cac nhan to anh huong den tin dung
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NHTM
1.4.1. Nhân tố thuộc về phía khách hàng
- Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp: Bất kỳ loại hàng hóa hay dịch vụ
nào muốn tiêu thụ được thì cần phải có người mua. Tín dụng ngân hàng cũng
vậy, ngân hàng không thể cho vay nếu như không có người vay. Xét trong
phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát
triển luôn là cần thiết nhưng với từng NHTM thì không phải lúc nào cũng như
vậy. Do số lượng doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng là có hạn và có
những lúc nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp này không cao, chẳng hạn
trong giai đoạn hoạt động kinh doanh gặp khó khăn các doanh nghiệp thường
có xu hướng thu hẹp sản xuất. Trong trường hợp đó nhu cầu vốn trung và dài
hạn của các doanh nghiệp sẽ không cao và do đó ngân hàng sẽ gặp khó khăn
nếu muốn mở rộng tín dụng.
- Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện,
tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng: Để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro khi cho
vay, các NHTM thường đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm
phân loại, chọn ra những khách hàng có thể hay không thể cho vay. Chỉ
những khách hàng nào đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của ngân hàng thì mới
được xem xét cho vay. Những điều kiện tiêu chuẩn này có thể rất khác nhau
tuỳ theo ngân hàng cụ thể, song nhìn chung các ngân hàng đều quan tâm tới
một số vấn đề sau: tính hợp lý, hợp pháp của mục đích sử dụng vốn, năng lực
tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tính khả thi của dự
án, các biện pháp bảo đảm. Rõ ràng khả năng của doanh nghiệp trong việc
đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi nếu đa số các khách hàng không thể đáp
ứng được yêu cầu của ngân hàng, có thể do điều kiện đặt ra quá khắt khe,
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sinh viên thực hiện: Lê Đình Tam 26 Lớp: TCDN 44D
không thực tế hoặc do khả năng của các doanh nghiệp quá thấp, thì ngân hàng
không thể mở rộng cho vay trong khi vẫn bảo đảm an toàn tín dụng.
- Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng
khoản vay có hiệu quả: Khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ
được lấy từ chính kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát
mại tài sản thế chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và
sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố cần thiết để đảm bảo cho
việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, trong đó có một số
nhân tố giữ vai trò quyết định như vị thế, năng lực thị trường của doanh
nghiệp, năng lực công nghệ, chất lượng đội ngũ nhân sự, trình độ quản lý của
doanh nghiệp.
1.4.2 Nhân tố thuộc phía ngân hàng.
- Quy mô và cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn NHTM: Muốn cho vay được
thì điều kiện trước tiên là ngân hàng phải có vốn. Nhưng chỉ có vốn thôi thì
chưa đủ, do yêu cầu phải đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các
khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng cần phải được tài trợ chủ yếu bởi
nguồn vốn trung và dài hạn, bao gồm nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở
lên và các nguồn vốn huy động có thời hạn dưới một năm nhưng có tính ổn
định cao trong thời gian dài. Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng
chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, không ổn định thì không thể mở rộng cho vay
trung và dài hạn được. Các nguồn vốn mà một NHTM có thể sử dụng để cho
vay trung và dài hạn có quy mô và cơ cấu khác nhau trong tổng nguồn vốn
của ngân hàng. Quy mô các nguồn vốn này là một trong những nhân tố quyết
định quy mô cho vay trung và dài hạn của ngân hàng.
- Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định các dự án: Một
trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng là vốn và lãi
vay được hoàn trả đúng kỳ hạn. Điều này sẽ không thể có được nếu như việc
thực hiện dự án không đạt hiệu quả như mong muốn, hoặc doanh nghiệp
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sinh viên thực hiện: Lê Đình Tam 27 Lớp: TCDN 44D
không có thiện chí, cố tình lừa đảo. Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần
thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Thông thường,
công tác thẩm định khách hàng được tiến hành trước và chủ yếu tập trung vào
xem xét các mặt: tư cách pháp lý, khả năng tài chính, khả năng quản lý điều
hành sản xuất kinh doanh, năng lực sản xuất kinh doanh, mức độ tín nhiêm.
Nếu khách hàng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu do ngân hàng đặt ra thì dự án
đầu tư sẽ được tiếp tục xem xét để quyết định có cho vay hay không. Vấn đề
đặt ra ở đây là thủ tục và các điều kiện, tiêu chuẩn được sử dụng làm căn cứ
để đánh giá khách hàng và dự án đầu tư có hợp lý hay không. Nếu thủ tục
rườm rà, các điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra quá khắt khe, không phù hợp với
thực tế thì sẽ có rất ít các doanh nghiệp bảo đảm thoả mãn được yêu cầu của
ngân hàng. Điều đó gây cản trở cho ngân hàng trong việc thu hút thêm khách
hàng, mở rộng quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu quy trình điều kiện đặt ra
không chặt chẽ có thể sẽ khiến cho ngân hàng sai lầm trong việc ra quyết định
cho vay, dẫn đến rủi ro tín dụng. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động các
NHTM phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện công tác thẩm định của mình.
- Năng lực giám sát và xử lý các tình huống tín dụng của ngân
hàng: Cho dù công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng được tiến hành
tốt, giúp cho ngân hàng lựa chọn được những khách hàng tốt, những dự án
khả thi có khả năng sinh lời cao song đó chưa phải là sự đảm bảo chắc chắn
để có được chất lượng tín dụng cao, đặc biệt là với tín dụng trung và dài hạn.
Bởi lẽ hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian dài luôn chứa đựng
những rủi ro tiềm ẩn không thể lường trước được. Bản thân dự án trong quá
trình thực hiện cũng làm nảy sinh những tình huống ngoài dự kiến. Chính vì
vậy mà công tác giám sát và xử lý các tình huống tín dụng sau khi cho vay có
ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các vấn đề
như: sự tuân thủ đúng mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp; tình hình hoạt
động thực tế của dự án, tiến độ trả nợ, quá trình sử dụng, bảo quản và biến
động tài sản của doanh nghiệp; những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sinh viên thực hiện: Lê Đình Tam 28 Lớp: TCDN 44D
thực hiện dự án. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp ngân hàng phát hiện và
ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực như sử dụng vốn sai mục đích,
âm mưu tẩu tán tài sản, lừa đảo ngân hàng. Đồng thời, qua việc luôn bám sát
hoạt động của doanh nghiệp thì ngân hàng có thể có biện pháp giúp đỡ doanh
nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin bổ ích, kịp thời, đưa ra các lời
khuyên hoặc trực tiếp giúp đỡ các doanh nghiệp khi gặp khó khăn bằng cách
gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, cho vay thêm nhằm giúp cho việc thực hiện
dự án của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất, qua đó góp phần nâng cao chất
lượng tín dụng trung và dài hạn.
- Chính sách tín dụng của ngân hàng: Chính sách tín dụng của
ngân hàng là một hệ thống các biện pháp nhằm liên quan đến việc mở rộng
hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng đó trong
từng thời kỳ.
Với ý nghĩa như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn
đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trước hết là về mặt quy mô tín dụng,
nếu chính sách tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nào đó là hạn chế tín
dụng trung và dài hạn thì có nghĩa là quy mô tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng đó sẽ bị thu hẹp. Khi đó không thể nói chất lượng tín dụng của
ngân hàng đó là tốt ít ra là về mặt quy mô. Ngoài ra, chính sách tín dụng của
ngân hàng còn bao gồm một loạt các vấn đề như quy định về điều kiện, tiêu
chuẩn tín dụng đối với khách hàng, lĩnh vực tài trợ, biện pháp bảo đảm tiền
vay, quy trình quản lý tín dụng, lãi suất…Nếu chính sách tín dụng được xây
dựng và thực hiện một cách khoa học và chặt chẽ, kết hợp được hài hòa lợi
ích của ngân hàng, của khách hàng và của xã hội thì sẽ hứa hẹn một chất
lượng tín dụng tốt. Ngược lại, nếu việc xây dựng và thực hiện chính sách tín
dụng không hợp lý, không khoa học thì chắc chắn chất lượng tín dụng nói
chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng của ngân hàng sẽ
không cao thậm chí rất thấp.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sinh viên thực hiện: Lê Đình Tam 29 Lớp: TCDN 44D
- Thông tin tín dụng: Thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết
cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh vực nào. Trong hoạt động tín dụng ngân
hàng cũng vậy, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước hết phải có
thông tin về dự án, về khách hàng đó, để làm tốt công tác giám sát sau khi cho
vay cũng cần có thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời thì càng thuận
lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng
vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác kịp thời đầy đủ còn giúp cho
ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín
dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều
đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
- Công nghệ ngân hàng, trang thiết bị kỹ thuật cũng là một nhân tố tác
động tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, nhất là trong
thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử
dụng công nghệ hiện đại được trang bị các phương tiện kỹ thuật chất lượng
cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch,
đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là tiền đề để ngân hàng
thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ
thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác,
công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn.
- Chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự của ngân hàng: Cho dù khoa
học kỹ thuật hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hóa trong nhiều lĩnh vực song
nhân tố con người vẫn luôn giữ vai trò quyết định. Đặc biệt trong hoạt động
tín dụng ngân hàng là hoạt động phức tạp, có liên quan đến nhiều vấn đề của
đời sống xã hội thì vai trò của con người lại càng quan trọng. Các phương tiện
kỹ thuật hiện đại chỉ có thể trợ giúp chứ không thể thay thế được sự nhạy cảm
hay kinh nghiệm của người cán bộ tín dụng. Do đó vấn đề nhân sự là vấn đề
cực kỳ quan trọng đối với mỗi ngân hàng, trong đó nổi bật lên hai vấn đề :
chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự. Chất lượng nhân sự ở đây không chỉ
đơn thuần đề cập đến trình độ chuyên môn mà còn bao gồm cả lương tâm,
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sinh viên thực hiện: Lê Đình Tam 30 Lớp: TCDN 44D
đạo đức, tác phong, kỷ luật lao động của người cán bộ ngân hàng nói chung
và cán bộ tín dụng nói riêng. Chất lượng nhân sự tốt, biểu hiện ở sự năng
động sáng tạo trong công việc, tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật
cao của các cán bộ, trong một chừng mực nào đó có thể giúp ngân hàng bù
đắp lại những hạn chế về công nghệ, kỹ thuật, nhờ đó mà ngân hàng vẫn có
thể tồn tại và phát triển được cho dù phải cạnh tranh với những đối thủ có
tiềm lực mạnh hơn về công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật. Bên cạnh chất lượng
nhân sự thì công tác quản lý nhân sự cũng cần đặc biệt chú ý, bởi lẽ không
phải cứ có cán bộ tín dụng giỏi là có chất lượng tín dụng cao. Mỗi cán bộ tín
dụng đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, điều quan trọng là phải bố
trí, sắp xếp công việc của họ sao cho phát huy hết thế mạnh và hạn chế điểm
yếu của từng người, đồng thời có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm nâng cao tinh
thần trách nhiệm, tạo sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động của từng thành viên
trong một guồng máy thống nhất cùng hướng tới một mục tiêu chung là nhu
cầu chất lượng tín dụng ngân hàng
1.4.3 Nhân tố khách quan
1.4.3.1 Môi trường kinh tế xã hội
- Môi trường tự nhiên : Nói chung môi trường tự nhiên không tác
động trực tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện
qua sự tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp mà hoạt động của chúng phụ thuộc nhiều vào điều
kiện tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nông nghiệp,
ngư nghiệp. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả
năng trả nợ cho ngân hàng.
- Môi trường kinh tế : Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại
và phát triển của ngân hàng cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều
của môi trường này. Sự biến động của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay
xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sinh viên thực hiện: Lê Đình Tam 31 Lớp: TCDN 44D
theo. Đặc biệt, trong điều kiện quốc tế hóa mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động
của các ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường
kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế. Những tác động do môi
trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp đối với ngân hàng hoặc tác động xấu
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó gián tiếp ảnh hưởng tới
chất lượng tín dụng ngân hàng.
- Môi trường chính trị, xã hội:
Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một căn cứ quan trọng để ra
quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì các nhà đầu tư
sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng ngân
hàng trung và dài hạn tăng lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì họ sẽ tìm
cách thu hẹp sản xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn tín
dụng ngân hàng
1.4.3.2 Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý không chặt chẽ nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ
hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa
đảo ngân hàng. Môi trường pháp lý không chặt chẽ và thiếu sự ổn định cũng
khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh do đó hạn chế nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro