CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ GIẢI THÍCH VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA ĐẦU TƯ, TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ.
I. Các khái niệm cơ bản:
1. Đầu tư:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lưc đã bỏ ra để đạt đươc các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực hi sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả sẽ đạt được đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn) tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn,quản lí...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất XH.
Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế XH được hưởng thụ trên đây không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người chủ đầu tư mà cả của nền kinh tế chính là đầu tư phát triển. Còn các loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người chủ đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài chính tích luỹ của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông phân phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra, đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Quá trình tiến hành một công cuộc đầu tư kể từ khi bắt đầu chi phí các nguồn lực cho đến khi các thành quả của quá trình đầu tư phát huy tác dụng và ngừng hoạt động có rất nhiều công việc phải làm với tính chất kĩ thuật rất đa dạng, đòi hỏi phải sử dụng kiến thức của rất nhiều ngành kinh tế kĩ thuật khác nhau vào quá trình thực hiện đầu tư theo từng giai đoạn và toàn bộ các công cuộc đầu tư.
Nguồn lực chi phí cho một công cuộc đầu tư là rất lớn, thời gian cần hoạt động của các kết quả đầu tư để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra (đối với các công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh) hoặc để các lợi ích thu được tương xứng và lớn hơn những hi sinh về nguồn lực mà nền kinh tế bỏ ra cũng rất lâu (đối với các công cuộc đầu tư công cộng).
Có rất nhiều cách phân loại đầu tư, thông thường chúng ta quan tâm đến 2 cách phân loại:
Căn cứ vào quan hệ quản lý của chủ đầu tư:
Đầu tư trực tiếp là sự đầu tư thông qua sản xuất, cung cấp dịch vụ, buôn bán tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này thường dẫn đến sự thành lập một pháp nhân riêng như công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, chi nhánh công ty nước ngoài. Đầu tư trực tiếp góp phần làm tăng tổng sản phẩm quốc nội, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh tiên tiến, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề việc làm tại nước nhận đầu tư.
Đầu tư gián tiếp là sự đầu tư thông qua việc buôn bán cổ phiếu và các giấy tờ có giá trị, gọi chung là chứng khoán. Hình thức đầu tư này không dẫn đến việc thành lập pháp nhân riêng. Hình thức này mang tính đầu cơ nên có thể thu lãi rất lớn thông qua sự biến động giá chứng khoán (điều này lại liên quan đến nhiều yếu tố khác như tình hình chính trị, phát triển kinh tế, chính sách điều hành vĩ mô, v.v...), nhưng cũng chính vì thế mà có thể phải chịu những rủi ro khó lường trước. Đối với nước nhận đầu tư, hình thức đầu tư góp phần giải quyết sự khan hiếm vốn, nhưng khi các nhà đầu tư đồng loạt rút đi (bằng cách bán lại chứng khoán) sẽ dễ dẫn đến những biến động trên thị trường tiền tệ, ảnh hưởng tới nền kinh tế.
Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại:
Đầu tư tài chính: Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại: Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói cách khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau, trong đó đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong khuân khổ của đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tiềm hiểu, xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư phát triển- loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2. Tăng trưởng kinh tế:
a. Khái niệm:
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm về quy mô, sản lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
Tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt khuynh hướng chính trị, khi đã giành được độc lập, có chủ quyền, đều xác lập cho mình chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Những mục tiêu phát triển đều dựa vào khả năng khai thác nguồn lực trong nước và ngoài nước. Mỗi quốc gia trên thế giới đều có sự kết hợp và khả năng khai thác các nguồn lực khác nhau. Song, quan niệm chung nhất là, phải tạo ra được sự tiến bộ toàn diện về cả kinh tế và xã hội, trong đó tăng trưởng là tiền đề cần thiết cho sự phát triển.
Tăng trưởng kinh tế mới chỉ giới hạn trong khuôn khổ làm tăng thêm sản lượng, chứ chưa đề cập mối quan hệ của nó với các vấn đề xã hội.
b. Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế:
Để phán ảnh sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng 2 chỉ tiêu tổng hợp chủ yếu là: tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc dân.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): Tổng sản phẩm quốc dân là một chỉ tiêu kinh tế đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà quốc gia đó sản xuất trong một thời kỳ (thường là 1 năm) bằng các yếu tố sản xuất của chính mình.
Đây là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ do những người có cùng quốc tịch tạo ra, bất kể hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành ở trong hay quốc gia đó.
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Tổng sản phẩm quốc nội là một chỉ tiêu kinh tế đo lường tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong 1 thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
Đây là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra bên trong lãnh thổ quốc gia, bất kể người sản xuất thuộc quốc tịch nào.
Giữa GNP và GDP có phần chênh lệch giữa thu nhập từ các nhân tố sản xuất của nước đó ở nước ngoài và thu nhập từ các nhân tố sản xuất của nước ngoài ở nước đó. Vì vậy, trong hạch toán quốc dân, người ta sử dụng thuật ngữ "thu nhập ròng từ nhân tố nước ngoài" để phản ánh chênh lệch này:
Thu nhập từ các nhân tố Chi trả các nhân tố sản GNP = GDP + sản xuất thuộc sở hữu _ xuất thuộc sở hữu nước ngoài trong nước ở nước ngoài. ở trong nước.
3. Phát triển kinh tế:
a. Khái niệm về phát triển kinh tế:
Mục tiêu của mỗi quốc gia là tạo ra sự tiến bộ toàn diện, mà tăng trưởng kinh tế chỉ là 1 điều kiện quan trọng. Sự tiến bộ của 1 quốc gia trong 1 giai đoạn nhất định được xem xét trên 2 mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự tiến bộ về xã hội. Sự gia tăng về kinh tế còn được thay bằng thuật ngữ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế thúc đẩy sự tiến bộ về mọi mặt xã hội, hình thành cơ cấu hợp lý là nội dung của phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế bao hàm nghĩa rộng hơn - nó không chỉ bao gồm những thay đổi về số lượng như tăng trưởng kinh tế, mà còn bao gồm những thay đổi về chất lượng cuộc sống. Như vậy, phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong 1 thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Đó là sự tiến bộ, thịnh vượng và cuộc sống tốt đẹp hơn.
b. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển kinh tế:
Các chỉ tiêu xã hội của phát triển.
Tăng trưởng kinh tế tác động đến tiến bộ xã hội được phản ánh qua các chỉ số sau:
- Chăm sóc sức khỏe cộng đồng có nhiều chỉ số như tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh; số giường bệnh, số bác sĩ so với dân cư; tuổi thọ trung bình. Tuổi thọ trung bình của dân cư trong 1 thời kỳ nhất định phản ánh kết quả tổng hợp của sự chăm sóc y tế đối với sức khỏe cộng đồng, mức sống vật chất và tinh thần của dân cư. Thực tiễn của thế giới cho thấy, các nước kém phát triển mức sống thấp, tuổi thọ trung bình của dân cư đều dưới 50 tuổi, còn ở các nước phát triển thường có tuổi thọ bình quân trên 75 tuổi.
- Trình độ học vấn của dân cư là chỉ số phản ánh chất lượng trí tuệ của đội ngũ lao động và dân cư. Chỉ số này bao gồm các chỉ tiêu: tỷ lệ người biết chữ so với tổng dân số; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được đi học đến trường; tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học và trên đại học so với tổng dân cư.
- Mức sống về vật chất và tinh thần được nâng lên, tình trạng đói nghèo, thất nghiệp, bất bình đẳng trong thu nhập giảm dần.
Chỉ số phát triển con người (HDI).
Để đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn mức độ xã hội, Liên hiệp quốc đã đưa ra chỉ số phát triển con người, là chỉ tiêu tổng hợp 3 chỉ số cơ bản dưới đây:
- GNP bình quân đầu người (USD/người/năm).
- Chỉ số về giáo dục (tỷ lệ % người lớn biết chữ).
- Chỉ số về y tế (tuổi thọ trung bình quân trên cả nước).
Các chỉ số về cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành với vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong 1 hệ thống thống nhất. Nhưng để xem xét 1 cơ cấu kinh tế, người ta thường xem xét mối quan hệ tỷ lệ giữa 3 lĩnh vực cơ bản là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm trong nước (GDP). Nền kinh tế phát triển thì tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP ngày càng cao, còn nông nghiệp thì giảm đi tương đối.
- Chỉ số tiết kiệm và mức đầu tư phản ánh khả năng tăng trưởng kinh tế trong chu kỳ tiếp theo. Bởi vì, tiết kiệm tiết kiệm tiêu dùng thì phần tích lũy cho đầu tư phát triển tăng lên. Đầu tư nhiều sẽ tăng quy mô sản xuất và gia tăng giá trị sản lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ.
- Tỷ lệ dân số đô thị và nông thôn: tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ và lao động nông nghiệp, đó là kết quả của phát triển sản xuất làm thay đổi cơ cấu ngành nghề, thay đổi cơ cấu xã hội và dân cư.
II. Các lý thuyết kinh tế về đầu tư:
1. Mô hình số nhân đầu tư:
Mô hình số nhân đầu tư xuất phát từ tư tưởng của Keynes (nhà kinh tể học trong thập niên 30 thế kỉ trước). Ông cho rằng đầu tư tăng sẽ bù đắp cho những thiếu hụt về cầu tiêu dùng. Để đảm bảo cho đầu tư gia tăng liên tục ông đưa ra nguyên lý số nhân. Số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu.
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng 1 đơn vị.
Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn như sau:
(1)
Trong đó:
ΔY : Mức gia tăng sản lượng.
ΔI : Mức gia tăng đầu tư.
k : Số nhân đầu tư.
Từ công thức (1) ta được:
(2)
Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng tăng lên số nhân lần. Trong công thức trên, k là số dương lớn hơn 1. Vì, khi I = S, có thể biến đổi công thức (2) thành:
(3)
Trong đó: : Khuynh hướng tiêu dùng biên.
: Khuynh hướng tiết kiệm biên.
Vì 0 < MPS < 1 nên k >1
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó độ khuyếch đại của sản lượng càng lớn → Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm cũng tăng.
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng của cầu bổ sung công nhân, cầu về tư liệu sản xuất. Do vậy, làm tăng cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm thu nhập tăng lên. Đến lượt nó, tăng thu nhập lại là tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới. Quá trình số nhân đầu tư như vậy là biểu hiện dưới hình thức tác động dây chuyền: tăng đầu tư làm tăng thu nhập, tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới, tăng đầu tư mới làm tăng thu nhập mới... từ đó làm phóng đại thu nhập lên, phát triển sản xuất, gia tăng sản lượng nền kinh tế.
Ở các nước đang và chậm phát triển, thu nhập trung bình của người dân thường thấp vì thế việc tiêu dùng các hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày của họ chiếm tỷ lệ lớn trong thu nhập → nên số nhân đầu tư khá lớn. Khi đó với 1 đồng vốn đầu tư bỏ ra có thể làm gia tăng một lượng sản lượng tương đối lớn.
Trong khi ở các nước phát triển, do thu nhập bình quân của người dân khá cao nên họ có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn, tỷ lệ thu nhập dành cho tiêu dùng thường thấp → thường nhỏ → nhỏ tức là với 1 đồng vốn đầu tư bỏ ra không làm tăng sản lượng thêm nhiều. Điều này giải thích một phần tại sao các nước đang và chậm phát luôn tìm cách để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI và các nhà đầu tư ở các nước đang phát triển ít đầu tư trong nước mà luôn tìm kiếm những thị trường tiềm năng ở các nước đang và chậm phát triển.
Ví dụ:
+ Chính phủ đầu tư 1 tỷ để xây dựng nhà máy sản xuất máy bay trong đó:
• Một phần mua tư liệu sản xuất sẽ trở thành thu nhập của các nhà tư bản bán tư liệu sản xuất.
• Một phần thuê cai thợ và công nhân sẽ trở thành thu nhập của các cai thợ và công nhân.
+ Các nhà tư bản sau khi bán tư liệu sản xuất có thu nhập, trong đó:
• Một phần để tiết kiệm.
• Một phần để tiêu dùng cá nhân và đầu tư mua sắm các yếu tố tiếp tục quá trình sản xuất sẽ trở thành đầu tư và thu nhập của những người bán các yếu tố đó.
+ Cai thợ và công nhân có thu nhập trong đó:
• Một phần tiết kiệm.
• Một phần mua lương thực, thực phẩm, các hàng hóa khác sẽ trở thành đầu tư cho người sản xuất: lương thực, thực phẩm, hàng hóa và trở thành thu nhập cho họ.
Tóm lại: 1 tỷ đầu tư của chính phủ thành thu nhập của lớp người thứ nhất (tư bản, cai thợ, công nhân). Từ thu nhập của lớp người thứ nhất 1 phần để tiêu dùng trở thành đầu tư và thu nhập cho lớp người thứ hai (cung cấp các yếu tố sản xuất: tư liệu sản xuất, lương thực, thực phẩm,...)
Đầu tư của lớp người này trở thành thu nhập thu nhập của lớp người khác dẫn đến sự gia tăng của thu nhập.
Ở đây, giả sử khuynh hướng tiêu dùng chung trong xã hội là 2/3 theo nguyên lý số nhân, từ 1 tỷ đầu tư của chính phủ ta có thể có được 3 tỷ thu nhập (Hệ số phóng đại 3 lần).
Ưu điểm của mô hình số nhân đầu tư:
- Mô hình giải thích mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng, khuynh hướng tiêu dùng chung trong xã hội ít thay đổi hay hệ số k ít biến động thì ta có thể sử dụng để tính toán cần đầu tư thêm bao nhiêu để gia tăng thêm sản lượng của nền kinh tế theo kế hoạch.
- Mô hình cũng chỉ ra được tác động của đầu tư như một nhân tố của tổng cầu đến sản lượng của nền kinh tế. Tăng đầu tư làm tăng thu nhập, tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới, tăng đầu tư mới làm tăng thu nhập mới... quá trình này lặp đi lặp lại làm sản lượng của nền kinh tế tăng lên số nhân lần.
Nhược điểm của mô hình số nhân đầu tư:
- Mỗi một hoạt động đầu tư trong thực tế thường không thấy được kết quả ngay mà phải sau một thời gian vì thế mô hình này không giải thích được tăng trưởng trong kỳ hiện tại.
- Theo mô hình thì đầu tư = tiết kiệm (I = S), tuy nhiên với một nền kinh tế mở cửa thì đầu tư bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vì thế đầu tư thường lớn hơn tiết kiệm → Mô hình chưa tính toán đến đầu tư nước ngoài.
2. Lý thuyết gia tốc đầu tư:
Theo Keynes, đầu tư cũng được xem xét từ góc độ tổng cung, nghĩa là, mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào.
Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa mức tư bản đạt mức mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản lượng là điều dễ dàng chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu cầu lớn hơn về tư bản vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này.
Theo lý thuyết này, để sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn như sau:
(4)
Trong đó:
K: Vốn đầu tư tại thời kì nghiên cứu
Y: Sản lượng tại thời kì nghiên cứu
x : Hệ số gia tốc đầu tư
Từ công thức (4) suy ra:
K = x.Y (5)
Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công. Nhu cầu các yếu tố sản xuất lại phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất.
Theo công thức (5), có thể kết luận: sản lượng phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kì trước.
Ưu điểm của lý thuyết gia tốc đầu tư:
- Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu x không đổi trong kì kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
- Lý thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
Nhược điểm của lý thuyết gia tốc đầu tư:
- Lý thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế đại lượng này (x) luôn luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, phụ thuộc vào quy mô và động thái của nhu cầu.
- Thực chất lý thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng. Vì, từ công thức (5) có thể viết:
+ Tại thời điểm t: Kt = x.Yt (6)
+ Tại thời điểm (t-1): K(t-1) = x.Y(t-1) (7)
+ Lấy (6) trừ (7) ta được:
Kt - K(t-1) = x.Yt - x.Y(t-1) = x ( Yt - Y(t-1) ) (8)
Trong đó:
Kt - K(t-1) : Đầu tư ròng và bằng (It - D) với D là khấu hao
Do đó:
It - D = Kt - K(t-1) = x (Yt - Y(t-1) ) = x.∆Y (9)
Và đầu tư ròng: ∆I = x.∆Y (10)
Như vậy, theo lý thuyết này, đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0. (Khi ∆Y = 0 thì ∆I = 0 )
- Theo Lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kì. Điều này không đúng bởi nhiều lí do, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt quá cung... Do đó, Lý thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian, theo Lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là, qui mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi: Kt và K(t-1) là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và (t-1)
Kt* là vốn đầu tư mong muốn
là một hằng số ( 0 < < 1)
Thì: Kt - K(t-1) = ( Kt* - K(t-1) )
Có nghĩa là, sự thay đổi đầu tư thực hiện giữa hai kì chỉ bằng một phần của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kì t và vốn đầu tư thực hiện thời kì t - 1. Nếu thì Kt = Kt*.
Và Lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư.
Theo Lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần:
∆I = It - Dt = Kt - K(t-1)
Theo Lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì: Kt - K(t-1) = (Kt* - K(t-1) )
Và do đó: ∆I = (Kt* - K(t-1) )
Để xác định tổng đầu tư, chúng ta giả định: Dt = K(t-1)
là hệ số khấu hao và .
Do đó:
It -Dt = It - K(t-1) = (Kt* - K(t-1) ) hoặc
It = (Kt* - K(t-1) ) + .K(t-1) (11)
It: Chính là tổng đầu tư trong kì và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện.
Lý thuyết gia tốc đầu tư và số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và sản lượng. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo việc gia tăng bổ sung lao động, nguyên vật liệu sản xuất,... dẫn đến gia tăng sản phẩm (giải thích qua số nhân đầu tư). Sản lượng gia tăng, dẫn đến gia tăng tiêu dùng (do thu nhập người tiêu dùng tăng), tăng cầu hàng hóa và dịch vụ nên lại đòi hỏi gia tăng đầu tư mới (giải thích qua mô hình gia tốc đầu tư). Gia tăng đầu tư mới dẫn đến gia tăng sản lượng, gia tăng sản lượng lại là nhân tố thúc đẩy gia tăng đầu tư. Quá trình này diễn ra liên tục, dây chuyền.
3. Lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư:
Theo lý thuyết này, đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế:
I ~ f (lợi nhuận thực tế ). Do đó, dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn hơn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào tình trạng phá sản. Do đó, việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ khi được vay ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ lớn hơn các chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư, các doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và các sự gia tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Sự khác nhau giữa lý thuyết gia tốc đầu tư và lý thuyết này dẫn đến việc thực thi các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lý thyết gia tốc đầu tư chính sách tài khoá mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản lượng thu được cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghệp không có tác dụng kích thích đầu tư. Ngược lại theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư thì việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó tăng đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng lợi nhuận cũng có nghĩa là tăng quỹ nội bộ. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, còn chính sách tài khoá mở rộng không có tác dụng trực tiếp làm tăng đầu tư theo lý thuyết này.
Ưu điểm của lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư:
- Giải thích được việc vì sao các doanh nghiệp lại thích giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để giữ lại nhiều lợi nhuận và tăng đầu tư.
Nhược điểm của lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư:
- Do dự án đầu tư nào đem lai lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn, nên những dự án mang tính chất phúc lợi xã hội sẽ không được đề cập nhiều.
4. Lý thuyết tân cổ điển:
Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học và hàng loạt các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Sự chuyển biến này đã có những ảnh hưởng rõ rệt trong các trào lưu chính của tư tưởng kinh tế. Sự phát triển của trào lưu này hình thành một trường phái kinh tế mới, đứng đầu là Alfred Marshall (1842 - 1924), tác phẩm chính của ông là "Các nguyên lý của kinh tế học" xuất bản 1890, do đó thời gian này được coi như điểm mốc đánh dấu sự ra đời của trường phái tân cổ điển.
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, và khoa học - công nghệ.
Theo hàm sản xuất, các yếu tố của sản xuất là vốn và lao động có thể thay thế cho nhau trong tương quan sau đây:
(12)
Trong đó:
Y : Sản lượng
: Vốn đầu tư
: Lao động
biểu thị ảnh hưởng của yếu tố công nghệ.
và là hệ số co giãn thành phần của sản xuất với các yếu tố vốn và lao động (thí dụ nếu = 0,25 thì 1% tăng lên của vốn sẽ làm cho sản lượng tăng lên 25%). Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì và biểu thị phần thu nhập quốc dân từ vốn và lao động.
Từ hàm sản xuất Cobb Douglas trên đây ta có thể tính được tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng như sau:
(13)
Trong đó:
g: Tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng
h: Tỷ lệ tăng trưởng của vốn
n: Tỷ lệ tăng trưởng lao động (bằng tỷ lệ tăng dân số)
Biểu thức trên cho thấy: tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ tỷ lệ thuận với tiến bộ của công nghệ và tỷ lệ tăng trưởng của vốn và lao động.
Trong một nền kinh tế ở "thời đại hoàng kim" có sự cân bằng trong tăng trưởng của các yếu tố sản lượng, vốn và lao động.
Theo lí thuyết này thì đầu tư bằng tiết kiệm (ở mức sản lượng tiềm năng). Còn: tiết kiệm S = s.Y trong đó .
s: Mức tiết kiệm từ 1 đơn vị sản lượng (thu nhập).
Gọi đầu tư ròng là và
suy ra
Chia cả 2 vế cho K, ta được:
Hay:
Khi h không đổi, s không đổi thì cũng không đổi tức là Y phải tăng trưởng cùng tỷ lệ với K hay h = g
Khi đó:
Ở đây g là tỷ lệ tăng trưởng ở "thời đại hoàng kim".
Suy ra:
Hay (14)
Như vậy, trong "thời đại hoàng kim", tỷ lệ tăng trưởng g phụ thuộc vào tỷ lệ tăng trưởng của công nghệ và lao động. Điều này cho thấy, thu nhập trên đầu người không thể tăng nếu không có sự tiến bộ của công nghệ.
Trong mô hình tân cổ điển các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào. Ví dụ, cần 10 tỷ đồng và 100 lao động để sản xuất 100 nghìn tấn xi măng, nếu xí nghiệp muốn tăng sản lượng lên gấp đôi, tức là 200 nghìn tấn thì có thể lựa chọn các phương án khác nhau với cách kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau.
Cách lựa chọn phương án với việc kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau
Từ quan điểm trên đây các nhà kinh tế học tân cổ điển cũng đưa ra khái niệm "Sự phát triển kinh tế theo chiều sâu", có nghĩa là gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất còn sự gia tăng vốn phù hợp với sự gia tăng về lao động được gọi là "phát triển kinh tế theo chiều rộng".
Các nhà kinh tế tân cổ điển còn cho rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ví dụ, bằng cải tiến trong các phương pháp sản xuất sẽ gia tăng khối lượng sản phẩm. Một khía cạnh khác đáng lưu ý của các nhà kinh tế tân cổ điển về xu hướng thay đổi trong kỹ thuật là đa số các sáng chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công.
Ưu điểm của lý thuyết tân cổ điển:
- Đã tính đến sự ảnh hưởng của yếu tố công nghệ tới tăng trưởng kinh tế, đánh giá được tầm quan trọng của công nghệ.
- Đưa ra khái niệm "phát triển kinh tế theo chiều rộng, chiều sâu" để áp dụng vào quá trình sản xuất, chỉ ra được cách kết hợp giữa vốn và lao động có thể thay thế nhau để tạo ra cùng một giá trị sản lượng.
Nhược điểm của lý thuyết tân cổ điển
- Lý thuyết chủ yếu nêu cao vai trò của công nghệ tới phát triển kinh tế mà chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của vốn đầu tư tới sản xuất và tăng trưởng.
5. Mô hình Harrod - Domar.
Mô hình Harrod - Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định:
- Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động.
- Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Nếu gọi:
: Là sản lượng năm t
: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
∆Y : Sản lượng gia tăng trong kì
S : Tổng tiết kiệm trong năm
: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
ICOR : Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng
Từ công thức:
Nếu ∆K = I, ta có :
Ta lại có: I = S = s.Y .Thay vào công thức tính ICOR, ta có:
Từ đây suy ra:
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Cuối cùng ta có:
Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn vốn của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất ( ), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp gia tăng .
Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận động và chuyển hoá. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là đầu tư lớn thì tăng trưởng cao. Tuy nhiên cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều ngược lại, đầu tư lớn mà không hiệu quả, hoặc lỗ nhiều. Có những trường hợp đầu tư chưa đem lại hiệu quả ngay như đầu tư vào các dự án trung và dài hạn, đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Chính do đặc điểm có độ trễ trong hiệu quả đầu tư nên Hệ số ICOR thường được dự tính cho các kế hoạch phát triển dài hạn, thường là 5 năm.
Hệ số ICOR phụ thuộc vào nguồn dự trữ và công nghệ sản xuất. ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư càng đắt. Hệ số ICOR ở một số nước có xu hướng tăng và ICOR ở các nước phát triển thường cao hơn ở các nước đang phát triển.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối với nền kinh tế của một quốc gia mà còn phải đặt ra cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế và từng đơn vị kinh tế. Việc đầu tư vào đâu, đầu tư bao nhiêu và đầu tư vào thời điểm nào để đạt được hiệu qủa kinh tế cao là những vấn đề mà các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách, xây dựng dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ.
Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến, nhằm xem xét vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao nhiêu, nên những kết luận của mô hình cẩn được kiểm nghiệm kỹ khi nghiên cứu đối với các nước đang phát triển như ở nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn đề không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan trọng là phải tăng với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ thường sử dụng nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng.
Ưu điểm của mô hình Harrod - Domar:
- Xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội.
- Khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh đạo đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt được mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra.
Nhược điểm của mô hình Harrod - Domar:
- Là một chỉ số đã được đơn giản hóa nên khó đánh giá các hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Đầu tư ở đây chỉ là đầu tư tài sản hữu hình, còn đầu tư tài sản vô hình, tài sản tài chính không được tính đến, nên phản ánh chưa trung thực ảnh hưởng của đầu tư tới thu nhập quốc dân.
- Chỉ số này không biểu hiện được rõ ràng trình độ kỹ thuật của phía sản xuất, vì ICOR là tỷ lệ đầu tư/sản lượng gia tăng. Chẳng hạn một bên có kỹ thuật sản xuất kém hơn, với một lượng đầu tư tương đối cũng có thể cải thiện chỉ số ICOR xấp xỉ với bên có trình độ kỹ thuật cao hơn, do kỹ thuật càng cao thì càng chậm cải tiến.
- Chỉ ra sự tăng trưởng kinh tế là do kết quả của tương tác giữa tiết kiệm và đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên trên thực tế thì tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra không phải vì lý do tăng đầu tư, hoặc ngược lại, nếu đầu tư có hiệu quả vẫn có thể dẫn đến không có sự tăng trưởng. Và kể cả trong trường hợp đầu tư có hiệu quả thì cũng chỉ có thể tạo nên sự gia tăng trong tốc độ tăng trưởng trong ngắn hạn, chứ không thể đạt được trong dài hạn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro