Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 2. XU HƯỚNG NHÂN CÁCH


I - KHÁT NIỆM CHUNG VỀ XU HƯỚNG à

1. Định nghĩa

Con người là một thực thể xã hội và không ngừng liên hệ với môi trường xã hội nơi người ta sinh sống và không thể tồn tại phát triển nếu không có môi trường đó. Con người có thể tiếp nhận từ xã hội tất cả những gì cần thiết nhờ hoạt động có chủ định của mình. Nghĩa là, hoạt động của cá nhân trong cộng đồng bao giờ cũng hướng về một mục tiêu nào đó. Không thể có một hoạt động không có mục tiêu, không có đối tượng không có phương hướng. Sự hướng tới này được phản ánh trong tâm lí của mỗi người như là xu hướng của nhân cách. Cá nhân có thể hướng hoạt động của mình vào một đối tượng nào đó có nhiều ý nghĩa đối với bản thân.

Đối tượng ấy có thể phản ảnh vào đầu óc cá nhân dưới nhiều mức độ:

- Mức độ thấp: Cá nhân chỉ mới phản ảnh được hình ảnh của đối tượng.

- Mức độ cao:

+ Hiểu được đầy đủ, sâu sắc đối tượng.

+ Có tình cảm tốt đẹp đối với đối tượng.

+ Có ý chí mạnh mẽ thôi thúc con người đi đến hành động.

Sự hướng tới này của cá nhân thường không phải chỉ diễn ra trong thời gian ngắn mà là lâu dài, thậm chí cả cuộc đời, có tính ổn định. Tâm lí học cho đó là xu hướng của cá nhân.

Một số nhà tâm lí học Liên Xô (cũ) đã đưa ra khái niệm xu hướng như sau:

V N. Miaxisev và N. D. Levitov coi xu hướng nhân cách là lập trường lựa chọn rung cảm riêng của con người đối với hiện thực trong đó có đời sống con người đối với hoạt động.

A. G. Kovalev coi xu hướng là tính tích cực của sự lựa chọn của nhân cách về lập trường và hoạt động.

P. A. Rudik coi xu hướng cá nhân là những nét riêng hay tính chất cá nhân mà khi tổng hợp lại thì xác định các động cơ và các đặc điểm hành vi của con người trong điều kiện của một môi trường xã hội nhất định. Các nét riêng đó là hướng tâm lí cá nhân: nhu cầu, hứng thú, thế giới quan, niềm tin chính trị và tư tưởng cá nhân.

V. S. Merlin hiểu xu hướng là đặc điểm tâm lí xác định khuynh hướng toàn bộ hoạt động của con người trong hoàn cảnh cụ thể.

G. D. Lukoe và K.K. Platonov coi xu hướng nhân cách là biểu hiện hoạt động tích cực hưởng đến việc đạt được mục đích quan trọng của cuộc sống.

X. L. Rubinxtein xếp nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, tâm thế, khuynh hướng vào xu hướng.

Cho dù khác nhau trong việc đề cập đến nhân cách, tất cả các quan điểm nói trên đều cho rằng xu hướng là đặc điểm chủ đạo của nhân cách.

Từ những quan niệm trên đây, ta có thể định nghĩa xu hướng như sau:

Xu hướng là: hệ thống những thúc đẩy quy định tính lựa chọn thái độ và tính tích cực của con người hướng tới mục tiêu có nhiều ý nghĩa đối với đời sống của bản thân

- Hệ thống những sự thúc đẩy:

+ Không phải chỉ có một hoặc hai thuộc tính tâm lí cá nhân hình thành thúc đẩy.

+ Hệ thống tức là nói lên tính khái quát của các mặt biểu hiện, sự hoàn chỉnh của các mặt đó.

+ Quy định tính lựa chọn thái độ của con người đối với hiện thực.

- Tính tích cực của con người:

+ Cá nhân không chỉ là đối tượng, khách thể của quan hệ xã hội mà còn là chủ thể, là một bộ phận tích cực trong sự tác động qua lại đối với thế giới khách quan và trong quan hệ với mọi người.

+ Tính tích cực là yếu tố quan trọng nhất. Con người tích cực là con người sáng tạo ra lịch sử. Sự sáng tạo không phải là tự ý mà là cần thiết dưới sự tác động của những quy luật khách quan xã hội, đồng thời nó cũng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của cá nhân.

2. Các quan điểm nghiên cứu xu hướng nhân cách

Trong tiếng Hi Lạp (entelecheia) nghĩa là có mục đích ở bản thân mình.

- Theo Arixtốt và Chủ nghĩa Kinh viện, chí hướng, tính có mục đích với tính cách là động lực (mục đích luận), bản nguyên tích cực, biến khả năng thành hiện thực.

- Cantơ trong "Đạo đức học": trái với tính chất chính thức của mệnh lệnh tuyệt đối - ông đề ra nguyên tắc giá trị tự thân của mỗi cá nhân, cá nhân này không thể bị hi sinh thậm chí vì phúc lợi của toàn xã hội.

- Các nhà tâm lí học phương Tây đại diện là Mĩ nghiên cứu kích thích vận động hay mục đích mong muốn làm nền tảng cho hành vi. Những vận động như thế thể hiện qua hành vi mang tính cơ bản như thoả mãn cơn khát hay những hành vi thông thường như bước đi trong khi tập thể dục. Họ cho rằng, kích thích vận động: yếu tố định hướng và tiếp thêm sức mạnh cho hành vi. Họ xuất phát từ một ví dụ là Peter Potterfield - một người leo núi dày dạn mô tả tâm trạng của mình khi bị rơi vào những hoàn cảnh khó khăn: đói khát, trượt ngã... Điều gì giúp cho Peter Potterfield phấn đấu để sống còn? Như hầu hết các câu hỏi liên quan đến kích thích vận động, câu hỏi này có một số cách trả lời: rõ ràng các khía cạnh sinh học mong kích thích vận động đều đang hoạt động. Ví dụ: nhu cầu về nước, thức ăn, mặc ấm tác động đến nỗ lực của Potterfield phải tự cứu lấy mình. Nhưng yếu tố nhận thức hiển nhiên trong niềm tin của anh ta cho rằng mình quá trẻ không thể chết được. Sau cùng, yếu tố xã hội - nguyện vọng nhìn thấy gia đình và bạn bè, giúp ý chí muốn sống còn của anh ta thêm vững chắc.

Sự phức tạp của kích thích vận động dẫn đến sự phát triển của nhiều loại tiếp cận khái niệm. Mặc dù dao động ở mức độ khác nhau, các yếu tố sinh học, hành vi, nhận thức và xã hội tất cả đều tìm cách giải thích nghị lực định hướng hành vi con người theo những chiều hướng đặc biệt.

- Theo Thuyết Bản năng của kích thích vận động, con người sinh ra với những tập hợp hành vi đã được lập trình trước cần thiết cho sự sống của họ. Do đó, tình dục được giải thích như một phản ứng đối với bản năng sinh sản và hành vi thăm dò được kích thích bởi bản năng tìm kiếm lãnh thổ của một người.

- Những thuyết về sự giảm xu thế kích thích vận động: Các thuyết giảm xu thế cho rằng, khi con người thiếu một số nhu cầu sinh học cơ bản như nước, một xu thế để đạt đến nhu cầu ấy (trong trường hợp này là xu thế khát) được tạo ra.

Xu thế là một áp lực kích thích vận động hay sự đánh thức tiếp sinh lực cho hành vi để thực hiện một nhu cầu. Nhiều loại xu thế cơ bản như: đói, khát, ngủ và tình dục đều liên quan đến nhu cầu sinh học của có thể hay chủng loài nói chung. Những xu thế này gọi là xu thế sơ cấp. Xu thế thứ cấp: xu thế trong đó không thực hiện nhu cầu sinh học (Ví dụ: nhu cầu thành tựu, nhu cầu xã hội).

+ Thuyết Đánh thức: tìm cách giải thích hành vi được thực hiện bởi sự duy trì hay gia tăng tình trạng bị kích thích. Theo thuyết này, mỗi chúng ta đều duy trì một mức độ kích thích và hoạt động nhất định cũng như mô hình giảm xu thế nếu các mức độ kích thích và hoạt động quá cao thì chúng ta sẽ giảm bớt. Theo thuyết Đánh thức, mỗi cá nhân đòi hỏi có một mức độ đánh thức tối ưu để thực hiện nhiệm vụ, sự đánh thức hoặc là quá cao hoặc là quá thấp sẽ tạo ra kết quả thực hiện tồi tệ hơn. Quan điểm này cho rằng con người cần cố gắng duy trì một số mức độ kích thích và hoạt động, gia tăng hay giảm bớt chúng đều không có lợi. Thuyết Đánh thức được áp dụng và có ý nghĩa trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

+ Thuyết Động cơ: lực kéo của kích thích vận động.

Thuyết này nỗ lực giải thích tại sao hành vi không hoàn toàn do nhu cầu bên trong kích thích. Chẳng hạn, như nhu cầu giảm xu thế hay phải duy trì một mức độ đánh thức tối ưu. Thay vì tập trung vào những yếu tố bên trong, Thuyết Động cơ giải thích sự kích thích vận động phụ thuộc vào kích thích bên ngoài, kích thích định hướng và tiếp sinh lực cho hành vi. Theo quan điểm này, kích thích bên ngoài là kích thích vận động của một người. Chính vì điều này, nhiều nhà tâm lí học cho rằng xu thế bên trong do Thuyết Giảm xu thế kích thích bên ngoài của Thuyết Động cơ không mâu thuẫn với nhau mà thống nhất chặt chẽ với nhau tạo ra sự "đẩy" và "kéo". Xu thế và kích thích cùng phối hợp với nhau trong kích thích hành vi vận động.

F. Engels đã chỉ ra rằng: con người có thể phát triển thêm quyền lợi vật chất, ý muốn, những sự ham muốn, còn kết quả đó là nguyên nhân bên ngoài, hoàn cảnh sống, kinh tế, tinh thần, chính trị...

Xu hướng là đặc điểm quan trọng nhất của nhân cách biểu hiện tính chất cơ bản của con người với tư cách là một tồn tại xã hội. Trên cơ sở đó xu hướng có thể xác định được mục đích sống, giá trị đạo đức và phẩm chất xã hội của con người.

Vấn đề xu hướng cũng như khái niệm xu hướng đã được các nhà tâm lí học Xô viết nghiên cứu khá sâu sắc. Khái niệm xu hướng được X. L. Rubinxtein đưa ra từ những năm 1940. Trong một thời gian dài xu hướng không được xếp vào thuộc tính của nhân cách. Sau đó trong các công trình của mình các tác giả như: P. I. Ivanob, P. A. Rudik (1958) mới coi xu hướng là một thuộc tính đặc điểm nhân cách.

3. Vai trò của xu hướng

a. Xu hướng đóng vai trò chỉ đạo toàn bộ hoạt động tâm lí của con người. Trong các công trình nghiên cứu của Đ N. Udơnátde (1887 - 1943) và các học trò của ông ở Liên Xô (Cũ) như I. I. Bơgialava, V. K Morakitde, IX Pranghisơvili... đã xác định hiện tượng hướng tâm lí (xu hướng) không chỉ xảy ra khi tri giác mà cả trong các hiện tượng tâm lí khác như: tư duy, tưởng tượng, tình cảm, ý chí, tính cách, trong các quan hệ cá nhân, trong hành vi (tức là trong tất cả các trường hợp khi mà con người lập lại sự tác động tương hỗ với môi trường xung quanh trong những điều kiện tương tự nhau). Việc lặp lại nhiều lần các hình thức hành vi nhất định để đáp lại những tình huống xảy ra bên ngoài của môi trường sẽ tạo nên ở con người hướng tâm lí về hoạt động theo một cách nhất định khi tình huống đó tiếp tục nảy sinh.

b. Xu hướng đóng vai trò động lực thôi thúc, kích thích con người hoạt động. Các tài liệu thu được trong các thí nghiệm của trường phái tâm lí Đ.N Udơnátde đã bác bỏ công thức hai thành phần do những người theo Thuyết Hành vi đề ra - một công thức xác định bản chất của hành vi con người khi có sự tác động của môi trường bên ngoài (kích thích - phản ứng). Thuyết hướng tâm lí đã xây dựng cơ sở và lập luận bằng thực nghiệm công thức ba thành phần của hành vi: kích thích - hướng tâm lí - hành vi.

Môi trường bên ngoài tác động vào hành vi của con người không phải trực tiếp, mà là tác động vào chủ thể hoạt động vừa làm thay đổi chủ thể tương ứng với tình huống vừa nảy sinh, vừa gây nên ở chủ thể hướng tâm lí đối với một hành vi nhất định, giữa môi trường bên ngoài và hành vi tồn tại một cơ chế xác định hành vi đó. Thực tế, xu hướng thể hiện như một thuộc tính tạo nên tính hệ thống của nhân cách, quy định đặc điểm tâm lí của nhân cách. Chính thuộc tính này đã thôi thúc cá nhân hành động, thể hiện động cơ và thái độ chủ quan của cá nhân tới các mặt khác nhau của hiện thực. Đó là toàn thể hệ thống các đặc điểm nhân cách. Xét tổng thể, có thể đánh giá xu hướng như là mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội (ý nói những giá trị vật chất lẫn tinh thần đối với cái mà nó làm cho xã hội, đóng góp vào sự phát triển xã hội). Nói như thế có nghĩa, một cá nhân cụ thể tham gia vào các quá trình xã hội khác nhau (tạo ra các điều kiện để chúng phát triển, chống lại, kìm hãm, hay lảng tránh không tham dự vào các quá trình đó) - phụ thuộc vào xu hướng nhân cách. Xu hướng này được tạo ra trong quá trình phát triển nhân cách, trong hệ thống quan hệ xã hội. X. L. Rubixtein nhận xét: "Vấn đề xu hướng - trước tiên đó là vấn đề các khuynh hướng năng động, chúng là động cơ tạo nên hoạt động, còn về phía mình - chúng được tạo ra bởi các mục đích và nhiệm vụ của nhân cách".

Như vậy, xu hướng đóng vai trò định hướng cho hoạt động của con người (trong đó có cả những hành động riêng lẻ). Đồng thời vừa động viên, kích thích những hiện tượng tâm lí cần thiết cho sự định hướng như: nhu cầu, hứng thú, lí tưởng..., vừa mang lại cho chúng một tính chất nhất định (có liên quan đến tâm lí chuyên môn - tâm lí nghề nghiệp). Nội dung của xu hướng thể hiện sự hiểu biết nhất định là, cần phải thực hiện cái gì và thực hiện như thế nào, thời gian bao lâu, trong tình huống đó. Xu hướng dường như chứa đựng trong mình một thuật toán về hoạt động sắp phải tiến hành. Vì vậy, nó xác định trước hoạt động sắp tới của con người.

4. Các loại xu hướng

Dựa trên động cơ chiếm ưu thế, người ta chia xu hướng ra ba loại:

a. Xu hướng cá nhân (xu hướng ích kỉ) dựa trên động cơ cá nhân chiếm ưu thế. Ví dụ: động cơ hạnh phúc riêng cá nhân, an phận cá nhân.

b. Xu hướng tập thể (xu hướng xã hội) được hình thành trên cơ sở động cơ vì tập thể mà tính vị tha chiếm ưu thế.

c. Xu hướng công việc được nảy sinh trên cơ sở động cơ chính là hoạt động nghề nghiệp, như sự say mê, hứng thú công việc, khát vọng tới chân lí, nhận thức...

Tuy nhiên, sự phân loại trên chỉ mang tính tương đối, bởi vì trong một hoạt động thường có nhiều động cơ thúc đẩy. Trong hoàn cảnh nhất định, hệ thống thứ bậc động cơ có thể thay đổi.

Tóm lại, xu hướng là toàn bộ những quan điểm, ý nghĩ và niềm tin của một người đã trở thành chủ đạo trong sự hoạt động của người đó, nhằm đạt đến mục đích tương đối xa và phức tạp có tầm quan trọng đối với người ấy.


II - CÁC MẶT BIỂU HIỆN CƠ BẢN CỦA XU HƯỚNG à

Các biểu hiện xu hướng của cá nhân




Để làm rõ các mặt biểu hiện của xu hướng, một số nhà tâm lí học Xô viết cho rằng cần phải tìm hiểu xu hướng từ tâm thế. Từ tâm thế đó sẽ có nhu cầu, hứng thú, lí tưởng thế giới quan niềm tin.

Đ. N. Udơnatze (1887 - 1943) đưa ra thuật ngữ "tâm thế" (hướng tâm lí) khi nghiên cứu các quy luật tâm lí do ảnh hưởng của thị giác. Theo Đ. N. Udơnatze hành động cơ bản của cơ thể với tư cách là một hệ thống trọn vẹn là trạng thái tâm sinh lí của cơ thể - đó là tâm thế.

Tâm thế "là trạng thái cơ thể xuất hiện ở cá nhân do sự tác động đồng thời của nhu cầu nhất định và hoàn cảnh phù hợp với chúng".

Các công trình nghiên cứu tiếp theo của V.N. Orakiđri và S. Nađiravili... đã xác định rằng: hiện tượng tâm thế không chỉ có trong tri giác mà còn có trong các hiện tượng tâm lí khác: tư duy, tưởng tượng, tình cảm, các quan hệ cá nhân trong các trường hợp khi mà con người lặp lại các tác động tương tự.

1. Tâm thế là gì?

a. Khái niệm

Tâm thế là trạng thái tâm lí sẵn sàng của con người với tư cách là chủ thể hoạt động nào đó của hoàn cảnh bên ngoài. Như vậy, tâm thế xuất hiện do lặp đi lặp lại nhiều lần các hình thức hành vi nhất định để đáp lại những tình huống xảy ra trong môi trường. Trên cơ sở thực nghiệm người ta chia ra các loại tâm thế sau:

- Tâm thế hành vi hướng tới những đối tượng cảm giác cụ thể Đó là tâm thế hành vi thực tiễn.

- Tâm thế hành vi hướng tới đối tượng khái quát. Đó là tâm thế hành vi nhận thức lí luận.

- Tâm thế hành vi hướng tới khách thể xã hội. Đó là tâm thế hành vi xã hội.

Sau này, người ta còn bổ sung hai loại tâm thế nữa: tâm thế thực hiện các lực tâm sinh lí, tâm thế sáng tạo. Muốn hình thành tâm thế thực hiện hành động thì con người phải có nhu cầu về hành động, phải có tình huống tương ứng. Thức ăn và nước uống sẽ không kích thích hành động nếu con người không đói và khát, và nếu như môi trường không có những thứ đó. Sota Nadirasvili (Trường phái Udơnatze) đã biểu diễn tính tích cực tâm lí của cá nhân bằng theo sơ đồ như sau:



Theo lí luận này, tâm thế xuất hiện ở các cá nhân bằng cách thống nhất nhu cầu với hoàn cảnh phù hợp với cá nhân, hoàn cảnh với hành vi cá nhân là thành phần của hiện thực có tác động qua lại với hệ thống nhu cầu của cá nhân.

Trong các công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã vạch ra các yếu tố gây ra tâm thế bao gồm:

- Nhu cầu: sự mong muốn, đòi hỏi của con người được thoả mãn về đồ vật, hiện tượng hay mục đích nào đó.

- Hình dung được năng lực tâm lí của mình: điều đó thể hiện ở mỗi người có khả năng đánh giá mình tạo nên động lực thực hiện hành động này hoặc kiềm chế những hành động khác cho phù hợp với nhân cách của mình.

- Hiện thực vật chất trong đó con người tồn tại bao gồm:

+ Các vật thể, các hiện tượng tác động trực tiếp đến con người.


b. Những yêu cầu của tâm thế trong xu hướng

- Môi trường văn hoá - xã hội chung

- Các nhóm xã hội riêng biệt

- Các nhóm chuẩn nhỏ mà trong đó cá nhân đang sống có vai trò và chức năng trong việc tạo ra tính tích cực của con người. Khi xuất hiện tâm thế hành động theo hướng nhất định thì con người chỉ nhận ra và chú ý đến vật thể và hiện tượng có liên quan đến tâm thế này.

Những hiện tượng và những vật thể không có liên quan sẽ không có ý nghĩa bởi con người không có tâm thế chú ý tới. Điều đó nói lên rằng, tâm thế có ảnh hưởng đến tính tích cực trong sự lựa chọn tác động của con người đến môi trường. Tâm thế là cơ sở thúc đẩy con người thích ứng với môi trường. Nói cách khác, tâm thế giúp con người có thái độ khẳng định hay phủ định đối với khách thể. Chẳng hạn, nếu con người có tâm thế về vấn đề chính trị, xã hội thì trong những trường hợp chưa rõ ràng con người đó vẫn dễ dàng có lập trường tư tưởng đúng đắn.

Tóm lại, tâm thế cho phép con người sẵn sàng thích ứng trước tình huống mới. Dần dần, con người độc lập hơn, tác động đến hiện thực bằng phản ứng đặc trưng cho phong cách của nhân cách của mình. Như vậy, tâm thế đã định hướng nhân cách con người, động viên các quá trình tâm lí để đáp ứng những hoạt động nhất định, xác định trước hành vi xảy ra của con người.

2. Những mặt biểu hiện của xu hướng

Trong cuộc sống hàng ngày, xu hướng được biểu hiện ra bên ngoài ở nhu cầu, hứng thú, lí tưởng cũng như thế giới quan và niềm tin.

2.1. Nhu cầu

a. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề nhu cầu

Từ rất lâu, các nhà triết học, tâm lí học, văn hoá học... đã tập trung nghiên cứu vấn đề này.

- Quan niệm về nhu cầu trong triết học macxit

C. Mác cho rằng nhu cầu của con người tuỳ thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan, chịu sự quy định của trình độ sản xuất xã hội. Trình độ phát triển của nhu cầu gắn liền với trình độ phát triển của phương thức sản xuất.

Khi nhu cầu sống còn của con người được thoả mãn thì ở mỗi con người lại xuất hiện những nhu cầu mới. Việc sinh ra những nhu cầu mới này, theo C. Mác, đó là sự vận động phát triển của nhu cầu.

Trong phép biện chứng tự nhiên, F. Engels đã khẳng định vai trò quan trọng của nhu cầu trong hoạt động của con người và xã hội. Ông coi nó như một nhân tố quyết định hoạt động của con người và xã hội.

- Quan niệm về nhu cầu trong tâm lí học phương Tây: Trong tâm lí học phương Tây, vấn đề nhu cầu được nghiên cứu trước tiên ở động vật. Vào thế kỉ XIX, V. Koller, E. Thorndike, N.E. Miller... nghiên cứu các kiểu hành vi động vật được thúc đẩy bởi nhu cầu. Họ đã đưa ra thuật ngữ Luật hiệu ứng để giải thích sự liên hệ giữa kích thích và phản ứng của cơ thể. Trên cơ sở đó, họ đề xướng lí thuyết Nhu cầu có thể quyết định hành vi.

Theo hướng này, có thể kể đến một số trường phái tâm lí học sau:

+ Phân tâm học, đại diện là Sigmun Freud (1856 - 1939) - Bác sĩ người áo, đã đưa ra các quan điểm cơ bản mà được coi như là hệ phương pháp luận để nghiên cứu các hiện tượng tâm lí khác nhau như sau: Mọi hiện tượng tâm lí đều cần có năng lượng nuôi dưỡng có nghĩa là yêu thương, ghét, sợ, tài năng, ý chí phải được nuôi dưỡng bằng vật chất.

S. Freud và U. Mc. Dougall đã đề cập tới vấn đề nhu cầu trong lí thuyết bản năng của con người. Có thể khái quát quan niệm của các tác giả trên như sau:

Thế giới được tạo ra từ đơn giản đến phức tạp. Đơn tử đơn giản tạo ra thế giới vô sinh, đơn tử phức tạp tạo ra thế giới hữu sinh. Trong con người, mỗi đơn tử có thể có nhiều trạng thái ý thức hay vô thức. Cái bản năng bao giờ cũng thắng cái ý thức, cái vô thức phải thắng cái lí trí. Ở con người, bản năng tình dục là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy con người hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: văn hoá, khoa học, chính trị, nghệ thuật...

Mọi nhu cầu của con người, mà đặc biệt là nhu cầu tình dục, được thoả mãn bằng nhiều cách thật, giả (giả là trong giấc mơ), và chỉ có như vậy con người mới tiêu hết năng lượng sinh lí. Phân tâm học chủ trương coi trọng nhu cầu tự do cá nhân, như các nhu cầu tự nhiên, đặc biệt là nhu cầu tình dục. Theo đó: việc thoả mãn nhu cầu này là giải phóng năng lượng tự nhiên, và như thế tự do cá nhân mới thực sự được tôn trọng. Việc kìm hãm tình dục sẽ dẫn đến mọi hành vi mất định hướng của con người.

Lí thuyết bản năng trở thành trung tâm tranh luận của các nhà nghiên cứu tâm lí học phương Tây ngay từ lúc hình thành và kéo dài cho tới những năm 30 của thế kỉ XX. Nhưng cuối cùng họ cũng bế tắc khi sử dụng lí thuyết bản năng để giải thích các hành vi văn hoá và văn minh của con người.

Lí thuyết Động cơ hệ, do K. Levin đề xướng, tiếp theo là những công trình của các đại diện cho trường phái tâm lí học Nhân văn như A. Maslow. G. Allport, K. Rodzere và một số người khác.

+ Trường phái Tâm lí học hành vi do nhà tâm lí học hành vi người Mĩ J. Watson (1878 - 1958) khởi xướng, chủ trương không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể. Với công thức S - R, các nhà tâm lí học hành vi đã đồng nhất phản ứng với nội dung phản ánh bên trong, làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lí con người. Về sau này các nhà tâm lí học hành vi mới bổ sung vào công thức S - R những biến số trung gian và những hành vi tạo tác.

+ Trường phái Tâm lí học nhân văn với đại diện là nhà tâm lí học Abraham Maslow (1908 - 1966). Với lí thuyết Phân cấp nhu cầu, trường phái này đã nhìn nhận nhu cầu của con người theo hình thái phân cấp, sắp xếp theo thứ tự tăng dần từ nhu cầu thấp đến nhu cầu cao nhất.

Mức thứ nhất: nhu cầu sinh lí - đây là nhu cầu cơ bản để duy trì bản thân cuộc sống của con người. Khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác sẽ không có tác dụng thúc đẩy hoạt động của con người.

Mức thứ hai: nhu cầu an ninh, an toàn - đó là nhu cầu tránh sự nguy hiểm về thân thể, sự đe doạ mất việc làm, mất tài sản, thức ăn hoặc nhà ở.

Mức thứ ba: nhu cầu xã hội - là thành viên của xã hội nên con người có nhu cầu giao lưu với người khác và được người khác thừa nhận.

Mức thứ tư: nhu cầu được tôn trọng - là xu thế muốn được độc lập và muốn được người khác tôn trọng của con người khi được chấp nhận là thành viên của xã hội. Đó là nhu cầu về quyền lực, uy tín, địa vị và lòng tự tin.

Mức thứ năm: nhu cầu tự khẳng định - đó là mong muốn thể hiện hết khả năng, bộc lộ tiềm năng của mình ở mức tối đa để thực hiện mục tiêu nào đó. Theo A.Maslow, tuy phân chia các mức độ như vậy song vị trí của chúng trên tháp nhu cầu không phải là cố định mà nó linh hoạt thay đổi tuỳ theo điều kiên cụ thể. Từ đó có thể vẽ thành mô hình sau:

Trong quá trình phát triển của cá nhân, các nhu cầu đó tạo nên một kiểu dạng tháp, có thứ bậc. Tuy nhiên, việc đề cập đến nguyên nhân phát sinh động cơ và mức độ thứ bậc của ông rất đáng nghi ngờ. Theo A.Maslow, những nhu cầu thuộc về sinh lí (đói, khát, tình dục...) nằm ở đáy tháp, một số trong chúng tuân thủ nguyên tắc cân bằng trạng thái.

Mức tiếp theo - nhu cầu về sự an toàn, Maslow khác với các tác giả theo trường phái sinh học coi đó là sự thể hiện bản năng tự vệ, Maslow coi nó là sự cần thiết phải có trật tự, ổn định. Mức thứ ba nhu cầu lệ thuộc (Affliation): nhu cầu có trong một nhóm người nào đó, nhu cầu về giao tiếp v.v... Mức thứ tư - nhu cầu được tôn trọng, có uy tín (Esteem). Cuối cùng là nhu cầu tự biểu lộ thể hiện những năng lực của mình, nhu cầu trong sáng tạo, tự thể hiện (Selfactualization).

Tháp Maslow bao gồm cả những nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, đặc điểm của các mức độ nêu trên là vô định. Maslow xem xét nhu cầu của cá nhân một cách trừu tượng, tách nó ra khỏi hệ thống quan hệ xã hội, đặt nhu cầu của cá nhân nằm ngoài mối liên hệ xã hội và những mối liên hệ quan hệ của cá nhân với những người khác.

- Trong tác phẩm Những vấn đề lí luận và phương pháp tâm lí học, tác giả B. Ph. Lomov (1927 - 1989) - nhà tâm lí học Nga đã nhận xét rằng: "Tháp Maslow bao gồm cả những nhu cầu có nguồn gốc sinh học và xã hội. Nhưng, đặc điểm của các mức độ nêu trên hết sức vô định".

Vroom, đại diện cho hướng tiếp cận nhu cầu với tư cách là động cơ thúc đẩy đã đưa ra một lí thuyết đáng chú ý là: Lí Thuyết Động cơ thúc đẩy theo hi vọng. Vroom cho rằng: Động cơ thúc đẩy con người làm việc được quy định bởi giá trị mà họ đặt vào kết quả cố gắng của họ (dù là tích cực hay tiêu cực), được nhân thêm bởi niềm tin mà họ cho rằng sự cố gắng của họ sẽ được hỗ trợ thực sự để đạt được mục tiêu.

Theo ông, động cơ thúc đẩy là sản phẩm của giá trị mong đợi mà con người đặt vào mục tiêu và những cơ hội mà họ thấy sẽ hoàn thành được mục tiêu đó. Quan điểm của Vroom đã khắc phục được tính đơn giản trong cách tiếp cận của A. Maslow và Herzberg, nó có thể lí giải được động cơ hành động của con người trong những trường hợp khác nhau. Về các nghiên cứu nhu cầu của các nhà tâm lí học phương Tây chắc chắn sẽ còn nhiều điều cần bàn luận, nhưng nhìn chung có chung một quan niệm là: Nhu cầu con người là những đòi hỏi tất yếu, khách quan được con người phản ánh trong những điều kiện cụ thể, cần được thoả mãn đê đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của họ.

- Vấn đề nhu cầu trong tâm lí học macxit:

+ Người đầu tiên đề cập một cách sâu sắc tới vấn đề nhu cầu là D. N. Uznatze. Trong cuốn "Tâm lí học đại cương" (1940), ông cho rằng: "Không có gì có thể đặc trưng cho một cơ thể sống hơn là sự có mặt ở nó các nhu cầu... Nhu cầu, đó là cội nguồn của tính tích cực, với ý nghĩa này thì khái niệm nhu cầu rất rộng... Các nhu cầu phát triển và điều không thể phủ nhận là con người ở giai đoạn phát triển cao nhất có vô số nhu cầu mới, chúng không những không có ở động vật mà còn không thể có ở con người trong giai đoạn phát triển sơ khai".

+ Nhà tâm lí học người Nga R. S. Nhemov đã đánh giá: "Ở giai đoạn này của sự phát triển khoa học tâm lí, các lí thuyết về động cơ hoá đã cố gắng giảm tới mức tối thiểu về sự khác biệt giữa người và động vật".

+ A.G. Kovaliov trong lí luận bàn về nguồn gốc của tính tích cực bên trong của con người đã đưa ra khái niệm nhu cầu như sau: Nhu cầu là đòi hỏi của các cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau muốn có những điều kiện nhất định để sống và phát triển... Theo ông, một nhu cầu khách quan nào đó trước khi trở thành động lực thúc đẩy tính tích cực của con người đã được con người ý thức.

+ A. N. Leonchiev (1903 - 1979), người đề xuất Lí thuyết nguồn gốc hoạt động của phạm vi động cơ hoá của con người, quan niệm rằng: nhu cầu cũng như các đặc điểm tâm lí khác của con người có nguồn gốc trong hoạt động thực tiễn. Theo ông, nhu cầu thực sự bao giờ cũng phải là nhu cầu về một cái gì đó và "hoạt động và duy nhất chỉ có trong đó mà thôi, các nhu cầu mới có được tính cụ thể về mặt tâm lí học". Ông mô tả nguồn gốc của nhu cầu - cũng như mối quan hệ của nó với hoạt động bằng sơ đồ: Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động. Theo ông, đây là luận điểm có ý nghĩa quan trọng đối với tâm lí học.

+ Trong khi phân tích bản chất nhu cầu, A.A. Xmirnov cho rằng, nhu cầu của con người được thể hiện dưới dạng các ước ao và ý hướng ở chủ thể. Theo ông: Mang ý nghĩa báo hiệu sự xuất hiện của nhu cầu hay sự thoả mãn nhu cầu, mà các ước ao và ý hướng đó điều chỉnh hoạt động của con người bằng cách làm cho hoạt động ấy xuất hiện, tăng cường hay làm yếu nó đi.

+ X L. Rubinstein đã bàn nhiều về nhu cầu. Theo ông, con người có nhu cầu sinh vật, nhưng bản chất của con người là sản phẩm của xã hôi, vì thế cần phải xem xét đồng thời nhu cầu với các vấn đề cơ bản của con người. Khi nói đến nhu cầu, sẽ xuất hiện hai hệ thống mà ta dễ nhận ra đó là: thế giới đối tượng và trạng thái tâm lí của chủ thể. Hay nói cách khác, đó là mối quan hệ thống nhất giữa hai yếu tố khách quan (của đối tượng) và yếu tố chủ quan (của chủ thể) trong hoạt động thoả mãn nhu cầu.

+ B. Ph. Lomov tuy không đặt nhu cầu như một vấn đề riêng biệt, nhưng trong các nghiên cứu cửa mình về nhân cách, ông đã đề cao và coi nhu cầu như một thuộc tính căn bản của nó. Theo ông: "Nhu cầu cá nhân là đòi hỏi nào đó của nó về những điều kiện và phương tiện nhất định cho việc tồn tại và phát triển. Nhu cầu đó nhất thiết bắt nguồn từ những quá trình xảy ra có tính khách quan trong đó cá nhân tham dự vào suốt cả đời sống của mình".

Không chỉ đề cập đến nhu cầu như một thuộc tính của nhân cách, B. Ph. Lomov còn chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa nhu cầu và động cơ hoạt động của cá nhân. Theo ông: "Lĩnh vực động cơ của nhân cách có liên hệ chặt chẽ với những nhu cầu chế định hành vi của con người một cách khách quan và có quy luật. Động cơ là sự biểu hiện chủ quan của nhu cầu, là vị trí gián tiếp của nhân cách trong xã hội".

+ Trong tâm lí học macxit còn có nhiều người tiếp cận vấn đề nhu cầu ở các góc độ khác nhau như nhà tâm lí học L. I. Bojovich, R. S. Nhemov. v.v... không chỉ vận đụng lí luận về nhu cầu vào các lĩnh vực hoạt động thực tiễn mà họ còn bổ sung, làm phong phú hơn lí luận về các loại nhu cầu đặc trưng của con người.

- Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu nhu cầu trên khách thể là học sinh, sinh viên và một số nhóm quần chúng nhân dân đã được thực hiện trong các khóa luận, luận văn, luận án của sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh... Các công trình ở Việt Nam đã góp phần làm rõ thêm lí luận nhu cầu của tâm lí học macxit trong các lĩnh vực thực tiễn, đặc biệt là trong giáo dục. Hầu hết các công trình ở Việt Nam đều nhằm phát hiện các đặc điểm và biểu hiện của nhu cầu trong các hoạt động cụ thể của con người, trên cơ sở lí thuyết và thực nghiệm tìm ra giải pháp làm thoả mãn và nâng cao hơn nữa chất lượng của nhu cầu đó.

b. Khái niệm về nhu cầu

Giống như các thực thể sống khác, để tồn tại, phát triển con người cũng cần có những điều kiện và phương tiện nhất định: "Con người phải có sự giao tiếp với thế giới bên ngoài, phương tiện để thoả mãn các nhu cầu của con người: thức ăn cá thể khác giới, sách báo, giải trí, tranh luận hoạt động, vật dụng tiêu thụ và lao động...

Tất cả những điều ấy gọi là nhu cầu. Vậy nhu cầu là gì?

Nhu cầu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của con người đối với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn đê tồn tại và phát triển.

Nhu cầu là những đòi hỏi khách quan của mỗi người trong những điều kiện nhất định đảm bảo cho sự sống và sự phát triển của con người.

Khác với nhu cầu mang tính bản năng của loài vật, nhu cầu của con người mang tính xã hội (ngay cả nhu cầu sinh học: ăn uống, sinh hoạt tình dục.. cũng được xã hội hóa). Nhu cầu của con người thay đổi và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội.

c. Những đặc điểm cơ bản của nhu cầu

- Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng cụ thể:

Người ta luôn có nhu cầu về một cái gì đó, không có nhu cầu chung chung.

+ Nội dung cụ thể của nhu cầu thường là một vật thể mà người ta đã cố gắng để có được; hoặc một hoạt động nào đó mà con người muốn được thoả mãn (một công việc, một buổi tham quan...)

+ Cá nhân nhận thức rõ ràng về nhu cầu và kèm theo nó là trạng thái cảm xúc tiêu biểu (tính hấp dẫn của đối tượng liên quan đến một nhu cầu nhất định).

+ Làm cho con người nảy sinh ý chí thúc đẩy phải thoả mãn nhu cầu đó, thậm chí phải tìm kiếm những cách thức để thoả mãn nhu cầu đó. Vì vậy, nhu cầu là một trong những động cơ mạnh mẽ nhất thúc đẩy các hành vi ý chí.

- Nhu cầu có nhiều mức độ khác nhau:

+ Mức độ thấp: đối tượng còn mơ hồ chưa được xác định cụ thể - chỉ mới xác định về loại. Ví dụ: con người cảm thấy cần ăn, cần giải trí... nhưng ăn cái gì? giải trí cái gì ở đâu? chưa được xác định.

+ Cụ thể hơn: một nhu cầu nào đó được nhận thức về mặt đặc trưng từ đó xác định ý nghĩa của nó đối với đời sống. Trên cơ sở đó sẽ định hướng cho hoạt động của con người. Ví dụ: nhu cầu đọc sách, nhu cầu giao tiếp với ai đó.

+ Có sự tham gia của tư duy tạo ra phương tiện để thoả mãn nhu cầu, có ý chí dẫn đến hành động để đạt được sự thoả mãn nhu cầu ấy.

Engels đã viết: các nhu cầu đi qua đầu óc con người nghĩa là được ý thức biểu hiện dưới dạng ý chí. Nhờ sự tăng cường ý chí và tính kiên cường mà con người khắc phục được những khó khăn trên con đường tìm đến mục đích và giải quyết được trong thực tế nhiệm vụ đề ra, nhiệm vụ có liên quan thế nào đấy đến sự thoả mãn nhu cầu.

- Nhu cầu bao giờ cũng có nội dung cụ thể, do những điều kiện và phương thức thoả mãn của nó quy định.

Điều kiện sống quy định nội dung, đối tượng của nhu cầu. Mọi nhu cầu đều là hình thức đặc biệt phản ảnh những điều kiện sống bên ngoài: Nội dung cụ thể của nhu cầu. còn phụ thuộc vào phương thức thoả mãn. Phương thức thoả mãn nhu cầu lại tuỳ thuộc vào tri thức, mục đích, động cơ, nhân cách, hoàn cảnh cuộc sống của con người.

Nhu cầu có tính chất chu kì, khi thoả mãn một nhu cầu nào đó không có nghĩa nhu cầu ấy bị chấm dứt. Nhu cầu của con người như đã trình bày, luôn thay đổi và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Tính chất chu kì này do tính chất chu kì của sự biến đổi của hoàn cảnh sống xung quanh và của trạng thái cơ thể gây nên khi đó nhu cầu được tái hiện, củng cố, phát triển và phong phú.

Như vậy, đối tượng, nội dung, tính chất chu kì của nhu cầu là do xã hội quy định. Mức độ phát triển của nhu cầu do tính chất của sản xuất xã hội và phân phối sản phẩm quyết định. Điều đó cũng giải thích mức độ phát triển nhu cầu khác nhau của những con người trong các xã hội khác nhau, nền sản xuất khác nhau...

d. Cơ sở sinh lí của nhu cầu

- Nếu cơ thể là một khối thống nhất thì mỗi nhu cầu trong chừng mực nào đó đều là nhu cầu của cả cơ thể và đối với con người thì đó là toàn bộ nhu cầu của cá nhân. Do đó, chúng ta thấy rằng, khi nhu cầu hình thành hoặc biểu hiện ra thì nó sẽ xâm chiếm hoạt động toàn bộ cơ thể, đặc biệt là hệ thống những liên hệ nội tạng và liên hệ giữa cơ thể với môi trường đã được hình thành trong quá trình tiến hoá giống loài cũng như tiến hoá cá thể.

- Mới đầu, nhu cầu được phản ánh vào ý thức, dưới hình thức những cảm giác đói, khát, lạnh... Những cảm giác này quyện lẫn với xúc cảm và vì thế chúng ta cảm thấy nó dưới hình thức một sự xốn xang, khó chịu... Theo sự liên tưởng, các cảm giác đó sẽ gợi nên trong ý thức hình ảnh sự vật có thể làm thoả mãn nhu cầu. Hình ảnh này chính là cái ta thường gọi là niềm ao ước. Trên cơ sở một trạng thái cảm xúc nhất định, hình ảnh này sẽ tác động đến hệ cảm giác và hệ vận động và sẽ thúc đẩy con người hành động.

Sự ao ước có sức thúc đẩy rất lớn. Ở động vật, một cảm giác mơ hồ, một hình ảnh, có thể đưa ngay đến hành động, đến động tác tìm tòi: nó bắt đầu hít hít, dỏng tai nghe ngóng, xem xét sự vật (tác động của phản xạ định hướng tăng lên theo "sức ép" của nhu cầu). Ở con người để phản ánh một nhu cầu nào đó sẽ phức tạp hơn nhiều. Sự xung động vừa hình thành hay là sự thúc đẩy ban đầu đó sẽ được liên hệ với điều kiện hoàn cảnh bên ngoài, cũng như với xu thế tâm lí đạo đức bên trong của cá nhân (mục đích, động cơ...). Quá trình liên hệ này thực hiện được là nhờ có tư duy (phân tích điều kiện, phương tiện và con đường giải quyết vấn đề, lường trước các hậu quả...). Từ đó, nhu cầu sẽ kích thích hoạt động tư duy hướng nó vào việc tìm tòi những phương tiện thoả mãn nhu cầu.

- Sinh lí học về hoạt động thần kinh cấp cao của I. P. Paplov (nhà sinh học tài năng của Liên xô cũ) đã làm sáng tỏ cơ chế vô cùng phức tạp của việc gợi lại các nhu cầu của động vật cấp cao và con người.

+ Chúng ta đều biết rằng, hoạt động thần kinh cấp cao có vai trò điều chỉnh toàn bộ hoạt động sống của cơ thể, phần dưới vỏ não cùng với những phản xạ không điều kiện của nó; điều chỉnh các nhu cầu của cơ thể. Đây là nơi tập trung những trung tâm đặc biệt, đại diện cho nhu cầu căn bản của động vật cấp cao cũng như của người: ăn uống, sinh dục, tự vệ... Các trung tâm này thực hiện hoạt động điều chỉnh tự động ban đầu với các chức năng sinh sống của cơ thể.

+ Quá trình hưng phấn của bộ phận dưới vỏ não phản ánh đòi hỏi của môi trường bên trong cơ thể, khi lan toả ra sẽ xâm chiếm toàn bộ vỏ đại não và nhờ đó sức làm việc của vỏ não được tăng cường (ở đây lại có đại diện của vô số những tín hiệu về môi trường bên ngoài). Do đó, những đòi hỏi bên trong cơ thể sẽ gắn bó với những tín hiệu của môi trường bên ngoài và xác định được đối tượng của nhu cầu... Nếu không như vậy thì không thể nào thoả mãn được nhu cầu trong những điều kiện phức tạp của cuộc sống.

+ Chức năng cơ bản của vỏ não là làm cho những động lực bên trong khớp với điều kiện bên ngoài, với yêu cầu của hiện thực, nhờ đó mà có khả năng thoả mãn những nhu cầu của cơ thể một cách phù hợp nhất. Có được sự ăn khớp đó là nhờ sự phân tích và tổng hợp những kích thích bên trong và kích thích bên ngoài. Sự hình thành phản xạ có điều kiện là một quá trình phân tích, tổng hợp. Nếu một kích thích bên ngoài có ý nghĩa đối với cơ thể, tức là đáp ứng được nhu cầu của cơ thể bằng cách nào đó thì sẽ được tách bạch khỏi cả hệ thống kích thích rất phức tạp và được liên kết với những kích thích bên trong cơ thể. Nhờ đó, cơ thể có thể định hướng một cách tinh vi, chính xác trong rất nhiều phương tiện thoả mãn nhu cầu và có thể thực hiện hành động thoả mãn nhu cầu. Như vậy, nhờ sự hình thành những phản xạ có điều kiện mà các nhu cầu có đặc tính là hướng về những đối tượng nhất định và hoạt động của cá nhân thì mang tính chất có mục đích.

+ Tuy nhiên, ngoài nhiệm vụ đó, vỏ não có vai trò điều chỉnh tính chất cứng nhắc của bộ phận dưới vỏ não. Vỏ não sẽ kiềm chế những xu hướng nào của cơ thể không đáp ứng với hoàn cảnh bên ngoài lúc đó hoặc với những yêu cầu của các động cơ cao cấp của xã hội. I. P. Paplov chỉ rõ rằng, vỏ não tác động đến dưới vỏ não bằng hai cách: tác động tích cực hay hưng phấn và tác động tiêu cực hay ức chế.

I. P. Paplov viết: "Mặc dầu sự sống của động vật và chúng ta đều do những thiên hướng cơ bản của cơ thể chi phối: ăn uống, tính dục, tấn công, tìm tòi... (các chức năng của phần ngay dưới vỏ não) nhưng để điều hoà và thực hiện tất cả những thiên hướng đó một cách hoàn hảo thì do những điều kiện chung của sự sống, nhất thiết phải có một phần đặc biệt nào đó của hệ thần kinh trung ương có nhiệm vụ làm dịu bớt bất cứ một thiên hướng riêng rẽ nào, rồi điều hoà tất cả những thiên hướng đó với nhau và đảm bảo thực hiện chúng một cách thích hợp nhất với hoàn cảnh bên ngoài. Dĩ nhiên bộ phận đó là các bán cầu đại não".

+ Trên các bán cầu đại não này có đại diện của các thứ nhu cầu các ấn tượng về môi trường bên ngoài, có những dấu vết của các kích thích, các kinh nghiệm trước đây. Như vậy là có tất cả kinh nghiệm đã được tích lũy trước đây về mối quan hệ lẫn nhau giữa môi trường và cơ thể. Do kinh nghiệm này mà nhu cầu xuất hiện trong lúc đó sẽ biểu hiện thông qua sự hiểu biết những điều kiện và phương tiện thoả mãn nhu cầu đó. Vì thế, hành động thoả mãn nhu cầu sẽ trở thành một quá trình ý thức và có mục đích. I. Paplov cho rằng: "Như vậy có hai phương thức hành động. Sau khi các bán cầu đại não kiểm soát sơ bộ (tạm gọi như vậy, mặc dù chỉ trong nháy mắt) thiên hướng đó và chuyển hoá nó một cách đúng mức và đúng lúc thành một hành động hay hành vi tương ứng thông qua vùng vận động của vỏ não. Đó là các hành động có lí trí. Còn cách hành động thứ hai (có lẽ được thực hiện trực tiếp qua các liên hệ dưới vỏ não) thì chỉ chịu ảnh hưởng của thiên hướng mà thôi. Không có sự kiểm soát sơ bộ nói trên. Đó là phương thức hành động bồng bột, cuồng nhiệt".

Tóm lại, từ cơ sở sinh lí, I. P. Paplov đã vạch ra hai hình thức biểu hiện của nhu cầu. Trong trường hợp thứ nhất, nhu cầu được phản ảnh vào các bán cầu đại não, được ý thức và biểu hiện dưới dạng một hành động có lí trí. Nói cách khác là hành động có ý chí. Trường hợp này tiêu biểu nhất cho con người và có đặc điểm là quá trình thoả mãn nhu cầu tiến hành thông qua các hiểu biết và kinh nghiệm sống. Nói cách khác, trong trường hợp đó, theo lời Engels, nhu cầu của con người đã đi qua đầu óc của nó, tức là được ý thức và biểu hiện ra trong ý chí của con người. Trường hợp thứ hai về biểu hiện của nhu cầu chỉ thấy có ở người trong trường hợp ngoại lệ. Nó có đặc điểm là hành động để thực hiện ý hướng mang tính chất bồng bột hay nói đúng hơn là bột phát, ít được ý thức.

e. Các loại nhu cầu

Nhu cầu của con người vô cùng phong phú, đa dạng. Thông thường, người ta dựa vào xu hướng của nhu cầu để chia thành các loại cơ bản sau:

- Nhu cầu vật chất: là cơ sở cho sự sống, tồn tại, phát triển của con người và con vật.

Nhu cầu vật chất là nhu cầu có trước nhất. Nó là cơ sở cho hoạt động sinh sống của con người. Để tồn tại con người phải ăn, phải mặc, phải có chỗ ở. Những nhu cầu này hình thành trong quá trình phát triển giống loài và phát triển xã hội lịch sử của con người. Vì thế, nó trở thành thuộc tính giống loài của con người. Toàn bộ lịch sử đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh xã hội của con người là cuộc đấu tranh trước hết để thoả mãn các nhu cầu vật chất.

"...Người ta sống rồi mới có thể tạo ra lịch sử" nhưng muốn sống được thì cần phải ăn, uống, mặc, ở và một vài thứ nữa. Như vậy, hành động lịch sử đầu tiên là sự sản xuất ra những phương tiện cần thiết để thoả mãn các nhu cầu đó, tức là sự sản xuất bản thân đời sống vật chất, một điều kiện cơ bản của mọi thứ lịch sử, mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm trước đây người ta phải tiến hành hàng ngày, hàng giờ cốt để cho con người có thể sống được.

+ Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, khi lao động được giải phóng khỏi sự bóc lột thì cuộc đấu tranh để thoả mãn nhu cầu vật chất sẽ bớt gay gắt, vì toàn bộ xã hội, nhà nước sẽ tập trung chú ý để giải quyết nhu cầu của con người, để sản xuất những phương tiện sinh sống. Điều đó có một ý nghĩa rất cơ bản.

+ Việc thoả mãn nhu cầu vật chất cho tất cả mọi người sẽ tạo điều kiện giải phóng nhân cách con người khỏi những thói hư tật xấu như (tham lam, ganh tị, trộm cắp...).

+ Nhu cầu vật chất thường chiếm ưu thế và mang hình thức xấu xa ở những người phát triển phiến diện và thấp kém về trí tuệ ở những người không có động cơ đẹp đẽ cao quý, những người không nghĩ đến lợi ích chung của tập thể, của xã hội mà chỉ tập trung chú ý đến lợi ích của bản thân.

A. X. Macarenco nhà giáo dục Nga viết: trong bản thân niềm ao ước của con người không hề có lòng tham. Nếu như một người đi ra khỏi thành phố đầy bụi khói và đến một rừng thông khoan khoái hít thở đầy lồng ngực thì không bao giờ có ai phê phán rằng anh ta quá tham lam sử dụng oxi. Lòng tham chỉ bắt đầu khi nào nhu cầu của người này va chạm vào nhu cầu của kẻ khác; khi niềm vui và sự thoả mãn của người này chỉ có thể được bằng cách dùng sức mạnh, thủ đoạn hay trộm cắp để cướp lấy của người bên cạnh.

- Nhu cầu tinh thần là những cấu tạo đặc biệt, chỉ con người mới có và nó chứng tỏ một trình độ cao của nhân cách.

+ Nhu cầu tinh thần thể hiện ở nhu cầu nhận thức. Nhu cầu nhận thức không phải là gì khác là một hoạt động quen thuộc nhằm một hướng nhất định nào đó của tế bào thần kinh vỏ não. I. P. Paplov đã chỉ rõ rằng: ở người, phản xạ tìm tòi phát triển lạ thường. Thoạt tiên, nó biểu hiện ở tính tò mò, rồi sau đó trở thành một sự ham mê nhận thức không gì cản nổi, chính sự ham mê này đã tạo ra khoa học, tức là sự định hướng cao cấp trong thế giới xung quanh và trong bản thân. Do đó, chỉ ở người phản xạ định hướng tìm tòi mới trở thành nhu cầu độc lập ở động vật phản xạ định hướng không điều kiện chóng bị dập tắt và bị thay thế bằng các phản xạ thức ăn, sinh dục, tự vệ hoặc bằng một phản ứng nào đó, tuỳ theo tính chất kích thích của bên ngoài. Còn ở người, thì phản xạ tìm tòi có tính chất bền vững. Nó hưng phấn không phải do nhu cầu thức ăn, hay nhu cầu sinh dục mà do nhu cầu muốn nhận thức thế giới xung quanh.

Tất cả mọi người không trừ ai đều có phản xạ định hướng - tìm tòi không điều kiện. Không phải người nào cũng có hứng thú rõ rệt đối với việc nhận thức các hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Chỉ trong điều kiện dạy học và giáo dục nhất định, phản xạ tìm tòi có điều kiện của trẻ mới được hình thành và củng cố. Chính phản xạ này thể hiện nhu cầu nhận thức. Nhu cầu muốn nhận thức thực tại tự nhiên và thực tại xã hội, với những điều kiện khác nữa, sẽ giúp con người đạt tới tự do và mở đường cho sự sáng tạo. Một cá nhân, khi nhận thức được thế giới sẽ thoát khỏi nỗi sợ hãi trước những sức mạnh của tự nhiên (nỗi sợ hãi vốn do mê tín tạo nên) và cá nhân sẽ tự thấy mình là bộ phận của khối quần chúng đang sáng tạo ra lịch sử, sẽ hành động và xử sự với ý thức đầy đủ về công việc của mình.

Nhu cầu nhận thức vừa là một nhu cầu định hướng chung (con người cần phải hiểu biết cái thế giới trong đó mình sống), vừa là một nhu cầu riêng hay là một niềm say mê hiểu biết các hiện tượng đặc biệt của hiện thực, như hiện tượng: vật lí, hoá học, văn học, lịch sử... Trên cơ sở nhu cầu nhận thức sẽ hình thành nhu cầu sáng tạo khoa học với tính cách là một nhu cầu độc lập. Trong trường hợp này, sự nhận thức không còn là mục đích nữa mà trở thành một phương tiện để thoả mãn nhu cầu sáng tạo.

+ Nhu cầu thưởng thức cái đẹp có một vai trò to lớn trong sự sống của con người. Nhờ đó, con người sẽ tìm cách làm cho cuộc sống, sự nghỉ ngơi và cuộc đời của mình trở thành đẹp đẽ. Sự cảm thụ những giá trị thẩm mĩ trong thực tại và trong nghệ thuật sẽ làm cho nhân cách trở nên cao quý hơn. Việc cảm thụ, nhận thức một cách có hệ thống các giá trị thẩm mĩ có thể phát triển lên thành nhu cầu sáng tạo nghệ thuật. Khi đó, chẳng những con người lĩnh hội các giá trị thẩm mĩ mà còn tái tạo lại nó theo những quy luật của nghệ thuật.

- Nhu cầu xã hội là nhu cầu liên quan đến mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội. Nhu cầu xã hội chỉ được phát triển rực rỡ trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cái chiếm ưu thế là quan hệ hợp tác đồng chí và tương trợ, trong đó lợi ích xã hội sẽ trở thành lợi ích của mỗi cá nhân và mỗi người đều trở thành người tích cực cho sự phát triển xã hội. Nhu cầu của con người là do xã hội quy định, mức độ phát triển của nhu cầu do tính chất của sản xuất xã hội và phân phối sản phẩm quyết định.

+ Một trong những nhu cầu xã hội là nhu cầu giao tiếp. Engels đã chỉ rõ rằng, nhu cầu này được hình thành trong lao động, vì giao tế là một điều kiện thiết yếu để tổ chức sự sản xuất xã hội. Nhu cầu giao tế, kích thích sự phát triển của nhân cách. Trong khi giao tế chẳng những con người nhận thức được người khác mà cũng nhận thức được chính mình đồng thời lĩnh hội được kinh nghiệm cuộc sống xã hội.

Nhu cầu giao tế tạo điều kiện để hình thành những mối liên hệ muôn màu muôn vẻ giữa người này và người khác. Nó thúc đẩy sự trao đổi hiểu biết, kinh nghiệm, quan điểm, tình cảm. Nhu cầu giao tế có thể biểu hiện ra dưới hình thức nhu cầu muốn có bạn riêng, muốn có quan hệ bạn thân, nảy sinh tình yêu, tính đoàn kết tập thể...

+ Nhu cầu lao động là nhu cầu chủ đạo của nhân cách con người xã hội.

Nhu cầu lao động thể hiện thành một sự đòi hỏi gay gắt của con người muốn lao động, coi nó như một hoạt động sinh tồn thiết yếu. Khi một người tạm thời mất khả năng lao động, thì người đó cảm thấy căng thẳng và khó chịu. Nhu cầu lao động làm cho con người biết được niềm vui, niềm hạnh phúc khi người đó làm việc vì lợi ích chung.

Tóm lại, các nhu cầu của con người vô cùng phong phú và có quan hệ qua lại với nhau và với những mặt khác của xu hướng nhân cách. Trong cấu trúc nhân cách cá nhân ta thấy mặt tất cả những nhu cầu của con người, nhưng trong đó các nhu cầu xã hội chiếm ưu thế.

g. Vai trò của nhu cầu

- Nhu cầu là sự biểu hiện đầu tiên của tính tích cực thúc đẩy con người sáng tạo và phát triển sản xuất xã hội. Đồng thời, bản thân nhu cầu cũng phát triển cùng với sự phát triển sản xuất. Nhu cầu là nguồn gốc bên trong tạo nên tính tích cực của cá nhân. Engels cho rằng: "Hoạt động lịch sử bản chất nhất của con người là hoạt động để tạo nên cơ sở vật chất cho tất cả các loại hoạt động khác của con người, đó tức là sự sản xuất nhằm thoả mãn những nhu cầu sinh sống của người ta.

Nhu cầu được thoả mãn sẽ đem lại cho con người một trạng thái dễ chịu, tin tưởng. Nếu nhu cầu không được thoả mãn sẽ đem lại cho con người một trạng thái khó chịu, bứt rứt...

- Nhu cầu là thuộc tính cơ bản của xu hướng cá nhân. Nó quy định trách nhiệm của cá nhân đối với hiện thực và đối với bản thân. Xét đến cùng, nó xác định lối sống và trách nhiệm của cá nhân đó.

h. Sự hình thành và phát triển nhu cầu

Sự hình thành và phát triển các nhu cầu phải tuân theo một số quy tắc sau đây:

- Nhu cầu chỉ có thể được hình thành và củng cố trong điều kiện được thoả mãn một cách có hệ thống hay là được thực hiện một hoạt động nhất định. Điều đó làm trở nên quen thuộc với một kiểu hoạt động nhất định. Tất cả mọi nhu cầu mới đều được hình thành theo kiểu thói quen.

- Nhu cầu phát triển trong điều kiện "tái sản xuất mở rộng". Điều đó tạo điều kiện để những phương tiện thoả mãn nhu cầu được trở nên phong phú và phát triển hơn. Nhu cầu xuất hiện và phát triển trong quá trình hoạt động.

- Sự tiến triển của nhu cầu sẽ dễ dàng hơn nếu hoạt động không làm cho con người nói chung, trẻ em nói riêng bị kiệt quệ mà trái lại tương đối dễ thực hiện vì điều đó làm cho con người có thái độ tích cực hơn đối với hoạt động ấy. Vì vậy, tạo điều kiện cho con người hoạt động và tạo điều kiện cho họ có những thành công bước đầu là một vấn đề rất quan trọng. Một điều rất quan trọng để phát triển nhu cầu là sự chuyển tiếp từ hoạt động tái tạo sang hoạt động sáng tạo. Điều đó không những làm cho con người có thái độ, xúc cảm tích cực đối với hoạt động mà hơn nữa, còn thấy rằng nó là thiên hướng cơ bản của mình.

- Nhu cầu sẽ được củng cố khi ta có ý thức về ý nghĩa xã hội của nó và ý nghĩa của nó đối với bản thân ta. Nhờ giáo dục và dư luận tập thể hỗ trợ quá trình hoạt động nhận thức thẩm mĩ, lao động và hoạt động xã hội sẽ chuyển hoá thành nhu cầu, tức là thành những thuộc tính của nhân cách.

2.2. Hứng thú

a. Khái niệm về hứng thú

Trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi mỗi người trong số chúng ta đã gặp hiện tượng sau: tự nhiên ta cảm thấy mình cần có một cái gì đó. Điều này có nghĩa là một nhu cầu đang xuất hiện, nhưng đối tượng gây ra nhu cầu đó lại chưa được ta ý thức. Chỉ sau một thời gian, dần dần, đối tượng này gây ra nhu cầu mới được ta ý thức ngày một rõ ràng hơn, ở hứng thú, điều tương tự như vậy không xảy ra. Khi ta có hứng thú về một cái gì đó thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta hiểu rõ ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Vậy hứng thú là gì?

Hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng mang lại sự khoái cảm cho cá nhân trong hoạt động.

Ý nghĩa quan trọng của đối tượng hoạt động có thể do nhiều nguyên nhân quy định: nhu cầu, ý thức trách nhiệm xã hội, năng lực, tình cảm...

- Khác với nhu cầu, muốn cho hứng thú tồn tại phải có hai điều kiện: Thứ nhất: cái gây ra hứng thú phải được cá nhân ý thức hiểu rõ ý nghĩa của nó đối với đời sống riêng của mình. Thứ hai: cái đó phải gây ra ở cá nhân một cảm tình đặc biệt.

b. Những chức năng cơ bản của hứng thú

- Hứng thú làm cho hoạt động nhận thức được tăng cường và con người trở nên tích cực.

+ Hứng thu về sự vật, hiện tượng nào đó sẽ tách sự vật, hiện tượng đó ra khỏi vô số sự vật, hiện tượng khác và tập trung chú ý vào đó một cách dễ dàng, ghi nhớ nhanh; tái nhận, tái hiện nhanh, tư duy tích cực, sâu sắc hơn, trí tưởng tượng nhạy bén hơn.

+ Hứng thú tạo nên ở cá nhân khát vọng tiếp cận và đi sâu vào đối tượng gây ra nó. Khát vọng này được biểu hiện ở chỗ, cá nhân tập trung chú ý cao độ vào cái làm mình hứng thú, hướng dẫn và điều chỉnh các quá trình tâm lí (tri giác, tư duy, tưởng tượng...) trong quá trình tiếp cận nó.

Hứng thú bao giờ cũng kèm theo một trạng thái cảm xúc, một tình cảm dễ chịu.

+ Đặc trưng nổi bật của hứng thú là tính có ý thức và lực hấp dẫn mang màu sắc xúc cảm (cảm tình, thiện cảm) của nó, một hứng thú bao giờ cũng bao gồm cả hai yếu tố này. Thành phần xúc cảm của hứng thú mang tính chất đặc trưng để phân biệt nó với nhu cầu.

+ Vì những thuộc tính của đối tượng đã ít nhiều đáp ứng được tâm trạng hoặc thích hợp với thói quen của cá nhân nên cùng một đối tượng không thể gây ra sự rung cảm như nhau ở tất cả mọi người.

- Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động. Khi có hứng thú với một đối tượng nào đó, con người hướng hoạt động của mình theo hướng phù hợp với hứng thú đó. Chính vì vậy khi được làm việc phù hợp với hứng thú của mình dù phải vượt qua muôn vàn khó khăn người ta vẫn cảm thấy thoải mái và thu được hiệu quả cao.

Tuy nhiên, trong cuộc sống thực tiễn, có những hoạt động ta rất có hứng thú (say mê theo dõi nó, quan tâm nhiều đến nó) nhưng nó không thúc đẩy ta tham gia trực tiếp vào hoạt động đó Chẳng hạn: rất nhiều người hứng thú đến mức "nghiện" xem bóng đá, nhưng không thể trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp, cũng tương tự như vậy, nhiều người hứng thú khi xem các nhân vật trong phim nhưng không thể trở thành diễn viên chuyên nghiệp...

Trong những trường hợp khác, hứng thú về một cái gì đó trực tiếp dẫn cá nhân đến một hoạt động tương ứng với nó. Hứng thú của mỗi người còn khác nhau về nội dung của nó. Điều cơ bản trước tiên là hứng thú hướng vào đâu, vào cái gì cái đó có thể có ý nghĩa xã hội khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Do đó, hứng thú khác nhau xét về mặt giá trị xã hội của nó.

Một người có thể có hứng thú trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng thường có một hứng thú trung tâm. Đó là những hứng thú nổi lên hàng đầu trong những hứng thú thường thấy ở người đó. Nó không chỉ thường xuyên xuất hiện với cường độ mạnh, mà còn chi phối các hứng thú khác, làm cho các hứng thú khác phụ thuộc vào nó. Nhìn vào hứng thú trung tâm của một người ta thấy rõ đạo đức của họ: Trong đời sống hàng ngày của một người, khi hứng thú này xuất hiện thì hứng thú khác ở dạng ẩn tàng để một lúc nào đó nó lại được hiện thực hoá. Hứng thú trung tâm dễ dàng hiện thực hoá hơn những hứng thú khác. Mặt khác, khi hứng thú trung tâm đang ở dạng hiện thực, nó thường lấn át sự xuất hiện của những hứng thú khác.

- Hứng thú được quy định bởi những điều kiện xã hội lịch sử. Cũng như những chức năng tâm lí cao cấp khác, trong phạm trù người, hứng thu đều được quy định bởi những điều kiện xã hội - lịch sử. Sự phát triển cửa hứng thứ phụ thuộc vào sự phát triển của sản xuất nói chung và sự phát triển của các lĩnh vực văn hoá nói riêng. Trong lịch sử phát triển của mỗi cá nhân, hứng thú được hình thành và phát triển hoàn toàn tuỳ thuộc vào kết quả lĩnh hội những thành tựu của nền văn minh trong thời đại của cá nhân đó.

c. Những đặc điểm cơ bản của hứng thú

Hứng thú như là các nét tiêu biểu của xu hướng cá nhân, điều đó được thể hiện qua các mặt sau:

- Tính hạn chế của hứng thú bởi một phạm vi khá hẹp các kiến thức và hình thức hoạt động. Ví dụ: hứng thú đối với y học nói chung và đối với một lĩnh vực chuyên môn của nó như: khoa giải phẫu học; hứng thú đối với kĩ thuật nói chung và đặc biệt đối với kĩ thuật điện tử hay tự động...

- Cụ thể hoá mục đích và thao tác hoạt động nhiều hơn so với bình thường. Ví dụ: hứng thú âm nhạc.

- Tích cực hoá không chỉ các quá trình nhận thức mà cả những nỗ lực sáng tạo của con người trong một lĩnh vực nào đó.

- Thoả mãn cảm xúc đặc biệt nhằm thích ứng lâu dài một hoạt động tương ứng. Thông thường người ta không hiểu đúng bản chất của hứng thú và chỉ coi nó là sự thích thú bề ngoài cũng như sự tò mò hiếu kì mà thôi, thực chất hứng thú chân chính chỉ xuất hiện khi có: những cảm xúc mà người ta đã nắm được trong lĩnh vực mà mình quán tâm; hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực đó; sự thoả mãn cảm xúc mà người ta tiếp nhận được do có những kiến thức và có hình thức hoạt động nói trên.

d. Các loại hứng thú

Có nhiều cách phân loại hứng thú, tùy theo góc độ (cơ sở) nghiên cứu của các nhà nghiên cứu.

Căn cứ vào nội dung và chiều hướng của hứng thú ta có.

+ Hứng thú vật chất. Hứng thú vật chất có thể biểu hiện thành nguyện vọng, như muốn có chỗ ở, có đủ tiện nghi, hứng thú ăn, mặc...

+ Hứng thú nhận thức, theo nghĩa rộng của từ này, thể hiện dưới hình thức hứng thú học tập, hứng thú khoa học có tính chất chuyên môn như hứng thú toán học, vật lí, hoá học, tâm lí học...

+ Hứng thú nghề nghiệp - hứng thú vào một nghề nào đó: hứng thú sư phạm, hứng thú kĩ thuật - công nghiệp, hứng thú với công tác hành chính.

+ Hứng thú xã hội - chính trị là hứng thú đối với những hình thức nhất định của công tác xã hội và đặc biệt là hoạt động tổ chức, lãnh đạo với các vấn đề chính trị xã hội.

+ Hứng thú thẩm mĩ hoặc hứng thú đối với văn học, phim ảnh, sân khấu, âm nhạc, hội hoạ...

- Căn cứ vào tính trực tiếp hay gián tiếp, có các loại hứng thú:

+ Hứng thú trực tiếp là loại hứng thú đối với bản thân quá trình hoạt động như quá trình nhận thức và hẹp hơn nữa là quá trình nắm vững kiến thức, quá trình lao động, sáng tạo.

+ Hứng thú gián tiếp là hứng thú đối với các kết quả của hoạt động. Chẳng hạn, hứng thú muốn có học vấn, muốn có nghề nghiệp, có địa vị xã hội, có một chức vụ nhất định...

- Căn cứ vào mức độ hiệu lực của hứng thú, có các loại sau:

+ Hứng thú thụ động: còn gọi là loại hứng thú lĩnh quan, chỉ giới hạn ở việc con người tri giác đối tượng gây nên hứng thú. Chẳng hạn, thích nghe nhạc, thấy khoái cảm khi xem tranh... Tuy nhiên, hứng thú này không thể hiện tính tích cực để nhận thức sâu sắc đối tượng, làm chủ được nó và hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực này.

+ Hứng thú tích cực là loại hứng thú có được thể hiện ở chỗ con người không dừng lại ở việc quan sát mà còn hành động với mục đích làm chủ đối tượng gây hứng thú. Hứng thú tích cực là một trong những nguồn kích thích sự phát triển của nhân cách: hình thành kĩ năng, kĩ xảo, năng lực và tính cách.

- Căn cứ vào khối lượng của hứng thú, có các loại sau:

+ Hứng thú rộng: thể hiện ở người có hứng thú nhiều mặt và mặt nào cũng sâu sắc. Ví dụ: Bác Hồ là một nhà văn nhà thơ, nhà báo... nhưng cũng là một nhà hoạt động cách mạng xuất sắc

+ Hứng thú hẹp: là những người thể hiện tò mò thích mọi chuyện, nhưng hời hợt đối với các hiện tượng, sự vật, không đi sâu vào bản chất của đối tượng, không có sự say mê nghiêm túc thường xuyên đối với một đối tượng nào đó hết.

- Dựa vào mức độ sâu sắc của hứng thú, có các loại sau:

+ Hứng thú sâu sắc là có thái độ thận trọng và có trách nhiệm đối với công việc. Những người này mong muốn đi sâu vào đối tượng nhận thức, đi sâu nắm vững đến mức hoàn hảo nghề nghiệp của mình.

+ Hứng thú hời hợt bề ngoài thể hiện trong vấn đề nhận thức thường qua loa, đại khái và trong thực tiễn, là nhẹ dạ, nông nổi.

- Dựa vào sự bền vững của hứng thú, có các loại sau:

+ Hứng thú bền vững: thường gắn liền với năng lực cao và sự nhận thức sâu sắc nghĩa vụ và thiên hướng của mình, nó thể hiện tính ổn định, lâu dài. Trong thực tế thường gặp những người mà các loại hứng thú của họ kết hợp với nhau theo một cách nhất định, tiêu biểu cho họ.

+ Hứng thú không bền vững: trái với hứng thú bền vững những người có hứng thú này thường dễ thay đổi hứng thú.

Hứng thú đạt mức lí tưởng thường có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính tích cực và tính bền vững, giữa chiều rộng và chiều sâu. Người có hứng thú lí tưởng người có một hứng thú trung tâm chủ yếu và sâu sắc trong cuộc sống và hứng thú dựa trên những hứng thú rộng rãi và nhiều mặt.

e. Sự hình thành và phát triển hứng thú

Hứng thú hình thành khá sớm và được biểu hiện rất đa dạng và phong phú. Ở đây chúng ta xem xét sự phát triển hứng thú trên bình diện phát triển của lứa tuổi và bình diện phát triển của hiện tượng tâm lí:

- Xét trên bình diện phát triển của lứa tuổi:

+ Ban đầu (ở lứa tuổi nhà trẻ) được biểu hiện dưới dạng tò mò. Ngay từ những năm đầu tiên của cuộc đời, trẻ đã bị những vật có màu sắc sặc sỡ, sáng chói, những tiếng động mạnh và sự di động của đối tượng hấp dẫn. Trẻ em không rời mắt khỏi những vật kích thích này và rất thích được tiếp xúc với chúng nhiều lần. Song, việc tập trung vào đối tượng do sự hấp dẫn này người ta còn gắn bó với tri giác nên còn có tính chất nhất thời vì thế gọi là giai đoạn "tiền hứng thú".

+ Ở lứa tuổi mẫu giáo bắt đầu có hứng thú nhận thức thật sự, tức là một thái độ tương đối bền vững đối với hoạt động nào hấp dẫn tình cảm của các em, trẻ luôn đặt ra những câu hỏi tại sao? như thế nào?...

Vào cuối tuổi mẫu giáo do ảnh hưởng của người lớn trẻ em có hứng thú học tập ở nhà trường, các em chơi mà học, học mà chơi.

+ Đến lứa tuổi học sinh tiểu học, hứng thú nhận thức được khơi sâu, các em có ý thức về ý nghĩa của nó đối với việc học tập với cuộc sống.

Thời gian này hứng thú nhận thức được phân hoá: một số thích học tính, một số thích tập đọc; Hứng thú đọc sách hình thành, Đặc biệt các em có hứng thú đối với quá trình lao động, nhất là lao động tập thể.

+ Giai đoạn từ tiểu học lên THCS, hứng thú của các em được mở rộng, khơi sâu và phân hoá hơn, nhiều hứng thú mới xuất hiện. Hứng thú đọc sách trở nên bền vững và có lựa chọn, hứng thú kĩ thuật, hứng thú, thể dục thể thao... xuất hiện.

Đối với hứng thú nhận thức - học tập, lúc đầu thiếu niên còn chưa nhận thức rõ các em thích môn nào nhất. Dần dần trong quá trình học tập tích luỹ tri thức, các em bắt đầu xác định được môn học mà mình hứng thú nhất và tập trung sức lực nhiều nhất vào đó.

Hứng thú chính trị - xã hội cũng được hình thành từ tuổi thiếu niên: các em bắt đầu theo dõi tình hình chính trị, tình hình xã hội, tình hình thế giới.

Các em có nhiều hứng thú nhất đối với hoạt động chung trong trường, trong lớp và có nguyện vọng muốn có vị trí tích cực trong đời sống xã hội; đa số các em muốn làm công tác xã hội.

+ Đến cuối tuổi học (học sinh trung học phổ thông) do phải tự xác định đường đời của mình nên hứng thú khoa học và nghề nghiệp nổi lên hàng đầu.

Hứng thú đối với thế giới nội tâm, đối với hành vi đạo đức của con người chiếm một vị trí quan trọng. Từ đó mà hứng thú đọc sách có thay đổi. Đến lứa tuổi này các em thích đọc sách bàn về con người, liên quan đến số phận con người, bàn về những vấn đề liên quan đến những vấn đề của cuộc sống.

Tóm lại, sự phát triển của hứng thú thường gắn liền với sự phát triển lứa tuổi. Điều đó dễ hiểu, vì muốn hình thành một hứng thú nào đó cần phải có một mức độ phát triển tâm lí cũng như một mức độ tri thức và kinh nghiệm sống nhất định.

- Xét trên bình diện phát triển của các hiện tượng tâm lí.

Nếu căn cứ vào sự phát triển của các hiện tượng tâm lí sẽ có các con đường cơ bản sau:

+ Từ nhu cầu đến hứng thú. Do cá nhân có nhu cầu cấp thiết về một cái gì đó, không thực hiện được cá nhân cảm thấy khó chịu. Dần dần để thoả mãn nhu cầu, cá nhân tìm tòi say mê và có hứng thú đối với đối tượng đó.

* Nhu cầu thể hiện sự cần thiết. Hứng thú thể hiện một thiện ý riêng đối với đối tượng nào đó.

* Một hứng thú sâu sắc, chắc chắn sẽ trở thành nhu cầu.

* Nhu cầu không đồng nhất với hứng thú nhưng nó là cơ sở của hứng thú. Hơn nữa, bản thân hứng thú cũng trở thành nhu cầu.

+ Từ tình cảm - nhận thức đến hứng thú.

Hứng thú bắt đầu hình thành do sự hấp dẫn mạnh mẽ của một đối tượng nào đó đối với cá nhân, cá nhân cảm thấy đối tượng đó đem lại cho mình một mối cảm tính đặc biệt, cá nhân hiểu rõ ý nghĩa của đối tượng ấy. Từ đó làm nảy sinh hứng thú. Ví dụ: các em có tình cảm đối với đất nước, vẻ đẹp của làng quê và nhận thức được vẻ đẹp đó qua các môn học Lịch sử, Địa lí... Từ đó, sự hứng thú học các môn Lịch sử, Địa lí... nảy sinh.

* Thái độ cảm xúc đối với đối tượng là một trong những dấu hiệu không thể thiếu của hứng thú. Tất nhiên không phải thái độ cảm xúc nào cũng gây nên hứng thú. Những biểu hiện cảm xúc tích cực, bền vững của cá nhân đối với đối tượng mới trở thành một dấu hiệu không thể thiếu được của hứng thú, tích cực bền vững.

+ Hứng thú hình thành từ nhận thức - tình cảm đến hứng thú.

Khi học sinh đã nhận thức đúng đắn về vấn đề gì đó, thì dễ dàng xây dựng ở các em một tình cảm đối với nó.

Khuynh hướng liên quan chặt chẽ đến hứng thú cá nhân, khi ta có khuynh hướng về một đối tượng nào đó thường dẫn đến hứng thú đối với đối tượng đó.

f) Mấy điểm cần chú ý khi bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh

Nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên là phải tìm mọi cách để gây hứng thú học tập cho học sinh, vì học tập là một quá trình lao động gian khổ.

K. D. Usinxki - nhà giáo dục Nga cho rằng: Trong học tập không có sự hứng thú mà chỉ dùng sức mạnh của sự cưỡng ép nó để làm cho óc sáng tạo của người ta ngày thêm mai một, nó sẽ làm cho người ta thờ ơ với hoạt động này. Vì vậy, muốn tránh việc trừng phạt và cưỡng bách học sinh thì cần phải làm cho việc dạy học trở nên hứng thú và dễ hiểu.

- Cần phải bồi dưỡng ở các em hứng thú đa dạng và phong phú: học tập, lao động, đọc sách, xem phim, hoạt động xã hội... Bồi dưỡng cho các em động cơ học tập đúng đắn - người giáo viên giữ vai trò chủ đạo xong việc bồi dưỡng hứng thú cho các em. Mặt khác, bản thân người giáo viên phải có hứng thú sâu rộng với chuyên môn của mình.

- Việc bồi dưỡng hứng thú cần đi đôi với việc bồi dưỡng nhân tài. Bởi vì, hứng thú bền vững thường gắn liền với năng lực cao và nhận thức sâu sắc nghĩa vụ và thiên hướng của cá nhân. Tuy nhiên, giữa hứng thú và năng lực không bao giờ đồng nhất. Nghĩa là xác định được học sinh có năng lực ở hoạt động nào và bồi dưỡng hứng thú cho các em theo năng lực đó, đồng thời phải nắm được điều kiện hình thành hứng thú. Hứng thú chỉ hình thành và phát triển khi hoạt động thoải mái, không căng thẳng, có hiệu quả, chỉ khi đó hoạt động mới có tính sáng tạo.

2.3. Thế giới quan và niềm tin

a. Thế giới quan

Thế giới quan xã hội là lĩnh vực nghiên cứu của các nhà triết học, thế giới quan cá nhân là lĩnh vực nghiên cứu của các nhà tâm lí học. Tuy nhiên, trong cuộc sống thực tế cũng như trong khoa học, thường khó tách bạch, đôi khi không thể tách bạch được cái này ra khỏi cái kia.

- Khái niệm về thế giới quan cá nhân

Thế giới quan cá nhân là hệ thống những quan điểm về tự nhiệm xã hội và về bản thân được hình thành ở mỗi người và xác định phương châm hành động của họ.

+ Thế giới quan cá nhân không chỉ phản ánh tồn tại của cá nhân mà còn phản ánh cả những điều kiện sống của giai cấp, của tầng lớp xã hội, của dân tộc, của xã hội nói chung.

+ Thế giới quan cá nhân được hình thành ở một hệ tư tưởng nhất định. Xã hội càng tiến bộ thì ý nghĩa của hệ tư tưởng đối với sự hình thành ý thức của quần chúng ngày càng phát triển. Cho nên, khi xem xét sự hình thành thế giới quan của cá nhân, không thể không tính đến ảnh hưởng của hệ tư tưởng đối với quan điểm của con người.

+ Thường người ta sử dụng thuật ngữ "thế giới quan" theo nghĩa hẹp, tức là hệ thống những quan điểm xã hội hay những quan điểm đạo đức chính trị. Thế giới quan cá nhân là sự phản ánh tồn tại xã hội.

+ Sự phản ánh tồn tại xã hội này được thể hiện trực tiếp trong hoạt động của cá nhân và các mối quan hệ lẫn nhau mà cá nhân tham gia trong quá trình hoạt động sống của mình. C Mác và Engels viết: "Cần phải suy nghĩ sâu sắc đặc biệt mới hiểu được, những biểu tượng, quan điểm của con người. Nói chung ý thức của họ được thay đổi cùng với sự thay đổi điều kiện sống, quan hệ xã hội và tồn tại xã hội của họ".

+ Ảnh hưởng của ý thức giai cấp, của tâm lí xã hội, đặc biệt là dư luận xã hội đối với quan điểm của cá nhân rất lớn. Nó có xu hướng điều chỉnh và sửa đổi những quan điểm xã hội của cá nhân ấy.

+ Ngoài sự phản ánh trực tiếp, sự phản ánh tồn tại xã hội còn được thực hiện một cách gián tiếp thông qua quá trình giảng dạy và giáo dục mà trong đó con người lĩnh hội những tư tưởng xã hội do một giai cấp nhất định xây dựng nên. Con đường thứ hai không kém phần quan trọng so với con đường thứ nhất. Những tư tưởng xã hội tiên tiến có thể vượt lên trên tồn tại xã hội và hướng dẫn cá nhân tiến lên trong cuộc đấu tranh để xây dựng tương lai. Chỉ khi nào có sự phản ánh thực tại một cách gián tiếp này thì sự phản ánh trực tiếp mới đúng đắn được.

Vì vậy nếu thiếu sự lĩnh hội một cách có ý thức những tư tưởng xã hội tiên tiến, thì cá nhân sẽ mò mẫm trong bóng tối, những quan điểm của họ sẽ được hình thành một cách tự phát và có thể phản ánh thực tại một cách sai lệch.

* Những phẩm chất cơ bản của thế giới quan cá nhân

Để hiểu đặc điểm của cá nhân, cần phải phân tích những đặc điểm riêng về thế giới quan của cá nhân.

- Thế giới quan có tính thuần nhất khi cá nhân tạo cho mình những quan điểm nhất định về những vấn đề cơ bản của tồn tại xã hội, của cuộc sống và hoạt động.

Khi những quan điểm về mỗi vấn đề riêng lẻ thống nhất với nhau sẽ tạo thành một hệ thống quan niệm và quan điểm phương pháp luận thống nhất. Tính thuần nhất của thế giới quan làm cho nhân cách của con người có tính chất toàn hoàn xác định, biểu hiện ở các thái độ của họ. Con người có một thế giới quan như thế thì sẽ có một nhân sinh quan vững vàng và vững bước đi đến mục đích tương lai theo một con đường nhất định.

Ngược lại, cá nhân nào có mâu thuẫn trong thế giới quan thì thường đánh giá các sự kiện và hành vi một cách không nhất quán.

- Tính khoa học của thế giới quan biểu thị tính chân xác của thế giới quan. Nếu thế giới quan phản ánh đúng cuộc sống thì cá nhân sẽ tích cực hành động theo yêu cầu của sự phát triển xã hội.

+ Tính khoa học của thế giới quan có đặc điểm là các quan điểm đều nhất quán, lôgíc với nhau và các luận điểm mà cá nhân đó bảo vệ đều được chứng minh.

+ Thế giới khoa học định rõ đặc tính cá nhân xuất phát từ những kiến thức sâu sắc và phong phú khác nhau. Một người có thế giới quan khoa học sẽ nắm kiến thức một cách khoa học, chính xác.

+ Thế giới quan khoa học giúp ta được quy luật phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc, nhân loại. Vì vậy, những tư tưởng tiên tiến thường đi trước tồn tại xã hội.

Thế giới quan khoa học giải phóng cá nhân thoát khỏi sự mê tín, thoát khỏi sự khiếp sợ trước sức mạnh của thiên nhiên và của xã hội.

Thế giới quan khoa học giúp con người không chỉ có khả năng lĩnh hội tư tưởng mà còn suy nghĩ sâu sắc đối với sự biểu hiện bên trong của bản thân mình. Vì vậy, thực tế cuộc sống là thước đo, chứng minh hùng hồn tính chất khoa học của thế giới quan.

Con người chỉ xuất phát từ thế giới khoa học mới có khả năng đấu tranh để bảo vệ quan điểm của mình và kiên quyết đi theo nó đến cùng.

Khác với thế giới quan khoa học, cái mà người ta gọi là những quan niệm thông thường về cuộc đời thường hình thành dựa trên kinh nghiệm. Có một loại quan điểm khác mặc dù khoác áo thuật ngữ khoa học, nhưng nó không phù hợp với thực tiễn hàng ngày - đó là những quan điểm giáo điều. Những quan điểm giáo điều tiếp nhận một cách máy móc những tư tưởng trong sách vở. Kết quả là họ gặp khó khăn rất lớn ngay khi va chạm với thực tiễn cuộc sống. Người giáo điều có thể nhớ nhiều điều nhưng không bảo vệ được những quan điểm ấy. Bởi vì, họ không có niềm tin thật sự chân xác của những quan điểm ấy.

- Tính hệ thống và sự nhất quán của thế giới quan.

+ Những quan điểm của cá nhân phù hợp với quan điểm xã hội, trong nhận thức, tình cảm và hành động.

+ Khi thế giới quan có tính hệ thống thì thế giới quan cá nhân hiểu rõ vị trí cuộc sống của mình một cách rõ ràng. Con người sẽ tin tưởng con đường đi nhất định với mục đích đã vạch ra.

+ Trong xã hội không phải lúc nào cũng chỉ có một thế giới quan nhất quán cho tất cả mọi người. Nhiều khi do nhận thức, hiểu biết khác nhau mà mỗi người có một thế giới quan khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, cần phải hình thành và giáo dục cho thế hệ trẻ thế giới quan của giai cấp công nhân. Tính khái quát và tính cụ thể của thế giới quan.

Thế giới quan thể hiện mức độ tương quan giữa tính trừu tượng và tính cụ thể của nó. Khái quát hoá bao giờ cũng dẫn đến trừu tượng hoá. Nhưng trừu tượng hoá có thể đến mức làm cho con người chỉ có những ý tưởng trừu tượng chung chung mà không nhìn thấy cuộc sống cụ thể, do đó, không vận dụng những nguyên tắc của mình vào hiện tượng cụ thể để đánh giá nó. Những nhà triết học trước Mác đã xây dựng cả một hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh về thế giới, nhưng hoàn toàn bất lực trong cuộc sống thực tế, nên bị gọi một cách châm biếm là "nhà triết gia" - những người biện luận nhiều mà lại bất lực về mặt thực tế.

+ Thế giới quan nếu thiếu tính cụ thể thì giữa lời nói và việc làm không đi đôi với nhau.

+ Nếu thế giới quan thiếu tính khái quát chỉ có quan điểm cụ thể, không nhìn thấy quy luật chung, nguyên tắc chung dễ có tính bảo thủ sa vào kinh nghiệm chủ nghĩa.

Tính hiệu lực: Tính hiệu lực của thế giới quan được thể hiện khi những quan điểm đã gắn liền với tình cảm, ý chí và được thực tiễn cuộc sống khẳng định. Vì vậy, cá nhân sẽ sống theo những nguyên tắc đã định sẵn từ đó điều chỉnh thái độ, hành vi của mình cho phù hợp với mục đích cuộc sống đặt ra. Tính hiệu lực tạo cho con người niềm tin vào hiện tại và tương lai. Từ đó, con người lại càng tích cực rèn luyện trong thực tiễn làm cho tính hiệu lực ấy càng có tính thuyết phục cao.

b. Niềm tin

Nói đến thế giới quan không thể không nói đến niềm tin của con người. Bởi vì, niềm tin là một phẩm chất của thế giới quan, là cái kết tinh các quan điểm, tri thức, rung cảm, ý chí được con người thể nghiệm, trở thành chân lí vững bền trong mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận.

- Khái niệm: Niềm tin là lòng tin cậy sâu sắc và có lí lẽ vững vàng thể hiện trong nguyên tắc, trong tư tưởng và trong hành động của con người.

Niềm tin được xây dựng trên cơ sở thế giới quan. Thế giới quan có tính thuần nhất tạo cho con người những quan điểm nhất quán về những vấn đề cơ bản của tồn tại xã hội, phương pháp luận và nhân sinh quan vững vàng. Con người có niềm tin sẽ thống nhất giữa tư tưởng, tình cảm, hành động trong hành vi của mình.

- Nói đến niềm tin là nói đến lòng tin sâu sắc và có cơ sở vào lí tưởng mà con người theo đuổi trong cuộc sống. Con người có niềm tin là con người có tư tưởng hoà hợp với tình cảm và ý chí và không có hành vi mâu thuẫn với những nguyên tắc sống của mình. M. I. Calinin - nhà giáo dục Liên Xô đã nói rằng, chỉ có người nào "tin tưởng sâu sắc vào chính nghĩa và sự đẹp đẽ của những nguyên tắc mà vì nó chúng ta đã đấu tranh" thì mới làm nổi cái công việc đòi hỏi sự năng động cao độ này.

Con người có niềm tin là con người có mục đích rõ ràng, nhiệt tình, có khả năng khắc phục khó khăn để vươn lên trong cuộc sống.

Niềm tin được hình thành và phát triển trong quan hệ có tính giáo dục của cá nhân đối với thực tế, trong thái độ độc lập, thận trọng đối với khoa học, đối với trách nhiệm của mình.

c. Lí tưởng

Trong quá trình hình thành thế giới quan và những quan điểm chính trị, đạo đức ở trong một hoàn cảnh xã hội nhất định, lí tưởng của con người cũng được hình thành. Đó là một trong những động cơ căn bản thúc đẩy sự tu dưỡng của cá nhân.

- Một số quan niệm về lí tưởng

Vấn đề lí tưởng luôn luôn kích thích sự suy nghĩ của các nhà triết học, giáo dục học và tâm lí học.

Những nhà duy tâm chủ nghĩa không những tách rời lí tưởng với cuộc sống mà còn đem lí tưởng đối lập với cuộc sống. Lí tưởng được coi như là những tư tưởng tuyệt đối, hoặc là một biểu tượng được con người xây dựng nên không dựa trên cơ sở nào, ngoài sở thích và xúc cảm riêng của người đó. Lí tưởng như vậy thường sinh ra chủ nghĩa bi quan không tin tưởng vào khả năng có thể biến lí tưởng thành hiện thực. Nếu khái niệm lí tưởng của chủ nghĩa duy tâm cổ điển và tôn giáo còn được che dấu trong bức màn huyền bí và còn những nét "cao thượng" thì trong thời kì của chủ nghĩa tư bản hiện đại, lí tưởng đã được giai cấp tư sản bóc trần và hạ thấp đến mức trở thành biểu tượng về một con người kinh doanh hoàn hảo, biết làm tiền, biết giành quyền lực cho mình và biết "sống vui vẻ".

Chủ nghĩa Mác - Lênin xem lí tưởng là hình ảnh của hiện thực, là sự phản ánh hiện thực - là biểu tượng của sự hoàn hảo mà cá nhân cần phải vươn tới nó và theo mẫu mực của nó để tu sửa mình và tu sửa người khác. Lí tưởng là hình ảnh về con người hoàn hảo, mẫu mực cho những người khác. Ví dụ: lí tưởng về một con người có đạo đức, một nhà bác học, một xã hội tốt đẹp... Khi nói đến lí tưởng thường người ta nói đến lí tưởng của cá nhân, có những đặc điểm riêng biệt phụ thuộc vào bộ mặt tâm lí của cá nhân đó.

- Khái niệm lí tưởng:

Lí tưởng là mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực tương đối hoàn chỉnh có sức lôi cuốn con người vươn tới nó.

Niềm tin và nhân sinh quan của con người tựa hồ như được cô đọng trong lí tưởng đạo đức của người đó. Lí tưởng cuộc sống là động cơ chủ yếu và cao nhất, chỉ đạo con người trong hiện tại và quyết định kế hoạch đường đời tương lai của người đó.

Trong cuộc sống thường thấy 2 loại thái độ đối với lí tưởng:

+ Chiêm ngưỡng, khâm phục: Con người chỉ dừng lại trong sự chiêm ngưỡng lí tưởng. Họ nghĩ rằng không thể đạt đến lí tưởng nên chỉ sống theo cái gọi là tương lai "cứ sống như hiện tại đang sống thôi", hoặc "cứ sống như người khác cạnh mình đang sống".

+ Ham mê hoạt động: lí tưởng sinh ra một nghị lực to làm trở thành những nét hiện thực của tính cách con người. Trong trường hợp này, lí tưởng trở thành một kế hoạch tự giáo dục mà cá nhân thực hiện nó trong quá trình tu dưỡng bản thân. Lí tưởng giống như ngôi sao dẫn đường chỉ hướng cho hành động, nhưng lúc nào cũng còn xa chưa đạt đến.

- Tâm lí học phân biệt lí tưởng của cá nhân và lí tưởng của nhóm (giai cấp).

+ Lí tưởng của cá nhân (lí tưởng riêng) bao giờ cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc lí tưởng của nhóm (lí tưởng giai cấp, xã hội, thời đại) mà trong đó con người là thành viên tích cực. Lí tưởng chung có ảnh hưởng sâu sắc đến lí tưởng riêng của mỗi người. Tuy nhiên, tùy theo trình độ phát triển nhận thức, tình cảm, ý chí mà lí tưởng này trong mỗi cá nhân phải có sắc thái riêng biệt.

+ Lí tưởng nghề nghiệp, mỗi người phấn đấu cho lí tưởng cộng sản của mình thông qua từng việc làm cụ thể trong nghề nghiệp của mình. Có thể nói, lí tưởng nghề nghiệp là nơi cụ thể hoá lí tưởng xã hội, giai cấp của mỗi người. Lí tưởng nghề nghiệp được hiện thực hoá đần dần trong từng công việc cụ thể.

- Tính chất cơ bản của lí tưởng

+ Tính chất lãng mạn

Trong lí tưởng luôn luôn có những hình ảnh tưởng tượng khoáng đạt. Có nghĩa là, xây dựng lại hiện thực, loại bỏ những yếu tố không bản chất và không hoàn thiện, nhấn mạnh cái hoàn thiện, đề cao cái chưa có nhưng nó lại được lí trí hình dung như là một khả năng sẽ có trong tương lai.

+ Tính chất hiện thực: Trí tưởng tượng và tư duy của loài người dựa trên sự hiểu biết những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và cá nhân. Bức tranh này chưa có trong hiện thực, nghĩa là chỉ mới có những yếu tố, những nét riêng lẻ, những mẩu, những đoạn... nhưng được lí trí hình dung không những nó có thể có mà nhất định sẽ trở thành hiện thực. Lí tưởng là sự kết hợp hài hoà những nét khái quát có trong hiện thực. Bởi vì, con người vẫn có khả năng nhìn thấy trước tương lai trên cơ sở khái quát quá khứ và hiện tại. Đặc tính của sự hình dung trước và sự xây dựng lí tưởng này chẳng những phụ thuộc vào thái độ của cá nhân, quan điểm, hứng thú, sở thích và đạo đức của người đó mà còn dựa trên những quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội.

+ Tính chất xã hội, giai cấp

Tuỳ theo trình độ phát triển của nền văn minh (cốt lõi là trình độ phát triển của phương thức sản xuất) mà mỗi xã hội có một hệ thống quan điểm riêng về thế giới. Do vậy, trong một tiến trình lịch sử có thể song song tồn tại nhiều hệ thống quan điểm khác nhau về những hiện tượng xảy ra trong thế giới xung quanh. Trong đó, giai cấp nào đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến sẽ có hệ thống quan điểm tiến bộ nhất (khoa học nhất) chi phối lí tưởng của con người trong giai đoạn lịch sử ấy. Vì vậy, ở mỗi thời đại, xã hội, mỗi giai cấp, con người sẽ có hình ảnh lí tưởng của mình.

- Vai trò của lí tưởng:

+ Lí tưởng là mặt biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách. Nó có ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành và phát triển của nhu cầu, hứng thú, niềm tin... để vươn tới lí tưởng cao đẹp của đời mình. Người ta có thể tự điều chỉnh hoặc hủy bỏ một số nhu cầu và hứng thú, cũng như hình thành ở mình những nhu cầu, hứng thú mới cho phù hợp với lí tưởng ấy. Mặt khác, lí tưởng được hình thành và phát triển trong sự phụ thuộc trực tiếp vào thế giới quan và niềm tin, động cơ của cá nhân. Lí tưởng là sự kết hợp hài hoà, sâu sắc giữa các mặt nhận thức, tình cảm và hành đồng ý chí.

+ Lí tưởng là động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người. Nó xác định mục đích và chiều hướng phát triển của cá nhân, vì thế nhà tâm lí học Liên Xô - Ivanov cho rằng: lí tưởng mà cái vì nó mà ta sống và dưới ánh sáng của nó người ta hiểu được ý nghĩa của cuộc đời.

+ Lí tưởng trực tiếp chi phối sự hình thành và phát triển các thuộc tính tâm lí cá nhân: tình cảm, ý chí, năng lực, tính cách...

+ Lí tưởng là căn cứ để cá nhân xác định những tiêu chuẩn để đánh giá mình, đánh giá người khác và mọi hiện tượng xã hội.

+ Lí tưởng giữ vai trò lớn trong quá trình tự giáo dục - một người sống có lí tưởng cao đẹp chứng tỏ nhân cách người đó phát triển cao. Bởi vì, lí tưởng được con người nhận thức và rung cảm. Cá nhân hiểu lí tưởng và kiểu mẫu của mình cần phải xây dựng cuộc sống và hành vi của mình theo kiểu mẫu ấy. Lí tưởng thường kêu gọi sự ngạc nhiên, sự khâm phục, ngưỡng mộ. Ngoài ra, lí tưởng còn tạo nên sự thiết tha mong muốn tu dưỡng để thực hiện lí tưởng.

d. Hệ thống động cơ của nhân cách

Vấn đề động cơ là vấn đề trung tâm trong cấu trúc của nhân cách.

- Khái niệm: Động cơ là yếu tố tâm lí bên trong như: nhu cầu hứng thú, tình cảm, ý chí... thúc đẩy con người hành động.

- Các nhà tâm lí học tư sản giải thích nguồn gốc của động cơ chủ yếu trên bình diện sinh vật, coi bản năng là nguồn năng lượng, động lực chủ yếu thúc đẩy con người hoạt động.

Các nhà tâm lí học Xô viết quan niệm: những đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan một khi chúng bộc lộ ra, được chủ thể nhận biết sẽ thúc đẩy hướng dẫn con người hoạt động, khi ấy nó trở thành động cơ của hoạt động.

A. N. Leonchiev cho rằng: "Sự hình thành nhân cách con người biểu hiện về mặt tâm lí trong sự phát triển về mặt động cơ của nhân cách".

X L. Rubinxtein quan niệm: "Động cơ là sự quy định về mặt chủ quan hành vi của con người bởi thế giới, sự quy định này được thực hiện gián tiếp bằng quá trình phản ánh động cơ đó".

- Phân loại động cơ:

+ Động cơ ham thích và động cơ nghĩa vụ.

+ Động cơ quá trình (Ví dụ: trẻ chơi nhằm thoả mãn nhu cầu chơi) và động cơ kết quả (hướng vào việc làm ra sản phẩm).

+ Động cơ gần và động cơ xa.

+ Động cơ cá nhân, động cơ xã hội, động cơ công việc.

Toàn bộ các thành phần trong xu hướng nhân cách như: nhu cầu hứng thú, lí tưởng, thế giới quan, niềm tin là các thành phần trong hệ thống động cơ của nhân cách. Chúng là động lực của hành vi, của hoạt động.

Các thành phần trong hệ thống động cơ nhân cách có quan hệ chi phối lẫn nhau theo những thứ bậc. Trong đó có những thành phần giữ vai trò chủ đạo, quyết định hoạt động của cá nhân; có thành phần giữ vai trò phụ, vai trò thứ yếu tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể của hoạt động.

TÓM TẮT CHƯƠNG II à

Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục đào tạo trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá cửa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỉ luật, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Muốn đạt đến tất cả mục tiêu trên của việc giáo dục thế hệ trẻ trong thời kì mới phải làm cho họ xác định được xu hướng - hướng đi của mỗi người trong cuộc sống.

Xu hướng là một thuộc tính phức tạp của nhân cách, bao gồm một hệ thống những động lực quy định tính tích cực hoạt động của con người và quy định sự lựa chọn các thái độ của người đó. Xu hướng tạo cho con người có động lực trong cuộc sống. Trong xu hướng bao gồm những thuộc tính tâm lí cơ bản, phong phú và cũng rất phức tạp đó là:

- Nhu cầu là nguồn gốc bên trong tạo nên tính tích cực của nhân cách.

- Hứng thú là nhân tố kích thích sự hoạt động của cá nhân.

- Lí tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức năng xác định mục tiêu, chiều hướng phát triển của cá nhân.

- Thế giới quan là các quan điểm về tự nhiên - xã hội và bản thân xác định phương châm hành động của con người.

- Niềm tin là phẩm chất của thế giới quan, tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận.

- Động cơ là những yếu tố tâm lí bên trong thúc đẩy, hướng dẫn con người hoạt động. Vấn đề khái niệm động cơ, vai trò phân loại động cơ vẫn là vấn đề phức tạp trong tâm lí học. Vì vậy khi giảng dạy những vấn đề trên cần chú ý làm rõ các khái niệm, bản chất, sự phân loại và con đường hình thành chúng, vai trò từng mặt biểu hiện của xu hướng. Đặc biệt, khi phân tích làm rõ thế giới quan không những chú ý làm rõ những tính chất cơ bản của thế giới quan mà còn làm rõ nhân sinh quan. Nhân sinh quan là cách nhìn của con người về con người một cách đúng đắn nhân văn. Nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 nước gia nhập WTO với những thuận lợi và thách thức lớn cho đất nước, cho thế hệ trẻ. Vì vậy, làm rõ, nắm chắc các mặt biểu hiện của xu hướng, một thuộc tính quan trọng và phức tạp cua nhân cách sẽ có ý nghĩa lớn đối với việc giáo dục thế hệ trẻ của đất nước ta để họ kế tục, phát huy một cách đúng đắn, sáng tạo để đưa đất nước những giá trị truyền thống quý báu của cha ông. Đồng thời năng động, sáng tạo tiến kịp các nền kinh tế tiên tiến, hiện đại trên thế giới.


Câu hỏi ôn tập chương II

1. Xu hướng là gì? Tại sao nói xu hướng là thuộc tính điển hình của cá nhân?

2. Tại sao nói nhu cầu là nguồn gốc bên trong tạo nên tính tích cực của cá nhân?

3. Tại sao nói hứng thú là nhân tố kích thích sự hoạt động của cá nhân?

4. Tại sao nói lí tưởng là mặt biểu hiện tập trung của xu hướng?

5. Hãy phân tích những thuộc tính cơ bản của thế giới quan.



BÀI TẬP THỰC HÀNH à

Bài tập số 8: Hứng thú

Nghiên cứu hứng thú của học sinh bằng phương pháp Anket. Dưới đây là mẫu Anket:

PHIẾU TÌM HIỂU HỨNG THÚ HỌC TẬP

- Trường:.......................Lớp:...........................

- Quận (huyện):..............Thành phố:.................

- Nam (nữ):.................... Năm sinh:...................

1. Em hãy đọc kĩ và đánh dấu (+) vào những ô ý phù hợp với mình:


Các môn học

Mức độ thích

Rất thích

thích

Không thích

Chán

1.

2.

3

4.

5.

2. Theo em trong lớp các bạn thích học môn học nào nhất? Tại sao?

3. Những lí do nào em thích hay không thích các môn học? (Đánh dấu (+) vào những lí do phù hợp với mình).

Các môn

Lí do thích học

Môn học có ý nghĩa

Thầy dạy hay

Xã hội đánh giá cao

Có truyền thống gia đình

Có tác dụng nhiều với bản thân

Dễ học với bản thân

Học đạt kết quả cao

1

2

3

4

Các môn

Lí do không thích học

Môn học không có ý nghĩa

Thầy dạy không hay

Không được xã hội đề giá cao

Không có truyền thống gia đình

Không có tác dụng nhiều với bản thân

Khó học

Kết quả học kém

1

2

3

4

4. Ngoài những lí do trên còn có những lí do nào khác khiến em thích hay không thích các môn học đó?

5. Trong khi học ở lớp cũng như ở nhà, em có những biểu hiện nào dưới đây (ghi dấu (+) vào những ý phù hợp với mình).


Các môn

Các mức độ

Chăm chú nghe giảng và ghi chép

Tích cực phát biểu

Làm đầy đủ các bài tập

Làm thêm các bài tập

Đọc thêm tài liệu

Nêu thắc mắc

Tham gia các nhóm ngoại khóa

1

2

3

4

6. Thời gian trung bình dành cho việc tự học ở nhà của em là bao nhiêu giờ trong một ngày?

7. Lúc rỗi em thường làm gì?

8. Để cho việc học tập có kết quả hơn, em có đề nghị gì với nhà trường, thầy giáo và gia đình.

9. Nếu được tiếp học tập lên thì em thích đi sâu nghiên cứu môn học nào? Vì sao?

Phân tích kết quả điều tra để rút ra kết luận về hứng thú học tập các môn học của học sinh, mức độ hứng thú, nguyên nhân gây hứng thú hay không hứng thú của học sinh.

Bài tập số 9: Nghiên cứu hứng thú của học sinh bằng Anket của A. E. Glomstok.


PHIẾU TÌM HIỂU HỨNG THÚ HỌC TẬP

Bạn có thích hay không?

1. Đọc các sách vật lí vui hay toán học vui.

2. Đọc về những phát kiến trong hoá học.

3. Tìm hiểu cấu tạo của rađiô điện tử

4. Đọc các tạp chí kĩ thuật.

5. Tìm hiểu về đời sống con người ở các mức khác nhau, về chế độ nhà nước ở các mức độ.

6. Tìm hiểu đời sống thực vật và động vật.

7. Đọc tác phẩm của các nhà văn cổ điển thế giới.

8. Thảo luận về các sự kiện chính trị đang diễn ra trong nước và nước ngoài.

9. Đọc sách báo nói về nhà trường.

10. Tìm hiểu công việc của bác sĩ

11. Quan tâm đến các đồ dùng trong nhà, trong lớp, trong trường

12. Đi xem hát, bảo tàng, triển lãm nghệ thuật.

13. Đọc các sách mới về chiến tranh và quân sự nói chung.

14. Đọc các sách báo phổ biến khoa học nói về các phát minh vật lí (hay toán học).

15. Làm các bài tập ở nhà về hoá học.

16. Sửa chữa các máy móc, đồ dùng điện tử.

17. Xem triển lãm về kĩ thuật hoặc nghe nói chuyện về những cái mới trong kĩ thuật.

18. Đi thăm khu vực địa lí để nghiên cứu.

19. Học sinh vật học, thực vật học, động vật học.

20. Đọc các bài báo phê bình văn học.

21. Tham gia các công tác xã hội

22. Giải thích cho bạn cách làm bài tập, nếu bạn không thích tự mình làm bài tập.

23. Đọc về vấn đề con người đã học cách đấu tranh chống bệnh tật như thế nào?

24. Khâu vá, thêu thùa, nấu ăn.

25. Đọc sách báo về nghệ thuật.

26. Tìm hiểu kĩ thuật quân sự.

27. Làm thí nghiệm vật lí.

28. Làm thí nghiệm hoá học.

29. Đọc những bài nói về các phát minh mới của kĩ thuật rađiô trong các tạp chí phổ biến khoa học.

30. Sưu tầm và lắp ráp các máy móc, ví dụ như xe máy.

31. Sưu tầm các mẫu khoáng vật.

32. Làm vườn, trồng trọt.

33. Ghi chép những điều quan sát được, những ý nghiêng mình.

34. Đọc các sách về lịch sử.

35. Đọc, kể lại cho các em các mẩu chuyện, chơi với các em nhỏ.

36. Chăm sóc người bệnh, theo dõi cách sử dụng thuốc men.

37. Giúp đỡ gia đình về công việc nội trợ.

38. Tham gia một nhóm văn nghệ nghiệp dư nào đó.

39. Tham gia các trò chơi quân sự, các cuộc hành quân cắm trại.

40. Tham gia các nhóm ngoại khoá về toán (hay vật lí).

41. Pha chế các dung dịch.

42. Thu thập các máy thu thanh cũ.

43. Vẽ mô hình các thiết bị công cụ.

44. Tham gia các cuộc tham quan địa lí hay địa chất.

45. Quan sát thế giới động vật.

46. Học ngoại ngữ

47. Đọc báo về các vấn đề lịch sử

48. Làm công tác đội thiếu niên tiền phong.

49. Chăm sóc trẻ em

50. Làm các đồ chơi.

51. Trò chuyện với bạn bè về nghệ thuật.

52. Tham gia các đội thể thao

53. Tham gia thi ôlimpic về vật lí (hay toán học).

54. Giải bài tập hoá học.

55. Sử dụng các dụng cụ đo lường.

56. Làm các công việc cơ khí với các phép tính đơn giản.

57. Tìm hiểu các bản đồ địa lí (địa chất).

58. Làm thí nghiệm sinh vật học.

59. Tranh luận với các bạn bè về các cuốn sách đã đọc.

60. Nghiên cứu chế độ chính trị ở các nước khác nhau.

61. Tranh luận về các vấn đề giáo dục.

62. Tìm hiểu cấu tạo của cơ thể con người.

63. Thuyết phục ai đó về một vấn đề gì đấy.

64. Tìm hiểu lịch sử nghệ thuật.

65. Làm người tổ thức trong các cuộc cắm trại và trong các trò chơi.

66. Làm các phép toán theo công thức.

67. Tìm hiểu các hiện tượng hoá học trong thiên nhiên.

68. Phân tích sơ đồ máy thu thanh.

69. Vẽ các bản đồ kĩ thuật.

70. Vẽ bản đồ địa phương mình sống.

71. Chăm sóc gia súc

72. Đọc báo cáo về các vấn đề văn học.

73. Tìm hiểu lịch sử văn hoá.

74. Tìm hiểu khoa học tâm lí - giáo dục.

75. Nghiên cứu các nguyên nhân khác nhau của bệnh.

76. Làm quen - giao tiếp với những người khác nhau.

77. Đi tham quan du lịch.

78. Tuân thủ nội quy, quy chế chung ở gia đình và nhà trường.


Phiếu trả lời

Họ và tên:........................................ Lớp:...............

Sau khi đã đọc kĩ từng câu trên bảng Anket hãy khi vào các tương ứng với các câu hỏi:

(++): Rất thích và muốn trở thành chuyên gia.

(+): Thích hiểu biết nhưng không thích làm.

- Không thích.

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

43

44

45

46

47

48

49

50

51

52

53

54

55

56

57

58

59

60

61

62

63

64

65

66

67

68

69

70

71

72

73

74

75

76

77

78

Cách tính toán và phân tích kết quả chuyển các kí hiệu trong phiếu trả lời thành điểm số.

(+ +) = 5; (+) = 3; - = 1

Cộng điểm số của từng cột trong 13 cột trên.

- Cột số 1: nói lên xu hướng toán - lí.

- Cột số 2: nói lên xu hướng hoá học.

- Cột số 3: nói lên xu hướng kĩ thuật - điện tử.

- Cột số 4: nói lên xu hướng kĩ thuật.

- Cột số 5: nói lên xu hướng địa lí - địa.

- Cột số 6: nói lên xu hướng sinh hoá và chất nông nghiệp.

- Cột số 7: xu hướng ngôn ngữ học và khoa học báo chí.

- Cột số 8: xu hướng sử học và hoạt động xã hội.

- Cột số 9: xu hướng công tác sư phạm và hoạt động giáo dục.

- Cột số 10: xu hướng y học và hoạt động y tế.

- Cột số 11: xu hướng nội trợ.

- Cột số 12: xu hướng nghệ thuật.

- Cột số 13: xu hướng kinh nghiệp.

Số điểm tổng cộng của mỗi cột trong 13 cột trên sẽ nói lên hứng thú của học sinh về lĩnh vực tri thức và hoạt động tương ứng (nó được xem như là chỉ số của hứng thú) và cho phép ta phân hạng 13 nhóm theo chỉ số đó. Nhóm nào có chỉ số tối đa (30 điểm), thì đó sẽ là chỉ số của khuynh hướng, nói lên nguyện vọng đối với hoạt động tương ứng.

Bài tập số 10: Nghiên cứu mức độ kì vọng của nhân cách bằng phương pháp thực nghiệm sau đây:

- Vật liêu: 20 tờ phiếu kích thước 12cm x 7cm. Một mặt của tờ phiếu ghi các phần/ số thứ tự bài tập số trang trong sách Thực hành tâm lí học (Trần Trọng Thủy (Chủ biên). NXB Giáo dục năm 1990). Mặt kia ghi số thứ tự của bài tập (theo chiều từ dễ đến khó). Ngoài ra còn có đồng hồ bấm giây, giấy, bút.

- Cách tiến hành: Xếp các tờ phiếu thành hai hàng trước mặt sinh viên. Mặt ghi nội dung của các bài tập úp xuống dưới để sinh viên tiến hành lựa chọn và giải bài tập sau khi đã biết rõ thứ tự các bài tập là từ dễ đến khó.

Chọn bài nào giải trước và bài nào giải sau là tuỳ sinh viên. Song lí do chọn phải cho người nghiên cứu biết. Người nghiên cứu cũng cho biết luôn kết quả giải từng bài tập (bài giải có đúng không, bài nào mà trong thời gian quy định không giải xong thì coi như không giải được) để sinh viên có thêm điều kiện lựa chọn các bài tập tiếp theo.

Quan sát quá trình lựa chọn và ghi chép theo các mẫu biên bản dưới đây.


Biên bản thực nghiệm

Họ tên sinh viên:.....................Lớp..........Khoa:...........

Khoá: .........

Người nghiên cứu:..............................................

Ngày nghiên cứu:...............................................

Thứ tự lựa chọn bài giải

Thứ tự của bài tập

Lí do chọn để giải

Kết quả (+) và (-)

Nhận xét quan sát của người nghiên cứu

Phân tích kết quả:

Vẽ đồ thị biểu diễn kết quả lựa chọn và giải bài tập (trục hoành chỉ thứ tự lựa chọn bài giải, trục tung chỉ thứ tự bài tập, giao điểm của hoành độ và tung độ là kí hiệu (+) và (-), kết quả giải bài tập). Trên cơ sở đó, đánh giá về mức độ và động thái kì vọng của sinh viên trong quá trình giải bài tập: chọn bài đầu tiên để giải là bài ở mức độ nào (dễ nhất, khó nhất hay trung bình).

Sau khi giải được (hoặc không giải được bài đã chọn thì sinh viên tiếp tục chọn và giải các bài khó hơn hay để hơn) ở liền kề (hay cách xa) bài vừa giải.

Bài tập số 11: Sinh viên tự làm tại lớp trong vòng 10 phút: ghi lại các nhu cầu hiện nay của sinh viên và xếp thứ tự từ

1 - 20. Sau đó giải thích tại sao lại xếp thứ tự như vậy? Giáo viên thu các bảng trả lời lại và tính có bao nhiêu phần trăm có nhu cầu vật chất, bao nhiêu phần trăm có nhu cầu tinh thần, bao nhiêu phần trăm có nhu cầu hoạt động xã hội? Từ đó, sẽ biết thực trạng nhu cầu của sinh viên hiện nay, làm sáng tỏ lí luận các loại nhu cầu và góp phần trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên.

Bài tập số 12: Sinh viên tự làm tại lớp trong vòng 10 phút.

- Vật liệu: Mỗi sinh viên lấy 1 tờ giấy trắng và tự kẻ theo bảng mẫu dưới đây.

- Cách tiến hành: Sinh viên xếp số thứ tự từ 1 - 6 nguyên nhân gây cho sinh viên có niềm tin trong học tập, cuộc sống.

- Mục đích: Tìm hiểu trong sinh viên hiện nay nguyên nhân nào gây cho các em có niềm tin trong học tập và cuộc sống.


Nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân khách quan

Do kết quả học tập

Do tự tin

Do xác định mục đích rõ ràng

Do ý chí nghị lực

Do

nhu cầu

tự khẳng định

Khó

trả lời

Do gia đình

Do bạn bè

Do sự phát triển của đất nước

Do yêu cầu của xã hội

Do giáo dục nhà trường

Khó trả lời



Created by AM Word2CHM

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #tâmlý