Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

các điều ước quốc tế về môi trường

1        Tổng quan về các điều ước quốc tế về môi trường

Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Môi trường toàn cầu đang có chiều hướng ngày càng xấu đi và có ảnh hưởng nhất định đến sự tồn vong của con người. Con người đang đứng trước những thách thức lớn về môi trường toàn cầu. Từ thập kỷ 70-80 của thế kỷ XX đến này, nhận thức của con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên đã thay đổi sâu sắc. Hậu quả của các vụ ô nhiễm môi trường trên thế giới đã buộc nhân loại phải nhận thức lại về mối quan hệ giữa môi trường và sự phát triển, giữa môi trường và con người. Việc đối mặt với tình trạng nghèo đói hơn, thiếu ăn, bệnh tật, thất học và sự tiếp tục suy giảm của hệ sinh thía và các vấn đề môi trường khác cho thấy cách duy nhất để đảm bảo cho nhân loại có được tương lai an toàn hơn, phồn thịnh hơn là phải cân bằng môi trường và phát triển. Sự thay đổi nhận thức này được phản ánh trong quá trình hình thành và phát triển Luật quốc tế về môi trường. Luật môi trường quốc tế là tổng hợp các nguyên tắc và quy phạm, điều chỉnh các quan hệ quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế, phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, vì lợi ích của mỗi quốc gia, khu vực và cộng đồng quốc tế

            Sự hình thành nhanh chóng của khung pháp luật quốc tế về môi trường thông qua một loạt các điều ước quốc tế đa phương về các lĩnh vực bảo vệ, phát triển bền vững môi trường đã cho thấy rõ bước phát triển quan trọng của ngành luật này trong hệ thống luật quốc tế hiện đại. Các điều ước quốc tế này rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường quốc tế cũng như bảo vệ môi trường tự nhiên của chính quốc gia thành viên. Trong xu thế chung, Việt Nam cũng đã nhận thức được tầm quan trọng này. Việt Nam đã tham gia rất nhiều các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường, cụ thể như:

            - Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước (RAMSAR), 1971.

            - Nghị định thư bổ sung công ước về các vùng ngập nước có tầm quan trọng, đặcbiệt như là nơi cư trú của các loài chim nước, Paris, 1982.

            - Công ước liên quan đến Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên.

            - Công ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa, 1973.

            - Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL.

            - Công ước của Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường.

            - Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.

            - Cam kết quốc tế về phổ biến và sử dụng thuốc diệt côn trùng, FAO, 1985.

            - Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985.

            - Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987.

            - Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ chúng.

            - Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, 1992.

            - Công ước về Ða dạng sinh học, 1992.

            - Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985.

            - Công ước về trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu phóng xạ, 1986,IAEA.

            Theo nội dung và đối tượng điều chỉnh, các điều ước quốc tế trên có thể phân thành các nhóm về bảo vệ khí quyền và khí hậu, bảo vệ rừng, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ môi trường biển.

2        Nội dung các điều ước quốc tế về môi trường

2.1Các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển

            Thống kê của Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) cho biết, các nguồn ô nhiễm biển đến từ các nguồn: đất liền (50%), rò rỉ tự nhiên (11%), phóng xạ nguyên tử (13%), hoạt động của tàu thuyền (18%) và tai nạn tàu bè trên biển (6%). Ước tính mỗi năm có khoảng 2,4 triệu tấn dầu đổ ra biển. Vì vậy, đến nay, đã có nhiều bộ luật quốc tế và quốc gia đang được nghiên cứu và thực thi để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển - lá phổi xanh của trái đất.

            Các nguồn gây ô nhiễm biển trong hoạt động hàng hải, thủy sản, du lịch, dầu khí và các hoạt động thương mại khác liên quan đến việc sử dụng tài nguyên biển hiện nay rất đa dạng và phức tạp: ô nhiễm do dầu (từ dầu được sử dụng làm nhiên liệu, bôi trơn, thủy lực cho tàu, cho đến dầu hàng do tàu vận chuyển); ô nhiễm do hóa chất lỏng chở xô trên tàu; ô nhiễm do các loại hàng nguy hiểm (chất nổ, chất phóng xạ, chất cháy, chất độc,…) vận chuyển bằng tàu; ô nhiễm do rác thải; ô nhiễm do nước thải; ô nhiễm không khí (chất làm suy giảm tầng ôzôn, ô xít lưu huỳnh, ô-xít ni tơ, ô-xít các-bon, hơi của hợp chất hữu cơ vận chuyển trên tàu, việc đốt các loại chất thải trên tàu); ô nhiễm do sơn chống hà sử dụng cho thân tàu; ô nhiễm do các vật liệu độc hại dùng để đóng tàu (amiăng, kim loại nặng, hóa chất); ô nhiễm do sự di chuyển của các loài thủy sinh vật thông qua nước dằn tàu; các bệnh truyền nhiễm lan truyền qua con đường hàng hải; ô nhiễm do hoạt động phá dỡ tàu cũ; ô nhiễm do hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trên biển.

            Rõ ràng nguồn gây ô nhiễm biển từ các hoạt động nói trên là rất lớn, với sự phát triển rất nhanh của các phương tiện vận tải biển trong những năm qua (Việt Nam hiện nay có trên 1.600 tàu biển, trọng tải 6,2 triệu tấn, đứng thứ 31 trên thế giới). Các nguồn gây ô nhiễm này thực sự đã trở thành nguy cơ vô cùng to lớn đối với môi trường biển, tác động nghiêm trọng đến hệ sinh thái biển, hủy hoại các nguồn tài nguyên biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người và góp phần không nhỏ vào biến đổi khí hậu toàn cầu.

            Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường biển (BVMTB), Tổ chức Hàng hải quốc tế IMO đã thông qua một số công ước liên quan đến bảo vệ môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm như: Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra 1973, sửa đổi bởi Nghị định thư 1978 (Công ước Marpol 73/78), Công ước quốc tế về kiểm soát hệ thống chống hà độc hại của tàu năm 2001 (Công ước AFS 2001) và Công ước quốc tế về kiểm soát, quản lý nước dằn và cặn nước dằn năm 2004 (Công ước BWM 2004), Công ước quốc tế về an toàn và tái chế tàu cũ thân thiện môi trường (Công ước Hồng Kông 2009),....

            Việc tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế về BVMTB có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung chính sách, pháp luật nhằm bảo vệ hiệu quả môi trường biển, góp phần thúc đẩy và xây dựng ý thức pháp luật về BVMTB. Mặt khác, việc tham gia và thực hiện nghiêm túc các điều ước này sẽ khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đây cũng là thế mạnh của Việt Nam để thu hút đầu tư, mở rộng hợp tác quốc tế nhằm phát triển, kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống dân cư, thực hiện mục tiêu phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.

2.1.1       Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển - UNCLOS 1982

            Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (gọi tắt là Công ước Luật Biển 1982- UNCLOS 1982) được thông qua tại thành phố Môn-tê-gô-bay của Gia-mai-ca vào ngày 10/12/1982. Công ước đã có hiệu lực từ ngày 16/11/ 1994 và hiện nay có 161 thành viên tham gia, trong đó có các nước ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po và Bru-nây. Vấn đề ô nhiễm môi trường biển hiện đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn thể cộng đồng thế giới. Chiếm diện tích khoảng 3/4 bề mặt trái đất, biển và đại dương có tầm quan trọng to lớn đối với sự tồn vong của loài người. Ô nhiễm môi trường biển không chỉ gắn kết với các hoạt động biến đổi của tự nhiên mà còn gắn liền đi đôi với các hoạt động của con người- có thể trực tiếp làm ô nhiễm môi trường biển hoặc cũng có thể gián tiếp gây ra các hiện tượng tự nhiên làm ô nhiễm môi trường biển.Vì lý do trên, khai thác tài nguyên luôn luôn phải đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường, nếu khai thác mà không chú trọng đến môi trường thì tài nguyên nhanh cạn kiệt và kéo theo hàng loạt các vấn đề về môi trường như suy thoái, ô nhiễm…, không đảm bảo phát triển bền vững. Chính vì vậy, ngoài những vấn đề quan trọng nêu trên, Công ước Luật Biển 1982 cũng đặc biệt chú trọng đến việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.

            Công ước Luật Biển 1982 không chỉ quy định nghĩa vụ của các nước trong việc bảo vệ môi trường biển trong phần quy định về các vùng biển như bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật của biển cả hay bảo vệ môi trường và sự sống của con người ở Vùng, mà còn riêng Phần XII quy định việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, gồm có 11 mục và 46 điều khoản (từ Điều 192 đến 237). Việc tham gia vào Công ước này tạo cơ sở pháp lý giúp chúng ta bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của Việt Nam nói riêng, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển nói chung.

            Việc Công ước  xác lập các vùng kinh tế 200 hải lý với mục đích bảo vệ những lợi ích kinh tế của các nước ven bờ có ý nghĩa to lớn. Xuất phát từ đó, Công ước ấn định phân chia các chủ quyền để thăm dò, khai thác và bảo tồn những tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và phi sinh vật ở đáy, trong lòng đất và trong nước và để quản lý những tài nguyên đó cho các quốc gia ven bờ.

            Quốc gia ven bờ trong vùng kinh tế có thể thực hiện quyền về: 1) xây dựng và sử dụng các đảo, các hệ thống và công trình nhân tạo, 2) nghiên cứu khoa học biển, 3) bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Đồng thời, ở vùng kinh tế tất cả các quốc gia khác được quyền tự do hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và đường ống dẫn dưới nước và các quyền tự do khác phù hợp với những điều khoản của Công ước. Quốc gia ven bờ có quyền trong vùng kinh tế của mình xác định sản lượng cho phép đánh bắt tài nguyên sinh vật (điều 61). Bằng con đường hợp tác với các tổ chức khu vực và quốc tế, quốc gia ven bờ đảm bảo các biện pháp về bảo vệ và quản lý tài nguyên sinh vật, để chúng không bị hiểm họa khai thác thái quá. Trong điều kiện có đủ dự trữ tài nguyên sinh vật, quốc gia ven bờ có thể cho phép các quốc gia khác được sử dụng vùng kinh tế của mình với điều kiện họ tuân thủ những yêu cầu cần thiết (điều 62, 69, 70). Công ước bao hàm những điều khoản điều chỉnh việc khai thác một số dạng tài nguyên sinh vật ở vùng kinh tế.

            Đối với vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên. 

            Điều 193 Công ước Luật Biển 1982 quy định: “Các quốc gia có quyền thuộc chủ quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính sách về môi trường và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình”. Và Điều 140 của Công ước quy định về Công bằng trong quản lý khai thác và phân chia tài nguyên Vùng: “Các hoạt động trong Vùng được tiến hành là vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc gia dù là quốc gia có biển hay không có biển và có lưu ý đặc biệt đến các lợi ích và nhu cầu của các nước đang phát triển và các dân tộc chưa giành được một nền độc lập đầy đủ hay một chế độ tự trị khác được Liên Hợp quốc thừa nhận theo đúng Nghị quyết 1514 (XV) và các Nghị quyết tương ứng khác của Đại hội đồng”.   

            Việc thăm dò, khai thác tài nguyên của Vùng được tiến hành thông qua một tổ chức quốc tế, gọi là: Cơ quan quyền lực Quốc tế; cơ quan này bảo đảm việc phân chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các các lợi ích khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng thông qua bộ máy của mình.
Các Cơ quan quyền lực Quốc tế có quyền định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp cho việc sử dụng Vùng vào mục đích hòa bình, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển; bảo vệ sự sống của con người, bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng, phòng ngừa những thiệt hại đối với hệ động vật và hệ thực vật.          
Đối với vấn đề bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. 

            Điều 1, khoản 4 Công ước Luật Biển 1982 đã đưa ra khái niệm khá toàn diện về ô nhiễm môi trường biển: “Ô nhiễm môi trường biển là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương tiện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển”. Điều 192 Công ước Luật Biển 1982 đã khẳng định: “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển”. Đây là nghĩa vụ xuất phát từ quyền lợi của Quốc gia ven biển (QGVB) cũng như cộng đồng quốc tế trong các vùng biển của QGVB. Nghĩa vụ này không đi ngược lại với lợi ích chính đáng của các QGVB mà luôn gắn liền với quyền chủ quyền của các QGVB trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình nhưng họ vẫn phải thi hành các chính sách về môi trường để bảo vệ môi trường biển. Điều 235, khoản 1 Công ước Luật Biển 1982 ghi: “Các quốc gia có trách nhiệm quan tâm đến việc hoàn thành các nhiệm vụ quốc tế của mình về vấn đề bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, các quốc gia có trách nhiệm thực thi theo đúng pháp luật quốc tế”. 

2.1.2       Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra 1973, được sửa đổi bởi Nghị định thư 1978 (Công ước MARPOL 73/78)

            Công ước MARPOL 73/78 ra đời năm 1973, là kết hợp của hai hiệp định quốc tế là Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra được thông qua năm 1973 và Nghị định thư của Công ước được thông qua năm 1978, hiện nay gộp chung thành một văn kiện duy nhất. Có thể cho rằng Công ước này là một trong những công ước chủ chốt về bảo vệ môi trường biển. Công ước đưa ra những quy định nhằm ngăn ngừa ô nhiễm gây ra do vận chuyển hàng hóa là dầu mỏ, hàng nguy hiểm, độc hại, cũng như do nước, rác và khí thải ra từ tàu. Việt Nam đã tham gia Công ước này từ ngày 18/3/1991.

            Theo sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ, cũng như các vấn đề môi trường phát sinh trong thực tiễn hoạt động của ngành Hàng hải (các tai nạn tràn dầu, các vấn đề ô nhiễm mới nảy sinh,...), các yêu cầu kỹ thuật của Công ước MARPOL 73/78 đã được bổ sung và sửa đổi liên tục. Cho đến nay Công ước MARPOL 73/78 đã bao gồm 6 phụ lục:

            Phụ lục I: Quy định về ngăn ngừa ô nhiễm do dầu, có hiệu lực từ ngày 02/10/1983 (Phụ lục I sửa đổi có hiệu lực từ ngày 01/01/2007). Phụ lục I bao gồm 07 chương với 39 quy định và 05 phụ chương. Nội dung cơ bản của Phụ lục I bao gồm:

            Việc xả dầu ra biển bị cấm ở một số khu vực và bị hạn chế ở các khu vực khác. Tàu phải thỏa mãn một số yêu cầu nhất định về kết cấu và trang thiết bị, trên tàu phải có nhật ký dầu. Tàu phải được kiểm tra và cấp giấy chứng nhận thỏa mãn yêu cầu của Phụ lục I. Các cảng phải có các phương tiện tiếp nhận hỗn hợp dầu hoặc cặn dầu.

            Phụ lục II: Các quy định về kiểm soát ô nhiễm do chất lỏng độc chở xô, có hiệu lực từ ngày 06/4/1987.

            Phụ lục II áp dụng cho các tàu chở xô các hóa chất lỏng độc hại. Chất lỏng độc có nguy cơ làm tổn hại đến môi trường biển được chia làm 4 loại: A, B, C và D được nêu trong phụ chương II của Phụ lục II. Theo thứ tự, chất loại A gây nguy hiểm nhiều nhất cho môi trường và chất loại D gây nguy hiểm ít nhất. Phụ lục II cấm xả xuống biển dòng thải có lẫn các chất này, trừ khi tuân thủ các quy định đặc thù cho việc thải mỗi loại chất thải. Phụ lục II cũng đưa ra các yêu cầu về mặt kết cấu và trang thiết bị đảm bảo kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm do chất lỏng độc chở xô.

            Phụ lục III: Các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm do các chất độc hại được vận chuyển trên biển dưới dạng bao gói, có hiệu lực từ ngày 01/7/1992.

            Phụ lục III áp dụng cho các tàu chở các chất độc hại dưới dạng bao gói. Chất độc hại là các chất gây ô nhiễm biển nêu trong Bộ luật quốc tế về chuyên chở hàng nguy hiểm bằng đường biển (Bộ luật IMDG). “Dạng bao gói” tức là bất kỳ phương tiện, thiết bị nào dùng để chứa hàng bao gồm cả các container, các thùng, két di động, các két đặt trên các ôtô, toa xe lửa chở trên tàu.

            Phụ lục III cấm vận chuyển các chất độc hại trừ khi tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu đưa ra trong Phụ lục. Các yêu cầu này liên quan đến việc đóng gói, dán nhãn, các hồ sơ cần thiết về hàng, sắp xếp hàng, các hạn chế về lượng hàng và các quy định ngoại lệ liên quan đến an toàn và an ninh sinh mạng trên biển.

            Phụ lục III cấm việc thải xuống biển các loại hàng độc hại ở dạng bao gói, trừ khi đó là biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn cho tàu và người trên tàu. Trong trường hợp đó phải thực hiện việc khai báo theo Điều II, Nghị định I của Công ước MARPOL 73/78.

            Phụ lục IV: Các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm do nước thải của tàu, có hiệu lực từ ngày 27/9/2003.

            Phụ lục IV áp dụng cho các tàu mới có tổng dung tích từ 400 trở lên, hoặc nhỏ hơn 400 nhưng được chứng nhận chở trên 15 người. Đối với các tàu hiện có, phải áp dụng yêu cầu của Phụ lục sau 5 năm kể từ ngày Phụ lục có hiệu lực. Nước thải là nước và các phế thải khác từ nhà vệ sinh, nhà tắm, nước thải từ các buồng bệnh viện, nước thải từ khoang chứa động vật sống trên tàu,...

            Tàu không được phép thải nước thải trong phạm vi 4 hải lý tính từ bờ gần nhất, trừ khi được trang bị thiết bị xử lý nước thải phù hợp. Trong phạm vi 4 đến 12 hải lý tính từ bờ gần nhất, nước thải phải được nghiền và khử trùng trước khi thải.

            Để thỏa mãn các yêu cầu của Phụ lục này, trên tàu phải có các trang thiết bị sau: Thiết bị xử lý nước thải phải được phê duyệt, hoặc hệ thống đường ống và bích nối để thải lên các trạm tiếp nhận trên bờ.

            Phụ lục V: Quy định về ngăn ngừa ô nhiễm do rác thải của tàu, có hiệu lực từ ngày 31/12/1988.

            Phụ lục V áp dụng cho tất cả các tàu, gồm cả thuyền buồm, tàu cá và các công trình ngoài khơi. Việc thải rác ra biển bị cấm hoặc bị hạn chế như sau:

            - Cấm thải bất kỳ loại rác chất dẻo nào ra biển, gồm cả lưới đánh cá, dây thừng bằng vật liệu tổng hợp và túi đựng rác bằng nhựa;

            - Các vật liệu kê, chèn lót và bao gói nổi được chỉ được phép thải khi tàu cách bờ trên 25 hải lý.

            - Các chất thải thực phẩm và các loại rác khác (gồm giấy, thủy tinh, kim loại, giẻ vải, chai lọ, đồ sứ,...) không được thải cách bờ dưới 12 hải lý trừ khi chúng được mài hoặc nghiền để có thể đi qua lưới có kích thước mắt lưới không quá 25 mm. Tuy các loại rác đã được mài hoặc nghiền như vậy, nhưng việc thải vẫn phải thực hiện cách bờ trên 3 hải lý.

            Phụ lục VI: Các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm không khí do tàu gây ra, được phê chuẩn từ tháng 9/1997 và có hiệu từ ngày 19/5/2005.

            Phụ lục quy định giới hạn các ô xít lưu huỳnh, ô xít nitơ trong các khí thải của tàu và cấm thải các chất làm suy giảm tầng ôzôn, gồm cả halon và chlorua fluorcarbon (CFC). Cấm lắp đặt các trang bị mới có chứa chất làm suy giảm tầng ôzôn lên tàu; việc lắp đặt các trang thiết bị mới có chứa hydro-chlorua fluorcarbon được cho phép đến ngày 01/01/2020. Phụ lục cũng đưa ra giới hạn của lưu huỳnh trong các loại nhiên liệu dùng trên tàu. Phụ lục VI cấm việc đốt một số loại sản phẩm hay rác trên tàu, ví dụ như các vật liệu bao gói hàng đã bị ô nhiễm, các vật phẩm có chứa polychorilated biphenyl (PCB). Ở các vùng đặc biệt được gọi là “Vùng kiểm soát khí thải có ô xít lưu huỳnh” theo quy định của Phụ lục VI, tàu phải tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt hơn về kiểm soát chất thải ô xít lưu huỳnh.

            Ngày 15/7/2011, IMO thông qua Chương 4 mới của Phụ lục VI, trong đó yêu cầu các tàu đóng mới, hoặc hoán cải đến mức như đóng mới phải bổ sung thêm chỉ số thiết kế năng lượng hiệu quả của tàu (EEDI) và kế hoạch quản lý năng lượng hiệu quả của tàu (SEEMP). Chương 4 mới này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2013.

            Để quản lý việc xử lý các chất thải của tàu, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp quy đưa ra những quy định cụ thể với từng loại tàu phải thỏa mãn, công tác tiếp nhận và xử lý chất thải ở cảng biển, công tác kiểm tra giám sát của chính quyền cảng. Các chất thải này phụ thuộc nhiều yếu tố:

            - Đối với chất thải rắn: phụ thuộc nhiều vào công tác sửa chữa, chủng loại hàng mà tàu chở. Loại chất thải này đang được kiểm soát và xử lý ở các cảng biển.

            - Đối với chất thải lỏng: Phụ thuộc vào tuổi tàu, tình trạng kỹ thuật của tàu, trình độ chuyên môn của thuyền viên, chất lượng nhiên liệu được cấp, loại hàng tàu chở,...  Hiện nay, loại chất thải này khó kiểm soát.

2.2Các điều ước quốc tế về bảo vệ khí quyển và khí hậu

            Hoạt động của con người đã làm gia tăng các loại khí gây ô nhiễm cho môi trường khí quyển, dẫn đến các hiện tượng đe dọa đời sống trên trái đất từ những cơn mưa axít, việc trái đất nóng lên do tác động của hiệu ứng nhà kính đã làm nước biển dâng cao, gây ngập lụt cho các vùng duyên hải của các quốc gia, việc xuất hiện các lỗ thủng ở tầng ozone và các dấu tích khác của hiện tượng khí quyển trái đất xấu đi. Tất cả các hậu quả nguy hiểm này đã bắt buộc loài người phải có những hoạt động cần thiết hình thành một chế độ pháp lý quốc tế ngăn ngừa và giảm thiểu các hiện tượng thảm họa to lớn nêu trên.

            Việt Nam đã tham gia các điều ước quốc tế quan trọng liên quan đến vấn đề bảo vệ khí quyền và khí hậu, cụ thể như Công ước Viên 1985 về bảo vệ tầng ozone và Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu 1992.

2.2.1       Nội dung Công ước Viên 1985 về bảo vệ tầng ozone

  

            Trong các vấn đề đáng lo ngại về môi trường hiện nay, vấn đề ozone và thủng tầng ozone là một vấn đề bức xúc và nghiêm trọng mang tính chất toàn cầu. Trái đất rất dễ bị tổn thương bởi các tia cực tím của bức xạ mặt trời và tầng ozone có nhiệm vụ không cho các tia này đến được trái đất. Có thể khẳng định, tầng ozone có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự sống trên trái đất. Tầng ozone bị phá hủy sẽ dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người và gây mất cân bằng hệ sinh thái. Có thể nói, tầng ozone chính là tấm lá chắn bảo vệ hành tinh. Vấn đề suy giảm tầng ozone là một đe dọa thực tế đối với nhân loại. Chính vì vậy, cộng đồng quốc tế đã thông qua Công ước Viên 1985 về bảo vệ tầng ozone, có hiệu lực vào năm 1988.

            Công ước Viên được ký kết năm 1985 gồm 21 điều khoản cs mục đích cơ bản là xây dựng hợp tác và hành động quốc tế nhằm nghiên cứu tầng ozone, bảo vệ tầng ozone trước các hoạt động của con người và bảo vệ sức khỏe của con người trước các thay đổi của tầng ozone. Đây là công ước khung quy định các nghĩa vụ cơ bản của các quốc gia liên quan đến việc giám sát, nghiên cứu và trao đổi thông tin, ban hành các văn bản pháp luật và các biện pháp hành chính cần thiết, thông báo các biện pháp đã được thỏa thuận, trình tự thủ tục và các tiêu chuẩn, cũng như sự hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm hạn chế và ngăn chặn các hoạt động của con người có thể mang lại ảnh hưởng, tác động xấu tới tầng ozone. Theo đó, các quốc gia có nghĩa vụ:

            - Hợp tác bằng các quan trắc có hệ thống, nghiên cứu và trao đổi thông tin để hiểu rõ và đánh giá tốt hơn những ảnh hưởng của các hoạt động của con người đến tâng ozone và những ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và môi trường do biến đổi tầng ozone;

- Chấp nhận các biện pháp pháp lý hoặc hành chính và hợp tác trong việc phối hợp các chính sách thích hợp để kiểm soát hạn chế, giảm bớt hoặc ngăn chặn những hoạt động của con người trong phạm vi quyền hạn hoặc sự kiểm soát của mình nếu như thấy rằng các hoạt động đó có hoặc dễ có những ảnh hưởng có hại do sự biến đổi hoặc dễ biến đổi tầng ozone.

            - Hợp tác trong việc hệ thống hoá các biện pháp, thủ tục và tiêu chuẩn đã nhất trí để thực hiện Công ước này, nhằm chấp nhận và thi hành các Nghị định thư và các văn bản phụ lục;

            - Hợp tác với những cơ quan quốc tế có thẩm quyền để thi hành có hiệu quả Công ước này và các Nghị định thư mà họ tham gia.

            Công ước này đã liệt kê những chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo được coi là có khả năng làm thay đổi tính chất hóa lý của tầng ozone: Các chất các bon, các chấ nitrogen, các chất clorin, các chất bromin, các chất hydrogen.

            Việt nam đã tham gia Công ước ngày 26 tháng 01 năm 1994 và cùng nhiều quốc gia khác đang có những cố gắng chuyển đổi các công nghệ sử dụng CFC sang các công nghệ ít gây suy thoái tầng ozone.

2.2.2       Nội dung Công ước khung về biến đổi khí hậu 1992

            Sau Công ước Viên 1985, cộng đồng quốc tế đã đạt được những thỏa thuận khác nhằm điều chỉnh có hiệu quả các vấn đề đặt ra đối với bảo vệ khí quyển, khí hậu. Năm 1992, Công ước khung về biến đổi khí hậu đã được thông qua. Đây là Công ước quốc tế toàn diện và quan trọng nhất trong lĩnh vực này. Khác với Công ước bảo vệ tầng ozone, Công ước này không đưa ra quy định xác lập một danh sách cụ thể các loại chất gây ô nhiễm và thời hạn đình chỉ hoặc giảm bớt việc sản xuất hay thải các chất này vào khí quyển. Công ước khung về biến đổi khí hậu chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến các nguyên tắc và nghĩa vụ chung của các quốc gia thành viên trong việc ngăn ngừa hiện tượng trái đất nóng lên.

            Mục tiêu cuối cùng của Công ước này và bất kỳ các văn bản pháp lý liên quan mà Hội nghị các Bên có thể thông qua là nhằm đạt được sự ổn định các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu. Mức đó phải được đạt tới trong một khung thời gian đủ để cho phép các hệ sinh thái thích nghi một cách tự nhiên với biến đổi khí hậu, bảo đảm rằng việc sản xuất lương thực không bị đe dọa và tạo khả năng cho sự phát triển kinh tế tiến triển một cách bền vững.

            Theo Công ước, để nhằm đạt được mục tiêu đề ra, các quốc gia phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

            - Phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của các thế hệ hiện nay và mai sau của nhân loại, trên cơ sở công bằng và phù hợp với những trách nhiệm chung nhưng có phân biệt phải đi đầu trong việc đấu tranh chống biến đổi khí hậu và những ảnh hưởng có hại của nó.

            - Cần phải xem xét đầy đủ những nhu cầu riêng và những hoàn cảnh đặc thù của các Bên nước đang phát triển, nhất là những nước đặc biệt dễ bị những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu, và của các Bên, nhất là các Bên nước đang phát triển sẽ phải chịu gánh nặng bất thường hoặc không cân xứng theo Công ước.

            - Các Bên phải thực hiện những biện pháp thận trọng để đoán trước, ngăn ngừa hoặc làm giảm những nguyên nhân của biến đổi khí hậu và làm giảm nhẹ những ảnh hưởng có hại của nó. Ở những nơi có các mối đe dọa bị thiệt hại nghiêm trọng hoặc không thể đảo ngược, việc thiếu sự chắc chắn đầy đủ về khoa học không được dùng làm lý do để trì hoãn những biện pháp ấy, lưu ý rằng các chính sách và biện pháp đối phó với biến đổi khí hậu phải là chi phí có hiệu quả để đảm bảo những lợi ích toàn cầu ở mức phí tổn thấp nhất có thể được. Để đạt được mục tiêu đó, những chính sách và biện pháp như vậy phải tính đến những tình huống kinh tế xã hội khác nhau, phải toàn diện, bao trùm mọi nguồn, bể hấp thụ và bể chứa các khí nhà kính và sự thích ứng và bao gồm mọi lĩnh vực kinh tế. Những nỗ lực đối phó với biến đổi khí hậu có thể được thực hiện một cách hợp tác bởi các Bên quan tâm.

            - Các Bên có quyền và phải đẩy mạnh sự phát triển bền vững. Những chính sách và biện pháp để bảo vệ hệ thống khí hậu chống lại sự biến đổi do con người gây nên phải thích hợp với những điều kiện riêng của mỗi Bên và phải được kết hợp với những chương trình phát triển quốc gia, lưu ý rằng sự phát triển kinh tế là cốt yếu với việc chấp nhận những biện pháp đối phó với biến đổi khí hậu.

            - Các Bên phải hợp tác để đẩy mạnh một hệ thống kinh tế quốc tế mở cửa và tương trợ, hệ thống này sẽ dẫn tới sự phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững ở tất cả các Bên, đặc biệt các Bên nước đang phát triển, như vậy làm cho họ có thể đối phó tốt hơn các vấn đề của biến đổi khí hậu. Các biện pháp dùng để chống lại sự biến đổi khí hậu, bao gồm các biện pháp đơn phương, không được tạo thành một phương tiện phân biệt đối xử tùy tiện hoặc không chính đáng hoặc một sự hạn chế trá hình về thương mại quốc tế.

            Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện:

            - Xây dựng các chính sách quốc gia và các biện pháp thích hợp nhằm mục đích hạn chế quá trình khí hậu thay đổi bất lợi bằng cách giwosi hạn thải các chất khí có thể gây ra hiệu ứng nhà kính.

            - Phải đẩy mạnh quản lý thích đáng và bảo vệ an toàn những nguồn hấp thụ khí nhà kính như cây cối, rừng, biển.

            - Tăng cường hợp tác trong việc lập kế hoạch về tác động của sự biến đổi khí hậu đối với các vùng ven biển, tài nguyên nước và nông nghiệp. Hợp tác trong việc bảo vệ những khu vực dễ bị lụt và hạn hán, đặc biệt ở các khu vực của Châu Phi.

            - Thông tin cho công chúng biết về sự biến đổi khí hậu và tác động của nó đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia cào quá trình triển khai đối phó với sự tác động của biến đổi khí hậu.

            - Phải rà xét ít nhất là hai lần việc thực hiện cam kết đã thỏa thuận trước năm 1998.

2.3Các điều ước quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học

2.3.1       Công ước Cites 1973 về buôn bán quốc tế các loại động thực vật có nguy cơ bị đe dọa

            Công ước CITES (Conversion on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora) đã được 12 nước dự họp tại Washington ký kết thông qua ngày 1/3/1973 và có hiệu lực từ 1/7/1975. Công ước này có 25 điều đề cập đến các nguyên tắc chung, các biện pháp và nghĩa vụ của các thành viên. Ở Việt Nam, để bảo vệ các loài động thực vật hoang dã, đặc biệt là các loài động thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, đồng thời cũng để phối hợp có hiệu quả với cộng đồng quốc tế trong việc kiểm soát và điều chỉnh việc buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng, ngày 15/1/1994, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 121 tham gia Công ước này. Cơ quan Thẩm quyền Quản lý CITES Việt Nam hiện nay, gọi tắt là Văn phòng CITES Việt Nam trực thuộc Cục Kiểm lâm theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BNN ngày 23/1/2007

            Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng (CTIES) là một hiệp định quốc tế giữa các chính phủ. Công ước ra đời với mục đích kiểm soát việc buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng.

            Hiện nay, phương tiện thông tin đại chúng đang nói nhiều đến nguy cơ tuyệt chủng của các loài động vật quý hiếm do đó, nhu cầu về một thỏa thuận  quốc tế nhằm kiểm soát thực trạng buôn lậu động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng trở nên rõ rang và cấp thiết.

            Việc hiện thực hóa Công ước CITES đã được hình thành từ những năm 1960. Hàng năm, thương mại quốc tế về những loài động thực vật hoang dã ước tính trị giá hàng tỷ đô la bao gồm hàng trăm triệu loài động thực vật. Việc buôn bán này ngày càng tinh vi và phức tạp kể cả động thực vật sống đến sản phẩm có nguồn gốc từ động thực vật hoang dã như thức ăn, sản phẩm làm từ da, nhạc cụ bằng gỗ, đồ lưu niệm và dược phẩm. Mức độ khai thác một số loài động thực vật vào mục đích thương mại đang có xu hướng gia tăng, cùng với những nhân tố khác như mất môi trường sống và suy giảm về số lượng đang đẩy một số loài đến bờ vực tuyệt chủng. Tuy nhiên, việc ra đời một công ước nhằm kiểm soát tình trạng này và đảm bảo tính bền vững của thương mại là rất quan trọng trong việc bảo vệ tài các nguồn tài nguyên cho tương lai.

            Do buôn bán động thực vật qua biên giới giữa các quốc gia, nỗ lực nhằm điều chỉnh tình trạng buôn bán trái phép trên đòi hỏi sự phối hợp giữa các nước trên thế giới nhằm bảo vệ các loài khỏi việc khai thác quá mức. Hiện nay, Công ước này đã ghi nhận mức độ bảo vệ khác nhau cho hơn 30.000 loài động thực vật kể cả việc buôn bán các loài động vật sống, áo lông thú hoặc dược thảo khô.

            Năm 1963, bản dự thảo CITES ra đời sau khi nghị quyết được thông qua tại cuộc họp của các nước IUCN (Liên minh bảo tồn thế giới). Ngày 3/3/1973, đại diện của 80 nước trên thế giới đã gặp nhau tại Washington DC, Hoa Kỳ và đi đến ký kết Công ước CITES. Ngày 01/7/1975, CITES chính thức có hiệu lực. Bản gốc của Công ước được lưu chiểu bằng tiếng Tây Ban Nha, Nga, Pháp, Anh và Trung Quốc, mỗi bản có hiệu lực như nhau. Cho đến nay, CITES là một hiệp định bảo tồn với số lượng thành viên lớn nhất, 175 thành viên.

            Điểm đáng chú ý, CITES được coi là một trong những Hiệp định đa phương về môi trường ra đời sớm nhất. Nó ràng buộc trách nhiệm của các nước thành viên tham gia. CITES đưa ra một khuôn khổ mà các nước thành viên phải tuân thủ thông qua hệ thống luật pháp quốc gia của mình.

            Công ước  có 3 phụ lục, trong đó đưa ra danh mục các loại với các cấp độ cần bảo vệ khác nhau:

            - Phụ lục I : Bao gồm các loại có nguy cơ bị tuyệt chủng. Thương mại đối với các loài này chỉ được phép trong một số trường hợp ngoại lệ;

            - Phụ lục II : Bao gồm các loài chưa có nguy cơ tuyệt chủng nhưng cần phải kiểm soát thương mại nhằm tránh việc khai thác bừa bãi;

            - Phụ lục III : Bao gồm các loài được bảo vệ tại ít nhất một quốc gia.

            Mỗi nước tham gia phải có một hoặc một vài Cơ quan Quản lý chuyên trách giám sát hệ thống cấp phép và một vài Cơ quan Khoa học tư vấn cho các cơ quan chuyên trách về tác động của thương mại đối với các loài động thực vật.

            Công ước quy định các bên tham gia nếu có tranh chấp gì thì phải giải quyết thông qua thương lượng. Nếu thương lượng không có kết quả, hai bên phải  đưa tranh chấp ra Trọng tài quốc tế tại La Hay, Hà Lan. Phán quyết của trọng tài có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp. Cho đến nay vẫn chưa có tranh chấp nào xảy ra.

            Ban Thư ký CITES do Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP)  quản lý và có trụ sở đặt tại Geneva, Thụy Sĩ.

Sơ đồ cơ chế hoạt động của Ban Thư ký CITES

             Các loài động thực vật ghi trong phụ lục 1 và 2 của CITES có thể được bổ sung hoặc chuyển dịch do thỏa thuận của các nước thành viên tại hội nghị toàn thể họp 2 năm một lần hoặc bỏ phiếu gửi qua bưu điện trong thời gian giữa 2 kỳ hội nghị.

Các nước thành viên có nghĩa vụ tiến hành những biện pháp thích hợp để thi hành có hiệu lực các điều khoàn ghi trong công ước, đặc biệt là việc cấm buôn bán các loài thuộc phụ lục 1.

            Đối với các mẫu vật, sau khi bị tịch thu sẽ được giao cho cơ quan có thẩm quyền quản lý. Sau khi trao đổi ý kiến với cơ quan thẩm quyền quản lý của nước xuất khẩu thì hoặc mẫu vật sẽ được trả lại cho nước đó (nhưng phải chịu toàn bộ phí sang nhận) hoặc sẽ được chuyển cho trung tâm cứu hộ hay một nơi nào đó mà cơ quan thành viên bảo đảm hoàn tất các thủ tục xuất nhập cảnh một cách nhanh chóng cho các loài đó được phép xuất nhập. Các nước thành viên phải bảo đảm cho mọi mẫu vật sống được chăm sóc thích hợp nhằm hạn chế tối đa các tổn thương về sức khõe hay cách đối xử thô bạo trong quá trình vận chuyển hay quá cảnh.

            Cơ quan có thẩm quyền quản lý CITES ở Việt Nam là Bộ Lâm Nghiệp (cũ) được chính phủ quy định làm cơ quan thẩm quyền quản lý và Viện Sinh Thái & Tài nguyên sinh vật( thuộc trung tâm Khoa học và Công nghệ Quốc gia) cùng với Trung tâm Tài nguyên Môi trường( thuộc trường Đại học quốc gia Hà Nội) là 2 cơ quan thẩm quyền khoa học. Cơ quan thẩm quyền quản lý có trách nhiệm liên hệ với các nước thành viên và ban thư ký CYTES, đồng thời cấp giấy phép hoặc chứng chỉ về các hoạt động buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng. Cơ quan thẩm quyền khoa học có trách nhiệm tư vấn khoa học cho cơ quan thẩm quyền quản lý.

2.4Công ước Paris 1972 về bảo vệ di sản văn hóa tự nhiên của thế giới

            Hoàn cảnh ra đời

            Công ước bảo vệ Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới được thông qua tại phiên họp toàn thể lần thứ XVII của Đại hội đồng UNESCO vào ngày 16/11/1972. Đây là một công cụ pháp lý quốc tế nhằm bảo tồn các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới trên phạm vi toàn cầu

            Nguyên nhân ra đơi mà theo UNESCO, di sản văn hoá và di sản tự nhiên ngày càng có nguy cơ bị phá hoại không những bởi những nguyên nhân cổ truyền là xuống cấp mà còn bởi sự tiến triển của đời sống xã hội và kinh tế làm cho các nguyên nhân cổ truyền trầm trọng thêm do các hiện tượng làm hư hỏng hoặc phá hoại ghê gớm hơn nữa.

Văn bản thành lập Tổ chức có dự kiến việc giúp đỡ duy trì, xúc tiến và phổ biến kiến thức bằng cách chăm lo tới việc bảo tồn và bảo vệ di sản của thế giới và bằng cách khuyến nghị với các dân tộc có liên quan những Công ước quốc tế nhằm mục đích đó.

            Nhận thức được tầm quan trọng của công cụ nầy, vào năm 1987, ngay khi đất nước còn phải vật lộn với nhiều khó khăn, chính phủ Việt Nam đã chính thức tham gia công ước với nhiều hoạt động thiết thực. Bốn mươi năm trôi qua kể từ ngày công ước năm 1972 ra đời và 25 năm kể từ lúc Việt Nam tham gia công ước, đến nay đã có 962 di sản văn hóa và thiên nhiên của các quốc gia thành viên được ghi vào danh mục di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, trong đó Việt Nam đóng góp 7 Di sản

            Nội dung

            Công ước được chia làm 8 phần với 38 điều, trong đó nêu rất rõ các quy định về các loại di sản, p đơn xin cấp di sản,điều kiện và các thẻ thực viện trợ quốc tế ...

            Theo đó Di sản văn hóa gồm:

            Các di tích: Các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điếu khắc và hội họa, các yếu tố hay các cấu trúc có tính chất khảo cổ học chất, ký tự, nhà ở trong hang đá và các công trình sự kết hợp giữa công trình xây dựng tách biệt hay liên kết lại với nhau mà do kiến trúc của chúng, do tính đồng nhất hoặc vị trí trong cảnh quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật và khoa học.

            Các di chỉ: Các tác phẩm do con người tạo nên hoặc các tác phẩm có sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo và các khu vực trong đó có các di chỉ khảo cổ có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.

            Di sản thiên nhiên gồm:

            Các đặc điểm tự nhiên bao gồm các hoạt động kiến tạo vật lý hoặc sinh học hoặc các nhóm các hoạt động kiến tạo có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm thẩm mỹ hoặc khoa học.

            Các hoạt động kiến tạo địa chất hoặc địa lý tự nhiên và các khu vực có ranh giới được xác định chính xác tạo thành một môi trường sống của các loài động thực vật đang bị đe dọa có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm khoa học hoặc bảo tồn.

            Di sản hỗn hợp

            Đến tận năm 1992, Ủy ban di sản thế giới mới đưa ra khái niệm di sản hỗn hợp hay còn gọi là cảnh quan văn hóa để miêu tả các mối quan hệ tương hỗ nổi bật giữa văn hóa và thiên nhiên của một số khu di sản.

            Cho đến nay nhiều di sản trong tổng số 962 di sản đã bị đưa vào danh sách di sản có nguy cơ bị đe dọa, nhiều di sản đã không còn nguyên vẹn như khi mới được công nhận. Có những di sản được quản lý và phát huy tốt các giá trị của mình song bên cạnh đó vẫn còn nhiều di sản dường như bị lãng quên…

            Điều kiện để trở thành di sản của nhân loại

            Theo quy định của Unesco, mỗi quốc gia lưu giữ di sản của nhân loại phải đưa ra được một chương trình hành động thiết thực, liên tục để gìn giữ, kế thừa và phát huy di sản theo hướng ổn định, bền vững. Nếu sau một thời gian nhất định, những tiêu chí giúp công nhận không còn và chương trình hành động không còn đi theo hướng đã cam kết ban đầu, Uỷ ban giám sát đã đưa ra lời cảnh báo, nếu lời cảnh báo được gửi đi mà không được hồi đáp theo hướng tích cực, Unesco có thể đưa ra quyết dịnh tước đi danh hiệu đó, quyết định có thể có thời hạn cũng có thể là vĩnh viễn.

            Với rất nhiều tiêu chuẩn và sự khắt khe trong công đoạn xét duyệt thì giá trị của mỗi di sản sau khi được công nhận thực sư là niềm tự hào của quốc gia và việc đề nghị công nhận di sản là một việc làm hết sức cần thiết. Bởi có lập hồ sơ, chúng ta mới thấy một cách tổng quát giá trị di sản, có đệ trình lên Unesco chúng ta mới biết được giá trị di sản quan trọng đến mức nào và có được Unesco công nhận chúng ta mới biết trân trọng hơn những di sản của cha ông ta đã để lại. Bên cạnh đó việc được công nhận di sản thế giới cũng giúp chúng ta nâng tầm “thương hiệu quốc gia”.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: