang học lớp chín, chỉ một năm nữa, cô sẽ thi đại học. Việc bố mẹ bắt thôi học về dạy mẫu giáo làm cho cô choáng váng như sét đánh. Cô khóc lóc, van xin, kêu gào nhiều tuần lễ hỏi hai ông bà sắt đá không lay. Các bậc bố mẹ bao giờ cũng tin rằng mình đúng. Vốn sống trong gia đình nề nếp, cô gái nguôi dần, mặc dù cô không tin rằng bố mẹ đã tính xa hơn và chính xác hơn bản thân mình. Giấc mơ đại học nguôi đi trong cuộc sống mới. Lúc ấy, Lương xuất hiện. Anh ta vốn là bạn với anh trai thứ hai của Hồng, đi học trung cấp thủy lợi rồi ra làm việc ở tỉnh khác đã vài năm. Lương ít về quê. Vì cách sông cách đò, anh vắng mặt hơn một năm mới trở về thăm bố mẹ. Cô thiếu nữ xinh đẹp xuất hiện trước mặt anh ta như giấc mơ, bởi lần phép trước, anh mới chỉ thấy cô là một cô học trò kháu khỉnh. Lương đã si mê Hồng ngay tức khắc. Bố mẹ anh ta thúc giục con trai lấy vợ từ lâu mừng rơn, hối hả mở một chiến dịch, bao vây gia đình và bản thân cô gái bằng những quà tặng, những lời hứa hẹn êm dịu, những viễn ảnh tốt đẹp của cặp uyên ương. Về mặt gia cơ, hai gia đình cũng tương xứng. Bố mẹ Hồng chỉ đắn đo vì thấy Lương hiền lành, ít nói nhưng bà mẹ anh ta đáo để tai quái nổi tiếng trong xóm, ngoài làng. Đúng lúc hai ông bà đang chần chừ, bà nội của Lương ốm nặng. Anh ta đã vác bộ mặt sầu thảm tới gặp họ van vỉ. Khi hai ông bà mềm lòng, anh ta lại đến gặp Hồng xin cô thương cho cảnh sống đơn chiếc muộn màng của mình. Hồng đang lẻ loi, đám bạn cùng tuổi khá sắc sảo đã lên tỉnh học. Quanh quẩn trong làng chỉ còn các bà nạ dòng với các cô gái ít may mắn và cũng kém thông minh. Chuyện trò với họ hết ngày đến đêm chũng quanh quẩn những cơm áo, lúa mạ, việc cưới xin, ma chay, mảnh quần lụa đen lên giá bao nhiêu đồng hoặc sắm một tấm áo mùa đông hết bao nhiêu thúng thóc… Dẫu sao, Lương cũng có học và đang làm việc. Qua anh ta, cô thấy một thế giới rộng lớn hơn cái thế giới tủn mủn đang tù hãm mình. Vả chăng, cái mặt anh ta tuy không thật đẹp nhưng cũng dễ coi… Và, chỉ trong vài tuần, lễ cưới kèm theo sau lễ hỏi. Các gia đình trong họ, chưa kịp ăn hết cau sêu Tết lần trước đã nghe pháo đón dâu vang lên ngoài ngõ và thấy cô dâu Hồng, má đỏ, môi đỏ, mặc áo dài quần trắng như dân thị xã đi từ ngõ nhà mình tới ngõ nhà chồng, giữa một đoàn người huyên náo cười nói…
Cưới xong, những lời hứa hẹn tốt đẹp của ông bố bà mẹ chồng tan biến cùng khói thuốc. Họ chẳng cho Hồng nhà riêng, cũng chẳng cắt cho một nửa mảnh vườn, cũng chẳng mua cho cô chiếc xe đạp Thống Nhất nữ… Khi họ trắng trợn tuyên bố những điều đó, Hồng có thai hai tháng. Cô khóc ba đêm ngày rồi về nhà xin một đôi khuyên hai đồng cân. Bản năng người đàn bà, kẻ tạo dựng và kiến thiết thành lũy gia đình vụt trồi lên trong tâm hồn cô, với tất cả sức mạnh của thù hận, với sự tinh khôn và ý chí chiến thắng, cô đã tiêu diệt cô gái mơ mộng trong mình, lao vào cuộc vật lộn với đời sống, chỉ một mục đích làm giàu và khiến cả dòng họ nhà chồng phải nhục nhã về sự bội ước trắng trợn, đê hèn của họ…
Cô bỏ nghề dạy mẫu giáo, đi buôn. Từ những chuyến buôn vặt từ xã tới tỉnh lỵ, cô đã vượt sang những chuyến buôn đường xa từ tỉnh này qua tỉnh khác, tới cả thủ đô. Vốn liếng nhân lên rất nhanh, Hồng bắt đầu mua đất khi giá đất còn hạ. Cô làm ba gian nhà. Rồi vài năm sau, giá đất tăng vọt lên, cô cắt nửa mảnh đất cũ bán đi lấy tiền gây ngôi nhà mái bằng mới, biến ba gian nhà cũ thành nơi để hàng và đồ gia dụng. Đồng tiền trong tay cô xoay như con thò lò, sinh sôi nảy nở từng ngày từng tuần một. Làng Mơ vốn là làng nửa nông nửa thương từ xưa. Đám đàn bà đi buôn khá đông và khá sành sỏi nhưng chưa ai phất lên một cách kì lạ như Hồng. Người bảo cô mát tay buôn, người bảo đôi mắt mê hồn của cô hút thần Tài nên tiền bạc tuôn vào nhà cô như nước. Vốn thông minh, đi nhiều, Hồng đã đem lại cho gia đình cô những tiện nghi sinh hoạt mới nhất mà dân đô thị cũng phải mơ ước. Chiếc máy thu hình đầu tiên trong tỉnh là máy của cô chứ không phải của dân thị xã. Và suốt ba tháng, từng đoàn trai gái từ tỉnh lỵ men theo hồ tới làng Mơ xem nhờ màn ảnh nhỏ. Chỉ một điều lạ, khác hẳn những người đàn bà trong làng, Hồng không thu vén cho cái tiểu gia đình của mình. Tất cả những thứ tài sản có giá trị nhất cô đều cho bố mẹ: từ máy thu hình tới ra- đi- ô cát- sét, từ quạt để bàn tới tủ lạnh hoặc sa- lông. Gia đình bên chồng căm tức, lồng lộn. Họ chửi cạnh khóe đủ điều nhưng Hồng chỉ cười nhạt. Cô trở nên một đối tượng để họ vừa thù ghét vừa sợ hãi…
Khi Hồng có đứa con thứ hai, Lương gặp tai nạn sụt xương sống. Anh về mất sức, mở hiệu thợ may. Vợ anh đã lo đủ tiền gửi anh học nghề thợ may sáu tháng ở thị xã và cất công xuống tận Hải Phòng mua cho chồng một chiếc máy khâu Con Bướm nguyên hộp. Nhưng Lương vốn bạc nhược. Anh ta không có sự tinh tế lẫ đức cần cù để trở thành một người thợ may giỏi. Ỷ lại vào tài kiếm tiền của vợ, Lương rong chơi suốt ngày. Trong các cuộc rượu la cà, anh nghe lời xúc xiểm của họ hàng gia quyến rằng Hồng thu vén cho bố mẹ đẻ cô, rằng sự thu vén đó xâm phạm vào quyền lợi và lòng tự trọng của anh, rằng anh không thể tha thứ cho cô mà phải chứng tỏ uy lực của mình. Hết cuộc rượu, anh chồng hùng hổ về nhà, co chân đập cửa và bắt đầu chửi vợ.
Thoạt đầu, Hồng im lặng chịu đựng. Sau, cô nhắc cho Lương hiểu rằng anh không có quyền đòi hỏi những gì anh không gặt hái được. Rằng cho tới tận lúc này anh cũng chỉ là một kẻ sống thừa, dựa trên những giọt mồ hôi của cô. Sự bất lực và nỗi nhục nhã khiến Lương càng điên khùng hơn, anh ta đập phá đồ đạc hành hạ con cái, và cuối cùng đánh vợ. Đúng lúc đó, người đàn ông thứ hai xuất hiện. Anh là một thiếu úy giải ngũ, cũng ở cùng xã nhưng mới rời khu trại về làng. Cùng tuổi với Hồng, anh ta cường tráng, dẻo dai và hấp dẫn bất kỳ người nào nói chuyện với anh bằng sự cởi mở, thân thiện. Hồi chiến tranh, anh đã ở chiến trường miền Nam vài năm, rồi đóng quân ở Cam Ranh, Đà Nẵng, sau rối về Hải Phòng trước khi giải ngũ. Bố mẹ anh dạm hỏi cho anh một cô gái ở xóm Trại khi anh vắng nhà, và làm lễ cưới trong tuần anh về phép. Anh đẻ với cô một đứa con trai nhưng thẳng thắn tuyên bố rằng không hợp nên hai người khó có thể sống lâu dài…
Tôi hỏi bà già:
- Anh thiếu úy ấy có dám tuyên bố công khai rằng yêu cô Hồng không bác?
Bà già đáp:
- Có, nó ngỗ ngược như thế mới khổ cho chúng tôi. Ba năm nay, gia cảnh nhà tôi như địa ngục. Cứ mỗi bận chúng nó đi với nhau, thằng Lương lại đánh con cháu Hồng thừa sống thiếu chết. Rồi tới khi nó biết, nó lại trả thù anh em nhà Lương. Tay chủ tịch xã dọa nạt mãi cung không nổi.
- Tại sao bữa trước, gia đình bác không ai can thiệp?
- Ai dám can hở cậu? Con gái mình ngoại tình, họ có đánh chết cũng phải ngồi yên trong nhà mà nghiến răng lại. Cậu nghĩ xem, máy chảy ruột mềm, dù có hư đốn cũng là thịt mình dứt ra…
- Nếu cô Hồng không còn yêu anh Lương nữa, sao bác không cho họ ly hôn.
- Cậu ơi, ở nhà quê chúng tôi bỏ vợ bỏ chồng là việc điếm nhục gia phong… Mà chúng tôi có cho bỏ thằng chồng nó cũng không chịu ký. Ngày nào nó cũng uống nửa lít rượu, lại cờ bạc nữa, rời con bé Hồng thì biết móc ở đâu ra?…
Bà già nói những lời cuối với vẻ tuyệt vọng. Từ đôi mắt mờ đục, những giọt lệ lại trào ra. Vừa lau nước mắt bà vừa thu lượm đồ, rồi chào tôi ra về.
Tôi ngồi lặng hồi lâu, óc não xáo trộn. Một gương mặt đàn bà lạ lẫm nở rộng trước mặt tôi, biến thành đất đai, đồng ruộng. Đôi mắt sầu não như hai mảnh hồ và những dòng nước mắt trào ra bất tận như những con suối âm chú, đầy lá cây và xác thú thối rữa. Rồi phía sau gương mặt người đàn bà vô danh ấy, là thiếu phụ bữa trước, với đôi gò má ửng đỏ, cặp mắt đen mê đắm mở rộng luôn khơi mở một thế giới lạ lùng, cặp môi tròn trĩnh tựa trái cây chín lúc mùa thu… Tôi không còn phân biệt được những cảm xúc đang chen lấn trong mình. Xót xa, lo âu, thù ghét, nhớ nhung hay thương xót. Nhưng tôi không chịu nổi sự giằng xé của chúng. Tôi tới nhà Vũ Sơn.
Anh đang ngồi bó gối trước bàn, mắt đỏ dọc. Dưới nền nhà, cũng một thúng gạo nếp và những thứ đồ mà bà lão mang tới cho tôi. Thấy tôi, anh với điếu cày rít sòng sọc liền hai mồi thuốc. Đoạn, anh bỏ chiếc điếu cày vào chiếc ống đạn cối, bảo:
- Đi, tôi với cậu vào làng.
Anh dắt xe ra cửa, khóa cửa, nhét khóa vào lỗ thủng ở đầu hồi rồi cùng tôi đạp xe đi. Suốt quãng đường, chúng tôi cùng im lặng. Khi đã đi hết con đường tỉnh lộ, chúng tôi rẽ lên sống đê. Chỉ vài trăm thước sau, tôi đã nhìn thấy Thanh Dương ngồi với Hạnh dưới bóng cây gạo. Họ đang chụm đầu vào nhau trò chuyện nên không nhìn thấy chúng tôi. Tôi nói:
- Quay về đi anh Sơn, để ngày khác.
Vũ Sơn đang cắm cúi đạp, chợt ngẩng lên. Và anh vừa phanh vừa chống đôi chân dài nghêu xuống đường. Hai chúng tôi quay lại tỉnh lỵ. Vũ Sơn nhếch mép cười, rồi bảo:
- Cậu thấy không, cái mặt thật của đời bao giờ cũng nửa đen nửa trắng. Chuyện bi ai nhất ở sát cạnh những trò hài, tôi đánh cuộc cái đầu tôi với cậu: Dù có sống ba trăm tuổi, cậu cũng sẽ không bắt gặp một việc gì đó, chỉ đơn thuần đem tới nước mắt hay đem tới niềm vui…
° ° °
Dù sao, đời sống và các nhu cầu của nó vẫn có một uy lực ghê gớm. Vũ Sơn thường ca cẩm với tôi về những chuyến đi công cán, nghĩa là đi viết bài cho một cơ sở nào đó, không phải chỉ đơn thuần vì mục tiêu nghề nghiệp mà chủ yếu là vì các phúc lợi vật chất. Tuy nhiên, một buổi chiều tôi tới rủ anh lên sân vận động xem đá bóng, thấy anh bò trên bàn làm việc, đưa bút lia lịa. Dăm bảy trang đã viết rồi nằm la liệt dưới chân bàn. Còn những trang đợi viêt kêu sột soạt dưới khuỷu tay nhà báo. Thấy tôi, anh ngước mắt lên:
- Chờ tôi, cậu chịu khó chờ tôi một lát nhé. Chỉ vài chục dòng nữa là xong cái của nợ này.
Nói đoạn, anh kéo tờ giấy đặc kín chữ roạt một tiếng, ném xuống chân bàn. Sau đó, lấy tờ giấy trắng khác, viết tiếp.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây có tựa, vật quen thuộc nhất từ ngày tôi biết anh. Tìm ấm chén, phích nước và hộp trà, tôi pha nước uống.
Chừng mươi phút nữa, Vũ Sơn viết xong bài báo. Anh lượm những trang giấy ngổn ngang dưới chân lên, sắp xếp theo thứ tự, nhét vào chiếc cặp da để đầu giường rồi đứng dậy, vươn vai, vặn lưng răng rắc.
Đứa con trai lớn từ cửa lò dò đi vào, tay xách chiếc hăng- gô:
- Này bố, phở của bố đây.
Nó nói, rồi đặt hăng- gô phở lên bàn làm việc. Ngoài cổng, một cái đầu trọc lốc ló vào:
- Mau lên, mày còn nợ ông sáu viên.
Thằng con lớn của nhà báo quay lại:
- Rồi tao sẽ giả, chở ở đấy.
Dứt lời, không kịp nhìn ông bố, nó chui tọt vào buồng, lục lọi gì đó trong bóng tối khá lâu. Lát sau, nó chạy vụt qua mặt chúng tôi, một tay túm chặt vạt áo trước. Vũ Sơn xuống bếp, lấy lên chiếc thìa chan canh. Ngồi chồm hỗm trên giường, anh kéo hăng- gô phở vào lòng, xúc ăn:
- Cuộc đời thật sự như thế đấy cậu Nam ạ. Mọi ngày, khi tôi viết những bài báo quan trọng về vấn đề này hoặc vấn đề kia của đất nước, đăng ở những tờ báo tiếng tăm nhất thì vợ tôi kệ xác: Mày viết hở? đói hở? vào nồi lục cơm nguội mà ăn. Chẳng có thịt cá gì đâu, cà đấy, trám ngâm nước mắm đấy, cứ thế mà giã. Đôi khi, nồi cơm trẻ con không đậy kĩ, chuột nhắt nhảy vào vọc chán chê… Vậy mà hôm nay tôi viết bài báo cho một nhà máy cấp tỉnh, đăng ở tờ báo của tỉnh thì nó phục vụ tôi đầy đủ thế: Nào cháo trứng, nào cà phê sữa, nào phở tái lăn… Chả là vì sau khi đăng bài báo này thế nào người ta cũng cho tôi mua rẻ vài chục mét kính. Bán cho đám dân buôn mới phất đang hăng máu làm nhà, cơi gác, có ngay món tiền nặng bỏ hầu bao. Đàn bà ngửi mùi tiền thính lắm cậu ạ, nhiều khi còn thính hơn chó trinh sát của công an…
Dứt lời, Vũ Sơn cười giàn giụa. Anh đứng lên, bỏ chiếc hăng- gô vào một góc nhà rồi ngồi uống trà với tới. Uống hết tuần trà thứ hai, anh đứng lên:
- Ta đi chơi một lát cho nhẹ đầu. Ở nhà mãi xương cốt rục hết. Nhưng đừng xem đá bóng. Hai cái đội này đá như mèo gãi ghẻ.
Chúng tôi dắt xe tới cổng, gặp một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi đi ngược lại. Bộ điệu ông ta hớt hải, lo âu, thấy Vũ Sơn, ông ta mừng rỡ kêu:
- Đây rồi, đây rồi… Tôi tìm anh ba bốn hôm nay, lần nào tới cũng chỉ gặp chị ấy với lũ trẻ ở nhà… Thật là may, đúng sớm ngày tôi bước chân phải ra khỏi cửa.
Nhà báo giới thiệu tôi với người đàn ông kia, ông ta là phóng viên báo tỉnh. Sau đó, anh hỏi:
- Có bài báo làm gì mà cậu cứ phải chạy nhặng lên?
Cái người đàn ông bị anh gọi là cậu, nhăn nhó:
- Khổ quá, anh Mai Hồng thúc tôi đêm ngày, sợ lỡ bài cho số báo sắp tới. Chúng tôi biết anh bận trăm thứ việc, mỗi lần anh quan tâm tới tờ báo tỉnh nhà, chúng tôi quý hóa lắm…
Vũ Sơn gật đầu:
- May cho cậu thật đấy… Cả tuần nay tôi bận. Chậm một phút nữa tôi với Nam cũng đi rồi…
Ông phóng viên báo tỉnh gật đầu lia lịa:
- Vâng, thật là may, thật là may…
Vũ Sơn quay vào nhà lấy bài báo vừa viết đưa cho ông ta. Vị phóng viên cúi chào mấy lượt rồi đạp xe đi. Chúng tôi cũng đạp xe sau anh ta vì cùng chung một lối phố. Tới ngã tư, nhà báo tỉnh rẽ sang trái còn chúng tôi đi ngược lên phía bắc. Ở đó, có một ngôi chùa vô danh nhưng khá đẹp. Chùa đứng trên đồi, các lối đi vòng theo đường xoắn ốc, được vây bọc bởi những hàng giậu cúc tần, và dọc theo bức tường xanh rờn diệp lục, từng đoạn một, ónh ánh những đám dây tơ hồng trường cửu. Ba chúng tôi đã lên đây chơi vài lần, nhưng từ ngày Thanh Dương chìm đắm vào cuộc tình với cô Hạnh, tới hôm nay Vũ Sơn mới rủ tôi quay lại vãn cảnh chùa.
Ngày thường, nơi đây vắng và yên tĩnh. Không một bóng người qua lại, không tiếng nói chỉ có các điệu hót của lũ chim vườn lúc tấu lên đơn lẻ, lúc hòa điệu giữa không gian lặng tờ, trong như pha lê.
Chúng tôi bước qua cổng tam quan, qua mảnh sân đầy lá dại và những cánh hoa trắng. Hai viền cỏ lan chi chạy theo hàng gạch viền răng cưa trổ hoa tím. Từ trong sân chùa, một con chó ta, giống bất cứ con cún nào vẫn gặp ở làng quê chạy ra sủa ăng ẳng. Không thấy sư thầy, cũng không thấy chú tiểu mọi ngày giữ chó. Tuy nhiên, con cún đã nhận ra chúng tôi, những vị khách quen từng mang đồ ăn chay lên đây thưởng ngoạn cảnh chùa. Nó không cắn nữa mà im lặng ngoe nguẩy đuôi, lũn cũn chạy theo chúng tôi ra chiều âu yếm. Vũ Sơn dắt tôi qua chùa chính, nơi bàn thờ đang ngút hương, một chồng oản với năm nải quả đặt trên đài gỗ sơn son, hai lọ huệ chưa tàn hết. Anh bảo:
- Xuống dưới kia chơi, ở đây tôi lại thèm ăn oản.
Anh vốn có tính tự nhiên. Đến bất cứ nơi nào, dù quen hay lạ, anh cũng mau chóng làm chủ tình thế và sục sạo như chủ nhân chính cống. Anh dắt tôi đi qua gian nhà trống giành cho khách thập phương trú chân những ngày hội ngày lễ. Rồi vượt lên mấy bậc tam cấp, chúng tôi bước vào sau chùa. Chùa này, ngoài bàn thờ các vị Kim cương còn một dãy nhà bức bàn kiểu cổ giành cho sư sãi, xưa kia là nơi gác những nong tằm hồi ruộng đất nhà chùa còn rộng rãi, đủ thuê người trồng dâu, hái dâu và quay tơ ươm kén. Giờ, các cánh cửa đóng im ỉm mốc thếch như những tấm da trăn khổng lồ.
Chợt, chúng tôi nghe thấy tiếng người thở hổn hển, rồi những tiếng thì thầm rất khẽ vọng ra. Sau đó, tất cả tắt đi một cách đột ngột, Vũ Sơn cất tiếng nói rất to:
- Cậu xem kìa, gốc cây ngọc lan bị mối đùn bằng đống rấm. Cái cây này chết đến nơi rồi. Tôi phải nói với sư thầy chặt đi mới được.
Anh bấm tay tôi, kéo tôi đi dọc hành lang, cố tình lê dép sền sệt. Tới đầu hồi, anh nói tiếp:
- Xuống vườn mà chơi, ở đây nhiều me đất lắm. Trước khi về nhớ xin nhà chùa một nắm cho bà cụ nấu canh chua…
Chúng tôi bước xuống vườn, tiếp tục cuộc đối thoại ồn ĩ về số phận của các cây đào, cây ổi, các cây hoa hoàng lan và ngọc lan, các bụi ngâu và nhài… Một vài phút sau, sư thầy đi ra, mời chúng tôi vào uống trà. Dù Vũ Sơn khỏa lấp bầu không khí ngượng ngùng đó bằng những câu chuyện vui vẻ, liên hồi như bắn súng liên thanh, tôi vẫn thấy thương hại kẻ tu hành khốn khổ. Ông ta mới trạc ngoài ba mươi, ba bẩy, ba tám là cùng. Những bắp thịt trên cần cổ, trên vai rắn rỏi và hai gò má căng phồng, chưa một nếp nhăn. Chúng tôi uống nhạt ấm trà, nói chuyện với nhà sư về tình hình thế giới lẫn cách chọn cà chua rồi cáo từ. Lúc qua sân trước, tôi thấy dáng mũm mĩm của một người đàn bà trong gian bếp tối. Bà ta quay lưng lại phía sân, đang cắt vật gì đó màu trắng, hình như là đậu phụ.
Đường xoắn ốc leo đồi, cả lúc lên và lúc xuống đều phải dắt bộ. Đang đi, chúng tôi gặp chú tiểu vác bó củi cành, mặt mũi nhem nhuốc mồ hôi. Chú cất tiếng chào chúng tôi, rồi lại cắm cúi leo dốc. Hai vạt áo nâu giắt vào thắt lưng, đôi giày treo toòng teng bên sườn, Vũ Sơn nói:
- Đôi khi, người ta đi hết cuộc sống của mình một cách mù lòa, hệt như những con ngựa bị thắng cương, hai bên mắt là hai mảnh lá đề che chắn. Vì vũ trụ chỉ còn hiện lên trước mắt những con ngựa ấy như một khe hở nhỏ hẹp, nên chúng cứ theo con đường đã vạch mà đi, không hề biết rằng mặt đất còn có núi non, sông hồ, những đồng cỏ và những bờ bãi. Những con ngựa không có khả năng tự tháo dỡ hai mảnh lá đề che mắt chúng. Còn con người, tại sao họ lại tự tiêu diệt quyền năng ấy. Gã thầy tu kia có thể đẻ với người đàn bà gã yêu một lũ con, công khai yêu đương mụ trước thế gian này. Nhưng gã đã chọn một kiếp sống… mà không, có thể không phải gã chọn, những tình cảnh trớ trêu nào đó đã đưa đẩy gã tới cảnh sống bất đắc dĩ, và gã không đủ sáng suốt tháo gỡ… NàyNam, tôi không muốn nhìn thấy ai đó đi hết cuộc đời mình mù lòa như những con ngựa bị che hai bên mắt, cho dù hai cái lá đề ấy là sự ngu đần lười nhác, là ách thống trị của danh vọng hay tình yêu…
° ° °
Những cơn mưa thu đã chấm dứt từ lâu. Mặt đất khô. Còn các cánh ruộng lô nhô từng đám đất cày vỡ.
Có một thằng cháu dưới quê đem biếu bố tôi hai cặp chim cun cút. Cụ bảo nấu cháo hành răm cho cả nhà cùng ăn. Vì mẹ tôi không phải là người nội trợ sành sỏi, nên bố tôi gọi một người láng giềng vốn sành ăn sang nấu giùm. Cháo vừa chín, cụ bà dỗi cắp rổ ngoay ngoảy đi chợ. Chỉ còn ba người đàn ông ngồi uống rượu suông rồi ăn cháo. Ông láng giềng đã sống hết thời thơ ấu ở làng quê, kể cho bố con tôi nghe đủ thứ chuyện về đời sống thôn xã, những mối tình thảm thiết và oan ức chỉ có được ở giữa các lũy tre. Những câu chuyện ấy làm tôi nhớ tới thiếu phụ má hồng. Cô ta như một lời kêu gọi, thúc hối, như một nỗi ăn năn vô lý ám ảnh tâm hồn tôi. Tôi đạp xe đến nhà Vũ Sơn, rủ anh vào làng Mơ. Anh đáp:
- Được, tôi cũng đang định rủ cậu vào đó chơi. Chỉ còn hơn tuần nữa chúng ta phải ra Hà Nội. Tôi sẽ đem chuyện này kể cho mấy thằng bạn tôi nghe. Đời thế mà chúng nó cứ viết mãi những chuyện tình ngớ ngẩn, nhạt phèo.
Chúng tôi đi chừng một giờ thì tới làng. Một đám trẻ đang chơi đáo dưới rặng táo. Vũ Sơn hỏi:
- Nhà bác Lương thợ may ở đâu, chúng mày?
Cái giọng oai vệ, trịch thượng của anh khiến lũ trẻ sợ ngay tức khắc. Một thằng bé tách khỏi bọn:
- Lối này, để cháu dẫn bác đi.
Rồi nó lon ton chạy trước chúng tôi. Tới ngã tư, nó đứng lại, giơ tay chỉ về phía trái:
- Cuối đường này bác ạ, cái nhà mái bằng cao nhất ấy. Trước cửa có tấm biển hiệu may Hoa Lan.
Vũ Sơn giơ tay xoa đầu thằng bé:
- Được rồi, mày như thế là ngoan. Lúc nào rảnh, đưa tao về thăm bố mẹ, nghe chưa?
- Vâng ạ.
Đứa bé đáp rồi co cẳng chạy thục mạng về đám đáo.
Chúng tôi đi tiếp con đường, qua nhiều ngôi nhà vừa xây cất xong hoặc còn ngổn ngang gạch ngói, tre pheo, chờ ngày làm. Cuối cùng, một ngôi nhà đồ sộ án ngữ lối đi, trương tấm biển: Hiệu may Hoa Lan. Nhà một tầng, xây trên móng cao thước rưỡi. Mái bằng đổ rất dày, có lan can bao quanh, có ô- văng rộng che hàng hiên phía trước. Hai cây cột vuộng nặng nề đối xứng nhau qua cửa ra vào, hai ô cửa sổ cũng đối xứng một cách buồn tẻ như thế. Tất cả đều được làm bằng vật liệu tuyệt vời. Dù là gỗ khuôn cửa hay thứ vôi quét tường, hay những hàng chấn song thẳng tắp bằng loại thép mười tám ly. Phía sau ngôi nhà ấy là ba gian nhà ngói, thấp hơn, chắc được dùng chứa đồ, và làm bếp. Sân rộng, lát gạch vuông. Giếng xây và nhà tắm đứng riêng một góc, với những bụi trúc vàng vây bọc. Toàn bộ khu nhà tựa như một pháo đài. Người thiếu phụ có làn da màu ngà đã tự xây nên để khuôn định cuộc đời chị. Nhưng số mệnh nằm ngoài những toan tính ấy, như dòng sông cuồng loạn, xóa bỏ dòng chảy cũ, phá tung những bờ đất che chắn để lao tới một bình nguyên phóng khoáng và man dại.
Vũ Sơn đập vào vai tôi:
- Thôi, ngắm gì nữa.
Nói thế, nhưng anh còn ngước lên nhìn toàn bộ khu nhà lần cuối, tặc lưỡi:
- Cô ả gớm thật. Đàn bà một tay xây nên cái cơ ngơi khang trang đến thế này… Nhắc xe đạp lên bậc tam cấp, anh dặn tôi:
- Cậu cứ im, để tôi đối thoại với thằng cha ấy nhé. Chắc chắn giờ này chỉ có nó ở nhà.
Vũ Sơn không gõ cửa, mà gọi oang oang, kiểu như người ta gọi nhau ở nông thôn:
- Này, có khách nhé.
Chẳng có tiếng đáp. Chúng tôi ghé đầu nhìn qua ô cửa sổ: Gã đàn ông bữa trước đang nằm ngủ, đầu ngoẹo về một bên. Chiếc bàn máy phủ tấm vải sơn đầy bụi. Trên tường, treo cây phất trần lông gà cũng bẩn thỉu như thế. Nền nhà lát gạch men nhưng không được quét dọn, loang lổ các vết mực dây, nước chè đổ lẫn cả nước cốt trầu. Hai quyển vở bị xé dở với cuốn sách học vở lòng nằm lăn lóc bên lọ mực, một cái kẹo chảy dính trên nền gạch, lũ ruồi và kiến bu quanh…
- Thằng này ngủ như chết - Vũ Sơn bảo tôi - Chắc nó say.
- Đoạn, được đập cửa ầm ầm:
- Này, có khách, có khách…
Gã đàn ông vừa ngồi dậy, đưa cặp mắt bạc trắng nhìn quanh rồi lại lờ đờ khép mi lại.
Vũ Sơn tiếp tục đập cửa, gọi to hơn:
- Này, dậy đi, có khách đến…
Lương tỉnh ngủ, hắn lê người ra mép giường, xỏ chân vào đôi dép da đã cắt quai hậu, ra mở cửa. Chúng tôi bước vào, Vũ Sơn kéo tôi ngồi xuống ghế, với vẻ chủ động trời phú, anh nhìn xói vào bộ mặt nhợt nhạt của gã đàn ông:
- Anh biết chúng tôi là ai rồi chứ?…
Vài tích tắc trôi qua.
- Chúng tôi đã chứng kiến toàn bộ những hành vi phạm pháp của anh. Với cương vị khách quan của một nhà báo, tôi đủ quyền tố cáo anh trước cơ quan pháp luật. Tuy nhiên, muốn đánh giá sự việc thật công bằng, tôi đã tìm tới đây trực tiếp gặp anh, và nghe những khúc mắc của riêng anh…
Lương đã ngồi xuống chiếc ghế đối diện với tôi. Gã không muốn nhìn thẳng vào mặt Vũ Sơn. Có lẽ, bởi tinh lực ở đôi mắt anh quá mạnh. Gã ngồi đó, đần dại, những sợi ria nhuôm nhoan bẩn thỉu trên môi chốc lại đụng đậy. Mười ngón tay dài, khum khum, cáu ghét đặt trên đầu gối. Phải chăng gã đang suy tính, so lọc những câu nói, hay gã đang chìm vào cơn mộng mị của trí não, cái trạng thái con người không thể nghĩ được bất cứ điều gì, mọi cảm xúc và xét đoán hòa trộng vào nhau như một thứ bùn âm u kết dính…
Vũ Sơn chấm dứt khoảnh khắc im lặng ấy bằng câu hỏi rành rẽ nhưng ôn hòa hơn:
- Vợ anh ngoại tình lâu chưa?
- Ba năm… a… ba năm hai tháng… rưỡi…
Gã đáp chậm chạp, vừa đáp vừa tính.
Vũ Sơn hỏi tiếp:
- Theo anh, nguyên nhân chính là gì?
Gã sầm mặt, đáp gọn lỏn:
- Nó là con đĩ.
Vũ Sơn gật đầu:
- Tôi biết, có những người đàn bà lẳng lơ từ tuổi dậy thì cho đến lúc sức tàn, lực kiệt. Đàn ông nào họ cũng yêu được, nói đúng hơn, ai họ cũng chung đụng được. Thứ đàn bà ấy là quái nhân mắc bệnh hạch phong tình. Liệu vợ anh có thuộc cái số ít ỏi ấy không?
Lương lẩm nhẩm:
- Nó là con…
Rồi gã im bặt. Đôi mắt đờ đẫn vì nát rượu chợt lóe lên một nỗi buồn tủi, một thoáng nhớ nhung. Có lẽ, những hình ảnh nào đó từ trong hồi ức khiến tâm cơ gã run rẩy và gã không còn đủ thù hận để vu khống, để hạ nhục người đàn bà đã chiếm lĩnh trái tim mình.
Vũ Sơn nói:
- Tôi tin chắc vợ anh không phải loại người ấy. Nếu đúng thế, cô ấy đã hư hỏng từ rất lâu trước khi gặp anh chàng thiếu úy này.
Gã đàn ông không đáp, nhưng vẻ mặt trở lại ù lì, hai bên thái dương xanh tím nhuốm đầy uất khí.
Vũ Sơn tiếp tục:
- Anh có nghe những lời xúc xiểm của gia đình chửi rủa cô ấy không?
Gã ngẩng lên, đưa mắt nhìn anh:
- Đàn ông, ai không chửi vợ. Việc đó can gì tới chuyện ngoại tình? Nếu tức chồng mà cắp áo theo trai như nó thì nước này phải có dăm, bảy triệu.
Vũ Sơn hỏi tiếp:
- Tôi thấy cửa hiệu may chẳng có tấm vải nào của khách. Máy may bọc kĩ thế kia, cả tháng trời anh may được mấy cái áo?
- Chẳng cái nào hết - Gã đáp, hằn học - Tội gì tôi làm?
Tôi bắt con đĩ ngựa phải lo…
Gã dừng lại, nghiền ngẫm, rồi rên rỉ: Thế mà nó cứ tớn lên. Đồ quái vật, trơ như đồng, lì như đá…
Ánh mắt gã cay độc, ghen tuông. Tôi hình dung tới khuôn mặt trẻ trung của người đàn bà, làn da tươi thắm như tấm gương phản ánh tuổi trẻ và sức sống, hai bầu má mịn màng óng ánh lông tơ, đôi mắt vừa tinh khôn vừa ngây dại…
- Con khốn kiếp…
Bã lầm bầm nói tiếp: Tôi dần cho tợn thế mà nó cứ tươi ngoay ngoáy như cá vớt dưới ao. Người ta bảo nó có bùa…
Mặt gã u ám, hai dồ lông mày nhô trên vầng trán hẹp, đầy nếp nhăn. Tôi biết rằng gã yêu vợ bằng tình yêu tối tăm của loài vật. Khi biết vợ ngoại tình, gã đã tìm hết cách tàn phá cả sức khỏe lẫn thể xác cô ta, muốn biến người đàn bà đó thành mảnh tã rách, một tấm giẻ vô dụng chỉ để chùi chân trong nhà. Nhưng sinh lực mạnh mẽ của thiếu phụ đã vượt qua mọi chà sát tàn bạo của thù hận, ghen tuông. Dường như trời bắt cô gánh chịu nỗi bất hạnh thì trời cũng bù lại cho cô một nhan sắc bền vững, tựa như nó chứa một sức mạnh huyền bí vượt lên mọi thống khổ và đầy ải, một sinh lực tiềm tàng trường cửu, một cái lõi gỗ lim ẩn dưới dáng vẻ của đóa hoa…
Vũ Sơn vẫn giữ vẻ mặt bình thản, anh đưa mắt thăm dò gương mặt Lương, hỏi tiếp:
- Anh còn yêu cô ấy không?
Gã đáp:
- Yêu gì con khốn nạn ấy?
Vũ Sơn nói:
- Vậy, tốt nhất là anh ly hôn với cô ta. Còn tiếp tục sống chung, hai người còn xô xát. Với kiểu hành hung vô nhân đạo như anh trước đây, chắc chắn anh sẽ ngồi tù.
Lương mím môi lại, trợn mắt bạc phếch:
- Vậy ra các ông khuyên tôi thế đấy?… Các ông muốn phá nát cửa nhà tôi ra. Ba đứa con tôi, ai nuôi, ai lo quần lo áo, lo học hành. Với lại, còn…
Gã nghẹn họng, không nói được nữa. Khoảng lõm giữa hai tràng lông mày lộn xộn và nhờ nhợt của gã nổi lên một vệt thâm như tụ máu. Mười ngón tay bẩn co quắp lại trên đầu gối trong khi gã thở hồng hộc lên từng hồi, mùi rượu phả vào mặt tôi.
Vũ Sơn cười nhạt:
- Nếu anh còn muốn sống với cô ta, anh buộc phải chấp nhận sự sẻ chia tình cảm. Tôi muốn nói trắng ra rằng anh không được quyền ghen khi vợ anh ngủ với chàng thiếu úy kia… Cậu ta đẹp trai lắm phải không? lại trẻ nữa? và chắc cậu ta chiều chuộng vợ anh. Mà đàn bà vốn chỉ yêu những người biết chiều họ… Vả chăng, nếu tôi có là cô ấy tôi cũng không thể chung tình với một người đàn ông ăn bám lại còn muốn làm ông tướng trong nhà. Người đàn bà có thể hy sinh cả cuộc đời để nuôi chồng khi chồng gặp hoạn nạn trở thành tàn phế. Nhưng họ không thể chịu đựng được thứ người đủ cả mắt mũi, tay chân mà suốt ngày chỉ lê la cuộc rượu này với ván bài khác. Rượu uống như sáo tắm mà công việc không muốn đụng tới ngón tay. Thời nào cũng thế thôi, thứ người vô dụng như vậy không có đất chứa…
Vũ Sơn nói thủng thẳng, âm điệu đều đặn, tựa hồ anh vừa nói vừa nhấm nháp từng câu. Gã đàn ông trắng nhợt như giấy ngâm cả đến những sợi ria của gã cũng như bạc ra, và đôi mắt biến hết tròng. Những ngón tay gã run rẩy bíu chặt lấy đầu gối, tìm nơi bấu víu.
Trước khi về, nhà báo còn nhắc lại lời đe dọa, với vẻ lạnh lùng, giễu cợt:
- Trong hai thứ anh phải chọn lấy một: Hoặc ly hôn với cô ta hoặc ngồi tù. Còn con đường thứ ba chắc không thể có được với anh, anh là loại người không biết suy ngẫm và tự kiềm chế.
Lương đứng lên, dường như gã muốn nhảy vào xé xác Vũ Sơn, nhưng bản năng tự bảo vệ của một con thú trước kẻ thù mạnh hơn kìm giữ gã lại.
° ° °
Đã ba bốn lần chúng tôi đi chơi về, đứa con trai lớn của Vũ Sơn mách rằng có một ông già tới tìm anh. Lần này, khi hai chúng tôi đạp xe từ làng Mơ về, đứa bé chạy ra tận cổng:
- Bố ơi, cái ông mọi bữa đang chờ bố đấy.
Chúng tôi dắt xe vào sân, thấy ông già Hưu ngồi chờ trên bậc cửa, mũ sụp xuống che hết nửa khuông mặt. Thấy chúng tôi về, ông đứng lên, lật mũ chào. Mới có hai tháng trời, mặt ông tọp hẳn đi, quắt queo như quả trám héo. Vũ Sơn đi đến đầu hồi, thò tay vào lỗ hổng vợ chồng anh thường quy ước cất khóa, lấy chìa mở cửa. Vẻ mặt anh đăm chiêu, nghiêm nghị. Anh đi lại lặng lẽ, lấy nước pha trà cũng lặng lẽ, khác thói quen mọi ngày. Không ai nói với ai một lời, nhưng chúng tôi đều cảm thấy trước tai họa đang lừ lừ đi tới. Vẻ mặt ông già đau khổ quá, đôi mắt linh lợi đục hẳn đi, vằn những tia máu đỏ. Ông đau khổ và ngượng nghịu nữa, không dám nhìn thẳng vào chúng tôi. Chính tôi, tôi cũng có tâm trạng ấy, tôi tránh không nhìn vào mắt ông cụ. Chúng tôi uống nước, nói những câu xã giao ngượng ngập chẳng ăn nhập với ý nghĩ của mình, rồi lại uống nước tiếp. Sau cùng, Vũ Sơn khơi chuyện trước, cũng với giọng nói vừa tự tin vừa suồng sã:
- Bác tới chơi hay có việc gì nào?… Thôi, cháu biết cái tổ con chuồn chuồn ở đâu rồi, khỏi phải vòng vèo quanh co gì hết. Chính cháu với cậu Nam cũng đã mấy lần bắt gặp anh chị ngồi tình tự với nhau…
Chưa một ai có biệt tài tháo gỡ những tình huống trớ trêu như Vũ Sơn. Vẻ cảm thông có đôi phần bả lả của anh đã xóa những mặc cảm cho ông già. Ông bất giác cất tiếng thở phào:
- Tôi khổ tâm quá, tôi không thể nào…
Vũ Sơn lắc đầu, cao giọng lên:
- Ôi dào, các cụ chỉ nghĩ vớ vẩn. Làm gì mà phải khổ tâm?…
Tôi thấy anh thay đổi hoàn toàn chiến thuật. Vừa nói lem lém anh vừa nạp thuốc lào, rít sòng sọc, nhả khói hoặc vỗ vai ông già Hưu, uy hiếp ông bởi vẻ tự tin mãnh liệt mà ngoài anh không ai có được:
- Chẳng làm gì phải khổ hết. Hoa tới thì hoa nở, gái tới thì khắc tìm tới thằng đàn ông. Lẽ ra phải mừng rằng cô Hạnh đã sống thuận ý trời. Rồi bác sẽ thấy con gái bác tươi tắn, khỏe mạnh, xinh đẹp. Người xưa đã có câu: Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó. Chẳng lẽ cô ấy cứ quanh quẩn ra vào với mấy chậu cây cảnh thì bác sung sướng hay sao?… Đừng lo nghĩ nữa, lo như thế là gàn dở… Không có ai đẻ con ra lại muốn nó sống kiếp tu hành hoặc trở nên thứ người u sầu, ủ dột như cái bóng. Không có bậc cha mẹ nào lại không ao ước đêm ngày cho con cái được hạnh phúc. Bây giờ, chắc chắn cô Hạnh đang hạnh phúc, tại sao bác không mừng. Mỗi giây phút được mãn nguyện còn đáng sống hơn mười năm vô vị, buồn tẻ. Bác đã chắc gì những nỗi lo toan của bác có giá trị thực? Trong khi con gái bác đặt giá trị thực của cuộc đời cô ấy vào anh chàng thi sĩ. Điều đáng tiếc nhất cho con người là họ cứ mài miệt lo toan, mặc dù những hao tổn tâm sức của họ, những thời khắc ưu tư, thở vắn than dài của họ chẳng có mảy may tác động nào tới thực tế. Khi cô ấy đã yêu, dù bác có đau thắt ruột bác, cô ấy vẫn cứ yêu. Lúc bác nằm bóp đầu thì đôi tình nhân vẫn hôn nhau ở những nơi bác không kiểm soát được… Thôi, cụ già ơi, tốt nhất là trở về ghép thêm vài chậu hồng Thúy Kiều hoặc gây thêm vài bụi trúc cảnh nữa, lúc nào mỏi thì gọi bà lão vào mà uống trà. Cháu đã đi nhiều nơi, nhưng ít gặp gia cảnh nào trời ban cho sự trù phú ấm êm như ở nhà bác. Thế mà không biết tận hưởng thú vui…
- Vâng, tôi hiểu…
Sau cùng, ông già Hưu cũng ngắt được lời giảng minh dằng dặc của Vũ Sơn:
- Tôi biết cháu tìm được người yêu là nó rời bỏ nỗi buồn ám ảnh mấy năm nay. Nhưng phải là một tình yêu chính đáng. Đằng này, anh Dương có vợ con, đã…
- Ôi dào, cháu hiểu rồi…
Vũ Sơn cướp lại diễn đàn một cách nhanh chóng:
- Coi như cô ấy hồ đồ tí chút. Yêu nhầm thì khuyên bảo nó thôi đi mà yêu đứa khác. Có dại mới có khôn. Bây giờ đâu phải thời các cụ mà bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Tự lực chọn thì phải có kinh nghiệm mới chọn lựa được chính xác. Muốn có kinh nghiệm tất phải yêu. Chẳng có quyển sách nào dạy con người đủ mọi đối sách với tình yêu cả. Chính vì thế mà đời sống mới quý hơn những đống lý thuyết mà các nhà thông thái đông tây kim cổ nào sao chép, nào viết lách, lưu lại cho tới ngày nay. Cứ cho là Thanh Dương có vợ con thật, ai đã chắc gì cậu ta thương yêu vợ?… Nếu thế, quyền yêu người khác là đương nhiên và hợp lẽ trời. Chỉ có điều, cậu ta đã nhảy qua vạch vôi của pháp luật. Bởi vì, nếu chán ghét vợ anh hãy bỏ cô ta rồi hãy kiếm tìm người đàn bà khác… Nhưng bác sống đến lúc bạc tóc bác thừa hiểu cuộc đời nhiều khúc mắc hơn ta nghĩ. Có tình cảnh mà chỉ sống trong đó, mới hiểu được thực chất các mối quan hệ và những phi lý chế ngự con người… Đằng nào, cô Hạnh cũng sẽ lấy chồng. Nếu quả tình Dương không yêu vợ, sẽ có một thời gian cho anh ta thu xếp ổn thỏa rồi anh chị lấy nhau. Nếu không, cứ coi như cô Hạnh vấp một chút vì tính hồ đồ, nhưng cô ấy sẽ nhảy qua cái hố ấy và trưởng thành lên. Chẳng có bài học nào khiến con người khôn ngoan hơn chính nỗi cay đắng họ phải chịu… Cháu đã nói cạn lý rồi đấy, bác hãy tỉnh ra, đừng buồn. Mọi sự rồi sẽ tốt đẹp thôi. Tất cả sẽ tốt đẹp, nhưng chớ nôn nóng… Phải có thời gian…
Hết tràng diễn giải, Vũ Sơn kéo ông già lại phía mình, vỗ về như ta vỗ về, phủ dụ một đứa bé. Rồi anh rót nước mới, đưa tận tay ông:
- Uống đi bác, uống đi cho nóng.
Ông già Hưu uống nước, ngập ngừng định nói thêm điều gì đó, nhưng sau rốt ông cáo từ chúng tôi ra về. Tôi dắt xe cho ông ra tận đường phố. Lúc quay vào, tôi thấy Vũ Sơn đứng giữa nhà, hai tay buông thõng, mệt mỏi. Những nếp nhăn li ti hiện trên hai gò má, trên thái dương. Anh hạ giọng, thì thầm:
- Thằng đê tiện. Nó phá cuộc đời con gái người ta…
° ° °
Rồi một ngày, cơn gió bấc đầu tiên thổi tới. Đã lập đông. Tôi chợt nhớ phố phường Hà Nội, tiếng xào xạc của những vòm lá giữa ồn ào đô thị, làn bụi mờ dọc các đại lộ đông người xe qua lại và mùi hoa sữa ma quái như bùa mê. Ở tỉnh lỵ Q, từng đoàn thuyền cặp bến, chở hạt dẻ lẫn trám muộn cho những kẻ buôn hàng lâm sản vét nốt về miền xuôi. Lẫn vào các bao hạt dẻ và trám đã có những sọt măng khô, măng nứa, măng giang, măng le nhiều hơn là măng lưỡi lợn. Mẹ tôi mua trữ vài cân. Bố tôi đã bình phục hoàn toàn, ngày nào cũng đòi tôi ngồi tiếp dăm bảy ván cờ và nói chuyện thời sự. Ông cụ cứ tưởng đâu rằng hễ cứ ở thủ đô Hà Nội thì một cậu thợ in tráng phim quèn như tôi cũng biết đủ chuyện bàn tròn bàn vuông giữa Goóc- ba- chốp và Ri- gân. May sao, tôi vốn thích đọc. Sát hợp tác ảnh của ông chú tôi là nhà một bà vụ trưởng tuy đã già nhưng tính tình còn đỏm dáng. Bà này có thú chơi ảnh. Đi nước nào bà cũng chụp hàng chục cuộn phim. Khắp nhà bà, ảnh treo la liệt như một cuộc triển lãm nhiếp ảnh tự tạo. Cứ lâu lâu, bà lại hạ các khung kính xuống, bóc lớp ảnh cũ đi và thay vào đó lớp ảnh mới. Tháng nào tôi cũng nhận rửa phim, tráng phim, in ảnh cho bà. Nhờ thế, tôi sang nhà bà, thường xuyên đọc bản tin của thông tấn xã. Cái kho tư liệu tưởng như vô bổ ấy lúc này rất hữu ích.
Mỗi hôm tôi kể cho bố tôi nghe một ít, lần lượt theo trình tự của trí nhớ. Ông cụ nghe tất cả những tin tức ấy hau háu như trẻ con ngóng quà.
- Trời cho thằng cháu tôi cái dạ sáng như thần đồng. Từ hạt cát đến cái cây, từ chuyện đấu đá nhau bên Tàu đến chuyện bầu cử tổng thống ở nước Mỹ, không có gì lọt khỏi đầu nó.
Lúc nào tôi vắng nhà, cụ khoe với bè bạn, xóm giềng như thế. Khi tôi ở nhà, cụ xăng xái bày đủ trò nấu xôi, nấu cháo, làm nem, làm chả cho tôi ăn. Tôi yêu và thương cụ nhưng phải nghĩ tới ngày rời tỉnh lỵ Q trở lại Hà Nội. Vũ Sơn cũng bảo với tôi rằng anh đã tiêm hết số thuốc kháng sinh lẫn thuốc bổ đem theo. Thời gian rong chơi ở quê đủ rồi, quay về Thủ đô là hợp lý. Thanh Dương không nói gì. Anh ta đang rơi vào mê lộ của tình yêu, không sức mạnh nào kéo nổi. Vả lại, đã lâu nay, chỉ tôi và Vũ Sơn đi chơi với nhau. Có gặp chúng tôi, Thanh Dương cũng tìm đủ cớ thoái thác hoặc lẩn trốn. Một lần, Vũ Sơn bảo tôi:
- Thằng ấy bây giờ ăn cháo lú. Nói với nó làm gì cho mỏi miệng. Nhưng thế nào tôi cũng sẽ cho nó một trận ra trò. Anh bảo tôi thư thả cho anh thu xếp vài việc vặt trong nhà rồi chúng tôi sẽ rời Q, kệ cho Thanh Dương đi sau.
Hò hẹn xong, tôi về quê thăm đám bà con nội ngoại theo yêu cầu của bố mẹ tôi. Lúc trở về thị xã, hai chiếc túi da của tôi nặng trĩu những đỗ lạc, nếp, vừng, cả kê nấu chè lẫn mấy nải chuối đang dấm. Tôi chọn mỗi thứ một ít, đem sang cho Vũ Sơn. Lúc ấy khoảng ba giờ chiều, trời khá lạnh nhưng anh cởi trần giẫm bì bọp dưới hố. Chiếc kính cận gọng giả đồi mồi tụt xuống tận chóp mũi. Anh bảo tôi:
- Phải trát cho mẹ con nó cái vách chuồng lợn. Dạo này cô ta quen bà trưởng cửa hàng lương thực, mua được cám rẻ đâm ra xây mộng nuôi lợn làm giàu.
Tôi bảo:
- Tôi giúp anh một tay nhé.
Anh gạt phắt đi:
- Thôi khỏi, tôi trót đèo bòng cái của nợ vợ con thì tôi phải chịu trời hành. Cậu can cớ gì mà ghé vai vào. Lên nhà uống nước chờ tôi. Nửa tiếng nữa là xong.
Tôi xách chuối với mấy thứ lỉnh kỉnh vào nhà rồi tìm cuốn Tam quốc chí đọc lại. Lát sau thấy vợ Vũ Sơn dắt xe vào sân, dựng xe rồi chạy ra đường, khệ nệ lôi vào hai chiếc rọ tre đựng lợn con. Một con còn sống hếch mõm lên kêu. Con kia đã chết cứng, duỗi bốn cái cẳng chân hồng nhợt chỉ lớn hơn chiếc đũa cả chút xíu. Đang hì hục nhào vữa, Vũ Sơn ngẩng lên:
- Lợn ở đâu thế?
Vợ anh không trả lời, chị ngồi xuống khúc gỗ gần đấy.
Vũ Sơn nhắc lại:
- Lợn ở đâu?
Người đàn bà vẫn im lặng. Vẻ mặt chị nửa như hằn học, nửa như giận dỗi ai đó và cả hai thứ trạng thái ấy núp sau sự ù lì. Vũ Sơn sẵng giọng:
- Cô lịch sự với tôi một chút chứ, tôi đã hỏi lợn ở đâu?
Có lẽ, lúc áy mắt anh quắc lên dữ tợn sau tròng kính và người đàn bà bắt đầu sợ hãi. Chị đáp:
- Hợp tác xã Miễu Sơn.
Tôi thấy Vũ Sơn ném nắm vữa trong tay xuống hố nhảy phắt lên sân, anh cười nhạt một cách đáng sợ:
- Tôi biết mà, của thằng cha Hải phải không?
Vợ anh im lặng. Vũ Sơn bước lên vài bước chân, đứng trước mặt chị ta, cái lưng dài lom khom cúi xuống, và giọng nói bỗng trở nên thì thào ghê rợn:
- Hứa với nó là nhà em sẽ viết bài cho hợp tác xã chăn nuôi Chiến Thắng của anh, đúng không?… Anh cho em xin đôi lợn giống đúng không?… Rồi trước Tết, nó sẽ cho người mang biếu cô một con sáu chục cân vừa đủ xuất chuồng, với danh nghĩa là lợn thanh lý, đúng không?… Trông cái mặt cô, tôi đã đoán ra những trò đê tiện đó? Cô có biết thằng cha đó đã tham ô bao nhiêu tiền không? Cô có biết nó đã hiếp bao nhiêu đàn bà, con gái không? Cô có biết rằng những người lương thiện trong tỉnh này đang công phẫn vì sự bao che của ông chú ruột nó, phó chủ tịch tỉnh… Bây giờ, cô buộc tôi phải viết bài ca ngợi phẩm hạnh tài năng của nó, để giữ lại cho nó cái ghế đã bị cưa đứt ba chân?…
Vợ anh cúi mặt xuống. Có lẽ chị ta đã cảm thấy lờ mờ những tai họa phía sau việc làm vụ lợi của mình. Cũng có lẽ, chị ngửi thấy trước cơn giông tố sẽ ập đến mái nhà này bằng vào gương mặt tái mét của người chồng, bằng vào đôi tay run rẩy của anh, bằng vào giọng nói ghê rợn như hàm chứa nỗi đau khổ và xa xót đã chồng chất qua nhiều năm tháng. Tuy thế, chị cũng không biểu lộ một cử chỉ nào để ghìm giữ hoặc xoa dịu cơn giông tố ấy. Chị vốn luôn luôn có vẻ mặt ù lì. Tôi thấy những hơi thở dồn dập của anh vọng vào tận trong nhà, nơi tôi ngồi… Tôi thấy vệt bùn vữa bám trên tay anh run rẩy theo cơn run rẩy toàn thân. Thời khắc trôi qua nặng nề, rồi bất chợt Vũ Sơn gầm lên:
- Mang lợn đi trả.
Người đàn bà ngồi im.
- Tôi bảo cô mang lợn đi trả.
Vũ Sơn dằn từng tiếng một, đầu anh cúi thấp hơn nữa, sát vào bộ mặt vô cảm của chị vợ. Chị ta ngẩng lên, nhìn chồng và đứng dậy, lúng búng:
- Nhưng chết một con rồi.
Vũ Sơn đáp:
- Chết thì đền.
Đoạn, anh chạy xộc vào nhà. Vẫn cứ đôi tay lấm lem bùn vữa thế, anh thọc vào tất cả túi áo, túi quần treo trên mắc, móc toàn bộ số tiền có trong đó, từ đồng bạc trăm tới tờ hào lẻ. Ném cả mớ tiền ấy trước mặt vợ, anh quát:
- Cầm lấy, cầm lấy và đi ngay cho khuất mắt tôi.
Người đàn bà cúi xuống lượm đống tiền, làu bàu gì đó trong miệng nhưng không dám nói to. Rồi chị ta buộc hai cái rọ lợn lên xe, dắt khỏi cổng.
Vũ Sơn ngồi phịch xuống bậc thềm. Anh thở hộc lên từng hồi một, tấm lưng dẹt phập phồng, lấm tấm vệt bùn bám. Tôi bỏ cuốn Tam quốc, ra ngồi bên anh, lặng lẽ. Hồi lâu, anh hất mớ tóc trước trán lên và nói với tôi bằng một giọng chậm rãi:
- Phẩm hạnh của chúng ta, lương tâm nghề nghiệp của chúng ta, những ước vọng của chúng ta sẽ hư nát, sẽ thối rữa dần dà khi ta trói buộc số phận với một con đàn bà nào đó. Thoạt tiên, ta yêu nó vì gương mặt nó đẹp hay giọng nói nó vui tai, vì cái vẻ đần độn ma ta lầm tưởng là sự hiền thục hay thói ích kỉ mà ta ngỡ là sự căn cơ, ngăn nắp. Sau rồi, nó nắm lấy tóc ta mà lôi theo những ham muốn không cùng. Mỗi con đàn bà là một cái thùng không đáy rót vào đó bao nhiêu cũng chẳng đầy… Này Nam, tôi khuyên cậu nếu cậu muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa toàn vẹn, chớ có bao giờ lấy vợ.
Khóe môi Vũ Sơn run run, tái nhợt. Tôi cảm thấy như trong mỗi lời nói, ứa r một giọt lệ nóng và đục. Để khỏa lấp trạng thái ấy, tôi lắc đầu cười:
- Tôi chẳng dại. Tôi chỉ làm nghề tráng phim, in ảnh loèn quèn, không ước vọng gì lớn. Tôi phải lấy vợ thôi, tôi sợ cô đơn lắm, nhà báo ạ…
° ° °
Càng già, người ta càng yếu đuối, dễ mủi lòng, dễ giận dỗi như trẻ con. Thấy tôi săm sắn thu xếp quần áo, mẹ tôi khóc sùi sụt, bảo bố tôi:
- Giờ anh ấy như chim ra giàng rồi, anh ấy bay nhảy, chẳng đoái hoài gì tới hai nắm xương khô ở đây.
Bố tôi tán đồng ngay ý nghĩ đó và nói rằng tôi không còn giữ được gốc rễ, không yêu thương thờ phụng đất tổ tiên, rằng tỉnh lỵ Q mới là nơi toàn thể gia tộc chúng tôi gửi xương, gửi cốt, muôn ngàn kiếp chứ không phải Hà Nội. Cãi lý với người già là việc điên khùng mà tôi đã sớm rút ra bài học từ đám bạn học cùng tuổi. Tôi treo áo quần lên mắc, hứa sẽ ở lại Q nửa tháng nữa. Khi bố mẹ tôi yên tâm rồi, tôi đến nhà Vũ Sơn thông báo và khuyên anh đi trước nếu cần đi.
Vũ Sơn đang nằm, thò cổ khỏi chăn đáp:
- Ừ ừ… để tôi xem đã…
Hẳn anh đang nghĩ tới đoạn đường ô tô bụi bặm và những bến phà:
- Quê với quán, cách rách sông đò, không nghĩ thì thôi, nghĩ thêm chán ngắt. Giờ còn cứng xương, săn thịt, đi lại chưa ngại. Mai sau gối chùng, chân mỏi, cứ lọm cọm từ đây ra đến Hà Nội cũng đủ hết hơi…
Anh làu bàu, trước khi vớ chiếc điếu cày, nạp một mồi rõ to rít lên sòng sọc. Chúng tôi nhìn qua sân thấy đứa con trai lớn của anh đang vật nhau với một thằng bé khác. Cu cậu cố sức giằng lấy hòn bi trong tay đối thủ. Tôi định chạy ra can, Vũ Sơn gạt đi:
- Kệ nó. Được nó ăn, thua nó chịu. Đời công bằng, không ai che đỡ nổi cho ai.
Trong một phút sơ hở, thằng bé kia vùng chạy, tay vẫn nắm chặt hòn bi. Đứa con trai Vũ Sơn cắm đầu đuổi theo vẻ quyết liệt và cả hai đứa mất hút sau cánh cổng. Chúng tôi nhìn ra đường, nơi thi thoảng gió tung lên một đám bụi, xe và người qua lại thưa thớt, chậm chạp, đúng với âm điệu muôn đời tỉnh lỵ. Ở đây, khó có cái gì khuấy được bầu không khí yên ả ngái ngủ này, một thứ không gian gợi cho ta những cảm xúc mờ nhạt, khó nhận biết, một chút nhớ nhung xa vắng, một chút bân khuâng khi hồi ức trở về, một chút khát khao khi tiếng còi tàu vọng từ nhà ga nào đó tới, cả một chút day dứt, bực dọc mà chẳng hiểu nguyên cớ ở đâu…
Chừng như hiểu những ý nghĩ của tôi, Vũ Sơn nói:
- Ở đây lâu ngày, người tinh khôn mấy cũng hóa đần. Cuộc sống này không buộc người ta phải giao tiếp, phải cọ xát với các tình huống, phải phản ứng trước những…
Tới đó, tiếng máy ầm ĩ vọng đến cắt lời anh. Một chiếc mô- tô ba bánh lao vào, đổ sát cánh cổng và một chiến sĩ công an trẻ nhảy xuống. Anh ta gỡ mũ, chạy qua sân:
- Anh Sơn, anh Sơn ơi…
Vũ Sơn vẫn ngồi xổm trên giường, vai khoác chăn, đáp:
- Vào đây uống nước đã Khánh. Đi đâu mà vội thế chú mày?
Khánh bảo:
- Đi đi anh. Có một vụ tự vẫn vừa xảy ra. Tổ thằng Thăng đã xuống theo dõi, lập biên bản. Em nhớ tới anh nên vòng xe lại đây. Khẩn trương lên, kẻo xuống tới nơi, họ xóa hiện trường rồi thì hết chuyện.
Nhanh như sóc, Vũ Sơn hất chăn khỏi vai, nhảy xuống giường mặc quần áo. Vừa cài khuy, anh vừa hỏi:
- Cả bạn tôi đi, được không?
Khánh gật đầu:
- Vâng, xin mời anh.
Vũ Sơn nhảy lên xe, kéo tôi theo. Lúc này, anh hoàn toàn là một phóng viên thiện nghệ.
Khánh nổ máy, cua ra đường phố. Chiếc xe của anh vọt lên thả đám vọt lên thả đám khói về phía sau. Chừng tám cây số ngược lên phía bắc, đến ngã ba, nơi con đường chia hai nhánh, Khánh rẽ sang tay trái. Từ đây, xe chạy dọc theo sống đê, có đoạn bằng phẳng, có đoạn gồ ghề, tốc độ chậm lại. Tuy thế, cũng chỉ mười lăm phút sau, Khánh đã tắt máy, khóa xe dưới một gốc bàng đứng chơ vơ trên gò đất giữa ruộng. Anh dẫn chúng tôi lội qua khúc đồng hẹp, leo lên bờ đê. Tới đó đi xuôi xuống chừng non trăm mét, nơi khóm thuyền neo cụm lại, một đám đông tụ tập sát mí nước. Thấp thoáng mấy bộ đồng phục cảnh sát trong đám người lố nhố. Khánh giơ tay chỉ:
- Tổ của Thăng đang còn làm việc.
Vũ Sơn và tôi không hỏi gì thêm, hối hả bước. Vũ Sơn cao hơn cả, chân anh sải như chân cò. Tôi và Khánh phải vừa đi vừa chạy mới theo kịp anh. Tới nơi, Khánh rẽ đám đông đi trước, Vũ Sơn và tôi bám lưng anh. Khi đã lọt giữa vòng người, chúng tôi dừng lại: Trên nền cỏ ướt, xác người thiếu phụ có nước da ngà còn tươi rói. Tôi nhắm mắt lại. Khi cơn choáng váng qua, tôi cố gắng tự trấn tĩnh để nhìn gương mặt hứa hẹn biết bao yêu đương dịu ngọt giờ nằm phơi dưới ánh trời. Hai bầu má mịn màng tưởng chừng sắp lay động, xoáy xuống một lũm đồng tiền và phô nụ cười rực rỡ. Những món tóc đen nhánh của chị bết trên trán, rơi thành từng món trên đám cỏ ven sông. Cặp mi khép lại nhưng dường như chính lúc ấy nó khơi mở cho cuộc đời một thế giới bí ẩn và sống động. Một tay người đàn bà vắt trên ngực, tay kia thủ dọc theo sườn. Lúc tự vẫn chị đang mặc bộ quần áo trong nhà, chưa kịp thay. Một chiếc quần lụa mỏng và tấm áo cộc tay. Tất cả dán vào da thịt thiếu phụ, nửa như che dấu lại nửa như phô phang tấm thân thon thả, tràn trề sinh lực. Tiếng ai đó thì thào:
- Lúc đó, tôi đang vo gạo nấu cơm trên thuyền. Tôi tưởng chị ta tắm vì chị ta còn bơi một hồi nhanh như con rái nước. Tôi lãng đi, lúi húi nhóm lửa. Rồi bỗng dưng, tôi thấy nóng ruột. Tôi bỏ nồi cơm lên bếp chạy ra mũi thuyền, thấy bong bóng sủi từ đáy nước lên…
Mắt mời đi, tôi không nghe được những lời khai tiếp của các nhân chứng với tổ công an đang hành sự. Người đàn bà ấy nằm trước mắt tôi, như đang ngủ, như sắp nhỏm dậy mỉm cười. Ánh mắt ngỡ ngàng và cầu khẩn, cặp môi như trái chín, vẻ cam chịu xé lòng… Chị hiện lên trong tôi, sống động và gần gũi, trong buổi trưa tràn trề nắng, bên những vườn cà vườn ớt xanh thắm, bên dòng nước sủi bọt… Tôi bỗng thấy lạnh, thấy cô đơn. Tôi chìm trong cảm giác đó mãi, cho tới lúc một người đàn ông xô gạt đám đông, nhảy bổ vào. Anh ta ôm thiếu phụ, bỏ mặc mọi lời ngăn cản. Ngay tức khắc, tôi hiểu đó là chàng thiếu úy giải ngũ, tính tò mò khiến tôi tĩnh trí lại. Tôi lùi về phía sau, ngắm nghía. Anh ta cũng trạc tuổi tôi, nhưng rắn rỏi hơn. Da ngăm đen, ngực nở. Tấm thân cân đối tràn đầy sinh lực. Mái tóc rất đẹp với những gợn sóng quăn tự nhiên. Anh úp mặt xuống xác người đàn bà, những thớ thịt trên vai và lưng rung chuyển. Người đàn ông đang cố ghìm giữ nỗi đau đớn. Ngay cả tiếng nức nở của anh cũng chỉ là một tia lửa vụt khỏi miệng hỏa diệm sơn đang sôi sục dưới lòng sâu.
- Tôi đã giết vợ tôi…
Luồn một cánh ta, nâng vai thiếu phụ lên, anh ta lẩm bẩm:
- Hồng ơi, chính anh đã giết em… Sao anh ngu dại vậy? Anh đâu có ngờ vực em, nhưng anh nặng lời để em phải trạnh lòng, anh muốn em cương quyết chấm dứt cảnh sống ngang trái này đi. Anh muốn chúng ta hạnh phúc… Trí óc anh ngắn ngủi, anh không hiểu rằng một lời cay độc của anh cũng làm em đau đớn hơn trăm trận đòn thù của kẻ kia… Anh đã giết em…
Toàn thân anh ta rung lên dồn dập, trong một cơn nấc kéo dài. Ghì xiết xác thiếu phụ như muốn níu kéo lại sự sống hạnh phúc, người đàn ông cất tiếng cao hơn, hối hả, thống thiết:
- Này, Hồng… Em có nghe anh nói không? Nghe anh nói đã…
Đừng đi đâu nữa, chờ ở đây. Anh về lấy thuyền đưa em sang bên sông…
Tôi bảo Vũ Sơn:
- Cho tôi về. Tôi muốn về.
Vũ Sơn lẳng lặng kéo áo Khánh. Anh công an lách khỏi đám đông, đưa chúng tôi ra. Ngược bờ đê, chúng tôi lội qua đồng, tới gốc bàng để chiếc xe mô- tô của Khánh. Anh công an bảo Vũ Sơn:
- Con gái làng Mơ đẹp nhất tỉnh mà cũng đa đoan nhất tỉnh. Cách đây bốn năm cũng đã có một cô trầm mình ở khúc sông này, hồi đó anh có ở nhà không?
Vũ Sơn đáp:
- Dạo đó tôi đang dự cuộc họp do hội nhà báo quốc tế tổ chức. Lúc về, tôi có nghe.
Chúng tôi lên xe trở về thị xã.
Đêm ấy, tôi không ngủ được. Trăng đầy sân, làm những chiếc thau nhôm sáng như bạc. Các bức tường gấp khúc, đổ bóng xuống. Ngoài đường, rặng cây du trắng xóa như phủ bột vôi. Không gian trở nên mênh mông xa lạ, từ dãy phố hẹp tới những ngọn đèn trên cây cột sắt cổ lỗ, từ chóp nhà thờ sau ngọn đồi phía Tây tới khoảng sân lầm bụi, nơi đám người bán quà rong cho khách quá giang ngồi túm tụm đánh cờ… Dường như chúng đã tách khỏi cuộc đời bình ổn nơi tỉnh lỵ, tựa ruột một trái cây tách khỏi lớp vỏ bao bọc, lơ lửng giữa những gợn gió vô hình của tai ương, chìm nổi giữa những con sóng bạo liệt, tối tăm nơi dục vọng con người. Một lần nữa, cảm giác đơn côi tràn ngập trong tôi, tôi bỗng muốn thu nhỏ lại, trở thành đứa trẻ lên ba, ngồi giữa lòng mẹ. Từng phút một, tôi nghe tiếng dòng sông gào réo, những đám bọt xoay tròn trên mặt sóng, chiếc thuyền trôi dọc bờ nước chở người đàn bà đi, cái lúm đồng tiền xoáy sâu bên bầu má ửng hồng của chị và đôi mắt đen nửa khép nửa mở mời gọi con người. Tại sao cuộc ra đi của chị lại gieo vào tâm hồn tôi nỗi đau quặn thắt, nỗi lo âu giằng xé khôn nguôi… Tại sao?… Trái tim trai tráng của tôi không thể giải đáp, nhưng tôi biết chắc chắn một nhu cầu đang thúc ép: Phải rời bỏ Q ngay.
Qua một đêm thức trắng, sớm hôm sau tôi thu xếp áo quần, nói với bố mẹ rằng tôi phải ra đi nội nhật ngày hôm đó. Xong xuôi, tôi lên báo với Vũ Sơn. Anh bảo:
- Tôi cũng đi với cậu luôn. Nhưng trong ngày hôm nay thì chưa thể xoay được vé. Để sáng mai…
Chiều hôm ấy, tôi nằm ngủ mê mệt trong buồng. Khoảng gần sầm tối, tiếng người nói chuyện rì rầm khiến tôi thức giấc. Lắng nghe, hóa ra tiếng Vũ Sơn. Anh kể cho bố tôi nghe mấy người quen thuộc trong thị xã đang nhờ anh làm giúp những công việc trọng đại, vậy mà anh rất bận, luôn luôn thiếu hụt thời gian. Bố tôi hỏi cặn kẽ từng trường hợp một, với lời phẩm bình nhiệt tâm, lý thú. Cứ sau mỗi chuyện, ông lại nhắc cái điệp khúc:
- Anh là người rộng rãi, quý hóa quá. Các cụ nói rồi: Gieo ơn cho người là để phúc cho con cháu, nhưng anh cũng phải dè chừng, nhân gian bây giờ nhố nhăng lắm, không cẩn tắc thì làm ơn mắc oán như chơi.
Vũ Sơn đáp:
- Vâng, bác dạy chí phải, cháu vẫn phải đề cao cảnh giác luôn luôn. Lòng dạ con người thời nay nó rối như trận đồ bát quái…
Chút nữa tôi bật tiếng cười. Giọng điệu của Vũ Sơn sao mà tương đắc tương đồng với cụ già làm vậy. Tôi chưa gặp người nào ở lứa tuổi chúng tôi có được cái khẩu khí như anh. Hai người còn hể hả đối thoại thêm một lát nữa. Rồi, Vũ Sơn nói:
- Kỳ này cháu phải đi xa.
Bố tôi hỏi:
- Đi đâu?
Anh đáp:
- Chắc là xa hơn các kỳ đi trước.
Giọng bố tôi đầy hào hứng, tò mò:
- Anh lại đi họp báo quốc tế hay sao?
Vũ Sơn đáp:
- Không, kỳ này cháu cắp cặp hầu các cụ.
Bố tôi hỏi:
- Anh theo phái đoài của nhà nước hay của Đảng?
Đáp:
- Đi đợt này là phái đoàn của nhà nước bác ạ. Việc đại sự đấy. Người như cháu mà chỉ được cắp cặp theo hầu thôi.
Im lặng vài giây. Rồi Vũ Sơn nói tiếp:
- Cháu phải mượn bác bộ com- plê với chiếc mũ lông. Đi mùa này rét lắm, tuyết dày đến mắt cá chân. Bộ com- plê của cháu vừa mỏng vừa nhạt màu, trông không đứng đắn. Đi họp theo hội này hội kia tha hồ ăn mặc nhí nhố, chứ đã cắp cặp cho các cụ thì phải ăn mặc cho nghiêm.
- Đúng rồi.
Bố tôi tán đồng: Y phục tương xứng kỳ đức, các cụ dạy chẳng bỏ đi câu nào, anh ạ…
Tôi nghe ông già lê dép, rồi tiếng chìa khóa lách cách mở tủ. Những âm thanh nhè nhẹ khác, tiếng gói giấy sột soạt và sau đó, giọng Vũ Sơn:
- Cháu cảm ơn bác, bộ quần áo này thật xứng đáng tham dự vào một dịp công cán trọng đại như thế.
Anh chào bố tôi ra về với giọng hỉ hả. Cụ tiễn anh cũng với giọng hỉ hả như thế. Khoảng bảy giờ tối, mẹ tôi gọi tôi dậy ăn cơm. Có lẽ do vẻ mặt quá thất thường của tôi, hai cụ không thắc mắc thêm một lời về việc tôi quyết định ra đi đột ngột thế. Cơm xong, tôi lững thững đi dọc phố, chỉ với một mong muốn duy nhất là những hình ảnh liên tục bên ngoài sẽ làm tôi quên cái chết của thiếu phụ. Trên đường, tôi chợt thấy Vũ Sơn từ nhà chủ tịch Dự đi ra, trông anh quá sang trọng và bạnh chọe trong bộ com- plê ông bố tôi vừa cho mượn. Theo sau anh, cậu ca sĩ Ngọc Sang dắt chiếc Vet- spa, điệu bộ vừa uy nghiêm vừa suồng sã của một cán bộ quản lý với người phù tá cho mình. Sau đó, anh leo lên xe ngồi. Và chàng ca sĩ Ngọc Sang lái Vet- spa điệu như một tài tử đua mô tô, chở Vũ Sơn đi. Cuộc diễu hành ấy diễn ra trước ánh mắt thèm muốn của cư dân tỉnh lỵ.
° ° °
Chúng tôi về Hà Nội được ba tuần. Nhịp sống bình thường lôi cuốn con người nhanh hơn họ tưởng tượng. Ngay khi tôi trở lại hợp tác, tay thợ in tráng phim hợp đồng thanh toán công xá chuồn ngay. Anh ta để lại một đống phim sai tiêu chuẩn chưa tráng, hoàn toàn là những cuốn phim quá thời hạn sử dụng hoặc chụp sai sáng. Lại một túi phim khác, ghi dòng chữ: Gấp rút, cho công nhân xuất khẩu lao động”. Và túi thứ ba là của những nhân vật đặc biệt quan trọng với sinh mệnh và sự phồn thịnh của hợp tác nhiếp ảnh nên cũng phải chú ý ưu tiên… Tôi vùi đầu vào việc. Từ hôm chia tay, Vũ Sơn cũng biến mất. Anh phải chuẩn bị cho chuyến đi trọng đại tháp tùng vị lãnh tụ nhà nước. Tôi trù tính một tháng nữa tới chơi nhà anh. Lúc đó, chắc anh đã trở về.
Qua ba tuần làm việc căng thẳng, sớm chủ nhật tôi cạo râu thay quần áo định bụng tới quán điểm tâm ăn rồi cùng anh bạn đồng nghiệp lớn tuổi đến nhà một cô bé ở Hàng Nón - kháu mà lại hiền như thỏ - anh đã nói với tôi như vậy. Vừa cạo râu xong, chợt có tiếng gõ cửa. Tưởng người bạn đồng nghiệp, tôi nói vọng ra:
- Cứ vào!
nhưng tiếng gõ cửa lặp lại, khẩn thiết hơn. Tôi bỏ chiếc bàn cạo máy xuống. Lây khăn lau cằm rồi đi ra mở cửa. Người khách lạ là Thúy Hạnh. Cô làm tôi sửng sốt vì sự thay đổi. Trước đây vài tháng, từ tấm áo lụa cổ tròn tới chiếc quần nhại kiểu Jin đều toát lên vẻ nhã nhặn, khiêm nhường. Giờ, cô bận chiếc quần Jin nhung bó chặt cặp đùi, tấm áo sợi in những vòng tròn sặc sỡ và dòng chữ thách thức: Hãy yêu tôi đi! bằng tiếng Anh. Thêm vào đó, mái tóc uốn loăn xoăn như chùm lông đuôi của một con chích chòe bị xén tỉa khiến gương mặt cô ngổ ngáo lạ kỳ. Cô nhìn tôi chằm chằm, rồi cười:
- Anh Nam không nhận ra em phải không?
Tôi vội đáp:
- Nhận ra chứ. Mời cô Hạnh vào chơi.
Tôi kéo ghế mời cô gái ngồi, pha nước mới, tìm chiếc đĩa bày ít bánh ngọt có sẵn. Xong xuôi, tôi ngồi đối diện với cô trong trạng thái nửa tò mò, nửa nôn nóng vì việc riêng lở dở. Hạnh không uống nước, cô vào chuyện luôn:
- Anh Thanh Dương có để địa chỉ của anh cho em.
Tôi gật đầu:
- Vâng, tôi đã ghi địa chỉ cho Dương từ buổi tối ở quán trọ, ngày chúng tôi gặp và quen nhau.
Hạnh gật đầu:
- Vâng, anh ấy cũng kể cho em biết. Và anh ấy nói rằng: Ở đất Hà Nội này, anh ấy chỉ tin anh đủ khoan dung để giúp đỡ… và cảm thông cho chuyện riêng của chúng em.
Tôi lặng im, không biết nói thế nào cho phải. Cô gái ngập ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Anh biết rằng em không thể tìm gặp anh Dương ở tại nhà anh ấy. Nhưng chúng em cũng không thể gặp nhau. Anh hãy nhắn giùm anh Dương rằng tám giờ sáng mai, em chờ anh ấy ở cuối đường Bà Triệu…
Hạnh nói những lời đó với vẻ quả quyết, không chút mặc cảm tội lỗi, không chút ngượng ngùng. Mắt cô sáng long lanh, ánh lên thứ ánh sáng quyết liệt của những võ sĩ ra đấu trường, hoặc giành vòng nguyệt quế trở về, hoặc lãnh một cái chết tàn khốc. Hạnh rút từ chiếc túi xách tay một gói giấy báo to:
- Em nhờ anh trao cho anh Dương gói này. Đây là bộ đồng phục mùa thu để anh ấy dùng vào những lúc hội họp hoặc tới các giảng đường nói chuyện. Em sẽ đan cho anh ấy một chiếc áo len dài tay kiểu mới để anh ấy mặc trong những ngày không quá rét, khi nào xong em nhờ anh chuyển giúp.
Tôi cười:
- Tôi sẵn lòng chuyển giúp Hạnh, nhưng chỉ e vợ anh Dương nghi ngờ. Một gã thợ tráng phim quèn như tôi làm sao đủ tiền và đủ rộng lòng để tặng bạn cả bộ com- plê lẫn áo săng- đay?
Hạnh cũng cười:
- Có thế em mới nhờ anh. Thắng hay bại là ở tài thuyết phục của anh.
Tôi hỏi tiếp:
- Cả hai người định đi tới cùng hay sao?
Cô trả lời, đầy vẻ xác quyết:
- Chúng em sẽ đi tới hôn nhân. Mặc dù sẽ co một khoảng thời gian khá dài để anh Dương thu xếp việc gia đình và trong khoảng thời gian ấy, người đau khổ hơn cả là em. Nhưng em sẽ chịu đựng, và em tin rằng em sẽ chịu được.
Tôi hỏi:
- Còn hai bác?
Hạnh đáp:
- Bố mẹ em gần như từ bỏ em. Nhưng em đã quyết. Giờ đây, giá ông bà em ở dưới mồ ngồi bật dậy ngăn cản, em cũng không đổi thay ý định.
Tôi nhìn cô ngại ngần buông câu hỏi chót:
- Liệu rằng… cô có tin rằng…
Hạnh mỉm cười, nụ cười của tuổi trẻ si cuồng, nhạo báng cả thần linh lẫn quỷ sứ. Và cô đáp lời tôi, giọng chậm rãi:
- Anh Dương yêu em… Em tin rằng không có một tình yêu nào mãnh liệt được hơn thế…
Mắt cô rực lên nguồn sáng của hạnh phúc. Và tôi biết, giờ đây, cô sẵn sàng nhảy vào lửa, sẵn sàng nuốt thủy tinh hay làm trò gì đó tương tự như thế để chứng tỏ rằng tình yêu của cô là mối tình siêu nhiên, vĩnh hằng.
Tối hôm ấy, tôi mang bộ quần áo tới nhà Thanh Dương. Thi sĩ đang bưng cám đổ vào máng cho đàn gà công nghiệp. Cả lũ gà béo ục ịch ở trong chuồng, thò mỏ qua kẻ hở mổ rào rào. Thanh Dương ra hiệu bảo tôi im lặng vì vợ anh đang ngồi rửa chén bát gần đó. Anh cao giọng khoe với tôi:
- Tôi mát tay nuôi gà lắm anh Nam ạ. Cả phố này, không gà nhà nào tăng cân và đẻ đều như nhà tôi.
Nói xong, anh rửa tay, lay tay. Rồi chúng tôi vào nhà. Đó là một căn hộ khép kín ở tầng dưới cùng của tòa nhà ba tầng. Nhà gồm hai gian, ngăn bởi tấm vải che khá dày. Vợ chồng Thanh Dương với hai đứa con ở gian ngoài, phía trong là mẹ vợ với hai cô em gái quá lứa chưa chồng. Mỗi gian rộng ước chừng hai chục thước vuông. Hai chiếc giường, một bộ bàn ghế bé tí xíu, một chiếc tủ đựng quần áo trên đặt máy thu hình, một chiếc tủ thấp vừa làm nơi đựng lặt vặt vừa là trạn thức ăn… Ngần ấy thứ đồ vật được dồn lại trong diện tích hạn hẹp đó. Hai đứa con trai của Thanh Dương trông sạch sẽ, bảnh bao đang bò lổm ngổm trên giường học bài. Chúng cất tiếng chào tôi khẽ khàng như nói thầm vậy. Thoạt tiên, tôi ngạc nhiên. Sau tôi nghe tiếng ho của bà cụ từ sau tấm màn vọng ra mới biết trong ngôi nhà này người ta buộc phải tuân thủ một kỷ luật nghiêm ngặt về thanh âm đến như thế. Thanh Dương pha trà mời tôi, nói năng cũng với giọng thì thào hệt như hai đứa con. Được vài câu trao đổi xã giao, vợ anh mang chồng bát mới rửa vào nhà. Chúng tôi chào nhau. Người đàn bà bảo chồng:
- Anh ra rửa nồi nấu cám gà rồi hãy vào nói chuyện.
Thi sĩ ngẩng lên nói:
- Đang dở tay sao em không rửa luôn đi?
Vợ anh đáp, giọng tỉnh khô:
- Việc ai người nấy làm.
Thanh Dương càu nhàu, nhưng anh cũng phải sẽ sàng xin lỗi tôi rồi ra ngoài sân. Lát sau, anh đem chiếc nồi đã được rửa sạch, treo vào trong góc bếp rồi trở lại tiếp tôi. Trong khoảng thời gian ấy, người đàn bà vớ tấm áo đang móc dở trên mắc xuống móc thoăn thoắt. Những ngón tay nhỏ và dài của chị như múa trên mặt vải. Hai cánh tay chị cũng thuôn thả. Duy chỉ gương mặt mỏng nhiều tàn nhang là gợi nên cảm giác cằn lụi, cay độc. Sau vài phút chuyện trò, tôi trao gói quần áo cho Dương, đưa mắt nháy anh ra ngoài. Tôi vừa cất tiếng chào vợ anh, Dương đã lẻn ra sân ngay, hệt như một tên tử tù được ra khỏi ngục thất. Khi chúng tôi ra tới đường, chắc chắn rằng mọi lời nói được đảm bảo an toàn, tôi hỏi:
- Chỉ vì yêu anh mà Hạnh ra Hà Nội sống hay sao?
Dương đáp:
- Vâng, cô ấy trở lại học y. Cô ấy cũng đem cả chiếc máy may sang đây để kiếm sống trong thời gian học đại học.
Tôi hỏi:
- Trong khoảng thời gian ấy anh sẽ thu xếp việc gia đình?
Thanh Dương thở dài và thay vì trả lời, anh cúi ưng thuận.
Tôi nói tiếp:
- Khi nào Hạnh ra trường các vị sẽ cưới nhau?
Thanh Dương liếc nhìn tôi, đôi mắt ẩm ướt sập xuống:
- Vân, đó là mong ước.
° ° °
Tôi đã trốn tỉnh lỵ Q mong sao cái chết của thiếu phụ má hồng không còn ám ảnh. Anh bạn lớn tuổi đã đưa tôi tới Hàng Nón, để làm quen với cô bé vừa kháu vừa hiền như thỏ. Cô ta trẻ lắm, vừa tròn hai mươi. Gương mặt tươi mát với làn da trắng như mỡ đọng. Giọng nói ríu rít, lanh chanh. Điệu bộ nũng nịu, êm ái… Bất cứ chàng trai nào ở tuổi hai mươi bảy như tôi cũng dễ chịu khi gặp người con gái như thế. Nhưng tôi, tôi thích cô dìu dịu như ta thích một con mèo tam thể đang ngủ trên sập gụ. Tiếng cười vô tư lự của cô, dáng đi nhún nhảy của một thiếu nữ quen ngậm kẹo suốt ngày, vầng trán ngắn với những món tóc uốn móc câu cầu kỳ… tất cả xa lạ quá. Những cảm giác cô gợi nên trong tâm hồn tôi nhạt như khói cuối chiều. Trái tim trai trẻ của tôi đã xót xa, đã bị cào xé bởi những hình ảnh khác. Ngay buổi đầu đưa tôi tới gặp cô bé phố Hàng Nón, anh bạn đồng nghiệp cao tuổi đã hỏi:
- Thế nào, có trở lại đây lần thứ hai không?
tôi không trả lời, im lặng đạp xe. Đi một đoạn phố nữa, anh nói:
- Có lẽ năm nay chú mày chưa lấy được vợ. Hoặc là mày còn ở giai đoạn ham chơi, hoặc là một thứ gì đó đã thu hút linh hồn của chú mày và biến chú mày thành gã trai ngẩn ngơ, lạnh lẽo.
Anh bỏ ý định kiếm vợ cho tôi, thay vào nhiệt tình ấy bằng chương trình bán chiếc Hon- đa 67 để mua một chiếc Ca- đi.
Tôi cứ đạp xe hoài quanh các khu phố, men theo hồ Tây lên Yên Phụ rồi lại vòng về chùa Quán Thánh. Hôm nào phấn chấn hơn tôi rủ mấy cậu bạn đem theo đồ ăn vào Hà Đông chơi. Nhưng buổi tối, lúc trở về thành phố, mọi cảnh trí trôi tuột khỏi óc não tôi như nhưng hạt mưa vuột qua tàu lá sen. Bên tai tôi lại vang lên tiếng sóng, những đám bọt xoay tròn trên dòng nước đục, con đò trôi và người đàn bà nằm trên đó đang máy máy khuôn miệng dường như chị sắp mỉm cười, lúm đồng tiền khoét sâu vào bên má…
- Em lạy các anh, các anh đi bây giờ thì em chết mất…
Tại sao chị lại mỉm cười trong lúc nói những lời thảm thiết ấy?… Làn môi mọng hé ra phô hai hàm răng trắng nõn. Những giọt lệ dâng đầy tròng mắt, sắp vỡ tan…
Giá như sự sai lệch của số kiếp đưa đẩy tôi gặp chị. Giá như sự xáo trộn của không gian và thời gian được tùy thuộc vào nhiệt tâm và khát vọng của con người. Giá như sự độc ác và ngu xuẩn không đày ải nhân loại vào địa vị kẻ sát nhân vô thức… Những tiếng nói thì thầm vang động trong óc não tôi, tựa tiếng thì thầm của thần linh ném giữa các vách đá. Hồi âm của chúng cuộn lên, như sóng biển dồn vào mõm vịnh hiểm trở, khiến tim tôi tan nát… Tôi cần gặp ai đó, mà sự hiện diện của họ san sẻ bớt cho tôi… Thanh Dương chắc chắn đang sa lầy giữa cạm bẫy của tình yêu và sự giằng trói của gia đình. Chỉ còn Vũ Sơn, có lẽ anh đã hoàn thành chuyến đi quan trọng ấy… Tôi đạp xe tới khu tập thể Một, theo địa chỉ đã ghi.
Người thường trực khu nhà Một là một ông lão quạu quọ, lắm lời. Tôi vừa cất tiếng hỏi Vũ Sơn, ông ta đã chăm chăm nhìn tôi qua hai tròng mắt kính tròn như hai viên trứng chim, vặn lại:
- Thế anh ở đâu?
Tôi đáp:
- Cháu ở Tràng Thi. Dân ven hồ Hoàn Kiếm.
Tưởng ông cụ mỉm cười, ai dè ông trợn mắt quát:
- Tôi không đùa. Anh đưa chứng minh thư tôi xem.
Tôi đành lấy vẻ nghiêm trang, móc tấm chứng minh thư trong túi, trịnh trọng đưa hai tay. Ông già xem hai ba lượt rồi trả lại tôi:
- Vào được.
Đã bước qua cổng, tôi lại quay đầu hỏi thêm:
Ông già, không chút mảy may vui vẻ, buông lời đáp:
- Phải, xa lắm. Hết một suất vé ô- tô- buýt là cùng.
Tôi khẽ lắc đầu, tự nhạo mình đã bỏ công một cách vô ích. Rồi rút trong túi tấm giấy ghi địa chỉ và sơ đồ nhà ở của Vũ Sơn, tôi vừa dò tìm, vừa đi. Chừng năm phút sau, tôi tới nơi. Phòng anh đang mở cửa, anh đang trùm chăn ngồi nhổ râu, mái đầu gật gù trên cần cổ ngẳng. Thấy tôi, anh dang cả hai tay:
- A, cậu bận lắm hay sao mà không đến?
Tôi đáp:
- Hôm nay vừa tròn một tháng. Tôi đúng hẹn đấy chứ?…
Chúng tôi đã hẹn nhau trên đường từ Q ra Hà Nội rằng sau bốn tuần lễ sẽ gặp nhau, khi Vũ Sơn đi công cán trở về. Nghe tôi nói, anh à lên một tiếng rồi gật đầu:
- Ờ ờ… Cậu là người chắc chắn đấy.
Tôi hỏi:
- Thuốc lá phần tôi đâu, hoặc rượu nho Bun cũng được?
Anh cười, tay vẫn trút nước sôi từ phích vào ấm mới bỏ trà:
- Lũ bạn trong cơ quan hút sạch thuốc, có hai chai rượu chúng nó cũng dốc cạn rồi. Tôi đoảng qua, đúng là tôi có lỗi với cậu…
Nói xong, anh rót nước mời tôi:
- Uống đi, trà Thái ướp ngâu cậu của ông lão trên làng đào Nhật Tân cho tôi. Cả khu tập thể này phải nắc nỏm khen ngon đấy.
Tôi uống nước. Quả thật, chè rất ngon. Hương thơm êm dịu, đằm và sau mỗi ngụm nước nóng, ta có cảm giác lâng lâng như đứng giữa vườn ngâu chín một ngày cuối hạ đầu thu. Vũ Sơn chợt vỗ đùi:
- Quên mất…
Anh đứng dậy, với trên xích đông gần trần nhà một gói giấy dầu nhỏ:
- Có quà thết cậu rồi đây - Anh nói - Tôi có cậu bạn vừa cưới vợ. Cô ả là con một bà góa chuyên làm bánh kẹo ở thị xã Hải Hưng. Cậu ta gửi cho tôi gói kẹo này.
Anh với cuốn sách đang đọc dở ở đầu giường, trút phắt cả mớ kẹo còn lại vào đấy. Xong, anh vo tờ giấy gói kẹo thành một cục ném vào gậm giường.
Tôi cười:
- Sao lại ẩu thế?
Anh tặc lưỡi:
- Ôi dà, sống được mấy ngày mà lo giữ vệ sinh… Ăn kẹo đi cậu. Cô ả này chắc xấu gái lắm nên ra sức nịnh chồng. Kẹo nó làm thật hết chê…
Chúng tôi ăn thứ kẹo hỗn hợp vừa lạc vừa vừng xay, nấu với đường trắng và mạch nha theo một công thức nào đấy mà kẹo cắn giòn tan, đường vỡ những mảnh óng ánh, trong như kính nhưng nhai lại thấy vị lúa non dẻo quẹo của mạch nha. Tôi khen:
- Kẹo đặc biệt thật, anh ạ.
Vũ Sơn tặc lưỡi:
- Ngon.
Rồi anh thêm một câu:
- Thằng nào tham ăn của ngọt thì cứ lấy quách một cô hàng kẹo. Tôi chưa kịp đáp lời anh đã vươn thẳng người lên, mặt tối sầm, anh nói:
- Cậu đã biết chuyện giữa Thanh Dương với cô Hạnh chưa? Hôm qua vợ cậu ấy lại tìm tôi, gầm gào như con sư tử cái. Cô ả cứ làm như chính tôi quyến rũ cậu ta vậy. Tôi tức mình, bảo: “Loại đàn bà như cô chồng nó chán cũng không oan”. Thế là cô ta chu chéo sỉ vả tôi, rồi đe dọa sẽ trả thù cô Hạnh. Chúng ta đều đã thành niên, người nào chịu trách nhiệm về hành động của người nấy, chẳng có lời khuyên can nào hữu hiệu trong đời, bởi lẽ chẳng ai có thể đổi được khát vọng và nhu cầu sống cho nhau. Cậu chưa có gia đình, chưa hiểu, nhưng tôi biết rằng trong một trăm cặp vợ chồng thì có tới năm mươi cặp chán lẫn nhau. Hoặc cô vợ chê anh chồng hiền lành, ngơ ngẩn, hoặc anh chồng chê chị vợ dốt nát, tham lam. Đời sống tăng trưởng và biến động, ngay cả những mặt hàng bày trên các quầy hàng ở chợ cũng nhiều gấp bội, đa dạng gấp bội so với những gánh hàng xen của ông bà, cha mẹ ta ngày xưa. Làm sao các nhu cầu tinh thần của con người lại không rối rắm và phức tạp hơn trước. Làm sao người ta có thể yêu mãi mãi một người đàn bà khi từ sáng tới chiều, từ ngày nọ qua ngày kia, từ tháng này sang tháng khác cô ta chỉ nhắc đi nhắc lại một điệp khúc buồn tẻ: Anh đã lo đủ tiền cho em mua áo rét chưa? Hoặc là “Nhà bà Đào vừa nâng một tầng gác nữa. Bao giờ nhà ta đủ tiền mà làm?”… Cái mặt người đàn bà dù đẹp đến mấy rồi cũng trở nên nhàm chán và theo quy luật thời gian no sẽ tàn tạ, héo úa đi… Nhưng đời sống tinh thần ngày càng nhàm chán thì không thể cứu gỡ. Nhất là khi sự thiếu hụt của vật chất lại ném những viên đá tàn bạo lên lớp men sứ mỏng manh của những ước vọng thuở đầu tiên… Tôi không bào chữa cho Dương, nhưng tôi muốn nói chuyện đời một cách công bằng. Việc Dương yêu cô Hạnh với tôi không có gì là khó hiểu. Nhưng điều đáng quan tâm là sự ứng xử của cậu ta trước mối tình này… Nam, tôi muốn hỏi ý kiến cậu một cách thẳng thắn: Cậu có tin rằng Thanh Dương đủ bản lĩnh đến tới cùng hay không?
Tôi đáp:
- Tôi không thể trả lời câu hỏi ấy. Anh hãy thông cảm cho tôi, chính anh cũng vậy thôi.
Vũ Sơn giương mắt nhìn tôi:
- Cậu muốn bảo cả tôi nữa phải không? Nhầm, tôi có thể nói huỵch toẹt cho cậu biết rằng… nhưng mà thôi, rồi cậu cũng sẽ được biết một cách nhanh chóng bởi các bi hài kịch thời nay diễn ra với tốc độ của tên lửa vượt đại châu. Duy có điều, cả tôi và cậu đều phải có nhiệm vụ bảo vệ cô Hạnh. Cho dù lúc này cô ấy có làm cách mạng kiểu tóc hoặc thay mốt quần áo nhưng thực chất đó vẫn chỉ là một cô bé tỉnh lẻ, con nhà lành. Cậu hãy tìm tới nơi cô ấy ở, và hỏi xem mọi chuyện ra sao?…
Tôi hứa với anh sẽ tới nhà Hạnh tuần sau. Vũ Sơn bảo:
- Địa chỉ cô ấy tôi ghi đây rồi.
Anh mở chiếc va ly lớn ở cuối giường, tìm cuốn sổ ghi địa chỉ Hạnh. Lúc anh cầm cuốn sổ lên, vô tình tôi liếc mắt vào va ly, và tôi thấy bộ com- plê cùng chiếc mũ lông của bố tôi nằm chồm hỗm trong đó, bên những thứ đồ vặt vãnh và quần áo lộn xộn khác.
- Té ra chúng đã thực hiện chuyến đi trọng đại trong chiếc va ly này…
Tôi thầm nghĩ và vội vã quay đi.
° ° °
Bất luận giàu nghèo, ở lứa tuổi mười tám, đôi mươi, cô gái nào cũng thích trưng diện. Các cô sẵn sàng nhịn ăn nửa ngày để bỏ mấy đồng bạc vào trong ống nứa, và cứ ngày nọ nối ngày kia cho tới khi ống nứa chật cứng những tờ bạc lẻ. Lúc ấy, các cô phăm phăm chẻ đôi cái gia tài quý báu đó ra để mua một tấm áo, một đôi giày sang trọng, hoặc có khi chỉ một chiếc mù soa… Các cô có thể tiếc đứt ruột khi bỏ ra mười đồng bạc mua ổ bánh mì nhưng lại sẵn sàng trả ba ngàn đồng cho một tấm áo khoác bằng thứ vải ny- lông ướt màu bạc đang được coi là thời thượng… Các kiểu sơ mi vì thế cứ đổi như chong chóng, từ cổ tròn ra cổ lá nhọn, từ cổ lá nhọn trở về không cổ khuy Tàu… Nhờ vậy, cửa hàng may của Thúy Hạnh luôn luôn đông khách. Chỉ riêng nữ sinh viên y I tới may và chữa áo sơ mi cô đã đủ nhược người. Huống hồ cả khối y2, y3 cũng đã nghe đồn đại về tài nghệ của cô, và điều quan trọng hơn cả là cô tính giá công rẻ nửa tiền so với các hiệu may bên ngoài. Khi tôi đến thăm Hạnh trong khu nội trú, có tới nửa tá các cô khách bao vây, người chờ lấy áo, người kèo nhèo vì sai hẹn, người thúc hối mong được mặc áo sớm hơn vài ba ngày…
Hạnh ngẩng lên, nói với tôi:
- Anh xem, chủ nhật hầu như em không còn được thở. Có khi từ bảy giờ sáng tới bảy giờ tối mới được ăn.
Dứt lời, cô cúi xuống đạp rào rào cho xong đường chỉ cuối. Rồi, đưa áo cho một cô gái béo tròn đứng cạnh, Hạnh nói:
- Xin lỗi các cậu, giờ tôi phải nghỉ thôi.
Cô tháo chỉ, lật đầu máy xuống hòm, phủ mảnh vải lên trên. Các cô khách ỉu xìu, lần lượt tản đi. Hạnh bảo:
- Anh đưa em ra quán cà phê đầu phố nhé. Ở đây, chẳng có chỗ nào ngồi nói chuyện.
Chúng tôi đến một quán cà phê mới khai trương ở vùng ngoại ô. Với những bộ bàn ghế còn nồng nặc mùi véc- ni, những bình hoa nhựa trơ trẽn, những bức tranh ấn tượng thô lậu và ngờ nghệch treo tường, nó làm tôi phát lợm giọng. Chủ quán là một gã đàn ông cao gầy, da tái nhợt, giọng nói eo éo như lại cái. Gã bưng cho chúng tôi hai tách cà phê nóng, chỉ mới khuấy thìa đã thấy mùi ngô rang và hạt cau trộn lẫn trong bột cà phê. Hạnh đang mệt, cô nhấp từng ngụm nước đen nhờ nhờ kinh tởm ấy một cách ngon lành. Tôi bảo:
- Em thấy cà phê ngon không?
Cô gái lắc đầu:
- Em chẳng biết mùi vị nó ra sao. Nhưng em khát, và mỏi muốn gãy xương lưng nên uống nước nóng vào dễ chịu.
Gương mặt cô vẫn tươi mát, nhưng hao gầy hơn xưa. Chỉ đôi mắt là khác biệt, với cái nhìn táo bạo, có đôi phần liều lĩnh. Tôi hỏi:
- Dương có tới thăm cô thường xuyên không?
Hạnh lắc đầu:
- Không. Chúng em hẹn hò nhau như những điệp viên hoạt động trong vùng địch. Thay đổi giờ, thay đổi nơi gặp gỡ, với trạng thái căng thẳng như luôn có một trạm ra- đa trong đầu.
Những lời lẽ ấy, cô nói với chút hài hước, nhưng không che giấu nổi vẻ chua chát. Tôi chợt thương cô. Hạnh nói tiếp:
- Vợ anh Dương đã biết chuyện. Chị ấy tới gây sự với anh Vũ Sơn và đe dọa em. Em không sợ nhưng em buồn. Số kiếp đã đưa đẩy chúng em gặp nhau. Những người con gái khác có thể tìm thấy hạnh phúc một cách dễ dàng, còn em, em tìm hạnh phúc như người thợ lặn tìm những viên ngọc trai dưới bể sâu. Có được ngọc trong tay, thân thể rách tướp vì lưỡi hàu hoặc răng cá dữ.
Trong mắt cô, ánh lên những tia sáng buồn rầu nhưng cả quyết, tựa ánh mắt của những kẻ hành dương đứng trước sa mạc trắng trợn xương khô và cát, còn bên kia chân trời là đất thánh hiển linh.
Tôi nói:
- Dương có biết chuyện vợ anh ấy đe dọa Hạnh không?
Cô gái gật đầu:
- Có, anh ấy nói với em rằng sẽ cố gắng ngăn cản những hành động điên rồ và tàn bạo ấy.
Tôi gặng:
- Nhưng nếu như lực cản của anh ấy vô hiệu?
Hạnh đáp:
- Lúc đó, em sẽ phải chống đỡ. Em sẵn lòng chịu đựng tất thảy mọi hy sinh. Anh Nam, bây giờ em tin rằng khi yêu, người ta biến hoàn toàn thành một con người khác, kẻ bần tiện biến thành người hào phóng, và kẻ yếu mềm trở nên dũng cảm, lì lợm trước cuộc đời.
Tôi xoay tách cà phê dởm đã nguội lạnh trong tay, thầm nghĩ rằng mọi lời nhắc nhở giờ đây đều vô nghĩa. Có lẽ, tôi sẽ bảo với Vũ Sơn rằng nỗi lo toan của anh cũng như của tôi không có giá trị, bởi chính Hạnh đã đo lường hết mọi thảm họa và chấp thuận nó. Rằng chính cô đã dấn thân với ý thức rõ ràng của một kẻ chịu trận và với lòng quả cảm của một người lính bẩm sinh.
Tôi đưa cô trở lại khu lưu trú. Cái quán cà phê kệch cỡm lùi lại phía sau với tiếng nhạc ABBA mở hết cỡ, nghe nhói tận đỉnh đầu.
Về nhà, tôi mỏi nhừ toàn thân, dường như không phải tôi chỉ đạp xe vài chục cây số mà là vượt qua một dãy núi hiểm trở. Nằm xoài trên giường, tôi ngủ thiếp đi. Lúc tôi thức giấc, trời đã sẩm tối. Vừa quơ được đôi dép, đã có tiếng chuông.
- Ai đến vào giờ này?
Tôi tự hỏi và ra mở cửa. Thanh Dương xuất hiện, trong bộ đồng phục tuyệt đẹp Hạnh đã gửi qua tôi. Đây là lần đầu tiên anh tới.
Tôi đùa:
- Rồng đến nhà tôm. Chắc ngày mai trời bão.
Dương cười:
- Tôi biết thế nào anh cũng có nhà. Tối nay tôi tới nói chuyện tại câu lạc bộ Thanh niên, anh tới dự nhé.
Tôi đáp:
- Sẵn sàng. Nhưng tôi phải kiếm bát phở đã.
Dương đưa cho tôi tấm vé:
- Anh có thể ăn ba bát phở rồi đến cũng kịp. Bảy giờ ba mươi phút mới bắt đầu. Giờ, tôi phải qua nhà một số bạn bè thân…
Anh chào tôi, đi.
Tôi lững thững ra phố, tìm quán phở quen. Vừa thấy tôi, bà chủ quán đã cười và giáo trước:
- Hôm nay bò tái lên năm mươi đồng một bát đấy nhé.
Tôi đáp:
- Tiền công tráng phim, in ảnh của cháu chưa lên được hào nào mà phở của bác đã tưng giá năm mươi đồng. Bất công thật.
Bà chủ lắc đầu:
- Tôi có muốn thế đâu chú? Nhưng giá thịt, giá bánh, tiền thuế cứ tăng như ngựa chạy, làm sao tôi không nâng giá hàng lên được?… Ngồi vào chỗ đi, lấy nhiều hay ít nước béo đây?
Tôi đùa:
Lấy một muôi nước béo vào, kẻo ngày mai ngày kia hết tiền không dám ăn nữa.
Bà chủ cười tít mắt, hai má đỏ hây hây. Bà bưng bát phở đặt tận bàn cho tôi, kèm theo một câu nửa nạc nửa mỡ:
- Chú mà ưng con Lan nhà tôi, tôi bỏ tiền cưới xong tôi nuôi hai anh chị ngày bốn bữa cơm gà cá gỏi, muốn chim câu hầm có chim câu, muốn cơm tây Hàng Buồm khắc có bánh mì bíp- tết.
Đám khách ăn quay lại nhìn tôi cười. Tôi cũng cười nhưng hai má nóng lên vì xấu hổ. Cô Lan con bà giống bà như hai giọt nước, từ vóc dáng tới sợi tóc, tràng mày. Như thế, có nghĩa là cô giống một cái chum trắng nhễ nhại, biết đi giày cao gót, mặc quần Jin, thay đổi các thứ áo Pun, áo thêu, áo đăng- ten như một thứ ma- nơ- canh sinh động. Mỡ núng nính từ hai má, lăm cổ cho đến từng ngón tay tựa khúc dồi bóng loáng của cô. Các thứ nhẫn mặt đá đỏ, đá tím, các thứ bông tai nụ hoặc đính ngọc làm cho tấm thân phì nhiêu của cô sáng chóe lên như tủ hiệu kim hoàn. Đầy kiêu mãn, cô đi ra đi vào, cười nói ngúng nguẩy trước đám khách ăn, phô phang một cặp vé cải lương giá chợ đen mua hết hai trăm hoặc một cặp vé phim tình Ấn Độ năm trăm rưởi… Mường tượng cảnh mình sánh đôi với cô ta, tôi đã đủ sạm mặt. Bất giác, đôi mắt đen huyền của thiếu phụ má hồng lại hiện ra trước mắt tôi, chị giơ một cánh tay lên, và cử chỉ im lặng ấy như tiếng gọi mời ở bên kia khoảng không gian xa xanh, diệu vợi…
- Kìa, ăn đi không phở chua hết bây giờ…
Bà chủ hiệu cất tiếng khiến tôi giật nảy. Tôi vội vã ăn, chẳng còn cảm nhận rõ mùi vị. Xong, tôi trả tiền bà rồi bước ra phố. Vào giờ này, đường phố đông. Từng tốp thanh niên và thiếu niên sắp tới tuổi cởi khăn quàng đỏ đi tràn lên vỉa hè. Lẫn trong đám người ít lo nghĩ ấy là những người đàn ông và đàn bà lủi thủi đi nép vào các hiên nhà, tay xách túi hoặc xách làn, vẻ tất tưởi, lam lũ. Thi thoảng, lại gặp một ông già bắc ghế ngồi trước cửa, nhìn ngắm cảnh chộn rộn phố xá.
Tôi đến câu lạc bộ Thanh niên lúc bảy giờ mười lăm. Người ta đã ngồi kín các dãy ghế phía trước. Mấy cô nàng xinh đẹp má hồng mắt xanh bưng cà phê tới bàn. Hai chiếc loa phóng âm cỡ lớn thả bản nhạc đương thời:
Ngôi nhà tình yêu của em trong trắng
Những giọt nước mắt rơi trên tuyết lại đen
Em đã đi qua trái tim anh,
Như giọt mưa qua khung trời thành phố
Ngôi sao sáng trong khung cửa mở
Hỡi người con gái có mái tóc vàng…
Ngoài hồ, ánh đèn rọi xuống mặt nước sâu, như những mảy thủy tinh, trong suốt, sắc lạnh. Rực rỡ một cách quái dị, làn nước phản chiếu, làm gãy khúc và tẩm nhiễm nỗi huyền hoặc vào các chùm tia sáng, khiến chúng tụ họp thành một thế giới xao xuyến mới lạ. Trong thế giới ấy, người ta đọc được chiều sâu u tối của những khát vọng và dục vọng, những gai góc châm đốt trái tim con người trong cuộc hành trình tìm miền đất của tâm linh… Nỗi uất nghẹn dâng đầy họng tôi. Tại sao những người đàn bà tốt đẹp lại bị đầy ải vào cõi bất hạnh? Những người đàn bà mà sinh lực, trí tuệ và đức tính cần cù của họ đã tạo dựng nên xóm làng, nhà cửa vườn tược ngọn lửa ấm và những bài ca… Con đò trôi bập bềnh theo hai bờ sông. Lưỡi cát vàng ánh lên dưới nắng chiều như lưỡi gươm kì bí, thiếu phụ mỉm cười, lũm đồng tiền xoáy sâu trên bầu má…
Giọng hát trầm đục của ca sĩ Mỹ vẫn vang bên tai tôi:
Ngôi nhà tình yêu em trong trắng
Những giọt nước mắt trên tuyết lại đen…
Hỡi người con gái có mái tóc vàng…
Thốt nhiên, một cảm giác cáu giận vô cớ xâm chiếm tôi. Nào những bông tuyết, những giọt nước mắt đen, mái tóc vàng… Những thứ đó đâu có ăn nhập gì với thế giới tinh thần của riêng tôi?… Chúng bập bềnh ở ngoài khung trời mà tôi hít thở, vui sướng và lo âu… Tôi không cần tới chúng… Tôi đứng dậy. Lúc ấy, tôi đã thấy người giới thiệu lên trước mi- crô. Nhà thơ Thanh Dương đã đứng bên cánh gà, với mấy cô diễn viên ngâm thơ minh họa, một người đàn bà ngoài bốn mươi cầm cây đàn thập lục đang ghé tai thì thào gì đó với một chàng nhạc công thổi sáo. Tôi đi ra ngoài. Tiếng Thanh Dương vang vang trong máy phóng âm, đuổi theo. Nhưng giờ đây, mọi âm thanh đều câm nín. Chỉ có tiếng sóng gào réo lên, lấn át mọi âm nhạc và thi ca, khoan xoáy vào não tủy.
° ° °
Tôi đã nói với Vũ Sơn rằng lòng tốt của chúng tôi vô dụng và thừa thãi trong chuyện tình giữa Thanh Dương với Hạnh. Nhưng anh vẫn bứt rứt không yên. Anh bảo tôi:
- Tôi cần phải nói huỵch toẹt ra với cậu rằng…
Lần này nữa, tới đó anh cũng im lặng. Nhưng anh buồn, đôi mắt vốn lộ của anh đỏ lên, những nếp nhăn hiện chi chít trên hai gò má. Những lúc ấy, trông anh già trước tuổi. Anh bảo tôi:
- Đi uống rượu.
Chúng tôi ra chợ Châu Long, gọi thịt chó và rượu trắng. Vũ Sơn im lặng uống rượu, ăn rau ngổ với giềng rau ráu, như muốn động tác ăn uống ồn ào khuấy lấp những suy nghĩ đang luẩn quẩn trong anh. Lúc về, chúng tôi gặp Thanh Dương phóng xe máy ngược chiều phố. Anh hớn hở chào và mời chúng tôi uống cà phê.
Vũ Sơn bảo:
- Nào thì uống.
Ba chúng tôi ghé vào quán cà phê Lâm. Thanh Dương đang phấn chấn, gương mặt anh hồng rực lên, đôi mắt ẩm ướt càng quyến rũ. Những người đàn bà trong quán đưa mắt nhìn anh vội vã rồi cụp ngay mắt xuống như sợ bị thu mất linh hồn. Dương hỏi:
- Các anh dùng thứ gì? Cà phê hay ca cao? Ở đây ca cao ngon lắm?
Không chờ chúng tôi trả lời, anh giơ tay ra hiệu cho chủ quán:
- Ba ca cao và một bao Cap- stan.
Vũ Sơn ngồi bắt chéo khoeo, tựa lưng trong góc tường.
Mắt anh giương lên nhìn thi sĩ:
- Làm gì mà cậu hung hăng thế?
Anh hỏi Thanh Dương với giọng khiêu khích. Dương cười nhũn nhặn. Anh ta có vẻ ôn hòa và nhẫn nhịn. Vũ Sơn nói tiếp:
- Tôi đánh cược và cậu rằng tiền khao chúng tôi là của cô thợ may Thúy Hạnh. Lương cậu, con vợ đành hanh đỏ mỏ kia đã thu tới đồng xu cuối. Còn nhuận bút thơ của cậu chắc chỉ đủ đãi nhau nước chè.
Thanh Dương đỏ mặt, cả cổ và hai tai anh cũng đỏ theo. Anh nhún vai, đáp.
- Sao anh lại quá quan tâm đến tôi như vậy?
Vũ Sơn đáp:
- Ý cậu muốn nói tôi đố kị phải không?… Tôi không phải trẻ ranh mà trạnh lòng vì những câu móc máy ấy. Nhưng tôi bảo cho cậu biết: chính tôi đã đưa cậu tới chơi với ông già Hưu. Và Hạnh là con gái nhà lành, tôi không muốn cô ấy phải chịu đau khổ.
Thanh Dương đáp:
- Không ai chịu đau khổ được thay cho kẻ khác. Cũng không ai hưởng được thứ hạnh phúc ở ngoài mình. Anh đừng lo… Lúc ấy, chủ quán bưng ca cao và đem thuốc lá r. Tôi bảo cả hai người hãy bớt lời, nhỏ tiếng. Họ nghe tôi, im lặng hút thuốc, uống nước. Nhưng chỉ một lát sau, Vũ Sơn đã nói lại:
- Tôi không có máu ganh ghét trong mình, dù ganh ghét là thói thường của người đời. Tôi cũng không cho là phi lý tình yêu của cậu với cô Hạnh. Nhưng tôi lo sợ cho cô ấy bởi trong tình cảnh này, công nhận một tình yêu mới có nghĩa là xóa bỏ quan hệ cũ. Trong việc lựa chọn ấy, liệu cậu đã suy tính chưa?
Thanh Dương kêu to:
- Tôi không suy tính, tôi không biết suy tính trong lãnh vực của trái tim.
Vũ Sơn cười nhạt:
- Đấy là lời lẽ cao thượng và hoa mĩ nhất để lảng tránh trách nhiệm.
Anh thưỡi môi ra, nhại: Tôi không phải kẻ tính toán. Tôi yêu và tôi hành động theo rung động của trái tim… Này thi sĩ, chỉ đàn bà mới mắc lừa thứ lý luận ấy thôi. Tôi đã có hai con, con trai hẳn hoi, tất nhiên tôi không phải kẻ mang hai bầu vú trước ngực và có chức năng cho con bú. Cậu đừng ỡm ờ. Tôi hỏi cậu, hãy trả lời cho rõ ràng. Cậu đã làm gì để bảo vệ tình yêu của cậu với cô ấy?
Thanh Dương ngắc ngứ. Rồi anh ta bật một tiếng kêu?
- Tôi yêu Hạnh, yêu chân thực, các anh hiểu cho tôi. Vũ Sơn nói:
- Không ai nghi ngờ rằng cậu yêu giả. Với một người con gái như Hạnh, có tới hàng ngàn người đàn ông muốn yêu chân thành, muốn xây dựng một hạnh phúc bền chặt… Nhưng tôi chỉ đặt một câu hỏi thôi: Liệu cậu có khả năng đưa dắt tình yêu tới cùng hay không?… Trong tình cảnh của cậu, việc tạo dựng song hành với phá hoại. Và người ta phải lãnh đủ đau đớn. Khi đã có gia đình, cậu không thể yêu vô tư như một chàng trai chưa vợ. Hạnh phúc ấy cheo leo và phải tính bằng giá đắt. Giống như muốn hái chùm vả chín trên cây bên bờ vực; người ta phải qua các mỏm đá, và nhìn thấy khe sâu ở sát cạnh mình. Cậu ý thức được điều đó chứ?… Thông minh như cậu, ắt hẳn…
Lúc ấy, một tốp thanh niên tiến vào. Trông thấy Vũ Sơn, họ mừng rỡ ồ lên và xô tới bắt tay anh, Vũ Sơn giới thiệu với Thanh Dương và tôi cho rằng đó là các sinh viên trường đại học báo chí. Họ quen anh trong kỳ anh tới thuyết giảng. Đám sinh viên ngồi quây quanh chúng tôi, ồn ào hỏi chuyện Vũ Sơn. Giữa đám đông hâm mộ mình, nhà báo có ngay dáng vẻ kiêu mãn mà tôi đã đọc được khi anh đi qua các phố của tỉnh lỵ Q với những bước chân sải dài và mái đầu ngật ngưỡng. Lúc này, gương mặt anh sáng lên, tươi vui, thơ trẻ.
° ° °
Khoảng một tuần sau, Vũ Sơn tới nhà tôi:
- Này cậu…
Anh nói ngay khi tôi vừa ló mặt khỏi cửa.
- Vợ cậu Dương đã đem người vào tận trong trường yêu đánh cô Hạnh, làm đơn kiện gửi lên khoa, chuyện lôi thôi lắm…
Tôi lẳng lặng dắt xe ra đường. Chúng tôi cùng đạp xe vào trường y. Chiếc bàn máy may của Hạnh trong khu nội trú phủ kín vải, trên đó đặt một chiếc hòm gỗ nhỏ và tất cả được chằng néo bằng những sợi dây thừng chắc chắn. Các cô bạn trong phòng bảo Hạnh vắng mặt đã ba hôm nay. Cô xin phép nhà trường về quê thăm bà mẹ ốm. Chúng tôi quay xe, lại đạp một mạch tới nhà Thanh Dương, suốc dọc đường chẳng ai nói với ai câu nào. Vợ Dương có nhà, chị ta đang nấu bún bung đãi bạn cùng cơ quan. Không đợi hỏi, chị ta té tát bảo chúng tôi:
- Thằng cha ấy biến rồi, biến rồi… Chẳng hiểu đi Sài Gòn hay Đà Nẵng.
Chúng tôi vừa định cất tiếng chào, người đàn bà đã xoay lưng vào. Vũ Sơn bật lời chửi tục:
- Cái con mẹ thần đanh đỏ mỏ. Ta đi đi thôi…
Dọc đường, anh hỏi:
- Cậu biết tại sao Thanh Dương đi miền Nam đột xuất thế không?… Cái thứ báo của cậu ta làm có yêu cầu khẩn thiết như vậy? Chẳng qua đây là mưu kế của anh chàng: Trong ba mươi sáu chước, chước chuồn là êm hơn cả… Thật khốn khổ: Người ta ý thức được sự hèn hạ nhưng vẫn cứ ứng xử một cách hèn hạ như thường. Tôi không biết sự việc tiến triển đến đâu, nhưng cậu sẽ thấy chẳng bao giờ cặp tình nhân này đi tới hôn nhân cả. Mơ ước và diễn đạt mơ ước là đặc tính chung của cả nhân loại, nhưng khả năng biến nó thành hiện thực thì chỉ có một số người. Dương không nằm trong con số đó. Bao giờ cậu ta cũng muốn có mọi thứ. Kẻ muốn có tất cả mà không chịu bị tước đoạt một điều gì thì suốt đời sẽ là kẻ trắng tay. Tôi xin lấy đầu tôi ra đánh cược…
Chúng tôi chia tay. Nhưng từ hôm ấy, tôi thắc thỏm về Hạnh. Hình ảnh cô buổi đầu tiên đã gieo cảm xúc dịu dàng, tươi mát và những cảm xúc ấy được vĩnh định trong tâm trí tôi. Tôi không thể, tôi không thể nào chịu được nếu như cô bất hạnh, lần thứ hai sự oan trái của số phận lặp lại với những người đàn bà đáng được hưởng niềm yêu mến trên cõi đời. Ý nghĩ về thiếu phụ má hồng trở lại ám ảnh, cùng với lo âu, và khát vọng.
Ngày lại ngày nối nhau qua. Thấm thoát đã nửa tháng tròn, một chiều thứ bảy, tôi tới rủ Vũ Sơn đi xem nhảy. Trong lúc trai thanh gái lịch thành phố đã đổi bao nhiêu đôi giày, tôi vẫn nguyên vẹn là một chàng quých. Không phải vì thân hình quá xấu xí, vụng về hoặc lỗ tai điếc nhạc, nhưng tôi luôn có mặc cảm về hình thức nghệ thuật mới du nhập này, nó xa lạ như cái nĩa, hoặc chiếc dao ăn đối với bữa cơm chan canh riêu cua, cà muối xổi của dân ta. Không tập nhảy, nhưng xem người khác nhảy tôi lại thích. Tối hôm đó tôi định bụng rủ Vũ Sơn tới một sàn nhảy ở phố H, nơi tụ tập của các tay chơi từ thời trước giải phóng Thủ đô. Họ đã ngoài năm mươi, nhưng ngọn lửa đam mê chưa tắt. Cả đàn ông lẫn đàn bà giàu ăn mặc cực kỳ lịch sự, khác hẳn lối trang phục thực dụng, ẩu tả của đám trai trẻ ngày nay. Các ông, đồng phục trắng, cra- vát đen. Các bà áo dài, quần trắng là khuôn hộp. Những đôi giày nhung cao gót cất kỹ bao năm trong rương giờ lại được đem ra, cả những chuỗi hạt trai hoặc những chiếc kiềng vàng chạm tinh xảo. Họ xuất hiện trên sàn nhảy, như một bó hoa lẫn mùi bụi thời gian. Đám trai trẻ đứng lặng đi mà ngắm họ dìu nhau trong các điệu van cổ, các điệu tăng- gô, Pa- đô- đốp và những bước nhảy tinh xảo khác. Vũ Sơn chưa bao giờ được chứng kiến cảnh ấy. Tôi bảo anh:
- Nhà báo mà thế thì lọ qua. Tôi sẽ đưa anh đi.
Anh đang trùm chăn đọc tiểu thuyết của Hen- rích Rơ- mác; lắc đầu chối đây đẩy:
- Thôi thôi, lọ cũng được. Ra ngoài bây giờ phải mặc quần áo, ngại lắm.
Tôi nhắc lại:
- Đi đi, buổi tối hôm nay sẽ có lợi cho nghề nghiệp của anh. Đêm về đọc Rơ mác càng thú.
Vũ Sơn ậm ừ một hồi rồi mới đứng dậy thay quần áo. Lúc anh choàng áo khoác và quấn phu- la xong, Hạnh xuất hiện. Cô khiến cả hai chúng tôi giật nảy lên:
- Các anh chuẩn bị đi đâu thế này?
Tiếng nói cô trầm, hơi khàn vì lạnh. Nó hoàn toàn khác biệt giọng nói trong veo của cô Thúy Hạnh giữa những chậu cảnh tỉnh lỵ Q. Mặt cô gầy hóp, gò má nhô lên, cặp mắt mênh mông, rực lửa như hai ngọn đèn.
Vũ Sơn đáp hối hả:
- Vào đây, vào đây đã…
Anh khép cửa lại cho đỡ lạnh rồi nói thêm: Cậu Nam rủ tôi đi xem thiên hạ nhảy. Chẳng là vô công rồi nghề thì đến đấy cho qua thì giờ. Nhưng cô đến, chúng tôi ở nhà thôi.
Nói rồi, anh kéo cô gái ngồi xuống ghế:
- Cô rửa mặt nhé, nước nóng trong phích đây.
Hạnh lắc đầu:
- Cảm ơn, em đã vào trường thay quần áo và tắm gội. Tàu đến ga từ lúc hai giờ chiều.
Im lặng vài giây, cô nói thêm:
- Các anh cũng đừng băn khoăn, trước khi tới đây em đã ăn no rồi.
Vũ Sơn pha ấm trà mới. Tôi ngồi xuống bên anh, chờ đợi. Cả ba chúng tôi cùng uống trà, không nói gì thêm nữa. Hết tuần trà này tới tuần trà kia, cho tới khi ấm nước khô kiệt. Lúc ây, cô gái bắt đầu nói:
- Anh ấy đã bỏ trốn sau khi gửi cho em mấy dòng chữ báo tin bị biệt phái vào phía Nam. Lúc ấy, đột nhiên em thức tỉnh. Trước kia, em tin anh ấy hơn tin sự thật. Giá anh ấy có bảo: tất cả đồ vật và nhân loại tồn tại trên trái đất này chỉ là những bóng ma, chỉ riêng anh ấy là người, là một sinh linh thật sự có vui buồn, sướng khổ, em cũng sẽ tin điều ấy là chân lý. Nhưng, chính vào lúc nhận được mấy dòng chữ xiên lệch, hốt hoảng ấy, em đã thức tỉnh. Em hiểu mình rơi vào tình thế nào. Suốt ba đêm liền, em đã khóc tới mức không còn mở nổi hai mắt. Có lúc em nghĩ: cứ cho mình mù quách đi lại hay… Nhưng sau đó, em thấy ý nghĩ ấy mù lòa. Em nổi lên ham muốn nhìn thật rõ rành, nhìn đến chân tơ kẽ tóc con người mình đã từng si mê, thờ phụng. Có lần, bố em bảo: Trời sinh cho ta hai con mắt để nhìn, nhưng không phải chỉ một lần là thấy rõ mọi sự… Em nhớ tới câu nói của ông cụ, nhớ tới quãng thời gian cụ đau khổ và hiểu rằng em cũng phải trả giá cho sự thức tỉnh của chính mình. Em xin phép nghỉ, lẳng lặng thu xếp tiền nong, quần áo mua một chiếc vé xe lửa vào Đà Nẵng. Người bạn cùng cơ quan với anh ấy cho em địa chỉ của ban tuyên giáo tỉnh. Anh ta còn vẽ cả sơ đồ phòng làm việc và khu nhà khách. Ở phòng trực, em nói với bà già gác phòng rằng em là em gái của Dương, vào tìm anh đột xuất vì cha ốm nặng khó bề qua khỏi. Từ nhỏ tới lớn, dù khá tinh nhanh và có giọng hát tạm được nhưng em chưa bao giờ đóng kịch vì ghét sân khấu. Nhưng lúc đó, chắc em đóng vai khá đạt nên bà già trực phòng xuýt xoa tỏ vẻ cảm thông rồi dẫn em tới gặp cô quản lý. Cô này khoảng ngoài ba mươi tuổi, nói năng nhẹ nhõm nhưng cứng rắn. Cô ấy chỉ cho em nơi tắm giặt rồi bảo ra phòng khách ngồi chờ. Phòng khách rộng như một hội trường, các dãy ban ghế thênh thang chạy từ đầu nọ tới đầu kia. Không có ai nhưng quạt trần xoay vù vù. Em ngồi ghế, ngủ thiếp đi lúc nào không rõ. Khoảng chừng nửa giờ hoặc một giờ sau, có người đập nhẹ vào vai:
- Nè, dậy đi em.
Cô quản lý phòng cúi nhìn ái ngại:
- Thôi, tôi sẽ phá bỏ nguyên tắc kỳ này. Em vào phòng của anh Dương mà nghỉ tạm. Lát sau, ảnh về tôi sẽ bố trí phòng khác.
Cô ấy giao cho em chiếc chìa khóa lớn bằng đồng, đưa em tới tận cửa phòng số 38. Em đóng chặt cánh cửa, sau khi cảm ơn người đàn bà có giọng nói nhẹ như lông chim. Không còn buồn ngủ chút nào, em tới bàn làm việc, lật giở những tờ báo và những trang bản thảo. Trong đám giấy tờ, em tìm được hai lá thư này…
Hạnh ngừng lời. Cô kéo chiếc túi da roẹt một tiếng từ đầu bàn phía kia lại, mở khóa, rút ra hai tờ giấy rộng khổ, trắng như giấy cuốn thuốc lá, mỗi tờ gập làm tư. Thi sĩ thích dùng loại giấy đó, tôi đã được anh đọc thơ cho nghe vài ba lần, tôi nhớ nét chữ đều đặn, cực kỳ bay bướm cậu anh trên nền giấy lụa vừa mềm vừa trắng. Vũ Sơn mở ra: Hai lá thư được viết cầu kỳ, trang trọng. Lá nào cũng đặc kín từ đầu tới cuối trang giấy. Và thư nào cũng mở đầu bằng dòng chữ Em muôn vàn yêu thương…
Bức thứ nhất như sau: Em muôn vàn yêu thương.
Hạnh của anh, khi em đọc những dòng chữ này chắc anh chỉ còn là bóng dáng vật vờ cậu sự sống. Nguồn sinh lực của đời anh khô cạn kể từ ngày anh đặt chân lên thang máy bay, bay vào vùng đất anh vốn ghét cay ghét đắng. Ở đây vừa nóng vừa hanh thời tiết lạ lùng, con người cằn cỗi. Bất cứ người đàn bà nào gặp trên đường phố cũng khiến anh phải quay mặt đi. Họ đen như những bắp ngô bị nướng sém, và họ khoác những tấm áo màu sặc sỡ như những mụ đàn bà xỏ lỗ mũi châu Phi. Càng nhìn họ, anh càng nhớ em, quý trọng và si mê em. Đời anh may mắn biết chừng nào, hạnh phúc biết chừng nào từ khi ta gặp nhau. Nếu tâm hồn anh, trái tim anh bị khô kiệt, bị cằn lụi đi trong quãng đời chung sống với người đàn bà cay độc và ích kỷ mà anh buộc phải gọi là vợ thì nó đã được tưới mát, hồi sinh lại trong tình yêu cao cả, của em. Những bài thơ anh như con suối đầy ắp. Những ý tưởng mới mẻ, táo bạo, tươi nhuần, dâng tràn như con lũ tràn qua bờ cát… Hạnh yêu thương, có lẽ chính em cũng không biết rằng em đã đem lại cho anh những gì?… Rằng trong anh, em cao lồng lộng như những đền đài linh hiển. Cả tâm hồn và thân xác anh tươi trẻ lại, biến đổi và trở nên thuần khiết trong mối tình ấp ủ của em. Em cho anh hạnh phúc, em còn gánh chịu khổ đau. Tại sao anh không thấu hiểu điều ấy? Anh chịu ơn em, đối với anh, trên cõi đời không có thánh thần tồn tại chỉ duy nhất một vị thần tình yêu đau khổ, đó chính là em. Anh hiểu rằng, dù em có oán trách, sỉ nhục anh vì những đau đớn oan nghiệt em phải chịu, anh vẫn chỉ có quyền yêu thương và thờ phụng em. Lòng khoan dung và vị tha của em còn lớn hơn thánh thần. Hoàn cảnh của chúng ta khắc nghiệt. Muốn tìm đến hạnh phúc, cả anh lẫn em còn phải trải qua một đoạn đường dài đầy thử thách. Đương nhiên, anh biết người chịu phần nặng nhọc hơn chính là em. Nhưng xin em kiên tâm, cho anh đủ thời gian để xóa bỏ cái quá khứ buồn bã và nhơ nhuốc của mình. Phải có thời gian, em thấu hiểu cho anh, vì còn quá nhiều mối dây ràng buộc phải tháo cởi, mà anh vốn là người nhân ái, không thể tàn nhẫn với bất kỳ ai…
Hạnh yêu thương của anh, từ ngày vào đây, hình ảnh em đêm ngày chế ngự anh. Anh đếm từng khắc trôi qua cùng với sự hao mòn thể lực của chính mình. Lúc này, nếu em ở đây chắc em se không nhận được người em yêu trong hình ảnh một bộ xương biết di động. Hãy viết thư cho anh Hạnh nhé, bởi vì chỉ một dòng chữ của em cũng sẽ đem cho anh bao nhiêu niềm vui sống.
Người yêu em hơn cả chính đời mình.
Thanh Dương
Bức thư thứ hai như sau: Em muôn vàn yêu thương.
Từ ngày rời xa em và các con, anh gầy rộc đi vì mất ăn mất ngủ. Tâm trí anh như con thuyền lênh đênh không chèo lái, quay cuồng giữa cơn gió dữ. Nguyệt Nga yêu thương, giờ này em còn giận anh không? Anh xin em, ngàn lần xin em thông cảm và tha thứ. Trong đời người đàn ông, có những khoảnh khắc yếu đuối, những khoảnh khắc ma ám - như các cụ nói từ xưa - và chính lúc ấy họ thường mắc phải những sai lầm. Giống một cơn sốt, một trận say rượu, những tình cảm phù phiếm ấy sẽ qua đi. Dòng đời sẽ cuốn trôi mọi rác rưởi và bèo bọt. Nếu em là đàn ông, em sẽ hiểu rằng đối với họ, vợ cái con cột là ngôi đền linh thiêng nhất mà họ phải thờ phụng, là lâu đài duy nhất mà họ phải tu sửa và xây đắp. Không có thứ nhan sắc nào, không có sự mầu nhiệm nào của đức hạnh lẫn tài trí cuốn hút được người đàn ông rời khỏi ngôi đền linh thiêng, tòa lâu đài bền chặt ấy. Cho dù trong cơn hoảng loạn, họ có ra đi thì sẽ tới giây phút họ quay trở lại, phủ phục trước những bậc thềm, cầu nguyện cho một hạnh phúc êm ấm và trường cửu. Nguyệt Nga ơi, sao em có thể tin rằng anh toan tính bỏ em. Tình chồng vợ của ta lâu dài, hai đứa con ta đẹp như ngà như ngọc, và những mối tương giao khác đã kết chặt cuộc đời của anh và em thành một khối. Không sức mạnh nào chia cắt được? Cho dù Hạnh trẻ tuổi và xinh đẹp hơn em, nhưng người vợ phải là người cầm cân nảy mực trong gia đình mà cô ta vốn tính hoang tàng, sống ngày nay không biết tới ngày mai. Nhiều lần, khi Hạnh thịt gà, anh thấy cô ấy chặt phắt cái đầu và đôi chân ném sọt rác. Người đàn bà như thế khiến anh rùng mình ghê sợ. Không bao giờ anh nghĩ tới chuyện liên kết đời sống với Hạnh bởi cô ấy không phải sinh ra để làm vợ, một người vợ cần cù, tần tảo như em. Anh đã có em rồi, sao anh lại bỏ em như một gã điên khùng bỏ mồi bắt bóng. Nguyệt Nga yêu thương, đừng giày vò anh nữa, hãy tha thứ cho anh. Em hãy là người vợ cao cả và khoan dung của anh, người đã vun đắp sự nghiệp cho anh và ban phát cho anh hai thiên thần xinh đẹp. Dù đi tới đâu, lang bạt tới phương trời nào, anh cũng sẽ trở về neo nghỉ nơi bờ bến của em. Hãy viết thư cho anh Nguyệt Nga nhé, và bảo các con viết thư cho bố chúng nữa. Ở xứ này, không có thư của em và con, anh khô héo từng ngày.
Người chồng mãi mãi của em.
Thanh Dương.
Chúng tôi đọc lần lượt từng lá một, rồi xếp lại như cũ. Vũ Sơn cúi xuống gầm bàn, rút chiếc điếu cày lên, nạp thuốc rít ro ro. Rồi hóp hai má lại, anh thở khói đầy phòng. Một con muỗi đến tới đậu trên tay Vũ Sơn anh ngồi im chờ đợi, khi chú muỗi đã cắm vòi vào chích anh mới giơ tay kia đập bét một tiếng:
- Tiên sư mày!
Chú muỗi đói chết bẹp gí. Vũ Sơn chùi vào quần, rồi ngẩng lên:
- Sau, cậu ta có phát hiện ra việc cô đọc hai lá thư ấy không?
Hạnh gật đầu:
- Có. Năm giờ chiều anh ấy trở về, mặt đỏ lựng và miệng nồng nặc hơi bia. Thấy em ngồi trong phòng, anh ấy giật bắn người như bị điện giật. Rồi anh ấy lấy lại vẻ vui sướng rất mau lẹ, mau lẹ hơn tia chớp rạch qua bầu trời. Lúc đó, người em nổi gai ốc, em muốn khóc, muốn xỉu xuống và chìm vào một giấc ngủ vĩnh viễn. Rồi câu nói của bố em lại vang lên: Sự đời không chỉ nhìn một lần mà thấy được… Tới đó, ý chí tồn tại, lòng ham muốn được nhận biết đời sống mạnh hơn. Em nhìn Dương, thấy anh ấy như một thứ đồ vật mà em có nghĩa vụ phải khám phá cho tường tận, tuồng như cái tủ cần được kiểm tra xem có bao nhiêu lỗ mọt, như căn nhà đã bị hư nát bao nhiêu rường cột, một trái ổi cuối hè bị sâu khoét tới đâu… Ngày trước, bố em vẫn bảo với mọi người: Con Hạnh trán dô, bướng lắm, bướng nhất trong đám con gái họ Lê. Lúc ấy, em hiểu rằng bản tính ương bướng đã giúp em nghị lực để vượt qua đắng cay và tuyệt vọng. Em ghìm giữ nước mắt, mỉm cười và bảo Dương: Em vừa được đọc hai lá thư của anh, hay lắm… Nghe tới đó, Dương xô lại như muốn chụp giữ hai tờ giấy phản phúc. Nhưng khi biết điều đó vô vọng, anh nhún vai nói:
- Em xem cái trò nhảm nhí ấy làm gì? Người ta có thể viết đến một ngàn lá thư như thế mà chẳng có một ý tưởng thật trong đầu. Xưa nay đã có câu: Lời nói gió bay… Ngôn từ cuối cùng vẫn chỉ là ngôn từ đơn thuần và vô giá trị. Điều em cần nghĩ tới là tình yêu của anh, là niềm si mê của anh với em có đích thực hay không?
Lúc đó, em đã nói:
- Cả hai lá đều đích thực: Tình yêu và sự phản bội. Dương bảo em cần phải tha thứ cho anh ấy, vì nếu không có những lời lẽ vuốt ve mơn trớn con quỷ cay độc kia (anh ấy thường gọi bà vợ như vậy) sẽ nổi cơn ghen tuông điên khùng, hành hạ em nhiều hơn nữa. Dương nói rằng chỉ vì em mà anh ấy viết những lời dối trá ghê tởm, người trọng danh dự phải hành động như thế là cực hình. Rằng kẻ đui mù cũng nhận thấy tình yêu và lòng ngưỡng mộ của anh ấy với em: Nào tuổi trẻ, nào nhan sắc, nào đức hạnh và kiến thức… tất cả những phẩm chất ấy không có người đàn bà thứ hai nào trong cõi đời sánh được…
Vũ Sơn bỗng nhiên bật cười khành khạch. Tôi bất giác cũng cười theo mặc dù đang nóng ruột muốn biết câu chuyện tới đâu. Hạnh chờ cho chúng tôi im lặng, kể tiếp:
- Cuối cùng, Dương tuyên bố rằng em đã cố tình không hiểu anh ấy, rằng em đã đẩy anh ấy tới một tình trạng tuyệt vọng không thể cứu gỡ: Thà cô cho tôi một liều thuốc ngủ vĩnh viễn còn hơn…
Vũ Sơn tủm tỉm cười:
- Lúc ấy, cô nói sao?
Hạnh đáp:
- Lúc đó, em điềm nhiên đáp: Em sẵn sàng giúp anh và móc trong túi gói thuốc độc bảng Anh đủ cho hai người chìm vào giấc ngủ ngàn năm. Kỳ thực, đã có lúc em định dùng tới nó, trong những đêm mất ngủ ở khu nội trú. Nhìn thấy gói thuốc, mặt Dương tái xanh. Anh ấy bảo: Tôi cần viết thư vĩnh biệt hai con trai tôi, chúng là những đứa trẻ vô tội. Em đáp: Hãy viết đi, em chờ anh. Và em ngồi chờ, gói thuốc trong tay…
- Khá thật…
Vũ Sơn bật kêu to và anh làm một cử chỉ đường đột mà tôi không ngờ: ôm đầu Hạnh, anh ghì vào ngực mình, kiểu như một người anh trai âu yếm cô em út.
- Cô khá hơn tôi tưởng. Anh nói thêm.
Tôi sốt ruột bảo Vũ Sơn:
- Lặng im đã. Rồi chuyện ra sao?
Hạnh kể tiếp:
- Viết thư xong, Dương đưa cho em đọc và anh ấy gục đầu xuống bàn, nức nở. Giá như trước đây, chắc chắn những giọt nước mắt ấy sẽ nhỏ vào tâm hồn em như những giọt cường toan. Nhưng lúc đó, trái tim em trơ lì, chai cứng tựa một mảnh da thuộc phơi khô. Những giọt nước mắt của Dương rơi xuống như những giọt mưa vuột qua lá khoai sọ, không mảy may dấu vết. Em đọc lá thư dài, sướt mướt, đau khổ. Những câu chữ đối với em vô giá trị vì chúng đã bị hủy hoại, chúng chỉ còn là một chút mực khô trên lớp giấy mỏng, vô hồn. Đọc xong, em trả cho Dương: Thư anh viết xúc động đấy, em sẽ đưa tận tay con trai lớn của anh. Và rồi, em tới bên bày tự tay rót đầy một cốc nước: Bây giờ, anh hãy uống đi…
Hạnh ngừng lại, cô chìa tay ra hiệu bảo tôi rót cho cô một chén nước. Sau khi uống cạn chén nước ấy, cô bật hỏi:
- Em đố các anh, Dương đã làm gì?
Tôi lắc đầu, còn Vũ Sơn lại cất tiếng cười khành khạch. Rồi anh nạp mồi thuốc lào, hút ro ro. Đám khói mù mịt mà anh phả ra khiến cả hai chúng tôi đều ngộp thở. Hạnh cất tiếng ho trước tôi sau. Dăm phút sau, làn khói tan loãng, không khí trong phòng trở lại bình thường, Hạnh kể tiếp:
- Dương òa khóc, vừa đấm ngực vừa nói: Đời sống đối với tôi chẳng có giá trị gì. Tất cả đã chấm hết. Nhưng còn thơ ca, sự nghiệp của tôi, tôi không thể từ bỏ nó. Ba nhà xuất bản đang in thơ tôi, giải thưởng thơ quốc gia năm nay sẽ không rơi vào tay ai khác ngoài thi sĩ Thanh Dương, lá cờ đầu của phong trào thơ trẻ sẽ không còn ai cầm giữ nếu tôi từ bỏ… Không, tôi không thể tìm cho một lối thoát nhẹ nhàng mà phải nghĩ tới sự nghiệp chung. Một nghệ sĩ đích thực không được quyền sống ích kỷ.
Vũ Sơn hỏi:
- Lúc ấy, cô nói sao?
Hạnh đáp:
- Em đã phá lên cười, cười sặc sụa như một con điên…
Nói tới đó, nước mắt cô bỗng tràn qua mi ròng ròng chảy. Gương mặt cô, luôn giữ vẻ rắn rỏi giờ đau đớn, nhợt nhạt xen lẫn nét ngơ ngác chỉ có được ở những con người chưa hết dò tìm đời sống. Những cơn nức nở ập tới, mỗi lúc mỗi dồn dập. Lời nói của người con gái bị ngắt ra từng đoạn ngắn, lộn xộn và rối loạn:
- Em không ngờ… Không ngờ được… Giá như anh ấy đủ can đảm uống thuốc, chắc chắn không ai nỡ để cho anh ấy chết. Em sẽ còn giữ lại được lòng tin và sự quý trọng… Nhưng anh ấy đã quá…
Vũ Sơn cất tiếng quát:
- Thôi đi, đừng khóc nữa. Nó đã đóng trò, thì nó phải biết hạ màn đúng chỗ. Dại gì đổi mạng sống để thêm vào một lớp tuồng hay. Hóa ra cô vẫn là đồ ngớ ngẩn… Nhưng này…
Anh vỗ vai Hạnh, nâng gương mặt đầm đìa nước mắt của cô lên:
- Đừng buồn. Cô phải cảm ơn Dương vì nhờ cậy ấy, cô có thêm một kinh nghiệm lý thú trong đời sống. Vì nhờ tình yêu của cậu ấy, cô đã từ bỏ tỉnh lỵ trở lại trường y theo học. Cần phải công bằng với mọi giá trị lịch sử. Hãy coi cậu ấy như một chất xúc tác để sự va đập giữa cô với đời sống xảy ra mau lẹ hơn, mạnh mẽ hơn. Không một cá nhân nào đủ cho ta thất vọng cả, cô bé ạ. Bởi vì đời sống là một toàn thể hùng vĩ, luôn chuyển động và tự hoàn thiện trong từng phút, từng giờ. Cần phải biết đêm đen tới đâu để hưởng thụ được mỗi tia mặt trời rọi trên mặt đất. Cần phải biết cái phần tăm tối của con người để xây dựng một nhân cách bền chặt trong cõi đời… Đừng có khóc, tôi muốn cô phải cười, cô bé tỉnh lỵ, cười lên…
° ° °
Mùa đông ấy có những trận rét ghê người, giá lạnh lùa vào tận ống xương. Ai cũng cố kiếm một tấm áo bông hóa học trần hoặc một chiếc áo bông Đức. Mốt quần ống loe, ống vẩy đã qua từ lâu và giờ đây trên phố phường người ta thấy đám trai gái mới lớn đi lại thoăn thoắt, quần bó chặt lấy bắp chân, giày lót bông hoặc mút sặc sỡ như quả còn của dân Tày ngày Tết. Sau những trận rét liên miên, chợt một ngày nắng hửng. Đất đai, cây cỏ và con đường như ngất ngây trong làn không khí êm dịu, hoe hoe ánh mặt trời.
Vào ngày ấy, Vũ Sơn đã đến tìm tôi:
- Có bận gì không?
Tôi đáp:
- Bận, nhưng vẫn đi chơi với anh được.
Vũ Sơn bảo:
- Ta đi.
Trong tiết trời hanh, da dẻ nhăn lại, trông anh già hơn ngày tôi gặp anh đến dăm tuổi. Chúng tôi đạp xe chầm chậm quanh hồ, rồi theo Hàng Đào, hàng Ngang thẳng lên cầu Long Biên. Anh bảo tôi:
- Lâu lắm chưa về Q.
Tôi đáp:
- Vâng, nghĩ tới đường sá cũng ngại.
Hai chúng tôi im lặng. Tôi đoán rằng hẳn cũng như tôi anh đang nghĩ tới dãy phố ven sông mưa sùi sụt, bến đò chìm dưới làn nước trắng không chút hy vọng, không bóng người. Lúc sau, Vũ Sơn thở dài:
- Dẫu sao cũng là quê hương. Tuần sau ta về chứ cậu?
Tôi đáp:
- Vâng.
Chúng tôi đạp xe qua cầu sang bờ sông bên kia, rồi dắt xe men theo đê ngược lên. Con sông trải trước mắt chúng tôi màu hồng xao xuyến. Những cánh buồm như tách ra khỏi chân trời, liệng từng cánh bướm huyền hoặc xuống làn nước phù sa. Các lưỡi cát, các bờ cây tươi thắm lại trong nắng. Búi cỏ giập nát bên đường vươn dậy những chiếc lá nhọn như kim. Giữa các bụi trứng ếch nửa nổi nửa chìm còn mắc lại từng đám xác vờ trắng - dấu vết sự hủy diệt, tái tạo và tăng trưởng của cõi đời. Dưới chân tôi, cát mịn và ấm. Bên tôi, Vũ Sơn lẳng lặng bước. Tới khúc sông vắng, anh dừng lại, bảo:
- Ta tắm đi.
Tôi còn ngại ngần chưa kịp đáp, anh đã xô chiếc xe đạp xuống cởi áo quần. Rồi, trần truồng như đứa bé sơ sinh, anh nhào xuống nước, vừa bời vừa hét lên. Tôi sửng sốt nhìn anh, con người tôi đã biết lâu nay dường như biến mất, thay vào đó là một đứa trẻ vô tư, nghịch ngợm, hòa nhập với ánh nắng, khí trời và dòng sông một cách mãn nguyện như chính cây cỏ, nước nôi.
- Kìa, xuống đi…
Anh giơ tay vẫy tôi rồi nhắm mắt nhào đầu xuống như một con nhái bén. Khi tôi bơi ra khỏi bờ chừng vài chục mét, anh đã nhoi từ giữa dòng lên, vừa thốt ra một tiếng kêu hoàn toàn vô nghĩa anh vừa vuốt nước trên mặt. Sau hồi lâu ngụp lặn, chúng tôi lên bờ phơi nắng.
- Chưa bao giờ tôi sung sướng như buổi sáng hôm nay…
Vũ Sơn bảo tôi, khi anh nằm úp xuống cát. Chưa bao giờ tôi thấy con người tự do và trong sạch như khi đằm mình vào dòng nước, không quần áo che đậy, không có gì ràng trói và ngụy trang. Đã từ lâu, tôi bị ám ảnh bởi một giấc mơ mà không nhớ rõ hình ảnh. Nhưng nó đi về trong tôi như một tiếng kêu, một lời nhắc nhở, một điệp khúc quen thuộc của bài hát… Hôm nay tôi đọc được rồi…
Anh ngừng lại. Tấm lưng anh phập phồng. Vì anh quay mặt đi nên tôi chỉ nhìn thấy đám tóc ướt sau gáy và những vết sẹo lấm tấm trên vai anh, vết nào cũng bóng loáng như bôi mỡ. Vô tình, tôi đưa tay sờ lên chúng. Vũ Sơn nói:
- Đó là những vết thương trong chiến dịch đường Nam Lào… Này Nam, cậu có biết khát vọng nào lớn nhất trong con người không?… Đó không phải giấc mơ về quyền lực, danh tiếng, tiền bạc hay tình ái… Đó là khát vọng được sống trong sạch và hồn nhiên, như đứa bé trần truồng giữa dòng nước, như cây cỏ đắm mình giữa ánh sáng, khí trời. Đó là giấc mơ bền chặt nhất, đó là khát vọng giàu nhân tính nhất của cõi đời…
Anh đưa tay bứt một lá cỏ non, nhấm nháp.
Tôi im lặng nhìn anh, tràn ngập niềm yêu mến. Cảm xúc ấy khiến trái tim tôi mềm dịu và bình ổn, tựa một thung lũng cô đơn tràn ngập nắng thu.
Hà Nội tháng 11 năm 1986
Thời sự làng tôi
I
- Này, vừa rồi anh có nghe đài không?
Mẹ tôi hỏi với vẻ mặt nghiêm trọng. Tôi đâm hoảng. Chắc lại có ông to to nào vừa mới chết chăng? Hay là có chuyện gì?
- À, là đài nói về làng mình. Thế mà nhà mình lại không biết để mở nghe mới tiếc chứ. Chẳng biết cô nhà báo kể những chuyện gì mà hay lắm.
- Sao u biết?
- Thì ông Chích nói mà. Ông ấy bảo chị mày cũng được nêu tên lên đài đấy. Chị mày là người đầu tiên đặt vòng cai đẻ ở cái làng này. Một con cũng cai. Ông Chích đã thực mục sở thị...
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thế ra ông Chích vẫn chẳng khác gì ngày xưa. Ông là chủ tịch xã. Người thông tỏ mọi chuyện. Đi đâu ông cũng đeo bên hông cái đài National mở to hết cỡ. Bây giờ ở các làng quê, không còn ai đeo đài đi họp hay đi ăn cỗ nữa. Nhưng ông vẫn không bỏ thói quen ấy. Cứ nghe tiếng nhạc bập bõm từ xa, chẳng cần ngó ra, người ta cũng biết là ông chủ tịch. Gặp chuyện gì đó lạ tai mà ông chưa biết, lập tức ông sẽ hỏi: “Thế đài có nói như vậy không?” Và nếu biết chỉ là chuyện nghe láo quáo ở đâu đó, ông sẽ phẩy tay: “Coi chừng, không khéo lại tuyên truyền không công cho địch rồi!”
- Ông Chích dạo này thế nào, u?
- Mất chức rồi! - Mẹ tôi chép miệng. - Chẳng biết vừa rồi bầu bán làm sao lại không trúng chân đảng ủy. Ôi dào, quan nhất thời, dân vạn đại. Các cụ nói cấm có sai tý nào. Hôm nọ, bố mày rủ đi đóng gạch thuê cho nhà Dụng. Một buổi đóng gạch thuê bằng mười buổi theo đít trâu. Ông ấy chả chịu: “Chủ tịch xã lại đi đóng gạch thuê cho cái con mẹ phe phẩy ấy à?” Thế là ông ấy giận bố mày, cho là bố mày nói kháy, nói xỏ xiên. Rõ khổ, gần hai chục năm nay, ông ấy quen làm chủ tịch rồi, bây giờ không xuống làm dân được nữa!
Rồi mẹ tôi tỉ mẩn căn dặn tôi từng cách ứng xử với bà con thôn xóm, tựa như tôi là kẻ xa lạ đâu đó mới về làm khách làng này. Chả là dạo nọ, có một cô nhà báo ở trên Trung ương về đây công tác. Cô trọ ngay trong nhà tôi. Cứ như lời mấy bà thợ cấy thì đó là một cô gái phốp pháp. Tóc ốp. Váy ngắn cũn cỡn như váy búp-bê. Cặp đùi trắng nõn như ngó cần. Trông cứ rợn cả người. Giữa ban ngày mà mặt trát bự phấn, nom cứ như con nhà thổ. Đã thế lại khinh người, coi người như cỏ rác. Ai lại đi ra đường, người qua kẻ lại nườm nượp là thế mà cấm có chịu chào hỏi ai lấy một câu. Vợ Cối nó cứ dùi đục chấm mắm cáy, nó nói bộp vào mặt: “Gớm chửa, giời chưa mưa mà ếch nhái đã nhảy ra đường rồi!”.
Mẹ tôi quá lo xa chứ tôi đâu đã được là người hàng tỉnh như thế. Bao nhiêu năm ăn hạt gạo làng này, ngấm nắng mưa làng này, tôi khác gì hòn đất ải? Có cho vào cối đá mà trệu thì cũng vẫn là cái anh nông dân làng Cát Xuyên, chẳng thể khác được. Những năm đi xa, mỗi khi nhớ về quê nhà, trong tâm trí tôi lại thoáng hiện lên một làng quê cũ kĩ với những căn nhà gianh thấp tè, lụp xụp và ẩm mốc. Mái rạ mỏng dính rụng đầy lá tre khô. Những mảnh ao bèo xanh đặc, sau mỗi đêm mưa rào, lại lủng lẳng treo những tổ bọ ngoáp trắng nhễu. Rồi vườn rau, vườn đỗ nhấp nhố những thằng bù nhìn rơm, trông thật chẳng ra người mà cũng ngật ngưỡng mũ áo, tay lại còn lúc lắc cái cờ tre buộc phất phơ mấy dảnh lá chuối.
Đã nhiều năm như thế trôi qua.
Về phép lần này, tôi ngạc nhiên quá. Không tìm đâu ra dấu vết quen thuộc ấy. Một cái làng khác hẳn. Nếu không có những người thân thuộc gọi tên tôi, tên cúng cơm, thì tôi đã tưởng mình bước nhầm vào một cái thị trấn nửa quê nửa tỉnh nào đó. Con đường vào làng trải nhựa đen láng. Còn mái ngói thì cứ san sát. Có bói cũng chả tìm ra được mái nhà gianh. Nhà bà Dụng chuyên bán bánh đúc lạc vượt lên đến ba tầng. Trên nóc lại ngất nghểu cái cuốn thư. Xung quanh có hình rồng chầu, phượng múa. Nom cứ rờn rợn như cái miếu thờ ông thần đất. Còn sàn sàn là nhà hai tầng. Nghèo kiết đến như bà Vầu mà cũng có nhà ngói. Nhà bà một gian, hẹp vanh vánh, nhưng cũng cố cao vượt lên, chẳng kém gì các nhà khác, nên cứ chon von như cái tháp chuông nhà thờ. Bà Vầu chồng chết sớm. Có mỗi cô con gái thì lại lấy chồng thị xã. Con gái chèo kéo mãi, bà mới qua thăm con. Rồi chỉ được vài ba ngày, bà lại bỏ về quê. Cứ như lời bà thì phố xá toàn một lũ điêu chác và lười nhác. Suốt ngày chẳng thấy chúng làm gì, chỉ đi nhông nhông, đi đặc cả đường. Vào rạp chớp bóng, vừa đứng dậy, cái ghế đã thủng một lỗ toang hoác. Rõ ra lũ thợ mộc ăn bớt gỗ chứ còn gì nữa. Mà phim ảnh cũng chẳng ra cái quái gì. Người cứ đi nhoàng nhoàng như ma, chưa kịp nhìn rõ mặt đã biến mất, hàm răng thì to vều như nải chuối hột, đâu có được nết na như mấy cô hát chèo của làng mình. Nhưng cái điều bà ớn nhất, kinh tởm nhất là dân phố xá nó không có tình cảm. Nhà nọ giáp nhà kia mà nó cũng chẳng biết tên nhau. Bên này có người chết, bên kia nó mở nhạc xập xình. Thế thì làm sao mà sống được hả giời. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. ở với cái lũ bất nhân ấy thì rồi bụt cũng thành ma hết. Bà bỏ về quê, sống một mình, lui cui trong xó nhà dột nát, rúm ró. Chiều nào người ta cũng thấy bà thơ thẩn bòn kiếm rau má về nấu canh. Thế rồi đùng một cái, chẳng biết bằng cách nào, bà cũng vật lên được cái nhà ngói cao ngất nghểu. Có người bảo bà bắt được vàng. Giời thương người nghèo, giời cho của đấy. Nhưng trông tấm thân ngày một tàn lụi của bà, người ta lại nghi hoặc. Hình như không phải thế. Chỉ có mẹ tôi biết được bí mật của bà. Bà đã nhờ mẹ tôi bán giùm số bạc trắng bà tích cóp từ thời vua Bảo Đại. Thêm vào đó là số tiền thỉnh thoảng con gái lại dấm dúi đưa cho. Nhiều lần nhà có canh cua hay riêu cá, mẹ tôi bưng sang cho bà, có hôm thấy trên mâm cơm của bà chỉ chỏng chơ một bát rau chuối chấm tương. Mẹ tôi ái ngại: “Có đồng nào cụ cứ để mà ăn, xây xáo làm gì, khi chết có mang được nhà cửa theo đâu”. Bà chép miệng: “Ôi dào! Miệng ăn núi lở. Có xây mới được căn nhà. Tôi chả ở thì con cái Tre nó về nó ở. Rồi chúng nó cũng phải về quê mà hương khói tôi chứ. ở làm sao mãi được trên phố xá. Với lại, bà thấy đấy, xung quanh người ta xây cất ầm ầm cả. Mình lúi xúi quá, bệ rạc quá, người ta cũng khinh cho”.
Người nhà quê có thể chịu được khổ, chịu được đói, nhưng không ai chịu được nhục, nhất là khi có ai đó lại tỏ vẻ khinh miệt mình. Làng cuốn vào cơn lốc nhà cửa. Gia đình nào không mua được gạch của nhà nước, thì họ tự làm. Những mảnh sân, mảnh vườn đột ngột đùn lên những lò gạch tự tạo. Mỗi nhà một lò gạch. Trên nóc làng lúc nào cũng âm u, quánh đặc những khói. Mấy tháng trời liền như thế. Làng cứ cháy âm ỉ. Hoa trái rụng hết vì ám khói lò gạch. Những cây lưu niên từng coi khinh gió bão, giờ cũng táp lá, vàng ệch ra. Cây cối thì xơ xác cằn cỗi, nhưng mặt đất lại tươi mởn những bóng nhà ngói. Một cuộc đua chen ngấm ngầm nhưng vô cùng quyết liệt. Gần đây, trên một vài nóc nhà đã chấp chới mọc lên những cây cột ăng-ten vô tuyến truyền hình. Nghe nói là năm sau, hay muộn lắm là năm sau nữa, làng sẽ có điện. ống khói nhà máy nhiệt điện Phả Lại đã chọc lên khỏi luỹ tre làng xa kia rồi. ống khói đã nhả khói rồi. Ai cũng nhìn thấy thế cả. Trong khi chờ điện, những cái cột ăng-ten cũng được tận dụng làm thêm một số việc khác nữa: Người ta vắt lên đó những tấm áo trẻ con, những cái khăn mặt hay có khi treo lủng lẳng những xu-chiêng xanh đỏ. Chưa bao giờ làng tôi lại xuất hiện những cái dây phơi hiện đại như thế!
Căn nhà tôi ở xây từ năm 1972. Bây giờ thì nó quá cũ kỹ rồi. Đập ra xây lại cũng dở. Bố mẹ tôi đành vẩy lên cái mái bằng, cốt có chỗ phơi thóc. Phơi trên ấy được nắng, lại đỡ cớm cây. Dưới kia, cái sân cũ cũng được nới thêm đến mấy hàng gạch. Giữa sân lại dựng thêm một hòn núi giả. Có chỗ để cây quỳnh, cành giao. Cứ hai, ba ngày, bố tôi lại quát lũ cháu múc nước giếng giội để tẩy cứt gà sáp.
Về nhà rồi, tôi vẫn cứ chung chiêng, chống chếnh như cái anh khách trọ. Riêng bữa cơm thì vẫn quen thuộc như xưa, dường như không thay đổi. Một đĩa cà pháo. Một bát rau muống luộc. Có tôi về, mâm cơm thêm đĩa châu chấu rang với lá chanh.
- Nhà ta ăn thế này là hoang nhất làng đấy, con ạ!
Mẹ tôi nói, rồi lấy tay quài lọ mì chính cho thêm vào liễn nước rau đã giằm mấy quả dọc. Người nhà quê ít chú ý đến ăn uống. Trừ ba ngày Tết và những buổi giỗ chạp. Còn ngày thường, ăn thế nào xong thôi. Thức ăn, cốt chỉ để đưa miếng cơm qua khỏi cửa miệng.
Bữa cơm kết thúc một cách chóng vánh. Tôi chiêu qua ngụm nước, rồi vào nhà trong, định chợp mắt đôi chút. Tôi vừa thiu thiu thì chợt bừng dậy, rồi không sao ngủ lại được nữa. Không phải nóng nực hay có ai đó cãi vã. Một âm thanh rất lạ uồm uồm, oàm oàm cất lên ở đầu làng, ở cuối làng, rồi dậy vang khắp bốn phía. Tôi nằm ngẩn ra, rồi lại ngồi dậy, định thần một lúc mới nhận ra tiếng sáo diều. Tiếng sáo mới lạ chứ. Hồi tôi còn chơi diều, chúng tôi thường làm màng. Màng chuốt bằng tơ bí. Diều đứa nào sang lắm mới có sáo. Tiếng sáo cũng chỉ đo đo, mảnh mướt, mơ hồ như tiếng vọng ở đâu đó phất lại... Còn tiếng sáo diều bây giờ vạm vỡ quá, cứ uồm uồm oàm oàm như phát ra từ một cái chum lớn.
- Anh đi đâu đấy? - Mẹ tôi hỏi khi thấy tôi với cái áo khoác. - Đợi tí nữa mát hẳn hẵng đi có được không. Nắng chang chang thế này.
- Con đi xin cái dấu công tác!
- À, thế thì qua nhà Đao bảo nó đóng cho.
Đao là chủ tịch xã. Anh mới thay ông Chích khoá này. Theo mẹ tôi cho biết thì cái trụ sở ủy ban xã bây giờ đã xếp đầy gạch mộc. Cần hội ý, họp hành, người ta kéo nhau ra hội trường. Hàng tuần cứ vào các ngày thứ ba, thứ năm - ngày trực của ủy ban - thì Đao làm ngay tại nhà. Còn các ngày khác tìm anh ngoài đồng, hay trại chăn nuôi. Con dấu nằm ngay trong túi áo đại cán. Để dấu ở nhà, lũ trẻ thường hay đóng bậy vào sách vở. Cứ gặp được Đao là xong. Đao có thể làm việc “dã chiến” ngay trên bờ ruộng, hoặc trong quán nước. Chỉ cần kê mảnh giấy lên đùi là xong việc rồi. Người nhận giấy gửi lại anh hai ngàn đồng gọi là tiền ấn phẩm. Có buổi lấy dấu, Đao lôi ra cả một đống bật lửa. Sờ khắp mới biết túi nào cũng lóc xóc bật lửa. Chẳng biết của những nhà ai. Thông thường hút thuốc lào, cứ tiện tay, Đao lại nhét bật lửa vào túi. Mấy ngày sau, anh lại cho con rao hỏi xem có ai mất để mang trả.
Nhà Đao ở đầu làng. Một căn nhà ngói ba gian, vào loại thường thường bậc trung, không có gì nổi bật. Căn nhà do vợ Đao xây từ ngày anh còn ở chiến trường. Đao chỉ hơn tôi vài ba tuổi. Hồi nhỏ, anh được bọn tôi kính nể vì tài làm súng đốp. Nhữngđêm nguyệt thực, khi làng rộn lên những tiếng gõ cột, gõ thúng mẹt, nong nia, hay chậu thau thủng để cứu ông trăng, thì anh lại kéo tôi lẻn sang nhà lão Cối, chặt trộm cần câu trúc. Anh bảo chặt cần câu lúc “gấu ăn trăng” sát cá lắm. Rồi chưa kịp kiếm được con cá nào bằng cái cần câu sát cá ấy, anh đột ngột cưới vợ để đi bộ đội. Bốn năm sau, anh trở về với vết thương ở vai. Trông anh chững chạc hẳn. Người ta bổ sung anh vào tổ thông tin xã. Chiều nào anh cũng giắt cái loa pin ở lưng, leo lên đỉnh ngọn thị nhà lão Cối, a lô các tin chiến thắng. Sau bản tin, bao giờ anh cũng kết thúc bằng bài cải lương hay có khi cả một đoạn tích chèo “Quan Âm Thị Kính”. Còn khi làng có đám cưới, thì Đao không thể không có mặt. Đám cưới nào, người ta cũng mời anh làm chủ hôn. Anh vừa cầm cái mi-crô là cả rạp đang ầm ĩ là thế bỗng im tăm tắp. Nhiều người lại cứ tưởng là đám cưới thuê được anh chủ hôn ở đâu đó, chứ không dám tin đó là anh Đao, con ông phó cối làng mình. Đầu tiên, thế nào anh cũng yêu cầu quan viên hai họ tặng cô dâu chú rể một tràng pháo tay. “Hỏng, hỏng. Làm lại nào. Tôi ra hiệu đụp, bà con hẵng đụp nhé. Tôi chưa ra hiệu sao bà con đã vội đụp rồi. Chỉ được cái ăn cơm trước kẻng”. Rồi anh vẫy bên phải, vẫy bên trái, vẫy đều cả hai bên. Tiếng vỗ tay ào lên như sóng. Còn anh thì quay cuồng như con chim cánh cụt, vừa từ dưới biển lên, đang vẩy cánh cho khô. Mấy bà thợ cấy nắc nỏm: “Gớm cái thằng xuya thật. Nó nói đến kiến trong lỗ cũng phải bò ra!”
- Bố cháu có nhà không?
Tôi hỏi thằng bé đang cặm cụi băm rau chuối cho lợn ở góc sân.
- Bố cháu đi thả diều rồi!
- Sao lại thả diều? - Tôi ngạc nhiên. - Chú hỏi bố cháu kia mà, bố Đao ấy.
Tôi phải nói kỹ hơn vì sợ thằng bé nghe nhầm. Nhưng khi biết thằng bé không nhầm thì tôi ngớ ra.
- Vâng, bố cháu đi thả diều thật mà. Chú biết không, diều ở đây thả không được. Nó vướng vào cây. Phải thả ở cổng đồng rồi mới dong nó về. Tý nữa bố cháu về đấy.
Thằng bé chùi chùi hai bàn tay ướt át dính đầy rau chuối vào cái quần đùi bết đất đang mặc, rồi chạy vù vào bếp, bưng lên siêu nước vối, rót la liệt ra các cốc. Dường như cậu chủ nhà bé bỏng này đã quen với việc tiếp khách cho bố như thế này rồi.
- Đấy, diều của bố cháu đấy. - Thằng bé nghiêng tai, vẻ thông thạo - Tiếng sáo uôm uôm là diều bố cháu. Còn tiếng đô đô là diều bác Cối.
- Thế cháu học lớp mấy rồi?
- Lớp hai cô giáo Cúc.
- Sao cháu không thả diều, mà lại bắt bố cháu thả?
- Ứ! Cháu mà lại thả được? Diều bố cháu to lắm í. Có hôm nó còn kéo lê bố cháu xuống ruộng cơ. Thế chú có diều không?
Không biết cuộc đối thoại như vậy sẽ còn kéo dài thêm bao lâu nữa, nếu không có tiếng ông Hội ho húng hắng ở bên kia bờ rào râm bụt.
- Ai như anh Khoa ở bên ấy hẳn?
- Vâng! Chào bác! - Tôi nói với sang.
- ồ, hay quá! Anh sang bên này uống nước cho lão nhờ một tí. - Ông cụ vội vã mở cổng cho tôi. - Trưa nay, bà cụ nhà anh có sang cho gói chè, bảo là anh mới về. Tôi định sang hỏi anh tình hình thế giới. Nghe ông Chích nói thì căng lắm hở? Lại đánh nhau hở?
Ông cụ tăm tắp bước lên trước. Tôi lặng lẽ theo sau. Trên chiếc sân vôi đã râm vát quá nửa vì bóng nhà hắt xuống, một chiếc diều đồ sộ đang lên khung. Cái diều dài đến chục mét. Tôi không thể hình dung người ta sẽ thả nó như thế nào?
- Diều nhà Chát đấy! Nó mới đặt tôi chiều qua. Mà thôi, anh vào đây đã. Tôi muốn nhờ anh xem hộ cái quạt điện.
Tôi giãy nảy:
- ấy chết, gì chứ quạt điện thì cháu chịu. Đồ điện cháu dốt lắm!
- ối dào! Anh cứ nghiêm tốn thế...! Anh ở trên Trung ương, cái gì mà anh chả biết cơ chứ!
Tôi ngạc nhiên:
- Nhưng làng mình đã có điện đâu mà cụ mua quạt?
- Thì anh tính, nhà mái bằng như thế này mà không treo cái quạt điện thì làm sao còn ra cái hồn nhà!
Ông cụ nói quả không sai. Cái quạt có tôn căn nhà lên thật. Trông sang hẳn. Nếu không có đôi câu đối chữ Nho mạ vàng, dựng một cách tôn nghiêm ở hai bên gian giữa, tôi đã tưởng mình đang ngồi trong một căn nhà nào đó ở Hà Nội. Cái quạt điện treo trên trần nhà. Trông đẹp và ngay ngắn rồi. Nhưng hai sợi dây điện lẽ ra nên giấu vào trong tường, thì lại phơi ra, chăng lô lố trước mặt. Hai sợi dây uốn lên, vòng xuống một hồi mới tới công-tắc. Chiếc công-tắc cũng mới, bóng loáng chẳng kém gì cái quạt điện. Chứng tỏ nó luôn được chủ nhà lau chùi cẩn thận. Chỉ có hai sợi dây là chối, lại to nhỏ không đều. Cần phải thay đi. Tôi định góp ý với chủ nhà thế. Thì còn biết nói gì hơn nữa? Kiểm tra quạt điện mà lại không có điện. Nếu bạn ở địa vị tôi, bạn sẽ xử lý thế nào? Còn tôi, tôi thấy dứt khoát phải thay cái dây điện. Nhưng chủ nhà thì dường như không quan tâm đến điều ấy. Và thật bất ngờ, ông cụ với cái đòn gánh dựng ghệch bên cửa sổ. Tôi hoảng hốt lùi lại. Chả lẽ ông cụ phang mình ư? Thật hú vía!.. Thế rồi thoắt cái, ông cụ đưa đòn gánh lên quay cánh quạt một vòng. Cái quạt chạy loang loáng.
- Anh thấy sao? Được chứ?
Ông Hội co cả hai chân lên chiếc sa-lông đánh véc-ni bóng loáng, rồi ngả người về phía sau, ngửa mặt lên trần nhà, bắt đầu bình phẩm. Theo lời ông thì cái quạt này tốt lắm. Quay rất lâu và dừng lại từ từ. ấy là ông còn chưa tra dầu mỡ. Bộ cánh của Sài Gòn, nhưng máy móc bên trong đều ngoại cả. Nhãn hiệu National hẳn hoi. Tôi chỉ còn biết gật gù đế theo. Rút cuộc, suốt cả buổi xem quạt, tôi không phải bình luận, đánh giá gì cả, mà chỉ lặng lẽ nghe chủ nhà bình phẩm. Xong chuyện quạt rồi, ông Hội quay ra chuyện thời thế.
- Đấy, anh thấy đấy. Rõ ràng là đời sống đang lên. Anh công nhận với tôi không nào? Lên là cái chắc. Thế mà có thằng cứ nhắm mắt nói liều rằng đời sống đang thế này thế nọ. Nói láo. Thằng con trai tôi cũng một giuộc như thế mới đau chứ. Hôm qua nó vừa mở mồm là tôi chặn họng ngay. Mà nếu nó còn cứng cổ nữa thì tôi vác đòn càn, tôi xêu ra cổng!
Ông Hội nhắp một ngụm trà, giọng dịu xuống:
- Anh còn nhớ dạo sáu mốt (1961) không? Năm sáu mốt tiếng là no ấm, là phồn thịnh chứ gì? Nhưng mà có gì nào? Cả làng mỗi ông Chích nhà ngói cây mít. Mới thế mà dân làng đã xì xào rồi. Mà thử hỏi, cái nhà ấy bây giờ có bằng cái xó bếp nhà anh không? Có mà bằng cái chuồng lợn! Dạo ấy, nhà anh có mỗi cái màn nhuộm vỏ xó thâm xỉn chứ gì? Nhà tôi lại không có nổi màn nữa kia. Tối nào bà lão nhà tôi cũng phải ra vườn bứt lá mía về khua muỗi. Khua khắp các xó xỉnh. Khổ thật. Vạn sự khởi đầu nan mà. à này, mà cái dạo tôi còn làm đội trưởng, không biết anh còn ở nhà hay đã đi rồi nhỉ?
- Còn chứ! Hồi ấy, con nhớ cụ có cái kẻng...
- Ờ, ờ đúng. Anh này nhớ dai thật đấy!
Gương mặt ông Hội rạng rỡ hẳn lên. Lúc này trông ông thật trẻ trung. Mà nhìn kỹ, ông cũng còn trẻ thật. Mái tóc tuy có bạc, nhưng da vẫn căng đầy, đỏ au. Ông đội trưởng Hội dạo ấy quả có hơn người cái kẻng. Cái kẻng mới sang chứ. Cả làng trên xã dưới cũng chẳng ai có. Tôi còn nhớ cái lúc nó xuất hiện. Buổi sáng, ông đội trưởng kéo xe bò lúa lên tỉnh. Buổi chiều, ông lôi về cả một cái vỏ bom còn mới toanh. Không biết ông đổi cho cơ quan nào đó ở thị xã. Thoạt đầu, ông treo nó ở chạc xoan. Nhưng lũ trẻ ranh mất dạy đi qua cứ thục gậy gộc vào. Kẻng mà lúc nào cũng kêu beng beng thì còn gì là kẻng nữa. Ông bèn treo cao tít lên ngọn sung. Cây sung này nghe đồn một dạo có ma. Không biết từ đời nào, người ta đã yểm dưới gốc nó một con chó đá, để xua đi cái tà khí. Con chó đá mẻ mõm, bề ngoài trông xấu xí, nhưng mà thiêng lắm. Có đêm nó biến thành cô gái đội nón ba tầm. Chính lão Cối đã tận mắt nhìn thấy đôi ba lần vào những đêm mưa phùn gió bấc, khi lão đi ăn cỗ ở làng bên về. Còn nó làm sưng chim bao nhiêu đứa trẻ lếu láo dám đặt đít lên cái mõm sứt của nó, thì mẹ tôi đã nhiều lần đe nẹt tôi như vậy. Con chó đá thiêng đến thế mà chịu làm bệ cho ông Hội đứng đánh kẻng mới lạ lùng chứ. Sáng nào cũng đến lúc tuýt tuýt là ông đội trưởng lại kẹp cái răng bừa vào nách, nhảy lên mõm con chó đá. Tiếng kẻng bay ù ù trong không gian. Những người dân từng trải, đã ăn mòn bát, vạt đũa thiên hạ, đều phải công nhận rằng đến cả tiếng chuông nhà thờ Phát Diệm nghe cũng chẳng sang được bằng thế. Vậy mà bây giờ, cái kẻng ấy tự dưng mất thiêng. Chả còn ra nghĩa lý gì cả. Ông có đánh cũng chẳng ai nghe. Có hôm mới bảnh mắt ra, ông chưa kịp nhảy lên mõm con chó đá, thì vợ Cối đã đi cấy về rồi. Nó lại còn vơ thêm một gánh cỏ cật bỏ chuồng lợn nữa mới gớm chứ. Thấy ông, con mẹ ấy đon đả: “Bác đã ra đánh kẻng rồi đấy ạ!” Ông chỉ khẽ gật gật đầu. Đấy là cách đáp của người bề trên. Nhưng đến khi về nhà ngẫm lại, ông mới thấy cay như ăn vã ớt. Thế ra con mẹ nó mượn tiếng kẻng để xỏ xiên ông. Người ta đi làm về rồi mới ra đánh kẻng! Ông ức đến tận cổ, vứt tũm cái dùi xuống ao bèo, rồi tức tốc tháo luôn cái kẻng xuống, vác về nhà, chắn cửa chuồng lợn. Từ đấy, ông xoay sang làm diều bán. Một cái diều với bộ sáo và hai trăm mét dây là hai trăm bốn mươi ngàn đồng. Hai ngày làm cật lực, ông xong một bộ diều.
- Thế mà vẫn kiết đến lõ đít, anh ạ! - Ông Hội chiêu một ngụm nước nữa. - Cái số tôi là số không thể giữ được của. Có đồng nào lại cho hết vào chai. Cái quạt này, con gái tôi nó sắm đấy. Đúng hai sào tỏi của nó đấy. Nó làm khiếp lắm. Thấy bở là cứ lao như con thiêu thân. Tôi bảo: “Thôi, làm vừa thôi, không người lại rạc ra như con cá mắm. Chồng nó chán, nó bỏ!”... “Bỏ đã có ủy ban! Dễ mà đưa nhau ra toà được đấy!” Gớm chưa! Lý lẽ chắc cứ như đinh nhé! Đừng có coi thường nông dân. Không thể ngăn nổi, anh ạ. Mới khoán được có mấy vụ, mà vú vê nó đã bay đâu tiệt cả!
Ông Hội trao cái điếu cày cho tôi. Đoạn, ông quay lại bảo mấy đứa cháu rót dầu vào đèn, lau cái bóng muội đi, rồi cắt tiết cho ông con vịt, để ông làm lưng cơm muối, gọi là để anh xơi tạm, nhân thể anh đến xem quạt!
II
Tàn chén rượu thì đêm đã khuya lắm. Vành trăng non mỏng tang như cánh diều, mà một làng quê xa lắc nào đó vừa mới thả lên. Và cũng như cánh diều, nó nhô lên như một sự hiện diện, chứ không làm nhiệm vụ toả sáng, dù đó là thứ ánh sáng mơ hồ, phảng phất như sương khói. Vòm trời âm âm, tĩnh lặng. Lúc bấy giờ, tôi mới lần sang nhà Đao. Nhà anh vẫn ồn ào. ánh đèn măng-xông xanh lét hắt ra sáng rực cả một khu vườn chuối tiêu. Ai qua đường sẽ tưởng đám giỗ chạp. Đêm nào nhà Đao cũng như có đám. Người ta kéo đến sân nhà anh để thưởng thức diều. Nghe sáo diều hay nhất chỉ vào lúc thật khuya. Khi ấy, sương đã xuống. Miệng sáo ẩm đều. Tiếng kêu đủ mềm đến độ chuẩn nhất. Vả lại, cũng chỉ đến lúc ấy, trời đất mới thực sự tĩnh lặng. Làng không còn tiếng đập lúa, tiếng xay thóc, giã gạo, hay tiếng tát nước thì thùm. Tất cả đã im phắc. Chỉ còn tiếng sáo diều ngự trị trên không trung. Tiếng sáo réo rắt, lồng lộng tràn trề rót xuống một rẻo làng quê đen sẫm bóng tre, bóng chuối.
Đêm nay cũng thế. Đã khuya lắm rồi mà sân nhà Đao vẫn lố nhố những người. Hầu hết là đàn ông. Họ ngồi la liệt trên tràng kỷ và mấy cái giường đã khiêng hết ra sân, cả cái chiếu thủng giữa vẫn dùng ngồi ăn cơm giờ rải thêm ra mái hiên nữa. Câu chuyện xem ra đang ở giai đoạn sôi nổi. Ông Chát nhô hẳn nửa người qua cái án thư để lổng chổng mấy cái bát vàng ố những cáu vối. Ngón tay ông mổ mổ vào khoảng không trước mặt. Giọng ông oang oang như đang cãi nhau. Ông đang khen cái diều của Đao. Cứ theo lời ông thì cái diều ấy là nhất làng rồi. Trông lúc đâm mới sướng mắt chứ. Nó lên thẳng đừ đừ. Ăn hết dây là cứ đứng im phắc. Cấm có chao đảo. Cả đời ông, ông chưa từng thấy cái diều nào như thế.
Lòng ngưỡng mộ của ông Chát dần lây sang đám người xung quanh. Họ quay lại hỏi Đao kinh nghiệm làm diều. Chọn loại tre nào thì đắc địa? Gióng tre cần phải dài bao nhiêu? Rồi cả cách vót khung, cách giã cậy hoà với nước cơm đặc, để phết diều. Phết bao nhiêu lần thì những tờ giấy báo dán diều sẽ se lại, đỏ óng như nhuộm vỏ xó và dai cứng như giấy bao xi-măng. Đến lúc ấy thì cái diều mới thực sự ra ràng, mới đủ sức đánh đu với các loại gió, kể cả những thằng gió quẩn, hay trái tính, trái nết.
Đao tỏ ra là một tay bợm diều. Trong lúc tiếp chuyện, thỉnh thoảng anh lại ngẩng lên bầu trời uôm oam tiếng sáo. Không nhìn thấy gì cả. Sợi dây gai buộc diều căng chéo sân, xanh óng trong ánh đèn măng-xông như một sợi dây thép, rồi lặn hút vào vòm trời âm âm sương khói. Chỉ có lão Cối là từ bấy đến giờ vẫn ngồi im lặng. Trong khi người ta trầm trồ, lão chỉ lặng lẽ hút thuốc. Trông cung cách hút thuốc của lão, đủ biết lão ăn chơi vào loại hoang. Điếu thuốc to xù như ngón chân cái, chờm ra cả ngoài nõ điếu. Tiếng rít ré như còi. Rồi tót một cái, tàn thuốc đang cháy dở, nhảy vọt khỏi nõ, kéo theo cả một ít nước điếu. Có đôi ba lần, chẳng biết nghĩ ngợi gì mà lão đãng trí xì cả điếu thuốc chưa kịp hút ra ngoài. Đợi cho mọi người đã im hết, lão mới lên tiếng. Lão nói bỗm bãm trong khói thuốc. Dưới con mắt lão thì cái diều Đao chẳng ra quái gì. Người ta hể hả khen vì đấy là cái diều của ông chủ tịch. Giá như cái diều ấy có biết đánh rắm thì cái rắm của nó cũng vang như tiếng kèn đồng. Rõ là một lũ nịnh thối. Thử vứt cái chức ấy đi xem. Nào cái diều có ra thể thống gì? Trông cũng có chút đẹp mã nhưng lên không cất. Cái dây võng vòng vòng. Như thế có khác chó gì cái diều cánh cốc của đám trẻ ranh còn để quần thủng đít. Còn nước bay thì hỏng đứt. Chẳng chao lượn gì cả. Mà cái diều nó đẹp lại là đẹp ở đường lượn. Cũng như kén vợ cho con là người ta kén cái nước đi. Đàn bà con gái mà đi cứ ngay thòng thõng như cây cau là tướng sát chồng. Có cho ăn cỗ yến cũng chẳng ma nào dám rước.
Đấy, cứ thủng thẳng như thế, mà lão chém cái diều của Đao. Chém nhát nào ra nhát ấy. Đao tỏ vẻ khó chịu. Khó chịu không phải vì bị lão chê vỗ mặt. Việc khen chê cái diều thì có nghĩa lý gì? Điều Đao bực là bực cái thái độ bới bèo ra bọ của lão. Lão chi li quá, riết róng quá. Nhưng đến tiếng sáo của cái diều Đao thì không ai có thể chê được. Lão Cối cũng phải chịu. Cái sáo đến lạ. Kêu tuần tự từng tầng một. Hết tầng thứ nhất mới chuyển sang tầng thứ hai. Có khi hai tầng xen kẽ nhau, đối đáp nhau. Cứ như các cụ ta ngày xưa hát đúm. Rồi thì tắt lặng. Tắt đến mấy giây. Cứ tưởng diều bụp hay đứt lèo rồi. Ai ngờ oà một cái, cả ba tầng sáo đều đột ngột rộ lên cùng một lúc. ối giời! Cao cường thật! Đúng là một dàn nhạc trời đang hoà tấu. Đến thế thì các cụ chịu rồi!
So với bộ sáo ấy của Đao, thì các bộ sáo khác chỉ đáng vứt vào bếp. Nghe cứ ó é như tiếng mèo hen. Bộ sáo của lão Cối còn mắc bệnh hóc gió, thỉnh thoảng lại òng ọc một chập như có ai súc miệng giữa lưng chừng trời. Đêm khuya nghe đến rợn cả gáy. Thế là cái diều của Đao, dù có bị lời ong tiếng ve, cũng vẫn cứ nhất làng. ấy là người ta bình phẩm thế. Cũng chẳng có ai đứng ra tuyên bố nhất bét. Và trong cái trò tranh đấu này, người thắng, kẻ thua cũng thế thôi. Cuối cùng ù xoẹ như nhau cả. Thế thì có gì mà phải cay cú cơ chứ!
Suốt cả một ngày dài, bây giờ Đao mới thấy lòng mình thư thái đôi chút. Trông anh chủ tịch xã đi phởn phơ thả diều, ai bảo không an nhàn? Chỉ có ngủ trong chăn mới biết chăn có rận. ở cái thời buổi này, chơi được với nông dân đâu phải chuyện dễ? Mình có biện pháp của mình thì họ cũng có cái mánh khoé của họ. Những thửa ruộng cao, hạn trắng, lại lổn nhổn mồ mả, xem ra có vẻ khó nhằn, họ trả hết hợp tác xã. Có dễ đến hơn chục mẫu chứ ít gì? Không lẽ để bỏ hoang. Trù trừ thì hỏng thời vụ. Đao bổ hết vào đầu các đảng viên trong làng. Khéo thế chứ! Anh mà chần chừ à? Thoái thác à? Vậy anh có còn là đảng viên nữa không? Chơi đến cái ngón này thì ai không hoảng? Thế là mười mẫu ruộng bay veo. Bản thân Đao cũng nhận đến hơn một mẫu, gần gấp đôi anh khác. Ngày nào Đao cũng ra đồng. Anh cuốc đất quần quật chẳng khác gì xã viên. Mọi công việc hành chính của xã, anh giải quyết vào bất cứ lúc nào rỗi, cả khi đêm đã khuya, trong tiếng sáo diều lồng lộng. Những lúc ấy, đầu óc Đao thật sảng khoái. Bao nhiêu nỗi mệt mỏi tan biến đâu cả. Chỉ còn lại là tiếng sáo diều râm ran...
Câu chuyện xem ra cũng đã nhạt. Nồi nước vối đặt trên cái bùi nhùi ở giữa sân đã phơi hết cả bã lên. Nhiều người lục tục quờ chân xuống gầm giường, gầm tràng kỷ tìm guốc dép. Bấy giờ Đao mới nhận ra tôi:
- Chú về được lâu không?
- Một tháng!
- Thế thì hay lắm. Rất đúng lúc. - Đao gần như reo lên. - Lần này chú phải giúp địa phương đấy nhé! Ngoắc tay chứ?
Tôi chẳng hiểu gì cả. Nhưng thấy Đao có vẻ sốt sắng, nên cũng chìa một ngón tay ra cho anh ngoắc. Đao sôi nổi:
- Đấy, chú thấy đấy. Đời sống dân mình khá lắm! Lên như diều được gió. Ngày xưa làm gì có sự thanh bình đầm ấm thế này. Chỉ mỗi trật tự trị an là còn một chút nan giải...
- Nan giải sao?
- Thì vẫn cái chuyện ăn cắp vặt như dạo chú còn ở nhà ấy mà.
Rồi Đao thông báo qua loa. Đại khái mớ rau, quả bí, buồng chuối, cứ mất liên tục. Gần như ngày nào, làng cũng có người chửi đứa bắt trộm gà. Bây giờ kẻ cắp lại còn hành nghề bằng công cụ hiện đại. Có khi nó xịt ê-te vào nhà cho mình xỉu đi, rồi cứ điềm nhiên khuân A-kai, xe máy. Có nhà còn bị nó vồ mất cả lợn. Mà vồ thôi đâu. Nó còn chọc tiết lợn ngay tại cửa chuồng, rồi để con dao bầu lại. Cắm con dao bầu vào vũng máu. Nó dọa đấy! Thế mới lộn ruột. Làng đã thành lập một đội dân phòng. Tối cắt nhau đi tuần. Có mấy đối tượng đang theo dõi. Chỉ mới nghi thôi. Chưa có đủ chứng cớ để bắt. Mới thế mà nó đã trả thù. Mà trả thù tai quái. Bao nhiêu hành, tỏi, dưa lê, khoai tây sắp thu hoạch được rồi, đêm nó nhổ lên tiệt. Không bắt được quả tang. Chịu! Chửi mãi thì rát họng. Mà chửi thì tai gần miệng đấy. Mình chửi mình nghe. Chuyện nan giải nhất ở địa phương bây giờ là thế. Còn những vấn đề khác, những vấn đề lớn, tưởng phức tạp, hoá ra lại đơn giản. Dân họ tự giải quyết được cả, chẳng cần đến mấy anh cán bộ xã. Không có máy thì họ tự cày. Không đủ trâu thì bố con thay nhau cuốc. Đấy, xã hội lạ lắm. Tự nó điều chỉnh được. Rồi đâu cũng vào đấy cả...
- Thế ở xã, hiện nay các anh đang làm gì?
- Bọn mình đang tổng kết chiến tranh.
ở cái làng bé như mắt muỗi mà cũng tổng kết chiến tranh? Tôi tưởng Đao đùa. Nhưng Đao đâu có đùa. Anh nói nghiêm túc:
- Đấy, thế mới cần đến chú chứ!
- Nhưng tôi thì biết làm gì được?
- Thì chú chấp bút. Thế này này - Đao giải thích cặn kẽ - Chả là huyện cho phép địa phương viết sử. Sử địa phương. Chú hiểu chứ? Hôm vừa rồi, đảng ủy xã đã họp, thống nhất lấy tên: Một chặng đường chiến thắng vẻ vang. Chú thấy cái tên thế nào?
- Được! Cái tên có vẻ sử lắm!
Đao vui vẻ hẳn lên:
- Thế mà hôm nọ còn cãi nhau chán ra đấy. Mỗi bố một phách. Có bố còn đề nghị lấy tên Dưới nắng mai hồng. Tôi phải phân tích mãi mới thuyết phục nổi mấy cái đầu thủ cựu. Bây giờ thì xuôi rồi. Xã đã bắt đầu viết rồi đấy. Nhưng khi viết mới lôi thôi to. Thoạt tiên ông Chích nhận viết. Ông ấy hoạt động lâu năm nên hiểu biết nhiều. Nhưng viết không được. Rặt những thì, mà, là. Mà đọc thì thấy ông ấy toàn kể công lao của cá nhân ông ấy, làm như cả tập thể đảng ủy chỉ có mỗi ông ấy sáng suốt. Còn thiên hạ người ta mù cả. Nhiều người bất bình lắm. Tôi đành phải giải quyết bằng cách để ông ấy kể cho nhà Diến ghi. Kể thì cứ kể, còn ghi chuyện gì, bỏ chuyện gì là việc khác. Diến trình độ lắm. Văn ông giáo mà chữ nghĩa cũng đâu ra đấy cả. Nhưng khi viết xong, đọc lại cũng không được. Hắn toàn kể kỳ tích của cha ông nhà hắn. Công nhận ở làng Cát Xuyên này, dòng dõi họ Trần ghê thật. Cụ Trần Dũ, Trần Chiêu, Trần Kính, được ghi tên trong sử sách quốc gia. Đến cả Văn Miếu còn có bia đá thờ. Thế thì gớm đấy chứ! Tôi đâu dám phủ nhận. Nhưng đây là sử địa phương. Sử hiện đại. Nhiều lắm cũng chỉ nhắc đến các cụ trong mấy dòng thôi, gọi là có chút phát huy truyền thống cho nó đủ lệ bộ. Ông Chích bảo rằng, dù nổi tiếng văn hoá văn chương gì gì, thì cũng phải nhớ đó là tầng lớp phong kiến, đối tượng của Cách mạng vô sản. Hòn đá thử vàng chính là ở chỗ này. Vậy mà nó lại chơi đến ba chương, dài quá nửa quyển. Còn phần sau, nó viết nhạt hoen hoét như nước lã ao bèo. Đọc xong thấy vùng này, chỉ có quá khứ mà không có hiện tại. Như thế, khác chó gì nó xổ tọet sự lãnh đạo của bộ máy chính quyền xã và vả vào mặt ông ấy. Ông Chích ức lắm. Ông ấy đề nghị tịch thu thẻ đảng và xét lại lập trường quan điểm giai cấp của thằng cha này. Đấy, chuyện viết lách nó khó thế đấy. Thế mà chú vẫn viết, vẫn an toàn tấm thân thì chú giỏi thật. Tôi nghĩ chỉ có chú mới có thể may ra đảm đương được cái việc nặng nề này. Cần gì, chú cứ đề xuất. Xã sẽ đáp ứng yêu cầu. Trước mắt, tôi chi cho chú ba trăm công... Hay là hơn...
- ấy chết. - Tôi giãy nảy. - Cái khoản công điểm thì...
- Chú ngại cái gì nào? Có phải tham ô trộm cắp đâu mà sợ. Mình làm mình hưởng. Xã hội chủ nghĩa là cứ phải thẳng băng như thế chứ. Chú đừng có lăn tăn nữa! Tôi sẽ bắn sang công điểm của bà cụ, coi như công gián tiếp. Ba trăm công là bà cụ thoả mãn bần cố nông rồi, bằng trai tơ làm quần quật suốt ba vụ đấy. Chú tưởng dễ à?
III
Tối hôm sau, tôi đến nhà Đao sớm, gọi là để lấy tài liệu. Đao cũng đang chờ tôi. Anh súc tráng cái ấm da lươn, nhưng con mắt vẫn ve vé nhìn chéo qua cửa sổ. ở đấy căng ngang một sợi dây phơi mà Đao đã buộc diều. Chỉ cần nhìn sợi dây rướn lên hạ xuống, anh có thể biết được cái diều đang bay lượn ra sao. Dạo này Đao có thú vui để diều suốt đêm.
- Ông Chích ấy mà, mệt quá, chú ạ. Xã đã để cụ ấy làm cố vấn. Nói đúng ra, đấy chỉ là cái ghế nghỉ danh dự ngồi chơi xơi nước. Nhưng khổ nỗi, cụ ấy lại cứ tưởng mình là cố vấn thật. Mấy ngày lại đến góp ý có tính chất chỉ đạo cán bộ xã. Mình chỉ gật gù chiếu lệ. Ông cụ lại càng góp ý khoẻ. Khổ thế chứ! Các cụ già thường chỉ thích nói, nói rất dài, nói lấy được, mà không chịu biết xem bọn trẻ nó nghe mình như thế nào.
Đao chiêu một ngụm nước, giọng trầm hẳn lại:
- Trong các cuộc họp, bọn mình nể ông cụ là bậc cố cựu, nên thường mời nói trước. Kể ra cụ cứ vui vẻ vài câu, rồi tin tưởng giao cho bọn trẻ gánh vác công việc, đằng này cụ lại nói cứ như cụ đang đứng đầu xã. Đầu tiên là cụ tóm tắt tình hình thế giới và trong nước mà cụ nghe được qua đài, rồi cụ nâng lên thành quan điểm chính trị xã hội. Rồi cụ dặn dò bà con phải kiên trì Chủ nghĩa xã hội, cấm không được dao động, hoang mang, ăn phải đũa bọn đế quốc sài lang đang giãy chết. Còn cụ, cụ nói, một mình cụ, cụ cũng tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội. Người nghe cụ đã quen, quý mến cái nhiệt tình của cụ. “Bà con đã tin tưởng đầy đủ chưa? - Cụ nói - Ai còn chưa tin tưởng đầy đủ thì để tôi quán triệt thêm tí nữa... Mà ai đã tin tưởng đầy đủ rồi thì cứ việc tự do ra về...” Thế là người ta ra về, chú bảo có chết tôi không?
Đao lại nhìn chéo qua sân để theo dõi độ rướn của cái dây phơi:
- Ông cụ xọp đi nhiều sau ngày rời ghế chủ tịch. Dân làng lại xì xèo nữa chứ. Khổ, làm lãnh đạo hay thôi không làm nữa thì cũng là một việc bình thường. Nhưng chết nỗi, dân mình lại chưa quen được với sự bình thường ấy. Nếu đang làm việc mà nghỉ, lập tức họ sẽ nghĩ, chắc ông này có sai lầm hay tham ô hủ hoá gì? Thế thì ai mà chẳng sợ. Người ta tiếc cái chức thì ít mà sợ dư luận thì nhiều. Sớm nay, ông cụ lại đảo qua đây, đưa cho tôi bản quy hoạch nông thôn, gọi là cách làm ăn mới, để tôi nghiên cứu và thực hiện. Cái đích thì hay, nhưng chẳng có cơ sở nào để thực thi. Tôi nghĩ không khéo bố già lẫn cẫn mất rồi. Bữa nọ ông cụ lại qua, xin xã cho viết hồi ký, thế mới bỏ mẹ tôi chứ!
Đao đẩy khay nước ra trước mặt tôi. Nước hơi non. Chè không chín được, cứ nổi phễnh lên, dạt hết cả vào miệng chén.
- Thôi, ta bắt đầu chứ chú!
Đao lôi trong xắc-cốt ra hai tập bản thảo dày cộp. Một bản của ông Chích với những nét chữ xiêu vẹo, thỉnh thoảng lại có những chữ viết hoa rất tuỳ hứng. Còn một bản của ông giáo Diến với các chương mục rất rõ ràng, rành mạch, có cả gạch đít bằng mực đỏ.
- Thôi được. - Tôi gập hai tập bản thảo lại. - Tôi sẽ đọc và bổ sung trong quá trình viết. Còn bây giờ, anh cung cấp cho một số tư liệu.
- Được! Có ngay đây!
Đao nói nhanh. Rồi không cần giấy tờ, sổ sách, anh bắt đầu trình bày một cách trơn tru. Tôi vội mở bút ghi. Nhưng được một lúc thì tôi ngẩn ra. Số liệu cụ thể. Nhưng nó như ở một bản báo cáo tổng kết nào đó. Ví như làng có bao nhiêu con lợn. Số chị em phụ nữ đặt vòng tăng giảm thế nào. Vận động bà con làm được bao nhiêu hố xí hai ngăn. Lại có cả câu ca: Anh không tham bạc tham vàng - Chỉ tham hố xí nhà nàng hai ngăn, làm như lấy em chỉ là vì cái hố xí...
- Thôi, được rồi. - Tôi ngắt lời Đao. - Cái này đưa vào phần phụ lục. Còn bây giờ, anh nói cụ thể thành tích của làng kia. Ví dụ như trong kháng chiến chống Pháp, ta diệt được bao nhiêu thằng Tây, phá được bao nhiêu đồn bốt. Rồi trong chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ, ta đã chiến thắng như thế nào?
Gương mặt Đao thoáng vẻ trầm ngâm. Thay cho câu trả lời, anh rít liền mấy hơi thuốc, rồi ngửa cổ phả khói mù mịt. Đợi cho làn khói bạc tan lễnh trong không gian, Đao mới đột ngột bảo:
- Thôi, cái đó tuỳ chú! Chú xem thế nào, chú cứ viết tự do thoải mái. Mà chuyện của làng mình, chú còn lạ quái gì!
Tôi chẳng còn lạ gì thật. Nhưng đó là chuyện đánh Mỹ kia. Chứ thời chống Pháp thì tôi có hiểu gì đâu. Bây giờ tìm dấu vết của cuộc kháng chiến ấy thật khó. Làng không có lô-cốt, không có một đồn bốt nào. Nghe đâu, trước đây, đội du kích của làng hoạt động cũng dũng cảm lắm. Nhưng họ khiêm tốn quá, chẳng để lại một dấu tích gì. Còn các cụ già làng, mỗi khi nhớ lại thời tao loạn oanh liệt, thì lại hể hả kể về những trận phục kích, những lần giật đổ tàu địch bên đường 5 ở mãi mấy xã bên kia. Còn thời chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ thì tôi được chứng kiến. Những ngày ấy thật sôi động. Đêm nào bầu trời cũng rừng rực chớp đạn. Rồi những tin chiến thắng phát trên đài, trên các loa truyền thanh. Làng lúc nào cũng chộn rộn, rạo rực. Nhưng chưa có quả bom nào rơi xuống làng. Làng không có anh hùng, cũng không có thương binh liệt sĩ. Kỳ tích của làng là hoan hô máy bay Mỹ cháy trên bầu trời và nghe tiếng bom gầm ở xa xa. Bây giờ cần ghi lại một bộ sử với những tư liệu cụ thể thì sao khó thế. Tôi viết rồi lại xoá. Xoá rồi lại viết. Loạy nhoạy đến gần một tháng mà vẫn chưa xong cuốn sử. Tôi tạt sang nhà ông Chích. Ông vắng nhà đã nửa tháng nay. Nghe bà Chích nói thì ông lên chơi với thằng con trai trên thị xã. Thế là tôi đành phải quay về. Trăng sáng vằng vặc. Những ngôi nhà cao tầng hắt bóng xuống con đường nhựa đen thẫm, còn ngoằn ngoèo những vệt trâu đái. Tôi định qua nhà Đao thì thấy anh bất ngờ từ ngõ nhà lão Cối nhô ra.
- Khoa đấy hả? Tôi đang tính đi tìm chú đây!
- Tập sử chưa thể viết được. - Tôi nói ngay. - Tư liệu mỏng quá. Phải chờ thêm nữa.
- ừ thôi, cái đó để sau cũng đươc. Nhưng mà vẫn phải viết. Các làng khác họ viết ào ào cả rồi. Có làng còn mang lên Hà Nội thuê in thành sách nữa.
- Thế có chuyện gì vậy anh?
- Tôi vừa bị một vố.
- Sao?
- Mất cái diều rồi.
Đao nói hổn hển. Anh như người bị hụt hơi.
- Chú biết không? Nửa đêm qua, không nghe thấy tiếng sáo, tôi cứ tưởng nó bụp hay đứt lèo. Ra sờ thì chỉ còn mỗi cái cuống dây. Sợi dây bị cắt vát, chú ạ. Rõ ràng là nó đã bị cắt bằng panh sa lam. Đứa nào cắt thì chú còn lạ gì nữa. Tôi nhao đi khắp các cánh đồng tìm, xem nó có rơi xuống chỗ nào không. Nhưng chịu. Không có tăm tích gì cả, chú ạ. Mình thì đang rối cả ruột, mà làng này có lão vỗ tay trong bụng đấy.
- Ai?
- Chú còn lạ quái gì. Nghiễm nhiên cái diều lão ấy nhất làng rồi. Nhưng mà được. Tôi sẽ kéo cổ lão ta xuống.
Đao nói thật dứt khoát. Rồi anh tiết lộ cho tôi biết kế hoạch của anh. Ngày mai, anh sẽ đặt ông Hội cái diều mười hai mét. Anh sẽ đẵn cây xoan đào xuống để khoét sáo. Lần này, sáo phải to bằng bắp đùi. Anh sẽ chơi năm tầng sáo, cho nó đánh nhạc giao hưởng giữa lưng chừng trời.
- Khối lão sẽ tức nổ ruột ra đấy. - Đao cười. - Chỉ tuần sau là xong thôi. Tuần sau, tôi sẽ khánh thành diều. Chú phải đến dự đấy nhé.
Tôi không dự được buổi lễ khánh thành diều ấy. Hôm sau tôi lên đường sớm. Mẹ tôi tiễn tôi ra đến cổng đồng thì dừng lại, rút trong cái khau tát nước treo một đầu cuốc ra đùm xôi lạc và cái tỏi gà, ấn vào ba-lô-tôi, để tôi ăn đường, rồi lững thững bước xuống ruộng. Bóng bà cụ nhỏ thó như bóng cò, bóng vạc giữa những thửa ruộng khoán còn lễnh đễnh sương sớm. Lòng tôi thoáng se lại. Cái làng quê nhỏ bé, bình lặng của tôi đã kẻ thành vệt xanh mờ. Lót đót vượt lên khỏi nền xanh tre chuối là những bóng dừa, tán cau và những tầng nhà cao vót, in lên vòm trời đầy nắng những đường nét vừa hiện đại, vừa muôn thuở hoang sơ...
CƠN MƯA HOA MẬN TRẮNG
Truyện ngắn của PHẠM DUY NGHĨA
Từ ngày lên Kin Chu Phìn, Thuận luôn có cảm giác sống trong một thế giới bưng bít, biệt lập. Căn nhà lợp tranh bé nhỏ của chị nép mình cạnh rừng vầu. Gian ngủ liền vách với lớp học. Những đêm xuân, Thuận nằm nghe tiếng dúi gặm măng gồn gột sau nhà. Quanh năm, sương mù vón lại trên núi Rú. Ngọn núi xám ngắt tỏa khí lạnh buốt, nhô ra bức thành đá sứt sẹo, lởm chởm, phủ cây dại bùng nhùng. Lâu lâu, từ núi vọng về một âm thanh đục ngầu của đá lở. Gió rít lục ục trong rừng vầu đắng, rừng nứa ngộ, nghe như nghẽn lại trong tầng lá rầm rì. Những buổi chiều vào rừng nhặt củi, Thuận thấy loi nhoi trong sương một đôi bóng áo chàm. Các cô bé người Dao lúi húi chặt cây khô, cắt cỏ ngựa. Tí tuổi đầu mà chiếc lù cở sau lưng chất đầy những khúc củi to gộc, dài gấp đôi thân người. Trên lối về thôn, trong ánh tà xanh lam nhập nhoạng, các cô bé lầm lũi bước. Những khuôn mặt nhem nhuốc lúc nào cũng buồn…
Thuận từ trường chính lên dạy chữ cho trẻ em người Dao ở phân hiệu này đã ba năm. Được tắm táp bằng mây gió vùng cao, da thịt không còn tươi mởn nưã nhưng chị đang ở độ chín mọng, tràn trề của người đàn bà bước vào thời kỳ sung mãn. "Người gì mà mồ hôi tiết ra ngọt như nước trái vả. Nhìn vào thấy toàn những múi, những khe, gợi cho người ta những ý nghĩ không tiện nói" - hiệu trưởng Tiến, kém Thuận hai tuổi, một tay tợn mồm lại ưa bông phèng nói vậy. Ba năm sống cô độc ở Kin Chu Phìn, Thuận đã thấm thía nỗi sợ, nỗi buồn của người giáo viên cắm bản. Những lần vận động trẻ đến lớp, chị chống gậy đi trong mưa gió, sương mù, ngã dúi mặt xuống bùn lầy nhầy phân ngựa. Có dạo mưa lũ, con suối ngoài thôn mênh mông trắng nước, không xuống chợ mua gạo và cá khô được, chị phải bẫy chuột nướng ăn suốt một tuần. Đêm ngủ, có con rắn xanh lét bò vào nhà tránh mưa, trườn qua ngực chị. Chờ nó bòn sang gian lớp học, chị lật chăn định ngủ tiếp, lại thấy một con rắn trắng nhợt, mềm oặt, nhỏ bằng cái đũa ngo ngoe giữa chiếu. Khi nắng lên rừng rực, chị lại sợ cháy rừng. Năm kia, một người Dao đốt nương đã để lửa cháy lan liếm sạch một dải rừng dâu da trong núi Rú. Tàn lửa bay đến vùng thượng Kin Chu Phìn, suýt thiêu rụi một góc núi toàn nhà lợp tranh của người Hà Nhì. Ông Tẩn Phù Siểu, trưởng thôn Kin Chu Phìn vào tận núi Rú, vác về một con khỉ cái chết thiêu, lông cháy đen thui, hai mắt lòi trắng dã. Ông bảo: "Cho cô giáo đấy, có ăn thì ăn. Nhìn mặt nó giống cái mặt đàn bà, tôi không muốn ăn nữa rồi.". Thuận đánh liều làm thịt con khỉ, gọi đứa con gái ông Siểu sang ăn cùng. Nồi thịt bốc mùi tanh nhức óc. Ngay đêm đó, Thuận lên cơn kinh giật, người lạnh toát. Trong lúc mê sảng, Thuận thấy con khỉ hiện về, vẩy máu vào mặt chị. Nó ngồi ở đầu giường, kêu khóc thảm thiết như người. Nghe chuyện, một giáo viên lâu năm tên là Thanh bảo Thuận: "Ngày trước ở xã này có người đàn bà oán hận nhà chồng, đang đêm bỏ nhà đi vào núi Rú rồi mất tích ở đó. Về sau có người nhìn thấy chị ta ở trong núi, thoắt hiện lại biến mất, nhanh như vượn. Chưa biết chừng Thuận ăn nhầm phải thịt người rồi đấy". Sợ toát mồ hôi, Thuận tìm nhặt lại những giẻ xương, bọc trong một mảnh ni lông, chôn ở đầu con dốc trước nhà. Quanh nấm mộ này, cỏ ngại và tam thất rừng mọc xanh ngằn ngặt.
Đầu tháng sáu, Tiến dẫn Kiên lên nhận lớp dạy ở Kin Chu Phìn. Kiên vừa học xong năm thứ nhất ở trường sư phạm tỉnh, được điều động tham gia chiến dịch chống mù chữ sáu tháng tại vùng cao. Sự xuất hiện của cậu sinh viên trẻ trung, nhiệt tình như gió xuân thổi vào cuộc sống đầy sương mù của Thuận. Chị cùng Tiến chặt vầu, đóng thêm một chiếc giường. Trong gian buồng bé như ổ chuột, chỗ nằm của Thuận và người bạn mới chỉ cách nhau một sải tay. Tiến tặc lưỡi: "Ranh giới mong manh quá. Thôi, anh về. Chú mày giúp chị lấy củi, thổi cơm, nhớ đừng rình xem chị tắm".
Một hôm có người cán bộ trẻ của ngành giáo dục từ thị xã vào kiểm tra. Thấy cảnh ăn chung ở chạ của Thuận và Kiên, anh ta trợn mắt: "Nhét một nam một nữ vào một buồng, anh định xui họ làm gì hả?". "Thầy thông cảm, vùng cao mà" - Tiến nhồi thuốc lá vào cái nõ điếu, điềm tĩnh nói - "Dựng thêm một cái nhà, lại phải nhờ dân đóng góp công sức, gỗ lạt, cũng phiền. Tốt nhất là tận hưởng những gì đang có. Mà một trai một gái, nếu có tí dấm tí mẻ thì cũng vô hại. Cuộc sống càng lạc quan, hề hề…".
Sống với Kiên chưa được bao lâu, Thuận cảm thấy ở người thanh niên này có một cái gì là lạ không giống những người con trai khác. Những việc phải lăn lộn giữa bùn nước, phân tro, muỗi vắt như vượt suối băng rừng, giúp dân cấy gặt, thái cỏ ngựa, khuôn thồ thảo quả... Kiên chẳng nề hà. Cứ sục sôi, hùng hục, thích thú như thể đó là những trò khoái lạc. Nhưng hễ đặt mình xuống giường là hai mắt nhắm nghiền. Anh không mảy may để tâm đến những tiếng động cựa, tiếng thở đầy nhục cảm và đôi khi cả tiếng trút cởi sột soạt giữa đêm khuya ở chiếc giường bên cạnh. Có lần đang tắm trong ô buồng che chắn bằng phên nứa phía sau bếp, chị gọi Kiên mang giùm chiếc khăn mặt. Ngồi ở trong nhà, anh lờ đi như không nghe thấy. Vài lần, Thuận rủ Kiên ra con suối ven đồi cỏ tranh cuối dải rừng vầu rậm rạp. Chị thích tắm suối đêm. Trước kia chị vẫn thường ra suối tắm đêm một mình. trước khi cởi quần áo, lần nào chị cũng bảo Kiên: "Kiên ngồi ở gần đây thôi nhá. Vắng vẻ thế này, chị sợ...". Nhưng lần nào Kiên cũng bỏ ra xa. Anh để chị thoả sức ì oạp trong nước hàng giờ, thoả sức trồi hụp, mơn man, miết cọ và tận hưởng cảm giác rờn rợn, buồn buồn của sự giao tình giữa thịt da và nước. Rồi chị điềm nhiên bước lên bờ, phô ra ngồn ngộn giữa đêm mờ cái tươi trắng loã lồ, tràn trề sinh lực nguyên thuỷ. Xa lạ, trên mỏm đá đen sì trồi lên giữa bờ cỏ rậm, Kiên vẫn đứng nghiêm bất động như một người lính gác trung thành. Nhưng không một lần ngoái lại.
Sau những lần như thế, Thuận thấy bẽ bàng. Một người đà bà, dù vấn vít chồng con, dù gió trăng thừa thãi, vẫn thích một người con trai kém tuổi còn vụng dại để ý đến mình.
Một hôm, Kiên nhận được một lá thư. Phong thư vàng ố vì nước mưa, gửi kèm ảnh một cô gái còn rất trẻ đứng trong vườn mận. Mắt Kiên sáng rực, vì vui sướng. "Người yêu em đấy, xinh không chị?". "Học cùng lớp với Kiên à?". "Vâng. Đợt chống mù chữ này, Hà của em đi tận Cán Hồ". Trong thư còn kẹp dăm bông hoa nhỏ màu trắng đã nhàu nát, thâm lại. Kiên mang lá thư ra dưới nắng, giơ lên soi, đưa tay sờ vào từng chữ như muốn lần ra dấu vết gì đặc biệt. Ngày hôm sau, anh lang thang cả buổi trong rừng, mang về một đống lá úa của loài cây gì màu đỏ rực. Anh thức thâu đêm viết thư cho Hà, khuôn mặt nhàu nát vì suy tư, nghiền ngẫm. Mỗi lần xuống xã nhờ người chuyển thư ra huyện, anh không quên bỏ vào trong thư một chiếc lá đỏ có ba thuỳ.
Mùa thu này mưa nhiều. Cứ ào một cái, nghe ran ran trên rừng vầu, rừng nứa, ngoảnh lại đã thấy cả Kin Chu Phìn biến mất trong màn mưa trắng xoá. Ngôi nhà tranh ọp ẹp của Thuận oằn mình dưới sức nước xối, tưởng chừng như một trận mưa nữa, nó sẽ mủn nạt, mục ra, nhường chỗ cho những lùm cỏ ngải hung hăng thả sức trổ xanh rì.
Mưa tạnh, các khu rừng được rửa sạch, loáng ướt. Riêng ngọn núi Rú vẫn bị nhốt trong biển khói sương dày đặc. Những tràn ruộng bậc thang no ứ nước, sáng lấp lánh.
Buổi chiều, Kiên thấy mấy anh con trai nhà ông Siểu dong trâu ra đám ruộng trên sườn đồi cỏ tranh. Buổi sáng anh dạy họ học chữ, lúc này họ dạy anh cày bừa. Về nhà, mặt anh tươi rói, mình mẩy vàng khè như con chạch moi từ đáy ao lên. Thuận vừa xới cơm vừa nhìn chằm chằm vào bắp chân săn chắc của Kiên. Chị thấy nôn nao bởi cái mùi hôi vừa lạ lẫm vừa quen thuộc. Mùi bùn.
Cái mùi này làm xáo động một mảng ký ức đã ngủ quên trong thẳm sâu con người Thuận. Chị nhớ lại ngày còn là một đứa con gái chăn trâu, mò cua bắt ốc ở một miền thôn dã. Hồi ấy, tuy mới mười lăm, mười sáu, thân hình Thuận đã mẩy mang, căng nức như búp đa, búp gạo trên bãi chăn thả sau làng. Trong đám bạn chăn trâu của Thuận có Tốn. Tốn cưỡi con trâu cụt sừng, dáng oai vệ, cái mông bè bè, cái mồm lúc nào cũng nhai nhóp nhép. Côn trùng nướng là món khoái khẩu của Tốn. Đôi khi cảm hứng nguyên thuỷ trào dâng, Tốn ăn tươi nuốt sống một cách ngon lành. Có đứa đã nhìn thấy Tốn nhai rau ráu một con chuồn ớt đỏ tươi. Kinh dị hơn, có đứa thề độc đã nhìn thấy Tốn dùng gai bồ kết cắm phập vào thịt một con ốc sên còn sống nguyên, khều ra, đưa miếng thịt ngọ nguậy vào mồm, nuốt chửng. Con ốc sên đầy trứng lổn nhổn, phòi ruột xanh lè! Có lẽ thường xuyên tẩm bổ bằng món ăn nhiều đạm này nên người Tốn chắc nịch như viên gạch xỉ. Ăn như thuồng luồng mà tắm táp lại qua loa, bùn đóng vẩy ở khoeo chân Tốn sau một tuần vẫn không sạch vết. Vào một chiều hè nắng gắt, Thuận đang tìm trâu trên đồi cọ bỗng thấy mùi bùn sực nức và cái sừng trâu cụt ngỏng lên sau lùm cỏ chè vè. Huỵch một cái, một thân người lấm lem bùn đất từ đâu bất ngờ nhảy ra, dằn ngửa Thuận xuống tàu lá cọ. Thằng Tốn! Nó vừa cười he he vừa thọc tay vào chun quần Thuận. Con trâu cụt sừng đang ngoạm cỏ soàn soạt gần đó cũng nghếch mõm, nhăn răng cười. Chợt nghĩ đến cái mồm từng tắc lẻm cả con ốc sên bầy nhẩy, nhớt nhát, Thuận khiếp đảm dúi mặt vào đám cỏ. Đang quẫy đạp điên loạn, Thuận chợt cứng người. Từ đâu đó, xa xôi và bồng bềnh, có một mạch suối ngầm tươi mát tràn chảy giần giật. Nó làm tê liệt ý thức. Nó xoa đi ý niệm thiêng liêng. Cả sự ghê tởm. Khi chỉ còn lại một mình, Thuận ngôi ngây dại nhìn vũng nắng sáng chảy chan chan trong tàu lá cọ. Cô bé đang tuổi dậy thì không hiểu tại sao mình không chống cự. Mùi bùn xộc lên nồng nã. Lúc chiều tàn, đi qua bãi cỏ nát nhừ, Thuận thấy những giọt lờ nhờ màu tiết bồ câu đã cô lại thành nhựa trong kẽ tàu cọ rách, đỏ long lanh trong nắng quái chiều hè.
Màu đỏ cứ vón lại trong ký ức Thuận qua suốt thời hoa niên, không dễ gì gột tẩy. Dù vẫn rùng mình đau xót mỗi lần nhớ đến vụ cưỡng bức non dại, đôi khi Thuận ngạc nhiên thấy mình muốn trở về miền trung du, bì bõm lội đồng tìm lại cái mùi bùn ngấu một lần nữa.
Ngoài ma lực của bùn, Thuận còn thường xuyên bị ám ảnh bởi mùi cá.
Hồi mới rời quê lên vùng thượng du, Thuận ở với người thím, hàng ngày lột giang cho thím đan mũ bán. Nhà thím ở gần sông. Những buổi hoàng hôn, Thuận ngồi ở gốc cây gạo bên sông đợi cánh lái bè chở giang về. Chị tò mò ngắm anh với cả một niềm thích thú. Anh ngồi trên thuyền, cởi trần vá lưới. Bộ ngực lồi lõm, gồ ghề. Cái miệng lọt thỏm trong bộ râu quai nón đỏ hoe, hôi sặc mùi thuốc lào. Không biết anh từ đâu dạt về vùng này, chỉ nghe anh nói từng lặn lội đẵn gỗ trên ngàn, mua buôn thảo quả. Một đêm, Thuận nghe có tiếng người thổi sáo liền cầm bó lạt đan dở, chạy ra sông. Sương mịt mù trên sông, bàng bạc xanh lam, quẩn lại thành mây trong những bụi cây nước ngập gần hết ngọn. Tiếng dân vạn chài gõ thuyền lách cách. Anh đang ngồi ở mũi thuyền, thổi sáo một bài buồn thảm. Nghe cồn hết ruột gan như nghe tiếng dao cạo vào cật giang, cật nứa. Lúc ấy trời vừa mưa xong, trăng lên, trong không khí tươi mát có cái gì đó rất nồng nàn. Không khí của sự sinh sôi, hoan lạc. Ánh trăng xanh tưới đầm đìa bãi cỏ. Ếch ương nhô nhốp nhảy ra. Chẫu chàng từng cặp ấp nhau trong nhành cây tươi hăng mùi nhựa. Thuận thấy bồn chồn. Mùi bùn năm xưa bị đánh thức. Chị đi đi lại lại trên bờ. Chị gọi anh. Chị vén quần, xăm xắm lội nước. Trèo lên thuyền, chị bảo: "Anh thổi hay quá". Anh vẫn gắn mặt vào ống trúc. Chị nhặt thanh tre dùng để gõ thuyền đuổi cá, gõ vào đầu anh. Anh vẫn say sưa thổi. Chị giằng cây sáo, vứt xuống sông. Anh quắc mắt, nhe răng. Một cuộc vật lộn dữ dội xảy ra trong mui thuyền. Chị vẫy vùng như một con cá chép sông vật đẻ. Bỗng xoảng một tiếng, chị đá đổ cái xô tôn đựng cá mòi.
Trong bóng tối của khoang thuyền, cá xổ ra nhua nhúa, trắng lấp loá như những thỏi bạc. Những con cá ướt rượt, trơn nhẫy trườn lách trên lưng, trên bụng hai thân thể loã lồ. Có con thúc vào bọng chân. Có con rúc cả vào nách. Trong cơn cuồng hứng, chị cắn một mảng vai anh, máu tứa ra chảy vào miệng mằn mặn. Hai người quấn riết lấy nhau trên sàn thuyền nhớp nháp, sực mùi cá tanh nồng. Anh thở dài: "Tiếc thật". Chị tát yêu anh: "Tiếc gì? Tiếc rằng giá được biết em sớm hơn, phải không". Anh chép miệng: "Không. Tiếc cây sáo. Thế là mai phải khoét ống khác".
Tháng sau hai người trở thành vợ chồng. Anh bỏ nghề chài lưới, xin vào làm ở một xí nghiệp sành sứ. Chị đi học Trung học Sư phạm, ra trường lên Kin Chu Phìn, bắt đầu cuộc sống miền sơn dã. Cũng từ đấy, chị nhớ khắc khoải mùi tanh của cá, của sông nước, thuyền chài.
"Tình yêu nào qua đi cuộc đời ta cũng để lại một cái mùi gì đó" - có lần Tiến nói với Thuận - "Cái mùi ấy có thể ám ảnh ta suốt đời, chị ạ. Chẳng hạn, mối tình đầu của em có mùi phân trâu. Năm mười bốn tuổi, em mê tít một con bé cùng làng. Đêm đêm hai đứa bí mật gặp nhau ở gốc mít trong vườn trước nhà nó. Chỗ ấy là nơi dùng để buộc trâu. Phân trâu bãi khô, bãi tươi sục lên nhoe nhoét. Chị hỏi sao khong dẫn nhau đi đâu ư? Lộ chết. Có lần gọi không thấy con bé thưa, ông bố bước ra sân nghiêng ngó. Hai đứa em hốt hoảng trèo lên cây mít. Vừa ngồi con bé đã căn răng, kêu ư ử vì đau. Thì ra đầu nó đụng phải tổ kiến kết bằng phân trâu bọc quanh cành mít. Bọn kiến ùa ra cắn đốt rào rào. Hôm sau, vạch đầu con bé, em còn thấy một vảy phân khô lẫn trong tóc nó. Sau này đi xa, em chẳng thể quên cái mùi phân trâu nồng ấm. Nó gắn với những run rẩy đầu đời. Thôi thì, dù ngọt ngào hay khú khắm, ta vẫn phải nâng nui, tận hưởng những gì đang có, hề hề… Mối tình thứ hai của em, may mắn hơn, lại có mùi lá bạch đàn…".
Đêm. Lại một đêm. Những đêm vùng cao của người giáo viên cắm bản thật là dài…
Từ ngày có Kiên làm bạn, nỗi cô đơn trong Thuận vợi đi một nửa. Nhưng về đêm, những khoảng thiếu hụt chưa được khoả lấp càng nứt sâu thêm. Nó như cái lỗ thủng đói khát mở ra thăm thẳm, đen ngòm. Chị thèm chồng thèm con. Đã gần một năm, chị không được cọ mặt vào bờ râu nhặm nhội của anh, không được chằm bặp, hít hà mùi nắng khét trong tóc con, đứa con gái lên sáu có đôi mắt nhóng nhánh như hai hạt đỗ đen nhúng nước.
Mùa thu năm ngoái, chị nhận được thư anh. Lá thư hẹn ngày lên thăn chị. Đến trước ngày anh hẹn, vào lúc nhá nhem tối, một cú sét khủng khiếp giật vỡ toác cây chò chỉ rắn như thép trên đỉnh đèo dốc, làm rung chuyển của Kin Chu Phìn. Dưới vòm mây đen rầm bị cắt rạch liên tiếp bởi những tia chớp loằng ngoằng, triền đồi phủ đầy hoa giềng dại phía trước nhà sáng trắng lên nom rất kinh rợn. Cơn giông kéo dài đến hết hôm sau, nhấn chìm cả thôn trong một màn mưa mịt mùng trắng xoá. Lòng Thuận như lửa đốt. Sau hai ngày chờ mỏi mắt, chị nghe tin mưa lũ đã cuốn phăng cây cầu bắc qua con suối lớn chảy men theo dải đường dẫn về các xã. Nước réo ầm ầm, mạnh như thác. Người, xe từ phố huyện vào đến đó đều phải qua trở lại. Một gã trai liều lĩnh vượt suốt bị nước cuốn xô vào đá vỡ đầu.
Thuận vật mình vật mẩy suốt mấy ngày. Giận hờn trời đất. Trong những cơn mơ, chị thấy hai vợ chồng biến thành cá bơi băng băng trên dòng suối lũ. Anh là con cá lớn trắng phau quẫy trên mình chị. Ngực chị nâng lên hạ xuống như đôi mang cá đỏ phập phồng… Thời gian trôi, trong lòng chị, hy vọng về một lần được bù đắp lại âm thầm tích nhựa và lên xanh như một cụm tam thất rừng.
Sang xuân, sau một tháng đứa con về miền xuôi ăn Tết, anh xin nghỉ việc ở xí nghiệp hai ngày để lên thăm chị. Nhớ lại chuyến đi "trả nợ" này, chị dở cười dở khóc. Anh kể: gần đến Kin Chu Phìn, anh bắt gặp hai con ngựa cái trên bãi cỏ đỏ rực ánh tà bên con đường mòn xuyên núi. Bên kia đường, hai người Dao đang ngồi hút thuốc lào. Vốn máu mê ngựa nghẽo từ ngày lang bạt ở vùng cao, nhìn con màu đen tuyền, anh đánh rơi chiếc túi xuống cỏ. Trời! Con ngựa có cặp mắt lồi xanh biếc, dáng uyển chuyển, điệu đà. Sắc lông đen thẳm, mượt như sa tanh, mỗi lượt gió thổi qua lại rờn rợn như gợn nhung gợn tuyết. "Một mỹ nhân" - anh lẩm bẩm. "Một tiểu thư quý tộc có bờm, không phải là ngựa". Còn còn kia… một con nghẽo lông màu đất thó, bụng cóc, xương sườn nổi gờ nổi rãnh, dưới con mắt lác cộm lên cục mụn sần sùi. Anh nhìn nó bằng cái nhìn thương hại. "Mày xấu mã quá! Cái quý giá nhất của đàn bà là nhan sắc, thế mà mày không có, thật khổ thân mày. Hạng đàn bà không được ai nhòm ngó, nếu không cố theo đuổi sự nghiệp, lấy công danh bù lại khoản đời tư, thì phải rèn nết ở ăn cho khéo léo, dịu dàng, may còn có người thương xót. Nhìn cái vẻ nhẫn nhục, cam chịu trong mắt mày, ta biết mày cũng nhân hậu đấy". Nghĩ rồi anh đưa tay vuốt bờm con vật, định hạ cố làm một cử chỉ ban phát. Tức thì nó giật phắt mõm, phì hơi thối hoăng, nhe răng chực cắn. Anh đứng bật dậy, chùi tay vào quần. "Tiên sư mày, đồ chết giẫm! Thiếu chút nữa ông gửi lại hai đốt ngón tay trong mõm mày rồi. Xấu người xấu cả nết!".
Quay sang con ngựa đen, anh âu yếm vuốt cổ chân nó. "Trường túc bất chi lao". Phụ nữ chân dài thì hành lạc cả đêm không biết mệt. Mông em nở, bụng em thon, chân dài đẹp thế này, chạy không lỗi bước, đi đường trường thì ăn ý chủ, tinh tế nhạy cảm vô cùng". Có lẽ hiểu lòng anh, con ngựa liếc anh bằng đôi mắt xanh ảo huyền, rồi lại bẽn lẽn ngoẹo đầu gặm cỏ. Sau khi xem móng xem răng con ngựa một cách kỹ lưỡng, anh nhoài người ra phía sau, nhỏm dậy định chiêm ngưỡng nốt vòm mông mịn màng của nó. Con ngựa đột ngột rướn mình, phóng thẳng vào bọng đái của anh hai phát đá hậu. Anh oằn người, đau chói óc, nhặt chiếc túi chạy té qua triền cỏ đỏ hung xuống con suối thẫm rêu chảy ồ ồ trước mặt.
Anh chàng người Dao ngã lăn ra cỏ, cười ngặt cười nghẽo. Ông già ngồi cạnh vò râu bứt tóc, miệng kêu ài ài.
Đêm đó ở Kin Chu Phìn, anh loay hoay bên chị như một đứa trẻ to xác, èo uột, tơi bã, chườm trượt bên ngoài, trôi lều phều như sợi bấc. Vết đau cương tức, nhói vào tận ruột. Chị vùi mặt vào tảng ngực trần hôi khét, cào cấu, khóc suốt đêm. Đã bao ngày, chị là cái cây chết khô chết khát chờ đợi một cơn mưa tươi nhuần…
Sau mấy đêm mưa, cỏ ngải bốc xanh ngùn ngụt.
Ở những chỗ bị chân ngựa xéo nát, thân lá loài thảo mộc này chiết xuất ra một mùi thơm sâu đậm. Phân ngựa gặp nắng mới, toả khói trắng, ải đi, bở thành mùn.
Trong dải rừng ven núi Rú, tiếng gà rừng cất lên eo óc vào những buổi trưa. Sự quạnh vắng dường như được tiếng gà nhấn sâu thêm. Sương đặc tụ thành đám bùng nhùng trong thung lũng, từ sáng đến trưa vẫn không được giải thoát. Sương cuộn tròn thành nắm giắt trong bụi cây, luồn vào hốc đá.
Trước hôm Kiên rời Kin Chu Phìn, trời đang nắng lại đổ mưa. Bữa rượu chia tay các giáo sinh hết thời hạn dạy lớp xoá mù chữ được tổ chức vào buổi tối tại trường tiểu học ở xã. Bàn kê một dãy dài. Ngoài các giáo viên, giáo sinh, có phó chủ tịch xã Tẩn Phù Siểu, nguyên trưởng thôn Kin Chu Phìn. Mưa càng to, rượu càng say bốc. Mặt đỏ hồng nom đàng điếm kiểu trai lơ, hiệu trưởng Tiến vừa kiên nhẫn nhằn giẻ xương chó vừa khích lệ Kiên:
- Ra trường xin lên đây mà dạy, Kiên ạ, tội đếch gì phải ở thị xã, thành phố. Người ở đấy xúm xít, vón cục lại, trông ai cũng yếu ớt như cua bấy. Muốn hắt hơi một cái cũng không có chỗ. Lên vùng cao được thở khí sạch, ăn rau sạch, ngủ gái sạch. Rượu uống mềm môi, nhai thịt rừng mỏi răng, thỉnh thoảng được xem gái Mèo, gái Mán tắm truồng, đếch cần biết gì đến công nghệ thông tin hay chiến tranh vùng Vịnh. Hề hề!
Ngồi cạnh Tiến là Thanh - đồng nghiệp với Thuận ở một rẻo khác. Mặt Thanh đen như bôi mỡ trộn với bồ hóng, nhọ nồi. Giọng Thanh sào sạc như nhá sỏi.
- Kiên nó ở Kin Chu Phìn nửa năm rồi, lừa nó thế nào được. Thịt sạch ở tít núi Rú, còn dăm mống khỉ còm đấy, ai bắn được mà ăn. Gái sạch mà sẵn thì tao với mày đã không ế vợ. Sắp mọc đuôi ra như thằng Trương rồi!
- Trương nào mọc đuôi? Anh chỉ bịa! - Thuận phì cười.
- Em không biết thằng cha ấy đâu. Hắn lên vùng này cách đây chục năm, ở đội khai thác gỗ, sau làm gác rừng. Một lần về quê, bắt gặp vợ "trai trên gái dưới" với thằng khác, hắn uất quá, sinh ra khinh bỉ đàn bà. Đang ở Xéo Tả Lé, hắn vào rừng sâu dựng chòi để ở đỡ phải nhìn thấy con người. Hồi ấy trong núi Rú còn đầy gấu, khỉ. Bầy khỉ thấy người xuất hiện, trốn biệt, sau mon men ở bìa rừng, thấy hắn hiền như đất, đâm quen. Nhiều hôm chúng vặt quả ném cho Trương, hắn ngồi dưới gốc cây nhặt ăn trừ bữa. Sống với khỉ lâu ngày, hắn cười nghe khẹc khẹc như tiếng khỉ. Những lần tắm suối, hắn thấy có gì nhú ra trong khe thịt ở mông, ngỡ mình mọc mụn. Càng ngày càng thấy vướng, một hôm hắn nhờ người vạch ra xem thử, tái mặt đi. Đó là một cái đuôi dài bốn phân rưỡi. Cười cái đếch gì! Bao giờ về Long Khánh, hỏi gặp thằng Trương lâm trường, em cứ bảo hắn tụt quần ra cho mà xem. Hắn vào bệnh viện cắt đuôi rồi. Vẫn còn vết sẹo thâm sì ở chỗ xương cụt ấy!
Nhớ chuyện Thanh kể về người đà bà mất tích trong núi Rú, Thuận tủm tỉm:
- Trong con mắt đen tối của anh thì ai cũn thành khỉ hết. Đàn ông khỉ, đàn bà khỉ.
- Buồn quá hoá khỉ là chuyện thường - Thanh nhếch mép. Camêra chõ vào chỗ nào thì chỗ ấy toàn hoa ban trắng ngần, hoa đào đỏ thắm. Thế rồi bất ngờ pặp pặp pừ pừ, tí tú tủ, tí tí tủ… khèn sáo réo rắt nổi lên, rượt vít cong cần, trai gái nắm tay nhau ù xoẹ lên cả lũ. Cô gái nào cũng trắng nõn trắng hồng. Cả đời làm bục mặt, lấy đâu mà trắng mà thơm. Tao ở vùng cao nhiều năm, chả thấy gì, chỉ ngửi thấy mùi cứt ngựa.
- Nhìn đời thế cạn lắm! Tôi đổ chén rượu vào mồm anh bây giờ! - Tiến khuỳnh tay, giọng kẻ cả - Sống phải lạc quan. Chưa biết chừng mươi mười lăm năm nữa, ra thành phố, người Dao mình cưỡi xe hơi mà đi, phải không bác Tẩn Pù Siểu?
Ông Siểu gật gù:
- Thầy giáo Tiến nói đúng. Người Mông người Dao nhiều người có ti vi, xe máy rồi. Có đường lối, có quyết tâm thì việc gì cũng làm được cả. Chỉ sợ đến lúc có tiền không biết mua cái gì thôi.
- Hoan hô bác Siểu sáng suốt - Tiến quẳng vội giẻ xương chó xuống gậm bàn, chùi mép - Tóm lại, đến đây chúng ta có thể đưa ra kết luận: sống phải lạc quan và phải biết tận hưởng những gì mình đang có. Thịt chó sạch, gái sạch, rượu sạch đây, nào, cạn!
Tiếng ồn nổi lên. Chén dốc ngược xuống. Thuận cầm chén rượu đi dọc dãy bàn, uốn éo mình xà, nói cười bả lả. Chị uống cạn hết chén này, chén khác. Kiên ngạc nhiên. "Sao hôm nay chị chàng phởn chí thế không biết?".
Tiến thì thào:
- Cùng là giống đực với nhau, anh hỏi thật chú nhé. Ở với chị Thuận từng ấy ngày, chú đã được cho chị… ngửi nách bao giờ chưa?
Kiên không trả lời. Anh chăm chú rót rượu vào cái chén trước mặt. Thứ rượu Nậm Pung từ chai chảy ra mảnh như sợi chỉ óng ánh. Khi viền bọt tăm xôn xao tan hết, trên miệng chén như được tráng một lớp lửa xanh lam.
- Cái tạng đàn bà chân đi bậm bịch, tiếng thở như tiếng rên, mép nổi lông măng, mỗi năm được ngửi hơi chồng có một đôi lần là khát lắm đấy - Tiến lại khơi gợi.
Kiên nhìn quanh, mỉm cười ngượng nghịu:
- Trông chị ấy mọng nước như quả dâu da treo trước mắt, đàn ông ai mà chả thích. Nhưng…
Anh bỏ lửng câu nói, nhìn ra ngoài. Mưa đã ngớt. Chớp rạch xanh lè xa xa. Kiên mường tượng chớp xanh vừa bừng lên gương mặt một người con gái trinh trắng, sáng trong và thánh thiện - thánh thiện đến mức trước cô, không người đàn ông nào dám làm một việc tầm thường, dù chỉ là trong ý nghĩ…
Khi tiễn Kiên và Thuận ra về, Tiến chọc vào sườn Kiên, ghé tai nói nhỏ: "Nhìn thấy bà Thuận, ngựa đực nó còn thèm, nói gì người. Đừng quá sắt đá với mình. Phải biết tận hưởng những gì mình đang có". "Đối với người yêu, em tuyệt đối trung thành" - Kiên đáp khô lạnh. "Để rồi xem" - Tiến nói giọng khiêu khích.
Kin Chu Phìn cách trường chính chừng hai tiếng đi bộ. Kiên cầm đèn pin đi trước. Thuận lảo đảo như trong mơ. Mùi là mục trong rừng xông lên ngai ngái, nồng nồng. Đoạn dốc thoải không có lá phủ trơn truội. Thấy động, con chim gì đập cánh loạt xoạt trong vòm cây tăm tối làm nước mưa vãi xuống rào rào. Thuận kêu ối một tiếng, trượt chân, chúi đầu về phía trước. Kiên vừa xoay mình lại, cả người Thuận đổ ập vào anh. Trong giây lát, cơ thể anh chịu một sức đè tột cùng êm ái. Bàn tay anh vô tình chạm vào eo hông chị, ngón tay lún vào làn da mát rượi, mềm mềm. Mắt Thuận lờ đờ, miệng thở vào mặt Kiên mùi rượu thóc hôi hổi. Một nỗi khát thèm trỗi dậy làm Kiên bủn rủn nhưng anh vội buông tay.
"Con chim đáng chết, làm giật cả mình" - Thuận như bừng tỉnh, cười giòn tan rồi giành lấy đèn pin, xăm xăm đi trước.
Hai người về đến nhà lúc gần mười một giờ. Thuận nằm rất lâu vẫn chưa ngủ được. Được ủ hơi men, những miền nhạy cảm, khát khao trong chị lại cựa quậy. Sự hâm nóng của rượu cùng bóng đêm nhoè nhoẹt vây bọc quanh giọt lửa xanh tù mù, leo lét của cây đèn dầu đồng loã với những ý nghĩ hoang dại. Ở giường bên, Kiên thỉnh thoảng lại trở mình. Hình như anh cũng chưa ngủ. Chỉ vài tiếng đồng hồ nữa, anh sẽ rời khỏi căn nhà và vùng rừng hiu quạnh này, trở về trường sư phạm đông vui ngoài thị xã. Nhớ lại cú đụng chạm ở rừng, Thuận thấy rạo rực, bồn chồn. Cái sinh thể rắn như một cây tre đực ấy đang nằm cách chị chỉ một sải tay. Từ nó toả ra mùi đàn ông cái mùi khen khét, mằn mặn có pha chất nắng, chất gió mà người đàn bà trải đời như chị thoảng qua đã nhận được. Nửa năm qua, hiện hữu ở Kiên, cái mùi ấy thường xuyên giày vò Thuận. Nó hồi sinh trong chị nỗi ám ảnh về mùi cá, mùi bùn.
Đêm yên lặng quá. Thuận nghe thấy tiếng máu chảy giần giật trong người mình. Chị biết mình không còn ở cái tuổi lãng mạn, vin bám vào những tín điều thiêng liêng mà sống như Kiên. Chị chỉ biết mình là đàn bà. Một người đàn bà đã có chồng cần đến thú vui trần thế như cỏ ngải xanh rờn cần mưa, thảo quả cần miếng đất lầy nhầy, ẩm ướt giữa rừng sâu hay những thân vầu, thân nứa tốt tươi cần hít thở sương mù. Đàn bà gần với mặt đất. Đàn bà đồng nghĩa với tự nhiên và dòng đời sinh hoạt bình dị, phàm trần.
Thuận nhớ ngày xưa ở quê chị có một người đà bà goá thủ tiết thờ chồng, từ thời con gái đã nức tiếng là người chính chuyên, hiền thục. Khi người đàn bà ấy ngoài ba mươi tuổi, một người trai trẻ chuyên làm mướn trong làng thường sang nhà chị ta giúp việc vườn tược, đồng áng. Mỗi lần nhìn anh ta cởi trần, gãi đám lông màu râu ngô mọc loăn xoăn trên ngực, người đàn bà lại đỏ bừng mặt và quay vào nhà thắp hương lên bàn thờ chồng. Một đêm mưa bão, người trai trẻ phải ngủ lại ngôi nhà ấy. Trong căn buồng tối, người đàn bà trằn trọc, vật vã suốt đêm. Không biết chị ta nghĩ gì. Chỉ biết đến sáng hôm sau, mái tóc dài, nặng trĩu thường ngày không còn sợi đen nào. Nó đổ trắng hoàn toàn thành mây, thành cước…
Thuận thấy ngực mình căng tức, ngộp thở. Ngọn lửa phấn khích từ men rượu bốc lên hừng rực. Chị kéo chăn phủ kín người, liếc trộm sang giường Kiên rồi lần cởi cúc áo, để trật ra bầu vú căng mẩy. Chị oằn mình trong chăn như một con thú non sập bẫy. Tại sao con người cứ phải giấu giếm, che đậy nỗi khát thèm mà tạo hoá trớ trêu buộc ai cũng có? Tại sao phải tự trói mình bằng sợi dây có tên là đạo đức, coi nó là tư dục, tà niệm xấu xa? Mấy năm qua, chị đã vắt kiệt tuổi xanh tưới bón cho nền giáo dục ở đấy này. Chị không hề nối tiếc. Được cống hiến là một lạc thú cao cấp của con người. Chị chỉ tiếc được làm đàn bà quá ít trong đời. Mà đời người thật là ngắn ngủi.
Kiên bỗng cựa mình, ngoảnh mặt về phía chị. Những sợi tóc đen nhánh và dài trước trán rủ xuống mép giường trông rất hoang dại. Thuận run lên. Chị không cưỡng lại mình được nữa. Chị sẽ ổ ập xuống chiếc giường bên kia như một cây chuối rừng bật rễ. Sự bứt xé điên cuồng. Sự vỡ oà sóng sánh. Sẽ mắc tội một lúc với bốn người. Chị nhoài lên. Bỗng chị sững lại khi liếc nhanh xuống khoảng tối giữa hai chiếc giường, cái khoảng trống lúc này nom sâu hoắm, đen ngòm như một lỗ huyệt.
Có một cái gì vô hình đã ngăn chị lại. Nó giống như một sự kinh sợ của một người sắp sửa chôn sống chính mình.
Năm phút sau, Thuận nằm vật xuống. Mồ hôi rịn ra nhễ nhại ở hai bầu vú. Thân thể như đứt ra trong trạng thái căng thẳng rã rời. Chị cảm thấy tóc trên đầu đang đổ trắng dần dần. Màu trắng của sự giằng giữ, bảo toàn đến tận cùng khốc liệt. Gần sáng, chị thiếp đi. Chị mơ thấy thằng Tốn chết đuối, xác nổi lềnh bềnh trên sông Thao. Con trâu cụt sừng hoá điên, mõm sủi bọt, mắt trợn ngược trắng dã, lồng lộn phi như xé gió quanh bờ. Chị kinh hãi thấy mồm Tốn ngậm một bông hoa gạo đỏ, mình mẩy hồng tươi như chú bé ôm cá chép trong tranh làng Hồ.
Cái xác sạch bong, mũm mĩm của thằng Tốn nhoè dần, một cơn lốc từ đâu thổi tới, cuốn lên thinh không mịt mù những chiếc lá đỏ rực có ba thuỳ. Khi những đốm lửa ấy cháy rần rật, xoay tròn rồi tạn rụng hết, Thuận trông thấy Hà, cô bạn gái của Kiên mà chị chỉ biết mơ hồ qua tấm ảnh. Hai người gặp nhau ở Cán Hồ, cùng lạc trong rừng mận. Điều kỳ lạ là cả Thuận và cô sinh viên trẻ trung đều không mặc quần áo. Tất thảy vẹn toàn, trinh trắng, nguyên thuỷ, ban đầu. Hoa mận trút xuống ào ào thành một cơn mưa trắng xoá, xác hoa dâng ngập bắp chân. Cả hai cứ trần truồng bước đi trong mưa hoa, không thấy ngượng ngùng, người nhẹ bỗng, bâng lâng trong những ý nghĩ siêu thoát và chay tịnh. Tấm thân Hà thơm ngát như một tiên đồng. Lòng Thuận trong vắt, sạch tinh, tuyệt không còn ham muốn.
NỢ ĐỜI (Truyện ngắn của Phạm Ngọc Kiệm)
Ba lạy các con. Ba van các con. Các con tha cho ba, ba biết tội của ba là đáng chết rồi. Ba lạy các con...
Cứ thấy gốc cây to nào trên đường đi, là lão Hinh đứng lại chắp tay vái. Mở chiếc cặp số, chất đầy hương và tiền âm. Lấy ba nén nhang ra thắp cùng tệp tiền xanh đỏ. Mồm lầm rầm líu líu lưỡi nói không ra hơi. Lão vái cho đến khi hương tàn mới thôi, rồi lại đi tiếp. Thấy cây to lão lại dừng thắp hương, đốt tiền âm. Mọi cây to trong làng đều chi chít chân hương do lão Hinh cắm. Rồi lão ra cây đa đầu làng ngồi cho đến lúc nhọ mặt người mới về. Lưng lão càng ngày càng còng xuống, chòm râu dưới cằm càng dài càng quặp vào, không chịu bạc theo mái tóc.
Mùa hè oi ả, nắng như đổ lửa, lão vẫn cứ đi quanh làng. Thằng con rể đã phải thay cửa gỗ gian phòng dùng nhốt lão, bằng cửa sắt, nhưng làm thế nào đó, lão vẫn cứ ra được như thường. Gia đình lừa đưa lão về Châu Quỳ, nhưng chỉ hai ba hôm lại thấy lão về, với tờ giấy xác nhận không có bệnh gì. Chán nản vợ con đành kệ lão muốn làm gì thì làm.
Mỗi khi nhà có khách, lão cung cúc đổ bã pha ấm khác, cả khi ấm nước ấy mới pha còn đặc. Hai tay bưng đưa chén trà bốc hơi, dâng tận tay người, dù già hay trẻ lão chăm chăm chực khách uống xong hớp nào lại tiếp đầy ngay. Không bù ngày còn công tác, đố có ai được mời hớp trà tử tế. Người ta kể, đấy là người ta nói thế, nhưng ai cũng bảo là mình đã chứng kiến. Nhà lão có ba hộp trà và rất nhiều rượu ngâm rắn rết, chân chim sẻ, cá ngựa, tay gấu. Thôi thì đủ các loại tây ta, đầy một tủ,... còn hơn cả tủ rượu phòng lễ tân khách sạn, hay siêu thị. Tùy theo cấp bậc, nấc thang xã hội mà lão mời rượu hay trà ở chai nào, hộp nào.
Lần ấy có một ông khách vào nhà lão liên hệ công việc. Quét ánh mắt qua dáng điệu và nhất là bộ quần áo xoàng xĩnh khách đang bận trên người, lão mời khách luôn ấm trà còn dở. Chân vẫn gếch lên kệ, banh khoang bụng bự như khoe lỗ rốn lồi, ẩn sau lớp áo lụa màu mỡ gà. Lão mặc như các đại gia trong phim Tàu cổ. Chén rượu ngâm thang thuốc Minh Mệnh đặc sánh, làm lão lơ mơ, chỉ thấy khuôn mặt này như đã gặp ở đâu rồi. Nhưng viễn cảnh cuộc gặp sắp diễn ra tại nhà nghỉ, mà đối tác chấp nhận, khiến lão lâng lâng, không thèm lục trong trí nhớ đó là ai, liền bảo khách:
- Có vấn đề gì ông cứ trao đổi với nhà tôi, bây giờ tôi phải đi họp, không có thời gian.
Lão vào phòng thay quần áo, cũng không kịp nhận ra cái cười mỉm nhênh nhếch của người khách.
Đi khỏi nhà chưa được mấy thời gian, chuông điện thoại réo rắt. Lão tắt. Nhưng lại tiếp tục reo liên hồi. Lần thứ ba, buộc lão phải quay người cầm lên xem. Vòng tay đang quàng quanh bộ ngực trắng ngần, chợt thõng xuống. Lão lạnh người nghe tin vợ thông báo: nhân vật X mà lão cần phải tiếp cận, để nhờ thu xếp vụ quay vidio ở khách sạn Thiên Thai chính là người vừa đến gặp, mà lão không tiếp. Nuốt nước bọt đánh ực, không nói thêm một lời, lão quay quả ra xe về lại nhà.
Khom người, bắt tay khách rối rít xin lỗi, lão lập cập mở tủ rượu lấy chai nọ, nhấc chai kia mãi, mới chọn được chai rượu như ý muốn. Hai tay run run rót ra ly pha lê. Người khách không nói, quan sát chủ nhà, trong lòng chợt trào lên một cảm giác khó tả, ông xua nay:
- Thôi để dịp khác, tôi đến cơ quan hỏi hành chính, nghe bảo ông chưa ra nên vào nhà định gặp thì lại bận họp. Thôi để dịp khác tôi làm việc.
Nói xong, ông đứng nhanh dậy, để cho cả hai vợ chồng lão, kẻ vẫn cầm ly rượu, người bưng khay đồ nhắm, đứng sững như trời chồng.
Lão tỉnh táo hay mắc bệnh, không ai xác định được. Nhưng cái bất bình thường ở lão, nhiều khi cũng là cái hơi quá ở người khác mà thôi. Vẫn ăn uống bình thường. Dù đi đâu, chơi ở chỗ nào thì cứ đúng bữa là lão có mặt ở nhà, cái giờ mà xưa nay nhà lão vẫn sắp mâm. Nếu có muộn thì lão ngồi đấy, bưng ra cái gì ăn nấy, không quát nạt, hạnh họe như trước. Mát tính hẳn. Ăn xong ngủ trưa, đúng 13 giờ rưỡi, tiếp tục tua ban sáng còn bỏ dở. Vẫn cái cặp xách tay phải như lên cơ quan.
Bây giờ gặp ai lão cũng niềm nở chào từ xa, bất kể lớn hay bé. Nếu có ai không trả lời, mặt lão thuỗn dài ngẩn ngơ một lát. Đầu lão cúi gằm xuống. Ngày xưa không bao giờ lão chào ai trước, không ít lần, một số nhân viên dưới quyền chậm mồm bị chửi té tát là: Bọn vô văn hoá công sở, bọn không có sợi thần kinh xấu hổ, phải cho đi đào tạo lại về luật công chức.
Từ đó cứ thấy bóng lão là mọi người đứng lại chào to, có đứa chào tới hai ba lần kì tới khi sếp gật đầu chúng mới thôi. Ở cơ quan lão là hoàng đế không ngai. Thích là được, mọi người phải chiều. Bất cứ chuyện gì dù lớn hay nhỏ, đều phải có ý kiến của lão, do lão quyết. Cấp phó để làm cảnh. Ra đường mặt lão ngẩng cao, tia mắt nhìn bao giờ cũng trên đỉnh thóp của kẻ đối diện, giống cái nhìn của loài tinh tinh bắt được mồi.
Mãi thành quen, ai gặp lão cũng mau mồm mau miệng, có kẻ còn nghĩ: ôi dào nhời chào đâu mất tiền mua mà phải tiết kiệm, cứ chào thật rôm cho lão sướng, biết đâu sau này chả có lúc phải nhờ vả, hơn nữa, chào hỏi cũng là một hình thức tự giới thiệu mình với kẻ chưa quen mặt. Mà chào ngoài đường đơn giản hơn là chào trong mâm rượu. Chào trong mâm rượu phải tự viện lí do, phải cung kính xếp hàng, chờ cho đến khi họ chấp nhận, rồi lại phải bắt tay giật giật bấy nhiêu con người, phức tạp bỏ mẹ. Chào ngoài đường bình đẳng hơn nhiều.
Từ ngày về, lão không để ai chào mình trước nữa.
Cũng từ dạo lão về một cục, thằng con rể đâm ra lắm nhời hơn. Những chuyện hậu cung gia đình nhạc phụ đại nhân, theo hơi bia rỉ ra ngày một nhiều. Hắn hận bố vợ nhiều lắm. Hắn phải đánh đổi chức tước để ôm ấp cái của vừa béo vừa lùn, vừa đen, lại có mùi sầu riêng ở nách. Tháo đi cho sếp ngòi quả bom tấn, chỉ rình nổ bất kể khi nào. Nhưng tới bây giờ, tờ quyết định hắn mong, vẫn chưa thấy đâu. Hắn cần chó gì cái chân nằm trong bộ tứ cơ quan đã có thâm niên.
Một lần đứa con gái lão tỉ tê với bố:
- Ba đừng có đề bạt đề bung gì cả. Có chức có quyền là có tiền, có tiền là dễ sinh hư, nó tếch đi theo con khác ngay. Phải duy trì tình trạng 135 nó mới không bỏ con. Cái bọn đào mỏ, mà non hơi tiền là lẩy bẩy như Cao Biền dậy non, cho kẹo cũng không dám ho he. Ba cứ cho nó ăn bánh vẽ, nuôi ảo tưởng hão huyền mạnh vào. Ba mà làm khác, là con gái ba góa bụa sống ngay đấy.
Lão phục con gái, đúng là con nhà tông, chẳng giống lông cũng giống nết, tính toán, nhìn người sâu xa thật.
Lão bỗng sinh ra cẩn thận, không chỉ chuyện ăn mà cả chuyện mặc. Mỗi ngày thay một bộ. Nhưng không bao giờ để vợ con giặt. Lão giặt lấy. Có lần con gái thương bố giặt giũ, lão ngồi nhìn bộ quần áo khóc âm thầm, nước mắt chan hòa, hai bờ vai run rẩy. Chờ cho đến khi bộ quần áo khô. Lão kéo chùi xuống đất cho thật bẩn, rồi ngâm xà phòng giặt lại. Chỉ khi những giọt nước vắt chưa kiệt, rơi lã chã xuống đất, thì nước mắt lão mới dừng. Lão ngồi bệt xuống bậc thềm, hai tay ôm đầu gối, dõi mắt nhìn về cõi xa xăm.
Từ đó không ai giặt quần áo cho lão nữa, kể cả việc kéo vào gấp gọn. Chỉ trừ trời sắp mưa, lão không về kịp.
Ngày nào lão cũng đi và về đúng như thời gian vẫn còn ở nhiệm sở. Hai buổi sớm và chiều. Có hôm mệt không muốn dậy, lão như thấy có người xốc nách dựng dậy kéo đi. Lại hành trình quanh làng trên xóm dưới. Trên những con đường mà tuổi thơ lão đã từng in dấu.
Không ai biết, mà nói cũng chẳng ai tin. Sự việc xảy ra, lão đã tưởng mình mơ. Tayphải cấu vào tay trái, thấy đau nhói. Mới tin điều mình vừa nhìn thấy, vừa nghe được là sự thật.
Ở cây đa đầu làng, lão đã nhìn thấy cô gái bế đứa con trai, ngồi vắt vẻo trên chạc cây. Chỉ lão cười khanh khách, bảo đứa trẻ:
- Đó ba con đó, ông ấy không nhớ hay cố tình quên mẹ con mình rồi. Con được ba tháng trong bụng mẹ thì ông ấy cắt hợp đồng làm việc. Cho mẹ một tháng lương là 1 triệu chín năm chục ngàn và hai triệu để mẹ nạo con đi. Ha..ha..ha, gần bốn triệu cho cả trinh trắng của đời con gái, cộng sinh mệnh của đứa con mới hoài thai. Từ chối phần trách nhiệm và những hứa hẹn chạy biên chế cho mẹ. Ha..ha..ha. con biết không, mấy tháng trời, ông ấy ngày nào cũng vầy vò mẹ đến tả tơi thì thôi. Ngày nào ông ta cũng hứa:
- “Đợt này có biên chế nghiễm nhiên là em chứ còn ai” - và nghiễm nhiên là con cũng hình thành trong mẹ. Đúng vào kì bầu ban chấp hành, không thể tiếp tục giữ mẹ, mặt khác cơ quan lại thêm hai con bé trẻ măng kháu khỉnh. Thế là ông ta lảng dần. Giũ mẹ đi, ông ta bảo: chắc gì cái thai đó là của tôi, em đã dễ với tôi thì cũng có thể dễ với người khác lắm chứ, giải quyết thế, tôi cũng nặng tình nghĩa lắm rồi. Có ai mà nghỉ việc được như em đâu. Sang năm, có biên chế, anh sẽ điện cho em về. Không phải làm lí lịch mới nữa”. Nói xong ông ta lại ôm lấy mẹ.
Tê tái quá, tủi nhục quá, bất ngờ quá, mất tất cả, công việc và cả đời con gái... ha... ha.
Cô gái chỉ vào mặt lão hỏi: Làm thế nào mà năm đó, ông vẫn trúng vào Ban chấp hành được nhỉ ? Ha...ha...
Lão nhớ, lão không quên cái bờ vai tròn lẳn, trắng ngần ấy. Không quên một chi tiết dù là nhỏ trên cơ thể cô gái ấy. Lão bị hút hồn bởi cái khoảng ngực vun cao ngồn ngộn, lún giữa bởi một khe sâu, nửa kín nửa hở sau lần cổ áo khoét rộng đến hớ hênh, khi vô tình lão đứng sau lưng cô, nhìn xuống màn hình máy tính. Lão đã tiêm chất kích thích vào lon nước dâu tây, mà cô gái rất thích uống. Những văn bản mà lão đưa cô đánh gấp để nộp cấp trên, chỉ là những văn bản làm cớ, giữ người sau giờ hành chính. Sau đó, lão vừa dọa vừa vỗ về, dụ dỗ, hứa hẹn, cô ấy yên. Nhưng lão bất cẩn, để lại sản phẩm. Để dẹp yên vụ đó, lão đã tốn không ít cả tiền của lẫn uy tín.
Có điều cứ thấy bọn Hot Girl là lão như bị hớp hồn, thân nhiệt tăng đột ngột như lên cơn sốt. Phải hạ hỏa được mới yên. Thế là lại dính thêm mấy vụ nữa. Cái nghề của lão toàn tiếp xúc với bọn nhầng nhầng măng tơ mới dở. Tiếp xúc hàng ngày, cứ như đập vào mắt, nỗi thèm khát tích tiểu thành đại. Thế là ma đưa lối quỷ dẫn đường cho lão mò mẫm với bất kể giá nào. Tiền lão nặn bóp được chỉ dành để nuôi bọn chíp hôi. Nhưng cái trò ăn vụng ăn tạp, giống như cái kim, lâu ngày cũng phải lòi ra. Những lá đơn tố cáo liên tiếp bay về nhưng vô tang chứng, lão vẫn cứ thoát hiểm một cách ngoạn mục.
Cuối cùng cực chẳng đã, tay anh kết nghĩa đành chuyển lão sang ngành khác.
Lão không còn phải lo giữ cái thể diện, lúc nào cũng phải đạo mạo đứng đắn, nói năng, đi đứng cứ phải nhìn trước nhìn sau. Lão là một thằng đàn ông lại đô con nữa, nếu trời sinh ra lão bớt cái nam tính ấy đi, thì đỡ cho mọi đàn bà, con gái
Bây giờ đến độ sắp lên U60, lão bắt đầu thấy khao khát một đứa con biết vẩy vẩy vót cần câu, để quản lí cái sản nghiệp mà lão đã phải chảy máu tâm can, mới có được. Lão học mấy cha cạnh cơ quan, kiếm bồ gửi giống. Muốn bồ ngon, nái tốt, phải có tiền. Mà tiền thì dễ ợt. Lão chỉ cần tăng số không, nhích dấu phẩy rồi thỏa thuận với nguyên tắc mà cha ông xưa đã dạy: “Của đồng chia ba của nhà chia đôi” là êm lắm rồi.
Ngành lão có con bé thật ngon. Nhưng nó lại có thằng người yêu thật kẻng trai. Dù có hoàn xuân bằng tuổi chúng, thì với hình thức như của lão cũng không dễ đã cưa đổ, lại còn bây giờ quyền hành cũng không được như trước. Bia miệng thì dựng khắp mọi nơi. Bọn đàn bà con gái, khi tiếp xúc, đều kiếm cách đánh trống lảng. Đêm nằm gác tay lên trán, nhiều khi khát khao không ngủ nổi. Từ xưa cho đến bây giờ tình trường chưa bao giờ lão chịu thua cuộc. Định đứa nào được đứa đấy. Quyền - tiền- thủ đoạn, ba mũi giáp công, cứ nhằm vào điểm yếu truyền thống của đàn bà, không kẻ nào cưỡng lại được. Nay để thực hiện ước mơ có mốt thằng cu nối dõi tông đường, lão sẽ đánh đổi tất cả. Muốn thực hiện phải có thời cơ, mưu mẹo, nhất là phải có dã tâm, chỉ còn một chút lương tâm là công cốc, đời chả còn nước bọt để mà phỉ.
Rồi lão bí mật tìm hiểu: Cơ quan thằng kia có văn phòng đại diện ở mãi tỉnh xa. Lão kiếm cớ gặp gỡ với lãnh đạo bên ấy, xin đổi quân cho một thằng lão quen. Thế là một mũi tên trúng hai mục đích, vừa làm giãn cách hai đứa kia, vừa được hàm ơn. Hành xử hàng ngày, hắn tỏ ra đúng mực với mọi người hơi phớt lờ cô bé. Hắn làm cho sự hãnh diện của con gái hơi bị tổn thương, để buộc đối tượng phải chú ý, phải hoài nghi những điều mình đã được nghe, khi có thời cơ là hạ gục.
Thượng Sơn vào mùa du lịch, tấp lập những đoàn khách từ Bắc vào. Lão dẫn đoàn cơ quan hơn chục người đi nghỉ mát. Chọn một khách sạn ở cuối thành phố với lí do gần chợ mới, gần bến cá, tối thường vắng khách hơn các bãi khác. Những buổi đầu lão không tắm cùng mọi người, thường lo giúp mua bán chỉ nơi giá rẻ, cân đủ. Lòng nhiệt tình khiến ai cũng xuýt xoa khen lão tử tế: Mà lão giúp mọi người thật lòng trong đó có nàng.
Sự cảm kích nảy sinh lòng tin, sự giúp đỡ khiến người ta phải chịu hàm ơn cả nể. Chính cái tính thích mua sắm quá độ của đàn bà đã giúp lão thực hiện được dự định của mình. Cái tối khi sang trả tiền vay lão, nàng đã uống cạn lon nước giải khát mà lão đã tiêm sẵn liều kích dục. Khi thuốc hết hiệu lực, thì lão cũng đã vắt kiệt sinh lực được tích cóp trong bấy nhiêu ngày. Lão cho nàng xem đoạn mây mưa đã quay trọn vẹn và dọa nếu không chiều lão nữa, sẽ gửi “meo” cho bạn trai nàng.
Nàng đã chấp thuận theo kế hoạch của lão: chuyển sang làm ở một chi nhánh đóng mãi tận miền trong. Lão mua nhà để khi sinh hạ, hai mẹ con nàng có chỗ ở đàng hoàng, không phải tá túc nơi phòng trọ. Chu đáo là vậy, yên trí về cơ quan một thời gian, lão nhận được thông báo nàng bỏ việc, chuyển đi đâu không ai biết.
Lão đã ngất xỉu khi nhìn thấy hài nhi trai, chỉ còn mảnh đùi và tí chim nhú đầm đìa máu. Vất vểu trên cành gạo già đầu làng cùng những lời nói đau đớn không âm sắc của người đàn bà. Và tiếng kêu “Cứu con với ba ơi!... cứu con... ôi đau quá...
Chỉ khi tàn hương, ngẩng đầu lên nhìn, thì lão mới không thấy những oan hồn con trẻ. Lão sợ, thú nhận và kể hết với vợ, những gì trong quá khứ. Vợ lão cầu cúng, xin giải hạn. Nhưng rồi đi xem nơi nào, cũng thấy nói giống nhau một điều: Lão không điên, cũng không được chết, những cô hồn ấy chưa kịp có tên, nên không thể xua đuổi được. Lão phải chăm sóc chúng theo luật nhân quả, mà trời đã ban hành.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro