Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Không Tên Phần 1

CÀ PHÊ ĐẮNG

Người dịch: River in blue +

Edit lần 1: River in blue

Tóm tắt: Công thức mới của Sir Claud Amory cho một chất nổ mạnh bị đánh cắp. Nhốt khách của mình trong thư viện, Sir Claud tắt đèn để cho kẻ trộm lấy đi công thức, không có câu hỏi nào. Khi đèn bật sáng, ngài đã chết, Hercule Poirot và đại úy Hastingss phải làm sáng tỏ một mối thù gia đình rối rắm, ngọn lửa cũ và những người nước ngoài nghi ngờ để tìm ra kẻ giết người và ngăn chặn thảm họa toàn cầu.

BLACK COFFEE là vở kịch đầu tiên của Agatha Christie, được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1930 và được làm thành một bộ phim hiếm thấy vào năm sau.

CHƯƠNG 1

Hercule Poirot ngồi dùng bữa sáng trong căn hộ tuy nhỏ nhưng ấm cúng và dễ chịu ở Whitehall Mansions của mình. Ông thưởng thức món bánh mì ngọt kèm với một tách sô cô la nóng. Ông là người sống theo thói quen và hiếm khi thay đổi thói quen ăn sáng của mình; tuy nhiên khác với mọi khi, Poirot yêu cầu người hầu, George, làm thêm cho ông tách sô cô la thứ hai. Trong khi chờ đợi, Poirot lại liếc nhìn hòm thư sáng được đặt trên bàn ăn.

Vẫn tỉ mỉ và ngăn nắp như mọi khi, Poirot xếp những phong bì không dùng nữa thành một chồng gọn gàng. Chúng đã được mở rất cẩn thận bằng một con dao rọc giấy có hình thanh gươm thu nhỏ, là món quà sinh nhật do người bạn cũ của ông, Hastings, tặng từ nhiều năm trước. Chồng thứ hai gồm những thông tin mà ông thấy không hứng thú – hầu hết là những thông tư và giấy báo, và Poirot thường sẽ bảo George vứt chúng đi ngay. Chồng thứ ba chứa những lá thư yêu cầu câu trả lời về vấn đề nào đó hoặc ít nhất là lời hồi âm thư đã được nhận.

Những phong thư này sẽ được Poirot xử lý sau bữa sáng và không khi nào trước 10 giờ. Poirot nghĩ sẽ không chuyên nghiệp nếu bắt đầu ngày làm việc trước 10 giờ. Nhưng khi ông đang theo một vụ án, đương nhiên chuyện sẽ khác. Ông nhớ có lần ông cùng Hastings khởi hành trước bình minh... Ôi, không, Poirot không muốn đắm chìm suy nghĩ trong quá khứ nữa. Một quá khứ hạnh phúc. Vụ án cuối cùng của hai người, liên quan đến tổ chức tội phạm quốc tế được biết đến với cái tên Bộ Tứ – đã có được một kết luận thỏa đáng và sau đó Hastings đã quay trở về Argentine, bên vợ và trang trại của mình. Mặc dù Hastings thỉnh thoảng có quay lại London để giải quyết công chuyện liên quan đến trang trại, thế nhưng Poirot và Hastings hầu như không có cơ hội cộng tác để giải quyết các vụ án nữa. Đó có phải là lý do tại sao Hercule Poirot cảm thấy bồn chồn trong một sáng mùa xuân xinh đẹp vào tháng 5 năm 1934?

Tuy đã về hưu, thế nhưng không ít lần Poirot bị cám dỗ quay trở lại công việc khi được giới thiệu một vấn đề thú vị nào đó. Ông thích cái cảm giác sắp khám phá ra một điều gì đấy thêm lần nữa, có Hastings kế bên trợ tá (act as a kind of sounding board) cho ông hàng loạt những ý tưởng. Nhưng chẳng có vụ việc gì hấp dẫn được trình báo đến Poirot trong suốt mấy tháng qua. Phải chăng không còn bất cứ một tên tội phạm hay hành động phạm tội nào sáng tạo nữa? Chẳng lẽ tất cả bạo lực và sự tàn bạo, hung ác, những vụ việc liên quan đến giết người hay trộm cắp đều đơn giản và dễ dàng đến nỗi không cần đến Poirot này phải nhúng tay điều tra sao?

Dòng suy nghĩ của Poirot bị chặn lại bởi cái chạm nhẹ của George vào khuỷu tay ông, ông vui vẻ đón nhận tách chocolate nóng thứ hai. Tách chocolate được mong chờ không chỉ bởi Poirot sẽ được tận hưởng vị ngọt đậm đà mà còn là bởi nó khiến ông được trì hoãn mọi thứ trong vài phút ít ỏi, nhận ra rằng ngày hôm ấy, một buổi sáng bình yên đầy nắng, đã mở ra trước mắt ông một viễn cảnh không có gì tuyệt vời hơn bằng việc đi dạo trong công viên, băng ngang qua Mayfair để đến nhà hàng ưa thích của ông ở Soho, nơi Poirot dùng bữa trưa một mình vơi – gì nhỉ? - có lẽ là một chút pa tê để khai vị, rồi tiếng hát của một nữ ca sĩ hát solo, kế đến...

Poirot chợt nhận ra sự có mặt của George, anh vừa đặt tách chocolate lên bàn, vừa nói chuyện với Poirot. George hoàn hảo và điềm tĩnh, một người Anh mạnh mẽ với khuôn mặt phần nào cứng đơ đã ở với Poirot một thời gian, và đó là tất cả những gì Poirot mong muốn ở một người hầu.

Là một người không tò mò và cực kì ngần ngại khi bày tỏ quan điểm cá nhân cùa mình về một vấn đề nào, George là cả một kho tàng thông tin về giới quý tộc Anh, anh ta ưa chuộng sự gọn gàng như chính vị thám tử vĩ đại của mình. Poirot đã từng nói với anh ta nhiều lần rằng: "Anh đã ủi chiếc quần rất tuyệt vời, George ạ, nhưng trí tưởng tượng lại cứ ám ảnh rằng anh không làm tốt như thế."

Tuy nhiên, trí tưởng tượng của Poirot cũng rất phong phú. Theo ông, để ủi một chiếc quần đúng cách là một việc không hề đơn giản. Phải, Poirot cảm thấy thật sự may mắn khi có George chăm sóc.

"– và tôi đã tự ý hứa rằng ông sẽ gọi lại vào sáng nay, thưa ông" – George nói.

"Xin lỗi anh George nhé " – Poirot trả lời. "Tôi không tập trung lắm. Anh vừa nói có ai đó gọi đến cho tôi đúng không?"

"Vâng, thưa ông. Vào tối qua khi ông đang ở nhà hát cùng với bà Oliver. Sau đấy tôi đã lui về giường nghỉ trước khi ông về, và nghĩ rằng không cần thiết để lại tin nhắn cho ông vào lúc khuya như vậy."

"Thế ai đã gọi đến vậy?"

"Một quý ông tự xưng là Sir (1) Claud Amory. Ông ta để lại số điện thoại, có vẻ là ở đâu đó vùng Surrey. Ông ta nói đây là một vấn đề tế nhị, và khi ông gọi đến số điện thoại này, đừng xưng tên, chỉ cần yêu cầu được nói chuyện với Sir Claud là được."

(1) Sir: (Ngài) tước hiệu hiệp sĩ ở Anh Quốc. Trong truyện, người dịch xin phép giữ nguyên là "Sir"

"Cảm ơn George, hãy để số điện thoại trên bàn của tôi." Poirot nói. "Tôi sẽ gọi cho Sir Claud sau khi ngâm cứu tờ Times sáng nay. Tôi nghĩ đó chỉ là chuyện vặt và không đáng để gọi điện vào buổi sáng, ngay cả khi đó là chuyện tế nhị."

George cúi chào và rời đi, trong khi đó, Poirot từ từ nhâm nhi hết tách chocolate rồi bước ra ban công cùng tờ báo buổi sáng.

Vài phút sau, tờ báo Times đã được đặt sang một bên. Tin tức quốc tế vẫn tẻ nhạt như thường. Tay Hitler ghê gớm đó đã biến các tòa án Đức thành các chi nhánh của Đảng Quốc xã, Phát xít đã nắm quyền lực ở Bulgaria,và tệ hơn hết, ở đất nước Bỉ của Poirot, bốn mươi hai thợ mỏ e là đã chết sau vụ nổ mỏ gần Mons. Các tin trong nước thì khả quan hơn đôi chút. Bất chấp sự lo ngại của các quan chức chính quyền, những nữ đấu thủ tại giải Wimbledon đã được phép mặc quần short vào mùa hè này. Cũng không thoải mái gì mấy khi thấy cáo phó của những người trạc tuổi Poirot hoặc trẻ hơn có vẻ đã quyên sinh.

Bỏ tờ báo ở đó, Poirot nằm dài ra trên chiếc ghế thoải mái đan bằng liễu gai, chân gác lên một chiếc ghế đẩu nhỏ, ông chợt nghĩ đến Sir Claud Amory. Cái tên ấy bất chợt gây ấn tượng. Poirot đã nghe tên này ở đâu đó. Phải rồi, Sir Claud này là người nổi tiếng về một vài lĩnh vực nào đó. Nhưng chính xác là gì? Một nhà chính trị gia? Một luật sư hay một công chức đã nghỉ hưu? Sir Claud Amory. Amory.

Ánh bình minh rọi vào ban công, Poirot cảm thấy thật ấm áp và muốn tắm nắng thêm chút nữa. Chẳng mấy chốc, nắng trở lên quá gắt đối với ông vì ông không phải mẫu người mê tắm nắng.

"Khi nào mặt trời khiến mình phải chạy vào trong", Poirot tự nhủ, "thì mình sẽ ráng đi tìm thử trong cuốn Ai là Ai. Nếu Sir Claud này là người đặc biệt ưu tú, chắc chắn ông ta đã từng xuất hiện trong một quyển sách nổi tiếng nào đó. Nếu không –"

Ngài thám tử nhún vai đầy biểu cảm. Một kẻ hợm hĩnh, Poirot có sẵn định kiến ấy về Sir Claud chỉ vì tước vị của ông. Nếu tên ông ta không có trong cuốn Ai là Ai, cuốn sách chứa đựng tất cả những chi tiết về sự nghiệp của chính Poirot, thì Sir Claud có lẽ là người đưa ra yêu sách hợp lý vì khiến Hercule Poirot phải bỏ thời gian quan tâm.

Cơn gió mát bất chợt kết hợp với tính tò mò đang trỗi dậy tiễn Poirot vào nhà. Bước vào thư viện, ông đi đến kệ chứa sách tham khảo và lấy xuống một quyển sách dày màu đỏ, gáy sách được chạm khắc bằng vàng, với tựa đề "Ai là Ai". Lật giở các trang, Poirot đến mục cần tìm và đọc lớn:

Tiểu sử AMORY CLAUD (Herbert); Kt. 1927;

+ Ngày tháng năm sinh: Ngày 24 tháng 11 năm 1878. Kết hôn năm 1907 với Helen Graham (mất năm 1929);

+ Con cái: 1 con trai

+ Giáo dục: Weymouth Gram. Sch.; Trường King's Coll, London.

+ Phòng thí nghiệm vật lý nghiên cứu GEC, 1905;

+ RAE Famborough (Phòng phát thanh), 1916;

+ Thành lập nghiên cứu Không khí tối thiểu ( Air Min Research), Swanage, 1921; đã chứng minh được Nguyên lý mới để gia tốc các hạt: máy gia tốc tuyến tính sóng di chuyển vào năm 1924.

+ Được trao tặng Huân chương Monroe về vấn đề Vật lý Xã hội.; tác giả của các ấn phẩm, các bài báo khoa học...

+ Địa chỉ: Phố Abbot's Cleve, gần Market Cleve, Tòa nhà Surrey, số 304 Market Cleve.

+ Câu lạc bộ: Câu lạc bộ khoa học.

"À! Phải rồi", Poirot đăm chiêu, "Một nhà khoa học nổi tiếng"

Poirot nhớ lại cuộc trò chuyện của mình với một thành viên của chính phủ Hoàng gia vài tháng trước đây, sau khi Poirot tìm lại được một số tài liệu bị mất có chứa nội dung có thể khiến người ta ngượng ngùng. Họ bàn về vấn đề an ninh, và các chính trị gia đã thừa nhận rằng mức độ an ninh nhìn chung chưa đủ nghiêm ngặt.

"Chẳng hạn," Poirot nói, "những gì Sir Claud Amory đang làm hiện tại có tầm quan trọng to lớn trong bất kì cuộc chiến tranh nào trong tương lai – nhưng ông ta lại từ chối làm việc trong điều kiện phòng thí nghiệm nơi ông và những nghiên cứu của mình được bảo vệ kĩ lưỡng. Claud khăng khăng muốn làm việc một mình tại nhà riêng ở quê. Không an toàn một chút nào cả. Thật khủng khiếp."

Thắc mắc ghê, Poirot thầm nghĩ khi ông đặt lại cuốn Ai là ai lên giá sách, Mình phân vân – có khi nào Sir Claud muốn thuê Hercule Poirot này làm một con chó canh già nhàm chán chăng? Những phát minh cho chiến tranh, các vũ khí bí mật, chúng không dành cho mình. Nếu Sir Claud –

Có tiếng chuông điện thoại từ phòng kế bên. Poirot nghe George trả lời. Một lúc sau, anh hầu xuất hiện.

"Thưa ông, lại là Sir Claud Amory ạ", anh ta nói.

Poirot tiến lại chiếc điện thoại.

"Xin chào. Tôi là Hercule Poirot. Ai đấy," ông nói vào ống nghe.

"Poirot phải không? Chúng ta chưa từng gặp nhau, nhưng chúng ta có biết nhau đấy. Tên tôi là Amory, Claud Amory."

"Dĩ nhiên là tôi có nghe về ngài, Sir Claud", Poirot trả lời.

"Nghe này, Poirot. Tôi đang gặp một vấn đề cực kỳ rắc rối. Hay đúng hơn là tôi có thể gặp phải Tôi cũng không chắc nữa. Tôi đang nghiên cứu công thức để bắn phá nguyên tử. Tôi sẽ không đi vào chi tiết, nhưng Bộ Quốc phòng lại cực kỳ coi trọng nó. Nghiên cứu của tôi giờ đã hoàn tất và tôi đã tạo ra một công thức mà từ đó có thể làm ra chất nổ chết người mới. Tôi có lý do để nghi ngờ rằng một thành viên trong gia đình tôi toan ăn cắp công thức này. Bây giờ tôi không thể nói thêm nữa, nhưng tôi rất biết ơn nếu ngài xuống Abbot's Cleve vào cuối tuần, với tư cách là khách của tôi. Tôi muốn ngài mang công thức về London và giao nó cho một người nào đó ở Bộ. Có lý do chính đáng khiến cho người đưa thư của Bộ không thể thực hiện việc này. Tôi cần một người không phô trương, không phải thành viên của khoa học quần chúng, nhưng cũng phải là người đủ sắc sảo -"

Sir Claud tiếp tục nói. Hercule Poirot liếc nhìn hình ảnh phản chiếu trong gương cái đầu hói hình trứng của mình và bộ ria mép được vuốt sáp một cách tỉ mỉ, tự nhủ rằng trong suốt quá trình làm việc từ trước đến giờ, ông chưa bao giờ cho rằng mình là một người khiêm tốn. Nhưng ý nghĩ cuối tuần ở nông thôn và có cơ hội gặp nhà khoa học tài ba khiến Poirot cảm thấy dễ chịu, hơn nữa, đây cũng là cách thích hợp để bày tỏ sự cảm ơn đến chính quyền – và chỉ đơn giản là mang theo cái túi đựng công thức khoa học chết người từ Surrey về phố Whitehall (2).

(2)Whitehall: phố nằm ở trung tâm London, nơi đây tọa lạc nhiều cơ quan quan trọng của nước Anh.

"Tôi rất vui khi được giúp đỡ, Sir Claud thân mến." Ông ngắt lời. "Nếu được, tôi sẽ thu xếp đến vào trưa thứ Bảy, và quay về London với bất cứ thứ gì ngài muốn tôi mang theo vào sáng thứ Hai. Rất mong được làm quen với ngài."

Tò mò thật, Poirot nghĩ, khi ông đặt ống nghe về chỗ cũ. Các đặc vụ nước ngoài có thể quan tâm đến công thức của Sir Claud, nhưng đó cũng thực sự có thể là bất kì ai đó trong chính căn nhà của nhà khoa học này? Ai chà, chắc chắn sẽ có thêm nhiều thứ được tiết lộ vào chuyến đi vào cuối tuần này.

"George ơi," ông gọi, "Hãy mang bộ com-lê vải dạ với áo khoác dự tiệc kèm chiếc quần tới tiệm giặt quần áo giúp tôi nhé. Tôi phải có những món này vào thứ sáu vì cuối tuần này tôi sẽ về nông thôn." Ông nói như thể mình sống trên Thảo nguyên Trung Á cả đời ấy. (He made it sound like the Steppes of Central Asia and for a lifetime.)

Kế đó, quay sang chiếc điện thoại, ông quay số và đợi một chút trước khi nói.

"Hastings thân mến," ông bắt đầu, "anh có muốn dành ra vài ngày thoát khỏi công việc của mình ở London không? Surrey vào thời gian nay trong năm rất dễ chịu..."

CHƯƠNG 2

Nhà của Sir Claud Amory ở Abbot's Cleve, nằm ngay rìa một thị trấn nhỏ - hay đúng hơn là một ngôi làng mọc tràn ra của Market Cleve, cách khoảng hai mươi lăm dặm về phía Đông Nam London. Căn nhà rộng lớn nhưng không phải kiểu kiến trúc biệt thự thời Victoria, được bao quanh giữa những cánh đồng quê nhẹ nhàng nhấp nhô đầy quyến rũ, đây đó toàn cây là cây. Đường lái xe vào nhà được trải sỏi, từ cổng cho đến cổng trước của Abbot's Cleve, uốn lượn qua những tán cây và bụi rậm. Một sân hiên chạy dọc phía sau nhà, cùng bãi cỏ dốc xuống một khu vườn có lẽ đã không được chăm sóc từ lâu.

Giờ là chiều thứ sáu, hai ngày sau cuộc nói chuyện điện thoại với Hercule Poirot, Sir Claud đang ngồi trong phòng làm việc ở tầng trệt phía đông căn nhà, tuy nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi và thoải mái. Bên ngoài, ánh sáng dần biến mất. Viên quản gia Tredwell của Sir Claud là một người cao ráo, có vẻ ngoài khá sầu thảm với cách cư xử chuẩn mực, đã gõ chuông thông báo dùng bữa tối vào khoảng hai, ba phút trước đó, và chắc chắn giờ này cả gia đình đang tụ họp ở phòng ăn phía bên kia đại sảnh.

Sir Claud gõ những ngón tay liên tục lên bàn, là thói quen của ông khi buộc mình đưa ra quyết định nhanh chóng. Đó là một người đàn ông có chiều cao trung bình, trạc ngũ tuần, với mái tóc hoa râm được chải ngay ngắn từ vầng trán cao vút ra sau cùng đôi mắt xanh sắc lạnh, Claud đang tỏ vẻ hoang mang, lo lắng lẫn lộn.

Có tiếng gõ cửa dè dặt, và Tredwell xuất hiện trên ngưỡng cửa phòng làm việc.

"Xin lỗi Sir Claud. Tôi tự hỏi có phải ngài đã không nghe thấy tiếng chuông –"

"À, phải, không sao đâu Tredwell. Anh có thể bảo họ tôi sẽ sang ngay không? Hãy nói tôi đang có điện thoại. Thực ra, tôi định gọi nhanh một cuộc điện thoại. Anh có thể bắt đầu phục vụ bữa ăn được rồi."

Tredwell lui ra một cách lặng lẽ, còn Sir Claud, hít một hơi thật sâu, kéo chiếc điện thoại về phía mình. Lấy trong ngăn bàn ra một quyển sổ địa chỉ nhỏ, ông tra cứu thông tin thật nhanh và nhấc ống nghe. Ông đợi một chút và sau đó bắt đầu nói.

"Tôi gọi đến từ địa chỉ 304 Market Cleve. Tôi muốn anh gửi cho tôi một số điện thoại ở London." Ông để lại số điện thoại, sau đó ngồi xuống, chờ đợi, Những ngón tay phải của Claud bắt đầu nhịp liên tục lên bàn một cách bồn chồn.

Vài phút sau, Sir Claud Amory ra dùng bữa ăn tối, ngồi vào vị trí đầu bàn của mình, xung quanh là sáu người khác đã ngồi sẵn từ trước. Bên tay phải của Sir Claud là cháu gái ông, Barbara Amory, kế bên cô là Richard - anh họ của Barbara đồng thời là người con trai duy nhất của Sir Claud. Bên phải Richard Amory là khách mời, một vị Bác sĩ người Ý tên Carelli. Tiếp đến, ở đầu bàn bên kia, đối diện với Sir Claud là Caroline Amory – chị gái ông. Một phụ nữ trung tuổi, bà đã giúp Sir Claud quản lý nhà cửa kể từ khi vợ ông mất vài năm trước. Edward Raynor - thư kí của Sir Claud, ngồi bên phải bà Amory, cùng Lucia - vợ của Richard Amory, ngồi giữa Raynor và gia chủ.

Bữa tối lần này không hẳn là dịp lễ gì cả. Caroline Amory đã rất cố gắng nói chuyện phiếm với Dr Carelli, người mà cũng chỉ trả lời bà đủ lịch sự chứ không đưa ra quá nhiều quan điểm cá nhân của mình. Khi bà quay sang nói chuyện với Edward Raynor, chàng thanh niên vốn lịch thiệp và tinh tế dễ gần ấy bị giật mình, lầm bầm xin lỗi và trông bối rối. Sir Claud vẫn ít nói trong bữa ăn như thường lệ, hoặc có khi còn hơn thế nữa. Richard Amory thỉnh thoảng gửi một cái nhìn lo lắng về phía vợ mình bên kia bàn, Lucia. Barbara Amory trông tinh thần có vẻ rất tốt, và đôi lúc có trò chuyện qua loa với dì Caroline của cô.

Trong khi Tredwell đang phục vụ món tráng miệng, Sir Claud bất chợt gọi người quản gia, nói lớn đủ để cho mọi người đang ngồi trên bàn ăn có thể nghe rõ.

"Tredwell," ông nói, " Anh có thể gọi cho nhà xe của Jackson ở Market Cleve, và yêu cầu họ cử một chiếc xe cùng tài xế đến nhà ga đón chuyến tàu số 8-50 từ London không? Một quý ông trên chiếc tàu ấy sẽ đến thăm chúng ta sau bữa ăn.

"Dạ được, thưa ngài", Tredwell trả lời và rời đi. Anh vừa ra khỏi phòng ăn thì Lucia khẽ nói lời xin lỗi, đột ngột đứng dậy và vội vã chạy ra ngoài, gần như va vào người quản gia khi anh chuẩn bị đóng cửa lại.

Băng qua đại sảnh, Lucia gấp gáp đi dọc hành lang và tiến đến căn phòng lớn ở hậu sảnh. Thư viện – nó thường được gọi như vậy – cũng được sử dụng như phòng tiếp khách. Nó mang vẻ ấm cúng hơn là một căn phòng trang nhã. Cửa sổ kiểu Pháp mở hướng lên phía sân hiên, và một cánh cửa khác dẫn đến phòng nghiên cứu của Sir Claud. Bên trên một lò sưởi lớn là bệ lò sưởi, trên đó có một chiếc đồng hồ để bàn kiểu cũ cùng vài món đổ trang trí, cũng như bình đựng đóm để châm lửa.

Đồ đạc trong thư viện gồm một giá sách cao với một hộp mạ thiếc nằm trên tầng cao nhất, một chiếc bàn có đặt điện thoại bên trên, một ghế đẩu, một bàn nhỏ với máy hát và các đĩa nhạc, một ghế sô fa nhỏ, bàn trà, một bàn thỉnh thoảng có để sách và mấy cái chặn sách trên đó, hai ghế tựa, một ghế bành và một bàn nữa để kê chậu cây bằng đồng. Nội thất nhìn chung đã lỗi thời, nhưng không đủ cổ hay đặc sắc để được trân trọng như đồ cổ.

Lucia, một người phụ nữ trẻ đẹp đương tuổi hai mươi lăm, có mái tóc đen dày buông xõa qua vai, đôi mắt nâu ánh lên đầy phấn khích nhưng giờ đây đang âm ỉ với một cảm xúc đè nèn khó xác định.

Cô ngập ngừng ở giữa phòng, sau đó băng tới cửa sổ Pháp và khẽ vén rèm cửa, nhìn ra màn đêm. Thở hắt ra như tiếng thở dài, cô tì trán lên tấm kính mát lạnh của cửa sổ và đứng lạc trong dòng suy nghĩ.

Tiếng gọi của bà Amory vang vọng cả đại sảnh, "Lucia – Lucia – cháu ở đâu thế?" Một lát sau, bà Amory bước vào phòng, một người phụ nữ lớn tuổi có phần kiểu cách lớn hơn em trai bà vài tuổi. Đi sang chỗ Lucia, bà cầm cánh tay người phụ nữ trẻ và nhấn cô xuống ghế.

" Đây, cháu yêu. Cháu hãy ngồi đây," bà nói, tay chỉ vào chiếc trường kỷ. " Một lát là cháu sẽ ổn thôi"

Khi cô ngồi xuống, Lucia nở nụ cười mệt mỏi thể hiện sự biết ơn đối với bà Caroline Amory.

"Vâng, tất nhiên", cô đồng ý. " Thật ra, đã hết rồi ạ."

Mặc dù cô nói tiếng Anh rất chuẩn, có thể là quá hoàn hảo, nhưng đôi lúc chuyển giọng lại để lộ rằng Anh ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ của cô.

"Cháu chỉ lả đi chút thôi," cô tiếp tục. " Cháu thật buồn cười làm sao. Từ trước đến nay, cháu chưa bao giờ làm điều như vậy. Cháu không thể tưởng tượng nổi sao chuyện này lại xảy ra được. Xin bác hãy quay lại, bác Caroline. Cháu ở đây khá ổn."

Cô lấy chiếc khăn trong túi xách ra khi Caroline Amory nhìn cô đầy quan tâm. Bắt gặp ánh mắt của bà, cô bỏ lại chiếc khăn tay vào túi xách và mỉm cười lần nữa.

"Cháu ổn mà," cô lặp lại. "Thật đấy."

Bà Amory trông có vẻ không tin. "Thật sự trông cháu không ổn tí nào, cháu yêu, tối nào cháu cũng thế này," bà nhận xét, lo lắng dò xét Lucia

"Thật vậy ạ?"

"Thật sự là thế", bà Amory trả lời. Bà ngồi gần Lucia trên ghế.

"Có lẽ cháu bị cảm lạnh rồi, cháu yêu," bà bồn chồn lo lắng. "Cháu biết đấy, thời tiết mùa hè ở Anh hay thất thường. Hoàn toàn không giống như cái nóng của mặt trời ở Ý, đất nước mà cháu vốn quen thuộc. Bác luôn nghĩ nước Ý là một nơi vô cùng thú vị."

"Ý", Lucia khẽ lẩm nhẩm với ánh nhìn xa xăm trong đôi mắt, khi cô đặt chiếc túi xách cạnh người. "Ý -"

"Bác biết, cháu gái bé bỏng. Cháu hẳn là buồn, nhớ về đất nước của cháu lắm. Có vẻ như là một sự đối lập khủng khiếp, thời tiết là một chuyện, còn những vấn đề khác nhau về phong tục tập quán nữa. Và chúng ta có lẽ phải chịu lạnh nhiều. Bây giờ, người Ý –"

"Không, không bao giờ. Cháu không bao giờ nhớ nước Ý. Lucia kêu lên, và phản đối kịch liệt khiến bà Amory bất ngờ. "Không bao giờ"

"Ồ, thôi nào, cháu gái, không có gì phải xấu hổ khi có cảm giác nhớ nhà cả."

"Không bao giờ!" Lucia lặp lại. "Cháu ghét Ý. Cháu luôn ghét nơi đó. Thật tuyệt vời khi cháu được ở Anh cùng với nhiều người tốt xung quanh. Thật sự là thiên đường!"

"Thật vui khi nghe cháu nói thế, cháu yêu," Caroline Amory nói, "cho dù bác biết cháu chỉ đang giữ tế nhị. Đúng là mọi người đang cố gắng làm cháu vui và cảm thấy nơi đây là nhà, nhưng đôi lúc cháu mong nhớ về đất nước của mình cũng là lẽ tự nhiên. Sau cùng thì không có người mẹ nào -"

"Làm ơn, xin bác -" Lucia ngắt lời bà, "đừng nói gì về mẹ cháu cả."

"Ừ, dĩ nhiên là không rồi, cháu yêu, nếu cháu muốn vậy ta sẽ không nhắc đến nữa. Bác không cố ý làm cháu buồn. Để bác mang cho cháu một ít muối ngửi nhé? Bác để nó ở trong phòng.

"Không, cảm ơn bác," Lucia trả lời. "Thật sự, bây giờ cháu hoàn toàn ổn."

"Cháu biết mà, không có vấn đề gì đâu," Caroline Amory vẫn khăng khăng. "Bác có một ít muối ngửi rất hay, màu hồng đáng yêu, được đặt trong một chai nhỏ xinh xắn nhất. Và mùi rất gắt. Muối Amoni clorua. Đó có phải là mùi đặc trưng cửa loại muối này không? Bác chẳng nhớ nổi nữa. Nhưng dù sao thì đó không phải là thứ mà cháu dùng để vệ sinh nhà tắm."

Lucia mỉm cười dịu dàng, nhưng không nói gì. Bà Amory đứng dậy, và dường như không thể quyết định có nên đi tìm muối ngửi hay không. Bà bước ngập ngừng ra phía sau của chiếc ghế và sắp xếp lại mấy cái nệm.

"Ừ, bác nghĩ chỉ là cơn cảm lạnh bất chợt thôi," bà tiếp tục. "Sáng nay, trông cháu hoàn toàn khỏe mạnh mà. Có khi nào là do kích động quá khi gặp anh bạn người Ý của cháu không, Bác sĩ Carelli ấy? Cậu ta xuất hiện bất ngờ nhỉ? Chắc hẳn cháu sốc lắm."

Richard – chồng của Lucia bước vào thư viện từ lúc Caroline Amory còn đang nói. Bà Amory không nhận ra sự xuất hiện của anh, vì thế bà không hiểu vì sao những lời mình nói lại làm Lucia buồn đến vậy, cô ngả người ra sau, nhắm mắt lại và run lên.

"Ôi, cháu yêu, gì thế này?" bà Amory hỏi. " Cháu lại lả đi à?"

Richard Amory đóng cửa và tiến đến hai người phụ nữ. Một chàng trai trẻ tuấn tuấn người Anh, chừng ba mươi tuổi, có mái tóc màu cát cháy, anh ta có chiều cao trung bình, cơ thể có vẻ săn chắc, cơ bắp.

"Bác Caroline ơi, bác hãy ra dùng nốt bữa tối của mình đi ạ" Anh nói với bà Amory. "Lucia ở với cháu là ổn mà. Cháu sẽ chăm sóc cô ấy."

Bà Amory dường như vẫn do dự.

"Ồ, Richard đấy à. Được rồi, có lẽ ta nên quay trở lại phòng ăn." Bà nói rồi miễn cưỡng bước về phía cửa chính dẫn ra đại sảnh. "Các cháu biết cha của các cháu ghét bị quấy rầy như thế nào mà. Nhất là khi có khách ở đây. Không phải cứ như lúc có khách là người thân thiết của nhà ta đâu."

Bà quay lại phía Lucia.

"Cháu yêu, chẳng phải ta chỉ nói là thật lạ lùng khi Dr Carelli bất ngờ xuất hiện ở như thế mà không biết cháu đang sống ở vùng này. Cháu chỉ đơn giản là tình cờ gặp cậu ta trong thị trấn, và mời đến đây. Đây chắc chắn là một bất ngờ lớn phải không, cháu yêu?"

"Đúng thế ạ," Lucia trả lời.

"Bác vẫn hay nói là trái đất này thật tròn mà." Bà Amory tiếp tục. "Bạn cháu là có vẻ rất đẹp trai đấy Lucia."

"Bác nghĩ thế à?"

"Tất nhiên, một gương mặt ngoại quốc," Bà Amory thừa nhận, "nhưng rõ ràng rất đẹp trai. Và cậu ta nói tiếng Anh rất giỏi."

"Vâng. Cháu cho là vậy."

Bà Amory có vẻ muốn tiếp tục nói về chủ đề này.

"Thật sự là cháu không biết gì," bà hỏi, "về việc cậu ta ở trong vùng này à?"

"Cháu không biết gì cả," Lucia trả lời dứt khoát.

Richard Amory đang chăm chú nhìn vợ từ nãy đến giờ. Anh lặp lại.

"Đúng là một bất ngờ thú vị dành cho em, Lucia," anh nói.

Lucia nhanh chóng quay sang nhìn vào chồng, nhưng không đáp lời. Bà Amory tươi cười.

"Phải, đúng thế," bà tiếp lời. "Cháu yêu, cháu biết rất rõ cậu ta khi ở Ý à? Cậu ta có phải là bạn tốt của cháu không? Bác nghĩ là có."

Đột nhiên, trong giọng Lucia có chút cay đắng.

"Anh ta chưa bao giờ là bạn cháu." cô nói.

"Ồ, Bác hiểu rồi. Chỉ là một người quen. Nhưng mà cậu ta đã nhận lời mời hào phóng của cháu ở lại đây. Bác thường nghĩ rằng người nước ngoài sẽ có khuynh hướng hơi tự cao. Tất nhiên, bác không có ý nói cháu đâu, cháu yêu -" Bà Amory chợt dừng lại và đỏ mặt. "Ý bác là, dù gì cháu cũng mang nửa dòng máu Anh."

Bà nhìn cháu trai của mình với ánh nhìn tinh quái và tiếp tục, "Thật ra, bây giờ con bé cũng là người Anh rồi đúng không, Richard ?"

Richard Amory không đáp lại ánh mắt của người bác, nhưng lại bước ra lối đi và mở cửa chính, như thể mời bà Amory quay lại với mọi người ngoài phòng ăn.

"Được rồi" bà nói và bước những miễn cưỡng bước về phía cửa, "nếu cháu đã chắc chắn như thế thì bác cũng không thể làm gì được nữa -"

"Không, không phải." Giọng điệu Richard vội vã như cách anh mở cửa cho bà. Với cử chỉ ngập ngừng và nụ cười lo âu cuối dành cho Lucia, bà Amory rời đi.

Thở phào nhẹ nhõm, Richard đóng cửa và quay lại với vợ.

"Bác ấy cứ liến thoắng mãi," anh than phiền. "Anh cứ nghĩ bác sẽ không bao giờ chịu đi."

"Bác ấy chỉ đang cố gắng đối xử tốt thôi mà, Richard."

"Ồ, anh dám tin là vậy. Nhưng bác ấy cố quá sức rồi."

"Em nghĩ do bác mến em," Lucia lẩm bẩm.

"Sao cơ ? Tất nhiên rồi." Giọng Richard lơ đãng. Anh đứng quan sát vợ mình một cách kỹ lưỡng. Trong khoảnh khắc ấy là sự im lặng đáng sợ. Sau đó, bước đến gần cô, Richard nhìn xuống Lucia.

"Em có chắc không cần anh làm gì cho em chứ ?"

Lucia ngước mặt lên, nở nụ cười gượng gạo.

"Thật sự không cần đâu, cảm ơn anh. Hãy quay lại phòng ăn đi. Giờ em cực kỳ ổn mà."

"Không," người chồng trả lời. "Anh sẽ ở lại bên cạnh em."

"Nhưng em đang muốn một mình."

Có một khoảng lặng giữa hai người. Sau đó, Richard tiếp tục nói, trong khi anh vòng ra phía sau trường kỷ. "Chiếc nệm này có thoải mái không ? Em có muốn thêm cái khác để gối đầu không?"

"Em thoải mái lắm rồi," Lucia cự. "Sẽ thật thoải mái nếu có thể hít thở thêm không khí. Anh mở cửa sổ giúp em được không?"

Richard di chuyển đến cánh cửa sổ kiểu Pháp và lần mò mở then cửa.

"Chết tiệt!" anh kêu lên. "Ông già khóa nó bằng một trong những thứ sáng chế lằng nhằng của ổng. Anh không thể mở mà không có chìa khóa."

Lucia nhún vai.

"Thôi, được rồi," cô thì thầm, "không sao đâu."

Richard quay lại và ngồi vào chiếc ghế cạnh bàn. Anh nghiêng người về phía trước, đặt khuỷu tay lên đùi.

"Lão già tài thật. Luôn phát minh ra cái này, cái kia."

"Phải", Lucia đáp lời. "Ông ấy chắc hẳn kiếm dược rất nhiều tiền từ những phát minh ấy."

"Hàng đống tiền", Richard ủ rũ nói. "Nhưng tiền không phải là thứ hấp dẫn ông ta. Mấy nhà khoa học đều cùng một giuộc. Luôn luôn theo đuổi thứ gì đó vô cùng viển vông, những thứ mà chả đem lại lợi lộc gì cho ai ngoài bản thân họ. Ném bom nguyên tử, vì chúa!"

"Nhưng cha của anh, ông ấy là một người đàn ông vĩ đại, tất cả bọn họ cũng vậy."

"Anh cho rằng ông ấy là một trong những nhà khoa học hàng đầu thời nay," Richard miễn cưỡng nói. "Nhưng ông ấy chỉ biết đến mỗi quan điểm của chính ông mà thôi." Anh nói với sự cáu kỉnh ngày càng tăng. "Ông ta đối xử với anh rất tệ."

"Em biết," Lucia đồng ý. "Ông ấy giữ anh ở đây, trói buộc anh trong căn nhà này, như thể tù nhân. Tại sao cha lại muốn anh từ bỏ quân ngũ và về đây sống vậy?"

"Anh cho rằng," Richard nói. "Cha nghĩ anh có thể giúp ông ấy trong công việc. Nhưng ông ấy nên biết là anh vô tích sự trong chuyện này. Chỉ là anh không có kiến thức gì để làm mấy chuyện khoa học."

Anh nhấc ghế xích lại gần Lucia và lại ngả người về trước.

"Ôi trời, đôi lúc nó khiến anh lại cảm thấy khá tuyệt vọng, Lucia à. Cha ở đó, bị cuốn vào vòng xoáy của tiền bạc, ông dành tất cả vào những thí nghiệm chết tiệt của mình. Kiểu gì em chẳng nghĩ ông ta sẽ để lại cho anh thứ gì đấy, thứ mà thuộc về anh trong tương lai, và cho phép anh thoát khỏi chốn này."

Lucia ngồi thẳng dậy.

"Tiền!"cô kêu lên một cách cay đắng. "Mọi thứ đều xoay quanh thứ đó. Đồng tiền!"

"Anh như con ruồi sa vào mạng nhện," Richard tiếp lời. "Bất lực. Hoàn toàn bất lực."

Lucia nhìn anh với ánh mắt khẩn nài.

"Richard ơi," cô kêu lên. "Em đây cũng thế."

Chồng cô nhìn cô với ánh mắt cảnh giác. Anh định nói thì Lucia tiếp tục, "Em cũng thế. Bất lực. Và em muốn đi khỏi đây."

Cô bất chợt đứng dậy và tiến lại phía anh, nói trong trạng thái kích động. "Richard, vì Chúa, hãy mang em đi trước khi quá trễ!"

"Đi xa?" Giọng Richard trống rỗng và tuyệt vọng. "Đi đâu?"

"Bất cứ đâu," Lucia trả lời với sự kích động ngày càng tăng. "Bất cứ đâu trên thế gian này! Miễn là xa ngôi nhà này. Quan trọng là tránh xa ngôi nhà này! Em sợ lắm, Richard à, em cực kì sợ hãi. Có kẻ theo dõi -" cơ nhìn qua vai như thể cô có nhìn thấy chúng "- kẻ theo dõi ở khắp nơi."

Richard vẫn ngổi đấy. "Làm sao chúng ta có thể đi mà không có tiền?" anh hỏi. Anh nhìn lên Lucia, đau đớn nói tiếp, "Một người đàn ông không thể đối xử tốt với phụ nữ nếu không co gì trong tay, đúng không, Lucia? Đúng không?"

Cô lùi ra xa anh. "Sao anh lại nói thế? Cô hỏi. "Anh nói vậy là có ý gì?"

Richard vẫn nhìn cô trong im lặng, khuôn mặt căng thẳng nhưng vô cảm một cách lạ lùng.

"Có chuyện gì xảy ra tối nay với anh thế, Richard?" Lucia hỏi. "Anh khác lắm, sao sao ấy -"

Richard nhỏm dậy khỏi ghế. "Thật ư?"

"Vâng – có chuyện gì vậy?"

"Được rồi -" Richard bắt đầu, rồi sau đó chợt dừng lại. "Không. Không có gì cả."

Anh quay lưng lại với cô, nhưng Lucia kéo anh lại và đặt tay lên vai chồng. "Richard yêu dấu -" cô mở lời. Anh nắm lấy tay cô trên vai mình.

"Richard," cô lặp lại.

Đặt tay ra sau lưng, Richard nhìn xuống cô.

"Em nghĩ anh là một kẻ ngu ngốc hết chỗ nói sao?" anh hỏi. "Em tưởng rằng anh không thấy gã bạn cũ của em thả một tờ giấy vào tay em hồi tối à?"

"Ý anh là anh nghĩ rằng –"

Anh ngắt lời cô một cách dữ dội. "Tại sao em lại ra ngoài khi đang dùng bữa tối? Em không hề cảm thấy chóng mặt hay mệt mỏi. Tất cả chỉ là giả vờ. Em muốn một mình để đọc tờ giấy đó bởi em không thể đợi lâu hơn. Em gần như phát điên lên trong vì sốt ruột, bởi em không thể nào thoát khỏi bọn anh. Đầu tiên là bác Caroline – kế đến là anh." Đôi mắt anh lạnh lùng cùng nỗi đau đớn và giận dữ khi nhìn cô.

"Richard," Lucia nói, "anh mất trí rồi. Chuyện này thật ngớ ngẩn. Anh không thể nào nghĩ em quan tâm Carelli chứ! Sao có thể ? Sao anh có thể thật sự nghĩ vậy ? Anh à, ôi Richard yêu dấu, người em yêu – là anh. Không ai khác ngoài anh. Anh phải biết điều này chứ."

Richard dán chặt mắt lên người cô. "Có gì trong tờ giấy?" anh khẽ hỏi.

"Không – không có gì cả."

"Thế thì đưa anh xem."

"Em – em không thể," Lucia nói. "Em đã xé rồi."

Một nụ cười lạnh lùng thoáng xuất hiện rồi biến mất trên khuôn mặt Richard.

"Không, em chưa xé đâu," anh nói. "Hãy đưa nó đây."

Lucia im lặng một hồi. Cô nhìn anh với ánh mắt khẩn nài.

Sau đó, cô hỏi, "Richard, anh không thể tin em sao?"

"Anh có thể dùng vũ lực để tước nó khỏi em," anh rít qua hàm răng nghiến chặt, khi anh tiến thêm một bước về phía cô. "Đừng để anh phải làm thế -"

Lucia lùi lại với tiếng khóc yếu ớt. Đôi mắt vẫn nhìn vào khuôn mặt Richard như thể anh sẵn lòng tin cô. Đột nhiên anh quay đi.

"Không," anh nói, như nói với chính mình. "Anh cho rằng có những chuyện người ta không thể làm một mình được."

Anh quay lại đối mặt với vợ. "Nhưng, nhờ ơn Chúa, anh sẽ làm rõ với Carelli."

Lucia nắm chặt lấy tay anh và kêu lên hoảng sợ. "Không, Richard, anh không được làm thế. Anh không thể. Đừng làm thế, em xin anh, đừng làm thế."

"Em đang lo sợ cho tình nhân của mình sao?" Richard cười nhếch mép.

"Anh ta không phải là người tình của em," Lucia chối cãi dữ dội.

Richard nắm lấy vai của cô. "Bây giờ có lẽ là chưa," anh nói. "Có lẽ anh ta –"

Nghe tiếng nói bên ngoài đại sảnh, anh khựng lại. Cố gắng kiềm chế bản thân, anh đến bên lò sưởi, lấy ra hộp thuốc lá và bật lửa, châm một điều thuốc.

Khi cánh cửa của đại sảnh mở ra và giọng nói ngày một lớn hơn, Lucia đi đến chiếc ghế mà Richard vừa rời đi lúc nãy, ngồi xuống. Mặt cô trắng bệch, hai tay nắm chặt vào nhau.

Bà Amory bước vào, cùng với cô cháu gái Barbara, một người phụ nữ hai mươi mốt tuổi vô cùng trẻ trung và hiện đại.

Vung vẩy chiếc túi xách trong tay, Barbara băng qua căn phòng tiến về phía cô.

"Chào Lucia, chị ổn không?" cô hỏi

CHƯƠNG 3

Lucia gượng cười khi Barbara tiến lại cô. "Ừ, cảm ơn em," cô trả lời. "Chị hoàn toàn ổn. Thật đấy."

Barbara nhìn xuống mái tóc đen xinh đẹp của người chị dâu. "Chị không có tin vui nào cho Richard sao?" cô hỏi. "Tất cả chỉ có vậy thôi à?"

"Tin vui? Tin vui gì cơ? Chị không hiểu ý em," Lucia phản kháng.

Barbara đan hai tay vào nhau và làm động tác lắc lư như thể đang bồng con. Lucia chỉ phản ứng bằng một nụ cười buồn và lắc đầu. Tuy nhiên, bà Amory, ngồi sụp xuống ghế trong sự sự ủ rũ. "Thật đấy, Barbara!" bà nhắc.

"Ờ thì," Barbara nói, "chị biết đấy, chuyện gì phải đến sẽ đến thôi."

Bà Amory lắc đầu quầy quậy. "Ta không tài nào hiểu nổi các cô gái trẻ ngày nay ra sao," bà nói chung chung. "Khi ta còn trẻ, chúng ta không nói chuyện thẳng thắn về bổn phận làm mẹ, và không bao giờ cho phép nhắc đến –" Bà dừng lại khi có tiếng mở của và nhìn quanh thì thấy Richard rời khỏi phòng.

"Cháu làm Richard ngượng đấy," bà tiếp tục, nói với Barbara, "và ta không có gì bất ngờ cả."

"Thôi nào, bác Caroline," Barbara trả lời, "Bác thuộc thời Victoria, bác biết mà, sinh ra khi Nữ hoàng vẫn còn hai mươi năm tuổi đời phía trước. Bác là hình mẫu đặc trưng hoàn toàn cho thế hệ ấy, và cháu dám nói rằng cháu đang là chính mình."

"Ta không nghi ngờ gì về những gì ta thích -" bác cô bắt đầu, chỉ đến khi bị cô cháu gái cười khúc khích ngắt lời. Barbra nói, "Cháu nghĩ những người thuộc triều đại Victoria rất tuyệt diệu và phi thường. Người ta tưởng tượng rồi nói với trẻ con rằng các em bé được tìm thấy dưới bụi cây lý gai! Cháu nghĩ điều này dễ thương đấy chứ."

Cô lục lọi trong túi xách tìm thuốc lá và bật lửa, rồi châm thuốc. Cô chuẩn bị nói nữa thì bà Amory ra dấu im lặng.

"Ôi, đừng ngớ ngẩn thế nữa, Barbara. Ta đang rất lo lắng cho đứa cháu tội nghiệp này, và ta mong rằng cháu đừng đem ta ra làm trò cười nữa."

Lucia đột nhiên suy sụp và bắt đầu khóc. Cố gắng lau những giọt nước mắt, cô nói trong nức nở, "Mọi người thật tốt với cháu. Trước giờ không ai đối xử tốt với cháu cho đến khi cháu đến đây và cưới Richard. Thật tuyệt vời khi được ở đây với mọi người. Cháu không thể nào ngừng xúc động được, cháu-"

"Nào, nào," bà Amory thì thầm, đứng dậy và đến chỗ Lucia. Bà vỗ về lên vai Lucia. "Nào, nào, cháu yêu. Bác hiểu ý cháu mà – cả cuộc đời sống ở nước ngoài – là điều không thích hợp nhất cho một cô gái trẻ. Không phải là cách giáo dục đúng đắn, và tất nhiên mỗi nơi sẽ có quan niệm riêng về vấn đề này. Thôi nào. "

Lucia đứng dậy và dường như không đứng vững. Cô để bà Amory dìu đến chiếc trường kỷ và ngồi ở một đầu trong khi bà Amory vỗ vỗ những chiếc nệm xung quanh rồi ngồi cạnh cô. "Chắc hẳn cháu rất buồn, cháu yêu. Nhưng cháu phải cố gắng quên về những gì ở Ý. Mặc dù, tất nhiên, các hồ nước ở Ý rất thú vị vào mùa xuân, bác nghĩ vậy đấy. Rất thích hợp cho các kì nghỉ, nhưng theo lẽ tự nhiên, người ta sẽ không muốn sống ở đấy. Giờ thì đừng khóc nữa, cháu yêu."

"Cháu nghĩ chị ấy cần một chút rượu mạnh," Barbara đề nghị, ngồi lên chiếc bàn trà, chăm chú nhìn vào mặt Lucia nhưng không hề có chút cảm thông nào. "Nhà này tệ hại quá, bác Caroline ơi. Nó lỗi thời lắm rồi. Bác không bao giờ thấy nổi một ly cocktail Ma ở đây đâu. Chẳng có gì ngoài vang Sherry hay Whisky trước bữa tối và rượu mạnh sau đó. Richard chẳng thể pha nổi một ly Manhattan tươm tất, và chỉ dám xin Edward Raynorand một ly Whisky chua thôi. Bây giờ thứ thật sự có thể kéo Lucia bình thường trở lại ngay lập tức là một ly Satan's Whisker.

Bà Amory tỏ vẻ mặt hốt hoảng về phía cô cháu gái, thắc mắc với giọng kinh hãi, "Satan's Whisker là thứ gì mới được?"

"Khá dễ để thực hiện, nếu bác có nguyên liệu," Barbara trả lời. "Chỉ đơn thuần là một chút rượu mạnh và một loại rượu có mùi bạc hà với tỉ lệ bằng nhau, nhưng không được quên một lát ớt đỏ. Đó là thứ vô cùng quan trọng. Nó cực kỳ tuyệt vời và đảm bảo là bác sẽ sảng khoái lắm."

"Barbara, cháu biết là ta không tán thành những chất kích thích có cồn mà," Bà Amory rùng mình thốt lên. "Người cha đáng kính của ta luôn bảo -"

"Cháu không biết ông nói gì," Barbara trả lời, "nhưng chắc hẳn mọi người trong nhà đều biết rằng Ông chú Vĩ đại Algernon có tiếng là một người đã từng uống một lúc ba chai rượu."

Lúc đầu trông bà Amory như muốn nổ tung, nhưng rồi một nụ cười nhẹ xuất hiện trên môi, và tất cả nhưng gì bà nói là, "Các quý ông thì khác."

Barbara không ý kiến gì về vấn đề này. "Họ đâu có gì khác đâu," cô nói. "Bất luận thế nào, cháu cũng không thể tưởng tượng được tại sao họ lại được phép khác biệt như thế. Đơn giản là họ không bị chỉ trích vào thời đó thôi." Cô lấy từ túi xách ra một chiếc gương nhỏ, bông phấn và son. "Chà, trông chúng ta thế nào?" cô tự hỏi. "Ôi, chúa ơi!" Và cô bắt đầu tô son.

"Thật tình, Barbara," bà bác nói, "Ta thực mong cháu đừng thoa quá nhiều cái thứ màu đỏ đó lên môi. Màu này rực quá."

"Cháu muốn thế mà," Barbara trả lời, vẫn tiếp tục trang điểm cho xong. "Dù gì, cháu cũng tốn 7.6 bảng Anh để mua."

"Tận bảy đồng và 6 xu! Thật là lãng phí tiền một cách đáng hổ thẹn, chỉ cho –"

"Cho 'Kissproof', bác Caroline ạ."

"Cháu nói gì cơ?"

"Một loại son. Có tên là 'Kissproof'."

Bà khụt khịt vẻ bất đồng. "Tất nhiên, ta biết," bà nói, "nếu môi ai dễ bị nứt nẻ khi trời hanh khô, cũng nên dùng một chút dưỡng, như Lanoline chẳng hạn. Ta luôn dùng -"

Barbara ngắt lời. "Bác Caroline ơi, hãy lấy của cháu này, một người con phụ nữ đơn giản không thể có quá nhiều son được. Dù sao, cô ấy cũng không bao giờ biết được mình đã mất bao nhiêu tiền trong chiếc taxi về nhà." Khi cô nói, cô đặt lại gương, bông phấn và son vào túi xách.

Bà Amory trông bối rối. "Ý cháu là sao, 'trong chiếc taxi về nhà ?' ấy" bà hỏi. "Ta không hiểu lắm. "

Barbara đứng dậy, bước đến sau chiếc trường kỷ, ngả người về phía Lucia. "Bác đừng bận tâm. Lucia hiểu mà, đúng không, chị yêu?" cô hỏi, cù nhẹ vào cằm Lucia.

Lucia Amory ngây người nhìn xung quanh. "Chị xin lỗi," cô nói với Barbara, Nãy giờ chị không để ý. Em vừa nói gì thế?"

Sự chú ý của bà lại dồn vào Lucia một lần nữa, Caroline Amory quay lại chủ đề về sức khỏe của cô gái trẻ. "Cháu biết đấy, cháu yêu" bà nói, "Bác thật sự rất lo cho cháu."

Ánh nhìn của bà chuyển từ Lucia sang Barbara. "Chị cháu nên dùng gì đó, Barbara. Bây giờ chúng ta có gì nhì? Muối ngửi tất nhiên là thứ rất tốt. Không may thay, Ellen đã bất cẩn làm vỡ lọ muối ấy của ta khi dọn phòng sáng nay."

Barbara mím môi suy nghĩ một hồi. "Cháu biết," cô kêu lên. "Mấy hiệu thuốc!"

"Hiệu thuốc? Ý cháu là sao? Đó là gì thế?" Bà Amory hỏi.

Barbara tiến đến ngồi xuống bên cạnh bác mình. "Bác có nhớ," cô nhắc. "Những thứ của Edna"

Mặt bà Amory tươi tỉnh lên. "À, có, tất nhiên!"

Quay sang Lucia, bà nói, "Ta mong cháu được gặp Edna, cháu gái lớn của ta, chị của Barbara. Con bé đã sang Ấn Độ cùng chồng - ôi, cũng phải ba tháng trước khi cháu đến đây với Richard. Edna đúng là một cô gái có năng lực."

"Cực kỳ có năng lực," Barbara thừa nhận. "Chị ấy vừa sinh đôi. Vì ở Ấn Độ không có bụi lý gai nào, nên cháu nghĩ chị ấy hẳn là đã tìm thấy chúng dưới cây xoài đôi."

Bà Amory cho phép mình nở một nụ cười. "Im nào, Barbara," bà nói. Sau đó, quay lại với Lucia, bà tiếp tục, "Như ta đã nói, cháu yêu, Edna được đào tạo làm người bào chế thuốc trong chiến tranh. Con bé làm việc tại bệnh viện của chúng ta ở đây. Cháu biết đấy, trong thời chiến, người ta đã biến Town Hall thành bệnh viện. Một vài năm sau chiến tranh, đến tận khi lấy chồng, Edna vẫn tiếp tục làm việc ở phòng cáp phát thuốc tại Bệnh viện Hạt. Edna có vốn kiến thức sâu rộng về lĩnh vực liên quan đến thuốc. Bác dám chắc đến giờ vẫn vậy. Những kiến thức đó chắc chắn là vô giá với nó ở Ấn Độ. Nhưng mà ta đang noi tới đâu? À, phải rồi - khi con bé rời đi. Chúng ta đã làm gì với những lọ thuốc của nó nhỉ?"

"Cháu nhớ rất rõ," Barbara nói. "Nhiều đồ cũ của Edna từ phòng cấp phát thuốc đều được đóng trong thùng. Chúng đáng lẽ phải được phân loại và gửi đến bệnh viện, nhưng mọi người quên mất, hay ít nhất thì không ai động đến. Chúng được cất trên gác mái, và chúng chỉ xuất hiện lại khi Edna xếp đồ chuẩn bị sang Ấn Độ. Những thứ đó ở trên này –" cô chỉ tay về phía giá sách – "và ai cũng ngó lơ, chẳng buồn sắp xếp lại."

Cô đứng dậy, mang ghế của cô tới chỗ giá sách, đứng lên đó, với tay nhấc xuống chiếc hộp mạ thiếc màu đen trên cùng.

Bỏ ngoài tai tiếng lẩm bẩm của Lucia "Em à, đừng lo lắng quá, chị thật sự không cần gì đâu," Barbara mang cái hộp ra chiếc bàn nằm giữa phòng và đặt nó xuống.

"Được rồi," cô nói, "ít ra bây giờ chúng ta có thể xem qua những thứ mà em đã mang xuống." Cô mở hộp. "Ôi chị yêu, đây là bộ sưu tập đa dạng," cô nói trong khi lấy ra hàng loạt chai lọ khác nhau, "Iot, thuốc Fria's Balsam (một dung dịch cồn dùng bôi trực tiếp lên da để giảm kích ứng, hoặc pha nước nóng làm chất hít có hoạt tính), thứ gì đó có tên Tinct. Thẻ tên Công ty Castor oil." Cô nhăn mặt.

"A, bây giờ chúng ta sẽ đến với những món hàng nóng," cô la lên trong khi lấy ra khỏi hộp một số ống thủy tinh nhỏ màu nâu.

"Atropine, morphine, strychnine," cô đọc từ các nhãn. "Cẩn thận đấy, bác Caroline. Nếu bác khơi lên cơn giận dữ của cháu, cháu sẽ đầu độc tách cà phê của bác bằng strychnine, và bác sẽ chết trong sự đau đớn khủng khiếp nhất." Barbara làm cử chỉ đe dọa với người bác đã ngăn cản cô tiếp xúc với những thứ này bằng tiếng khịt mũi

(1)Atropine:là một loại thuốc có cơ chế tác dụng tạo ra những biến đổi trong cơ thể như giảm co thắt cơ và tiết dịch. Atropine được sử dụng để giúp giảm tiết nước bọt, chất nhầy hoặc các chất tiết khác trong đường thở của người bệnh khi phẫu thuật. Nó còn được sử dụng để diều trị cơ thắt dạ dày, ruột, bàng quang hoặc cơ quan khác. Đôi khi atropine còn được sử dụng như 1 loại thuốc giải độc để điều trị 1 số loại ngộ độc.

(2) Strychine:là một loại thuốc bổ thần kinh, bổ cơ, có hiệu lực với bệnh bại liệt chân tay, bệnh đái dắt, bệnh kết ruột bàng quang. Liệt thàn kinh, bắp thịt mỏi mệt, người già ốm dậy, kích thích tiêu hóa cho người dưỡng bệnh... Tuy nhiên nếu sử dụng quá liều có thể dẫn đến ngộ độc strychnine và gây tử vong (co giật liên hồi cho tới chết)

"Vậy thì, chẳng có thứ gì ở đây mà chúng ta có thể dùng làm thuốc bổ cho Lucia cả, chắc chắn là vậy," cô cười khi cô bắt đầu xếp những chai và ống thuốc trở lại vào trong hộp thiếc. Cô đang cầm một ống morphine trên tay phải thì cánh cửa đại sảnh mở ra và Tredwell dẫn Edward Raynor, tiến sĩ Carelli và Sir Claud Amory đi vào.

Thư kí của Sir Claud là Edward Raynor bước vào trước, đó là một người đàn ông trẻ ngoại hình bình thường, gần ba mươi tuổi. Anh băng qua chỗ Barbara và đứng nhìn chiếc hộp.

"Xin chào, anh Raynor. Có hứng thú với chất độc không?" cô hỏi anh trong khi tiếp tục cất những lọ thuốc.

Bác sĩ Carelli, cũng lại gần chiếc bàn. Là người có nước da ngăm đen tuổi chừng bốn mươi, Carelli mặc một dạ phục vô cùng thích hợp. Cử chỉ của anh rất khéo léo, và khi anh nói, một giọng Ý nhẹ nhàng nhất vang lên. "Chúng ta có gì ở đây vậy, cô Amory thân mến?" anh thắc mắc.

Sir Claud dừng lại ở cửa để nói với Tredwell.

"Anh hiểu những chỉ dẫn của tôi rồi chứ?" ông hỏi, và hài lòng với câu trả lời: "Rất rõ, thưa Sir Claud." Tredwell rời phòng, và Sir Claud đi đến bên vị khách của mình.

"Mong anh thứ lỗi cho, Dr Carelli," ông nói, " vì tôi phải vào phòng làm việc ngay. Tôi có vài lá thư quan trọng phải trả gửi đi tối nay. Anh Raynor đi cùng tôi nhé?" Người thư kí đi theo ông chủ của mình, sau đó cả hai vào phòng làm việc của Sir Claud bằng cánh cửa thông hai phòng. Khi cửa vừa đóng lại sau lưng, Barbara bất ngờ làm rơi ống thuốc cô đang cầm trong tay. 

CHƯƠNG 4

Tiến sĩ Carelli bước nhanh về phía trước và nhặt ống thuốc mà Barbara đã đánh rơi. Liếc nhìn nó trước khi đưa lại cho cô với một cái nghiêng mình lịch sự, anh kêu lên: "Chào cô, đây là thứ gì vậy? Là Morphine!" Anh cầm một ống khác trên bàn lên. "Và Strychnine! Tôi xin mạn phép hỏi thưa quý cô thân mến, cô lấy những ống thuốc nhỏ gây chết người này ở đâu vậy?" Anh bắt đầu kiểm tra bên trong chiếc hộp thiếc.

Barbara nhìn người đàn ông Ý tinh tế với sự chán ghét " Chiến lợi phẩm của chiến tranh," cô trả lời ngắn gọn, cười mím môi. Lo lắng đứng dậy, Caroline Amory đến gần Bác sĩ Carelli.

"Chúng thật sự không quá độc, đúng không, thưa bác sĩ? Ý của tôi là nó sẽ không gây hại cho ai cả, phải không?" bà hỏi. "Chiếc hộp đó đã ở trong nhà nhiều năm liền rồi. Chắc chắn là nó vô hại, phải không? "

"Tôi nên nói," bác sĩ Carelli lạnh nhạt trả lời, "rằng với một lượng nhỏ có ở đây, bà có thể giết chết khoảng mười hai người đàn ông khỏe mạnh đấy. Tôi không biết bà coi thế nào mới là có hại."

"Ôi, trời ơi," Bà Amory há hốc miệng vì khiếp sợ, quay lại ghế và ngồi xuống một cách nặng nhọc.

"Đây, ví dụ," Carelli tiếp tục, nói với tất cả mọi người có mặt ở đó. Anh cầm lên một ống và đọc chậm rãi trên nhãn dán. "'Strychnine hydrochloride; 4.05mg' Chỉ cần dùng bảy hoặc tám viên thuốc nhỏ này, và cô sẽ chết một cái chết rất khó chịu. Một cách rời khỏi thế giới cực kì đau đớn." Anh cầm một ống khác lên.

"'Atropine sulphate.' Hiện nay, ngộ độc atropine đôi lúc rất khó để phân biệt được với ngộ độc thực phẩm. Nó cũng là một cái chết rất đau đớn."

Đặt lại hai ống mà anh đang cầm trên tay, anh nhấc lên một ống khác. "Bây giờ -" anh tiếp tục, nói một cách chậm rãi và thận trọng, "ở đây chúng ta có hyoscine hydrobromide, 0.48mg. Nghe không có gì nhiều nhặn phải không? Tuy nhiên, tôi đảm bảo với bà rằng, bà chỉ cần uống một nửa viên thuốc màu trắng trong ống này, và -" anh làm một cử chỉ sinh động. "Sẽ không đau đớn, không đau chút nào. Chỉ là một giấc ngủ nhanh và hoàn toàn không mộng mị, nhưng giấc ngủ đó sẽ không bao giờ kết thúc."

Anh bước đến bên Lucia và giơ ống thuốc về phía cô, như thể mời cô kiểm tra nó. Khuôn mặt anh nở nụ cười, nhưng ánh mắt thì không.

Lucia nhìn chăm chăm vào cái ống như bị mê hoặc. Vươn tay ra, cô nói với giọng gần như bị thôi miên. "Một giấc ngủ nhanh và hoàn toàn không mộng mị -" cô lẩm bẩm, với lấy ống thuốc.

Thay vì đưa nó cho cô, bác sĩ Carelli liếc nhìn Caroline Amory với ánh mắt nghi hoặc. Người phụ nữ ấy rùng mình và trông kiệt sức, nhưng không nói gì. Với một cái nhún vai, Carelli quay lưng lại với Lucia, tay vẫn cầm ống thuốc chứa hyoscine hydrobromide.

Cánh cửa dẫn vào đại sảnh mở ra, và Richard bước vào. Không nói câu nào, anh đi thẳng tới ghế đẩu cạnh bàn và ngồi xuống. Theo anh vào phòng là Tredwell, tay mang theo khay đựng bình cà phê, tách và đĩa. Đặt khay lên bàn uống nước, Tredwell rời phòng trong khi Lucia tới ngồi trên trường kỷ và rót cà phê.

Barbara sang chỗ Lucia, lấy hai tách cà phê trên khay, sau đó qua bên này đưa cho Richard một tách, giữ cho mình một tách. Trong lúc ấy thì bác sĩ Carelli đang bận rộn đặt lại những chiếc ống vào hộp thiếc trên chiếc bàn giữa phòng.

"Cậu biết đấy," bà Amory nói với Carelli, "cậu làm tôi sởn gai ốc với bài diễn thuyết về giấc ngủ nhanh, không mộng mị và cái chết không mấy dễ chịu, bác sĩ ạ. Tôi cho rằng, là một người Ý, cậu biết rất nhiều về các chất độc đúng không?"

"Quý bà thân mến," Carelli cười, "điều đó chẳng phải thật bất công sao – nói sao nhỉ - không hợp lý cho lắm? Tại sao là người Ý thì sẽ biết nhiều về chất độc hơn người Anh? Tôi vừa nghe ý đó," anh tiếp tục nói đùa, "chất độc ấy là vũ khí của phụ nữ, hơn là của đàn ông. Có lẽ tôi nên hỏi bà -? À, chắc quý bà thân mến đây đang nghĩ về một người phụ nữ Ý phải không? Có thể bà đang muốn ám chỉ đến người nhà Borgia. Phải không nào?" Anh ta lấy một tách cà phê từ Lucia tại bàn và đưa cho bà Amory, rồi quay lại lấy một tách khác cho mình.

"Lucrezia Borgia – một kẻ đáng sợ! Phải, tôi cho rằng đó là người tôi đang liên tưởng đến," bà Amory thừa nhận. "Tôi đã từng có những cơn ác mộng về bà ấy khi ta còn nhỏ, cậu biết đấy. Tôi tưởng tượng ra bà ta trông rất xanh xao nhợt nhạt, nhưng cao và với mái tóc đen tuyền giống như đứa cháu gái yêu Lucia của chúng ta."

Bác sĩ Carelli tiến đến bà Amory cùng lọ đường trên tay. Bà lắc đầu từ chối, và anh trả lọ đường lại khay cà phê. Richard Amory đặt tách cà phê xuống, lấy tờ tạp chí trên bàn và bắt đầu đọc lướt qua, trong khì bác của anh vẫn tiếp tục chủ đề về Borgia.

"Phải, những cơn ác mộng khủng khiếp mà ta đã từng mơ," bà Amory nói. "Ta là đứa trẻ duy nhất ở trong căn phòng toàn những người lớn, tất cả bọn họ đều uống những ly rượu rất lớn. Sau đó người phụ nữ xinh đẹp quyến rũ này – bây giờ ta mới để ý, bà ta trông rất giống cháu, Lucia thân yêu – bà tiến đến chỗ ta rồi ép ta nhận một ly. Không hiểu sao, qua cách bà ấy cười, ta có thể nói là ta không nên uống, nhưng ta biết mình không thể nào từ chối được. Ấy thế mà bằng cách nào đó, bà đã thôi miên ta uống, sau đó ta bắt đầu cảm thấy một cảm giác bỏng rát khủng khiếp trong cổ họng, và ta nhận ra mình phải đang chiến đấu để giành lại hơi thở. Sau đó, ta tỉnh dậy."

Dr Carelli bước đến gần Lucia. Đứng trước mặt cô, anh nghiêng mình mỉa mai. "Lucrezia Borgia kính mến," anh ta cầu khẩn, "hãy thương xót cho tất cả chúng ta."

Lucia không phản ứng gì trước trò đùa của Carelli. Cô làm như không nghe thấy gì. Có một khoảng lặng. Nở nụ cười với chính mình, Bác sĩ Carelli quay lưng lại với Lucia, uống tách cà phê của mình và đặt lại trên bàn. Uống hết tách của mình nhanh chóng, Barbara dường như nhận thấy rằng cần phải thay đổi không khí này.

"Một điệu nhạc thì sao nhỉ?" cô đề nghị, băng qua máy hát. "Bây giờ, chúng ta nên nghe gì nhỉ? Có một bản thu tuyệt vời mà cháu mua ở thị trấn lúc trước." Cô bắt đầu hát và nhảy trên nên nhạc Jazz. "Ikey, oh, crikey, what have you got on? Or what else is there?"

"Ối , Barbara yêu quý, không phải bài hát khiếm nhã đó chứ," bà Amory khẩn nài, băng qua cô và giúp xem các đĩa hát. "Có rất nhiều bản nhạc khác hay hơn đấy. Nếu chúng ta muốn nghe những bản nhạc nổi tiếng, có những bài hay của John McCormack ở đây này. Hay 'The Holy City'? – Ta không thể nhớ tên của những bản nhạc có giọng nữ cao. Hay tại sao không chọn bài của Melba? Ồ - à, phải rồi, Händel's Largo này."

"Ôi, thôi nào, bác Caroline. Chúng ta khó mà vui vẻ lên được với nhạc của Händel's Largo," Barbara từ chối. "Có vài bản opera Ý ở đây, nếu chúng ta muốn nghe nhạc cổ điển. Lại đây nào, Bác sĩ Carelli , đây chắc hẳn là lĩnh vực của ngài. Đến giúp chúng tôi chọn nào."

Carelli tham gia cùng với Barbara và bà Amory quây quanh bên chiếc máy hát, cả ba người bắt đầu chọn lựa trong chồng đĩa. Richard thì có vẻ đang mải mê với tờ tạp chí.

Lucia đứng dậy, chậm rãi và dường như vô thức đi tới cái bàn giữa phòng và liếc nhìn chiếc hộp thiếc. Sau đó, để ý rằng không có ai đang quan sát, cô lấy một ống trong hộp ra và đọc nhãn. "Hyoscine hydrbromide." Mở ống thuốc ra, Lucia dốc gần hết những viên thuốc vào lòng bàn tay. Khi cô đang thực hiện việc này, cánh cửa phòng làm việc của Sir Claud mở ra, và thư kí của ngài, Edward Raynor xuất hiện ở ngưỡng cửa.

Lucia không hề biết, Raynor đã nhìn thấy khi cô đặt chiếc ống trở lại vào hộp thiếc trước khi cô đi sang chỗ bàn trà.

Đúng lúc đó, tiếng gọi của Sir Claud vọng ra từ phòng làm việc. Tuy nghe không rõ lời ông lắm, nhưng Raynor vẫn quay sang trả lời, "Vâng, tất nhiên, thưa Sir Claud. Tôi sẽ mang cà phê cho ngài ngay."

Người thư ký chuẩn bị vào thư viện thì có tiếng của Sir Claud ngăn anh lại. "Thế còn thư tới Marshall's thì sao?"

"Nó đã được gửi đi lúc chiều rồi, thưa Sir Claud," anh thư ký trả lời.

"Nhưng Raynor à, tôi đã nói - ồ - quay lại đây nào," Claud gọi to từ phòng làm việc của mình.

"Tôi xin lỗi, thưa ngài," tiếng Raynor đáp lúc anh thoái lui khỏi ngưỡng cửa để quay lại với Sir Claud Amory trong phòng làm việc. Lucia quay lại nhìn khi nghe thấy giọng anh, và dường như không hề hay biết rằng người thư kí đã quan sát mọi hành động của cô. Quay người lại, để lưng cô quay hướng về phía Richard, cô thả những viên thuốc đang cầm vào một trong những tách cà phê trên bàn, và di chuyển ra giữa ghế trường kỷ.

Chiếc máy hát bất ngờ phát ra âm thanh với một điệu foxtrot nhanh. Richard Amory đặt tờ tạp chí đang đọc xuống, uống hết thật nhanh tách cà phê, bỏ tách lên chiếc bàn giữa phòng, và đi sang chỗ vợ mình. "Anh sẽ làm theo ý em. Anh quyết định rồi. Chúng ta sẽ rời đi cùng nhau."

Lucia ngước nhìn anh trong sự ngỡ ngàng. "Richard," cô nói một cách yếu ớt, "Anh nói thật chứ? Chúng ta có thể đi khỏi đây sao? Nhưng em tưởng anh đã nói – thế còn? – Tiền ở đâu ra chứ?

"Luôn luôn có cách để kiếm ra tiền," Richard nói dứt khoát.

Có chút sợ hãi trong giọng Lucia khi cô hỏi, "Ý anh là sao?"

"Ý anh là," chồng cô nói, "khi một người đàn ông lo lắng cho người phụ nữ như anh đang lo cho em, người đàn ông ấy sẽ làm tất cả mọi thứ. Tất cả!"

"Em không cảm thấy hãnh diện gì khi nghe anh nói thế," Lucia trả lời. "Nó chỉ cho em thấy rằng anh vẫn không tin tưởng em – rằng anh nghĩ anh phải mua tình yêu của em với –"

Cô khựng lại và ngó nghiêng xung quanh khi cánh cửa phòng làm việc mở ra và Edward Raynor trở ra. Raynor bước lại bàn trà và cầm lấy một tách cà phê, khi đó Lucia đổi vị trí ngồi trên chiếc trường kỷ, cô nhích hẳn sang một đầu ghế. Richard đăm chiêu thơ thẩn đi đến bên lò sưởi và nhìn chăm chăm vào lò tối.

Barbara, đang bắt đầu với điệu foxtrot một mình, nhìn người anh họ Richard như thể đang cân nhắc xem có nên mời anh nhảy không, Nhưng, rõ là bị nhụt chí bởi vẻ mặt lạnh lùng sắt đá của anh, cô quay sang Raynor. "Muốn nhảy không, anh Raynor?" cô hỏi.

"Rất sẵn lòng, thưa cô Amory," người thư kí trả lời. "Xin chờ một chút, tôi mang cà phê cho Sir Claud đã."

Lucia thình lình đứng dậy khỏi ghế. "Anh Raynor," cô vội nói, "đó không phải là cà phê của Sir Claud đâu. Anh lấy nhầm tách rồi."

"Thật sao?" Raynor nói. "Tôi xin lỗi." Lucia lấy một tách khác trên bàn và đưa cho Raynor. Họ trao đổi hai tách cà phê . "Đó," Lucia nói trong khi tay cầm lấy tách của Raynor, "mới là cà phê của Sir Claud." Cô nở nụ cười bí ẩn với chính mình, đặt chiếc tách mà Raynor đã đưa cho cô xuống bàn trà và quay lại trường kỷ.

Xoay lưng lại với Lucia, người thư kí lấy vài viên thuốc từ trong túi và thả chúng vào cái tách mà anh đang cầm. Trong khi anh đang đi về cửa phòng làm việc, Barbara chặn anh lại. "Đến nhảy với tôi đi, anh Raynor," cô nài nỉ kèm theo một nụ cười hấp dẫn. Tôi muốn bắt Bác sĩ Carelli nhảy cùnglắm, nhưng tôi có thể nói rằng anh ta chỉ đơn giản muốn nhảy với Lucia thôi."

Trong khi Raynor còn đang do dự, Richard Amory tiến đến.

"Anh có thể chiều em ấy mà, Raynor," anh khuyên nhủ. "Thật ra, mọi người đều sẽ làm vậy. Nào, hãy đưa cà phê cho tôi. Để tôi mang nó vào cho cha.

"Raynor bất đắc dĩ để tách cà phê cho Richard mang đi. Xoay người đi, Richard ngập ngừng trong giây lát và sau đó bước thẳng vào phòng làm việc của Sir Claud. Barbara và Edward Raynor, sau khi mở bản nhạc đầu tiên trong đĩa hát, giờ đang chậm rãi nhảy điệu van-xơ trong vòng tay nhau. Bác sĩ Carelli nhìn họ trong phút chốc với nụ cười khoan dung, trước khi đến bên Lucia, người vẫn đang ngồi trên chiếc ghế với bộ dạng chán nản tuyệt vọng.

Carelli nói với cô. "Bà Amory thật tốt khi cho phép ta gặp em vào dịp cuối tuần này,"

Lucia ngước nhìn anh. Trong phút chốc, cô chẳng lên tiếng, nhưng sau đó, cuối cùng cô cũng nói, "Bác ấy là người tốt bụng nhất."

"Và đây quả là một căn nhà có sức hút," Carelli tiếp lời, vòng ra sau chiếc ghế. "Thỉnh thoảng nàng nên dẫn ta dạo xem một vòng. Ta thật sự thích thú với lối kiến trúc trong nhà vào thời kì này.

Trong khi anh ta đang nói, Richard Amory từ phòng làm việc trở ra. Phớt lờ vợ mình và Carelli, anh băng qua chỗ hộp thuốc ngay bàn giữa phòng, và bắt đầu sắp xếp chúng gọn gàng lại.

"Bác Amory có thể kể cho ngài nhiều về ngôi nhà hơn là tôi," Lucia nói với tiến sĩ Carelli. "Tôi chẳng biết gì mấy về những điều này."

Nhìn xung quanh trước để chắc chắn rằng Richard Amory đang bận bịu với chỗ thuốc, Edward Raynor và Barbara Amory vẫn đang hòa mình vào những điệu nhảy ở góc phòng, còn bà Caroline thì dường như đang ngủ gật, Carelli bước lên phía trước chiếc trường kỷ và ngồi cạnh Lucia. Với giọng thấp, khẩn trương, anh khẽ hỏi, "Em đã hoàn thành những gì tôi yêu cầu chưa?"

Giọng Lucia còn thấp hơn, gần như tiếng thì thầm, Lucia tuyệt vọng nói, "Anh không có chút lòng trắc ẩn nào à?"

"Em đã làm theo những gì tôi dặn chưa?" Carelli vẫn khăng khăng hỏi.

"Tôi – tôi –" Lucia bắt đầu nói, nhưng sau đó, ngập ngừng, đứng dậy, bất ngờ quay người và bước nhanh đến cánh cửa dẫn vào đại sảnh. Cô vặn núm cửa và nhận ra cánh cửa không mở ra được.

"Cái cửa này bị trục trặc rồi," cô kêu lên, quay mặt sang nhìn mọi người. "Tôi không thể mở nó."

"Chuyện gì thế?" Barbara gọi, vẫn đang nhảy với Raynor.

"Chị không thể mở được cái cửa này." Lucia lặp lại

Barbara và Raynor không nhảy nữa và băng qua chỗ Lucia đang đứng ở cửa. Richard Amory bước đến tắt chiếc máy hát trước khi nhập hội với những người kia. Họ lần lượt thử mở cửa nhưng không thành, bà Amory đã tỉnh giấc nhưng vẫn ngồi còn Bác sĩ Carelli thì đứng ngay kệ sách, cả hai đều dõi theo.

Không có ai chú ý tới Sir Claud bước ra từ phòng làm việc, cầm tách cà phê trong tay và đứng quan sát nhóm người đang tụm quanh cửa dẫn ra đại sảnh một hồi.

"Lạ thật đấy," Raynor kêu lên, từ bỏ nỗ lực mở cửa và quay sang nhìn những người khác. "Có vẻ như chúng ta bị mắc kẹt rồi."

Giọng Sir Claud vang khắp phòng khiến tất cả giật mình. "Ồ, không, nó không phải bị kẹt đâu. Nó bị khóa đấy. Khóa từ bên ngoài."

Bà Amory đứng dậy và lại gần chỗ Sir Claud. Bà định nói gì đó thì ông đón lời. "Cửa được khóa theo yêu cầu của em đấy chị Caroline," ông nói.

Với mọi ánh mắt đều đổ dồn lên mình, Sir Claud bước tới bàn trà, lấy một viên đường trong lọ bỏ vào tách của mình. "Tôi có vài thứ muốn nói với mọi người ở đây." ông thông báo cho đám đông. "Richard, con có thể gọi Tredwell được không?"

Con trai ông trông như chuẩn bị trả lời gì đó. Tuy nhiên, sau một khoảng im lặng, anh bước tới lò sưởi và nhấn chuông trên tường gần đó.

"Đề nghị mọi người hãy ngồi xuống hết đã," Sir Claud tiếp tục, tay ra hiệu hướng về phía những chiếc ghế.

Bác sĩ Carelli , với cặp lông mày nhướn lên, băng qua phòng tới ngồi trên chiếc ghế đẩu. Edward Raynor và Lucia Amory tự tìm ghế cho mình, trong khi Richard Amory chọn đứng trước lò sưởi, trông có vẻ bối rối. Caroline Amory và cô cháu gái Barbara chiếm lấy chiếc trường kỷ.

Khi tất cả đã yên ổn chỗ ngồi, Sir Claud di chuyển chiếc ghế bành tới vị trí có thể quan sát được tất cả mọi người. Ông ngồi xuống.

Cánh cửa phía bên trái mở ra, và Tredwell bước vào. "Ngài gọi tôi, thưa Sir Claud?"

"Đúng thế, Tredwell. Anh đã gọi vào số mà tôi đưa cho anh chưa?"

"Rồi, thưa ngài."

"Câu trả lời tốt chứ?"

"Cực kỳ tốt đẹp, thưa ngài."

"Thế xe hơi đã đến ga rồi chứ?"

"Rồi, thưa ngài. Xe đã được lệnh đón chuyến tàu."

"Tốt lắm, Tredwell," Sir Claud nói. "Anh có thể khóa cửa lại ngay bây giờ được rồi."

"Vâng, thưa ngài," Tredwell trả lời khi lui ra ngoài.

Sau khi người quản gia đóng cánh cửa lại, có thể nghe được tiếng chìa xoay trong ổ khóa.

"Claud," Bà Amory kêu lên, "Tredwell đang nghĩ cái quái gì thế -?"

"Tredwell đang làm theo lệnh của em, chị Caroline," Sir Claud ngắt lời dứt khoát.

Richard Amory nói với cha. "Chúng con có thể biết ý nghĩa của việc này là gì không?" anh lạnh lùng hỏi.

"Ta chuẩn bị giải thích đây," Sir Claud trả lời. "Tất cả hãy bình tĩnh nghe ta nói. Để bắt đầu, như mọi người thấy đấy, cả hai cửa -" ông ra hiệu về phía hai cửa dẫn ra sảnh của thư viện – "đều bị khóa từ bên ngoài. Từ phòng làm việc của ta bên cạnh, không có bất kì lối ra nào ngoại trừ băng qua căn phòng này. Cửa sổ kiểu Pháp cũng đã bị khóa." Xoay người trên ghế hướng về Carelli, ông giải thích như thể đang muốn lấp khoảng trống, "Thật ra, nó bị khóa bằng một thiết bị sáng chế độc quyền của tôi mà cả gia đình tôi đều biết, tuy nhiên họ lại không biết cách vô hiệu hóa nó." Sir Claud lại tiếp tục nói, "Nơi này chính là cái bẫy chuột." Ông nhìn vào đồng hồ đeo tay của mình. "Bây giờ là chín giờ kém mười. Vào khoảng chín giờ hơn, người bắt chuột sẽ đến."

"Người bắt chuột?" Mặt Richard Amory đầy bối rối. "Người bắt chuột là sao?"

"Một vị thám tử," nhà khoa học nổi tiếng giải thích cộc lốc trong khi nhấm nháp tách cà phê của mình."

CHƯƠNG 5

Lời thông báo của Sir Claud mang đến sự thất kinh khiếp đảm.

Lucia bật ra tiếng khóc thút thít, còn Richard chăm chú nhìn vợ. Bà Amory thét lên một tiếng. Barbara kêu lên "Ối chao!" và Edward Raynor bất lực góp lời "Ôi, tôi nói mà, Sir Claud!" Chỉ có tiến sĩ Carelli trông có vẻ rất thản nhiên.

Sir Claud điềm tĩnh ngồi trên ghế, tay phải cầm tách cà phê còn tay trái giữ chiếc đĩa nhỏ. "Xem như việc ta làm đã có chút hiệu quả," ông quan sát với vẻ thỏa mãn.

Dùng xong cà phê, ông đặt lại tách và đĩa lên bàn với vẻ nhăn nhó. "Cà phê tối nay có vị đắng khác thường," ông than phiền.

Vẻ mặt bà Amory biểu lộ sự khó chịu trước lời vu khống ấy về vị cà phê, bà coi đó là lời chỉ trích trực tiếp lên công việc thu vén nhà cửa của mình. Bà đang định nói gì đó thì Richard Amory lên tiếng. "Thám tử nào vậy?" anh hỏi cha.

"Tên ông ấy là Hercule Poirot," Sir Claud trả lời. "Ông ấy là người Bỉ"

"Nhưng tại sao?" Richard khăng khăng hỏi. "Sao cha lại mời ông ấy đến đây?"

"Một câu hỏi quan trọng đấy," cha anh nói, kèm nụ cười cứng nhắc khó chịu. "Giờ chúng ta đi vào vấn đề chính. Trước đây, hầu hết mọi người đều biết, ta đã tham gia vào công trình nghiên cứu nguyên tử. Ta đã khám phá ra một chất nổ mới. Sức mạnh của nó là một thứ mà mọi chất nổ được thử cho đến chỉ như một trò trẻ con khi đặt kế bên.. Hầu hết mọi người đã biết điều -"

Carelli đứng bật dậy. "Tôi không hề biết đấy," anh háo hức kêu lên. "Tôi rất hứng thú khi nghe về vấn đề này."

"Thật vậy ư, Bác sĩ Carelli ?" Sir Claud thường nói những cụm từ khuôn sáo với vẻ tò mò, và Carelli có chút ngại ngùng, ngồi lại xuống ghế.

"Như ta đang nói," Sir Claud tiếp tục, "Sức mạnh của Amorite – cách ta gọi nó, là một thứ mạnh tới nỗi bây giờ chúng ta có thể giết hàng trăm hàng ngàn mạng sống, mà các vụ nổ cho đến nay chỉ tước đi vài ngàn."

"Thật kinh khủng làm sao," Lucia rùng mình kêu lên.

"Lucia, con yêu –" người cha chồng khẽ nở nụ cười với cô khi ông nói –"sự thật không bao giờ là kinh khủng cả, chỉ có thú vị thôi."

"Nhưng tại sao -" Richard hỏi, "cha lại nói với chúng con về tất cả những thứ này?"

"Bởi vì ta tình cờ biết được một thành viên trong căn nhà này đang âm mưu đánh cắp công thức Amorite. Ta đã nhờ ngài Poirot đến tham gia với chúng ta ngày mai trong dịp cuối tuần, để ông ấy có thể mang công thức trở lại London vào thứ hai, và tự tay giao nó cho một viên chức tại Bộ Quốc phòng."

"Nhưng, Claud này, điều này thật vô lý. Thật sự, nó cực kỳ khó chịu với tất cả chúng ta," Caroline Amory nhận xét. "Em không thể nghi ngờ -".

"Em vẫn chưa nói xong mà, Caroline," em trai bà ngắt lời. "Và ta chắc chắn rằng những gì ta đang nói chẳng có gì là ngớ ngẩn cả. Ta nhắc lại, ta đã mời Hercule Poirot đến đây vào ngày mai, thế nhưng ta phải thay đổi kế hoạch và nhờ ngài Poirot khẩn trương từ London đến đây vào tối nay. Ta phải làm như vậy là vì -"

Sir Claud khựng lại. Khi ông tiếp tục nói, giọng ông chậm rãi hơn và nhấn mạnh có chủ ý hơn nhiều.

"Vì," ông lặp lại, ánh mắt lướt khắp vòng quanh tất cả những người đang có mặt, "Công thức, được viết trên một tờ giấy viết thư thông thường và được đựng trong một phong bì dài, đã bị đánh cắp khỏi két sắt trong phòng làm việc của ta trước bữa ăn tối nay. Nó đã bị lấy cắp bởi ai đó trong căn phòng này!"

Thông báo của nhà khoa học lỗi lạc đã khiến mọi người vô cùng sốc và hoảng sợ. Sau đó, mọi người bắt đầu lần lượt thay phiên nhau nói.

"Công thức bị lấy cắp ạ?" Caroline Amory lên tiếng.

"Cái gì cơ? Từ két sắt? Không thể nào!" Edward Raynor kêu lên.

Trong tiếng xì xào nói chuyện, không thấy có giọng nói của Bác sĩ Carelli , người vẫn ngồi trên ghế nãy giờ với nét mặt trầm ngâm. Tuy nhiên, những người khác chỉ im lặng cho đến khi Sir Claud lên tiếng và nói tiếp.

"Ta thường chắc chắn về cơ sở lập luận của mình," ông bảo đảm với mọi người. "Chính xác vào lúc bảy giờ hai mươi, ta đặt công thức trong két sắt. Khi ta rời phòng làm việc, Raynor đây bước vào."

Đỏ mặt vì xấu hổ hay tức giận, người thư kí lên tiếng, "Sir Claud, thật lòng, tôi cam đoan -"

Sir Claud đưa tay ra hiệu cho anh im lặng. "Raynor ở lại phòng làm việc," ông tiếp tục, "và vẫn tiếp tục ở đấy làm việc, cho đến khi Bác sĩ Carelli xuất hiện tại cửa chính. Sau khi chào hỏi, Raynor để Carelli lại một mình trong phòng làm việc trong khi cậu ấy đi báo cho Lucia biết -"

"Tôi phản đối – tôi -" Carelli bắt đầu, nhưng Sir Claud lại ra hiệu im lặng, và tiếp tục câu chuyện của mình. "Tuy nhiên, Raynor," ông nói, "chỉ quanh quẩn trong căn phòng này, nơi mà cậu gặp chị Caroline với Barbara. Ba người họ vẫn ở trong phòng này, và Bác sĩ Carelli cũng tham gia chung. Caroline và Barbara là hai người duy nhất trong nhóm này không bước vào phòng làm việc."

Barbara liếc sang nhìn bác gái, và sau đó nói với Sir Claud. "Cháu e rằng những thông tin về sự di chuyển của mọi người chưa hoàn toàn chính xác. "Bác Claud," cô nói, "cháu không thể nằm danh sách nghi ngờ của bác được. Bác nhớ không, bác Caroline? Bác bảo cháu vào phòng làm việc để tìm chiếc kim đan mà bác làm mất. Bác nghĩ nó có thể ở trong đó mà"

Phớt lờ việc cháu gái ngắt lời, nhà khoa học tiếp tục. "Kế đến là Richard (Richard came down next), thằng bé tự mình đi vào phòng làm việc và ở đó vài phút."

"Chúa ơi!" Richard la lên. "Thật à, Cha, cha chắc chắn không nghi ngờ con là người lấy cắp công thức đáng sợ đó, phải không?"

Nhìn thẳng vào con trai, Sir Claud trả lời đầy hàm ý, "Mảnh giấy đó đáng giá rất nhiều tiền."

"Con hiểu rồi". Richard nhìn ông một cách bình tĩnh. "Và con đang mắc nợ. Ý cha là vậy, có phải không?"

Sir Claud không trả lời. Ánh mắt lướt nhìn qua những người khác, ông tiếp tục. "Như ta đã nói, Richard vẫn ở trong phòng làm việc thêm vài phút nữa. Và nó quay lại căn phòng này cùng lúc Lucia bước vào. Khi bữa tối được bắt đầu, vài phút sau, Lucia đã không còn ngồi với chúng ta nữa. Ta tìm thấy con bé trong phòng làm việc, đứng bên cạnh két sắt."

"Cha!" Richard kêu lên, bước đến bên vợ và vòng tay bảo vệ Lucia.

"Ta nhắc lại, đứng bên két sắt," Sir Claud nhấn mạnh. "Con bé trông có vẻ cực kì kích động, và khi ta hỏi có chuyện gì thì con bé nói nó không được khỏe. Ta có đề nghị con bé nên dùng một ly rượu vang sẽ cảm thấy tốt hơn. Tuy nhiên, con bé cam đoan rằng sẽ ổn lại ngay, và sau đó rời đi để nhập cuộc với những người khác. Thay vì ngay lập tức theo Lucia đến phòng ăn tối, ta vẫn ở lại phòng làm việc. Ta không biết vì sao, nhưng bản năng thôi thúc ta phải xem két sắt. Phong bì và công thức trong đó đã biến mất."

CHƯƠNG 6

Không khí bao trùm bởi sự im lặng. Không ai lên tiếng. Tính nghiêm trọng lớn lao của tình huống này dường như làm mọi người thức tỉnh. Sau đó Richard hỏi, "Làm thế nào cha có thể thu thập được thông tin về hành động của mọi người vậy, thưa Cha?"

"Tất nhiên là suy nghĩ," Sir Claud trả lời. "Bằng sự quan sát và suy luận. Bằng tất cả bằng chứng mà mắt ta nhìn thấy, và bởi những gì ta rút ra được thông qua việc hỏi Tredwell."

"Chị thấy em không để tên Tredwell hay bất kì người hầu nào vào trong danh sách nghi ngờ, Claud," Caroline Amory nhìn trông cáu gắt. "Chỉ mỗi gia đình của em."

"Gia đình – và cả vị khách của chúng ta," em trai bà bổ sung.

"Là vậy đấy, chị Caroline. Em tự cảm thấy hài lòng vì không có Tredwell hay bất kì người hầu nào trong nhà có mặt trong phòng làm việc giữa lúc em cất công thức vào trong két và lần em mở lại két rồi phát hiện nó biến mất."

Ông nhìn lần lượt từng người trước khi nói thêm, "Ta hy vọng mọi người đã hiểu rõ tình thế. Bất kể ai lấy đi công thức thì chắc chắn vẫn còn đang giữ nó. Kể từ khi chúng ta trở lại đây sau bữa tối, phòng ăn đã được tìm kiếm kĩ lưỡng. Tredwell sẽ báo cho ta nếu mảnh giấy được giấu ở đó. Và, như bây giờ mọi người đều thấy rõ, không ai có cơ hội bước ra khỏi căn phòng này cả."

Không khí im lặng căng thẳng kéo dài một lúc, cho đến khi Bác sĩ Carelli lịch sự hỏi, "Vậy, thưa Sir Claud, có phải đề nghị của ngài là tất cả chúng ta đều cần phải được khám xét đúng không?"

"Ta không đề xuất như vậy," Sir Claud đáp, nhìn đồng hồ đeo tay. "Bây giờ là tám giờ năm mươi tám phút. Hercule Poirot sẽ đến Market Cleve, nơi ông ấy đang hướng đến. Vào lúc chín giờ, Tredwell có lệnh đi tắt hết đèn từ công tắc chính trong tầng hầm. Chúng ta sẽ chìm trong bóng tối hoàn toàn trong căn phòng này một phút, và chỉ một phút thôi. Khi đèn được mở lại, mọi thưa sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của ta. Hercule Poirot sẽ đến đây sớm thôi, và ông ấy sẽ phụ trách vụ án này. Nhưng nếu, trong bóng tối bao trùm, công thức được đặt ở đây -" Sir Claud đập tay xuống bàn – "thì ta sẽ báo với ngài Poirot rằng ta đã nhầm lẫn và không cần đến sự giúp đỡ của ngài ấy nữa."

"Đề nghị đó thật quái gở," Richard nóng nảy tuyên bố. Anh nhìn sang mọi người. "Con nghĩ chúng ta cần được khám xét. Con hoàn toàn sẵn lòng."

"Tất nhiên, tôi cũng thế," Edward Raynor vội vàng kêu lên.

Richard Amory nhìn chăm chăm vào Dr Carell. Anh chàng người Ý cười và nhún vai. "Cả tôi nữa."

Ánh nhìn của Richard chuyển sang bác gái anh. "Được thôi, nếu chúng ta buộc phải vậy thì cứ làm vậy đi," bà Amory càu nhàu.

"Lucia?" Richard quay sang vợ mình mình.

"Không, không, Richard," Lucia trả lời nghe rõ từng hơi thở. "Kế hoạch của cha anh là tốt nhất rồi đấy".

Richard im lặng nhìn cô trong giây lát.

"Sao nào, Richard?" Sir Claud hỏi.

Anh buông tiếng thở dài rồi trả lời, "Được rồi, con đồng ý." Anh nhìn người em họ Barbara, cô cũng ra dấu bằng lòng.

Sir Claud ngả người ra sau ghế một cách mệt mỏi, và nói giọng lê thê, chậm rãi. "Vị cà phê đó vẫn còn trong miệng ta," ông nói rồi ngáp.

Chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi bắt đầu điểm, và mọi người hoàn toàn im lặng quay sang nhìn. Sir Claud quay người chầm chậm trên ghế và nhìn chằm chằm vào con trai ông, Richard. Vào lần điểm chuông cuối cùng của chín giờ, tất cả ánh đèn bất ngờ vụt tắt và căn phòng bị bao trùm trong bóng tối.

Có vài tiếng thở hổn hển, và vài câu cảm thán của phụ nữ, sau đó, giọng của bà Amory vang lên rõ to. "Ta chẳng quan tâm chuyện này tí nào."

"Im lặng nào, bác Caroline," Barbara nhắc nhở. "Cháu đang cố gắng lắng nghe."

Sự im lặng tuyệt đối kéo dài vài giây, tiếp đó là tiếng thở nặng nhọc, và sau đó là tiếng giấy sột soạt. Lại là sự tĩnh lặng, trước khi tất cả bọn họ đều nghe tiếng va chạm của kim loại, âm thanh của thứ gì đó bị xé rách, và một tiếng rầm mạnh, nghe như tiếng chiếc ghế bị đổ.

Bất thình lình, Lucia hét lên. "Sir Claud! Sir Claud! Con không thể chịu được nữa. Con cần ánh sáng. Ai đó, hãy làm ơn!"

Căn phòng vẫn tối đen. Có tiếng thở gấp, và sau đó là tiếng gõ cửa lớn vọng lại từ cửa chính dẫn ra đại sảnh. Lucia lại hét lên. Như thể là lời đáp lại, ánh sáng bất ngờ trở lại với căn phòng.

Richard đang đứng ở cửa ra vào, đang ngập ngừng không biết có nên mở hay không. Edward Raynor đang đứng cạnh chiếc ghế bị đổ. Lucia nằm ngả ra ghế, trông như sắp ngất.

Sir Claud tuyệt vẫn ngồi im trên chiếc ghế bành, mắt nhắm nghiền. Anh thư kí đột nhiên chỉ vào chiếc bàn bên cạnh ông chủ của mình. "Nhìn này," anh kêu lên. "Công thức."

Trên chiếc bài kế bên Sir Claud là một phong bì dài y hệt như ông đã mô tả trước đó.

"Tạ ơn Chúa!" Lucia kêu lên. "Tạ ơn Chúa!"

Có tiếng gõ cửa khác trên cánh cửa đang được mở ra từ từ. Mọi sự chú ý dồn cả lên ngưỡng cửa khi Tredwell dẫn một người lạ vào rồi sau đó lui ra.

Tất cả mọi người nhìn chằm chằm vào người lạ mặt.

Những gì họ thấy là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ ngoài trông lạ thường, cao không quá một mét sáu mươi hai, mang trong mình phẩm cách cao quý. Đầu của ông có hình hệt như quả trứng, ông luôn nghiêng nghiêng đầu sang một bên, như thể luôn sẵn sàng học hỏi. Bộ ria mép đặc trưng và luôn chỉn chu. Ông ăn mặc rất gọn gàng.

"Hercule Poirot, sẵn sàng phục vụ," người lạ nói và cúi chào.

Richard Amory đưa tay ra. "Ngài Poirot," anh nói khi họ bắt tay.

"Sir Claud phải không?" Poirot hỏi. "À, tất nhiên là không rồi, anh trông quá trẻ. Có lẽ anh là con trai ngài ấy? Ông đi qua Richard vào giữa phòng. Sau lưng ông là một người nữa, cao ráo, trung tuổi và có tác phong quân đội khiêm tốn bước vào. Khi ông bước đến cạnh Poirot, ngài thám tử giới thiệu, "Đồng nghiệp của tôi, Đội trưởng Hastings."

"Thật là một căn phòng thú vị," Hastings quan sát trong khi bắt tay với Richard Amory.

Richard quay lại với Poirot. "Tôi rất tiếc, ngài Poirot," anh nói, "nhưng tôi e rằng việc chúng tôi nhờ ngài đến tận đây chỉ là sự hiểu nhầm. Việc cần nhờ đến sự giúp đỡ của ngài đã xong rồi."

"Thật vậy sao?" Poirot trả lời.

"Vâng, tôi xin lỗi," Richard Amory tiếp lời. "Thật tệ quá. Buộc ngài phải từ London xuống đến tận đây. Tất nhiên, tiền đi đường và phí công tác của ngài – ý tôi là - ờ, đương nhiên sẽ đâu vào đấy thôi –"

"Tôi hoàn toàn hiểu," Poirot nói. "Nhưng hiện tại, tiền đi lại và phí công tác đều không phải là thứ khiến tôi bận tâm."

"Không ư? Thế thì - là gì?"

"Điều gì làm tôi quan tâm ư, ngài Amory? Tôi sẽ nói cho anh nghe. Đó chỉ là một vấn đề nhỏ thôi, tất nhiên không ảnh hưởng gì cả. Nhưng cha anh là người gọi tôi đến đây. Tại sao ông ấy không phải là người bảo tôi đi?"

"Ồ, đương nhiên. Tôi xin lỗi," Richard nói, quay người về phía Sir Claud. "Cha, cha có thể nói vói ngài Poirot rằng chúng ta không cần sự giúp đỡ của ngài ấy nữa không?"

Sir Claud không trả lời.

"Cha!" Richard kêu lên, rảo bước về phía ghế của Sir Claud. Anh cúi xuống cha mình, rồi sau đó quay người trong hoảng loạn. "Bác sĩ Carelli ," anh gọi.

Bà Amory đứng dậy, mặt cắt không còn giọt máu nào. Carelli ngay lập tức chạy đến bên Sir Claud và bắt mạch. Khuôn mặt nhăn lại, anh đặt tay lên tim của Sir Claud, và lắc đầu.

Poirot từ từ tiến đến bên chiếc ghế bành, đứng nhìn xuống cơ thể bất động của nhà khoa học. "Phải – tôi sợ -" ông thì thầm như thể nói với chính mình, "Tôi sợ là -"

"Ngài lo sợ điều gì thế?" Barbara hỏi, bước lại bên ông.

Poirot nhìn vào cô. "Tôi e rằng Sir Claud đã cho vời tôi đến quá trễ, tiểu thư."

Sự kinh hoàng ám ảnh trong từng câu chữ của Hercule Poirot. Bác sĩ Carelli tiếp tục kiểm tra lại Sir Claud một lát trước khi ưỡn thẳng người và quay lại với mọi người. Nói chuyện với Richard, "Tôi e rằng cha của anh đã chết," anh xác nhận.

Richard Amory nhìn chằm chằm anh ta trong sự hoàn nghi, như thể anh không tài nào nghe được những lời vị bác sĩ người Ý vừa nói. Sau đó, "Chúa ơi – chuyện này là sao? Trụy tim sao?" anh hỏi.

"Tôi – tôi cho là vậy," Carelli trả lời có phần hơi nghi ngại.

Barbara đến bên bác gái để an ủi, bà Amory trông như sắp ngất. Edward Raynor cũng tham đến đó, giúp động viên bà Amory, và thì thầm với Barbara, "Tôi nghĩ rằng tay kia là một bác sĩ thực thụ?"

"Phải, nhưng chỉ là một bác sĩ người Ý," Barbara thì thầm trả lời, vì ngồi giữa họ trên ghế lá bà Amory. Tình cờ nghe được lời nhận xét của Barbara, Poirot lắc đầu mạnh mẽ. Sau đó, vuốt ve bộ ria mép của mình một cách tinh tế, ông mỉm cười và trả lời nhẹ nhàng. "Tôi á, tôi là thám tử - nhưng chỉ là một người Bỉ. Tuy nhiên, thưa cô, người nước ngoài chúng tôi thỉnh thoảng cũng đưa ra những câu trả lời chính xác."

Barbara chí ít còn có chút ngượng ngùng. Cô và Raynor vẫn tiếp tục cuộc trò chuyện thêm một lát, nhưng sau đó Lucia tiến đến Poirot, nắm lấy tay ông và kéo ông ra khỏi mọi người.

"Ngài Poirot," cô hổn hển nài nỉ ông, "ngài phải ở lại! Ngài không được để họ bảo ngài đi như vậy được."

Poirot nhìn cô một cách điềm tĩnh. Khuôn mặt trông vẫn bình thản khi ông hỏi cô, "Có phải quý cô muốn tôi ở lại chăng?"

"Vâng, vâng," Lucia trả lời, liếc nhìn một cách lo lắng về phía thi thể của Sir Claud vẫn trong tư thế ngồi thẳng trên chiếc ghế bành. "Có điều gì đó không ổn trong chuyện này. Tim của cha chồng tôi hoàn toàn không có vấn đề gì cả. Tôi nói thật đấy. Xin ngài đấy, ngài Poirot, ngài nhất định phải tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra."

Bác sĩ Carelli và Richard Amory vẫn cứ quanh quẩn gần thi thể của Sir Claud. Richard đang trong trạng thái tê liệt tạm thời, gần như hóa đá bất động. "Tôi đề nghị thế này, anh Amory," tiến sĩ Carelli nói, "anh nên cho gọi bác sĩ riêng của cha anh đến. Tôi cho rằng ông ấy có bác sĩ riêng phải không?"

Richard dồn hết nỗ lực để thức tỉnh bản thân. "Sao cơ? Ồ, phải," anh trả lời. "Bác sĩ Graham. Kenneth Graham trẻ tuổi. Anh ta có một phòng khám trong làng. Thật ra, anh ấy khá quan tâm đến em họ của tôi, Barbara. Ý tôi là – xin lỗi, điều này không liên quan lắm, đúng không?" Liếc nhìn khắp phòng tìm Barbara, anh gọi cô.

"Số điện thoại của Kenneth Graham là gì thế?"

"Số 5 Market Cleve," Barbara nói. Richard bước đến điện thoại, nhấc ống nghe và quay số.

Trong khi anh đang đợi kết nối, Edward Raynor, chợt nhớ đến nhiệm vụ thư kí của mình, hỏi Richard, "Anh có nghĩ tôi nên đặt xe cho ngài Poirot không?"

Poirot dang tay ra xin lỗi. Ông đang định nói thì bị Lucia chặn trước. "Ngài Poirot vẫn sẽ ở lại – theo yêu cầu của tôi," cô thông báo chung cho tất cả mọi người.

Vẫn áp ống nghe vào tai, Richar giật mình quay người lại. "Ý em là sao?" anh cộc lốc hỏi vợ.

"Vâng, vâng, Richard, ngài ấy phải ở lại," Lucia khăng khăng. Giọng cô nghe gần như bị kích động.

Bà Amory ngước nhìn lên trong sự bàng hoàng, Barbara và Edward Ryanor trao nhau ánh nhìn lo lắng, Bác sĩ Carelli đứng nhìn xuống cơ thể vô hồn của nhà khoa học vĩ đại với nhiều suy nghĩ trong đầu, trong khi đó Hastings đang lơ đãng kiểm tra những cuốn sách trên kệ sách thư viện nãy giờ, quay sang quan sát mọi người.

Richard đang định phản ứng lại với cơn bộc phát của Lucia thì sự chú ý của anh bị thu hút bới chiếc điện thoại anh đang cầm.

"Ồ, cái gì...Bác sĩ Graham đấy phải không?" anh hỏi. "Keneth, là tôi, Richard Amory đây. Cha tôi vừa bị đau tim. Anh có thể đến đây ngay được không?...À, thật ra, tôi e là chúng ta không thể làm gì được nữa cả...Phải, ông ấy mất rồi...Không...Tôi cho là vậy...Cảm ơn anh." Gác ống nghe, anh băng qua căn phòng đến bên vợ mình, thấp giọng, khẽ nói và có chút khích động, "Lucia, em có bị mất trí không? Em đã làm cái gì vậy? Em không nhận ra rằng chúng ta phải thoát khỏi vị thám tử này sao?"

Lấy làm ngạc nhiên, Lucia nhổm dậy khỏi ghế. "Ý anh là sao?" cô hỏi Richard.

Cuộc trò chuyện của họ vẫn diễn ra lặng lẽ nhưng khẩn trương. "Em không nghe cha nói sao?" Giọng nói đầy ẩn ý, anh lầm bầm, "Cà phê đắng quá."

Thoạt tiên, Lucia trông có vẻ như không hiểu. "Cà phê đắng quá?" cô lặp lại. Cô nhìn Richard một lúc, và sau đó bất chợt thét lên tiếng kêu kinh mà cô mau chóng kìm lại được.

"Em thấy chưa? Giờ em đã hiểu rồi chứ?" Richard hỏi.

Hạ giọng xuống thì thầm, anh nói thêm, "Cha bị đầu độc Và rõ ràng là bởi một thành viên trong gia đình. Em không muốn một vụ bê bối khủng khiếp nào xảy ra mà, đúng không?"

"Ôi Chúa ơi," Lucia lẩm bẩm, nhìn thẳng về phía trước. Ôi, Đức Chúa nhân từ."

Quay lưng lại với cô, Richard tiến đến Poirot.

"Ngài Poirot –" anh mở lời, rồi lại ngập ngừng.

"Gì thế thưa anh?"Poirot hỏi một cách lịch sự.

Dồn hết tất cả nỗ lực của mình, Richard tiếp tục, "Ngài Poirot, tôi e là tôi chưa hiểu lắm về việc vợ tôi đã nhờ ngài điều tra."

Poirot đắn đo giây lát trước khi trả lời. Sau đó, mỉm cười hài lòng, ông nói, "Chúng ta nói tới chuyện tài liệu bị lấy cắp phải không? Quý cô kia nói đó," ông tiếp tục, ra dấu về phía Barbara, "là nguyên nhân vì sao tôi được gọi xuống đây."

Ném một cái nhìn quở trách về phía Barbara, Richard nói với Poirot, "Tài liệu ngài nói đến đã được trả lại."

"Thế ư?" Poirot hỏi, nụ cười của ông trở nên khó hiểu.

Vị thám tử nhỏ bé bất ngờ có được sự chú ý của mọi người khi ông di chuyển tới cái bàn nằm giữa căn phòng và nhìn chiếc phong bì vẫn nằm trên đó, mà mọi người đã lãng quên trong sự kích động và hỗn loạn do phát hiện ra cái chết của Sir Claud.

"Ý ngài là gì?" Richard Amory hỏi Hercule Poirot.

Poirot vân vê bộ ria mép của mình một cách khoa trương và cẩn thận phủi một hạt bụi vô hình ra khỏi tay áo. "Đó chỉ là – rõ là ngờ nghệch – ý kiến riêng của tôi," vị thám tử cuối cùng cũng trả lời. "Anh thấy đấy, một ngày nọ, có người kể cho tôi một câu chuyện cực kỳ thú vị. Câu chuyện về chiếc chai rỗng – chẳng có gì trong đó cả."

"Tôi xin lỗi, tôi không hiểu ý ông," Richard Amory nói.

Cầm chiếc phong bì trên bàn lên, Poirot lẩm bẩm, "Tôi tự hỏi..." Ông liếc nhìn Richard, người giật lấy phong bì trên tay ông và xem bên trong.

"Trống rỗng!" Richard kêu lên. Vò chiếc phong bì, anh ném nó lên bàn và nhìn Lucia dò xét, người đang tránh ra xa anh.

"Vậy thì," anh ngập ngừng tiếp tục, "tôi cho rằng chúng ta cần được khám xét – chúng ta..." Richard kéo dài giọng, và anh nhìn quanh căn phòng như tìm kiếm sự chỉ dẫn. Anh bắt gặp vẻ bối rối củ Barbara và người bác, sự phẫn nộ của Edward Raynor và vẻ ôn tồn của Bác sĩ Carelli . Lucia tiếp tục tránh né ánh mắt của anh.

"Sao anh không làm theo lời khuyên của tôi nhỉ?" Poirot đề nghị. "Đừng làm gì cả cho đến khi bác sĩ đến. Hãy nói cho tôi biết," ông hỏi, chỉ tay về phía phòng làm việc, "lối đó dẫn đi đâu thế?"

"Ở đó là phòng làm việc của cha tôi," Richard nói với ông. Poirot băng qua phòng tới cánh cửa, đưa đầu vào nhìn xung quanh, sau đó quay lại thư viện, gật gù như thể hài lòng.

"Tôi hiểu rồi," ông thì thầm. Sau đó, nói với Richard, ông bổ sung, "Tôi thấy không có lý do gì quan trọng để mọi người phải ở trong phòng này nếu mọi người không muốn."

Có sự xao động trong đám đông. Bác sĩ Carelli là người đầu tiên dời đi.

"Tất nhiên, mọi người nên hiểu," Poirot thông báo, nhìn vào vị bác sĩ người Ý, "rằng không ai nên rời khỏi ngôi nhà."

"Tôi sẽ chịu trách nhiệm cho việc đó," Richard tuyên bố trong khi Barbara và Raynor cùng nhau rời đi, theo sau là Bác sĩ Carelli . Bà Caroline Amory nán lại bên chiếc ghế của người em trai.

"Claud đáng thương," bà lẩm bẩm một mình. "Claud tội nghiệp."

Poirot lại gần bà. "Thưa bà, bà phải mạnh mẽ lên," ông nói. "Tôi biết, cú sốc này đối với bà là rất lớn."

Bà Amory nhìn ông mắt đẫm lệ. "Tôi rất vui vì tôi đã nhờ đầu bếp làm món cá bơn chiên vào tối nay," bà nói. "Đó là một trong những món ăn mà em trai tôi rất thích."

Với nỗ lực mạnh mẽ để trông nghiêm trang và phù hợp trước lời bày tỏ long trọng của bà, Poirot trả lời, "Vâng, đúng vậy, đó chắc hẳn là một sự an ủi cho bà, tôi cam đoan là vậy." Ông dìu bà Amory ra khỏi phòng. Richard theo bác anh ra ngoài và, sau một lúc chần chừ, Lucia nhanh chóng rời đi. Poirot và Hastings bị bỏ lại trong căn phòng với thi thể của Sir Claud.

Chương 7

Ngay khi căn phòng trở nên trống trơn, Hastings hăng hái nói với Piorot. "Thế nào, anh nghĩ sao?" ông hỏi.

"Làm ơn đóng cửa lại đi, Hasstings," là câu trả lời duy nhất mà ông nhận được. Khi bạn mình làm theo, Poirot chầm rãi lắc đầu và nhìn quanh căn phòng. Ông đi đi lại lại, xem xét qua đồ đạc, thi thoảng nhìn xuống sàn. Đột nhiên, ông cúi xuống để kiểm tra chiếc ghế bị lật ngửa, chiếc ghế mà thư ký Edward Raynor ngồi khi đèn tắt. Poirot nhặt lên một vật nhỏ bên dưới ghế.

"Anh tìm thấy gì vậy?" Hastings hỏi.

"Một chiếc chìa khóa," Poirot trả lời. "Nó có vẻ là chìa khóa chiếc của một cái két sắt. Tôi đã quan sát chiếc két sắt ở phòng làm việc của Sir Claud. Hasting ơi, anh sẽ vui lòng giúp tôi thử chiếc chìa khóa này và nói tôi biết nếu nó vừa chứ?"

Hastings cầm chiếc chìa khóa từ chỗ Poirot, đi vào phòng nghiên cứu. Trong lúc ấy, Poirot tiến đến cái xác của nhà khoa học và lần mò trong túi quần, lôi ra một đống chìa khóa, ông kiểm tra kỹ lưỡng từng chiếc trong đó.

Hastings trở lại, báo cho Poirot rằng chiếc chìa khóa thực sự khớp với cái két oan toàn trong phòng nghiên cứu. "Tôi nghĩ mình có thể đoán được chuyện gì đã xảy ra," Hasting tiếp tục. "Tôi hình dung ra rằng Sir Claud hẳn đã đánh rơi nói, và - ờ-"

Ông dứt lời, Poirot chậm rãi lắc đầu nghi ngờ.

"Không, không, mon ami (bạn thân mến), đưa tôi cái chìa khóa nào," ông yêu cầu, cau mày vẻ khó khiểu. Poirot lấy chiếc chìa khóa từ Hastings và so sánh nói với một trong những chiếc trong chùm chìa khóa. Sau đó, đặt chúng trở lại túi của nhà khoa học đã từ trần, ông giơ chiếc chìa khóa đơn lên. "Cái này," ông nói, "là một bản sao. Thực sự thì nó được làm khá vụng về, nhưng chắc chắn nó đã đáp ứng được mục đích."

Trong niềm phấn khích tột độ, Hastings thốt lên, "Vật có nghĩa là-"

Ông bị Poirot ngăn lại bằng một cử chỉ cảnh báo. Có tiếng chìa khóa đang xoay trong ổ của cánh cửa dẫn tới tiền sảnh và cầu thang lên tầng trên của ngôi nhà. Khi hai người quay lại, nó từ từ mở ra, và Tredwell, người quản gia đang đứng ở ngưỡng cửa.

"Xin ngài thứ lỗi," Tredwell nói khi ông ta bước vào căn phòng, đồng thời đóng cánh cửa sau lưng. "Ông chủ bảo tôi khóa cánh cửa này, cũng như một cửa khác dẫn ra từ phòng này cho tới khi ngài tới. Ông chủ..." Ông ta dừng lại khi nhìn thấy dáng hình bất động của Sir Claud trên ghế.

"Tôi e rằng ông chủ của anh đã chết," Poirot nói với ông ta. "Liệu tôi có thể hỏi tên anh là gì được không?"

"Tredwell, thưa ngài." Ông người hầu di chuyển đến trước bàn làm việc, nhìn vào cơ thể của ông chủ mình. "Ôi trời ơi. Sir Claud đáng thương!" ông ta lầm bầm. Xoay người về phía Poirot, ông ta nói, "Làm ơn thứ lỗi cho tôi thưa ngài, nhưng đây quả là một cú sốc. Tôi có thể hỏi chuyện gì đã xảy ra không ạ? Có phải là – giết người không?"

"Tại sao anh lại hỏi điều đó?" Poirot nói.

Người quản gia hạ giọng, đáp, "Có những điều kỳ lạ đã diễn ra vào tối nay, thưa ngài."

"Ồ?" Poirot kêu lên khi ông trao đổi ánh nhìn với Hastings. "Hãy kể cho tôi về những điều kỳ lạ ấy."

"Chà, thật khó mà biết nên bắt đầu từ đâu thưa ngài," Tredwell trả lời. " Tôi – tôi nghĩ đầu tiên tôi cảm thấy rằng có gì đó không ổn khi quý ông người Ý tới dùng trà."

"Quý ông người Ý?"

"Bác sĩ Carelli, thưa ngài."

"Anh ta bất ngờ tới dùng trà?" Poirot hỏi.

"Vâng, thưa ngài, và Bà Amory đề nghị anh ta ở lại cuối tuần, vì anh ta là một trong những bạn của mợ Richard. Nhưng nếu ngài có hỏi, thưa ngài –"

Ông ta dừng lại, và Poirot nhẹ nhàng hối ông ta. "Vâng?"

"Tôi hi vọng là ngài hiểu cho," Tredwell nói. "rằng đây không phải là thói quen đưa chuyện của tôi về gia đình này. Nhưng nhìn thấy ông chủ đã qua đời..."

Ông ta lại dừng lại, và Poirot đồng cảm nói, "Vâng, vâng, tôi hiểu. Tôi chắc chắn anh đã rất gắn bó với ông chủ của mình." Tredwell gật đầu, và Poirot tiếp tục, "Sir Claud cho vời tôi đến để nói với tôi chuyện gì đó. Anh phải cho tôi biết tất cả những gì anh có thể."

"Ờ, vậy thì," Tredwell đáp lời, "thưa ngài, theo ý kiến riêng của tôi, mợ Richard Amory không muốn mời quý ông ngưởi Ý ăn tối. Tôi quan sát gương mặt mợ ấy khi bà Amory đưa lời mời."

"Ấn tượng của anh về bác sĩ Carelli là gì?" Poirot hỏi.

"Thưa ngài, bác sĩ Carelli," người quản gia trả lời khá ngạo nghễ, "không phải là người như chúng tôi."

Không hiểu lắm về nhận xét của Tredwell, Poirot nhìn Hastings – người đang quay đi để giấu một nụ cười – dò hỏi. Ném cho người đồng nghiệp một cái liếc mắt quở trách nhẹ nhàng, Poirot lại quay sang Tredwell. Vẻ mặt của người quản gia vẫn hoàn toàn nghiêm túc.

Poirot hỏi, "Anh cảm thấy rằng, có điều gì đó kỳ quặc về việc bác sĩ Carelli đến nhà như thế này à?"

"Chính xác, thưa ngài. Nó không tự nhiên, theo cách nào đó. Và sau khi anh ta tới thì rắc rối bắt đầu, với việc lúc chập tối ông chủ bảo tôi cho mời ngài đến, và đưa ra mệnh lệnh về mấy cái cửa bị khóa. Cả buổi tối, mợ Richard cũng không như bình thường. Mợ ấy phải rời khỏi bàn ăn. Cậu Richard đã rất lo lắng."

"A," Poirot nói, " cô ấy phải rời khỏi bàn ư? Cô ấy có tới phòng này không?"

"Có, thưa ngài," Tredwell trả lời.

Poirot nhìn khắp căn phòng. Mắt ông dán chặt vào chiếc túi xách mà Lucia để quên trên bàn. "Tôi thấy là một trong số các quý cô đã bỏ quên túi của mình," ông quan sát khi cầm nó lên.

Tiến lại gần ông để nhìn chiếc túi xách, Tredwell nói với Poirot, "Là của mợ Richard, thưa ngài."

"Đúng vậy," Hastings xác nhận. "Tôi để ý thấy cô ấy đặt nó xuống đó ngay trước khi cô ấy rời khỏi phòng."

"Ngay trước khi cô ấy rời căn phòng, hử?" Poirot nói. "Thật tò mò." Ông đặt chiếc túi xuống chiếc trường kỷ, chau mày khó hiểu, và ông đứng đó, dường như lạc lối trong suy nghĩ.

"Về việc khóa cửa, thưa ngài," Tredwell tiếp tục sau khi dừng một chút. "Ông chủ bảo tôi –"

Bất chợt giật mình thoát khỏi cơn mơ, Poirot ngắt lời người quản gia. "Vâng, vâng, tôi phải nghe tất cả về việc đó. Chúng ta hãy đi qua đây," chỉ vào cánh cửa gần với tiền sảnh, ông gợi ý.

Tredwell đi tới cửa này, theo sau là Poirot. Tuy nhiên, Hastings tuyên bố có vẻ quan trọng, "Tôi nghĩ mình sẽ ở lại đây."

Poirot quay lại, và chăm chú nhìn Hastings thắc mắc. "Không, không, hãy đi cùng chúng tôi," ông yêu cầu người đồng nghiệp.

"Nhưng anh không nghĩ tốt hơn là –" khi Poirot ngắt lời ông, Hastings giờ bắt đầu nói một cách nghiêm túc và đầy ý nghĩa.

"Tôi cần sự hợp tác của anh, bạn tôi ơi," ông nói.

"Ồ, dĩ nhiên, trong trường hợp đó –"

Ba người đàn ông cùng nhau rời khỏi căn phòng, đóng cánh cửa đằng sau lại. Chỉ ít giây sau đó, cánh cửa dẫn ra hành lang được mở ra một cách thận trọng và Lucia lén lút bước vào. Sau khi liếc vội quanh phòng, để đảm bảo rằng không có ai ở đó, cô lại gầm cái bàn tròn ở giữa căn phòng và cầm tách cà phê của Sir Claud lên. Đôi mắt của cô, thứ vốn luôn diện lên vẻ ngây thơ, trong sáng, giờ đây ánh lên một cái nhìn hiểm ác, đanh thép, và cô đột nhiên trông già hẳn đi.

Lucia vẫn đứng im với cái tách trên tay, như thể vẫn chưa quyết định làm gì, khi cánh cửa dẫn tới tiền sảnh mở ra và Poirot bước vào thư viện một mình.

"Cho phép tôi, thưa mợ," Poirot nói, khiến Lucia trở nên kích động. Ông băng qua và lấy chiếc tách trên tay cô với một cử chỉ lịch sự đơn giản.

"Tôi – tôi – quay lại vì cái túi," Lucia thở dốc.

"À, vâng," Poirot nói. "Để xem nào, tôi đã thấy một chiếc túi xách nữ ở đâu ấy nhỉ? À phải rồi, ở đằng kia." Ông đi tới chiếc trường kỷ, cầm chiếc túi lên và trao nó cho Luica.

"Cảm ơn ông rất nhiều," cô ta nói, đồng thời liếc mắt nhìn láo liên xung quanh.

"Không có gì, thưa mợ."

Sau khi lo lắng cười sơ qua một cái với Poirot, Lucia nhanh chóng rời khỏi phòng. Khi cô đã đi rồi, Poirot đứng yên một lúc rồi cầm cốc cà phê lên. Sau khi cẩn thận ngửi nó, ông lấy ra từ túi một ống nghiệm, đổ một ít cặn từ cốc của Sir Claud vào và bịt ống lại. Nhét nó trở lại túi áo, sau đó ông bắt đầu nhìn khắp phòng, đếm to số cốc. "Một, hai, ba, bốn, năm, sáu. Phải, có sáu tách cà phê."

Một cái nhíu mày khó hiểu bắt đầu tụ lại giữa hai chân mày của Poirot, thì mắt ông đột nhiên bừng lên thứ ánh sáng màu xanh luôn báo hiệu trạng thái phấn khích bên trong. Di chuyển nhanh tới cánh cửa mà ông mới đi qua, ông mở cửa ra và đóng sầm lại một cách ầm ĩ, rồi lao tới khung cửa sổ kiểu Pháp, giấu mình sau những tấm rèm. Một lúc lâu sau, cánh cửa dẫn tới hành lang kia được mở ra lần nữa, và Lucia lại bước vào, lần này thậm chí còn thận trọng hơn trước đó, dường như cô rất cảnh giác. Trông có vẻ như cô đang nỗ lực để giữ cả hai cánh cửa trong tầm nhìn, cô vớ lấy cái tách cà phê mà Sir Claud đã uống và xem xét toàn bộ căn phòng.

Ánh mắt cô chiếu xuống chiếc bàn nhỏ gần cánh cửa dẫn tới đại sảnh, trên đó có đặt một chậu lớn trồng cây cảnh trong nhà. Đi tới chiếc bàn, Lucia dốc ngược chiếc cốc và cái chậu. Sau đó, cô lấy một trong số những cốc cà phê khác và đặt nó cạnh thi hài Sir Claud trong khi vẫn trông chừng cửa ra vào. Rồi cô nhanh chóng ra cửa, nhưng khi tới nơi, cánh cửa mở ra và Richard chồng cô bước vào cùng với một người đàn ông rất cao, tóc màu cát cháy, độ ngoài ba mươi tuổi, một người toát lên uy quyền dù sắc mặt có vẻ hòa nhã. Người mới đến mang một chiếc túi Gladstone (túi bác sĩ).

"Lucia!" Richard giật mình kêu lên. "Em đang làm gì ở đây vậy?"

"Em – em – tới để lấy cái túi." Lucia giải thích. "Xin chào, bác sĩ Graham. Xin thứ lỗi," cô nói, vội vã đi qua họ.

Khi Richard mải nhìn cô đi ra, Poirot chui ra từ sau tấm rèm, tiến lại chỗ hai người đàn ông như thể ông vừa mới bước vào phòng từ một cửa khác.

"À, đây là ngài Poirot. Để tôi giới thiệu. Ngài Poirot, đây là bác sĩ Graham. Kenneth Graham." Poirot và vị bác sĩ cúi chào nhau, và bác sĩ Graham lập tức đi đến thi thể của nhà khoa học đã quy tiên để khám nghiệm, Richard quan sát. Hercule Poirot, người mà họ không chú ý, đi lại khắp căn phòng, đếm lại số cốc cà phê với một nụ cười.

"Một, hai, ba, bốn, năm," ông lẩm nhẩm. "Quả thực là năm."

Trên gương mặt Poirot bừng lên một tia thích thú rõ ràng, và ông mỉm cười theo cách khó hiểu nhất của mình. Ông lấy ống nghiệm ra khỏi túi, ngắm nghía và chậm rãi lắc đầu.

Trong khi đó, bác sĩ Graham đã kết thúc cuộc khám nghiệm nhanh thi thể Sir Claud Amory.

"Tôi e rằng", anh ta nói với Richard, "tôi sẽ không thể ký giấy chứng tử. Sir Claud ở trong trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh, và dường như rất khó để mà ngài ấy bị một cơn đau tim bất ngờ. Tôi e rằng chúng ta sẽ phải tìm ra thứ ông ấy đã ăn hay uống vào những phút cuối đời."

"Trời đất ơi, việc đó là thực sự cần thiết sao?" Richard hỏi với chút lo sợ trong giọng nói. "Ông ấy không ăn hay uống cái gì khác với những người còn lại cả. Thật vô lý khi cho rằng –"

"Tôi không ám chỉ điều gì," bác sĩ Graham ngắt lời, nói rành rọt với chút uy quyền. "Tôi đang nói rằng, theo luật, sẽ phải có một cuộc điều tra, và nhân viên điều tra chắc chắn muốn biết nguyên nhân cái chết. Đơn giản là hiện tại tôi không biết điều gì đã gây ra cái chết của Sir Claud là gì. Tôi sẽ phải dời cái xác đi, và sắp xếp một buổi khám nghiệm tử thi vào sáng sớm ngày mai do vấn đề cấp bách. Tôi có thể sẽ quay lại với ông vào cuối ngày mai với một số bằng chứng rõ ràng."

Anh ta nhanh chóng rời khỏi phòng, theo sau là Richard vẫn đang quở trách. Poirot nhìn theo họ, rồi sau đó tỏ vẻ khó hiểu khi ông quay lại nhìn cái xác của người đàn ông đã gọi ông rời London bằng giọng khẩn nài.

"Tôi tự hỏi, đó là chuyện mà ngài muốn với với tôi chăng, bạn thân mến? Ngài lo sợ điều gì vậy?" ông tự nhủ. "Nó chỉ đơn giản là việc mất trộm công thức của ngài, hay ngài cũng lo sợ cho tính mạng của mình? Ngài cậy nhờ Hercule Poirot giúp đỡ. Ngài yêu cầu giúp đỡ quá trễ, nhưng tôi sẽ cố gắng để tìm ra sự thật."

Lắc đầu suy tư, Poirot chuẩn bị rời khỏi phòng thì Tredwell bước vào.

"Tôi đã chỉ cho vị kia phòng của ông ấy, thưa ngài," ông ta nói với Poirot. "Tôi có thể dẫn ngài tới phòng của ngài ở ngay đầu cầu thang chứ? Tôi cũng được phép tự do phục vụ bữa khuya cho cả hai ngài sau chuyến đi. Trên đường đi lên tầng trên, tôi sẽ chỉ cho ngài phòng ăn ở đâu."

Poirot lịch sự nghiêng đầu đồng ý.

"Cảm ơn ông rất nhiều, Tredwell," ông nói. "Nhân đây, tôi đặc biệt khuyên cậu Amory rằng căn phòng này cần được khóa chặt cho tới sáng mai, khi chúng ta có thêm thông tin về sự cố đau buồn tối nay. Ông sẽ thật tử tế khi đảm bảo căn phòng được an toàn khi chúng ta rời đi chứ?"

"Chắc chắn rồi, nếu ngài muốn thế thưa ngài," Tredwell trả lời khi Poirot đi trước ông ra khỏi thư viện.

Chương 8

Ngày hôm sau, khi Poirot đi xuống dùng điểm tâm muộn sau một giấc ngủ ngon và dài, ông thấy chỉ có mỗi mình ông đang dùng bữa. Qua Tredwell, ông biết được rằng Edward Raynor đã ăn sáng từ rất sớm trước đó, và đã trở lại phòng riêng để sắp gọn giấy tờ của Sir Claud, cậu mợ Amory đã dùng bữa sáng ở dãy buồng của họ và vẫn chưa xuất hiện, còn Barbara Amory đã mang một tách cà phê ra vườn, nơi mà có lẽ cô đang tắm nắng. Bà Caroline Amory có hơi đau đầu và gọi bữa sáng vào phòng, sau đấy Tredwell không gặp bà nữa.

"Sáng nay, ông có trông thấy ông Poirot không, Tredwell?" Hastings hỏi và được cho biết rằng bạn của ông đã dậy từ sớm và quyết định đi bộ tới làng.

"Tôi hiểu rằng ngài Poirot nói ngài ấy có một vài việc cần tiến hành ở đó," Tredwell nói thêm.

Sau khi kết thúc bữa sáng xa hoa với thịt xông khói, xúc xích, cùng bánh mì và cà phê, Hastings quay trở lại căn phòng êm ái ở tầng một, nơi mang đến khung cảnh lộng lẫy của một góc vườn và và cả cảnh Barbara Amory đang tắm nắng nữa, là điều mà trong ít phút Hastings cảm thấy thật xứng đáng. Mãi cho tới khi Barbara vào nhà thì Hastings mới yên ổn trên chiếc ghế bành với một tờ báo Times sáng hôm đó, dĩ nhiên là nó đã được in quá sớm để có bất kỳ nội dung nào đề cập tới cái chết của Sir Claud Amory tối hôm trước.

Hastings chuyển sang trang xã luận và bắt đầu đọc. Nửa giờ sau, ông tỉnh dậy sau một giấc ngủ nhẹ và thấy Poirot đang đứng chăm chú nhìn mình.

"A, mon cher (bạn thân mến), tôi thấy anh rất nỗ lực vì vụ này đấy," Poirot cười khúc khích.

"Poirot ơi, thực ra là tôi đã nghĩ về những vụ việc tối qua một hồi lâu lắm đấy," Hastings khẳng định. "Tôi chợp mắt tí thôi."

"Sao không được, hả bạn ơi?" Poirot trấn an ông. "Tôi ấy à, tôi cũng đang nghĩ về việc Sir Claud qua đời, và dĩ nhiên, cả vụ đánh cắp công thức quan trọng của ngài ấy nữa. Thực tế, tôi đã tiến hành một vài hành động, và tôi đang trực chờ từng phút một cú điện thoại tới để nhắn tôi biết liệu một nghi ngờ của mình có đúng hay không."

"Anh nghi ngờ ai hay điều gì vậy, Poirot?" Hastings hào hứng hỏi.

Poirot nhìn ra ngoài cửa sổ trước khi trả lời. "Không, tôi không nghĩ mình có thể tiết lộ điều đó cho anh ở giai đoạn này của trò chơi, bạn tôi à," ông lém lỉnh trả lời. "Nói thế này nhé, như các ảo thuật gia trên sân khấu muốn đảm bảo sự nhanh tay đánh lừa thị giác chúng ta."

"Thật sao, Poirot," Hastings kêu lên, "đôi khi anh có thể trở nên cực kỳ khó chịu. Tôi nghĩ anh ít nhất phải cho tôi biết người mà anh nghi ngờ đã lấy trộm công thức chứ. Dù gì, tôi có thể giúp anh bằng cách–"

Poirot ngăn người đồng nghiệp lại bằng một động tác tay uyển chuyển. Vị thám tử nhỏ bé lúc này đang khoác lên biểu cảm vô tội nhất của mình và trầm ngâm, chăm chú nhìn vào một khoảng xa bên ngoài cửa sổ.

"Anh thấy khó hiểu à, Hastings?" ông hỏi. "Anh đang tự hỏi tại sao tôi không bất ngờ nhảy bổ ra để đuổi bắt nghi phạm phải không?"

"Ờ thì – đại loại thế," Hastings thừa nhận.

"Chắc chắn, đó là điều anh sẽ làm nếu anh ở vị trí của tôi," Poirot thích chí quan sát. "Tôi hiểu điều đó. Nhưng tôi không phải kiểu người chỉ biết lăn xả, mò kim đáy bể, như người Anh các anh vẫn nói. Lúc này, tôi rất vui lòng chờ đợi. Vì sao tôi lại đợi – eh bien, đối với trí thông mình của Hercule Poirot đôi khi những thứ hết sức rõ ràng lại chẳng hề dễ hiểu đối với những người không được tài năng cho lắm."

"Chúa ơi, Poirot!" Hastings kêu lên. "Anh biết không, tôi sẽ trả một khoản kha khá để xem anh hành động một cách hoàn toàn ngớ ngẩn – chỉ một lần thôi. Anh đang tự phụ quá mức đấy!"

"Đừng ghen tị, Hastings thân mến ơi," Poirot nhẹ nhàng trả lời. "Thực tế, tôi thấy rằng có những lúc anh dường như đang dèm pha tôi ấy! Than ôi, tôi phải chịu những hình phạt lớn lao làm sao!"

Người đàn ông nhỏ thó ưỡn ngực và thở dài một cách hài hước đến nỗi Hastings buộc phải phì cười. "Poirot, anh thực sự là người tự phụ nhất về bản thân mà tôi từng biết đấy," ông tuyên bố.

"Anh sẽ làm gì? Khi người ta là duy nhất, người ta tự biết. Nhưng đối với những vấn đề nghiêm túc lúc này, Hastings thân mến. Để tôi nói cho anh biết, tôi đã đề nghị con trai Sir Claud, cậu Richard Amory gặp chúng ta tại thư viện trưa nay. Tôi nói "chúng ta", Hastings ạ, vì tôi cần anh ở đó, để quan sát kỹ, bạn tôi ạ."

"Như lệ thường, tôi sẽ rất vui mừng được giúp đỡ anh, Poirot ạ," bạn ông quả quyết.

Vào buổi trưa, Poirot cùng Hastings và Richard Amory gặp nhau ở thư viện, nơi mà thi thể của Sir Claud đã được dời đi từ khuya hôm trước. Trong khi Hastings lắng nghe và quan sát từ chỗ ngồi êm ái trên chiếc trường kỷ bọc nỉ, vị thám tử yêu cầu Richard Amory kể lại chi tiết các sự kiện của buổi tối trước khi ông đến. Khi kết thúc phần thuật lại các sự kiện, Richard đang ngồi trên chiếc ghế mà bố anh đã ngồi buổi tối trước đó, nói, "Chà, tôi nghĩ đó là tất cả. Tôi hi vọng mình đã nói rõ mọi thứ rồi nhỉ?"

"Rất hoàn hảo, cậu Amory ạ, hoàn hảo," Poirot đáp lời, tựa vào một bên tai ghế của chiếc ghế bành duy nhất trong phòng. "Giờ tôi có một hoạt cảnh rõ ràng." Nhắm mắt lại, ông cố gắng gợi lên cảnh tượng. "Kia là Sir Claud đang ngồi trên ghế, đang bao quát tình hình. Sau đó là bóng tối, tiếng gõ cửa. Vâng, thực là một khung cảnh có chút kịch tính."

"Chà," Richard nói, làm như muốn đứng dậy, "nếu đó là tất cả -"

"Chỉ một phút nhỏ nhoi thôi," Poirot nói, với một cử chỉ như muốn giữ anh ta lại.

Miễn cưỡng hạ mình xuống ghế một lần nữa, Richard hỏi, "Vâng?"

"Thế còn lúc đầu buổi tối thì sao, ông Amory?"

"Lúc đầu buổi tối?"

"Phải," Poirot nhắc. "Sau bữa tối."

"Ồ, cái đó!" Richard nói. "Thực sự không có gì nữa để kể. Bố tôi và thư ký của ông ấy, Raynor – Edward Raynor – đi thẳng vào phòng nghiên cứu của bố tôi. Những người còn lại chúng tôi thì ở đây."

Poirot tươi cười với Richard khích lệ. "Và mọi người đã – làm gì?"

"Ồ, chúng tôi chỉ nói chuyện. Chúng tôi mở máy hát trong hầu hết thời gian."

Poirot suy nghĩ một lúc. Sau đó ông hỏi, "Không có chuyện gì xảy ra đáng để ông nhớ lại à?"

"Không có gì," Richard rất nhanh chóng khẳng định.

Theo dõi anh ta kỹ lưỡng, Poirot hối thúc. "Khi nào cà phê được phục vụ?"

"Ngay sau bữa tối," là câu trả lời của Richard. Poirot thực hiện một chuyển động tròn bằng tay. "Người quản gia đi vòng tròn để đưa cà phê à, hay ông ta ông ta đặt nó ở đây để rót ra?"

"Tôi thực sự không thể nhớ được," Richard nói.

Poirot khẽ thở dài. Ông nghĩ một lúc, và sau đó hỏi, "Các cậu đều dùng cà phê chứ?"

"Vâng, tôi nghĩ vậy. Tất cả trừ Raynor. Anh ta không uống cà phê."

"Và cà phê của Sir Claud được mang vào phòng làm việc cho ngài ấy?"

"Tôi cho là vậy," Richard trả lời bằng giọng nói bắt đầu có chút bực bội. "Tất cả những chi tiết này thực sự cần thiết à?"

Poirot nhấc một cánh tay lên làm cử chỉ xin lỗi. "Tôi rất xin lỗi," ông nói. "Chỉ là tôi rất nóng lòng có được bức tranh toàn cảnh chân thật trong trí tưởng tượng của mình. Và, sau cùng, chúng ta rất muốn lấy lại công thức quý giá này, đúng không nào?"

"Tôi cho là vậy," lại là một câu trả lời khá ủ rủ của Richard, lúc đó lông mày của Poirot rướn lên một cách cường điệu và ông ngạc nhiên thốt lên. "Không, dĩ nhiên, dĩ nhiên rồi, chúng ta muốn chứ," Richard vội vàng bổ sung.

Poirot rời mắt khỏi Richard Amory, hỏi, "Giờ thì, Sir Claud đi từ phòng làm việc sang phòng này lúc nào?"

"Ngay khi bọn họ đang cố mở cái cửa đó," Amory nói với ông.

"Bọn họ?" Poirot hỏi, quay lại nhìn anh ta.

"Vâng. Raynor và những người khác."

"Tôi có thể hỏi ai muốn mở nó không?"

"Vợ tôi, Luicia," Richard nói. "Cô ấy cảm thấy không được khỏe suốt cả buổi tối."

Giọng Poirot đầy cảm thông khi anh ta trả lời, "La pauvre dame (quý cô tội nghiệp)! Tôi hi vọng sáng nay cô ấy thấy khỏe hơn rồi? Còn một, hai điều mà tôi khẩn nài muốn hỏi cô ấy."

"Tôi e điều đó là không thể," Richard nói. "Cô ấy không có nhiệm vụ phải gặp ai, hay trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Bất luận thế nào, chẳng có điều gì cô ấy có thể kể mà tôi không kể được."

"Đúng thế, đúng thế," Poirot xoa dịu anh ta. "Nhưng phụ nữ có khả năng rất giỏi trong việc quan sát mọi thứ chi tiết, cậu Amory ạ. Thêm vào đó, chắc chắn bác của cậu, bà Amory cũng sẽ như thế."

"Cô ấy đang ở trên giường," Richard hấp tấp nói. "Cái chết của bố tôi là một cú sốc lớn đối với cô ấy."

"Vâng, tôi hiểu," Poirot ân cần nói. Có một khoảng lặng. Richard trông có vẻ khó chịu, đứng lên và quay sang khung cửa sổ kiểu Pháp. "Chúng ta đi hít thở chút nào," anh ta tuyên bố. "Ở đây rất nóng."

"A, cậu cũng giống như bao người Anh khác," Poirot mỉm cười bày tỏ. "Không khí thoáng đãng thật tốt, cậu sẽ không để cửa mở đấy chứ. Không! Nó cần được tràn vào trong nhà."

"Tôi hi vọng ông không phiền chứ?" Richard hỏi.

"Tôi ư?" Poirot nói. "Không, dĩ nhiên là không. Tôi đã làm theo tất cả các thói quen của người Anh. Ở đâu tôi cũng bị tưởng là một người Anh."

Trên chiếc sô pha nhỏ, Hastings không thể nhịn cười. "Nhưng, thứ lỗi cho tôi, cậu Amory, chẳng phải cái cửa sổ đó được khóa bằng mấy thiết bị tinh xảo sao?"

Richard nói, "Nhưng chìa khóa của nó nằm ở chùm chìa khóa của bố tôi mà tôi đang giữ đây. Lấy những chiếc chìa khóa ra khỏi túi, anh đến bên cửa sổ kiểu Pháp và tháo chốt, mở tung cửa sổ; tránh xa chỗ anh ta, Poirot ngồi trên ghế đẩu, xa hẳn cửa sổ kiểu Pháp và không khí trong lành, ông rùng mình trong khi Richard hít một hơi sâu rồi đứng đó nhìn ra vườn một lúc, trước khi quay lại chỗ Poirot với phong thái của một người đã đi đến một quyết định.

"Ông Poirot," Richard Amory bày tỏ, "Tôi sẽ không vòng vo. Tôi biết vợ tôi đã khẩn cầu ông ở lại đêm qua, nhưng cô ấy bị lo lắng và bấn loạn, và gần như không biết điều mà cô ấy đang làm. Tôi là người có liên quan, và tôi nói thẳng với ông rằng tôi chả quan tâm đếch gì tới cái công thức. Bố tôi là người giàu có. Phát hiện này của bố đáng giá cả đống tiền, nhưng tôi không cần nhiều hơn những gì tôi có, và tôi không thể vờ như chung niềm nhiệt huyết với ông ấy trong chuyện này được. Thế giới này có đủ chất nổ rồi."

"Tôi hiểu," Poirot ân cần nói.

"Điều tôi muốn nói," Richard tiếp tục, "là chúng ta nên để cho toàn bộ sự việc lắng xuống."

Lông mày Poirot rướn lên khi ông tỏ vẻ giống như ngạc nhiên. "Cậu muốn tôi rời đi hơn?" ông hỏi. "Rằng tôi không nên điều tra thêm?"

"Vâng, đúng thế." Richard Amory nghe có vẻ không được thoải mái khi anh ta quay lưng lại với Poirot.

"Nhưng," vị thám tử vẫn kiên trì, "dù kẻ đánh cắp công thức là ai thì chúng sẽ không đi trộm mà không tận dụng nó."

"Đúng vậy," Richard thừa nhận. Anh ta quay lại với Poirot. "Nhưng còn –"

Poirot tiếp tục một cách từ tốn và ý nhị, "Vậy ông không phản đối – tôi nên diễn tả thế nào nhỉ - sthe stigma (việc đáng xấu hổ)?"

"Stigma?" Richard gắt lên.

"Năm người –" Poirot giải thích cho anh ta, "năm người có cơ hội đánh cắp công thức. Bốn người kia không thể được chứng minh là vô tội cho tới khi có một người bị chứng minh là có tội."

Tredwell đã bước vào phòng trong lúc Poirot đang nói. Khi Richard bắt đầu lắp bắp lưỡng lự, "Tôi – điều đó là –" người quản gia đã ngắt lời anh ta.

"Xin được thứ lỗi, thưa cậu," ông ta nói với ông chủ của mình, "nhưng bác sĩ Graham đang ở đây, và muốn gặp cậu."

Rõ ràng vui mừng về cơ hội thoát những câu hỏi tiếp theo của Poirot, Richard trả lời, "tôi sẽ tới ngay," đi ra cửa khi anh ta nói. Quay sang Poirot, anh ta lịch sự hỏi khi rời đi với Tredwell, "Ông thứ lỗi cho tôi chứ?"

Khi hai người đã đi khỏi, Hastings đứng dậy khỏi chiếc trường kỷ và lại gần Poirot, vỡ òa trong niềm phấn khích.

"Tôi nói này!" ông kêu lên. "đầu độc, nhỉ?"

"Sao cơ, Hastings thân mến?" Poirot hỏi.

"Đầu độc, chắn chắn đấy!" Hastings lặp lại, hùng hồn gật đầu.

Poirot quan sát bạn mình với đôi mắt ánh lên niềm thích thú. "Anh thật ấn tượng, Hastings thân mến! ông thốt lên. "Anh nhảy đến kết luận với sự mau lẹ và lỗi lạc làm sao!"

"Giờ thì, Poirot," Hastings cự lại, "anh không thể vùi dập tôi kiểu đó. Anh sẽ không giả vờ rằng anh nghĩ ông bạn già này chết vì bệnh tim. Chuyện xảy ra đêm qua rõ ràng đập ngay trước mắt. Nhưng tôi phải nói rằng Richard Amory không thể nào là một gã sáng dạ. Khả năng đầu độc dường như không nảy ra với anh ta được."

"Anh nghĩ không ư, bạn của tôi?" Poirot hỏi.

"Tôi nhận ra điều ấy tối qua, khi bác sĩ Graham cho biết ông ấy không thể cấp giấy chứng tử và nói rằng sẽ phải khám nghiệm tử thi."

Poirot khẽ thở dài. "Phải, phải," ông vỗ về nói. "Đấy là kết quả khám nghiệm mà bác sĩ Gramham công bố sáng nay. Chúng ta sẽ biết liệu anh có đúng hay không ngay đây thôi." Poirot có vẻ định nói thêm gì đó, nhưng rồi tự ngừng lại. Ông di chuyển đến chỗ lò sưởi và bắt đầu điều chỉnh hũ đựng que đóm dùng để nhóm lửa.

Hastings nhìn ông trìu mếm. "Tôi bảo này anh Poirot," ông cười, "anh đúng là một gã sinh ra để ngăn nắp."

"Kết quả không hài lòng hơn sao?" Poirot hỏi khi ông quan sát bệ lò sưởi với cái đầu nghẹo sang một bên.

Hastings khịt mũi. "Tôi có thể nói trước đó nó chẳng làm tôi bận tâm lắm."

"Coi chừng đó!" Poirot nói, xua ngón tay nhắc nhở. "Sự cân đối là tất cả. Tất cả mọi nơi đều cần sự gọn gằng và ngăn nắp, đặc biệt là những tế bào chất xám nhỏ nhỏ trong não." Ông gõ ngón tay vào đầu khi nói.

"Ồ, thôi nào, đừng lải nhải về trò tiêu khiển của anh nữa," Hastings nài nỉ. "Chỉ cần nói tôi biết những tế bào chất xám bé nhỏ quý báu của anh làm được những gì trong vụ này rồi."

Poirot đi đến chỗ trường kỷ và ngồi xuống trước khi trả lời. Ông bình tĩnh đánh giá Hastings, mắt ông nheo lại như mắt mèo cho tới khi chúng chỉ lộ ra một tia lục quang. "Nếu anh sử dụng tế bào chất xám của mình và cố gắng nhìn rõ toàn bộ vụ việc – như tôi đã làm – có lẽ anh đã nhận ra sự thật, bạn tôi ơi," ông tuyên bố một cách tự mãn. "Tuy nhiên," ông tiếp tục bằng một tông giọng ám chỉ rằng ông làm như mình đang cư xử hào hiệp lắm, "trước khi bác sĩ Graham tới, trước tiên chúng ta hãy nghe những ý tưởng của anh bạn Hastings của tôi đã nào."

"Ờ thì," Hastings bắt đầu một cách hồ hởi, "chiếc chìa khóa được tìm thấy dưới ghế người thư ký rất đáng ngờ."

"Anh nghĩ như vậy à, Hastings?"

"Đương nhiên," bạn ông đáp lại. "Rất đáng nghi. Nhưng về tổng thể, tôi hoàn toàn nghiêng về vị người Ý."

"A!" Poirot nói khẽ. "Bác sĩ Carelli bí ẩn."

"Bí ẩn, chính xác," Hastings tiếp tục. "Đó chính là là từ phù hợp với ông ta. Anh ta làm gì ở đây trên cái đất nước này? Tôi sẽ cho anh biết. Anh ta theo đuổi công thức của Sir Claud Amory. Gần như chắc chắn gã là gián điệp của chính phủ nước ngoài. Anh hiểu ý tôi nói là gì rồi đấy."

"Tôi hiểu, thật đấy Hastings," Poirot đáp lại với một nụ cười. "Anh biết đấy, dù gì thì thi thoảng tôi cũng có đi xem phim mà."

"Và nếu sự việc Sir Claud bị đầu độc là thật –" Hastings giờ đây đang rất tự tin – "nó khiến Bác sĩ Carelli trở thành nghi phạm chính hơn bao giờ hết. Nhớ gia đình Borgias* chứ? Đầu độc chính là một kiểu tội phạm rất Ý. Nhưng điều mà tôi lo ngại là Carelli sẽ bỏ trốn cùng với công thức mà hắn có trong tay."

(*Borgias: gia đình Borgia người Ý, nổi tiếng với việc chuyên sử dụng arsen để đầu độc người khác trong tranh giành quyền lực chính trị cũng như tài sản ở Thế kỷ 15 -16.)

"Anh ta sẽ không làm thế, bạn tôi ơi," Poirot lắc đầu nói.

"Làm thế quái nào mà anh lại chắc chắn thế?" Hastings vặn hỏi.

Poirot dựa lưng vào ghế và chập mười đầu ngón tay vào nhau theo cách quen thuộc. "Tôi không biết chính xác, Hastings ạ," ông thừa nhận. "Dĩ nhiên, tôi không thể chắc chắn được. Nhưng tôi có một ý tưởng nho nhỏ."

"Ý anh là gì?"

"Anh nghĩ hiện giờ công thức đó đang ở đâu, hả người cộng sự?" Poirot hỏi.

"Làm sao tôi biết?"

Poirot nhìn Hastings một lúc, như thể đang cho bạn mình cơ hội để xem xét câu hỏi. Sau đó, ông khích lệ, "Nghĩ đi, bạn tôi ơi." "Sắp xếp các ý tưởng của anh. Có phương pháp. Có thứ tự. Đó là bí quyết thành công."

Khi Hastings chỉ biết lắc đầu với vẻ lúng túng, vị thám tử nỗ lực trao cho đồng nghiệp của ông một manh mối. "Chỉ có duy nhất một nơi có thể," Poirot nói với ông.

"Vì Chúa, đó là đâu?" Hastings hỏi với một tông giọng rõ là bị chọc tức rồi.

"Tất nhiên là trong phòng này," Poirot tuyên bố, trên gương mặt ông hiện ra một nụ cười hoan hỉ đắc thắng ngoác đến tận mang tai như chú mèo Chashire*.

(*Cheshire: chú mèo trong truyện/phim Alice ở xứ sở thần tiên)

"Ý anh là cái gì cơ?"

"Nhưng đúng đấy, Hastings ạ. Cứ xem xét các bằng chứng mà xem. Chúng ta biết được từ Tredwell tốt bụng rằng Sir Claud đã có sự đề phòng nhất định để ngăn công thức bị đem ra khỏi căn phòng này.Khi ngài ấy tỏ ra chút ngạc nhiên và tuyên bố chúng ta sắp tới nơi, do đó, khá chắn chắn là tên trộm vẫn còn công thức trên người hắn. Hắn phải làm gì? Hắn không dám mạo hiểm để nó bị tìm thấy trên người hắn khi chúng ta đến. Hắn chỉ có thể làm hai việc. Hắn có thể trả lại nó theo cách mà Sir Claud đã đưa ra, nếu không hắn có thể giấu nó ở đâu đó, dưới sự che chở của bóng tối trong vòng một phút ấy. Do hắn không làm điều thứ nhất, vậy chắn hẳn hắn đã làm điều thứ hai. Voila (Đây)! Với tôi, rõ ràng là công thức được giấu trong căn phòng này."

"Chúa mới biết, Poirot ạ," Hastings kêu lên trong niềm phấn khích tột độ, "Tôi tin anh đúng! Chúng ta hãy tìm nó đi." Ông nhanh chóng đứng dậy, và đi tới bàn làm việc.

"Tất nhiên rồi, nếu điều đó làm anh vui," Poirot đáp lại. "Nhưng có người có thể sẽ tìm ra nó dễ dàng hơn anh đó."

"Ồ, và đó là ai vậy?" Hastings hỏi.

Poirot vân vê ria mép với một lực mạnh.

"Tại sao, kẻ đó lại giấu nó, parbleu (trời ơi)! Ông kêu lên, kèm theo lời nói là một cử chỉ mà để một ảo thuật gia dùng khi lôi thỏ từ mũ ra thì sẽ hợp hơn.

"Ý anh là –"

"Ý tôi là," Poirot kiên nhẫn giải thích cho người đồng nghiệp của mình, "sớm hay muộn thì tên trộm thì tên trộm cũng sẽ cố gắng lấy lại chiến lợi phẩm của hắn. Do đó, một hay hai người trong chúng ta vẫn phải luôn đề cao cảnh giác –" Nghe thấy tiếng cửa từ từ và thận trọng được mở ra, ông ngắt lời và vẫy tay ra hiệu cho Hastings đến với ông bên chiếc máy hát, ra khỏi tầm nhìn tức thời của bất cứ người nào vừa bước vào phòng.

Chương 10

Cánh cửa mở ra, và Barbara Amory thận trọng bước vào trong. Lấy một cái ghế gần tường, cô đặt nó phía trước giá sách, leo lên và với lấy chiếc hộp thiếc đựng thuốc. Đúng lúc đó, Hastings đột nhiên hắt hơi, và Barbara giật mình đánh rơi chiếc hộp.

"Ối!" cô kêu lên trong ngượng ngùng. "Tôi không biết có người ở đây."

Hastings lao thẳng tới và nhặt cái hộp lên, sau đấy Poirot lại lấy nó khỏi ông.

"Cho phép tôi, mademoiselle (thưa tiểu thư), vị thám tử nói. "Tôi chắc chắn nó quá nặng với cô."

Ông di chuyển tới chiếc bàn ở giữa và đặt cái hộp thiếc lên đó. "Nó là một bộ sưu tập nhỏ của cô phải không?" ông hỏi. "Trứng chim? Hay là vỏ sò chăng?"

"Tôi e là nó tầm thường hơn thế, thưa ngài Poirot," Barbara trả lời, cười bối rối. "Chẳng có gì ngoài thuốc viên và thuốc bột!"

"Nhưng chắc chắn," Poirot nói, "một phụ nữ trẻ trung, tràn trề sức sống và sinh lực không cần đến những thứ tầm thường này chứ nhỉ?"

"Ồ, không phải cho tôi," Barbara quả quyết với ông. "Nó dành cho Lucia. Chị ấy bị đau đầu khủng khiếp hồi sáng nay."

"La pauvre dame (người phụ nữ tội nghiệp)," Poirot khẽ nói, giọng ông thấm đẫm niềm cảm thông. "Vậy thì, mợ ấy nhờ cô tới lấy những viên thuốc này à?"

"Vâng," Barbara trả lời. "Tôi đã đưa mấy viên thuốc aspirin, nhưng chị ấy muốn chất kích thích thật cơ. Tôi bảo tôi sẽ đem lên toàn bộ đồ nghề - đấy là, nếu không có ai ở đây."

Poirot tì tay lên cái hộp, ân cần nói.

"Nếu không có ai ở đây. Sao điều đó lại quan trọng, thưa bà?"

"Ờ thì, ông biết điều đó là gì ở một nơi như thế này mà," Barbara giải thích. "Ồn ào, rối rít, nhặng xị (fuss, fuss, fuss)! Ý tôi là, bác Caroline chẳng hạn, giống như một cô gà mái già xinh đẹp! Và Richard là một mối phiền toái chết tiệt, hơn nữa lại hoàn toàn vô dụng như bao gã đàn ông thường hay thế khi có người bị ốm."

Poirot gật đầu thấu hiểu. "Tôi hiểu, tôi hiểu," ông nói với Barbara, cúi đầu xuống như một dấu hiệu rằng ông chấp nhận lời giải thích của cô. Ông miết những ngón tay dọc theo nắp chiếc hộp chứa thuốc, rồi nhìn nhanh xuống tay. Ngừng lại một chút, ông hắng giọng bằng một âm thanh hơi thiếu tự nhiên, rồi tiếp tục, "Thưa tiểu thư, cô có biết rằng mình rất may mắn với những người đầy tớ có trong nhà không?"

"Ý ông là sao?" Barbara hỏi.

Poirot cho cô xem cái hộp thiếc.

"Thấy không -" ông chỉ, "trên chiếc hộp này không có lấy một hạt bụi. Để trèo lên ghế và phủi bụi ở cao tít trên kia – không phải mọi người hầu trong nhà đều tận tâm như thế."

"Vâng," Barbara đồng tình. "Tôi nghĩ thật kỳ lạ là tối qua nó không hề bụi bặm."

"Cô đã lấy hộp thuốc này xuống tối qua ư?" Poirot hỏi.

"Vâng, sau bữa tối. Ông biết đấy, nó có đầy đồ cũ của bệnh viện."

"Chúng ta hãy nhìn những loại thuốc của bệnh viện này xem," Poirot đề nghị khi ông mở chiếc hộp. Lấy ra một vài ống đựng thuốc và giơ chúng lên, ông rướn mày một cách cường điệu.

"Thuốc strychnin* - atropin* - một bộ sưu tập nhỏ bé rất thú vị! A! Một ống hyoscine này, gần hết rồi!"

(*strychnin: thuốc biệt dược dạng dung dịch tiêm hoặc uống, điều trị nhược cơ, mệt mỏi, mới ốm dậy, kém ăn...

*atropin: thuốc dạng dung dịch tiêm, điều trị triệu chứng co thắt cơ trơn của bộ máy tiêu hóa, đường mật, đau quặn thận; ngộ độc thuốc trừ sâu...; nhịp tim chậm, tụt huyết áp trong hồi sức cấp cứu tim –phổi sau nhồi máu cơ tim do dùng nitroglycerin, ngộ độc digitalis hoặc do thuốc halothan, propofol, suxamethonium; tiền mê...

*hyoscine: thuốc biệt dược dùng để điều trị co thắt đường tiêu hóa, viêm dạ dày, loét dày dày – tá tràng, táo bón do co thắt, viêm đại tràng; đau do sỏi thân, sỏi mật...)

"Cái gì?" Barbara kêu lên. "Sao cơ, chúng vẫn còn đầy ống tối qua mà. Tôi chắc chắn là thế."

"Voilà (đây)! Poirot giơ cái ống ra cho cô, rồi đặt lại vào trong hộp. "Việc này rất kỳ lạ. Cô nói tất cả những thứ be bé này – cô gọi chúng là gì ấy nhỉ - ống đựng thuốc – còn đầy? Chính xác thì cái hộp này ở chỗ nào tối qua, thưa bà?"

"Chà, khi chúng tôi lấy nó xuống, chúng tôi đặt nó trên chiếc bàn này," Barbara cho biết. "Và Bác sĩ Carelli xem qua các loại thuốc, nhận xét về chúng và –"

Cô dừng lại khi Lucia bước vào. Vợ của Richard Amory trông ngạc nhiên khi thấy hai người đàn ông này. Gương mặt nhợt nhạt, kiêu ngạo của cô có vẻ tiều tụy dưới ánh sáng ban ngày, và có gì đó u sầu trên đường cong khóe miệng của cô.

Barbara hối. "Ôi, chị yêu, chị đáng lẽ không nên dậy," cô bảo Lucia. "Em vừa định tới chỗ cháu."

"Cơn đau đầu của chị đỡ rồi, Barbara thân mến," Lucia trả lời, mắt cô dán lên người Poirot. "Chị xuống dưới này vì chị muốn nói chuyện với ngài Poirot."

"Nhưng, chị yêu quý, em không nghĩ là chị nên –"

"Thôi nào, Barbara."

"Ồ, tốt thôi, chị biết rõ nhất mà," Barbara nói khi cô đi ra cánh cửa mà Hastings đã vội vã mở giúp. Khi cô ta đi rồi, Lucia đi tới một chiếc và ngồi xuống.

"Ngài Poirot –" cô mở lời.

"Tôi sẵn sàng rồi đây, thưa mợ," Poirot lịch sự đáp lại.

Lucia ngập ngừng nói, và giọng cô có chút run rẩy.

"Ngài Poirot," cô lại mở lời, "tối qua tôi đã yêu cầu ngài một việc. Tôi đã đề nghị ngài ở lại đây. Tôi – tôi đã khẩn nài ngài làm như vậy. Sáng nay, tôi thấy mình đã lầm."

"Bà chắc chứ, thưa bà?" Poirot trầm lặng hỏi.

"Hoàn toàn chắc chắn. Đêm qua tôi rất lo lắng và căng thẳng. Tôi rất biết ơn ông vì những gì tôi đã yêu cầu ông làm, nhưng giờ ông nên đi đi thì tốt hơn."

"A, c'est comme ca (ra là thế)," Poirot khẽ thì thầm. Nói lớn, "Tôi hiểu rồi, thưa mợ", câu trả lời của ông chỉ đơn thuần là vô thưởng vô phạt.

Đứng dậy, Lucia lo lắng liếc nhìn ông khi cô hỏi, "Thế là ổn rồi chứ?"

"Không hẳn, thưa mợ," Poirot trả lời, tiến một bước về phía cô. "Nếu mợ còn nhớ, mợ đã tỏ ra nghi ngờ về việc bố chồng mình đã chết một cách tự nhiên."

"Tối qua tôi đã hoảng loạn," Lucia khăng khăng. "Tôi không biết rằng mình đang nói gì."

"Vậy giờ mợ đã tin," Poirot vẫn kiên trì, "rằng sau tất cả mọi chuyện, cái chết của ông ấy là bình thường?"

"Dĩ nhiên," Lucia tuyên bố.

Lông mày Poirot nhướn lên một chút. Ông im lặng nhìn cô.

"Sao ngài lại nhìn tôi như thế? Lucia hỏi với giọng cảnh giác.

"Bởi vì, thưa mợ, đôi khi thật khó khăn để cho chó đánh hơi mùi hương (set a dog on the scent). Nhưng một khi nó đã tìm ra, chẳng có gì trên đời này khiến nó bỏ đi. Sẽ không nếu nó là một con chó cừ khôi. Và tôi, thưa mợ, tôi, Hercule Poirot là một con chó rất cừ khôi!"

Trong niềm kích động tột độ, Lucia tuyến bố, "Ôi! Nhưng ngài phải, ngài thực sự phải rời đi. Tôi xin ngài, tôi cầu xin ngài. Ngài không biết điều gì có thể tổn hại ngài nếu còn ở lại!" (you don't know what harm you may do by remaining)

"Làm hại?" Poirot hỏi. "Tới mợ ư, thưa mợ?"

"Tới tất cả chúng ta, ngài Poirot ạ. Tôi không thể giải thích thêm, nhưng tôi xin ngài hãy chấp nhận lời nói của tôi là như thế đi. Ngay từ giây phút đầu tiên tôi thấy ngài, tôi đã tin tưởng ngài. Làm ơn –"

Cô dừng lại khi cánh cửa mở ra, và Richard, trông như bị sốc, bước vào cùng với bác sĩ Graham. "Lucia!" Chồng cô kêu lên khi anh bắt gặp cô.

"Richard, gì thế này?" Lucia lo lắng hỏi khi cô lao về phía anh ta. "Xảy ra chuyện gì sao? Có chuyện gì mới diễn ra à, em có thể nhìn ra trên gương mặt anh. Là chuyện gì thế?"

"Không có gì đâu, em yêu," Richard trả lời với nỗ lực trấn an trong giọng nói. "Em không phiền nếu rời khỏi đây một lát chứ?"

Mắt Lucia dò xét gương mặt chồng. "Em không thể - " cô mở lời, nhưng ngập ngừng khi Richard đi tới mở cửa.

"Thôi nào," anh lặp lại.

Với cái nhìn ngoái lại lần cuối mà ở đó chất chứa nỗi sợ hãi rõ rệt, Lucia rời khỏi phòng.

Chương 11

Đặt chiếc túi Gladsone lên bàn uống nước, bác sĩ Graham băng tới chiếc trường kỷ và ngồi xuống. "Tôi e rằng đây là chuyện xấu, ngài Poirot ạ," ông thông báo với vị thám tử.

"Ông nói là chuyện xấu ư? Vâng? Ông đã phát hiện ra nguyên nhân cái chết của Sir Claud rồi? Poirot hỏi.

"Cái chết của ngài ấy là do ngộ độc một chất alkaloid* mạnh có nguồn gốc thực vật," Graham tuyên bố.

(*alkaloid: là hợp chất hữu cơ có chứa dị vòng ni-tơ và có tính ba-zơ, thường có nguồn gốc thực vật, có hoạt tính sinh lý cao đối với người và động vật, nhất là đối với hệ thần kinh, một lượng nhỏ alkaloid cũng có thể giết chết một người trưởng thành hoặc là thần dược đặc trị bệnh nếu sử dụng đúng liều lượng. Một số alkaloid phổ biến: Cocain, nicotin, morphin...)

"Chẳng hạn như hyoscin, chăng?" Poirot gợi ý, cầm cái hộp đựng thuốc bằng thiếc trên bàn lên.

"Sao cơ, vâng, chính xác." Bác sĩ Graham nghe có vẻ ngạc nhiên trước phỏng đoán chính xác của vị thám tử. Poirot mang cái hộp sang phía bên kia căn phòng, đặt nó trên chiếc bàn để máy hát, và Hastings theo ông tới đó. Trong khi đó, Richard Amory ngồi xuống cùng vị bác sĩ trên chiếc trường kỷ.

"Thực sự, nó có nghĩa là gì vậy?" Richard hỏi bác sĩ Graham.

"Vì một lẽ, nó có sự dính líu của cảnh sát," là câu trả lời mau lẹ của Graham.

"Chúa ơi!" Richard kêu lên. "Tệ thật. Ông không thể lấp liếm chuyện này à?"

Bác sĩ Graham nhìn Richard Amory một cách điềm tĩnh trước khi nói một cách từ tốn và thận trọng. "Richard thân mến," ông nói. "Tin tôi đi, không ai có thể đau buồn trước cái tai ương khủng khiếp này hơn tôi đâu. Đặc biệt là, trong hoàn cảnh này, chẳng có vẻ gì là chất độc là do tự tiêm được."

Richard dừng lại vài giây trước khi lên tiếng. "Ông đang nói đây là giết người ư?" anh ta hỏi giọng run rẩy.

Bác sĩ Graham không nói nhưng gật đầu nghiêm nghị.

"Giết người!" Richard kêu lên. "Chúng ta sẽ phải làm cái khỉ gì đây?"

Theo cách nhanh hơn, hiệu quả hơn, Graham giải thích quy trình cần được tuân theo. "Tôi đã thông báo cho nhân viên điều tra. Cuộc thẩm tra chính thức sẽ diễn ra vào ngày mai ở quán rượu the Kings Arms."

"Và – ý ông là – cảnh sát sẽ phải tham gia vào? Không có cách nào thoát khỏi chuyện này à?"

"Không có. Chắc chắn anh phải nhận ra điều ấy chứ, Richard?" bác sĩ Graham nói.

Giọng Richard phát cuồng khi anh bắt đầu kêu lên, "Nhưng tại sao ông không báo trước cho tôi là –"

"Thôi nào, Richard. Tự kiềm chế nào. Tôi chắc chắn cậu hiểu là tôi chỉ thực hiện những bước như vậy vì tôi nghĩ nó hoàn toàn cần thiết," Graham ngắt lời anh ta. "Sau cùng thì không nên mất thời gian vào những cấn đề như thế này."

"Chúa ơi!" Richard kêu lên.

Bác sĩ Graham nói với Amory bằng giọng dễ chịu hơn. "Richard, tôi hiểu. Tôi rất hiểu. Đây là một cú sốc tồi tệ đối với cậu. Nhưng có những thứ tôi phải hỏi cậu. Cậu có công tâm để trả lời vài câu hỏi không?"

Richard đã nỗ lực rõ ràng để lấy lại bình tĩnh. "Ông muốn biết điều gì?" anh ta hỏi.

"Trước tiên," Graham nói, "Đồ ăn, thức uống gì mà cha cậu đã dùng trong bưa tối tối qua?"

"Để xem nào, tất cả chúng tôi đều dùng đồ như nhau. Súp, cá bơn chiên, cốt-lết, và chúng tôi kết thúc với salad hoa quả."

"Thế còn đồ uống?" bác sĩ Graham tiếp tục. Richard cân nhắc một hồi trước khi trả lời. "Cha và bác tôi uống vang đỏ burgunday. Tôi nghĩ Raynor cũng thế. Tôi dùng whisky và soda, còn Bác sĩ Carelli – phải rồi, Bác sĩ Carelli uống vang trắng trong suốt bữa ăn."

"À, phải, Bác sĩ Carelli bí ẩn," Graham lẩm bẩm. "Thứ lỗi cho tôi, Richard, nhưng chính xác thì cậu biết về người đàn ông này được bao nhiêu?"

Thấy thú vị khi nghe câu trả lời của Richard cho vấn đề này, Hastings đi tới gần hai người đàn ông này hơn. Trong câu trả lời cho bác sĩ Graham, Richard tuyên bố, "Tôi không biết gì về anh ta. Tôi chưa từng gặp, hay thậm chí nghe về anh ta cho tới tận hôm qua."

"Nhưng anh ta là bạn của vợ cậu?" vị bác sĩ hỏi.

"Rõ ràng anh ta là bạn."

"Cô ấy có biết tường tận về anh ta không?"

"Ồ, không, anh ta chỉ là một người quen thôi, tôi đoán vậy."

Graham tặc lưỡi một cái, và lắc đầu. "Tôi hi vọng, cậu không cho phép anh ta rời khỏi ngôi nhà này chứ?" ông hỏi.

"Không, không," Richard quả quyết. "Đêm qua, tôi lưu ý với anh ta rằng cho tới khi vấn đề này được giải quyết – chuyện công thức bị đánh cắp, ý tôi là – thì tốt nhất anh ta nên lưu lại trong ngôi nhà này. Thực tế, tôi đã cho người tới nhà nghỉ, nơi anh ta ở và mang đồ của anh ta lên đây."

"Anh ta không phản đối chút nào à?" Graham ngạc nhiên hỏi.

"Ồ, không, thực tế thì anh ta đồng ý một cách khá nhiệt tình."

"Hừm," là lời đáp lại duy nhất của Graham. Sau đó, ông nhìn Richard hỏi, "Thế giờ, căn phòng này thì sao?"

Poirot đến gần hai người. "Những cánh cửa được Tredwell - người quản gia ấy, khóa lại đêm qua" ông cam đoan với bác sĩ Graham, "và chìa khóa được giao cho tôi. Tất cả mọi thứ chính xác như cũ, ngoại trừ việc chúng ta đã di chuyển những cái ghế, như ông thấy đấy."

Bác sĩ Graham nhìn tách cà phê trên bàn.

Chỉ vào nó, ông hỏi, "Có phải cốc đó không?" Ông băng tới bàn, cầm cái tách lên và ngửi. "Richard," ông hỏi, "đây có phải cốc mà cha anh đã uống không? Tốt hơn tôi nên mang nó đi. Nó phải được phân tích." Mang cái tách qua bàn uống cà phê, ông mở túi.

Richard đứng phắt dậy. "Hẳn là ông không nghĩ –" anh mở lời, nhưng rồi đột nhiên ngừng lại.

"Có vẻ rất khó có thể xảy ra," Graham nói với anh, "việc chất độc được sử dụng vào bữa tối. Lời giả thích có vẻ phù hợp nhất là hyoscine đã được bỏ vào trong cà phê của Sir Claud."

"Tôi – tôi –" Richard cố gắng thốt lên khi anh ta nhỏm dậy và tiến một bước về phía vị bác sĩ, nhưng rồi khựng lại với một cử chỉ tuyệt vọng và bất ngờ rời bỏ căn phòng qua lối cửa sổ kiểu Pháp ra vườn.

Graham lấy ra từ túi một hộp bông nhỏ bằng bìa cứng và cẩn thẩn bọc chiếc cốc vào đó, nói với Poirot khi ông làm việc đó. "Một vụ khó chịu," ông giãi bày. "Tôi chẳng lấy gì làm ngạc nhiên là Richard đau khổ. Các tờ báo sẽ quan tâm nhất đến tình bạn giữa tay bác sĩ người Ý và vợ cậu ta. Và mud tends to stick (quạ nào mà chẳng đen đầu), ngài Poirot ạ. Mud tends to stick (quạ nao mà chả đen đầu). Cô gái đáng thương! Cô ấy gần như hoàn toàn vô tội. Người này rõ ràng đã làm quen với cô ấy bằng miệng lưỡi khéo léo. Những người ngoại quốc này, họ thông minh một cách đáng kinh ngạc. Dĩ nhiên, tôi cho là mình không nên nói như thể điều này là một kết luận mang tính định kiến, nhưng tôi còn hình dung được gì khác cơ chứ?"

"Ông nghĩ nó hiển hiện ngay trước mắt à?" Poirot hỏi ông ta, trao đổi ánh nhìn với Hastings.

"Chà, sau cùng thì," bác sĩ Graham biện minh, "phát minh của Sir Claud có giá trị lớn. Gã ngoại quốc này, người mà không ai biết tí gì xuất hiện ở đây. Một người Ý. Sir Claud bị đầu độc một cách bí ẩn –"

"À, vâng! Nhà Borgias," Poirot kêu lên.

"Xin ông nhắc lại cho?" vị bác sĩ hỏi.

"Không có gì, không có gì."

Bác sĩ Graham xách túi lên và chuẩn bị rời đi, chìa tay ra cho Poirot. "Chà, tốt nhất tôi nên rời đi."

"Tạm biệt – lúc này thôi, Monsieur le Docteur (ngài bác sĩ)," Poirot nói khi họ bắt tay.

Đến cửa, Graham dừng bước và ngoảnh lại nhìn. "Tạm biệt, ngài Poirot. Ngài sẽ không để ai động vào thứ gì trong căn phòng này cho tới khi cảnh sát đến, phải không? Điều đó cực kỳ quan trọng."

"Chắc chắn rồi, tôi sẽ chịu trách nhiệm việc này," Poirot cam đoan.

Khi Graham đã đi khỏi, khép lại cánh cửa sau lưng, Hastings hờ hững dõi theo. "Anh biết đấy, Poirot, tôi không muốn phát bệnh trong căn nhà này. Vì một lẽ, dường như có một kẻ đầu độc nhà rỗi ở nơi này – và, còn một lý do nữa, tôi không chắc mình tin tưởng tay bác sĩ trẻ măng đó."

Poirot nhìn Hasting thắc mắc. "Hãy hy vọng là chúng ta sẽ không phải ở trong ngôi nhà này lâu tới phát bệnh," ông nói, đi đến lò sưởi và nhấn chuông. "Còn bây giờ, Hastings thân mến, làm việc thôi," ông tuyên bố khi quay trở lại với người đồng nghiệp đang ngắm nghía cái bàn trà với vẻ khó hiểu.

"Anh định làm gì?" Hastings hỏi.

"Bạn tôi ơi, anh và tôi," Poirot trả lời với đôi mắt lấp lánh, "sẽ phỏng vấn Cesare Borgia."

Tredwell bước vào đáp lại tiếng chuông gọi của Poirot. "Ngài đã rung chuông phải không ạ?" người quản gia hỏi.

"Vâng, Tredwell. Ông làm ơn hỏi quý ông người Ý xem liệu ông ấy có vui lòng tới đây không?"

"Dĩ nhiên rồi, thưa ngài," Tredwell trả lời. Ông ta rời phòng, và Poirot đi tới bàn cầm hộp thuốc lên.

"Tôi nghĩ sẽ ổn thôi," ông thủ thỉ với Hastings, "nếu chúng ta đặt cái hộp thuốc nguy hiểm này ở một nơi phù hợp. Trên hết, chúng ta hãy gọn gàng, ngăn nắp đã."

Đưa cái hộp thiếc cho Hastings, Poirot lấy một chiếc ghế tới chỗ kệ sách và trèo lên đó.

"Vẫn lời kêu gào cũ đòi sự gọn gàng và cân đối, hả?" Hastings kêu lên. "Nhưng cũng chẳng hơn những gì mà tôi tưởng tượng."

"Ý anh là sao, bạn của tôi?" Poirot hỏi.

"Tôi biết đấy là gì. Anh không muốn làm Carelli sợ. Sau cùng thì, ai là người đã xử lý chỗ thuốc đó tối qua? Trong số những người kia, thì chính anh ta đã làm. Nếu anh ta thấy chúng được đặt trên bàn, điều này phải khiến anh ta cảnh giác, nhỉ, Poirot?"

Poirot cốc nhẹ lên đầu Hastings. "Anh bạn Hastings của tôi mới sắc sảo làm sao," ông tuyên bố, lấy cái hộp từ bạn mình.

"Tôi biết anh quá rõ," Hastings khăng khăng, "Anh đừng hòng lòe tôi."

Khi Hastings nói, Poirot miết một ngón tay trên nóc giá sách, phủi bụi xuống khuôn mặt đang ngửa lên của bạn mình. "Hastings thân mến, dường như đối với tôi thì đó chính xác là những gì tôi đã làm," Poirot kêu lên khi ông cẩn thận miết một ngón tay dọc theo giá sách lần nữa, nhăn mặt khi ông làm vậy. "Có vẻ như tôi đã khen ngợi những người làm trong nhà quá sớm. Cái kệ sách này dày những bụi. Ước gì tôi có một cái khăn ướt thật tốt trong tay để lau sạch nó!"

"Poirot thân mến ơi," Hastings cười, "anh đâu phải người hầu."

"Chao ôi, không thật," Poirot buồn bã nhận xét. "Tôi chỉ là một thám tử thôi!"

"Chà, chẳng có gì để khám phá trên đó cả," Hastings tuyên bố, "vậy thì xuống đi."

"Như anh nói, chẳng có gì –" Poirot bắt đầu nói, và rồi khựng lại, đứng trơ ra trên ghế như thể hóa đá.

"Cái gì thế?" Hastings sốt sắng hỏi, ông nói thêm, "Xuống đi nào, Poirot. Bác sĩ Carelli sẽ tới đây bất cứ lúc nào. Anh không muốn anh ta thấy anh trên đó đâu, phải không nào?"

"Anh nói đúng, bạn thân mến," Poirot đồng ý khi ông chầm chậm từ trên ghế xuống. Mặt ông mang vẻ rất nghiêm nghị.

"Chuyện quái quỷ gì vậy?" Hastings hỏi.

"Đó là tôi đang nghĩ đến một số thứ," Poirot trả lời với ánh nhìn xa xăm.

"Anh đang nghĩ về cái gì thế?"

"Bụi, Hastings ạ. Bụi," Poirot nói với giọng kỳ quặc.

Cánh cửa mở ra, và Bác sĩ Carelli bước vào phòng. Anh ta và Poirot chào hỏi nhau bằng nghi thức trang trọng nhất, mỗi người lịch sự nói ngôn ngữ bản địa của mình với người kia.

"A, ngài Poirot," Carelli mở lời. "Vous voulez me questionner (Có phải ngài muốn hỏi tôi vài câu không)?"

"Si, Signer Dottore, se lei permette (Vâng, thưa ngài bác sĩ, nếu anh cho phép), Poirot trả lời.

"Ah, lei parla italiano (Ông có nói được tiếng Ý không)?"

"Si, ma preferiso parlare in francese (Có, nhưng tôi thích nói bằng tiếng Pháp)."

"Alors (vậy thì)," Carelli nói, "qu'est'ce que vous voulez me demader (Ngài muốn tôi làm gì)?"

"Nói nghe này," Hastings xen vào với vẻ khó chịu trong giọng nói. "Cái quỷ gì thế này?"

"À, Hastings tội nghiệp không phải là một nhà ngôn ngữ học. Tôi quên mất. "Chúng ta tốt hơn nên nói chuyện bằng tiếng Anh."

"Xin ông thứ lỗi. Dĩ nhiên," Carelli đồng ý. Anh ta báo với Poirot với vẻ thẳng thắn. "Tôi mừng vì ông đã cho gọi tôi, ngài Poirot," anh ta tuyên bố. "Nếu ông chưa làm vậy, tôi sẽ tự yêu cầu một cuộc phỏng vấn."

"Thực sao?" Poirot nhấn mạnh, chỉ vào chiếc ghế cạnh bàn.

Carelli ngồi xuống, trong khi Poirot ngồi vào chiếc ghế bành, và Hastings thì thoải mái trên chiếc trường kỷ bọc nệm.

"Vâng," vị bác sĩ người Ý tiếp lời. "Chuyện là thế này, tôi có việc khẩn ở London."

"Xin hãy tiếp tục," Poirot khích lệ anh ta.

"Vâng. Dĩ nhiên rồi, tôi hiểu khá rõ tình thế tối qua. Một văn kiện giá trị đã bị mất cắp. Tôi là người lạ duy nhất có mặt. Đương nhiên, tôi chỉ có thể sẵn sàng ở lại, để bản thân được khám xét, thực tế là nài nỉ được khám xét. Là một người đàn ông có danh dự, tôi không thể làm gì khác."

"Đúng vậy," Poirot đồng ý. "Còn hôm nay?"

"Hôm nay lại khác," Carelli trả lời. "Tôi có, như tôi đã nói, chuyện gấp ở London."

"Và anh muốn được khởi hành?"

"Chính xác."

"Có vẻ hợp lý nhất rồi," Poirot tuyên bố. "Anh không nghĩ vậy chứ, Hastings?"

Hastings không trả lời, nhưng trông như thể ông không hề nghĩ nó hợp lý.

"Có lẽ một lời từ ngài Poirot tới cậu Amory sẽ đúng trình tự," Carelli gợi ý. "Tôi muốn tránh mọi sự phiền toái."

"Nhiệm vụ của tôi là sẵn sàng phục vụ ngài, Monsieur le docteur (thưa ngài bác sĩ)," Poirot cam đoan với anh ta. "Và giờ, có lẽ anh sẽ trợ giúp tôi với một, hai chi tiết chứ?"

"Tôi quá đỗi vui lòng để làm điều đó," Carelli trả lời.

Poirot cân nhắc một hồi, trước khi hỏi, "Có phải mợ Richard Amory là một người bạn cũ của anh không?"

"Một người bạn từ rất lâu rồi," Carelli nói. Anh ta thở dài. "Đó là một bất ngờ thú vị khi tình cờ va vào cô ấy ở trên đường."

"Anh nói là tình cờ ?" Poirot hỏi.

"Hoàn toàn tình cờ," Carelli trả lời, liếc nhanh về phía vị thám tử.

"Hoàn toàn tình cờ," Poirot lặp lại. "Lạ thật đấy!"

Có một áp lực nào đó len lỏi trong bầu không khí. Carelli nhìn Poirot sắc lẹm, nhưng không nói gì.

"Anh quan tâm tới những khám phá mới đây nhất của khoa học chứ?" Poirot hỏi anh ta.

"Dĩ nhiên rồi. Tôi là một bác sĩ cơ mà."

"A! Nhưng việc này cũng không hẳn liên quan," Poirot quan sát. "Một loại vắc xin mới, một loại tia mới, một loại vi trùng mới – tất cả những điều thì đúng. Nhưng một loại thuốc nổ mới, chắc chắn là nó không thuộc lĩnh vực của một bác sĩ?"

"Tất cả chúng ta đều nên quan tâm đến khoa học," Carelli nhấn mạnh. "Nó đại diện cho thành tựu của con người trước thiên nhiên. Con người đã tìm ra những bí mật của tự nhiên bất chấp sự chống cự quyết liệt của nó."

Poirot gật đầu đồng tình. "Những gì anh nói thật đáng ngưỡng mộ. Thật thi vị! Nhưng, như anh bạn Hastings của tôi vừa mới nhắc nhở, tôi chỉ là một nhà thám tử. Tôi đánh giá cao những thứ có quan điểm thực tế hơn. Khám phá này của Sir Claud – nó đáng giá rất nhiều tiền, nhỉ?"

"Có thể lắm." Giọng Carelli khinh khỉnh. "Tôi không nghĩ nhiều về khía cạnh đó."

"Anh rõ ràng là một người có phép tắc cao quý," Poirot quan sát, "và chắc chắn cũng là một người giàu có nữa. Lấy ví dụ, du lịch là một sở thích đắt đỏ."

"Người ta nên thấy thế giới mà mình đang sống," Carelli cộc lốc.

"Thực vậy," Poirot tán thành. "Và những người đang sống trong đó. Một trong số đó là những người hiếu kỳ. Chẳng hạn tên trộm – hẳn là hắn ta phải có tính tọc mạch lắm!"

"Như ngài nói," Carelli tán đồng, "cực kỳ tọc mạch."

"Và kẻ tống tiền," Poirot tiếp lời.

"Ý ngài là gì?" Carelli gay gắt.

"Tôi bảo, kẻ tống tiền," Poirot nhắc lại. Có một khoảng lặng ngượng ngùng trước khi ông nói tiếp, "Nhưng chúng ta đi lạc khỏi chủ đề chính – cái chết của Sir Claud Amory mất rồi."

"Cái chết của Sir Claud Amory? Sao đó lại là chủ đề của chúng ta?"

"À, dĩ nhiên rồi," Poirot gợi lại. "Anh chưa biết nhỉ. Tôi e là Sir Claud Amory không phải chết vì đột quỵ. Ngài ấy bị đầu độc." Ông quan sát kỹ lưỡng phản ứng của gã người Ý.

"A!" Carelli lẩm nhẩm gật đầu.

"Điều đó không làm anh ngạc nhiên ư?" Poirot hỏi.

"Thành thật mà nói thì không," Carelli đáp lại. "Tối qua tôi đã rất nghi ngờ."

"Anh thấy đấy," Poirot tiếp lời, "vấn đề này đã trở nên nghiêm trọng hơn nhiều." Giọng ông đổi khác. "Anh sẽ không thể rời khỏi căn nhà này hôm nay, bác sĩ Carelli."

Nghiêng về phía Poirot, Carelli hỏi, "Ngài liên hệ cái chết của Sir Claud với vụ mất cắp công thức ư?"

"Đúng vậy," Poirot trả lời. "Anh không nghĩ thế sao?"

Carelli nói nhanh và khẩn trương. "Không có ai trong căn nhà này, không thành viên nào trong gia đình mong muốn Sir Claud chết, ngoài những nghi vấn về công thức à? Tôi nói ông nghe này. Đó là quyền tự do, Ngài Poirot ạ. Quyền tự do, và điều mà ngài vừa mới đề cập tới – tiền. Lão già đó là một tên bạo chúa, và ngoài công việc quý hóa của mình thì lão một kẻ khốn khổ."

"Ông có quan sát toàn bộ tối qua không, Monsieur le Docteur (ngài bác sĩ)?" Poirot vô tư hỏi.

"Nếu tôi có thì sao?" Carelli đáp lại. "Tôi có mắt. Tôi có thể thấy. Ít nhất ba người trong ngôi nhà này muốn Sir Claud khuất mắt." Anh ta đứng dậy, và nhìn vào chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi. "Nhưng giờ chuyện đó giờ chẳng liên quan đến tôi."

Hastings nghiêng người về phía trước, trông rất thích thú khi Carelli tiếp tục, "Tôi rất bực mình vì không thể giữ đúng hẹn ở London."

"Tôi rất lấy làm buồn, Monsieur le Docteur (ngài bác sĩ)," Poirot nói. "Nhưng tôi có thể làm được gì đây?"

"Chà, vậy thì, ngài không cần tôi nữa đâu nhỉ?" Carelli hỏi.

"Lúc này thì, không," Poirot nói.

Bác sĩ Carelli đi tới cửa sổ. "Tôi sẽ nói cho ngài một điều nữa, ngài Poirot," anh ta tuyên bố, mở cửa rồi quay lại đối diện với vị thám tử. "Có một số phụ nữ sẽ rất nguy hiểm nếu bị dồn ếp thái quá."

Poirot cúi chào anh ta một cách lịch sự, và Carelli cúi chào lại phần nào giống mỉa mai hơn trước khi anh ta đi khỏi.

Chương 12

Khi Carelli rời khỏi căn phòng rồi, Hastings nhìn chằm chằm theo bóng lưng anh ta một lúc.

"Poirot này," cuối cùng ông hỏi, "anh nghĩ anh ta có ý gì khi nói như thế không?"

Poirot nhún vai. "Đó là một lời nhận xét vô thưởng vô phạt," ông tuyên bố.

"Nhưng mà Poirot," Hastings vẫn kiên trì, "Tôi chắc chắn Carelli đang cố nhắn nhủ anh điều gì đó."

Lời đáp lại duy nhất của vị thám tử nhỏ bé là "Rung chuông lần nữa đi, Hastings". Hastings làm như được yêu cầu, nhưng không thể cố nhịn hỏi thêm. "Anh định làm gì bây giờ?"

Poirot trả lời theo cách khó hiểu nhất. "Rồi anh sẽ thấy, Hastings thân mến. Kiên nhẫn là một đức tính tuyệt vời."

Tredwell lại bước vào phòng cùng với câu hỏi cung kính như lệ thường "Dạ, thưa ngài?" Poirot cười rạng rỡ với ông.

"A, Tredwell. Ông vui lòng gửi lời thăm hỏi của tôi tới bà Caroline Amory, và hỏi xem liệu bà ấy có bằng lòng dành vài phút với tôi không nhé?"

"Tất nhiên rồi, thưa ngài."

"Cảm ơn ông, Tredwell."

Khi vị quản gia đã rời đi, Hastings kêu lên, "Nhưng mà "bà cụ non" ấy đã đi nằm. Chắn chắn anh sẽ không dựng bà ta dậy nếu nếu bà ta cảm thấy không khỏe."

"Hastings bạn tôi biết tuốt! Vậy bà ấy đang đi nằm, phải không?"

"Chà, chẳng phải thế sao?"

Poirot vỗ vai bạn mình một cách trìu mến. "Đó chính là điều mà tôi muốn tìm ra."

"Nhưng chắc chắn –" Hastings nói thêm. "Anh không nhớ sao? Richard Amory đã bảo vậy mà."

Vị thám tử điềm tĩnh nhìn bạn. "Hastings," ông tuyên bố, "đây là một người bị giết đó. Và gia đình ông ấy phản ứng thế nào? Toàn những lời nói dối, dối trá, đâu đâu cũng nói dối! Tại sao mợ Amory muốn tôi đi? Tại sao cậu Amory muốn tôi đi? Tại sao anh ta muốn ngăn tôi gặp bác của anh ta? Bà ấy có thể cho tôi biết điều gì đó mà anh ta không muốn tôi nghe được chăng? Tôi nói anh nghe, Hastings, những gì chúng ta có ở đây là một vở kịch! Không phải là một tội ác hèn hạ, đơn giản mà là kịch. Một vở kịch nhân tính, thương tâm!"

Ông trông như thể sẽ phát triển chủ đề này nếu không phải bà Amory bước vào lúc đó.

"Ngài Poirot," bà nói với ông khi đóng cánh cửa, "Tredwell bảo rằng ngài muốn gặp tôi."

"À vâng, thưa bà," Poirot tuyên bố khi ông đi đến chỗ bà. "Chỉ là tôi muốn hỏi bà vài câu. Sao bà không ngồi xuống đã?" Ông dẫn bà tới chiếc ghế cạnh bàn, và bà ngồi xuống nhìn ông lo lắng. "Nhưng tôi hiểu rằng bà đang bị mệt, ốm phải không?" Poirot tiếp lời khi ông ngồi xuống phía bên kia chiếc bàn và nhìn bà với vẻ quan tâm lo lắng.

"Tất nhiên, nó là cả một cú sốc kinh hoàng." Caroline thở dài. "Thực sự kinh hoàng! Nhưng điều mà tôi luôn nói là, ai đó phải giữ bình tĩnh. Ngài biết đấy, những người hầu đang xôn xao. Chà," bà tiếp tục nói, nhanh hơn, "ngài biết những người hầu thế nào rồi đấy, ngài Poirot. Họ rõ ràng ham hố một đám tang! Họ thích một đám ma hơn là một đám cưới, tôi tin chắc vậy. Bây giờ, bác sĩ Graham đáng mến! Ông ấy thật tử tế - thực dễ chịu. Một bác sĩ thực sự thông minh, và dĩ nhiên ông ấy rất mến Barbara. Tôi nghĩ thật đáng tiếc rằng Richard dường như chẳng quan tâm tới ông ấy, nhưng – tôi đang nói gì nhỉ? Ồ phải rồi, bác sĩ Graham. Trẻ quá đi thôi. Và ông ta thực sự đã chữa khỏi chứng viêm dây thần kinh cho tôi hồi năm ngoái. Không phải là tôi thường xuyên bị bệnh. Bây giờ, lớp trẻ này với tôi dường như không khỏe mạnh lắm. Tối qua Lucia tội nghiệp phải rời khỏi bữa tối do lả đi. Dĩ nhiên, đứa bé đáng thương, con bé rất dễ bị khích động, và ngài còn mong chờ điều gì nữa với dòng máu Ý chảy trong huyết mạch nó? Mặc dù con bé không đến nỗi tệ, tôi còn nhớ khi chiếc vòng cổ kim cương của nó bị mất cắp –"

Bà Amory dừng lại để thở. Khi bà đang nói thì Poirot đã lấy ra hộp thuốc lá và định châm một điếu, nhưng ông dừng lại và chộp ngay lấy cơ hội để hỏi, "Chiếc vòng cổ kim cương của mợ Amory đã bị trộm mất ư? Chuyện xảy ra khi nào vậy, thưa bà?"

Bà Amory làm ra vẻ trầm ngâm. "Để tôi xem nào, chắc là – phải rồi, hai tháng trước – gần như cùng lúc Richard có một cuộc cãi vã với bố."

Poirot nhìn điếu thuốc trên tay. "Bà cho phép tôi hút chứ, thưa bà?" ông hỏi và khi nhận được một nụ cười cùng một cái gật đầu đồng ý, ông lấy bao diêm trong túi ra, châm thuốc và nhìn bà Amory khích lệ.

Khi quý bà ấy chẳng buồn nói tiếp, Poirot nhắc. "Tôi nghĩ là bà đang nhắc tới việc cậu Amory đã cãi nhau với bố" .

"Ồ, chẳng có gì nghiêm trọng đâu," Bà Amory nói. "Chỉ là về mấy khoản nợ của Richard. Tất nhiên, mấy cậu thanh niên đều nợ nần! Mặc dù, thực sự thì bản thân Claud chẳng bao giờ như thế. Em ấy luôn chăm chỉ học hành, ngay cả khi em ấy còn trẻ. Sau này, đương nhiên các thí nghiệm của nó ngốn rất nhiều tiền. Tôi từng bảo em ấy đang để Richard có ít tiền quá, ông biết đấy. Nhưng, vâng, khoảng hai tháng trước, họ cãi nhau một trận, và thế là, vòng của Lucia mất tích, và con bé từ chối gọi cảnh sát, đó là một thời gian rất buồn. Và thật ngớ ngẩn nữa! Điên, điên hết cả!

"Bà có chắc là việc tôi hút thuốc không gây phiền toái gì chứ, thưa bà?" Poirot cầm điếu thuốc lên hỏi.

"Ồ, không, không hề," Miss Amory khăng khăng. "Tôi nghĩ các quý ông nên hút thuốc."

Giờ mới nhận ra điếu thuốc của mình châm chưa cháy, Poirot với lại bao diêm trên bàn trước mặt. "Chắc chắn, việc một người phụ nữ trẻ đẹp tiếp nhận chuyện mất nữ trang một cách bình tĩnh là điều không bình thường nhỉ?"ông hỏi khi mồi lại điếu thuốc lần nữa, cẩn thận đặt lại hai que diêm đã cháy vào bao rồi nhét vào túi.

"Vâng, kỳ quặc thật. Có thế nói là vậy," bà Amory đồng tình. "Thật kỳ lạ! Nhưng mà, con bé dường như chẳng hề mảy may bận tâm. Ôi trời, tôi đây lại đang buôn chuyện về mấy thứ mà ông không quan tâm rồi, ngài Poirot ạ."

"Nhưng bà làm tôi rất thích thú đấy, thưa bà," Poirot trấn an. "Nói tôi biết, tối qua khi mợ Amory rời khỏi bữa tối, lả đi, cô ấy đã đi lên gác à?"

"Ồ không," Caroline Amory trả lời. "Con bé vào phòng này. Tôi để cháu nó ở đây trên chiếc trường kỷ, sau đó tôi trở lại phòng ăn, để Richard ở lại với nó. Mấy cặp vợ chồng trẻ, ngài biết đấy, thưa ngài Poirot! Khi còn là con gái, chẳng phải các chàng trai trẻ hầu như đều từng lãng mạn như thế còn gì! Ôi trời! Tôi nhớ một chàng tên là Aloysius Jones. Chúng tôi từng chơi bóng vồ (croquet) cùng nhau. Anh chàng ngốc ngếch – chàng ngốc! Ôi đấy, tôi lại lạc đề nữa rồi. Chúng ta đang nói về Richard và Lucia cơ mà. Họ là một cặp đẹp đôi đấy chứ, ngài không nghĩ vậy sao, ngài Poirot? Thằng bé gặp con bé ở Ý, ngài biết đấy – trên hồ ở Ý – tháng mười một năm ngoái. Đó là tình yêu sét đánh. Chúng kết hôn chỉ trong một tuần. Con bé là trẻ mồ côi, một thân một mình trên đời. Thực là buồn, mặc dù đôi lúc tôi tự hỏi liệu có phải trong cái rủi lại có cái may. Nếu con bé có nhiều họ hàng ngoại quốc – ngài không nghĩ thế chẳng phải hơi phiền phức sao? Xét cho cùng, ngài biết người nước ngoài thế nào rồi đấy! Họ - ối!" Bà đột ngột khựng lại, ngượng ngùng quay sang nhìn Poirot. "Ôi, xin ngài thứ lỗi!"

"Không sao, không hề gì," Poirot làu bàu, vui vẻ liếc nhìn Hastings.

"Tôi ngớ ngởn quá," Bà Amory tạ lỗi, bối rối vô cùng. "Tôi không có ý – dĩ nhiên, trường hợp của ngài lại khác. 'Les braves Beiges (những người Bỉ quả cảm),'như chúng ta từng nói trong chiến tranh."

"Bà đừng bận tâm nữa," Poirot trấn an.

Sau khi dừng lại, ông tiếp tục, như thể cuộc chiến mà bà nhắc tới đã khiến ông hồi tưởng, "Tôi tin – là – tôi hiểu rằng cái hộp thuốc trên cùng kệ sách là một di vật của cuộc chiến. Có phải tất cả các vị đã kiểm tra nói tối qua, phải không?"

"Vâng, đúng thế. Chúng tôi đã kiểm tra."

"Chuyện xảy ra thế nào?" Poirot hỏi.

Bà Amory cân nhắc một lúc trước khi trả lời.

"Sự việc diễn ra thế nào? A, phải rồi, tôi nhớ rồi. Tôi nói rằng ước gì mình có ít thuốc ngửi, và Barbara lấy cái hộp xuống để tìm, và rồi các quý ông bước vào, và bác sĩ Carelli làm tôi chết khiếp với những điều cậu ta nói."

Hastings bắt đầu tỏ ra quan tâm nhiều đến bước ngoặt mà cuộc thảo luận đem lại, và Poirot nhắc bà Amory tiếp tục. "Ý bà là những điều bác sĩ Carelli nói về chỗ thuốc? Tôi cho là anh ta đã nhìn chúng một lượt và kiểm tra kỹ lưỡng?"

"Vâng," Miss Amory xác nhận, "và cậu ta cầm một ống thủy tinh lên, thứ gì đó có một cái tên vô hại nhất – bromua (*), tôi nghĩ – đó là thúc mà tôi hay dùng khi say sóng – và cậu ta bảo nó có thể giết chết mười hai người khỏe mạnh!"

(*bromua: một chất hóa học có tên tiếng Anh là bromide, và bromide còn có nghĩa là vô vị)

"Hyoscine hydrobromide?" (*) Poirot hỏi.

(*Hyoscine hydrobromide là một loại ma túy hay mê dược có tính chất không màu, không mùi, không vị, dễ bay hơi. Nó được gọi với cái tên dân dã là Hơi thở của quỷ)

"Xin ông nhắc lại cho?"

"Có phải hyoscine hydrobromide là cái mà bác sĩ Carelli đang ám chỉ không?"

"Vâng, vâng, chính là nó," bà Amory kêu lên. "Ngài thật là sáng suốt! Và rồi Lucia lấy nó từ cậu bác sĩ, lặp lại điều mà cậu ta đã nói – về một giấc ngủ không mộng mị. Tôi ghét cay ghét đắng cái chất thi vị nhạy cảm thái quá hiện đại này. Tôi vẫn hay nói, kể từ khi Lord Tennyson kính yêu qua đời, chẳng ai viết thơ về bất kỳ -"

"Ôi trời," Poirot lẩm bẩm.

"Xin ông nhắc lại cho?" Miss Amory hỏi.

"À, tôi chỉ đang nghĩ về Lord Tennyson kính mến. Nhưng làm ơn hãy tiếp tục. Chuyện tiếp gì xảy ra tiếp theo?"

"Kế tiếp ư?"

"Bà đang kể cho chúng tôi về tối qua. Tại đây, trong căn phòng này –"

"À, phải. Chà, Barbara muốn phát một bài hát cực kỳ thiếu tế nhị. Ý tôi là trên máy hát. May thay, tôi đã cản con bé lại."

"Tôi hiểu," Poirot lẩm nhẩm. "Và cái ống nhỏ mà ông bác sĩ cầm lên – nó có đầy không?"

"Ồ, có chứ," bà Amory không chần cừ trả lời. "Bởi vì, khi bác sĩ đưa ra lời trích dẫn về giấc ngủ không mộng mị, ông ta có nói rằng một nửa số thuốc trong ống là đủ."

Bà Amory từ ghế đứng dậy và rời khỏi bàn. "Ngài biết đấy, ngài Poirot," bà tiếp lời khi Poirot cùng đứng dậy, "Tôi đã nói ngay từ đầu là mình không thích người đàn ông đó. Cái tay bác sĩ Carelli đó. Có điều gì ấy về cậu ta – chẳng thân thiện – và kiểu cách nhơn nhớt. Tất nhiên, tôi chẳng thể nói gì trước mặt Lucia vì cậu ta được cho là bạn của con bé, nhưng tôi không thích gã. Ngài thấy đấy, Lucia rất cả tin! Tôi chắc chắn người đàn ông đó hẳn đã tìm cách lấy được sự tín nhiệm của con bé với mục đích được mời tới nhà và ăn cắp công thức."

Poirot nhìn bà Amory dò hỏi trước khi ông hỏi, "Vậy, có phải bà chắc chắn rằng bác sĩ Carelli là người lấy trộm công thức của Sir Claud không?"

Bà Amory nhìn vị thám tử ngạc nhiên. "Ngài Poirot kính mến!" bà kêu lên. "Còn ai khác có thể làm chuyện đó? Ông ta là người lạ duy nhất có mặt. Đương nhiên, em trai tôi không muốn buộc tội một vị khách, vì vậy em ấy tạo cơ hội để trả lại chỗ tài liệu. Tôi nghĩ nó được thực hiện rất công phu. Thực sự rất tinh vi!"

"Đúng vậy," Poirot đồng tình một cách khéo léo, choàng một cánh tay thân thiện quanh vai Miss Amory, trước sự bất mãn rõ ràng của bà này. "Thưa bà, giờ tôi sẽ làm một thí nghiệm nhỏ trong đó cần sự hợp tác của bà." Ông bỏ tay ra khỏi người bà. "Tối qua, bà đã ngồi ở đâu khi đèn bị tắt?"

"Ở đó! Bà Amory cho biết, chỉ vào cái ghế sô pha nhỏ.

"Vậy thì, bà vui lòng ngồi lại chỗ đó lần nữa được không?"

Bà Amory đi tới cái ghế sô pha và ngồi. "Bây giờ, thưa bà," Poirot tuyên bố, "Tôi muốn bà hãy thật cố gắng tưởng tượng! Nhắm mắt lại nếu bà thấy thoải mái."

Bà Amory làm theo yêu cầu. "Đúng thế," Poirot tiếp tục. "Giờ, tưởng tượng rằng bà đang trở lại nơi mà bà đã ở đó tối qua. Nó tối om. Bà không thấy gì cả. Nhưng mà có thể nghe được. Quay trở lại nào."

Hiểu những lời của Poirot theo nghĩa đen, Miss Amory lăng mình trở lại chiếc sô pha.

"Không, không," Poirot nói. "Ý tôi là tâm trí của bà trở lại. Bà có thể nghe thấy những gì? Đúng rồi, hồi tưởng tâm trí của bà. Bây giờ, nói tôi biết bà nghe được gì trong bóng tối."

Bị ấn tượng bởi sự nghiêm túc rõ rệt của vị thám tử, bà Amory đã nỗ lực làm theo yêu cầu của ông. Dừng lại một chút, rồi bà bắt đầu nói chậm rãi và giật cục.

"Những tiếng thở hổn hển," bà nói. "Rất nhiều tiếng thở gấp nhỏ – và rồi tiếng ồn ào của một chiếc ghế bị đổ - và tiếng leng keng của kim loại –"

"Nó có giống thế này không?" Pooirot hỏi, lấy chìa khóa từ túi ra và ném xuống sàn. Nó không tạo ra tiếng động, và Miss Amory sau khi chờ đợi vài giây cho biết rằng bà không nghe thấy gì cả. "Chà, có lẽ giống thế này chăng?" Poirot thử lại lần nữa, nhặt lại chìa khóa trên sàn và đập mạnh vào bàn trà.

"Sao, đó chính xác là âm thanh mà tôi đã nghe thấy tối qua!" Miss Amory kêu lên. "Lạ thật đấy!"

"Xin bà, hãy tiếp tục, thưa bà," Poirot khích lệ.

"Ờ, tôi nghe thấy Lucia hét và gọi to Sir Claud. Và rồi tiếng gõ cửa bất chợt vang lên."

"Bà có chắc, đó là tất cả?"

"Vâng, tôi nghĩ thế - ồ, chờ chút! Ngay từ đầu đã có một tiếng động kỳ lạ, giống như tiếng lụa xé. Tôi nghĩ là váy của ai đó."

"Bà nghĩ là váy của ai?" Poirot hỏi.

"Chắc là của Lucia. Không thể là của Barbara được, bởi vì con bé ngồi ngay cạnh tôi, chỗ này này."

"Thế thì kỳ lạ thật," Poirot lẩm bẩm suy nghĩ.

"Và đó thực sự là tất cả," Miss Amory kết thúc. "Giờ tôi có thể mở mắt ra được không?"

"Ồ vâng, dĩ nhiên rồi, thưa bà." Khi bà mở mắt, Poirot hỏi, "Ai là người đã rót cà phê cho Sir Claud? Là bà à?"

Bà Amory bảo rằng "Không." "Lucia rót cà phê đấy."

"Chính xác là lúc nào?"

"Chắc là sau khi chúng tôi nói về những thứ thuốc đáng sợ đó."

"Mợ Amory có đích thân đem cà phê cho Sir Claud không?"

Caroline dừng lại để suy ngẫm. Cuối cùng bà quyết định "Không –".

"Không ư?" Poirot hỏi. "Vậy thì là ai?"

"Giờ tôi không biết – Tôi không chắc – để tôi xem nào. Ồ phải, tôi nhớ rồi! Tách cà phê của Amory để trên bàn cạnh cà phê của Lucia. Tôi nhớ điều đó bởi lúc cậu Raynor đang mang cà phê tới cho Sir Claud trong phòng nghiên cứu thì Lucia gọi cậu ta lại và bảo cậu ta mang nhầm tách rồi – điều này thực sự rất ngớ ngẩn, bởi cả hai đều giống nhau – đen, không đường."

"Vậy," Poirot quan sát, "cậu Raynor đã mang cà phê cho Sir Claud?"

"Vâng, hay ít nhất – không, phải rồi, Richard đã lấy nó từ cậu ta vì Barbara muốn nhảy với Raynor."

"Ồ! Vậy cậu Amory đã mang cà phê cho cha mình."

"Vâng, đúng đấy," Miss Amory xác nhận.

"A!" Poirot kêu lên. "Hãy cho tôi biết, cậu Amory đang làm gì trước đó? Khiêu vũ ư?"

"Ồ, không," bà Amory trả lời. "Thằng bé đang đóng gói cất chỗ thuốc đi. Đặt chúng trở lại hộp thật gọn gàng, ngài biết đấy."

"Tôi hiểu, tôi hiểu. Vậy sau đó, Sir Claud đã uống cà phê trong phòng nghiên cứu?"

"Tôi cho là em ấy đã uống trong đó," bà Amory nhớ lại. "Nhưng em ấy quay lại đây với cái cốc trên tay. Tôi nhớ em ấy đã phàn nàn về mùi vị, bảo rằng nó đắng hơn. Và tôi cam đoan với ngài, ngài Poirot, nó là loại cà phê ngon nhất rồi. Một hỗn hợp đặc biệt mà tôi đã đích thân đặt từ cửa hàng Army và Navy ở London. Ngài biết đấy, đó là một cửa hàng tuyệt vời trên phố Victoria. Rất tiện lợi, không xa ga tàu là bao. Và tôi – "

Bà đột ngột dừng lại khi cánh cửa mở ra và Edward Raynor bước vào.

"Tôi làm gián đoạn à?" vị thư ký hỏi. "Tôi rất tiếc. Tôi muốn nói chuyện với ngài Poirot, nhưng tôi có thể quay lại sau."

"Không, không," Poirot tuyên bố. "Tôi đã kết thúc việc bắt quý bà tội nhiệp đây chịu nhiều căng thẳng rồi!"

Bà Amory đứng dậy. "Tôi e là mình đã không thể nói được điều gì đó hữu ích cho ngài," bà xin lỗi khi đi ra cửa.

Poirot đứng lên và đi trước bà. "Bà đã cho tôi biết rất nhiều, thưa bà. Có lẽ nhiều hơn những gì mà bà nhận ra," ông cam đoan với bà Amory khi mở cửa giúp.

Chương 13

Sau khi tiễn bà Amory ra ngoài, Poirot chuyển sự chú ý sang Edward Raynor. "Bây giờ, anh Raynor," ông nói khi ra hiệu cho vị thư ký vào một cái ghế, "cho tôi nghe điều mà anh phải nói với tôi nào."

Raynor ngồi xuống và nhìn Poirot một cách nghiêm túc. "Cậu Amory vừa nói cho tôi tin tức về Sir Claud. Ý tôi là nguyên nhân cái chết của ngài ấy. Đây là một việc hết sức bất thường, thưa ngài."

"Nó làm anh bị sốc sao?" Poirot hỏi.

"Dĩ nhiên. Tôi chẳng bao giờ ngờ được rằng có một việc như thế."

Tiến lại gần, Poirot quan sát kỹ lưỡng vị thư ký khi đưa Raynor chiếc chìa khóa mà ông đã tìm thấy.

"Anh đã bao giờ thấy chiếc chìa khóa này trước đây chưa, anh Raynor?" ông hỏi.

Raynor cầm lấy chiếc chìa khóa và lật nó trong tay với vẻ khó hiểu. "Nó trông khá giống chìa khóa két an toàn của Sir Claud," anh ta nhận xét. "Nhưng thông qua cậu Amory tôi biết được rằng chìa khóa của Sir Claud nằm ngay trong chùm chìa khóa của ngài ấy." Anh ta đưa lại chìa khóa cho Poirot.

"Vâng, đây chính là chiếc chìa khóa két an toàn trong phòng làm việc của Sir Claud, nhưng nó là một bản sao," Poirot nói, nhấn mạnh thêm một cách chậm rãi "một bản sao nằm trên sàn cạnh chiếc ghế mà anh đã ngồi tối qua."

Raynor nhìn vị thám tử không hề nao núng. "Nếu ngài nghĩ tôi là người đánh rơi nó thì ngài nhầm rồi," anh ta tuyên bố.

Poirot quan sát anh ta một cách tinh tế một lúc, rồi sau đó gật đầu như thể hài lòng. "Tôi tin anh," ông nói.

Đi nhanh tới ghế sô pha, ông ngồi và xoa hai tay vào nhau. "Giờ, chúng ta hãy làm việc thôi, anh Raynor. Anh là thư ký thân tín của Sir Claud phải không?"

"Đúng thế."

"Vậy thì anh biết rất nhiều về công việc của ngài ấy?"

"Vâng. Tôi cũng được đào tạo tương đối về khoa học, và thỉnh thoảng tôi có giúp ngài ấy làm thí nghiệm."

"Anh có biết bất cứ điều gì có thể làm sáng tỏ sự vụ không may này không?" Poirot hỏi.

Raynor lấy một lá thư từ trong túi ra. "Chỉ có cái này thôi," anh ta trả lời khi đứng dậy, băng tới chỗ Poirot và giao bức thư cho ông. "Một trong những nhiệm vụ của tôi là bóc và phân loại các thư từ của Sir Claud. Thư này gửi đến hai ngày trước."

Poirot cầm lá thư và đọc to. "'Ngài đang nuôi ong tay áo.' Tay áo?" ông thắc mắc, quay sang Hastings trước khi tiếp tục, "'Coi chừng Selma Goetz và bầy đàn của mụ. Bí mật của ngài đã bị lộ. Hãy cảnh giác.' Nó được ký tên 'Người quan sát.' Hừm, rất ấn tượng và kịch tính. Hastings, anh sẽ thích cái này đấy," Poirot nhận xét, chuyền lá thư cho bạn mình.

"Điều tôi muốn biết," Edward Raynor bày tỏ, "là điều này cơ. Selma Goetz là ai?"

Tựa lưng ra sau và chập các đầu ngón tay vào nhau, Poirot cho biết, "tôi nghĩ tôi có thể thỏa mãn sự tò mò của anh đấy, thưa anh. Selma Goetz từng là một gián điêp quốc tế thành công nhất từng được biết đến. Bà ấy cũng là một phụ nữ xinh đẹp. Bà làm việc cho Ý, Pháp, Đức, và tôi tin thậm chí là cả Nga nữa. Vâng, một phụ nữ phi thường, Selma Goetz."

Raynor lùi lại một khoảng, và cao giọng hỏi. "Từng?"

"Bà ấy đã chết," Poirot cho biết. "Bà mất ở Genoa, tháng 11 năm ngoái." Ông lấy lại lá thư từ Hastings, người đang lắc đầu với vẻ mặt bối rối.

"Vậy thì bức thư này hẳn là một trò bịp bợm," Raynor kêu lên.

"Tôi tự hỏi," Poirot lẩm nhẩm. "Thư viết 'Selma Goetz và bầy đàn của mụ.' Selma Goetz để lại một cô con gái rất xinh đẹp, anh Raynor ạ. Kể từ khi mẹ mình qua đời, cô ấy đã hoàn toàn biến mất." Ông bỏ phong thư vào túi.

"Có khi nào - ?" Raynor bắt đầu, rồi khựng lại.

"Vâng? Anh định nói gì sao?" Poirot hối.

Chuyển sang vị thám tử, Raynor hào hứng nói. "Cô hầu gái người Ý của mợ Amory. Cô ấy dẫn cô ta đi theo từ nước Ý, một cô nàng rất xinh xắn. Cô ta tên là Vittoria Muzio. Có khi nào cô ta là con gái của Selma Goetz không?"

"A, đó cũng là một ý kiến hay đấy." Poirot có vẻ bị ấn tượng.

"Để tôi vời cô ta đến cho ông," Raynor đề nghị, định quay người đi.

Poirot đứng lên. "Không, không, chờ chút. Trên hết, chúng ta không được đánh động cô ta. Hãy để tôi nói chuyện với mợ Amory trước đã. Mợ ấy có thể sẽ nói tôi biết chút gì đó về cô gái này."

"Có lẽ ngài đúng đấy," Raynor đồng tình. "Tôi sẽ bảo mợ ấy tới ngay."

Vị thư ký rời khỏi với với khí khái của một người quyết đoán, và Hastings lại gần Poirot trong niềm phấn khích tột độ.

"Chính là thế, Poirot ơi! Carelli và cô hầu gái người Ý thông đồng với nhau, làm việc cho chính phủ nước ngoài. Anh không đồng ý sao?"

Chìm trong suy tư, Poirot chẳng buồn để ý tới người đồng nghiệp.

"Poirot? Anh không nghĩ thế sao? Tôi bảo, hẳn là Carelli và người hầu gái là đồng bọn."

"À, phải, đó chính xác là những gì anh sẽ nói, bạn tôi ơi."

Hastings trông như bị xúc phạm. "Ờ thế, ý tưởng của anh là gì?" ông hỏi Poirot bằng giọng tổn thương.

"Có vài câu hỏi cần được trả lời, Hastings thân mến của tôi. Tại sao chiếc vòng cổ của mợ Amory lại bị trộm mất hai tháng trước? Tại sao mợ ấy từ chối gọi cảnh sát lúc đó? Tại sao - ?"

Ông ngắt lời khi Lucia Amory bước vào, cầm theo túi xách. "Tôi được biết rằng ông muốn gặp tôi, thưa ông Poirot. Có phải thế không?" cô hỏi.

"Vâng, thưa mợ. Tôi chỉ đơn thuần muốn hỏi mợ vài câu." Anh chỉ vào chiếc ghế cạnh bàn. "Sao mợ không ngồi xuống đã?"

Lucia đến ngồi xuống ghế khi Poirot quay sang Hastings. "Bạn thân mến, khu vườn bên ngoài khung cửa thực là xinh đẹp," Poirot ngắm nghía, nắm lấy cánh tay Hastings và đẩy nhẹ ông tới bên cửa sổ. Hastings trông có vẻ miễn cưỡng rời đi, nhưng sự thúc bách của Poirot dù nhẹ nhàng nhưng kiên định. "Vâng, thưa bạn thân mến. Quan sát vẻ đẹp của tự nhiên. Đừng bao giờ đánh mất cơ hội ngắm nhìn vẻ đẹp thiên nhiên."

Có chút bất đắc dĩ, Hastings tự tống mình ra khỏi cửa. Thế rồi, một ngày đầy nắng và ấm áp, ông quyết định tận dụng tốt nhất tình thế hiện tại và khám phá khu vườn của nhà Amory. Thong dong trên bãi cỏ, ông đi về phía hàng rào phía bên kia khu vườn trang trọng trông vô cùng hấp dẫn.

Khi đi dọc theo hàng rào, Hastings nhận ra có tiếng nói ở khá gần, những giọng nói mà khi đến gần, ông nhận ra đó là của Barbara Amory và bác sĩ Graham, hai người dường như đang rất vui vẻ tête-a-tête (nói chuyện riêng) trên chiếc ghế băng, ngay phía bên kia hàng rào. Với hi vọng rằng mình sẽ nghe được điều gì đó liên quan tới cái chết của Sir Claud Amory hay việc công thức biến mất, những thứ hữu ích nếu Poirot biết được, Hastings dừng lại lắng nghe.

"- rõ rành rành là anh ta nghĩ cô em họ trẻ trung xinh đẹp của mình có thể chăm sóc cho chính cô tốt hơn là một bác sĩ vùng nông thôn. Đó dường như là căn nguyên cho sự thiếu nhiệt tình của anh ta khi bọn anh gặp nhau," Kenneth Gramham nói.

"Ồ, em biết Richard có thể là một người cổ hủ và có hành xử như một người gấp đôi tuổi anh ấy vậy," giọng Barbara đáp lại. "Nhưng em không nghĩ anh lại để bản thân bị ảnh hưởng bởi điều này, Kenny. Em chắc chắn không nhận được bất kỳ thông báo nào từ anh ấy."

"Chà, anh cũng không," bác sĩ Graham nói. "Nhưng nghe này, anh yêu cầu gặp em ngoài này là bởi anh muốn nói chuyện riêng với em mà không bị gia đình này nhìn hay nghe thấy. Trước tiên, anh phải nói với em rằng việc bác em bị đầu độc tối qua là chắc chắn."

"À, vâng?" Barbara nghe có vẻ chán chường.

"Có vẻ em không ngạc nhiên chút nào khi nghe điều đó."

"Ôi, em nghĩ mình có ngạc nhiên đấy. Xét cho cùng, các thành viên trong gia đình người ta đâu có bị đầu độc mỗi ngày, phải không? Nhưng em phải thừa nhận rằng em không buồn lắm khi bác ấy chết. Thực tế, em nghĩ em vui mừng kìa."

"Barbara!"

"Giờ thì, đừng bắt đầu giả vờ ngạc nhiên khi anh nghe điều đó, Kenny. Anh đã nghe em nói về cái lão khọm già bủn xỉn này vô số lần rồi còn gì. Ông ta không thực sự quan tâm đến bất kỳ ai trong bọn em, ông ta chỉ chú tâm tới mấy cái thí nghiệm cũ mốc của mình. Ông ta đối xử với Richard rất tệ, và ông ta cũng chẳng chào đón Lucia lắm khi Richard dẫn cô dâu của mình từ nước Ý về. Và Lucia thật dễ thương, hoàn toàn xứng đôi vừa lứa với Richard."

"Barbara, em yêu, anh phải hỏi em điều này. Anh xin hứa rằng bất kỳ điều gì em nói với anh sẽ không lọt ra ngoài. Anh sẽ bảo vệ em nếu cần. Nhưng hãy nói anh biết, em có biết điều gì – chút nào – về cái chết của bác em không? Em có lý do nào để nghi ngờ rằng Richard có thể đã cảm thấy tuyệt vọng với tình hình tài chính của mình đến nỗi anh ta sẽ nghĩ tới việc giết bố mình để có thể lấy được khối gia tài mà cuối cùng quyền thừa kế thuộc về anh ta không, ví dụ như vậy?

"Em không muốn tiếp tục cuộc trò chuyện này, Kenny. Em nghĩ anh đề nghị em ra ngoài này để thì thầm những điều ngọt ngào với em, chứ không phải là buộc tội anh họ em giết người."

"Em yêu, anh không buộc tội Richard điều gì cả. Nhưng em phải thừa nhận có điều gì không đúng ở đây. Richard dường như không muốn cảnh sát điều tra cái chết của cha mình. Anh ta gần như lo sợ chuyện gì đó bị bại lộ. Đương nhiên, không đời nào có chuyện anh ta có thể ngăn cảnh sát tiếp nhận vụ này, nhưng anh ta đã nói cực kỳ rõ ràng với anh rằng anh ta tức giận với anh vì đã xúi giục một cuộc điều tra. Xét cho cùng, anh chỉ làm nhiệm vụ của một bác sĩ. Làm sao anh có thể ký lên một tờ giấy chứng tử nói rằng Sir Claud chết vì đau tim được? Vì chúa, khi anh mới kiểm tra định kỳ cho ngài ấy vài tuần trước, tim ngài ấy hoàn toàn không có vấn đề gì cả."

"Kenny, em không muốn nghe thêm nữa. Em vào nhà đây. Anh sẽ tự ra ngoài bằng cách đi qua vườn, nhé? Em sẽ gặp anh sau."

"Barbara, anh chỉ muốn –" Nhưng cô đã đi rồi, và bác sĩ Graham thở dài thườn thượt một cái, gần như là rên rỉ.

Vào lúc đó, Hastings nghĩ tốt hơn hết là ông nên nhanh chóng trở lại ngôi nhà mà không bị ai trong hai người phát hiện. 

Chương 14

Quay trở lại thư viện, chỉ sau khi Hastings miễn cưỡng ra vườn do bị Hercule Poirot đẩy đi, vị thám tử nhỏ bé lại chuyển sự chú ý sang Lucia Amory, trước tiên là đóng cửa sổ kiểu Pháp lại.

Lucia nhìn Poirot lo âu. "Tôi được biết là ông muốn hỏi tôi về cô hầu gái của tôi, thưa ông Poirot. Đó là những gì mà anh Raynor đã nói với tôi. Nhưng cô ấy là người tốt. Tôi chắc chắn không có điều gì bất thường về cô ấy."

"Thưa mợ," Poirot trả lời, "không phải là tôi muốn nói chuyện với mợ về cô hầu gái."

Lucia có vẻ giật mình, "Nhưng ông Raynor nói –"

Poirot ngắt lời cô. "Tôi e là mình đã để ngài Raynor nghĩ như vậy vì tôi có lý do riêng."

"Chà, vậy thì đó là gì?" Giọng Lucia lúc này đã cảnh giác.

"Thưa mợ," Poirot quan sát, "hôm qua, mợ đã dành cho tôi một lời khen rất đẹp. Mợ bảo rằng, "khi mợ thấy tôi lần đầu – mợ nói – rằng bà đã tin tưởng tôi."

"Ờ, thì?"

"Vậy thì, thưa mợ, xin mợ hay tin tưởng tôi lúc này!"

"Ý ngài là gì?"

Poirot quan sát một cách trịnh trọng. "Mợ có tuổi trẻ, sắc đẹp, sự ngưỡng mộ, tình yêu – tất cả những điều mà một người phụ nữ muốn và khao khát. Nhưng có một thứ mà mợ thiếu thốn, thưa mợ – một Cha giải tội! Hãy để Papa Poirot tự mình đảm nhiệm vị trí này."

Lucia định lên tiếng thì Poirot ngắt lời cô.

"Bây giờ, hãy nghĩ kỹ trước khi từ chối, thưa mợ. Tôi còn ở lại đây là do yêu cầu của mợ. Tôi đã ở lại để phụng sự mợ. Tôi vẫn muốn được phục vụ mợ."

Thay đổi thái độ trong chớp nhoáng, Lucia đáp lại, "Ngài có thể phụng sự tôi bằng cách đi ngay bây giờ, thưa ngài."

"Mợ ơi," Poirot điềm tĩnh nói tiếp, "mợ có biết rằng cảnh sát đã được mời đến không?"

"Cảnh sát ư?"

"Vâng."

"Nhưng ai mời cơ? Và tại sao?"

"Bác sĩ Graham và các vị bác sĩ khác, đồng nghiệp của ông ấy," Poirot cho biết, "đã tìm ra rằng Sir Claud Amory bị đầu độc."

"A, không! Không! Không phải thế chứ!" Lucia nghe có vẻ choáng váng hơn là ngạc nhiên.

"Là thế đấy. Vậy nên mợ thấy đấy, có rất ít thời gian cho mợ để quyết định chọn một phương hướng hành động khôn ngoan nhất. Hiện tại, tôi phục vụ mợ. Sau đó, tôi có thể phải thực thi công lý."

Đôi mắt Lucia thăm dò gương mặt Poirot như thể cố gắng quyết định có nên tin cậy ông hay không. Cuối cùng, cô ấp úng hỏi, "Ông muốn tôi làm gì?"

Poirot ngồi đối diện với cô. "Mợ sẽ làm gì ư?" ông lẩm nhẩm một mình, và sau đó nói với Lucia, ông nhẹ nhàng đề nghị, "Sao không đơn giảm là kể tôi nghe sự thật, thưa mợ?"

Lucia khựng lại. Vươn tay về phía ông, cô mở lời, "Tôi – tôi –" Cô dừng lại lần nữa, phân vân, và rồi vẻ mặt cô đanh lại. "Thưa ngài Poirot, thực sự tôi không hiểu ý ngài."

Poirot nhìn cô sắc lẹm. "À! Mợ định thế sao? Tôi rất lấy làm tiếc."

Sự bình tĩnh của cô phần nào đã lấy lại được, Lucia lạnh lùng nói. "Nếu ngài nói tôi biết điều ngài muốn ở tôi, tôi sẽ trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà ngài đưa ra."

"Ra vậy!" vị thám tử nhỏ bé kêu lên. "Mợ muốn đấu trí với Hercule Poirot, phải không? Vậy thì tốt thôi. Tuy nhiên, hãy yên trí rằng chúng ta sẽ khám phá ra cùng một sự thật, thưa mợ." Ông gõ nhẹ lên bàn. "Nhưng bằng một phương thức kém dễ chịu hơn."

"Tôi chẳng có gì phải che giấu," Lucia thách thức nói.

Lấy bức thư mà Edward Raynor đã đưa cho ông từ trong túi ra, Poirot trao nó cho Lucia. "Vài ngày trước, Sir Claud đã nhận được lá thư nặc danh này," ông cho cô biết.

Lucia liếc qua phong thư, dường như không bị lay chuyển.

"Chà, cái gì vậy?" cô bình một câu khi trả nó lại cho Poirot.

"Bà đã từng nghe thấy cái tên Selma Goetz bao giờ chưa?"

"Chưa bao giờ! Bà ấy là ai vậy?" Lucia hỏi.

"Bà ấy đã mất - ở Genoa – tháng mười một năm ngoái," Poirot nói.

"Thật hả?"

"Có thể mợ đã gặp bà ấy ở đó," Poirot nhấn mạnh, nhét bức thư trở lại túi. "Thực tế thì tôi nghĩ mờ đã gặp rồi."

"Tôi chưa từng ở Genoa lần nào trong đời," Lucia khăng khăng.

"Vậy thì nếu có ai nói rằng họ đã thấy bà ở đó?"

"Họ có thể – họ hẳn là đã nhầm lẫn."

Poirot cố chấp. "Nhưng tôi được biết rằng mợ gặp chồng mình lần đầu tiên ở Genoa, thưa mợ?"

"Richard nói vậy sao? Anh ấy mới ngớ ngẩn làm sao! Chúng tôi gặp nhau lần đầu ở Milan."

"Vậy thì người phụ nữ mà bà đi cùng ở Genoa –"

Lucia giận dữ ngắt lời ông. "Tôi bảo ông, là tôi chưa từng ở Genoa!"

"A, xin lỗi!" Poirot kêu lên. "Dĩ nhiên, mợ chỉ nói vậy lúc này thôi. Tuy nhiên, việc đó thật kỳ lạ!"

"Có gì lạ?"

Poirot nhắm mắt lại và tựa lưng vào ghế. Giọng ông khàn khàn vang lên từ giữa vành môi. "Tôi sẽ kể cho mợ một câu chuyện nhỏ, thưa mợ," ông thông báo, lấy ra một quyển sách bỏ túi.

"Tôi có một người bạn chụp ảnh cho một số tạp chí ở London. Anh ấy chụp – nói sao nhỉ - những bức ảnh chụp nhanh các nữ bá tước cùng những nàng mốt khác, tắm mình trên những bãi biển sang trọng. Đại loại thế." Poirot tìm trong cuốn sách bỏ túi trước khi nói tiếp, "Tháng mười một năm ngoái, anh bạn của tôi ở Genoa, và anh ấy nhận ra một người phụ nữ rất khét tiếng. Lúc này, bà ấy tự gọi mình là Baronne de Giers (Nam tước phu nhân Giers), và bà là chère amie (bạn thân) của một nhà ngoại giao người Pháp rất được chú ý. Cả thế giới bàn tán, nhưng điều đó chẳng là gì với bà, bởi nhà ngoại giao này cũng nói vậy, và đó là điều mà bà ấy muốn. Mợ biết đấy, ông ta si tình hơn là biết suy xét –" Poirot đột nhiên ngừng lại, vẻ vô tội. "Tôi hi vọng không làm mợ phát ngán chứ?"

"Không hề, nhưng tôi hầu như chẳng thấy điểm cốt yếu của câu chuyện này."

Nhìn qua nội dung của cuốn sách bỏ túi, Poirot tiếp tục. "Tôi sắp đến điểm ấy rồi, đảm bảo với mợ đấy. Bạn tôi, anh ấy cho tôi xem một bức hình mà anh ấy chụp. Chúng tôi thống nhất với nhau rằng Bá tước phu nhân Giers là một phụ nữ une très belle (rất đẹp), và chúng tôi chẳng hề ngạc nhiên trước thái độ của viên ngoại giao."

"Thế thôi à?"

"Không, thưa mợ. Mợ thấy đấy, người phụ nữ này không đi một mình. Bà ấy được chụp ảnh đi cùng với con gái, và cô con gái đó, hơn nữa có một khuôn mặt rất xinh đẹp, thưa mợ, và điều ấy không hề dễ quên chút nào." Poioirot nhỏm dậy, làm một cử chỉ cúi người ga-lăng hết sức, và đóng cuốn sách lại. "Tất nhiên, tôi đã nhận ra gương mặt ấy ngay khi vừa tới đây."

Lucia nhìn Poirot và thở dốc.

"Ối!" cô la lên. Một lúc sau, cô tự trấn an lại, và cười. "Ngài Poirot thân mến của tôi, thật là một sai lầm ngớ ngẩn. Dĩ nhiên, giờ tôi đã hiểu được ý trong toàn bộ câu hỏi của ngài. Tôi nhớ rất rõ Nữ bá tước Giers, và cả con gái bà ấy nữa. Cô con gái khá đần độn, nhưng bà mẹ làm tôi mê mẩn. Tôi khá ảo tưởng về bà ấy, và ra ngoài đi dạo với bà vài lần. Tôi nghĩ sự tận tâm của mình khiến bà ấy thích thú. Đó chắc chắn là lý do phát sinh hiểu lầm. Đó là lý do mà người ta nghĩ rằng tôi chắc là con gái của người phụ nữ đó." Lucia ngồi phịch xuống ghế.

Poirot gật đầu đánh giá, lúc ấy Lucia rõ ràng có vẻ nguôi ngoai. Thế rồi, bất ngờ ngả người qua bàn về phía cô, vị thám tử nhận xét, "Nhưng tôi tưởng mợ chưa bao giờ tới Genoa."

Mất bình tĩnh, Lucia thở hổn hển. Cô nhìn chằm chằm Poirot khi ông nhét quyển sách bỏ túi vào túi bên trong áo khoác. "Ông không có ảnh," cô nói. Đó vừa là một câu hỏi vừa là một câu khẳng định.

"Không," Poirot thú nhận. "Tôi không có ảnh, thưa mợ. Tôi biết cái tên mà Selma Goetz đã dùng khi ở Genoa. Phần còn lại – người bạn với nghề chụp ảnh – tất cả mấy thứ đó là một sáng kiến nhỏ vô hại của tôi!"

Lucia nhảy dựng lên, mắt bùng lên giận giữ.

"Ông đã gài bẫy tôi!" Cô điên tiết kêu lên.

Poirot nhún vai. "Vâng, thưa mợ," ông khẳng định. "Tôi e là mình không có lựa chọn khác."

"Tất cả những chuyện này có can hệ gì đến cái chết của Sir Claud cơ chứ?" Lucia lẩm bẩm một mình, ngây dại nhìn căn phòng.

Thay vì trả lời, Poirot giả bộ làm ngơ khi ông đặt ra một câu hỏi khác. "Thưa mợ," ông hỏi, tay phủi một hạt bụi tưởng tượng ra khỏi áo khoác khi nói, "có đúng là mợ đã mất một sợi dây chuyền kim cương giá trị cách đây ít lâu không?"

Lucia nhìn ông trừng trừng. "Tôi xin hỏi lại," cô nói như đang cắn chặt hàm răng, "điều đó thì có liên quan gì đến cái chết của Sir Claud?"

Poirot nói chậm rãi và thận trọng. "Trước tiên vòng cổ bị trộm - sau là công thức bị đánh cắp. Cả hai đều mang lại một khoản tiền kếch xù."

"Ý ngài là gì?" Lucia há hốc.

"Ý tôi là tôi muốn mợ trả lời câu hỏi này, thưa mợ. Bác sĩ Carelli muốn bao nhiêu – cho lần này?" Lucia quay lưng lại với Poirot. "Tôi – tôi – tôi sẽ không trả lời bất kỳ câu hỏi nào nữa," cô lí nhí.

"Bởi vì mợ sợ?" Poirot hỏi, đi tới chỗ cô.

Lucia quay lại đối diện với ông lần nữa, hất đầu về phía sau vẻ thách thức.

"Không," cô quả quyết, "Tôi không sợ. Chỉ đơn giản là tôi không biết ông đang nói gì! Tại sao bác sĩ Carelli lại đòi tôi tiền chứ?"

"Để mua sự im lặng của anh ta," Poirot đáp lời. "Nhà Amory là một gia tộc kiêu hãnh, và mợ hẳn là không muốn họ biết mợ là – con gái của Selma Goetz!"

Lucia trừng mắt nhìn Poirot một lúc nhưng không trả lời, và rồi, vai cô trùng xuống, cô đổ gục xuống ghế, tựa đầu vào tay. Phải mất ít nhất một phút trước khi cô ngước lên với một tiếng thở dài. "Richard có biết không?" cô lí nhí.

"Cậu ấy vẫn chưa biết," Poirot từ tốn trả lời.

Lucia có vẻ tuyệt vọng khi cô nài nỉ, "Đừng nói cho anh ấy, ngài Poirot! Làm ơn đừng nói cho anh ấy! Anh ấy rất tự hào về tên tuổi của dòng họ mình, rất hãnh diện về thanh danh của mình! Tôi thật xấu xa khi cưới anh ấy! Nhưng tôi cũng thật đáng thương. Tôi ghét cuộc sống đó, cuộc sống tồi tệ mà tôi buộc phải sống cùng mẹ. Tôi cảm thấy hèn hạ đi vì nó. Nhưng tôi có thể làm gì đây? Và rồi, khi mẹ chết đi, tôi cuối cùng cũng được tự do! Tự do để sống thật! Tự do thoát khỏi cuộc sống mưu mô và dối trá đó. Tôi đã gặp Richard. Đó là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra với tôi. Richard bước vào đời tôi. Tôi yêu anh ấy, anh ấy muốn cưới tôi. Làm sao tôi nói được với anh ấy mình là ai cơ chứ? Tại sao tôi phải nói cho anh ấy?"

"Và rồi," Poirot nhẹ nhàng nhắc nhở, "Carelli đã nhận ra mợ ở đâu đó cùng cậu Amory, và bắt đầu tống tiền?"

"Vâng, nhưng tôi không có tiền riêng," Lucia thở hắt. "Tôi đã bán chiếc vòng cổ và trả tiền hắn. Tôi nghĩ như thế là xong xuôi hết. Nhưng ngày hôm qua hắn lại xuất hiện ở đây. Hắn nghe được tin công thức mà Sir Claud đã phát minh ra."

"Anh ta muốn cô ăn cắp nó?"

Lucia thở dài. "Vâng."

"Và cô đã trộm nó?" Poirot hỏi, tiến lại gần cô.

"Ngài sẽ không tin tôi lúc này đâu," Lucia thì thào, lắc đầu buồn bã.

Poirot ngắm nhìn người phụ nữ trẻ đẹp với ánh mắt cảm thông.

"Có, có chứ, con của ta," ông vỗ về. "Ta vẫn sẽ tin con. Can đảm lên, và tin tưởng Cha Poirot, được chứ? Chỉ cần nói ta biết sự thật. Con có lấy công thức bí mật của Sir Claud không?"

"Không, không, tôi không lấy, tôi không lấy!" Lucia kịch liệt tuyên bố. "Nhưng đúng là tôi định lấy. Carelli làm một cái chìa khóa két an toàn của Sir Claud từ bản mẫu mà tôi đã lấy."

Lấy từ túi ra một chiếc chìa khóa và cho cô xem, Poirot hỏi, "Là cái này à?"

Lucia nhìn vào chìa khóa. "Vâng, tất cả đều rất dễ dàng. Carelli đưa tôi cái chìa khóa đó. Tôi đang ở trong phòng, vừa dằn lòng phải mở khóa két thì Sir Claud bước vào và phát hiện ra tôi. Đó là sự thật, tôi xin thề!"

"Tôi tin mợ, thưa mợ," Poirot nói. Ông bỏ chiếc chìa khóa lại trong túi, đi đến chiếc ghế bành và ngồi chập đầu các ngón tay vào nhau, suy nghĩ một lúc.

"Vậy mà mợ lại háo hức đồng ý trước kế hoạch nhấn chìm căn phòng trong bóng tối?"

"Tôi không muốn bị lục soát," Lucia giải thích. "Carelli cùng lúc đưa tôi một lời nhắn với chìa khóa, và cả hai thứ đều ở trong váy tôi."

"Mợ đã làm gì với chúng?" Poirot hỏi.

"Khi đèn tắt, tôi đã ném chìa khóa ra xa nhất mà tôi có thể. Đằng kia." Cô chỉ vào hướng chiếc ghê mà Edward Raynor đã ngồi tối hôm trước.

"Thế còn lời nhắn mà Carelli đã đưa cho cô?" Poirot tiếp tục.

"Tôi không biết làm gì với tờ ghi chú." Lucia đứng lên và đi tới cái bàn. "Vì vậy tôi đã lén đút nó vào giữa mấy trang sách." Lấy một cuốn sách trên bàn, cô tìm kiếm trong đó. "Vâng, nó vẫn còn đây," cô cho hay khi lấy mẩu giấy khỏi cuốn sách. "Ngài có muốn xem nó không?"

"Không, thưa mợ, nó là của mợ," Poirot quả quyết.

Ngồi vào một chiếc ghế bên bàn, Lucia xé vụn tờ giấy nhắn thành những mảnh nhỏ rồi bỏ vào túi xách. Poirot quan sát cô nhưng ngừng lại trước khi hỏi, "Thêm một điều nữa, thưa mợ. Có phải là tối qua mợ đã xé váy phải không?"

"Tôi ư? Không!" Lucia có vẻ ngạc nhiên.

"Trong lúc tối đen, mợ có nghe thấy tiếng áo váy rách không?"

Lucia cân nhắc vài giây. Sau đó, cô nói, "Vâng, vì giờ ông nhắc đến nó thì tôi tin mình có nghe thấy. Nhưng không phải là tôi. Nó hẳn là của bác Amory hoặc Barbara."

"Chà, chúng ta sẽ không bận tâm chuyện đó," Poirot miễn cưỡng nhận xét. "Bây giờ, chúng ta hãy chuyển sang vấn đề khác. Ai đã rót cà phê cho Sir Claud tối qua?"

"Tôi rót."

"Và mợ đã đặt nói lên bàn, cạnh cốc của mợ?"

"Vâng."

Poirot đứng dậy, nhoài người qua bàn về phía Lucia, và đột ngột đưa ra câu hỏi tiếp theo. "Mợ đã bỏ hyoscine vào cái cốc nào?"

Lucia nhìn ông sợ sệt. "Làm sao ông biết?" cô há hốc miệng.

"Việc của tôi là biết mọi thứ. Trong cốc nào, thưa mợ?"

Lucia thở dài. "Cốc của tôi."

"Tại sao?"

"Bởi vì tôi muốn – tôi muốn chết quách đi. Richard nghi ngờ có điều mờ ám giữa Carelli và tôi – rằng chúng tôi đang ngoại tình. Anh ấy không thể hiểu sai sự thật được. Tôi ghét Carelli! Tôi ghét hắn ngay lúc này! Nhưng, vì tôi không lấy được công thức cho hắn, tôi chắc chắn hắn sẽ vạch trần tôi với Richard. Tự sát chính là lối thoát – là cách duy nhất. Một giấc ngủ nhanh, không mộng mị - và không tỉnh dậy – đó là những gì hắn nói."

"Ai nói với mợ điều đó?"

"Bác sĩ Carelli."

"Tôi bắt đầu hiểu – tôi bắt đầu hiểu rồi," Poirot chậm rãi nói. Ông chỉ vào cái cốc trên bàn. "Cái này là cốc của cô, vậy thì? Cả cốc đầy, chưa nhấp môi?"

"Vâng."

"Điều gì đã khiến cô thay đổi suy nghĩ về việc uống nó?"

"Richard đã đến gặp tôi. Anh ấy bảo rằng sẽ đưa tôi đi – nước ngoài – rằng bằng cách nào đó anh ấy sẽ lấy được tiền để làm vậy. Anh đã trao lại cho tôi – hi vọng."

"Bây giờ, hãy lắng nghe tôi thật kỹ đây, thưa mợ," Poirot nghiêm túc nói. "Sáng nay, bác sĩ Graham mang chiếc tách bên cạnh ghế Sir Claud đi rồi."

"Vâng?"

"Đồng nghiệp của ông ấy – các bác sĩ sẽ chẳng tìm được thứ gì ngoài cặn cà phê trong đó –" Ông ngừng lại.

Lucia trả lời mà chẳng buồn nhìn ông, "Dĩ – dĩ nhiên rồi."

"Thế đúng rồi, nhỉ?" Poirot kiên trì.

Lucia nhìn thẳng phía trước không đáp lại.

Sau đó, ngước nhìn Poirot, cô thốt lên, "Tại sao ông lại nhìn tôi chằm chằm như thế? Ông làm tôi sợ đấy!"

"Tôi bảo," Poirot lặp lại, "sáng nay họ đã mang chiếc cốc bên cạnh ghế Sir Claud đi rồi. Chúng ta hãy giả sử thay vào đó họ đã mang đi chiếc cốc kế bên ghế ngài ấy ngồi tối qua?" Ông di chuyển tới bàn kê chậu cây và lấy ra khỏi chậu một cái tách đựng cà phê. "Chúng ta ví thử họ đã lấy đi cái cốc này!"

Lucia đứng bật dậy, úp hai tay lên mặt.

"Ông biết rồi!" cô thở gấp.

Poirot đi tới chỗ cô. "Thưa mợ!" Giọng ông bây giờ nghiêm nghị hẳn. "Họ sẽ xét nghiệm cái cốc của họ nếu họ chưa làm, và họ sẽ không tìm được thứ gì. Nhưng tối qua tôi đã lấy một ít cặn từ chiếc cốc ban đầu. Cô sẽ nói gì đây nếu tôi bảo có hyoscine trong cốc của Sir Claud?"

Lucia trông hoang mang sợ hãi. Cô nghiêng ngả đi, nhưng rồi tự trấn tĩnh lại. Cô im lặng một lúc. Thế rồi, cô thì thào "Ông đã đúng." "Ông hoàn toàn đúng. Tôi đã giết ngài ấy." Giọng cô đột ngột vang lên. "Tôi đã giết ngài ấy! Tôi đã bỏ hyoscine vào cốc của ngài ấy." Đi tới bàn, cô cầm lấy cốc cà phê đầy. "Cái này – chỉ là cà phê thôi!"

Cô nâng cái tách đầy cà phê lên miệng, nhưng Poirot lao bổ vào, tay chặn giữa cái tách và môi cô. Họ nhìn nhau chăm chú một lúc, sau đó Lucia bật khóc nức nở. Poirot đoạt lấy chiếc tách từ cô và đặt nó lên bàn. "Thưa mợ!" ông kêu lên.

"Tại sao ông ngăn tôi lại?" Lucia lẩm bẩm.

"Mợ ơi," Poirot nói, "thế giới này rất đẹp đẽ. Tại sao mựo lại muốn rời bỏ nó?"

"Tôi – Ôi chao!" Lucia đổ sụp xuống chiếc trường kỷ, khóc nức nở.

Giọng Poirot thật dịu dàng, ấm áp khi ông cất tiếng.

"Mợ đã nói cho tôi sự thật. Mợ đã bỏ hyoscine vào cốc của mình. Tôi tin mợ. Nhưng còn có hyoscine trong cốc khác nữa. Bây giờ, hãy nói lại sự thật với tôi một lần nữa. Ai đã bỏ hyoscine vào cốc của Sir Claud?"

Lucia nhìn Poirot chằm chằm trong nỗi kinh hoàng. "Không, không, ngài nhầm rồi. Anh ấy không bỏ. Là tôi đã giết ngài ấy," cô khóc nấc.

"Ai không làm? Hãy nói tôi biết ai là người mà mợ đang bảo vệ, thưa mợ?" Poirot yêu cầu.

"Tôi nói là anh ấy không làm," Lucia nức nở.

Có tiếng gõ cửa. "Đó chắc là cảnh sát!" Poirot tuyên bố. "Chúng ta còn rất ít thời gian. Tôi sẽ hưa với mợ hai điều. Lời hứa thứ nhất là tôi sẽ giúp mợ –"

"Nhưng tôi bảo tôi đã giết ngài ấy cơ mà." Lucia nói gần như hét.

"Lời hứa thứ hai," Poirot điềm tĩnh nói tiếp, "là tôi sẽ cứu chồng mợ!"

"Ối!" Lucia há hốc miệng vì kinh ngạc, nhìn ông hoang mang.

Viên quản gia, Tredwell bước vào phòng. Ông ta thông báo với Poirot, "Thanh tra Japp từ sở cảnh sát thủ đô."

Chương 15

Mười lăn phút sau, Thanh tra Japp cùng với Johnson, một cảnh sát trẻ, đã hoàn thành việc kiểm tra thư viện ban đầu. Japp, một người đàn ông trung tuổi nồng hậu, chất phác với thân hình chắc nịch và nước da hồng hào đang ôn lại quá khứ cùng Poirot và Hasting, người mới trở lại sau lần ẩn cư nơi vườn tược.

"Phải," Japp nói với viên cảnh sát, "Ông Poirot và tôi hồi tưởng lại một chặng đường dài. Cậu thường nghe tôi kể về ông ấy rồi đấy. Khi chúng tôi cùng làm việc lần đầu, ông ấy vẫn còn là thành viên của lực lượng cảnh sát Bỉ. Là vụ giả mạo Abercrombie, phải không nhỉ, anh Poirot? Chúng tôi đã lùng được hăn ở Brussels. Ây da, những ngày tuyệt vời. Anh còn nhớ 'Nam tước' Altara không? Có một tay khá ranh ma! Hắn lảng tránh được một nửa cảnh sát châu Âu. Nhưng chúng tôi đã tóm được gã ở Antwerp – nhờ có ông Poirot đây."

Japp chuyển từ Johnson sang Poirot. "Và rồi chúng ta lại gặp nhau trên cái đất nước này, phải không anh Poirot?" ông kêu lên. "Dĩ nhiên, lúc đó anh đã nghỉ hưu. Anh đã xử lý được vụ việc bí ẩn đó ở Style, nhớ không? Lần cuối chúng ta hợp tác với nhau trong một vụ án là khoảng hai mươi năm trước, phải không nhỉ? Sự vụ về một nhà quý tộc người Ý ở London. Chà, thật tuyệt khi gặp lại anh, Poirot ạ. Anh đã khiến tôi vô cùng kinh ngạc khi tôi bước vào vài phút trước và trông thấy cái "mẹt" già nua hài hước của anh đấy."

""Mẹt" của tôi?" Poirot hỏi, trông có vẻ thắc mắc. Từ lóng tiếng Anh chưa bao giờ thất bại trong việc làm ông bối rối.

"Ý tôi là mặt anh đó, anh bạn già," Japp giải thích với một nụ cười toe toét. "Chà, chúng ta sẽ cùng làm việc trong vụ này chứ?"

Poirot mỉm cười. "Japp tốt bụng, anh biết điểm yếu của tôi mà!"

"Đúng là cái đồ kín miệng, không phải sao?" Japp nhận xét, vỗ vào vai Poirot. "Tôi bảo rằng cô Amory mà anh đang nói chuyện khi tôi bước vào, cô ấy là một người ưa nhìn. Tôi đoán đó là phu nhân của Richard Amory phải không? Tôi cá là anh đang khoái trá lắm đấy, anh già ạ!"

Vị thanh tra cười lớn và ngồi xuống ghế cạnh bàn. "Dù sao đi nữa," ông nói tiếp, "đây mới là kiểu vụ án phù hợp với anh. Thỏa mãn được đầu óc rối rắm của anh. Bây giờ, tôi ghét vụ mấy vụ đầu độc lắm. Chẳng có gì để tiến triển. Anh phải tìm ra họ đã ăn hay uống thứ gì, ai cầm nắm nó và ai đã hít phải nó nhiều! Tôi thừa nhận bác sĩ Graham có vẻ biết khá rõ vụ này. Anh ta nói rằng chất kích thích hẳn là có trong cà phê. Theo anh ta, một liều lớn sẽ gần như có tác dụng tức thì. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ biết chắc chắn khi có được báo cáo của chuyên gia phân tích, nhưng chúng ta có đủ thông tin để tiếp tục rồi."

Japp nhỏm dậy. "Chà, tôi xong việc với phòng này rồi," ông tuyên bố. "Tôi nghĩ mình nên có vài lời với Cậu Richard Amory, rồi sau đó tôi sẽ gặp vị bác sĩ Carelli này. Có vẻ anh ta là người mình đấy. Nhưng phải giữ đầu óc cởi mở, đó là điều tôi luôn nói, giữ đầu óc cởi mở" Ông đi ra cửa. "Đi chứ, Poirot

"Chắc chắn rồi, tôi sẽ đi cùng anh,"Poirot nói, nhập cuộc với ông.

"Cả Đại úy Hastings nữa, tôi biết chắc mà." Japp cười. "Dính chặt lấy anh như hình với bóng, phải không Poirot?"

Poirot ném ánh mắt đầy ẩn ý lên người ông Japp. "Có thể anh Hastings sẽ thích nán lại đây hơn," ông nói.

Làm theo ám hiệu của ông một cách rõ ràng, Hastings đáp lại, "Phải, phải, tôi nghĩ mình sẽ ở đây."

"Vậy thì, như anh muốn." Japp có vẻ ngạc nhiên. Ông cùng Poirot rời đi, theo sau là viên cảnh sát trẻ tuổi, và một lát sau Barbara từ vườn đi vào qua khung cửa sổ kiểu Pháp, mặc áo cánh màu hồng cùng quần sáng màu. "A! Ông đây rồi, cưng ơi(my pet). Chuyện gì vừa mới bất ngờ ập đến chúng ta vậy?" cô hỏi Hastings khi băng qua ghế trường kỷ và ngồi xuống. "Là cảnh sát hả?"

"Vâng," Hastings nói với cô. Ông cùng ngồi xuống ghế với cô. "Là thanh tra Japp của sở cảnh sát chỉ huy. Ông ấy đi gặp anh họ của cô rồi, để hỏi cậu ta vài câu."

"Ông có nghĩ ông ấy muốn chất vấn tôi không?"

"Tôi không cho là vậy. Nhưng ngay cả nếu ông ấy có muốn hỏi, thì cũng không có gì phải hốt hoảng cả." Hastings cam đoan.

"Ồ, tôi không sợ," Barbara tuyên bố. "Thực tế, tôi nghĩ nó hoàn toàn phi thường! Nhưng thật kích thích khi được thêu dệt một chút, chỉ là để tạo cảm giác thôi. Tôi mê cảm giác mạnh lắm, ông có thế không?"

Hastings trông bối rối. "Tôi – tôi thực tình không biết. Không, tôi không nghĩ mình thích cảm giác mạnh."

Barbara Amory nhìn ông thắc mắc. "Ông biết đấy, ông làm tôi tò mò," cô tuyên bố. "Ông đã sống cả đời ở đâu vậy?"

"Chà, tôi ở Nam Mỹ vài năm."

"Tôi biết mà!" Barbara kêu lên. Cô làm bộ lấy tay che mắt. "Không gian trống trải. Đó là lý do tại sao ông lại lỗi thời đến thế."

Lúc này Hastings trông như bị xúc phạm. "Tôi rất tiếc," ông nói cứng nhắc.

"Ồ, nhưng mà tôi ngưỡng lắm," Barbara vội giải thích. "Tôi nghĩ ông là một người được mến mộ, thực sự được yêu thích."

"Thế chính xác ý cô là gì khi nói lỗi thời?"

"Chà," Barbara tiếp lời, "Tôi chắc chắn ông tin vào mấy thứ xưa cũ, như khuôn sáo, và chẳng bao giờ nói dối nếu không vì lý do chính đáng, và dũng cảm đối diện mọi thứ."

"Khá đúng," Hastings đồng tình trong sự ngạc nhiên. "Cô không thế à?"

"Tôi á? Ờ, ví dụ thế này nhé, ông có mong là tôi tiếp túc tưởng tưởng rằng cái chết của bác Claud là một tai nạn đáng tiếc không?"

"Không phải sao?" Hastings có vẻ sốc.

"Trời đất, quỷ thần ơi!" Barbara kêu lên. Cô đứng dậy và ngồi ghé lên mép bàn trà. "Đối với tôi, nó là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra. Ông không biết bác ấy là một người bủn xỉn thế nào đâu. Bác ấy đối xử với tất cả chúng tôi tệ lắm!" Cô ngừng lại, mất bình tĩnh do cảm xúc quá mạnh.

Bối rối, Hastings mở lời, "Tôi – tôi – mong cô không –" nhưng bị Barbara ngắt lời.

"Ông không thích thành thật à?" cô hỏi. "Tôi đã nghĩ đó là điều mà ông sẽ thích. Ông thích tôi mặc đồ đen thay vì thế này, và giọng trầm trầm nói "Bác Claud tội nghiệp! Thật tốt cho tất cả chúng ta."

"Thật hả trời!" Hastings kêu lên.

"Ôi, ông không cần giả vờ," Barbara nói tiếp, "Nếu tôi đã tìm hiểu đúng về ông, thì tôi biết đó chính là điều mà ông thích. Nhưng điều tôi muốn nói là đời không đủ dài cho tất cả những dối trá, vờ vịt. Bác Claud đối xử với chúng tôi không tốt chút nào cả. Tôi chắc chắn chúng tôi ai nấy đều mừng khi bác ấy qua đời, thật đấy, từ trong tâm khảm. Phải, ngay cả bác Caroline nữa. Thật tội nghiệp, bác đã chịu đựng ông ấy lâu hơn bất kỳ ai trong chúng tôi.

Barbara đột nhiên bĩnh tĩnh lại. Khi cô nói tiếp, giọng điệu đã nhẹ nhàng hơn. "Ông biết đấy, tôi đã suy nghĩ. Nói một cách khoa học thì, bác Caroline có thể đã đầu độc bác Claud. Cơn đau tim tối qua thực sự rất đáng ngờ. Tôi chẳng tin đấy là cơn đau tim tí nào. Cứ giả sử việc kìm nén mọi cảm xúc trong ngần ấy năm đã dẫn đến việc bác Caroline đã nảy sinh một vài phức cảm mạnh mẽ -"

"Tôi cho rằng về mặt lý thuyết là có thể," Hastings thầm thì một cách ý tứ.

"Dù vậy, tôi tự hỏi ai đã thó mất cái công thức," Barbara tiếp tục, "Ai cũng nói là tay người Ý, nhưng cá nhân tôi lại nghi ngờ Tredwell."

"Quản gia nhà các cô? Trời đất ơi! Tại sao?"

"Vì ông ta chẳng bao giờ lại gần phòng nghiên cứu!"

Hastings trông bối rồi. "Thế nhưng –"

"Tôi rất tin tưởng theo một cách nào đó," Barbara nhận xét. Tôi đã đặt sự tình nghi lên người có ít khả năng nhất. Đó là người mà (who it is in all the best murder mysteries). Và Tredwell chắc chắn là người có ít khả năng nhất."

"Có lẽ, trừ cô ra," Hastings cười gợi ý.

"Ối, tôi á!" Barbara mỉm cười hồ nghi khi cô đứng lên và né xa ông. "Thật lạ đời –" cô nhủ thầm.

"Cái gì kỳ lạ cơ?" Hastings nhỏm dậy, hỏi.

"Vài thứ tôi vừa nghĩ tới. Chúng ta ra vườn đi. Tôi ghét ở trong này. "Cô hướng thẳng ra khung cửa kiểu Pháp.

"Tôi e là mình phải ở lại đây," Hastings nói với cô.

"Tại sao?"

"Tôi không thể rời khỏi căn phòng này."

"Ông biết không," Barbara nhận xét, "ông có vấn đề về cảm xúc với căn phòng này rồi. Ông còn nhớ tối qua không? Chúng tôi hoàn toàn bị đảo lộn hết cả do việc công thức biến mất, rồi ông bước vào, và làm tuột cảm xúc một cách tuyệt hảo nhất bằng một cách trò truyện hay ho nhất, 'Căn phòng thật là thú vị, thưa ngài Amory'. Thật buồn cười khi hai người đi vào. Có một ông nhỏ thó khác thường đi cùng ông, cao không quá 1m65, nhưng toát lên phẩm giá đầy người. Còn ông thì, tỏ ra, ồ, thật lịch thiệp."

"Tôi thừa nhận là, Poirot trông khá kỳ lạ lúc mới gặp," Hastings đồng tình. "Và anh ấy có hết thảy mọi nhược điểm nho nhỏ. Chẳng hạn, anh ấy có niềm đam mê tuyệt đối với bất kỳ loại ngăn nắp nào. Nếu anh ấy trông thấy một món trang trí xếp không ngay ngắn, hay một hạt bụi, hoặc thậm chí trang phục ai đó hơi xộc xệch tí ti, nó thực sự là sự tra tấn đối với anh ấy."

"Các ông đúng là một sự tương phản tuyệt vời của nhau," Barbara cười nói.

"Các phương thức khám phá của Poirot rất riêng biệt, cô biết đấy," Hastings tiếp tục. "Nguyên tắc làm việc của anh ấy là có trật tự và có phương pháp. Anh ấy không coi trọng mấy cái bằng chứng hữu hình như: các dấu chân và tàn thuốc lá, cô hiểu ý tôi là gì đấy. Thực tế, anh ấy chủ trương rằng cảnh sát sẽ tự làm, chứ chẳng bao giờ để cho một thám tử xử lý vấn đề. Anh ấy hay nói, giải quyết từ bên trong mới là việc làm đúng đắn. Rồi anh gõ gõ vào cái đầu hình trứng của mình, và hài lòng nhận xét, "Những tế bào chất xám nho nhỏ của não bộ - hãy luôn ghi nhớ những tế bào xám nhỏ bé này, mon ami (bạn thân mến)."

"Ôi, tôi nghĩ ông ấy là một người nhỏ nhắn đáng yêu đấy chứ," Barbara tuyên bố. "Nhưng không duyên dáng bằng ông, với câu 'Căn phòng thật là thú vị!'"

"Nhưng nó là một căn phòng thú vị mà," Hastings khăng, nghe có vẻ giận dỗi.

"Cá nhân tôi không đồng tình với ông," Barbara nói. Cô cầm lấy tay ông và thử kéo ông ra khung cửa sổ kiểu Pháp đang mở. "Dù sao, giờ ông cũng đã lãnh đủ rồi. Đi nào."

"Cô không hiểu được đâu," Hastings tuyên, rút tay ra khỏi tay cô."Tôi đã hứa với Poirot."

Barbara chậm rãi nói. "Ông hứa với Ngài Poirto rằng ông sẽ không rời khỏi căn phòng này à? Nhưng tại sao?"

"Tôi không thể cho cô biết được."

"Ôi!" Barbara yên lặng một lát, sau đó cô đổi biện pháp. Cô đi ra sau Hastings và bắt đầu kể chuyện với giọng cường điệu đầy kịch tích. 'Cậu bé đứng trên sàn tàu đang cháy –'"

"Xin thư lỗi?"

"'Do đâu mà cậu đã chạy trốn.' Hả, ông bạn dễ mến?"

"Tôi không tài nào hiểu nổi cô,"Hastings bực bội tuyên bố.

"Sao ông phải hiểu tôi? Ôi, ông thật sự là một người thú vị đấy," Barbara tuyên bố, trượt tay cô dọc cánh tay ông. "Đến đây và được quyến rũ nào. Ông biết đấy, tôi nghĩ ông rất đáng yêu, thực đấy."

"Cô đang ghẹo tôi."

"Không hề," Barbara nhấn mạnh. "Tôi điên lên vì ông mất. Ông rõ ràng là người thời tiền chiến mà."

Cô kéo ông đến khung cửa sổ Pháp, và lần này Hastings cho phép bản thân khuất phục dưới lực ấn cánh tay của cô.

"Cô quả là một người phi thường," ông nói. "Cô khác hẳn những cô nàng mà tôi từng gặp."

"Tôi rất vui khi nghe thấy thế. Đó là một dấu hiệu rất tốt.," Barbara nói, mặt đối mặt, vì bây giờ họ đang đứng ngay trong khung cửa sổ để mở.

"Một dấu hiệu tốt?"

"Vâng, nó làm một cô gái cảm thấy có hy vọng."

Hastings đỏ mặt, còn Barbara cười vui vẻ khi cô kéo ông ra vườn.

Chương 16

Sau khi Barbara rời đi cùng Hastings ra vườn, thư viện chỉ bỏ ngỏ chưa đầy ít phút. Sau đó cánh cửa dẫn ra sảnh mở ra, và bà Amory bước vào, mang theo một túi làm việc nhỏ. Bà đi tới ghế trường kỷ, đặt cái túi xuống, quỳ xuống, và bắt đầu tìm kiếm đằng sau chiếc ghế. Khi bà đang mò tìm, bác sĩ Carelli bước vào từ một cửa khác, mang theo mũ và một va-li nhỏ. Nhìn thấy bà Amory, Carelli dừng lại và xin lỗi vì đã tự ý đi vào.

Bà Amory nhỏm dậy từ ghế trường kỷ, trông có vẻ bối rối. "Tôi đang tìm cây kim đan," bà giải thích một cách không cần thiết, huơ huơ cái bà tìm được khi nói. "Nó bị tuột xuống sau ghế." Sau đó, nhận ra anh ta đang cầm va-li, bà hỏi, "Cậu định rời đi sao, bác sĩ Carelli?"

Carelli đặt mũ và va-li xuống một chiếc ghế. "Tôi thấy mình không thể lợi dụng lòng hiếu khách của các vị nữa," anh ta tuyên bố.

Mừng ra mặt, nhưng bà Amory đủ lịch sự để khẽ nói, "Chà, nếu cậu cảm thấy thế, tất nhiên -" Sau đó, nhớ ra tình cảnh mà những người hiện đang cư ngụ trong ngôi nhà này rơi vào, bà nói thêm, "Nhưng tôi nghĩ có một vài thủ tục phiền phức –" Giọng bà lạc đi thiếu quyết đoán.

"Ồ, chuyện đó đã được thu xếp cả rồi," Carelli trấn an.

"Chà, nếu cậu cảm thấy cậu phải đi –"

"Thực sự tôi cần phải đi."

"Vậy thì tôi sẽ đặt xe," bà Amory tuyên bố luôn, đi tới chỗ cái chuông trên bệ lò sưởi.

"Không, không," Carelli khăng khăng. "Việc đó cũng được thu xếp cả rồi."

"Nhưng cậu còn phải tự mang vali xuống kìa. Thật là, mấy cái người hầu này! Bọn họ suy đồi phẩm chất hết cả, hoàn toàn suy đồi phẩm chất rồi!" Bà quay sang chiếc trường kỷ và lấy đồ đan trong túi ra. "Bọ họ chẳng tập trung nổi, bác sĩ Carelli ạ. Họ chẳng biết giữ mình. Thật kỳ cục, phải không?"

Carelli trả lời không khách sáo, trông rõ vẻ căng thẳng "Rất kỳ cục." Anh ta liếc nhìn điện thoại.

Miss Amory bắt đầu đan, tiếp tục cuộc trò chuyện vô thưởng vô phạt. "Tôi nghĩ rằng cậu sẽ bắt chuyến mười hai giờ mười lăm. Cậu không cần vội vã quá đâu. Dĩ nhiên, đó không phải là việc mà tôi muốn để ý. Tôi vẫn nói suốt là việc quan tâm quá đến –"

"Vâng, thực vậy," bác sĩ Carelli ngắt lời một cách dứt khoát, "nhưng tôi nghĩ còn cả đống thời gian. Tôi – Tôi tự hỏi liệu mình có thể sử dụng điện thoại được không?"

Bà Amory ngước lên trong giây lát. "Ồ, dĩ nhiên là được," bà nói khi đan tiếp. Có vẻ bà không nghĩ ra rằng bác sĩ Carelli có thể muốn gọi một cuộc điện thoại riêng.

"Cảm ơn bà," Carelli lẩm nhẩm, di chuyển tới bàn làm việc và tìm một số điện thoại trong sổ danh bạ. Anh ta sốt ruột liếc nhìn bà Amory. "Tôi nghĩ cháu trai bà đang tìm bà đấy," anh ta nhắc.

Phản ứng duy nhất của Miss Amory về thông tin này là nói về cháu trai bà trong khi vẫn đan len mà không bị xáo trộn.

"Cháu Barbara!" bà kêu lên. "Thật là một đứa trẻ duyên dáng. Cậu biết không, con bé có một cuộc sống khá là buồn tẻ ở đây, quá ảm đạm đối với một cô gái trẻ. Chà, chà, tôi dám chắc là mọi thứ giờ sẽ khác." Bà thích thú chìm trong ý nghĩ này một lúc trước khi nói tiếp, "Không phải là tôi đã không làm tất cả những gì mình có thể. Nhưng cái con bé cần lại là một chút vui vẻ. Tất cả Beeswax trên thế gian này cũng không bù đắp nổi."

Gương mặt bác sĩ Carelli suy nghĩ khó hiểu, pha lẫn chút bực dọc. "Beeswax?" anh ta đành phải hỏi.

"Vâng, Beeswax– hay là Beemax nhỉ? Cậu biết đấy, các Vitamin, hay ít nhất đó là thứ được ghi trên vỏ hộp. A và B và C và D. Tất cả những thứ đó, ngoại trừ một thứ giúp cậu không bị tê phù. Và thực tình tôi nghĩ không cần thứ đó, nếu người ta sống ở Anh. Ở đây người ta không mắc bệnh này. Tôi tin là nó bắt nguồn từ việc đánh bóng gạo ở các nước bản địa. Thật thú vị. Tôi bắt cậu Raynor uống nó – Beeswax, ý tôi là – sau mỗi bữa sáng. Cậu ta trông nhợt nhạt quá, tội nghiệp cậu trai trẻ. Tôi cũng cố gắng bắt Lucia uống, nhưng con bé không chịu." Bà Amory lắc đầu vẻ bất mãn.

"Nghĩ xem, khi tôi còn bé, tôi bị cấm ăn caramen vì Beeswax – ý tôi là Beemax. Cậu biết đấy, thời đại thay đổi. Thời đại thực sự thay đổi."

Mặc dù cố gắng che đậy cơn giận, nhưng lúc này bác sĩ Carelli rõ ràng là đang tức xì khói. "Vâng, vâng, thưa bà Amory," anh ta lịch sự đáp lại khi còn kiềm chế được. Tiến về phía bà, anh ta cố gắng tiếp cận vấn đề trực tiếp hơn. "Tôi nghĩ cháu bà đang gọi bà đấy."

"Gọi tôi ư?"

"Vâng, bà không nghe thấy sao?"

Bà Amory lắng nghe. "Không – không thấy," bà thú nhận. "Lạ lùng ghê." Bà cuộn đồ đang đan lại. "Cậu hẳn phải có thính giác nhạy bén lắm, bác sĩ Carelli ạ. Không phải là tôi nghe kém. Thật đó, tôi từng được bảo là –"

Bà làm rơi quả len, và Carelli nhặt nó giúp bà. "Cảm ơn cậu nhiều," bà nói. "Cậu biết đấy, mọi thành viên nhà Amory đều có thính giác tốt." Bà nhỏm dậy khỏi chiếc trường kỷ. "Bố tôi giữ gìn được khả năng các ngũ quan của ông một cách đáng kinh ngạc. Ông ấy có thể đọc mà không cần kính ở tuổi tám mươi." Bà lại làm rơi quả bóng len, và Carelli một lần nữa khom lưng nhặt giúp bà.

"Ôi, cảm ơn cậu rất nhiều," bà Amory tiếp tục. "Một người đàn ông phi thường, bác sĩ Carelli ạ. Ý tôi là bố tôi ấy. Thật là một người đáng nể. Ông luôn ngủ trên một chiếc giường lông vũ bốn cọc; và cửa sổ phòng ngủ của bố chẳng mở bao giờ. Rủi thay, một phụ nữ trẻ chăm sóc cho ông khi bị bệnh gút cứ khăng khăng đòi mở cửa sổ trên mái, và người bố tội nghiệp của tôi chết vì thế."

Bà lại đánh rơi quả bóng len thê lần nữa. Lần này, sau khi nhặt lên, Carelli đặt nó thật chắc vào tay bà rồi dẫn bà ra cửa. Miss Amory di chuyển chầm chầm, luôn miệng nói. "Tôi chả quan tâm tí nào tới mấy y tá bệnh viện, bác sĩ Carelli ạ," bà bảo với anh. "Họ đưa chuyện về những ca bệnh của họ, họ uống quá nhiều trà, và họ luôn làm mấy người hầu phiền lòng."

"Rất đúng, thưa bà, rất đúng," Carelli vội đồng tình, mở cửa cho bà.

"Cảm ơn cậu nhiều lắm," bà Amory nói khi anh ta đẩy bà ra khỏi phòng. Đóng cánh cửa lại, Carelli nhanh chóng đi tới bàn làm việc và nhấc ống nghe. Sau một hồi, anh ta nói khẽ nhưng khẩn trương. "Đây là Market Cleve ba-không-bốn. Tôi muốn London...Soho hai lần –tám-năm-ba...không, năm-ba, đúng thế...Hả? ... Ông sẽ gọi cho tôi chứ? ...Đúng."

Anh ta đặt lại ống nghe rồi sau đó đứng cắn móng tay vẻ nôn nóng. Sau một hồi, anh ta đi ngang qua cánh cửa phòng nghiên cứu, mở cửa và bước vào phòng. Anh vừa mới vào thì Edward Raynor từ đại sảnh đi vào thư viện. Đảo mắt khắp căn phòng một lượt, Raynor thản nhiên thong dong bước đến bệ lò sưởi. Anh ta chạm vào lọ đóm trên bệ lò sưởi, và đúng lúc đó, Carelli từ phòng nghiên cứu quay trở ra phòng này. Khi Carelli đóng cánh cửa phòng nghiên cứu lại, Raynor quay lại và thấy anh.

"Tôi không biết là cậu ở trong này," vị thư ký nói.

"Tôi đang đợi một cuộc gọi," Carelli giải thích.

"Ồ!"

Sau khi im lặng một lúc, Carelli nói tiếp. "Thanh tra cảnh sát đến từ lúc nào vậy?"

"Tôi nghĩ rằng từ hai mươi phút trước rồi. Cậu gặp ông ấy rồi à?"

"Thấy từ đằng xa thôi," Carelli trả lời.

"Ông ấy là người của Sở cảnh sát Thủ đô," Raynor thông tin cho anh ta. "Hình như, ông ấy tình cờ xuống khu này để giải quyết vài sự vụ khác, nên là ông ấy được cảnh sát địa phương gọi đến."

"Đúng là may mắn, nhỉ?" Carelli nhận xét.

"Không phải là?" Điện thoại đổ chuông, và Raynor tiến thẳng về phía đó. Đi thật nhanh về phía điện thoại trước ông ta, Carelli nói, "Tôi nghĩ cuộc gọi đó là của tôi." Anh ta nhìn Raynor. "Ông có phiền không nếu –"

"Tất nhiên là được, anh bạn thân mến," vị thư ký quả quyết. "Tôi ra ngay đây."

Raynor rời khỏi phòng, Carelli nhấc ống nghe lên. Anh khẽ nói. "Alo? ...Miguel đó à? ...Vâng? ...Không, chết tiệt, Tôi chưa. Chuyện đó là không thể... Không, anh không hiểu đâu, ông già đã chết đêm qua... Tôi sẽ đi ngay lập tức... Japp đang ở đây... Japp đó. Anh biết đấy, người của Sở cảnh sát Thủ đô... Không, tôi chưa gặp ông ta... Tôi cũng hy vọng thế... Tại chỗ cũ như mọi khi, chín giờ ba mươi tối nay... Đúng."

Đặt lại ống nghe, Carelli đi tới bệ lò sưởi, xách va-li lên, đội mũ và đi thẳng tới khung cửa kiểu Pháp. Đúng lúc ấy, Hercule Poirot từ vườn bước vào, ông và Carelli va vào nhau. "Tôi xin lỗi," tay người Ý nói.

"Không hề gì," Poirot lịch sự đáp lại, vẫn đứng chắn lối ra.

"Liệu ông có thể cho tôi qua –"

"Không thể," Poirot ôn tồn nói. "Hoàn toàn không thể."

"Xin ông đấy."

"Tôi không thể," Poirot khẽ nói với một nụ cười thân thiện.

Đột nhiên, Carelli xô thẳng vào người Poirot. Vị thám tử nhỏ bé nhanh nhẹn nhảy sang một bên, bất ngờ ngáng chân làm Carelli ngã nhào, đồng thời đoạt lấy chiếc va-li của tay bác sĩ người Ý. Đúng lúc đó, Japp từ đằng sau Poirot lướt vào phòng, và Carelli ngã vào vòng tay vị thanh tra.

"Này, tất cả chuyện này là sao?" thanh tra Japp kêu lên, "Sao, Chúa phù hộ nếu đây không phải Tonio!"

"A!"Poirot cười cười khi ông tách khỏi hai người bọn họ. "Japp thân mến, tôi nghĩ rằng ông có thể gây tổn hại danh tính cho quý ông này đấy."

"Ồ, tôi biết tất cả về cậu ta," Japp khẳng định. "Tonio là một nhân vật khá nổi tiếng. Phải không nào, Tonio? Tôi cá là cậu bị bất ngờ vì động tác vừa rồi của Ông Poirot. Anh gọi đó là gì nhỉ, Poirot? Ju-jitsu hay đại loại thế, phải không? Tội nghiệp Tonio!"

Khi Poirot đặt va-li của tay người Ý lên bàn và mở ra, Carelli gầm gừ lên với Japp, "Ông chẳng có gì chống lại tôi. Ông không thể bắt giữ tôi."

"Tôi băn khoăn," vị thanh tra nói. "Tôi cá chúng ta sẽ không phải tìm kẻ đã đánh cắp công thức, và ra tay với ông già nữa." Quay sang Poiort, ông nói thêm, "Công thức đó chắc chắn bang trong đường dây của Tonio, và vì chúng ta thấy hắn đang cố tìm lối thoát ra, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu hắn có hàng trong người lúc này."

"Tôi đồng ý với anh," Poirot tuyên bố.

Japp đưa tay dò soát khắp người Carelli, trong khi Poirot lục soát vali.

"Thế nào?" Japp hỏi Poirot.

"Chẳng có gì," vị thám tử trả lời, đóng va-li lại. "Không gì cả. Tôi thất vọng đấy."

"Các ông nghĩ mình rất thông minh, phải không?" Carelli hầm hè. "Nhưng tôi có thể nói cho ông-"

Poirot ngắt lời gã, nói một cách nhã nhặn và rành mạch. "Cậu có thể nói, nhưng thế là rất không khôn ngoan."

Carelli giật mình, kêu lên, "Ý ông là gì?"

"Ông Poirot đúng đấy," Japp tuyên bố. "Cậu tốt hơn hết nên ngậm miệng lại." Ông đi tới, mở cửa hành lang và gọi, "Jonson!" Viên cảnh sát trẻ đưa đầu qua cửa ngó nghiêng. "Tập hợp toàn bộ gia đình lại cho tôi, được chứ?" Japp yêu cầu. "Tôi muốn tất cả bọn họ tới đây."

"Rõ, thưa ngài," Johnson nói khi anh rời phòng.

"Tôi phản đối! Tôi –" Carelli hổn hển. Đột nhiên, gã chụp lấy va-li của mình và lao về phía cửa sổ kiểu Pháp.

Japp rượt theo, tóm lấy gã và ném lên chiếc trường kỷ, và lấy chiếc va-li khỏi gã. "Chưa ai làm gì cậu cả, vì thế đừng có kêu ré lên," Japp quát vào mặt tay người Ý lúc này đã hoàn toàn bị thu phục.

Poirot thong thả đi về phía cửa sở kiểu Pháp. "Poirot, làm ơn đừng bỏ đi lúc này," Japp gọi sau lưng ông, đặt vali của Carelli xuống bàn trà. "Chuyện này hẳn thú vị lắm."

"Không, không, Japp thân mến ơi, tôi sẽ không rời đi," Poirot cam đoan. "Tôi sẽ ở ngay đây. Như ông nói, cuộc họp mặt gia đình này thực sự sẽ là điều thú vị nhất."

Chương 17

Vài phút sau, khi gia đình Amory bắt đầu tập hợp trong thư viện, Carelli vẫn còn ngồi trên ghế trường kỷ, trông khá ủ rũ trong khi Poirot tiếp tục lảng vảng quanh khung cửa kiểu Pháp. Barbara Amory với Hastings đi theo sau, đã trở lại từ khu vườn qua cửa sổ Pháp, và Barbara đi tới ngồi chung ghế với Carelli, trong khi Hastings ra đứng cạnh Poirot. Poirot thì thầm với người đồng sự, "Sẽ rất hữu ích nếu anh ghi chú lại, Hastings ạ – ghi chú trong đầu, anh hiểu rồi đấy, chỗ mà tất cả bọn họ chọn để ngồi."

"Có ích ư? Như thế nào? Hastings hỏi.

"Về mặt tâm lý, bạn ơi," là lời đáp duy nhất của Poirot.

Khi Lucia bước vào phòng, Hastings quan sát cô khi cô ngồi xuống một chiếc ghế gần cái bàn giữa phòng. Richard đến cùng bác của mình, bà Amory ngồi trên ghế đẩu vì Richard đã đến sát cái bàn để trông chừng bảo vệ vợ. Edward Raynor là người đến sau cùng, chọn vị trí sau chiếc ghế bành. Theo sau anh ta là viên cảnh sát Johnson, người đóng cửa và đứng sát đó.

Richard Amory giới thiệu thanh tra Japp với hai thành viên của gia đình mà ông chưa gặp.

"Bác của tôi, bà Amory," cậu cho biết, "và em họ Barbara Amory."

Đáp lại lời giới thiệu, Barbara hỏi, "Tất cả sự náo động này là gì vậy, thưa ngài thanh tra?"

Japp lảng tránh câu hỏi của cô. "Tôi nghĩ, bây giờ chúng ta ở đây cả rồi, phải không?" ông nhận xét, di chuyển tới chỗ lò sưởi.

Bà Amory trông ngơ ngác và hơi e ngại.

"Bác không hiểu lắm," bà nói với Richard. "Quý – quý ông này đang làm gì ở đây thế?"

"Cháu nghĩ có lẽ cháu phải nói cho bác vài việc," Richard trả lời bà. "Bác thấy đấy, bác Caroline – và tất cả mọi người," cậu nói thêm, liếc nhìn khắp phòng, "Bác sĩ Graham đã phát hiện ra rằng cha cháu bị – đầu độc."

"Cái gì?" Raynor cao giọng thốt lên. Bác Amory hét lên sợ hãi.

"Cha bị đầu độc bằng hyoscine," Richard tiếp tục.

Raynor rùng mình. "Bằng hyoscine? Tại sao, tôi trông thấy –"

Anh ta đột nhiên dừng lại, nhìn Lucia.

Thanh tra Japp tiến thêm một bước tới chỗ anh ta, ông hỏi, "Anh đã nhìn thấy gì, anh Raynor?"

Người thư ký tỏ vẻ bối rối. "Không có gì – ít nhất –" anh ta bắt đầu ngập ngừng. Giọng nói nhỏ dần rồi tắt hẳn.

"Tôi xin lỗi, anh Raynor," Japp nhấn mạnh, "nhưng tôi phải biết sự thật. Đừng lo, mọi người đều thấy là anh đang giữ bí mật gì đó."

"Không có gì cả, thật đấy," vị thư ký nói. "Ý tôi là, rõ ràng có một vài lời giải thích hợp lý."

"Lý giải cho điều gì thế, anh Raynor?" Japp hỏi.

Raynor vẫn chần chừ.

"Nào?" Japp giục.

"Chỉ là –" Raynor dừng lại lần nữa, rồi sau đó quyết định nói tiếp. "Chỉ là tôi đã trông thấy mợ Amory dốc ra tay vài viên trong số những viên thuốc be bé."

"Việc đó là khi nào?" Japp hỏi.

"Tối qua. Tôi đang ra khỏi phòng nghiên cứu của Sir Claud. Những người khác đang bận rộn với cái máy hát. Bọn họ túm tụm hết lại quanh nó. Tôi để ý thấy bà ấy cầm ống thuốc lên – tôi nghĩ đó là hyoscine – và đổ hơn một nửa vào lòng bàn tay. Sau đó Sir Claud gọi tôi trở lại phòng nghiên cứu vì mấy việc."

"Tại sao trước đó anh không nhắc đến việc này?" Japp hỏi.

Lucia mở miệng nói, nhưng vị thanh tra bảo cô im lặng.

"Vui lòng chờ một phút, thưa mợ Amory," ông nhấn mạnh. "Tôi muốn nghe từ anh Raynor trước."

"Tôi chưa từng nghĩ lại chuyện này," Raynor nói với ông. "Chỉ đến khi vừa nãy cậu Amory bào rằng Sir Claud bị đầu độc bằng hyoscine tôi mới nhớ lại. Đương nhiên, tôi hiểu rõ việc này là hoàn toàn bình thường. Chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên làm tôi giật mình. Những viên thuốc có thể không phải là hyoscine gì cả. Nó có thể là một trong mấy ống thuốc khác mà mợ ấy đang cầm."

Bây giờ Japp quay sang Lucia. "Chà, thưa mợ," ông hỏi, "mợ có gì để nói về chuyện này đây?"

Lucia có vẻ khá bình tĩnh khi cô trả lời, "Tôi muốn thứ gì đó giúp mình ngủ được."

Hướng đến Raynor lần nữa, Japp hỏi, "Anh nói mợ ấy đã đổ cái ống ra kha khá?"

"Với tôi có vẻ như vậy," Raynor nói.

Japp lại quay sang Lucia. "Mợ chắc hẳn không cần nhiều thuốc đến thế để ngủ được. Một, hai viên là có tác dụng rồi. Mợ đã làm gì với số còn lại?"

Lucia nghĩ một hồi trước khi trả lời. "Tôi không nhớ nữa."

Cô định nói tiếp thì Carelli nhỏm dậy và thốt ra một cách độc địa, "Thấy chưa, ông thanh tra? Đó mới là kẻ sát nhân của ông đấy."

Barbara trên ghế trường kỷ đứng dậy thật nhanh và tránh xa khỏi Carelli, trong khi Hasting vội vã đến bên cô. Tay người Ý tiếp tục, "Ông sẽ có sự thật, thanh tra ạ. Tôi xuống đây đặc biệt là để gặp người phụ nữ này. Cô ta đã gọi tôi tới. Ả bảo là ả sẽ lấy công thức của ngài Claud, và đề nghị bán nó cho tôi. Tôi thừa nhận là tôi có giao dịch những thứ như vậy trước đây."

"Đó không phải là một lời thú tội," Japp khuyến cáo anh ta, đi xen vào giữa Carelli và Lucia. "Chúng ta biết kha khá rồi đấy." Ông quay sang Lucia. "Mợ có gì để nói về tất cả những việc này không, thưa mợ?"

Lucia đứng dậy, mặt cô tái nhợt, và Richard đi tới bên cô. "Tôi sẽ không cho phép –" anh lên tiếng thì bị Japp ngắt lời.

"Cậu vui lòng bình tĩnh lại cho, thưa cậu."

Carelli nói lại. "Cứ nhìn người đàn bà đó xem! Không ai trong số các người biết ả là ai. Nhưng tôi thì có đấy! Ả là con gái của Selma Goetz. Con gái của một người phụ nữ khét tiếng nhất thế giới từng được biết đến."

"Không đúng đâu, Richard," Lucia gào khóc. "Không đúng đâu! Đừng nghe lời hắn –"

"Tao sẽ bẻ gãy từng cái xương trong người mày!" Richard Amory gầm gừ với Carelli.

Japp tiến một bước tới Richard. "Bình tĩnh nào, thưa cậu, làm ơn hãy giữ bình tĩnh," ông khuyên nhủ. "Chúng ta phải biết rõ ngọn ngành việc này." Japp quay sang Lucia. "Giờ thì, mợ Amory."

Im lặng một lúc. Lucia cố gắng cất lên lời. "Tôi – tôi -" cô bắt đầu. Cô hết nhìn chồng rồi nhìn Poirot, đưa tay về phía vị thám tử một cách bất lực.

"Dũng cảm lên nào, thưa mợ," Poirot động viên. "Hãy tin tưởng tôi. Kể cho họ. Hãy kể cho họ sự thật. Chúng ta nói ra những điều quan trọng mà sự dối trá sẽ không còn tác dụng nữa. Sự thật phải được tiết lộ."

Lucia nhìn Poirot khẩn khoản, nhưng ông chỉ lặp lại, "Dũng cảm lên nào, mợ ơi. Si, si (làm ơn). Hãy can đảm nói ra."

Ông quay lại chỗ của mình bên khung cửa sổ kiểu Pháp.

Sau một lúc lâu ngập ngừng, Lucia bắt đầu nói, giọng cô nhỏ và nghẹn ngào. "Đúng là tôi là con gái của Selma Goetz. Nhưng việc tôi yêu cầu người đàn ông kia đến đây, hay tôi đề nghị bán công thức của Sir Claud cho hắn thì không phải sự thật. Hắn đến đây là để tống tiền tôi!"

"Tống tiền!" Richard há hốc miệng, đi đến bên cô.

Lucia quay sang Richard. Có chút khẩn trương trong giọng nói của cô. "Hắn đe dọa sẽ kể cho anh về mẹ em nếu em không lấy công thức cho hắn, nhưng em không làm. Em nghĩ chắc hẳn hắn đã lấy cắp nó. Hắn có cơ hội. Hắn ở đó một mình – trong phòng thí nghiệm. Và giờ hắn muốn em lấy hyoscine và tự sát, để mọi người nghĩ rằng em chính là người đã ăn cắp công thức. Hắn gần như đã thôi miên được em –" Cô gục xuống và nức nở trên vai Richard.

Kêu lên một tiếng "Lucia, em yêu!" Richard ôm chầm lấy cô. Sau đó, giao vợ cho bà Amory, người đã đứng dậy và hiện đang ôm an ủi người phụ nữ trẻ bị kích động, Richard nói với Japp. "Thưa thanh tra, tôi muốn nói chuyện riêng với ông."

Japp nhìn Richard Amory một lúc rồi gật đầu với Johnson. "Rất tốt," ông tán thành khi viên cảnh sát mở cửa cho bà Amory và Lucia. Barbara và Hastings nắm lấy cơ hội trở ra khu vườn qua cửa sổ kiểu Pháp, trong khi Edward Raynor nói nhỏ với Rcihard khi anh rời đi, "Tôi xin lỗi, Cậu Amory, rất xin lỗi."

Khi Carelli xách va-li của hắn lên và đi theo Raynor ra ngoài, Japp đã chỉ đạo cho viên cảnh sát của mình, "Hãy để mắt tới mợ Amory – và cả bác sĩ Carelli nữa." Carelli xuất hiện ở cửa, và Japp tiếp tục nói với viên cảnh sát, "Sẽ không được có bất kỳ việc gì khác lạ từ bọn họ, cậu hiểu chứ?"

"Tôi hiểu, thưa ngài," Johnson đáp lại khi cậu theo Carelli ra khỏi phòng.

"Tôi rất xin lỗi, cậu Amory," Japp nói vơi Richard Amory, "nhưng sau những gì anh Raynor kể cho chúng tôi, tôi buộc phải phải thực hiện mọi biện pháp phòng ngừa. Và tôi muốn ông Poirot ở lại đây, với tư cách là nhân chứng cho mọi điều cậu nói với tôi."

Richard tiến lại chỗ Japp với phong thái của một người đàn ông đã đi đến một quyết định quan trọng. Hít một hơi thật sâu, anh nói với sự quyết tâm. "Ngài thanh tra!"

"Sao, có chuyện gì vậy, thưa cậu?" Japp hỏi.

Rất thận trọng và chậm rãi, Richard trả lời, "Tôi nghĩ đến lúc để tôi thú tội rồi. Tôi đã giết cha mình."

Japp mỉm cười. "Tôi e là chuyện đó thật viển vông, thưa cậu."

Richard trông có vẻ ngạc nhiên. "Ý ông là gì?"

"Không, thưa cậu," Japp tiếp tục. "Hay, nói một cách khác là 'chạch đẻ ngọn đa'. Tôi nhận thấy rằng, cậu rất yêu người phụ nữ tốt bụng của mình. Mới kết hôn và tất cả những điều đó. Nhưng, xin nói thẳng với cậu là không có cách nào để đưa cổ vào tròng vì lợi ích của một người đàn bà xấu xa đâu. Dù cô ta có là người trông ưa nhìn,và không có lỗi đi chăng nữa, tôi phải thừa nhận là thế."

"Thah tra Japp!" Richard kêu lên giận giữ.

"Khó chịu với tôi chẳng để làm gì, thưa ông," Japp tiếp tục không hề nao núng. "Tôi đã nói với cậu sự thật thẳng thắn mà không vòng vèo, và tôi chắc chắn rằng ông Poirot đây cũng sẽ nói với cậu điều tương tự. Tôi rất tiếc, thưa cậu, nhưng nghĩa vụ là nghĩa vụ, và sát nhân là sát nhân. Đươn giản là thế." Japp gật đầu dứt khoát và rời khỏi phòng.

Quay sang Poirot, người đang quan sát cảnh tượng này từ trên ghế trường kỷ, Richard lạnh lùng hỏi, "Sao, ông định nói với tôi như thế à, ông Poirtot?"

Nhỏm dậy, Poirot lấy hộp thuốc lá trong túi ra và rút một điếu. Thay vì trả lời câu hỏi Richard, ông lại đưa ra một câu hỏi. "Cậu Amory, cậu nghi ngờ vợ mình lần đầu tiên là khi nào?" ông hỏi.

"Tôi chưa bao giờ -" Richard bắt đầu, nhưng Poirot đã ngắt lời anh ta, cầm bao diêm trên bàn lên khi ông nói.

"Làm ơn, xin cậu đấy, cậu Amory, đừng nói gì khác ngoài sự thật! Cậu có nghi ngờ mợ ấy, tôi biết điều đó. Cậu đã nghi ngờ mợ ấy trước khi tôi đến. Đó là lý do tại sao cậu lo lắng đến mức muốn đưa tôi rời xa ngôi nhà này. Đừng chối cãi điều này. Không thể dối gạt được Hercule Poirot đâu." Ông châm thuốc, đặt hộp diêm lại chỗ cũ trên bàn, và mỉm cười với người đàn ông cao hơn hẳn rấ nhiều so với mình. Họ tạo nên một sự đối lập hài hước.

"Ông nhầm rồi," Richard nói với Poirot một cách cứng rắn. "Hoàn toàn lầm lẫn. Làm sao tôi có thể nghi ngờ Lucia?"

"Dĩ nhiên, thế nhưng vẫn còn có một tình thế hay ho không kém sẽ chống lại ông," Poirot tiếp tục vẻ trầm ngâm khi ông ngồi lại chỗ của mình. "Cậu đã cầm vào thuốc, cậu đã cầm vào cà phê, cậu đang thiếu tiền và tuyệt vọng muốn có được một ít. Ồ, phải, bất cứ ai cũng có cớ nghi ngờ cậu."

"Thanh tra Japp dường như không đồng tình với ông," Richard nhận xét.

"À, Japp! Ông ấy có một giác quan bình thường," Poirot mỉm cười. "Ông ấy không phải là một người phụ nữ đang yêu."

"Một người phụ nữ đang yêu?" Richard có vẻ bối rối.

"Để tôi giảng cho cậu một bài về tâm lý học nhé," Poirot đề nghị. "Khi tôi đến đây lần đầu, vợ cậu đã tới chỗ tôi và nài nỉ tôi ở lại đây và tìm ra kẻ sát nhân. Liệu một phụ nữ có tội lại làm như thế chăng?"

"Ý ông là –" Richard bắt đầu khẩn trương.

"Ý tôi," Poirot ngắt lời anh ta, "là trước lúc mặt trời lặn tối nay, cậu sẽ quỳ xuống xin mợ ấy tha thứ."

"Ông đang nói gì thế?"

"Có lẽ, tôi nói quá nhiều rồi," Poirot thừa nhận, đứng dậy. "Bây giờ, thưa cậu, hãy đặt vận mệnh của cậu vào tay tôi. Vào tay của Hercule Poirot."

"Ông có thể cứu cô ấy sao? Richard hỏi với giọng tuyệt vọng.

Poirot nghiêm nghị nhìn anh ta. "Tôi đã đưa ra lời hứa của mình – mặc dù, khi tôi làm vậy, tôi đã không nhận ra nói sẽ khó tới nhường nào. Cậu thấy đấy, thời gian còn rất ít, và có vài thứ phải được làm thật nhanh chóng. Cậu phải hứa với tôi rằng cậu sẽ làm chính xác như những gì tôi bảo mà không chất vấn hay gây khó khăn. Cậu hứa với tôi chứ?"

"Được," Richard trả lời khá miễn cưỡng.

"Thế là tốt. Và giờ, nghe tôi này. Điều tôi đề nghị không khó hay không thể làm được. Thực tế, nó là lẽ thường tình. Ngôi nhà này sẽ sớm được giao lại cho cảnh sát. Họ sẽ kéo đến cả đám. Họ sẽ điều tra khắp nơi. Đối với cậu và gia đình cậu, nó có thể rất khó chịu. Tôi đề nghị cậu nên rời đi."

"Giao lại căn nhà cho cảnh sát ư?" Richard hỏi, hoài nghi.

"Đó là đề xuất của tôi," Poirot lặp lại. "Dĩ nhiên, ông sẽ phải lưu lại trong khu phố. Nghe nói khách sạn địa phương khá thoải mái. Hãy đặt phòng ở đó. Vậy là cậu sẽ ở ngay gần đây khi cảnh sát muốn hỏi cung tất cả mọi người ."

"Nhưng ông gợi ý việc này nên thực hiện khi nào?"

Poirot cười rạng rỡ với anh ta. "Ý tôi là – ngay lập tức."

"Chắc mọi thứ trông kỳ quặc lắm nhỉ?"

"Không hề, không hề," vị thám tử nhỏ bé trấn an Richard, mỉm cười lần nữa. "Nó sẽ có vẻ là một nước cờ bí – các cậu nói thế nào nhỉ? – bí mật (the utmost sensitivity). Các association ở đây thù ghét cậu – cậu không thể ở lại thêm giờ nào nữa. Tôi cam đoan, chuyện có vẻ sẽ rất tốt."

"Nhưng còn ông thanh tra thì sao?"

"Tôi sẽ tự thu xếp với thanh tra Japp."

"Tôi vẫn không thể thấy chuyện này sẽ mang lại điều gì tốt đẹp," Richard cố chấp.

"Không, dĩ nhiên cậu không thấy được." Poirot nghe có vẻ hơn cả cười tự mãn. Ông nhún vai. "Cậu không nhất thiết phải hiểu. Nhưng tôi thấy được. Tôi, Hercule Poirot. Thế là đủ." Ông nắm lấy hai vai của Richards. "Đi, và thu xếp các thứ đi. Hoặc, nếu cậu không thể dành hết tâm trí cho nó, hãy để Raynor làm thay cậu. Đi đi!" Ông gần như đẩy Richard ra cửa.

Quay lại nhìn Poirot lo lắng, Richard rời khỏi căn phòng.

"Ôi, mấy người Anh này! Thật cố chấp," Poirot lẩm bẩm. Ông đi tới khung cửa sổ kiểu Pháp và gọi, "Tiểu thư Barbara ơi!"

Chương 18

Đáp lại tiếng gọi của Poirot, Barbara Amory xuất hiện bên ngoài khung cửa sổ Pháp. "Có chuyện gì vậy? Có chuyện gì xảy ra nữa sao?" cô hỏi.

Poirto trao cô nụ cười quyến rũ nhất của mình. "À, thưa tiểu thư," ông nói. "Tôi tự hỏi liệu mình có thể mượn Hastings đồng nghiệp của mình ít phút chăng?"

Câu trả lời của Barbara kèm theo một cái liếc mắt tán tỉnh. "Ra vậy! Ông muốn lấy đi cục cưng bé nhỏ của tôi, phải không?"

"Chỉ một chốc lát thôi, thưa tiểu thư, tôi hứa đấy,"

"Vậy thì ông cứ việc, ông Poirot." Quay lại vườn, Barbara gọi, "Cưng ơi, có người cần này."

"Cảm ơn cô," Poirot lại mỉm cười cúi chào lịch sự.

Barbar quay lại khu vườn, và một lát sau Hastings bước va thư viện qua cửa sổ kiểu Pháp, trông có vẻ ngượng ngùng.

"Anh có gì để biện minh cho bản thân?" Poirot hỏi với giọng khó chịu.

Hastings cố gắng nở một nụ cười hối lỗi. "Hay ho lắm à mà làm ra vẻ cười ngây ngô," Poirot quở trách. "Tôi để anh ở đây để canh chừng, và điều tiếp theo tôi được biết là anh đang dạo chơi cùng một cô nàng rất quyến rũ trong vườn. Anh bình thường là người đáng tin cậy nhất, mon cher (bạn thân mến), nhưng ngay khi một người phụ nữ trẻ đẹp có dính dáng vào, óc phán đoán của anh lại biến đâu hết cả. Alors (Thế đấy)!

Vẻ ngượng nghịu của Hastings nhạt dần, thay vào đó là ửng hồng vì xấu hổ. "Tôi vô cùng xin lỗi, Poirot ơi," ông kêu lên. "Tôi mới bước ra ngoài một giây, và rồi thấy anh qua cửa sổ, sắp vào phòng, bởi vậy. Tôi nghĩ chẳng vấn đề gì."

"Ý anh là anh nghĩ tốt hơn hết không nên quay trở vào đối mặt với tôi," Poirot tuyên bố. "Chà, Hastings thân mến, anh có thể đã gây ra thiệt hại không thể khắc phục được nhất. Tôi đã phát hiện Carelli trong này. Có Chúa mới biết hắn ta đang làm gì, hay hắn đang làm xáo trộn bằng chứng nào."

"Tôi nói tôi thực sự xin lỗi mà, Poirot, "Hastings xin lỗi lần nữa. "Tôi vô cùng xin lỗi."

"Nếu anh chưa gây ra thiệt hại không thể khắc phục, thế thì là do may mắn chứ chẳng vì lý do nào cả. Nhưng giờ, mon ami (bạn thân mến), thời khắc chúng ta phải sử dụng đến những tế bào xám nho nhỏ đã đến." Giả vờ đánh vào má Hastings, thực tế Poirot dành cho người đồn nghiệp của mình một cái vỗ trìu mến.

"A, tốt! Chúng ta làm việc thôi," Hastings kêu lên.

"Không, không tốt đẹp gì đâu, bạn tôi ơi," Poirot nói. "Thật tệ. Nó mờ mịt lắm." Gương mặt ông mang vẻ phiền muộn khi ông tiếp tục, "Nó tối tăm, tối tăm như đêm qua vậy." Ông nghĩ ngợi một lúc, rồi nói thêm, "Nhưng – phải – tôi nghĩ có lẽ có một ý tưởng. Vâng, chúng ta sẽ bắt đầu từ đó!"

Trông hoàn toàn bối rối, Hastings hỏi, "Anh nói về cái gì vậy?"

Giọng của Poirot đổi khác. Ông nói một cách nghiêm túc và thấu đáo. "Tại sao Sir Claud lại chết, Hastings. Hãy trả lời tôi điều đó. Tại sao Sir Claud lại chết?"

Hastings nhìn ông chằm chằm. "Nhưng chúng ta biết điều đó rồi mà," ông kêu lên.

"Chúng ta biết ư?" Poirot hỏi. "Anh rất chắc chắn chứ?"

"Ờ - phải," Hastings trả lời mặc dù có vẻ không chắc chắn. "Ngài ấy chết – ngài ấy chết vì bị đầu độc."

Poirot làm một cử chỉ thiếu kiên nhẫn. "Phải, nhưng tại sao ngài ấy lại bị đầu độc?"

Hastings suy nghĩ kỹ càng trước khi trả lời. "Chắc chắn là tên trộm đã nghi ngờ - rằng hắn đã bị phát hiện -" ông dừng lại ở đó khi quan sát thấy Poirot tiếp tục lắc đầu.

" Hastings ơi, giả sử –" Poirot lẩm bẩm, "cứ giả sử rằng tên trộm không nghi ngờ đi?"

"Tôi không hiểu lắm," Hastings bối rối.

Poirot rời đi, và rồi quay lại với cánh tay giơ lên làm một cử chỉ có vẻ như muốn giữ sự chú ý của bạn ông. Ông ngừng lại và hắng giọng.

"Để tôi thuật lại cho anh, Hastings," ông tuyên bố, "một số sự việc hẳn đã biến mất, hay đúng hơn là tôi nghĩ chúng đã mất."

Hastings ngồi vào một chiếc ghế khi Poirot tiếp tục.

"Sir Claud chết trên ghế của mình một tối nọ." Poirot di chuyển tới chiếc ghế bành, ngồi xuống, và ngừng lại một lúc trước khi nhắc lại một cách cẩn thận, "Vâng, Sir Claud chết trên chiếc ghế của chính ngài ấy. Không có trường hợp nào đáng nghi ngờ kiên quan đến cái chết ấy. Mọi khả năng đều được quy về là do suy tim. Sẽ mất vài ngày trước khi các giấy tờ cá nhân của ngài ấy được kiểm tra. Di chúc của ngài ấy là văn bản duy nhất sẽ được tìm kiếm. Sau đám tang, theo đúng trình tự, người ta sẽ phát hiện ra rằng những ghi chú của ngài ấy về loại thuốc nổ mới vẫn còn dang dở. Có thể sẽ chẳng bao giờ biết được bản công thức chính xác có tồn tại không. Anh thấy những gì nó mang lại cho tên trộm của chúng ta đấy, phải không Hastings?"

"Phải."

"Gì nào?" Poirot hỏi.

Hastings trông có vẻ bối rối. "Gì?" ông lặp lại.

"Sự an toàn. Đó là những gì nó mang lại cho tên trộm. Hắn có thể vứt bỏ chiến lợi phẩm của mình một cách khá an toàn, bất cứ khi nào hắn muốn. Không có chút áp lực nào với hắn. Kể cả sự tồn tại của công thức có bị phát hiện, hắn cũng sẽ có khối thời gian để mà che đậy hành tung."

"Chà, đúng là một ý hay – phải, tôi cũng cho là thế," Hastings bình luận, có chút ngờ vực trong giọng nói.

"Thì hiển nhiên đấy là một giả thuyết!" Poirot rít lên. "Tôi chẳng phải là Hercule Poirot hay sao? Nhưng giờ nhìn xem cái ý tưởng này nó dẫn ta đi tới đâu rồi. Nó cho chúng ta biết rằng vụ giết Sir Claud không phải là một thủ đoạn liều lĩnh được thực hiện một cách bất ngờ. Nó đã được lên kế hoạch từ trước. Từ trước rồi. Anh thấy giờ chúng ta ở đâu không?"

"Không," Hastings thừa nhận với vẻ vô tư duyên dáng. "Anh biết rất rõ tôi chẳng bao giờ thấy được những điều này. Tôi biết là chúng ta đã ở trong thư viện trong căn nhà của Sir Claud, và đó là tất cả."

"Phải, bạn của tôi, anh nói đúng," Poirot nói."Chúng ta đã ở trong thư viện trong ngôi nhà của Sir Claud Amory. Không phải vào buổi sáng mà là buổi tối. Ánh đèn vừa mới tắt. Kế hoạch của tên trộm đã bị xáo trộn."

Poirot ngồi rất ngay ngắn và khua ngón trỏ để nhấn mạnh cho ý của mình. "Sir Claud, người đã tình cờ phát hiện ra đồ của mình bị mất mát, theo lẽ thường sẽ chẳng thể an toàn tới ngày hôm sau. Và, như chính ông ấy đã nói, tên trộm bị bắt quả tang. Đúng, nhưng tên trộm, hay cũng chính là tên sát nhân biết điều gì đó mà Sir Claud không biết. Tên trộm biết rằng chỉ vài phút nữa thôi Sir Claud sẽ im lặng mãi mãi. Hắn ta – hoặc cô ta – có một vấn đề cần xử lý, và chỉ một thôi – là giấu tờ giấy được an toàn trong vài giây tối đen ấy. Nhắm mắt lại đi, Hastings, như tôi nhắm mắt ấy. Ánh sáng đã biến mất, và chúng ta chẳng thể thấy gì. Nhưng chúng ta có thể nghe. Hastings, nhắc lại cho tôi những lời bà Amory đã miêu tả cảnh này cho chúng ta một cách chính xác nhất anh có thể."

Hastings nhắm mắt lại. Sau đó ông bắt đầu nói một cách chậm rãi với vài lần dừng lại và nỗ lực hồi tưởng. "Thở hổn hển,"

Poirto gật đầu. "Rất nhiều tiếng thở gấp khe khẽ," Hastings tiếp tục, và Poirot lại gật đầu.

Hastings tập trung một lúc, rồi lại tiếp tục. "Tiếng ồn do một chiếc ghế bị đổ - tiếng leng keng của kim loại – tôi hình dung đó hẳn là tiếng chìa khóa."

"Khá đúng," Poirot nói. "Chìa khóa. Tiếp tục."

"Một tiếng thét. Đó là tiếng hét của Lucia. Cô ấy gọi to Sir Claud – Sau đó tiếng gõ cửa xuất hiện - Ồ! Khoan đã – ngay từ đầu, có tiếng lụa bị rách." Hastings mở mắt ra.

"Phải, tiếng lụa xé," Poirot kêu lên. Ông đứng dậy, đi tới bàn làm việc, rồi sau đó băng qua lò sưởi. "Tất cả đều ở đó, Hastings ơi, trong khoảnh khắc bóng tối ấy. Ở đó cả. Nhưng đôi tai của chúng ta lại chẳng cho ta biết được điều gì." Ông ngừng lại chỗ bệ lò sưởi và vô thức chỉnh trang ngay ngắn lại chiếc bình đựng đóm.

"Ôi, dừng việc chỉnh trang ngăn ngắn mấy thứ chết tiệt ấy đi, Poirot," Hastings phàn nàn. "Anh lúc nào cũng thế."

Ông bị thu hút sự chú ý, Poirot rút tay khỏi chiếc bình.

"Anh nghĩ thế à?" ông hỏi. "Phải, đúng thế thật."

Ông nhìn chằm chằm vào lọ đóm. "Tôi nhớ đã dựng ngay ngắn chúng, nhưng là ít giờ trước. Và giờ - tôi lại phải dựng chúng lại lần nữa." Ông kích động nói. "Tại sao, Hastings ơi – sao lại thế?"

"Tôi nghĩ là do chúng bị xiêu vẹo," Hastings trả lời giọng chán chường. "Chỉ là chứng hơi cuồng ngăn nắp của anh thôi."

"Tiếng xé lụa! Poirot kêu lên. "Không. Hastings ơi! Âm thanh là như nhau." Ông nhìn chằm chằm vào những que đóm bằng giấy, và chộp lấy cái bình đựng chúng. "Tiếng xé giấy," ông nói tiếp khi rời khỏi chỗ bệ lò sưởi.

Sự phấn khích truyền sang người bạn của ông. "Cái gì thế?" Hastings hỏi, bật dậy và tiến tới chỗ ông.

Poirot đứng đó, đổ những que đóm ra ghế trường kỷ, và kiểm tra chúng. Thỉnh thoảng ông đưa một que cho Hastings, lẩm bẩm. "Đây một cái. A, một cái khác, và một cái nữa."

Hastings mở các que đóm ra và xem xét chúng kỹ lưỡng.

"Cig – 23" ông đọc to một trong số chúng.

"Đúng, đúng rồi!" Poirot kêu lên. "Nó là công thức đấy!"

"Thật tuyệt vời!"

"Mau! Gấp chúng lại như cũ!" Poirot ra lệnh, và Hastings bắt đầu làm theo. "Ôi, anh chậm chạp quá!" Poirot trách. "Nhanh! Mau lên!" Giật những que đóm từ Hastings, ông đặt chúng trở lại chiếc lọ và vội trả nó về chỗ bệ lò sưởi.

Hastings đứng đó với ông, trông sững sờ. Poirot cười rạng rỡ. "Nó làm anh tò mò về cái mà tôi làm ở kia, đúng không nào? Hastings, hãy nói tôi biết tôi có gì ở đây trong cái bình này?"

"Tại sao chứ, tất nhiên là những que đóm rồi," Hastings trả lời với giọng điệu châm chọc vô cùng.

"Không, mon ami (bạn tôi ơi), nó là phó mát đấy."

"Phó mát?"

"Chính xác bạn ơi, phó mát."

"Tôi nói này, Poirot," Hastings châm chọc hỏi, "anh ổn chứ, phải không? Ý tôi là, anh không bị đau đầu hay gì đúng không?"

Câu trả lời của Poirot bỏ qua câu hỏi vô tích sự của bạn mình.

"Anh dùng phó mát để làm gì, hả Hastings? Tôi sẽ nói anh nghe, mon ami (anh bạn ạ). Anh dùng nó để làm mồi cho bẫy chuột. Chúng ta bây giờ chỉ chờ đợi một thứ duy nhất – con chuột."

"Và con chuột –"

"Con chuột sẽ mò tới, anh bạn ạ," Poirot quả quyết với Hastings. "Hãy yên tâm về điều đó. Tôi đã gửi cho nó một thông điệp. Nó chắc chắn sẽ có phản hồi."

Trước khi Hastings kịp có thời gian phản ứng trước tuyên bố khó hiểu của Poirot, cửa đã mở ra và Edward Raynor bước vào phòng. "Ồ, các ông đây rồi, ông Poirot," vị thư ký quan sát. "Và cả đội trưởng Hastings nữa. Thanh tra Japp muốn nói chuyện với cả hai ông trên gác."

Chương 19

"Chúng tôi sẽ tới ngay," Poirot đáp lại. Hastings theo chân ông bước ra cửa, thì Raynor bước vào thư viện và băng tới chỗ lò sưởi. Tới cửa, Poirot đột ngột xoay người lại để nhìn người thư ký. "Nhân tiện, anh Raynor," vị thám tử đề nghị khi ông quay trở lại giữa căn phòng, "liệu anh có tình cờ trông thấy bác sĩ Carelli ở trong thư viện lúc nào sáng nay không?"

"Có, cậu ta có," Raynor nói với vị thám tử. "Tôi đã thấy cậu ta ở đây."

"À!" Poirot có vẻ hài lòng với việc này. "Và anh ta đang làm gì?"

"Cậu ta đang gọi điện thoại, tôi tin là vậy."

"Anh ta đang gọi điện thì ông đi vào à?"

"Không, cậu ta vừa mới quay lại phòng. Cậu ta đã ở trong phòng nghiên cứu của Sir Claud."

Poirot cân nhắc một lúc, rồi hỏi Raynor, "Chính xác thì sau đó anh đã ở đâu? Anh có thể nhớ được không?"

Vẫn đứng bên lò sưởi, Raynor trả lời, "Ồ, tôi nghĩ ở đâu đó chỗ này."

"Ông có nghe thấy chút nào về cuộc trò chuyện của bác sĩ Carelli trên điện thoại không?"

"Không," vị thư ký nói. "Cậu ta bày tỏ rõ ràng là muốn được ở một mình, vì vậy tôi ra ngoài hẳn."

"Tôi hiểu rồi." Poirot do dự, sau đó lấy một cuốn sổ và bút chì từ túi ra. Viết lên một trang mấy chữ, ông xé nó ra. "Hastings ơi!" ông gọi.

Hastings, người đang lảng vảng gần cửa, tới chỗ ông và Poirot đưa cho bạn mình trang giấy đã được gấp lại. "Anh sẽ tốt bụng mà mang cái đó lên cho thanh tra Japp chứ?"

Raynor nhìn Hastings rời khỏi căn phòng để đưa thư, sau đó hỏi, "Chuyện đó là thế nào vậy?"

Nhét cuốn sổ và cây bút chì trở lại túi, Poirot trả lời, "Tôi nói với Japp rằng tôi sẽ ở chỗ ông ấy sau vài phút nữa, và tôi có thể nói cho ông ấy tên của kẻ giết người."

"Thật chứ? Ông biết kẻ đó là ai à?" Raynor hỏi trong trạng thái phấn khích.

Hơi khựng lại một chút. Hercule Poirot dường như đã bỏ bùa người thư ký bằng sự lịch thiệp của mình.

Raynor nhìn vị thám tử như bị thôi miên khi ông bắt đầu chậm rãi nói. "Vâng, sau cùng, tôi nghĩ mình biết kẻ sát nhân là ai," Poirot tuyên bố. "Tôi nhớ lại một vụ án nọ, cách đây không lâu. Tôi sẽ không bao giờ quên được vụ giết Lord Edgware. Tôi đã suýt bị đánh bại – vâng, tôi, Hercule Poirot! – bởi sự xảo quyệt cực kỳ đơn giản của một bộ óc trống rỗng. Ông thấy đấy, anh Raynor, một người đơn giản thường lại là thiên tài để tạo ra một tội ác giản đơn và không dính dáng đến. Mặt khác, chúng ta hãy hy vọng kẻ giết Sir Claud là một kẻ thông minh, hợm hĩnh, tự phụ và không thể chống lại – ông nói thế nào nhỉ? – tô hồng sự việc." Mắt Poirot ánh lên sự hoạt bát sinh động.

"Tôi không chắc là mình hiểu ý ông," Raynot nói. "Ý ông là kẻ đó không phải mợ Amory?"

"Không, không phải là mợ Amory," Poirot nói. "Đó là lý do tại sao tôi viết lời nhắn. Người phụ nữ tội nghiệp đó đã phải chịu đựng đủ rồi. Cô ấy không nên chịu đựng thêm bất kỳ câu hỏi nào nữa."

Raynor trông có vẻ trầm ngâm, rồi thốt lên, "Vậy thì, tôi cá đó là Carelli. Nhỉ?"

Poirot tinh nghịch khua ngón tay với anh ta. "Anh Raynor, anh phải cho phải cho phép tôi giữ bí mật nho nhỏ của mình tới phút chót thôi." Lấy khăn tay ra, ông cau mày. "Mon Dieu (Chúa ơi), hôm nay mới nóng làm sao!" ông than vãn.

"Ông có muốn uống gì không?" Raynor hỏi. "Tôi quên mất cả phép xử sự. Đáng lẽ tôi phải mời ông sớm hơn mới phải."

Poirot cười toe toét. "Anh thật là tốt bụng. Nếu được, tôi sẽ uống whisky."

"Chắc chắn rồi. Một một lát thôi." Raynor rời phòng trong khi Poirot tản bộ tới cửa sổ kiểu Pháp và trông ra ngoài vườn một lúc. Sau đó, đi tới trường kỷ, ông lắc những chiếc gối tựa trước khi lướt qua chỗ bệ lò sưởi để kiểm tra mấy đồ vật trang trí. Vài phút sau, Raynor đã trở lại với hai ly whisky và soda trên khay. Anh ta nhìn Poirot mó tay vào một vật trang trí trên bệ lò sưởi.

"Đây là một món đồ cổ có giá trị mà tôi thích," Poirot cầm một cái bình lên nhận xét.

"Thế ư?" lời bình luận của Raynor không mấy quan tâm. "Tôi không biết nhiều về mấy thứ đó. Lại đây làm một ly nào," anh ta đề nghị khi đặt cái khay lên bàn trà.

"Cảm ơn anh," Poirot lẩm bẩm, qua đó cùng với anh ta.

"Chà, may mắn là đây," Raynor nói, cầm một ly và uống.

Poirot nghiêng mình, đưa ly còn lại lên môi.

"Vì anh, bạn của tôi. Và giờ hãy để tôi kể cho ông những nghi ngờ của tôi. Đầu tiên tôi nhận ra rằng –"

Ông đột ngột ngắt lời, hất đầu qua vai như thể có âm thanh nào lọt vào tai. Đầu tiên nhìn ra cửa, sau đó nhìn Raynor, ông đặt một ngón tay lên môi, ám chỉ rằng ông nghĩ có thể ai đó đang nghe lén.

Raynor gật đầu ra chiều hiểu ý. Hai người rón rén đi ra cửa, và Poirot ra dấu cho vị thư ký ở lại trong phòng. Poirot mở toang cánh cửa và nhảy ra ngoài, nhưng ngay lập tức quay vào trông cực kỳ chán nản.

"Ngạc nhiên thật," ông thú nhận với Raynor. "Tôi có thể thề rằng mình đã nghe thấy gì đó. Ái chà, tôi đã nhầm. Điều này hiếm khi xảy ra. A votre santé (nâng cốc chúc mừng anh), bạn của tôi." Ông uống cạn ly của mình.

"A!" Raynor kêu lên khi anh ta cũng uống.

"Xin lỗi?" Poirot hỏi.

"Không có gì. Không phải bận tâm nữa, chỉ vậy thôi."

Poitrot đi tới cái bàn và đặt ly của ông xuống. "Anh có biết không, anh Raynor," ông tâm tình, "thú thật với anh, tôi chưa khi nào quen được thứ quốc tửu Anh Quốc của các anh, món whisky ấy. Vị của nó không dễ chịu với tôi. Nó có vị đắng." Ông lại chỗ ghế bành và ngồi xuống.

"Thật sao? Tôi rất xin lỗi. Rượu của tôi không bị đắng chút nào

Raynor đặt ly của anh ta xuống bàn trà, và tiếp tục nói, "tôi nghĩ vừa nãy ông định nói với tôi điều gì đó, đúng không?"

Poirot có vẻ ngạc nhiên. Thật thế sao? Nó có thể là gì nhỉ? Tôi đã quên rồi sao? Tôi nghĩ có thể là tôi muốn giải thích với ông cách tôi thực hiện cuộc điều tra. Voyons (Đấy)! Một bằng chứng này dẫn đến một bằng chứng khác, vì thế chúng ta tiếp tục. Cái tiếp theo có phù hợp không? A merveille (tuyệt vời)! Tốt! Chúng ta có thể tiến hành tiếp. Bằng chứng nhỏ tiếp theo này – không! A, cái đó thật kỳ lạ! Có điều gì đó bị bỏ sót – một mắt xích bị thiếu ở đây. Chúng ta kiểm tra. Chúng ta tìm kiếm. Và rằng cái bằng chứng kỳ quặc nho nhỏ ấy, cái chi tiết nhỏ nhặt đó có thể sẽ không được kiểm chứng, chúng ta đặt nó ở đây!" Poirot làm một cử chỉ khoa trương bằng tay. "Nó rất có ý nghĩa! Rất khủng khiếp!"

"V-vâng, tôi thấy rồi," Raynor lẩm bẩm hồ nghi.

Poirot khua ngón tay vào mặt Raynor mạnh đến nỗi vị thư ký gần như bị dọa chết khiếp. "Á, cẩn thận! Vị thám tử liều nói (Peril to the detective who says), 'Nó nhỏ quá, nó không quan trọng. Nó sẽ không phù hợp đâu. Tôi sẽ quên nó đi.' Đó là cách tạo ra nhầm lẫn! Mọi thứ đều quan trọng." Poirot đột ngột ngừng lại và gõ gõ vào đầu. "A! Giờ tôi đã nhớ ra tôi muốn nói gì với ông rồi. Nó nằm trong mấy sự kiện nho nhỏ và không quna trọng đó. Tôi muốn nói với ông, ông Raynor, về đám bụi."

Ryanor mỉm cười lịch sự. "Bụi ư?"

"Chính xác. Bụi," Poirot lặp lại. "Anh bạn Hastings của tôi, anh ấy vửa mới nhắc nhở tôi rằng tôi là một thám tử chứ không phải là chị hầu phòng. Anh ấy nghĩ mình rất thông minh vì đưa ra nhận xét như thế, nhưng tôi thì không chắc lắm. Người hầu phòng và thám tử, rốt cuộc cũng có điểm chung. Người hầu phòng, chị ta làm gì? Chị ta khám phá tất cả các góc tối với cây chổi của mình. Chị ta sẽ moi ra ngoài tất cả những thứ bị lăn vào chỗ khuất. Chẳng phải một nhà thám tử cũng làm như thế sao?"

Raynor trông chán nản, nhưng vẫn thì thào, "Rất thú vị, thưa ông Poirot." Anh ta dời tới chỗ cái ghế cạnh bàn và ngồi xuống đó trước khi hỏi, "Nhưng – đó có phải là tất cả những gì ông định nói?"

"Không, không hẳn," Poirot trả lời. Ông ngả về phía trước.

"Đừng tìm cách tung hỏa mù tôi, anh Raynor, bởi vì ở đó không có bụi. Anh có hiểu không?"

Người thư ký nhìn ông trân trối. "Không, tôi e là mình không hiểu lắm."

"Không có bụi trên cái hộp thuốc đó. Tiểu thư Barbara đã nhận xét chi tiết này. Nhưng đáng lẽ ở đó phải có bụi. Chỗ mà cái giá sách đó đứng –" và Poirot ra dấu về phía nó khi ông nói – "dầy những bụi. Đó là lúc mà tôi đã biết –"

"Biết gì?"

"Tôi biết được," Poirot tiếp lời, "rằng có người đã lấy cái hộp đó xuống gần đây. Rằng người đã đầu độc Sir Claud Amory sẽ chẳng cần lại gần cái hộp ấy tối qua, vì kẻ ấy đã có dịp trước đó để lấy chỗ thuốc độc mà hắn cần, chọn một thời điểm thích hợp mà hắn biết biết mình sẽ không bị quấy rầy. Anh không hề lại gần cái hộp thuốc tối qua, bởi vì anh đã lấy số hyoscine anh cần trước đó rồi. Nhưng anh đã dâng cà phê, anh Raynor ạ."

Raynor mỉm cười nhẫn nại. "Ôi trời! Có phải ông đang buộc tội tôi giết Sir Claud không đấy?"

"Anh phủ nhận sao?" Poirot hỏi.

Raynor ngập ngừng trước khi trả lời. Khi anh ta nói tiếp, giọng điệu nghiệt ngã hơn. "Ồ, không," anh ta tuyên bố, "Tôi đâu có chối. Sao tôi phải làm thế? Tôi thực sự khá tự hào về hết thảy mọi chuyện. Mọi chuyện đều trôi chảy không có vướng mắc. Thật đúng là không may khi Sir Claud lại mở két an toàn vào đêm qua. Ngài ấy chưa bao giờ làm như vậy."

Poirot có vẻ uể oải khi hỏi, "Tại sao anh nói với tôi toàn bộ việc này?"

"Sao lại không? Ông là người dễ đồng cảm. Thật dễ chịu khi nói chuyện với ông." Raynor cười, và nói tiếp. "Vâng, chuyện gần như đi sai rồi. Nhưng đó chính là điều bản thân tôi thực sự tự hào, chuyển bại thành thắng." Một biểu cảm đắc thắng xuất hiện trên mặt anh ta. "Nghĩ ra nơi cất giấu trong tình huống bất ngờ quả thực khá đáng khen đấy chứ. Ông có muốn tôi nói cho ông biết công thức hiện đang ở đâu không?"

Vẻ uể oải của ông hiện rõ, Poirot dường như thấy khó mà nói rõ ràng được. "Tôi – tôi không hiểu ý anh," ông thì thầm.

"Ông đã phạm một sai lầm nhỏ, ông Poirot," Raynor chế nhạo nói. "Ông đã đánh giá thấp trí thông minh của tôi. Vừa rồi, tôi đâu có bị cuốn theo trò đánh trống lảng về tay Carelli khốn khổ. Một người với bộ não của ông thì sẽ không thật sự tin gã Carelli đó – vì sao, hết muốn nghĩ mà. Ông xem, tôi sẽ đánh cược lớn. Mảnh giấy đó, được trao ngay góc bên phải, có nghĩa là năm mươi nghìn bảng cho tôi." Anh ta tựa lưng ra sau. "Chỉ nghĩ tới những gì một người tài năng như tôi có thể làm với năm mươi nghìn bảng."

Giọng ngày càng uể oải hơn, Poirot cố gắng trả lời, "Tôi – tôi không – muốn nghĩ tới chuyện đó."

"Chà, có thể không. Tôi đánh giá cao điều đó," Raynor thừa nhận. "Người ta phải tính đến quan điểm khác."

Poirot nghiêng người về phía trước, và dưỡng như đang cố gắng bình tình lại. "Và chuyện sẽ không như vậy," ông kêu lên. "Tôi sẽ tố cáo anh. Tôi, Hercule Poirot –" Ông đột nhiên ngắt lời.

"Hercule Poirot sẽ chẳng làm gì cả," Raynor tuyên bố khi vị thám tử ngồi thụt trở lại chỗ của mình. Tay thư ký tiếp tục, cùng một tiếng cười gần như chế nhạo, "Ông chẳng bao giờ đoán được, ngay cả khi ông nói whisky có vị đắng, đúng không nào? Ông thấy đấy, ông Poirot thân mến, tôi đã lấy không chỉ một mà là vài ống hyoscine trong hộp. Nếu có gì thì ông đã được tôi cho một liều mạnh hơn một chút so với Sir Claud.

"A, mon Dieu (chúa ơi), Poirot thở gấp, gắng gượng đứng lên. Ông cố gọi "Hastings! Has-" bằng giọng yếu ớt. Mất tiếng, ông ngồi phịch xuống ghế. Đôi mắt khép lại.

Raynor nhỏm dậy, đẩy ghế sang một bên và đi tới đứng canh chừng Poirot. "Cố giữ tỉnh táo nào, ông Poirot," anh ta nói. "Chắn chắn ông muốn biết công thức được giấu ở đâu, đúng không nào?"

Anh ta chờ một lát, nhưng mắt Poirot vẫn nhắm nghiền. "Một giấc ngủ nhanh chóng, không mộng mị, và không tỉnh giấc, giống như anh bạn Carelli thân mến sắp đặt," Raynor buồn bã nhận xét khi bước tới bên bẹ lò sưởi, lấy những que đóm, gấp chúng lại và bỏ vào túi. Anh ta đi thẳng tới khung cửa kiểu Pháp, ngừng lại chỉ để nói với qua vai, "Tạm biệt, ông Poirot thân mến."

Anh ta chuẩn bị bước ra vườn thì bị tiếng của Poirot chặn lại, giọng nói vui vẻ và tự nhiên. "Anh cũng không thích chiếc phong bì à?"

Raynor quay ngoắt lại, và đúng lúc đó thanh tra Japp từ vườn bước vào thư viện. Lùi lai vài bước, Raynor ngập ngừng, rồi quyết định chạy trốn. Hắn lao tới cửa sổ kiểu Pháp, bị Japp cùng viên cảnh sát John, người cũng đột nhiên xuất hiện từ khu vườn tóm được.

Poirot đứng dậy khỏi ghế, vươn mình. "Chà, Japp thân mến," ông hỏi. "Anh đã hiểu hết rồi chứ?"

Lôi Raynor trở lại giữa phòng với sự trợ giúp của cấp dưới, Japp trả lời, "Từng chữ, cảm ơn lời nhắn của anh, Poirot ạ. Anh có thể nghe rõ mọi thứ từ bậc thềm kia, ngay bên ngoài cửa sổ. Bây giờ, hãy bỏ qua anh ta và xem chúng ta có thể tìm thấy gì." Ông rút các que đóm từ túi Raynor ra và thảy chúng lên bàn trà.

Tiếp theo, ông lôi ra được một ống nhỏ. "A ha! Hyoscine! Trống rỗng."

"A, Hastings," Poirot chào bạn mình khi ông ấy từ hành lang bước vào, mang theo ly rượu whisky và soda mà ông giao lại cho vị thám tử.

"Anh thấy không?" Poirot nói với Raynor bằng dáng vẻ ân cần nhất. "Tôi đã từ chối diễn trong vở hài kịch của anh. Thay vào đó, tôi đã khiến anh nhập vai trong vở của tôi, tôi đã hướng dẫn cho Japp và cả Hastings. Sau đó, tôi khiến chuyện dễ dàng hơn bằng cách phàn nàn về sự nóng bức. Tôi biết anh sẽ gợi ý một ly. Xét cho cùng, nó là khúc mở màn mà anh cần. Sau đấy, mọi việc rất đơn giản. Khi tôi đi ra cửa, Hastings tốt bụng đã đứng sẵn ở ngoài cùng một ly soda và whisky khác. Tôi đổi ly và quay trở lại. Và thế là – tiếp tục vở kịch."

Poirot đưa chiếc ly cho Hastings. "Tôi nghĩ mình diễn khá tròn vai," ông tuyên bố.

Có một khoảng lặng trong lúc Poirto và Raynor dò xét nhau. Sau đó Raynor lên tiếng. "Tôi đã thấy e ngại ông kể từ lúc ông bước vào căn nhà này.Kế hoạch của tôi có lẽ đã thành công. Tôi có lẽ có thể sống cả đời an nhàn với năm mươi ngàn bảng – thậm chí có thể nhiều hơn – số tiền mà tôi đáng lẽ kiếm được từ cái công thức khốn kiếp đó. Nhưng, ngay từ lúc ông đến, tôi đã không còn cảm thấy tự tin rằng mình sẽ thoát khỏi tội giết lão già đần độn vênh váo đó cùng với việc ăn cắp mẩu giấy quý hóa của lão."

"Tôi đã nhận xét là anh rất thông minh rồi," Poirot đáp lại. Ông lại ngồi vào chiếc ghế bành, trông rõ là thích chí khi Japp bắt đầu nói nhanh.

"Edward Raynor, tôi bắt anh vì tội cố ý giết Sir Claud Amory, và tội ảnh báo anh rằng bất cứ điều gì anh nói đều có thể được đem ra làm bằng chứng." Japp ra hiệu cho viên cảnh sát giải Raynor đi.

Chương 20

Khi Raynor rời đi dưới sự giám sát của viên cánh sát Johson, hai người đi ngang qua Miss Amory, lúc này cũng đang bước vào thư viện. Bà quay lại nhìn họ lo lắng, sau đó vội đến chỗ Poirot. "Ngài Poirot," bà gấp gáp khi thấy Poirot đứng dậy để chào hỏi, "có thật không? Có phải Cậu Raynor là người đã giết anh trai tội nghiệp của tôi không?"

"Tôi e là vậy, thưa bà," Poirot nói.

Miss Amory trông sững sờ. "Ô!Ô!" Bà kêu lên. "Không thể tin được! Thật là độc ác! Chúng tôi luôn đối xử với cậu ta như người nhà. Rồi Beeswax và mọi thứ -" Bà đột ngột quay đi, chuẩn bị rời đi thì Richard bước và giữ cửa mở cho bà. Khi bà suýt chạy ra khỏi căn phòng, cô cháu gái Barbara từ vườn bước vào.

"Chỉ đơn giản là quá bàng hoàng để nói lên lời (this is simply too shattering for words)," Barbara kêu lên. "Edward Raynor của tất cả mọi người. Ai mà tin nổi? Có người nào đó phải cực kỳ thông mình mới tìm ra. Tôi thắc mắc là ai!"

Cô nhìn Poirot đầy ẩn ý, tuy nhiên, lại cúi mình phía vị thanh tra cảnh sát khi ông lẩm bẩm, "Người phá vụ án này là thanh tra Japp, thưa tiểu thư."

Japp cười rạng rỡ. "Tôi nói cho anh nghe, anh Poirot ạ, anh chính là món hàng bằng chứng) (you're the goods). Và cũng là một quý ông." Gật đầu với những người có mặt ở đó, Japp nhanh chóng thoái lui, chộp lấy ly whisky từ Hastings đang sửng sốt với đôi lời, "Tôi sẽ chịu trách nhiệm với bằng chứng, nếu được, thưa Đại úy Hastings!"

"Vâng, nhưng có thật thanh tra Japp là người đã tìm ra kẻ giết bác Claud không? Hay," Barbara bẽn lẽn hỏi Poirot khi cô lại gần chỗ ông, "chính là ông, ông Hercule Poirot?"

Poirot đi tới chỗ Hastings, choàng tay ông lấy người bạn già.

"Thưa tiểu thư," ông thông báo với Barbara, "công lớn thật sự thuộc về anh Hastings đây. Anh ấy đã đưa ra những nhận định lỗi lạc vượt bậc giúp tôi đi đúng hướng. Hãy dẫn anh ấy ra vườn và bắt anh ấy kể cho tiểu thư."

Ông đẩy Hastings về phía Barbar và xua cả hai ra cửa sổ kiểu Pháp.

"A, cưng ơi," Barbara thở dài một cách hài hước với Hastings khi họ ra vườn.

Richard Amory định nói với Poirot lúc cửa ra hành lang mở và Lucia bước vào. Bắt đầu từ chỗ khi cô thấy chồng mình, Lucia ngập ngừng khẽ nói "Richard."

Richard quay sang nhìn cô. "Lucia!"

Lucia tiến mấy bước vào phòng. "Em -" cô cất tiếng, rồi lại thôi.

Richard tiến đến chỗ cô, rồi dừng lại. "Em -"

Cả hai bọn họ trông cực kỳ lo lắng và không thoải mái với nhau. Sau đó Lucia bắt gặp ánh mắt của Poirot và đi tới chỗ ông với đôi tay xòe ra. "Ông Poirot! Chúng tôi biết cảm ơn ông thế nào đây?"

Poirot nắm lấy cả hay tay cô. "Vậy, thưa mợ, rắc rối của mợ đã qua!" ông tuyên bố.

"Kẻ sát nhân đã bị bắt. Nhưng những phiền hà của tôi, chúng có thực sự kết thúc không?" Lucia đăm chiêu hỏi.

"Thực tình trông con không được vui lắm, con của ta," Poirot nhận xét.

"Con băn khoăn, mình sẽ có được hạnh phúc lần nữa ư?"

"Ta nghĩ vậy," Poirot nói, mắt lấp lánh. "Hãy tin vào Poirot già này."

Dẫn Lucia tới chiếc ghế bên chiếc bàn giữa phòng, ông nhặt những que đóm trên bàn trà lên, băng qua chỗ Richard và trao chúng cho anh.

"Thưa cậu," ông tuyên bố, "tôi rất vui mừng được khôi phục lại công thức của Sir Claud cho cậu! Có thể ghép các mảnh lại với nhau – Ý cậu thế nào? – Nó sẽ trông như mới."

"Chúa ơi, cái công thức!" Richard kêu lên. "Tôi suýt thì quên nó. Tôi khó mà chịu được khì trông thấy nó lần nữa. Nghĩ mà xem nó đã làm gì với tất cả chúng tôi. Nó khiến bố tôi phải trả giá bằng mạng sống của mình, và nó còn hủy hoại cuộc sống của tất cả chúng tôi nữa."

"Anh định làm gì với nó, hả Richard?" Lucia hỏi anh.

"Anh không biết. Thế em định làm gì?"

Đứng dậy đi tới chỗ anh, Lucia thì thầm, "Anh sẽ để em quyết định chứ?"

"Nó là của em," đức lang quân của cô nói, đưa cô những que đóm. "Em muốn làm gì với thứ tồi tàn này thì làm."

"Cảm ơn anh, Richard," Lucia lẩm nhẩm. Cô đi đến lò sưởi, lấy một que diêm trong hộp trên bệ lò sưởi, châm lửa những que đóm, thả từng thanh đóm vào trong lò. "Có quá nhiều nỗi đau trên thế gian này rồi. Em không thể chịu được khi nghĩ tới việc có thêm nỗi đau nào nữa."

"Thưa mợ," Poirot noi, "Ta rất ngưỡng mộ cái cách mợ đốt đi hàng ngàn bảng với tí ti cảm xúc như thể chúng chỉ có vài xu."

"Chúng chẳng là gì ngoài đống tro tàn," Lucia thở dài. "Như chính cuộc đời của tôi."

Poirot khịt mũi. "Ồ! Tất cả chúng ta mua sẵn quan tài thôi," ông nhận xét với giọng giễu ảo não. "Không! Ta ư, ta muốn được hạnh phúc, vui vẻ, được ca hát, nhảy múa. Xem các con kìa, con của ta," ông tiếp tục, quay sang nói với cả Richard, "Ta xin mạn phép cả hai. Phu nhân tự cho là, 'Mình đã lừa dối chồng.' Cậu đây cũng tự nghĩ, 'Mình đã nghi ngờ vợ.' Nhưng điều mà cả hai người thực sự muốn, là được ở trong vòng tay của nhau, phải không nào?"

Lucia tiến một bước về phía chồng mình. "Richard –" cô khẽ lên tiếng.

"Phu nhân," Poirot ngắt lời cô, "Tôi sợ là Sir Claud đã nghi ngờ cô lên kế hoạch ăn cắp công thức của ngài ấy, bởi một tuần trước có người – chắc chắn là một đồng nghiệp cũ của Carelli, đối với kiểu người liên tục cãi vã với người khác – có người, tôi muốn nói là, đã gửi cho Sir Claud một lá thư nặc danh về chuyện mẹ của phu nhân. Nhưng, con có biết, con gái ngốc nghếch của ta, rằng chồng con đã cố đầu thú với thanh tra Japp – rằng cậu ấy thực sự đã thừa nhận giết Sir Claud – để cứu con không?"

Lucia khẽ khóc, và nhìn Richard trìu mến.

"Còn cậu, thưa cậu," Poirot tiếp tục. "Tự tưởng tượng ra điều đó, mới nửa giờ trước, vợ cậu còn đang hét vào tai tôi rằng cô ấy đã giết bố cậu, tất cả chỉ vì cô ấy lo sợ cậu có thể đã làm thế."

"Lucia," Richard thầm gọi dịu dàng, đi tới bên cô.

"Là người Anh," Poirot nhận xét khi tránh xa chỗ họ, "hai người sẽ không ôm ấp trước mặt tôi đâu nhỉ?"

Lucia tới chỗ ông và nắm lấy tay ông. "Ông Poirot, tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ quên được ông – không bao giờ."

"Ta cũng sẽ không quên phu nhân," Poirot lịch thiệp nói khi ông hôn lên tay cô.

"Poirot," Richard Amory nói, "tôi không biết nói gì hơn ngoài việc ông đã đã cứu mạng tôi và cuộc hôn nhân của tôi: Tôi không biết bày tỏ cảm xúc của mình –"

"Đừng tự làm rối mình, anh bạn," Poirot trả lời. "Tôi rất vui vì được phục vụ cậu."

Lucia và Richard cùng nhau ra vườn, mắt nhìn nhau, cánh tay cậu ta ôm lấy vai cô.

Theo họ ra tới cửa sổ, Poirot gọi ở đằng sau, "Chúc phúc hai người, mes enfants ()! Ồ, nếu hai người có gặp Tiểu thư Barbara trong vườn, làm ơn hãy bảo cô ấy trả đội trưởng Hastings lại cho tôi. Chúng tôi phải sớm bắt đầu hành trình tới London." Quay trở lại phòng, ánh mắt ông rơi trên lò sưởi.

"A!" ông kêu lên khi tới chỗ bệ bên trên lò sưởi và dựng ngay ngắn bình đóm. "Voila! Giờ lại ngăn nắp và gọn gàng rồi." Thế là Poirot đi thẳng ra cửa với vẻ thích chí vô cùng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #kkkk