Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Các nguyên tắc của Luật Quốc tế về Môi trường

Khái niệm Luật quốc tế về môi trường

Luật quốc tế về môi trường được hiểu là tổng hợp các nguyên tắc và các quy phạm pháp lý quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, hợp tác và phát triển bền vững vì lợi ích của cộng đồng quốc tế.

Điều đáng chú ý là, cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp lý quốc tế nào ghi nhận toàn bộ các nguyên tắc và quy phạm về bảo vệ môi trường ở mức độ toàn cầu. Hầu hết các nguyên tắc chỉ mang tính chất khuyến nghị nằm rải rác trong nhiều văn kiện pháp lý khác nhau như Tuyên bố Stockholm 1972 về môi trường con người, Tuyên bố của Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và phát triển 1992…

1.3. Nội dung cơ bản của luật quốc tế về môi trường

1.3.1. Bảo vệ môi trường biển và bảo vệ môi trường nước trên đất liền

a.                 Bảo vệ môi trường biển

Theo khoản 4 Điều 1 Công ước Luật biển 1982, môi trường biển được hiểu không chỉ bao gồm tài nguyên sinh vật, hệ sinh thái biển (rừng ngập mặn) mà còn chất lượng biển, cảnh quan biển.

Mặc dù vấn đề bảo vệ và giữ gìn môi trường biển đã được các nhà luật học đề cập tới những năm 20 của thế kỷ này nhưng mãi cho tới những năm 50, Công ước đầu tiên trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển mới được ký kết. Cho đến nay, một số công ước quan trọng trong lĩnh vực này là:

-     Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp quốc;

-     Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra năm 1973, sửa đổi bởi Nghị định thư 1978 (Công ước Marpol 73/78);

-     Công ước quốc tế liên quan đến can thiệp trên biển cả trong trường hợp tai nạn gây ô nhiễm dầu (INTERVENTION) 1969;

-     Công ước phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác (LDC) 1972;

-     Công ước quốc tế về sẵn sàng ứng phó và hợp tác trong xử lý ô nhiễm dầu (OPRC) 1990.

b.                 Bảo vệ môi trường nước trên đất liền

Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, các Điều ước quốc tế về môi trường nước tăng lên đáng kể, mặc dù ngay từ đầu thế kỷ 20 đã xuất hiện một số Điều ước quốc tế đầu tiên về vấn đề này. Một số Điều ước quốc tế chủ yếu được biết đến là:

-     Hiệp định về đường thủy trên sông St. Lawrence giữa Mỹ và Canada 1959;

-     Hiệp định Harane về chương trình hành động của quốc gia hệ thống sông Zambezi 1987.

Ngoài ra còn nhiều Điều ước khác được ký kết ở khắp các châu lục từ châu Mỹ đến châu Âu, từ châu Phi đến châu Á và nhiều khu vực trên thế giới.

Hiện này, Liên hợp quốc là tổ chức quốc tế duy nhất đang tiến hành pháp điển hóa luật về sử dụng nước quốc tế thông qua Ủy ban Luật pháp quốc tế.

1.3.2. Bảo vệ khí quyển và khí hậu

Xã hội càng phát triển càng làm gia tăng các loại khí gây ô nhiễm cho môi trường khí quyển, dẫn đến các hiện tượng đe dọa đời sống trên Trái đất như hiện tượng mưa axit, hiện tượng nước biển dâng cao gây ngập lụt cho các vùng duyên hải của quốc gia…Những hậu quả nguy hiểm này buộc loài người phải có những hoạt động cần thiết để hình thành một chế độ pháp lý quốc tế ngăn ngừa và giảm thiểu các hiện tượng thảm họa nêu trên. Do đó, Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn 1985 và Công ước khung về thay đổi khí hậu 1992 đã ra đời.

-     Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn 1985: Công ước này được coi là Công ước khung quy định các nghĩa vụ cơ bản của các quốc gia có liên quan đến việc giám sát và trao đổi thông tin, ban hành các văn bản pháp luật và các biện pháp hành chính cần thiết, thông báo các biện pháp đã được thỏa thuận, trình tự, thủ tục và các tiêu chuẩn, cũng như sự hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm hạn chế và ngăn chặn các hoạt động của con người có thể mang lại tác động xấu tới tầng ôzôn.

-     Công ước khung về thay đổi khí hậu của Liên hợp quốc 1992: đây được coi là Công ước quốc tế toàn diện và quan trọng nhất trong lĩnh vực này. Công ước chỉ chủ yếu tập trung vào các nguyên tắc và nghĩa vụ chung của các quốc gia thành viên trong việc ngăn ngừa hiện tượng Trái đất nóng lên.

1.3.3. Bảo vệ đa dạng sinh học

Trong những năm vừa qua đã có rất nhiều loài bị tuyệt chủng, và con số này được dự tính là sẽ không ngừng tăng lên. Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ đa dạng sinh học, các quốc gia đã thỏa thuận ký kết một loạt các Điều ước quốc tế, trong đó phải kể đến:

-     Công ước RAMSAR 1971 về các vùng ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước;

-     Công ước CITES 1973 về buôn bán quốc tế các loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa;

-     Công ước về đa dạng sinh học Rio de Janeiro 1992.

II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ

2.1. Khái niệm về những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế

Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm và có giá trị bắt buột chung (jus cogens) đối với mọi chủ thể của luật quốc tế và được áp dụng trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và trong mọi lĩnh vực của quan hệ quốc tế. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thể hiện tập chung nhất những tư tưởng chính trị - pháp lý và cách xử sự của các chủ thể của luật quốc tế trong quá trình thiết lập và thực hiện các quan hệ quốc tế. Đồng thời các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế cũng chính là những tư tưởng chỉ đạo cho quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật quốc tế.

2.2. Cơ sở pháp lý

Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được ghi nhận trong điều 2 Hiến chương Liên hiệp quốc ngày 24/10/1945 và được long trọng ghi trong Tuyên bố "Về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc ngày 24/10/1970" gọi là tuyên bố ngày 24/10/1970. Đây là tuyên bố có chức năng pháp điển hóa các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, bởi phần lớn các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế đều đã được quy định trong Hiến chương Liên hiệp quốc, nhưng hệ thống các nguyên tắc này được ghi nhận chính thức là "các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế" trong Tuyên ngôn 1970.

Bên cạnh hai văn kiện quy định trực tiếp trên, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế còn được ghi nhận trong nhiều công ước quốc tế toàn cầu và khu vực khác, cũng như các điều ước quốc tế song phương và pháp luật của các quốc gia.

2.3. Các nguyên tắc cơ bản cụ thể của luật quốc tế

Luật pháp quốc tế hiện nay ghi nhận các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh mọi quan hệ quốc tế giữa các chủ thể của luật quốc tế bao gồm:

-         Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia;

-         Nguyên tắc không sử dung vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế;

-         Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế;

-         Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác;

-         Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết;

-         Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau;

-         Nguyên tắc Pacta sunt servanda (tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế).

a) Nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền của các quốc gia

Tất cả mọi quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền. Các quốc gia bình đẳng về quyền và nghĩa vụ và là những thành viên bình đẳng của cộng đồng quốc tế, bất chấp sự khác biệt về chế độ kinh tế, chính trị và xã hội.

Cụ thể, bình đẳng về chủ quyền bao gồm những nội dung sau:

- Tất cả các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý;

- Mỗi quốc gia được hưởng các quyền xuất phát từ chủ quyền hoàn toàn;

- Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng tư cách của các quốc gia khác;

- Sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của quốc gia là bất khả xâm phạm;

- Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của mình;

- Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tuân thủ một cách đầy đủ và có thiện chí các nghĩa vụ quốc tế của mình và chung sống trong hòa bình với các quốc gia khác.

b) Nguyên tắc tất cả các quốc gia từ bỏ việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế của mình chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc là bất cứ cách thức nào khác không phù hợp với những mục đích của Liên hợp quốc.

Tất cả mọi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế chống lại toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc là bằng bất kỳ cách thức nào không phù hợp với những mục đích của Hiến chương Liên hợp quốc. Việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực sẽ là sự vi phạm luật pháp quốc tế và không bao giờ được sử dụng như là các biện pháp giải quyết các vấn đề quốc tế.

Chiến tranh xâm lược là tội ác chống lại hòa bình và phải chịu trách nhiệm theo luật pháp quốc tế.

Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ mưu đồ chiến tranh xâm lược phù hợp với những mục đích và nguyên tắc của Liên hợp quốc.

Mọi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc sử dụng hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm vi phạm sự tồn tại của các đường biên giới của các quốc gia khác, hoặc sử dụng như là biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế bao gồm các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia.

Cũng như vậy, mọi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc sử dụng hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm vi phạm các đường ranh giới quốc tế như giới tuyến ngừng bắn, được thiết lập bằng bởi một thỏa thuận quốc tế mà quốc gia đó là một bên, hoặc tương tự như vậy, có nghĩa vụ phải tuân thủ. Không có bất kỳ điều nào được đề cập ở trên sẽ được hiểu là sự gây tổn hại đến địa vị của các bên đối với quy chế và hiệu lực của các đường ranh giới đó theo các chế độ pháp lý đặc biệt hoặc ảnh hưởng đến trạng thái tạm thời của các quốc gia đó.

Mọi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ mọi hành động trả đũa bao gồm cả việc sử dụng vũ lực

Mọi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ bất kỳ hành động bạo lực nhằm loại bỏ quyền của các dân tộc trong việc soạn thảo nguyên tắc về quyền bình đẳng và tự quyết đối với quyền của các dân tộc đó được tự quyết, tự do và độc lập.

Mọi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các lực lượng không chính quy hoặc các nhóm vũ trang bao gồm cả lính đánh thuê để xâm nhập lãnh thổ của các quốc gia khác.

Mọi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc tổ chức, xúi giục, trợ giúp hoặc tham gia vào các hành vi nội chiến hoặc khủng bố ở một quốc gia khác hoặc là ngầm chấp nhận những hoạt động được tổ chức ở trên lãnh thổ của mình liên quan trực tiếp đến việc thực hiện các hành vi đó, khi mà các hành vi được mô tả trong khoản này bao hàm một sự de dọa hoặc sử dụng vũ lực.

Lãnh thổ quốc gia không thể bị chiếm đóng quân sự do việc sử dụng vũ lực trái với những điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ quốc gia không thể bị một quốc gia khác chiếm đoạt là kết quả của việc sử dụng hoặc đe dọa dùng vũ lực. Không một sự chiếm đóng lãnh thổ do việc sử dụng hoặc đe dọa dùng vũ lực nào được công nhận là hợp pháp. Không một điều nào nói ở trên sẽ được hiểu như là sự ảnh hưởng đến: a. Những điều khoản của Hiến chương này hoặc bất kỳ một thỏa thuận quốc tế nào khác có trước Hiến chương này và có hiệu lực theo luật quốc tế; b. Các quyền hạn của Hội đồng Bảo an theo Hiến chương

Tất cả các quốc gia sẽ theo đuổi với thiện chí các cuộc đàm phán nhằm sớm ký kết một điều ước toàn cầu về giải trừ quân bị tổng thể và hoàn toàn dưới sự giám sát quốc tế có hiệu quả và cố gắng chấp nhận những biện pháp nhằm giảm bớt áp lực quốc tế và tăng cường lòng tin giữa các quốc gia.

Tất cả các quốc gia sẽ tuân thủ với thiện chí các nghĩa vụ của mình những nguyên tắc và quy tắc của luật quốc tế được thừa nhận chung đối với việc gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế và sẽ nỗ lực làm cho hệ thống an ninh của Liên hợp quốc dựa trên Hiến chương này ngày càng hiệu quả hơn.

Không một điều nào nói ở trên đây được hiểu là sự mở rộng hoặc thu hẹp bằng bất kỳ cách thức nào phạm vi của các điều khoản của Hiến chương này liên quan đến các trường hợp sử dụng vũ lực được coi là hợp pháp

c. Nguyên tắc tất cả các quốc gia giải quyết các tranh chấp quốc tế của mình bằng các biện pháp hoà bình mà không làm phương hại đến hòa bình, an ninh và công lý quốc tế

Tất cả các quốc gia sẽ giải quyết các tranh chấp quốc tế với những quốc gia khác bằng các biện pháp hòa bình mà không làm phương hại đến hòa bình, an ninh và công lý quốc tế

Mọi quốc gia do vậy sẽ sớm tìm kiếm và chỉ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án; sử dụng trung gian khu vực, thỏa thuận hoặc những biện pháp hòa bình khác do các bên lựa chọn. Trong việc tìm kiếm những biện pháp giải quyết tranh chấp, các bên đồng ý rằng những biện pháp hòa bình sẽ là thích hợp đối với những hoàn cảnh cụ thể và bản chất của tranh chấp.

Trong trường hợp không đạt được một giải pháp để giải quyết tranh chấp bằng bất kỳ biện pháp đã nêu ở trên, các bên trong tranh chấp có nghĩa vụ tiếp tục tìm kiếm những biện pháp hòa bình khác để giải quyết tranh chấp mà các bên thỏa thuận.

Các quốc gia trong tranh chấp cũng như các quốc gia khác sẽ từ bỏ bất kỳ hành vi nào có thể sẽ làm trầm trọng thêm tình hình hiện tại gây nguy hiểm cho việc gìn giữ hòa bình và an ninh thế giới, và sẽ hành động phù hợp với những mục đích và nguyên tắc của Liên hợp quốc.

Các tranh chấp quốc tế được giải quyết trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các quốc gia và phù hợp với nguyên tắc tự do lựa chọn các cách thức giải quyết tranh chấp. Sự đề nghị, hoặc sự chấp nhận về quá trình giải quyết mà các quốc gia tự nguyện đồng ý đối với các tranh chấp đang tồn tại hoặc trong tương lai mà các bên liên quan sẽ không được coi là vi phạm nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền.

Không có điều nào được nói ở trên có ảnh hưởng hoặc phương hại đến những điều khoản có thể áp dụng của Hiến chương, đặc biệt là những điều khoản liên quan đến việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.

d. Nguyên tắc không can thiệp vào các vấn đề thuộc thẩm quyền của các quốc gia khác, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc.

Không một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào có quyền can thiệp, trực tiếp hay gián tiếp, và với bất kỳ lý do nào, vào các công việc đối nội hoặc đối ngoại của một quốc gia khác. Vì thế, can thiệp quân sự và tất cả các hình thức can thiệp hoặc mưu toan đe dọa nhằm chống lại phẩm cách của quốc gia hoặc chống lại cơ sở chính trị, kinh tế và văn hóa của quốc gia đó sẽ được coi là vi phạm luật pháp quốc tế.

Không một quốc gia nào có thể sử dụng hoặc khuyến khích việc sử dụng các biện pháp kinh tế chính trị hoặc bất kỳ cách thức nào khác nhằm cưỡng ép quốc gia khác để từ đó có được sự lệ thuộc vào việc thực hiện các quyền chủ quyền của mình và bảo đảm lợi thế của mình dưới bất kỳ hình thức nào. Ngoài ra, không một quốc gia nào có thể tổ chức, trợ giúp xúi giục, giúp đỡ tài chính khuyến khích hoặc ngầm đồng ý các hoạt động khủng bố, lật đổ hoặc hoạt động quân sự trực tiếp nhằm lật đổ chế độ hiện hành của một quốc gia khác, hoặc can thiệp vào những cuộc nội chiến của một quốc gia khác.

Việc sử dụng vũ lực nhằm loại bỏ bản sắc riêng của các dân tộc là sự vi phạm các quyền không thể tách rời của các dân tộc đó và vi phạm nguyên tắc không can thiệp.

Mỗi quốc gia có quyền không thể tách rời trong việc lựa chọn chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mình mà không có bất kỳ sự can thiệp của các quốc gia khác

Không một điều nào được nói đến ở trên sẽ được hiểu là sự phản ánh những điều khoản có liên quan của Hiến chương Liên hợp quốc trong việc gìn giữ hòa bình và an ninh thế giới.

e. Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác phù hợp với Hiến chương

Mọi quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các Quốc hội khác trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế để gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế, khuyến khích sự ổn định và tiến bộ, lợi ích chung của các dân tộc và hợp tác quốc tế mà không có sự phân biệt về sự khác nhau về chế độ chính trị, kinh tế và văn hóa.

Vì mục đích đó:

- Mọi quốc gia sẽ hợp tác với các quốc gia khác để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế

- Mọi quốc gia sẽ hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng và tuân thủ các quyền con người và tự do cơ bản trên toàn thế giới và trong việc loại trừ tất cả các hình thức phân biệt về sắc tộc và tôn giáo

- Mọi quốc gia sẽ thực hiện các quan hệ quốc tế của mình trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, kỹ thuật và thương mại phù hợp với nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ

Các quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc có nghĩa vụ hành động tập thể hoặc riêng rẽ để hợp tác với Liên hợp quốc phù hợp với những điều khoản tương ứng của Hiến chương Liên hợp quốc

Các quốc gia nên hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội cũng như khoa học và công nghệ và đối với việc phát triển sự tiến bộ về văn hóa và giáo dục trên thế giới. Các quốc gia nên hợp tác để phát triển kinh tế trên toàn thế giới, đặc biệt đối với các nước đang phát triển.

f. Nguyên tắc quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc

Bởi nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc được long trọng ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp quốc, tất cả các dân tộc có quyền tự do quyết định chế độ chính trị và theo đuổi sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa của mình mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài: tất cả các quốc gia có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền này, phù hợp với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc

Mọi quốc gia có nghĩa vụ khuyến khích sự thừa nhận nguyên tắc về quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc, thông qua các hành động tập thể hoặc riêng rẽ phù hợp với những điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc, và thực hiện sự trợ giúp đối với Liên hợp quốc trong việc thực hiện các trách nhiệm do Hiến chương giao phó liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc này, nhằm: a. Phát triển các quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia; b. Chấm dứt ngay lập tức chế độ thuộc địa, tôn trọng sự tự do thể hiện ý nguyện của các dân tộc thuộc địa

Và nhận thức rõ rằng việc tiếp tục bị thuộc địa, phụ thuộc và bị bóc lột bởi nước ngoài của các dân tộc sẽ là sự vi phạm của nguyên tắc này, cũng như là sự phủ nhận các quyền cơ bản của con người, và sẽ là trái với Hiến chương Liên hợp quốc

Mọi quốc gia có nghĩa vụ khuyến khích, thông qua các hành động tập thể hoặc riêng rẽ sự tôn trọng và tuân thủ các quyền con người và quyền tự do cơ bản phù hợp với Hiến chương

Việc thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền, sự tự do liên kết hoặc hợp nhất với một quốc gia độc lập hoặc dưới bất kỳ quy chế chính trị nào do một dân tộc tự do quyết định sẽ chính là các cách thức thực hiện quyền tự quyết của dân tộc ấy.

Mỗi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ các hành động vũ lực nhằm tước đi sự soạn thảo những nguyên tắc hiện tại về quyền tự quyết, tự do và độc lập của các dân tộc. Để chống lại những hành động vũ lực nói trên và thực hiện quyền tự quyết của mình, các dân tộc có quyền tìm kiếm và quyền nhận được sự trợ giúp phù hợp với những mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc

Lãnh thổ của một thuộc địa hoặc một lãnh thổ chưa tự quản, theo Hiến chương sẽ có quy chế pháp lý độc lập và tách biệt đối với lãnh thổ của quốc gia quản lý lãnh thổ đó; quy chế độc lập và tách biệt theo Hiến chương này vẫn sẽ tồn tại cho đến khi nhân dân của lãnh thổ thuộc địa hoặc chưa tự quản đó thực hiện quyền tự quyết của mình phù hợp với Hiến chương, đặc biệt là những mục đích và nguyên tắc của nó.

Không một điều nào được nói đến ở trên sẽ được hiểu là trao quyền hoặc khuyến khích bất kỳ hành động nào dẫn đến việc chia cắt, làm suy yếu toàn bộ hoặc một phần sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự thống nhất về chính trị của một quốc gia độc lập có chủ quyền thực hiện phù hợp với nguyên tắc về quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc được đề cập đến ở trên, và do đó có một chính quyền đại diện cho toàn thể nhân dân sống trên lãnh thổ đó mà không có sự phân biệt về màu da, tín ngưỡng hoặc chủng tộc.

Tất cả mọi quốc gia sẽ từ bỏ mọi hành động có chủ ý nhằm phá vỡ toàn bộ hoặc một phần thống nhất dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào.

g. Nguyên tắc các quốc gia thực hiện vợi sự thiện chí các nghĩa vụ của mình phù hợp với  Hiến chương Liên hợp quốc

Mọi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện với sự thiện chí các nghĩa vụ của mình phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc

Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện với sự thiện chí những nghĩa vụ của mình theo những nguyên tắc và quy phạm được luật quốc tế thừa nhận chung

Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện với sự thiện chí những nghĩa vụ của mình trong những thỏa thuận có hiệu lực theo những nguyên tắc và quy phạm được luật quốc tế thừa nhận chung.

Khi mà những nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế mâu thuẫn với những nghĩa vụ của các Thành viên Liên hợp quốc thoe Hiến chương Liên hợp quốc thì những nghĩa vụ theo Hiến chương sẽ có ưu thế hơn.

III. NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐẶC THÙ CỦA LUẬT MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ

3.1. Nguyên tắc tiếp cận tổng hợp và phối hợp

Nguyên tắc tiếp cận tổng hợp và phối hợp cho đến nay được coi là nguyên tắc cơ bản nhất của bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Nguyên tắc này đã được đề cập đến trong tuyên bố Rio 1992 (nguyên tắc 3, 4 và 25) và chương trình hành động 21 (Chương 8), nguyên tắc 13 của tuyên bố Stockholm, Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển được nêu trong lời nói đầu và hàng loạt các văn kiện quốc tế khác.

Tiếp cận tổng hợp và phối hợp được coil à việc xem xét sự phụ thuộc lẫn nhau qua các khía cạnh xã hội, kinh tế của môi trường với quyền con người, đảm bảo có một sự phát triển bền vững không làm tổn hại đến môi trường đáp ứng yêu cầu thiết yếu về môi trường cho các thế hệ mai sau và hiện tại, phù hợp với các nguyên tắc chung của luật quốc tế.

Tiếp cận tổng hợp phối hợp không làm mất đi tính chất đặc thù của từng lĩnh vực mà chúng được coi như đối tượng nghiên cứu của việc tiếp cận từ mọi phía, trong một tổng thể không chia cắt của vấn đề môi trường và phát triển. Nguyên tắc này không chỉ áp dụng trong quan hệ giữa các quốc gia, các chủ thể của Luật quốc tế mà còn có thể áp dụng trong nhiều lĩnh vực ở từng quốc gia, đòi hỏi sự phối hợp của của tất cả các bên có cùng mối quan tâm đến môi trường và phát triển

3.2. Nguyên tắc quyền được phát triển

Hiến chương Liên hợp quốc 1945 đã khẳng định phát triển là một trong những mục tiêu của sự phối hợp quốc tế về kinh tế và xã hội (Điều 55). Tất cả các nước thành viên của liên hợp quốc phải cam kết bằng hành động chung hoặc riêng trong sự nghiệp hợp tác với tổ chức để đẩy mạnh phát triển và tôn trọng qyền con người (Điều 56).

Quyền được phát triển gắn liền với quyền cơ bản của con người được sống, được học tập, làm việc, được nghỉ ngơi cũng như được phát triển các khả năng của mình. Các quyền cơ bản này được ghi nhận trong các văn kiện pháp lí quốc tế như Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948, Các công ước quốc tế về quyền con người năm 1966, Tuyên bố về quyền được phát triển của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1986. Việc thực hiện quyền được phát triển này kèm theo nghĩa vụ phải đáp ứng những yêu cầu về môi trường và phát triển của con người một cách bền vững và công bằng.

3.3. Nguyên tắc về quyền được sống trong môi trường trong lành

Theo Tuyên bố của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường con người (Stốckhôm - năm 1972), con người được sống trong một môi trường trong lành là một trong những nguyên tắc trọng tâm của quan hệ giữa các quốc gia. Nguyên tắc 1 nêu rõ: "Con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và được hưởng đầy đủ các điều kiện sống, trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện cho các thế hệ hôm nay và mai sau". Nguyên tắc 1 trong Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường và phát triển (Rio de Janeiro - 1992) cũng khẳng định: "Con người là trung tâm của những mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên".

Môi trường trong lành là môi trường trong sạch, thuần khiết, hệ sinh thái cân bằng, không có ô nhiễm, suy thoái môi trường, trong môi trường đó con người sống bình thường, sống khỏe mạnh, thoải mái, trường thọ, sống hữu ích và hài hòa với thiên nhiên. Ngày nay, sống trong môi trường trong lành được coi là quyền con người quan trọng.

Quyền con người được sống trong môi trường trong lành là nguyên tắc trụ cột, là quyền tự nhiên của con người, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, liên quan trực tiếp đến chất lượng cuộc sống. Đó là quyền con người được sống trong một môi trường với chất lượng cho phép, cuộc sống được đảm bảo về mặt vệ sinh môi trường, được hài hòa với tự nhiên. Hay nói cách khác, là quyền được sống trong một vùng không bị ô nhiễm, không bị suy thoái môi trường.

Hiện nay, sức khỏe con người đang bị ảnh hưởng ngày càng lớn do sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường và hệ sinh thái. Ô nhiễm môi trường và hủy hoại môi trường tự nhiên đã trực tiếp tác động đến việc hưởng thụ quyền con người. Nhu cầu của con người là phải nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành, bảo đảm sức khỏe môi trường. Do vậy, cộng đồng thế giới thừa nhận môi trường chính là vấn đề của quyền con người.

Để có chính sách tốt về bảo vệ môi trường, đòi hỏi các quyền con người phải được bảo đảm thực hiện. Thông qua việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin, sự tham gia của cộng đồng trong việc ban hành các quyết định về môi trường và tiếp cận tư pháp liên quan tới môi trường.

Dự thảo Tuyên ngôn về nguyên tắc và các quyền con người đã chính thức được các chuyên gia về nhân quyền và Luật Môi trường quốc tế trình lên các cơ quan của Liên hợp quốc để lấy ý kiến. Trong đó đề cập đến 4 nguyên tắc: Các quyền con người, môi trường sinh thái, phát triển bền vững và hòa bình là phụ thuộc lẫn nhau và không thể chia cắt; Mọi người có quyền đối với môi trường an toàn, sức khỏe và môi trường sinh thái; Quyền không phân biệt đối xử liên quan tới các hành động và quyết định có tác động tới môi trường; Thiết lập nguyên tắc về tính công bằng đáp ứng nhu cầu của các thê hệ.

Tuyên ngôn được thông qua là văn kiện pháp lý quan trọng nhất, nhằm thiết lập các chuẩn mực quốc tế về quyền con người với môi trường và phản ánh sự phát triển hướng tới sự công nhận và bảo đảm quốc tế đối với các quyền về môi trường.

Trong  Luật  Bảo  vệ  Môi  trường  năm  2005,  nguyên  tắc về quyền con người được sống trong môi trường trong lành tiếp tục được thừa nhận và được mở rộng. Mặc dù chưa được ghi nhận thành một nguyên tắc riêng, song nó được thể hiện qua  các  nguyên  tắc như: nguyên  tắc  phát  triển  bền  vững, nguyên tắc coi trọng phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường; nguyên tắc sử dụng các công cụ kinh tế trong hoạt động bảo vệ môi trường; nguyên tắc xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường hay nguyên tắc gây ô nhiễm phải trả tiền… và được cụ thể hóa vào các quy định của Luật.

Hơn nữa, để bảo vệ được môi trường trong lành có hiệu quả, Luật Bảo vệ Môi trường 2005 rất đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quá trình này. Do vậy, Luật đã quy định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác trong hoạt động bảo vệ môi trường.

3.4.  Nguyên tắc về xóa bỏ đói nghèo

Ở các nước đang phát triển, sự kém phát triển, nghèo đói là nguyên nhân gây ra hầu hết các vấn đề tồn tại về môi trường, đưa đến sự tàn phá suy thoai về môi trường và tài nguyên. Xóa đói giảm nghèo là mục tiêu của Liên Hợp quốc và là trách nhiệm của tất cả các quóc gia. Mục đích của nó là làm cho mọi người có khả năng tốt hơn để có một cuộc sống bền vững.

Nguyên tắc 5 của Tuyên bố Rio khuyến khích tất cả các quốc gia và tất cả các dân tộc cần hợp tác trong nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ nghèo nàn như một yêu cầu không thể thiếu được cho sự phát triển bền vững, xóa bỏ nghèo nàn cũng được đề cập trong tuyên bố Stockholm, chương trình hành động 21, chương 3 Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Công ước về đa dạng sinh học, Công ước 1966 về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (Điều 11)

Trong khi các nước phát triển phải hướng mọi nỗ lực của minh cho sự phát triển, tiến tới xóa bỏ nghèo nàn ở quốc gia của họ thì họ cũng phải luôn có ý thức để ra những ưu tiên và phối hợp với các quốc gia khác để đảm bảo an toàn và cải thiện môi trường chung. Để thực hiện mục đích này, các nước công nghiệp phát triển phải có nghĩa vụ trợ giúp các nước đang phát triển, giảm dần khoảng cách giữa họ, nhằm giải quyết các mối quan tâm chung về môi trường.

3.5. Nguyên tắc bình đẳng

Cơ sở pháp lí: Nguyên tắc bình đẳng là một trong số 27 nguyên tắc được ghi nhận tại Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển tại Rio De Janeiro ( Tuyên bố Rio). Theo đó: “Cần được thực hiện quyền được phát triển để đáp ứng một cách bình đẳng những nhu cầu về phát triển và môi trường của của các thế hệ hiện nay và tương lai.”

Trong lĩnh vực môi trường, nguyên tắc bình đẳng được thể hiện:

Bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng và bảo vệ môi trường ( Tuyên bố Rio- Nguyên tắc 3)

Bình đẳng giữa các thành viên của thế hệ hiện tại: cần phải đáp ứng quyền được phát triển và được sống trong môi trường trong lành của tất cả các thành viên của công đồng quốc tế.

Các quốc gia có trách nhiệm chung nhưng khác biệt nhau ( Tuyên bố Rio – Nguyên tắc  7). Các quốc gia cần hợp tác để bảo vệ môi trường toàn cầu. Tuy nhiên vì có sự khác nhau trong việc làm thoái hóa môi trường toàn cầu, các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển phải gánh vác những trách nhiệm khác biệt nhau. Mặt khác, trách nhiệm bảo vệ môi trường giữa các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, có nhu cầu và ưu tiên phát triển môi trường khác nhau, có mức độ đóng góp khác nhau đối với từng vấn đề riêng biệt đương nhiên cũng sẽ khác nhau. Các nước phát triển phải có trách nhiệm, nỗ lực quốc tế lớn hơn trong vấn đề phát triển bền vững, do những áp lực xã hội và do những công nghệ mà họ gây ra cho môi trường toàn cầu.

Sự đại diện công bằng theo khu vực địa lí cũng đã được các thành viên của tổ chức quốc tế vạch ra và khẳng định trong chính sách liên quan đến bảo vệ môi trường. Công ước về bảo vệ di sản văn hóa thiên nhiên của thế giới – Paris 16/11/1972; Công ước 1982 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển – Điều 161.

Chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên và trách nhiệm không gây tổn hại đến môi trường của các quốc gia khác hoặc các vùng nằm ngoài quyền tài phán của quốc gia cũng là một trong nội dung quan trọng của nguyên tắc bình đẳng áp dụng đối với môi trường quốc gia.

Nghĩa vụ không gây hại không có nghĩa là tuyệt đối không gây hại hay gây ra những rủi ro nào mà là ngăn ngừa và làm giảm các tác động gây hại đáng kể hay gây ra rủi ro cho các quốc gia khác. Trong trường hợp gây tổn hại tới môi trường các quốc gia khác, quốc gia có hành vi vi phạm luật môi trường quốc tế phải có nghĩa vụ chấm dứt ngay các hành vi gây hại và gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế về các hành vi đó.

3.6. Nguyên tắc chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên và trách nhiệm không gây tổn hại tới môi trường của quốc gia khác hoặc các vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia

Nguyên tắc này được ghi nhận trong bản Tuyên bố về chủ quyền vĩnh cửu đối với tài nguyên thiên nhiên của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1962.[1] Theo nguyên tắc này, các quốc gia được quyền tự do quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên thuộc quyền tài phán của mình và được tự do xây dựng, theo đuổi chính sách phát triển và môi trường của mình. Cụ thể Tuyên bố nói rằng:

1. Quyền của các quốc gia và các dân tộc về chủ quyền vĩnh viễn đối với tài nguyên thiên nhiên của họ phải được thực hiện vì lợi ích phát triển quốc gia của họ và hạnh phúc của nhân dân của nước có liên quan.

2. Việc thăm dò, phát triển và định đoạt các nguồn tài nguyên như vậy, cũng như việc nhập khẩu vốn của nước ngoài cần thiết cho các mục đích đó, cần phù hợp với các quy tắc và điều kiện của các dân tộc và các quốc gia một cách tự do mà được họ xem là cần thiết hoặc mong muốn liên quan đến sự cho phép, hạn chế hoặc cấm các hoạt động như vậy.

3. Trong trường hợp sự cho phép được chấp thuận, vốn được nhập khẩu và các khoản thu nhập trên vốn sẽ được điều chỉnh bởi các điều khoản của luật quốc gia có hiệu lực và luật pháp quốc tế. Lợi nhuận thu được phải được chia sẻ theo tỷ lệ thỏa thuận trong mỗi trường hợp giữa nhà đầu tư và Nhà nước nhận đầu tư, phải có trách nhiệm chăm sóc thích đáng để bảo đảm rằng không có sự suy giảm, vì lý do nào đó, chủ quyền của quốc gia đó đối với tài nguyên thiên nhiên của họ.

4. Việc quốc hữu hóa, trưng thu hoặc trưng dụng phải dựa trên cơ sở hoặc vì lý do công ích, an ninh, lợi ích quốc gia được công nhận là quan trọng lợi ích cá nhân hoặc tư nhân thuần túy, cả trong và ngoài nước. Trong trường hợp đó, chủ sở hữu phải được bồi thường thích hợp, phù hợp với quy định đang có hiệu lực của Nhà nước đó về các biện pháp như vậy trong việc thực hiện chủ quyền của mình và phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong bất kỳ trường hợp nào mà vấn đề bồi thường làm phát sinh một tranh chấp, thẩm quyền quốc gia của Nhà nước có biện pháp như vậy sẽ mất đi. Tuy nhiên, theo thỏa thuận giữa Nhà nước có chủ quyền và các bên khác có  liên quan, việc giải quyết tranh chấp phải được thực hiện thông qua trọng tài hoặc tòa án quốc tế.

5. Việc thực hiện tự do và lợi ích chủ quyền của các dân tộc và các quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên của họ phải được đẩy mạnh trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia dựa trên sự bình đẳng chủ quyền của họ.

6. Hợp tác quốc tế nhằm phát triển kinh tế của các quốc gia đang phát triển, dưới hình thức đầu tư nhà nước hoặc tư nhân, giao lưa hàng hóa và dịch vụ, hỗ trợ kỹ thuật, trao đổi thông tin khoa học, để đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển các quốc gia độc lập và phải được dựa trên sự tôn trọng chủ quyền của họ đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên của họ.

7. Hành vi vi phạm các quyền của các quốc gia và các dân tộc về chủ quyền đối với các tài nguyên nhiên  là trái với tinh thần và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và cản trở sự hợp tác quốc tế và việc duy trì nền hòa bình.

8. Các thỏa thuận đầu tư nước ngoài tự do được  ký kết bởi hoặc giữa các nhà nước có chủ quyền phải được tiến hành với niềm tin tốt đẹp; Các nhà nước và các tổ chức quốc tế nghiêm chỉnh và tận tâm tôn trọng chủ quyền của các quốc gia và dân tộc đối  với các tài nguyên thiên nhiên của họ theo quy định của Hiến chương và các nguyên tắc quy định trong nghị quyết này.

Mặt khác, các quốc gia khi thực hiện chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên của mình phải có nghĩa vụ tính đến những tác động của hoạt động của mình đối với môi trường chung và môi trường của quốc gia khác. Nghĩa vụ không gây hại không có nghĩa là tuyệt đối không gây hại hay gây ra những rủi ro nào mà là ngăn ngừa làm giảm các tác động gây hại đáng kể hay gây ra các rủi ro cho các quốc gia khác.

Trong trường hợp gây tổn hại tới môi trường của các quốc gia khác, quốc gia có hành vi vi phạm Luật quốc tế về môi trường phải có nghĩa vụ chấm dứt ngay các hành vi gây hại và gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế về các hành vi đó và trên cơ sở nguyên tắc: người gây ô nhiễm phải bồi thường thiệt hại.

3.7. Nguyên tắc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên thiên nhiên tồn tại ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới không phải là tồn tại vô tận, nếu không biết cách sử dụng hợp lý  thì nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ bị cạn kiệt nhanh chóng.

Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên là hình thức sử dụng vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng tài nguyên của xã hội hiện tại, vừa đảm bảo duy trì lâu dài các nguồn tài nguyên cho các thế hệ mai sau.

Nguyên tắc  sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên đòi hỏi các quốc gia và các dân tộc phải cẩn trọng  đối với môi trường  và sử dụng một cách hợp lý của cải và các tài nguyên thiên nhiên của các vùng nằm dưới thẩm quyền của các quốc gia đó, phải quản lý phúc lợi và các tài nguyên thiên nhiên của mình sao cho đảm bảo được sức tiêu thụ và sản xuất bền vững vì lợi ích của nhân dân nước mình và của nước khác, cũng như vì lợi ích của thế hệ tương lai. Nguyên tắc này được ghi nhận trong tuyên bố về chủ quyền  vĩnh cửu đối với tài nguyên thiên nhiên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc năm 1962.

Hiện nay, Việt Nam cũng đã tiến hành thực hiện nguyên tắc này một cách tích cực: Việt Nam đã và đang xây dựng và thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, đảm bảo phát triển nền kinh tế theo hướng các bon thấp. Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Về tài nguyên môi trường, Việt Nam tập trung chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; bảo vệ và phát triển rừng;…

3.8. Nguyên tắc ngăn ngừa và giảm thiểu tổn hại môi trường

Nguyên tắc ngăn ngừa và giảm thiểu tổn hại môi trường xuất phát từ cơ sở: Môi trường sẽ được bảo vệ một cách tốt nhất thông qua các biện pháp phòng ngừa thiệt hại hơn là thông qua các nỗ lực sửa chữa hoặc đền bù sau khi tổn hại xảy ra cho môi trường. Các biện pháp ngăn ngừa sẽ trở nên hữu hiệu hơn khi chúng nhằm giảm thiểu các nguồn gây hại môi trường nhiêu hơn là nhằm giải quyết hậu quả của các tác động gây hại. Sự thay đổi quy trình sản xuất nhằm giảm thiểu các chất gây hại ngay từ đầu sẽ hiệu quả và đỡ tốn hơn là việc đầu tư cho hệ thống kiểm tra, xử lý, thu gom các chất gây tổn hại môi trường ở cuối quy trình sản xuất. Áp dụng nguyên tắc này cũng nhằm ngăn ngừa sự lan truyền tổn hại môi trường này sang trạng thái tổn hại môi trường khác.

Ở cấp quốc gia, nguyên tắc này yêu cầu các quốc gia cần ban hành luật pháp hữu hiệu về môi trường, các tiêu chuẩn về môi trường, những mục tiêu quản lý ưu tiên, phản ánh nội dung môi trường và phát triển, các biện pháp phòng ngừa và áp dụng cho các hoạt động công cộng và tư nhân có thể gây ra các tổn hại tiềm năng cho môi trường. Các quốc gia cần khuyến khích sự tham gia của các công dân vào các vấn đề giải quyết môi trường và đánh giá tác động của môi trường đối với các biện pháp cần áp dụng (Tuyên bố Rio, nguyên tắc 10,11,17:

“10. Các vấn đề môi trường được giải quyết tốt nhất với sự tham gia của người dân.

11. Các quốc gia cần ban hành luật pháp hữu hiệu về môi trường 17. Sử dụng công cụ đánh giá tác động môi trường”.)

Các quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng bởi thiệt hại môi trường xuyên biên giới có thể áp dụng các biện pháp tự bảo vệ của mình trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, nơi các mối đe dọa và thiệt hại tiềm ẩn về môi trường xuất phát. Ví dụ: Việt Nam thực hiện thường xuyên công tác tuần tra, kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy, bảo vệ rừng ở khu vực Tây Ninh, tránh để cháy rừng từ khu vực biên giới của Campuchia lan sang Việt Nam.

3.9. Nguyên tắc tiếp cận đề phòng

Đây là nguyên tắc đã được khẳng định rõ trong tuyên bố Rio De Janeiro 1992 rằng để bảo vệ môi trường, các quốc gia cần phải áp dụng rộng rãi phương pháp tiếp cận phòng ngừa tùy theo khả năng của từng quốc gia. Yêu cầu của nguyên tắc này là đòi hỏi các quốc gia khi đưa ra các quyết định liên quan đến hoạt động có thể ảnh hưởng xấu tới môi trường cần phải cận trọng và phải có dự doand trước mức độ nguy hại trên cơ sở khoa học. Ví dụ khi xây dựng đập thủy điện quốc gia trên sông quốc tế, quốc gia phải đảm bảo rằng việc triển khai không làm ảnh hưởng tới môi trường của toàn khu vực có sông chảy qua theo nguyên tắc tiếp cận đề phòng như đã nêu.

3.10. Nguyên tắc toàn cầu trong lĩnh vực môi trường

Nhắc tới luật quốc tế về môi trường người ta không thể không đề cập tới nguyên tắc toàn cầu. Nguyên tắc này đòi hỏi sự hợp tác trên tất cả các bình diện với các cấp độ: toàn cầu, khu vực, song phương và đôi khi không chỉ là thỏa thuận giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế là chủ thể của Luật pháp quốc tế mà còn đối với các thực thể (entity) khác từ các hiệp hội (Association) về doanh nghiệp, chuyên môn, .. tới các tổ chức phi chính phủ là một nguyên tắc hay các thành phần khác trong đời sống quốc tế.

Nội dung chính của nguyên tắc toàn cầu trong lĩnh vực môi trường chính là nghĩa vụ hợp tác quốc tế, bao gồm:

-         Hợp tác để thực hiện các biện pháp cần thiết như thông báo trước (advance notify), tham khảo ý kiến (opinion reference), đàm phán và tham gia đánh giá tác động môi trường nhằm mục đích bảo vệ môi trường và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, sử dụng tối đa các nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng chia sẻ và cũng để giải quyết cá tranh chấp quốc tế về môi trường bằng biện pháp hòa bình.

-         Hợp tác trong việc chuyển giao công nghệ và cung cấp tài liệu, thực hiện cam kết trong các điều ước quốc tế về môi trường. Trong nghĩa vụ hợp tác này, các quốc gia tham gia phải nỗ lực thực hiện việc chuyển giao các công nghệ về môi trường mới nhất để xử lý các vấn đề về môi trường, các yêu cầu để bảo vệ môi trường theo các cam kết của mình.

-         Hợp tác trong lĩnh vực thông tin. Theo đó, các thực thể cần trao đổi thông tin để có thể nắm bắt kịp thời nhất các vấn đề về môi trường có liên quan.

-         Hợp tác trong xây dựng các quy định pháp lý thống nhất về môi trường. Đặt ra nghĩa vụ hợp tác này, các quốc gia nhắm tới việc hài hòa hóa (harmonization) các quy định ban hành về môi trường đảm bảo có những tiêu chuẩn chung để có thể công nhận lẫn nhau trong khi hợp tác áp dụng thực hiện.

-         Hợp tác sử dụng một cách công bằng và hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới. Ví dụ Hội ủy song Mekong được thành lập để hợp tác và bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên của Sông Mekong.

Các nước đều có mối quan tâm chung hợp tác để bảo vệ môi trường nhưng cần có sự đối xử khác nhau giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển trong việc phân chia các gánh nặng với trách nhiệm về môi trường. Điển hình, các nước phát triển có trình độ công nghệ và nguồn tài chính gây sức ép và tiếng nói lớn hơn cho môi trường toàn cầu sẽ có trách nhiệm lớn hơn về sự phát triển bền vững của môi trường toàn cầu.

3.11. Các nguyên tắc tham gia cộng đồng, tiếp cận thông tin, đánh giá tác động môi trường và thông báo, ra quyết định

Nếu như nguyên tắc toàn cầu trong lĩnh vực môi trường ghi nhận các nghĩa vụ của cộng đồng trong vấn đề bảo vệ môi trường quốc tế thì nguyên tắc tham gia cộng đồng, tiếp cận thông tin, đánh giá tác động môi trường và thông báo, ra quyết định được nêu ra sau đây lại là nguyên tắc ghi nhận quyền lợi của cộng đồng trong việc tiếp cận và tham gia vào công tác quản lý môi trường của chính phủ các nước.

Nếu không có sự tham gia của mọi tầng lớp xã hội, mọi thành phần và trên bình diện toàn cầu thì bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững không thể đạt được mục tiêu cũng như hiệu quả trọn vẹn. Việc tham gia này phải đảm bảo trong tất cả quá trình đưa ra và thực hiện các quyết định về môi trường. Chương trình hành động 21 và Tuyên bố Rio De Janeiro (1992) có nguyên tắc số 10 đề cập tới: “Những vấn đề môi trường được giải quyết tốt nhất với sự tham gia của các công dân quan tâm, ở cấp độ thích hợp. Ở cấp độ quốc gia, mỗi các nhân có quyền được thông tin thích hợp liên quan đến môi trương do các nhà chức trách nắm giữ bao gồm:

-         Thông tin về những nguyên liệu và hoạt động nguy hiểm trong cộng đồng.

-         Cơ hội tham gia vào các quá trình quyết định.

Các quốc gia cần làm cho thuận tiện và khuyến khích tuyên truyền sự tham gia của công dân bằng cách phổ biến thông tin rộng rãi. Công dân (citizen) cần được tạo điều kiện tiếp cận có hiệu quả những văn bản pháp luật (legal documentation) và chính sách (policy)). Tại các nguyên tắc 20, 21, 22, 23 của Tuyên bố Rio De Janeiro 1992 cũng nhắc tới vấn đề tham gia cộng đồng này từ những khía cạnh khác nhau.

Nguyên tắc này đặt ra nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của cộng đồng tham gia cùng việc quản lý và quyết định về vấn đề môi trường của chính phủ các nước.

3.12. Nguyên tắc về giải quyết tranh chấp môi trường

Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là các quốc gia phải có nghĩa vụ thực hiện các điều ước mà mình tham gia một cách thiện chí. Việc ngăn ngừa tranh chấp đóng một vai trò rất quan trọng lĩnh vực môi trường và phát triển bền vững, bởi lẽ nếu tổn hại môi trường xảy ra, chúng ta thường rất khó khăn để khắc phục lại đúng như trạng thái ban đầu. Các biện pháp thông báo, báo cáo, quan trắc, trao đổi thông tin và tham khảo ý kiến là những biện pháp tốt nhất để tránh xảy ra tranh chấp. Các quốc gia trong phạm vi của mình cần ban hành luật pháp hữu hiệu về môi trường, những tiêu chuẩn môi trường, những mục tiêu quản lý và những ưu tiên phản ánh nội dung môi trường và phát triển. Luật pháp quốc tế không được kém hữu hiệu hơn các quy tắc và tiêu chuẩn của từng quốc gia.

Một khi tranh chấp môi trường xảy ra, các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp này bằng các biện pháp hòa bình, điều này đã được pháp điển hóa vào các công ước quốc tế có liên quan tới môi trường.

Ví dụ như tại công ước khung về biến đổi khí hậu quy định về thành lập ủy ban hòa giải. Ngoài ra, các tổ chức và định chế quốc tế cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong giải quyết hòa bình các tranh chấp về môi trường. Tổ chức thương mại quốc tế, hiệp hội sông Mekong, Hiệp hội sông Danube đều có các quy đinh về thủ tục giải quyết các tranh chấp quốc tế về môi trường


[1] Resolution of General Assembly 1803 (XVII). Permament sovereignty over natural resource, 14/12/1962, 1194th plenary meeting, http://www.un.org/en/ga/search/view_doc.asp?symbol=A/RES/1803(XVII)&Lang=E&Area=RESOLUTION

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: