Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

các đk có hiệu lực của hợp đồng

Xuất phát từ bản chất của hợp đồng, pháp luật của Việt Nam qui định hợp đồng 

phải tuân thủ các điều kiện bắt buộc: chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành vi dân 

sự; nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không 

trái đạo đức xã hội; các bên hoàn toàn tự nguyện. Sau đây là các điều kiện cụ thể: 

2.1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự 

Chủ thể của hợp đồng (hay chủ thể của quan hệ hợp đồng) là những người tham 

gia xác lập, thực hiện hợp đồng hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng 

và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.  

Để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, các hệ thống pháp luật đều qui định 

chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu về chủ thể tham gia hợp 

đồng “có năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp 

đồng có hiệu lực. Pháp luật Việt Nam qui định chủ thể tham gia giao dịch dân sự (hợp 

đồng) phải “có năng lực hành vi dân sự” [15, điểm a, khoản 1 Điều 122]. Cũng theo 

các qui  định của BLDS 2005, chủ thể tham gia quan hệ hợp  đồng bao gồm các cá 

nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Mặt khác, năng lực hành vi dân sự để tham 

gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau là không giống nhau. 

Đối với cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia vào hợp đồng phụ 

thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ. Theo qui định của BLDS 2005, cá 

nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được tự mình xác lập, thực hiện các hợp 

đồng dân sự (Điều 19); người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là người 

có một phần năng lực hành vi dân sự thì việc xác lập, thực hiện các hợp đồng của họ 

phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu 

sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác; cá nhân từ 

đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể 

tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác 

(Điều 20); người dưới 6 tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự và mọi giao 

dịch liên quan tới người này đều phải được xác lập, thực hiện thông qua người đại diện 

hợp pháp (Điều 21); người bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì phải có 

người giám hộ và mọi giao dịch liên quan đều phải được xác lập, thực hiện thông qua 

người giám hộ (Điều 22); người bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì 

các giao dịch liên quan tới tài sản của họ phải được sự đồng ý của người đại diện theo 

pháp luật, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu hàng ngày (Điều 23). 

Đối với pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác: Pháp nhân là những tổ chức có đủ 

các điều kiện được qui định tại Điều 84 BLDS 2005. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ 

của quan hệ pháp luật dân sự, có năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt, được tham 

gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của 

pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, 

hoặc quyết định thành lập pháp nhân [15, Điều 88].  Hộ gia đình và tổ hợp tác là chủ 

thể hạn chế của Luật Dân sự. Hai loại chủ thể này tham gia các giao dịch phù hợp với 

phạm vi hoạt động của nó. Phạm vi hoạt động của tổ hợp tác được thể hiện trong hợp 

đồng hợp tác [15, Điều 111]. Phạm vi hoạt động của hộ gia đình do pháp luật qui định 

[15, 106]. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác là những thực thể xã hội chứ không phải 

là một con người tự nhiên, nên năng lực hành vi dân sự của các chủ thể này không 

biểu hiện trực tiếp bằng hành vi và ý chí của một con người cụ thể nào đó, mà được 

thể hiện bởi ý chung của các thành viên và  được thực hiện thông qua hành vi của 

người đại diện, nếu hành vi đó được thực hiện nhân danh chủ thể, trong phạm vi đại 

diện, và tương ứng với phạm vi hoạt động của chủ thể đó [102, tr.207 – 10; 103, tr.278 

– 81; 242, tr.44; 256, tr.147-9].  

Nhìn chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải 

có năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng mà chủ thể 

đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua 

người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng ‘phạm vi đại diện’ và phải phù hợp với giới 

hạn về ‘lĩnh vực hoạt động’ của các chủ thể. 

2.1.2. Nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và 

không trái đạo đức xã hội 

BLDS 2005 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều 4). Nhưng để 

bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của 

người khác, BLDS 2005 cũng qui định một số trường hợp hạn chế quyền tự do của các 

bên trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dung và mục đích của hợp đồng (giao 

dịch dân sự) “không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã 

hội” (Điểm b, khoản 1 Điều 122). Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có mục đích và nội 

dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” (Điều 128). 

Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể 

tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục đích của 

của giao dịch dân sự (hay hợp đồng) là “lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt 

được khi xác lập giao dịch đó” [15, Điều 123].  

Điều cấm của pháp luật “là những quy định của pháp luật không cho phép chủ 

thể thực hiện những hành vi nhất định”. Và, “[đ]ạo đức xã hội là những chuẩn mực 

ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận 

và tôn trọng” [15, Điều 128]. 

Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Thường thì nội 

dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như: đối tượng của hợp đồng là tài sản hay 

công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và phương thức thanh toán; thời 

hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng… [15, Điều 402]. Bất kỳ điều khoản nào trong số đó 

vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì hợp đồng cũng bị coi là vô 

hiệu. Ví dụ: trong Quyết định Giám đốc thẩm số 18/2005/DS-GĐT ngày 22/6/2005 

của HĐTP –TANDTC [262, tr.206], hợp đồng mua bán nhà được xác lập giữa người 

chuyển nhượng (Việt Nam) với người nhận chuyển nhượng (người Việt Nam định cư 

ở nước ngoài, không thuộc diện được phép có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam), thì bị 

xem là vô hiệu vì “có nội dung trái pháp luật”. 

Để hợp đồng có hiệu lực thì mục đích của hợp đồng cũng phải không vi phạm 

điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng có mục đích vi phạm 

điều cấm của pháp luật thì vô hiệu. Ví dụ: hợp đồng chuyển quyền sở hữu nhà ở có 

mục đích là bán nhà, nhưng thực tế hợp đồng lại ghi là trao đổi nhà ở (nhằm mục đích 

trốn thuế thu nhập chẳng hạn) thì bị pháp luật cấm [187, khoản 2 Điều 59], nên không 

có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết.  

Hợp đồng cũng không được trái đạo đức xã hội. Mỗi xã hội có quan niệm của 

mình về đạo đức, nên không có đạo đức chung mà chỉ có đạo đức xã hội. Mặc dù khái 

niệm “đạo đức xã hội” đã được định nghĩa cụ thể, rõ ràng trong BLDS 2005, nhưng 

phạm trù “đạo đức”  thì khá trừu tượng và không phải là bất biến, đôi khi phụ thuộc rất 

lớn vào nhận thức chủ quan của mỗi người. Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, 

vấn đề như thế nào là hợp đồng trái ‘đạo đức xã hội’, hiện vẫn còn nhiều tranh cãi. Có 

quan điểm cho rằng, qui phạm đạo đức là loại qui phạm vừa mang tính chủ quan của 

mỗi người, vừa mang tính xã hội và tính giai chấp sâu sắc. Bên cạnh đó, đạo đức còn 

mang tính dân tộc và tính hiện đại. Trong xã hội hiện đại, quan niệm xã hội về đạo đức 

đã được nâng lên một tầm cao mới [224, tr.13 -17].  

Hơn nữa, thực tế vận dụng qui định này để tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong 

từng trường hợp cụ thể, là điều không đơn giản. Bởi thế, có nhiều ý kiến cho rằng cần 

thay khái niệm ‘đạo đức xã hội’ bằng khái niệm ‘trật tự công cộng’ cho rõ nghĩa, dễ 

xác định nội dung hơn khi áp dụng trên thực tế, và cũng phù hợp với thông lệ chung 

trên thế giới vì pháp luật của nhiều nước không qui định về hợp đồng trái đạo đức mà 

thường qui định là vi phạm ‘trật tự công cộng’ (order public) hay ‘chính sách công’ 

(public policy); mặt khác, “khái niệm ‘đạo đức’ khó hiểu nếu đưa vào BLDS sẽ gây 

tâm lý hoang mang cho các chủ thể tham gia giao dịch, dẫn đến các chủ thể hạn chế 

tham gia một số giao lưu dân sự…” [44, tr.29].  

Tuy vậy, tác giả cho rằng nhận định như vậy cũng chưa chính xác. Bởi lẽ, pháp 

luật hợp đồng của các quốc gia không chỉ sử dụng thuật ngữ ‘order public’ hay ‘public 

policy’ mà còn sử dụng khái niệm ‘immoral’ (trái đạo đức). Ví dụ: Điều 1133 BLDS 

Pháp. Việc sử dụng cụm từ ‘trái đạo đức’ hay ‘trái trật tự công cộng’ không chỉ là một 

vấn đề khó khăn của Việt Nam mà còn là một thử thách đối với hoạt động lập pháp và 

xét xử của ‘toàn cầu’, như một Giáo sư người Đức đã từng nhận định: “Câu hỏi cái gì 

làm cho hợp  đồng trái  đạo  đức và trái pháp luật là một câu hỏi có thể nhận  được 

nhiều câu trả lởi khác nhau từ những hệ thống pháp luật khác nhau. Điều khác biệt 

đáng nói là, bởi vì quan niệm về đạo đức của các quốc gia khác nhau thì khác nhau, 

và việc đánh giá những giá trị truyền thống theo quan niệm của mỗi quốc gia, vẫn còn 

đóng một vai trò quan trọng” [347, tr.382]. Thực tiễn pháp lý Việt Nam cũng cho thấy, 

pháp luật từng có qui định hợp đồng không được trái ‘trật tự công cộng’ hoặc ‘thuần 

phong mỹ tục’, mà điển hình là qui định tại Điều 10 DLB 1931 và Điều 10 DLT 1936-

1939: “các sự kết ước trái với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục đều vô hiệu”.  

Xét về bản chất, việc đánh giá một hợp đồng có trái ‘trật tự công cộng’ hay trái 

‘đạo đức xã hội’ thì cũng khó như nhau, vì đây đều là những khái niệm khá trừu tượng 

và tùy vào sự thẩm lượng của từng thẩm phán.  

Khái niệm ‘đạo đức xã hội’ có tính mềm dẽo, uyển chuyển hơn, nhưng cũng 

khá trừu tượng và dễ bị lạm dụng hoặc dễ bị từ chối áp dụng hơn so với ‘trật tự công 

cộng’. Cái khó nhất của việc xác định tính trái ‘đạo đức xã hội’ là do khái niệm vừa 

không cụ thể về ‘định lượng’, vừa không rõ ràng về ‘định tính’. Điều này cũng khó 

khăn giống như việc người ta phán xét về hành vi vẽ tranh hay chụp ảnh khỏa thân của 

một thiếu nữ để cho người khác xem. Có người cho đó là nghệ thuật mang tính nhân 

văn, nhưng người khác lại bảo đây là hình ảnh đồi trụy, trái với thuần phong mỹ tục. 

Thậm chí, có những nghệ sỹ chụp ảnh nghệ thuật đã từng suýt bị cơ quan nhà nước có 

thẩm quyền truy tố hình sự vì cho rằng việc chụp ảnh người mẫu khỏa thân và lưu giữ 

hình ảnh đó là hành vi trái pháp luật, là truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy [175].  

Ý nghĩa của khái niệm ‘trật tự công cộng’ tuy được xác định rõ hơn, nhưng việc 

đưa khái niệm ‘trật tự công cộng’ vào trong các văn bản pháp luật cũng gặp nhiều trở 

ngại và có thể gây ra sự nhầm lẫn, vì pháp luật Việt Nam cũng có qui định khác về bảo 

vệ trật tự công cộng, với tính chất là bảo vệ trật tự trị an của xã hội. Ví dụ: theo Điều 2 

Nghị định 38/2005/NĐ-CP về các biện pháp bảo đảm trật tự công cộng [191], thì “các 

cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của 

pháp luật về bảo đảm trật tự công cộng; tôn trọng các quy tắc chung của cuộc sống xã 

hội; phát hiện, tố cáo mọi hành vi vi phạm pháp luật về trật tự công cộng hoặc xâm 

phạm quyền tự do dân chủ của công dân; tham gia, hỗ trợ các cơ quan chức năng 

phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm pháp luật về trật tự công cộng”. Bởi vậy, 

khái niệm ‘trật tự công cộng’ với tính chất là sự giới hạn của quyền tự do hợp đồng sẽ 

có thể bị hiểu nhầm thành ‘trật tự công cộng’ với tính chất là trật tự trị an của xã hội.  

Theo tác giả, không phải việc sử dụng khái niệm ‘đạo đức xã hội’ là tốt hơn hay 

không tốt bằng khái niệm ‘trật tự công cộng’, mà vấn đề là khi đã chọn để sử dụng 

khái niệm nào thì cũng cần giải thích rõ và xác định cụ thể nội dung và phạm vi áp 

dụng của khái niệm đó, trên cả ba phương diện: lập pháp, xét xử và học thuật. Chúng 

ta cũng có thể thay khái niệm ‘đạo đức xã hội’ hoặc ‘trật tự công cộng’ bằng khái niệm  

khác rõ ràng hơn, như khái niệm ‘lợi ích công cộng’, và có thể giải thích cụ thể về nội 

dung và giới hạn áp dụng của khái niệm này, như một luật gia đã từng giải thích:  “lợi 

ích công cộng” được hiểu là các lợi ích liên quan tới: (i) các quyền con người như 

quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm…; (ii) bảo vệ lẽ công 

bằng, bảo vệ ‘bên yếu thế hơn’ trong hợp đồng nhằm ngăn ngừa những hợp đồng tạo 

ra sự bất công quá đáng; (iii) bảo vệ trật tự thị trường, trật tự kinh tế nhằm chống lại 

việc cạnh tranh không lành mạnh [166, tr.152]. Đây là cách giải thích hợp lý, có thể 

tiếp thu và kế thừa khi luật hóa khái niệm này trong pháp luật Việt Nam hiện hành. 

ra bên ngoài. Theo qui định của BLDS 2005, hợp đồng bị coi là được xác lập thiếu yếu 

tố tự nguyện nếu thuộc một trong năm trường hợp sau đây: 

(i) Hợp đồng giả tạo: là hợp đồng được lập ra nhưng không phản ánh đúng bản 

chất của quan hệ đích thực giữa các bên, thể hiện ở việc các bên xác lập hợp đồng để 

che đậy một giao dịch khác hay một hành vi trái pháp luật của một hoặc các bên. Nói 

cách khác, hợp đồng giả tạo là hợp đồng “mà trong đó, việc thể hiện ý chí ra bên ngoài 

khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia” [122, tr.280]. Có hai 

dạng hợp đồng giả tạo là ‘hợp đồng giả cách’ và ‘hợp đồng tưởng tượng’.  

Hợp đồng giả cách là hợp đồng giả tạo do các bên lập ra để che đậy một hợp 

đồng khác nhằm “lẩn tránh” pháp luật.  Đặc trưng cơ bản của  hợp  đồng giả cách 

thường là do có sự thông đồng giữa các bên để lập cùng một lúc hai hợp đồng (giao 

dịch) khác nhau: một hợp đồng (giao dịch) ‘thật’ và một hợp đồng (giao dịch) ‘giả’. 

Hợp đồng giả cách chỉ là hình thức bên ngoài chứ không có giá trị đối với các bên. 

Hợp đồng thật bị che giấu đi, nhưng đó mới là hợp đồng mà các bên muốn xác lập, 

thực hiện. Hợp đồng giả cách thì đương nhiên vô hiệu. Hợp đồng thật có thể được 

công nhận, nếu tuân thủ các điều kiện do pháp luật qui định. Ví dụ: trong Bản án số 

1701/2005/DS-PT của TAND Tp. Hồ Chí Minh ngày 08/8/2005: bị  đơn có ký hợp 

đồng thuê nhà của nguyên đơn, thời hạn là 05 năm, giá thuê là 20.000.000 đồng/tháng. 

“Sau khi hợp đồng ký kết, theo yêu cầu của nguyên đơn, đôi bên đã ký kết hợp đồng 

mượn nhà tại Phòng công chứng nhằm mục đích để bên cho thuê được lợi khi nộp thuế 

cho Nhà nước…”. Hợp đồng mượn nhà có công chứng là hợp đồng giả cách, được lập 

ra để che đậy hợp đồng thuê nhà, nên đã bị tòa án tuyên xử vô hiệu do “giả tạo”.  

Hợp đồng tưởng tượng là hợp đồng không có thật, do các bên thông đồng lập ra 

nhằm để hợp thức hóa các thủ tục pháp lý còn thiếu sót, hoặc để che đậy một sự thật 

khác trái pháp luật, hoặc trái đạo đức xã hội. Nói cách khác, hợp đồng tưởng tượng là 

hợp đồng mang tính hình thức, chứ các bên hoàn toàn không có ý định tạo lập nên sự 

ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên nội dung của hợp đồng đó. Ví dụ:  trong Quyết 

định giám đốc thẩm số 06/2006/KDTM-GĐT ngày 06/7/2006 về vụ án “Tranh chấp 

hợp đồng mua bán hàng hóa”: Bị đơn mua mè vàng từ người thứ ba, nhưng do người 

thứ ba không có tư cách pháp nhân để xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Vì thế, bị đơn ký 

hợp đồng ‘giả’ mua của nguyên đơn 500 tấn mè vàng với tổng giá trị hợp đồng là 4,2 

tỷ đồng. Trên thực tế, nguyên đơn đã không giao hàng mà chỉ “bán tư cách pháp nhân, 

bán hóa đơn giá trị gia tăng để hưởng lợi…”. Vì vậy, cấp giám đốc thẩm nhận định 

“hợp đồng này là hợp đồng giả tạo”. 

(ii) Hợp đồng được xác lập do nhầm lẫn: Nhầm lẫn là “sự không trùng hợp ý 

chí được thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí” [122, tr.283]. Hay 

nói cụ thể hơn,  đó là việc một hoặc các bên hình dung sai về sự việc, chủ thể,  đối 

tượng hoặc các nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng trái với ý nguyện đích 

thực của mình. Ví dụ: người mua bảo hiểm tưởng là khi mua bảo hiểm thì được hưởng 

tiền bảo hiểm trong mọi trường hợp có rủi ro, nhưng thực tế là điều khoản bảo hiểm 

đã có những loại trừ nên một số loại rủi ro sẽ không được bảo hiểm. Pháp luật Việt 

Nam chỉ chấp nhận hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng. Hợp 

đồng bị nhầm lẫn về nội dung có thể bị vô hiệu theo qui định tại Điều 131 BLDS 2005. 

(iii) Hợp đồng xác lập do bị lừa dối: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý 

của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, 

tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch 

đó” [15, Điều 132]. Biểu hiện của sự lừa dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự 

thật khiến cho bên kia tin vào các thông tin đó mà xác lập hợp đồng bất lợi cho họ 

hoặc trái với nguyện vọng đích thực của họ.  

Pháp luật Việt Nam qui định ba trường hợp lừa dối là lừa dối về chủ thể, lừa dối 

về đối tượng và lừa dối về nội dung của hợp đồng. Khi xem xét hành vi lừa dối, tòa án 

thường không chỉ dựa vào tính chất “cố ý” cung cấp thông sai sự thật của một bên mà 

còn dựa vào hoàn cảnh cụ thể và khả năng nhận thức, hiểu biết của bên kia so với một 

người có năng lực nhận thức bình thường. Vấn đề có hay không có sự cố ý cung cấp 

thông tin sai sự thật cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Một hành vi cung cấp thông tin 

sai sự thật được hiểu là một bên cố ý nói cho bên kia biết những thông tin về chủ thể, 

đối tượng, nội dung của hợp đồng mà những thông tin ấy là không đúng với thực tế 

khách quan, nhưng mức độ sai biệt tới đâu là lừa dối, thì có nhiều cách hiểu. Theo 

UNIDROIT, “một sự khoa trương trong quảng cáo hoặc trong đàm phán hợp đồng 

chưa tới mức bị coi là lừa dối” [25, tr.182]. Một sự im lặng thường cũng không bị coi 

là lừa dối. Nhưng nếu bên cung cấp thông tin có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin mà 

vẫn im lặng nhằm mục đích bỏ qua sự thật thì cũng bị coi là có lừa dối, hoặc chí ít 

cũng có lỗi làm bên kia nhầm lẫn giao kết hợp đồng [15, Điều 131 - 132].  

Hợp đồng giao kết do bị lừa dối có thể bị tòa án tuyên bố vô hiệu khi sự lừa dối 

đó “do hành vi cố ý” của một bên hoặc của người thứ ba gây ra và đó là nguyên nhân 

“làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung” của 

hợp đồng mà giao kết hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ.  

(iv) Hợp đồng xác lập bởi sự đe dọa: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý 

của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm 

tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình 

hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” [15, Điều 132]. Sự đe dọa thường được 

hiểu là việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng hành vi bạo lực vật chất 

hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí hoặc làm mất khả năng kháng cự 

nên đã xác lập hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ.  

(v) Xác lập hợp  đồng trong lúc không nhận thức,  điều khiển  được hành vi: 

“Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm 

không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên 

bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu” [15, Điều 133]. Một người bình thường, vào thời 

điểm giao kết hợp đồng, đã ở trong tình trạng bị bệnh tâm thần, bệnh thần kinh tới mức 

không nhận thức, điều khiển được hành vi của mình hoặc đang sử dụng chất ma túy 

hoặc các chất kích thích khác dẫn  đến việc mất khả năng nhận thức tạm thời… thì 

được xem là không tự nguyện xác lập, giao kết hợp  đồng.Vấn  đề pháp lý  đặt ra là 

người này phải chứng minh được là vào lúc xác lập hợp đồng, họ đang ở trong tình 

trạng không có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình.  

Có thể nói rằng, “tự nguyện giao kết hợp đồng là yếu tố cơ bản để các bên xác 

lập quan hệ hợp đồng” [247, tr.31] vì bản chất của hợp đồng vốn là sự thống nhất ý 

chí của các bên thông qua sự thỏa thuận tự do và tự nguyện. Do vậy, hợp đồng xác lập 

thiếu yếu tố tự nguyện thì đương nhiên vô hiệu (nếu được xác lập do giả tạo) hoặc có 

thể bị vô hiệu (trong các trường hợp còn lại).  

Tóm lại, các yếu tố chủ thể, nội dung và mục đích, sự tự nguyện của các bên là 

những yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình hình thành và tồn tại của hợp đồng. 

Năng lực hành vi của chủ thể là yếu tố nhằm đảm bảo chủ thể có tư cách độc lập để tự 

mình xác lập, thực hiện hợp đồng; nội dung và mục đích là những điều khoản, căn cứ 

để thực hiện hợp đồng; tự nguyện là yếu tố đảm bảm cho hợp đồng được tạo ra đúng ý 

chí đích thực của các bên. Bởi vậy, đây là ba yếu tố pháp lý quan trọng được pháp luật 

qui định là điều kiện bắt buộc của mọi hợp đồng. 

2.1.3. Các bên hoàn toàn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp đồng  

Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có 

tham gia hay không tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà 

không chịu sự chi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác. 

Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự 

nguyện. Tự nguyện còn là nguyên tắc pháp lý cơ bản của pháp luật dân sự và pháp luật 

thương mại [15, Điều 4; 154, khoản 2 Điều 11].  

Ý chí tự nguyện của chủ thể là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu không 

được biểu hiện ra bên ngoài, thì người khác không thể biết được. Có tác giả cho rằng, 

“tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt của tự nguyện”. Tự nguyện nghĩa là phải có tự 

do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và phải có “sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí”. 

Không có tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí hoặc phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố 

này, thì sẽ không có sự tự nguyện [116, tr.7]. Theo quan  điểm của TANDTC, thì 

“người tham gia giao dịch (hợp  đồng) hoàn toàn tự nguyện  được hiểu là: các bên 

tham gia giao dịch hoàn toàn tự do bày tỏ ý chí, nguyện vọng của mình, tự nguyện 

thoả thuận với nhau về các nội dung của giao dịch mà không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng 

ép từ phía bên kia hoặc của người khác; các bên tự nguyện thoả thuận các vấn đề 

nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình” [265, tr.40]. 

Quan điểm này cũng thể hiện đúng tinh thần của BLDS 2005.  

Hợp đồng do chủ thể xác lập, thực hiện không tự nguyện, thì có thể bị vô hiệu 

hoặc đương nhiên vô hiệu. Những trường hợp không có sự tự nguyện là những trường 

hợp mà việc xác lập, thực hiện hợp đồng không đúng ý chí đích thực của chủ thể hoặc 

không có sự thống nhất giữa ý chí của chủ thể với sự bày tỏ ý chí của chính chủ thể đó 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #bbbb