Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

C/s thu hút đtư nước ngoài của Việt Nam sau khủng hoảng ktế tgiới

LỜI MỞ ĐẦU

Năm 2009 được đánh dấu là một năm ngập tràn khó khăn khi toàn thế giới phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế nghiêm trọng chưa từng có kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.. Do đó vấn đề cấp bách đặt ra là tìm những chính sách kinh tế hợp lí nhất, hiệu quả nhất để đưa Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung thoát khỏi cơn khủng hoàng này.

V à với những chính sách hợp lí của chính phủ, đã có 1 số chuyển biến tích cực trong việc tăng trưởng kinh tế của nước ta.Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu những chuyển biến đó qua những chính sách KT vĩ mô, chính sách thu hút đầu tư trong nước, ngoài nước, chính sách thương mại, thúc đẩy xuất khẩu, chính sách tiền tệ, ... để thấy rõ sự tăng trưởng đó ra sao.

Nhóm Ngô Chiên tập trung nghiên cứu các chính sách thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thời kì hậu khủng hoảng.

--------------------

A. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế Việt Nam

I. Nguyên nhân

Đây là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ.

Bong bóng nhà ở cùng với sự giám sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua mối quan hệ mật thiết về tài chính nói riêng và kinh tế nói chung của Hoa Kỳ với nhiều nước, cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia.

II. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam

Cuộc khủng hoảng tài chính đã, đang và sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trên thế giới, nhất là trong quý IV năm 2008 và năm 2009. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại từ mức 5% năm 2007 xuống 3,7% năm 2008 và chỉ còn 2,2% vào năm 2009, trong đó dẫn đầu là sự sa sút của các nền kinh tế phát triển, bởi tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang ngày càng lan rộng.

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến một số hoạt động của kinh tế nước ta, nhưng mức độ tác động không lớn như các nước đang phát triển khác.

1.Về tăng trưởng kinh tế:

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam bị suy giảm (từ trên 8% trong 3 năm trước, đến 2008 chỉ còn 6,31%, năm 2009 chỉ còn 5,31%). Lạm phát cao trong năm 2007 (12,63%), bùng lên trong năm 2008.

2. Về thương mại

Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, nhu cầu nhập khẩu hàng Việt Nam ở hầu hết các thị trường chính đều giảm như thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Australia... Hơn nữa để chống chọi với tình trạng thiếu hụt phương tiện thanh toán và bảo vệ các doanh nghiệp trong nước, ở hầu hết các thị trường này đều đang gia tăng các biện pháp bảo hộ, từ chối đơn hàng, tung tin thất thiệt để hạ uy tín của hàng Việt Nam.

* Xuất khẩu sang Mỹ: Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ xuất khẩu sang Mỹ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Do cầu tiêu dùng tại Mỹ đang trên đà suy giảm mạnh bởi tác động của khủng hoảng tài chính, trong 9 tháng đầu năm, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 16,7%, thấp hơn khá nhiều so với mức 26,7% của năm 2007. Tỷ trọng của thị trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã giảm, từ 20,7% của năm 2007 xuống còn 17,7% trong 9 tháng đầu năm. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng nhất là may mặc, giày da, gạo, cá basa, cà phê...

* Xuất khẩu sang EU và Nhật Bản: Cuộc khủng hoảng cũng tác động đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU và Nhật Bản - hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Phân tích của các chuyên gia kinh tế cho thấy, do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng sẽ có xu hướng giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm, chỉ còn 16,5%, trong khi năm 2007 là 18%.

Nhìn vào lĩnh vực xuất khẩu, năm 2008 mức xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng ngoạn mục (do tăng về số lượng và cả giá cả). Nhưng sáu tháng đầu năm 2009 tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 27,6 tỷ USD, kém xa so với mục tiêu đề ra (mục tiêu đặt ra cho cả năm là 64,75 tỷ USD) giảm tới 10,15% so với cùng kỳ (mục tiêu là tăng 13%).

Hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đều suy giảm: Nếu so cùng kỳ, 6 tháng đầu năm 2009 hàng dệt nay giảm 1,3%; giày dép giảm 8,7%; thuỷ hải sản giảm 10,7%. Nếu năm 2008 giá xuất khẩu rất cao thì năm nay giá các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều giảm sút nghiêm trọng: giá dầu thô giảm 53%; giá cà phê giảm 28,3% và còn có xu hướng giảm tiếp, giá cao su giảm 44%; giá gạo giảm hơn 20% v.v.

3. Về hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ

Tuy cuộc khủng hoảng chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng, nhưng một số tác động gián tiếp là đáng kể. Trước hết, đó là diễn biến của tỷ giá và lãi suất USD. Tỷ giá USD với đồng Việt Nam trên thị trường có nhiều biến động do tâm lý của người dân.

Về thị trường chứng khoán, luồng tiền đầu tư gián tiếp vào Việt Nam suy giảm và đã có hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong những tháng gần đây có những chuyển biến tích cực, nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục sụt giảm. VN-index giảm liên tục và lập đáy mới xuống dưới 350 điểm. Việc nhà đầu tư nước ngoài có biểu hiện rút khỏi thị trường chứng khoán Việt Nam đã gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư trong nước.

4. Về đầu tư nước ngoài

Thị trường tài chính Việt Nam bị ảnh hưởng khá lớn bởi thị trường thế giới, đặc biệt trong vài năm gần đây. Sự ảnh hưởng này thể hiện qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Suy giảm kinh tế thế giới sẽ làm cho đầu tư nước ngoài giảm đi và như vậy đầu tư ở Việt Nam sẽ giảm. Khi đầu tư giảm sẽ có hai tác động, ngắn hạn và dài hạn, đến nền kinh tế Việt Nam. Trong ngắn hạn, cầu hàng hóa và dịch vụ cho đầu tư sẽ giảm, như vậy tổng cầu sẽ giảm. Trong dài hạn, giảm đầu rư sẽ giảm trữ lượng vốn và sẽ giảm tổng cung hàng hóa và dịch vụ. Tóm lại, Việt Nam cũng không thoát khỏi tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chính sách vĩ mô cần được ưu tiên trong việc giảm thiểu tác động này.

5.Các lĩnh vực khác:

Nhiều lĩnh vực cũng bị ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng. Trong lĩnh vực du lịch, mặc dù có chương trình "Ấn tượng Việt Nam" nhưng lượng khách du lịch tới Việt Nam vẫn giảm tới hơn 20% ...

B. Các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam từ năm 2009 đến nay

I. Vốn đầu tư nước ngoài

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm phần tích luỷ của cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.

II. Các hình thức phân loại vốn

Có nhiều cách phân chia các loại vốn nước ngoài. Tuy nhiên, theo tính chất luân chuyển vốn có thể chia nguồn vốn nước ngoài thành các loại vốn sau:

1. Nguốn vốn ODA (official development assistance)

Khái niệm: Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển.

ODA là nguồn chính trong nguồn tài trợ phát triển chính thức ODF (official development finance) và nó cũng chính là nguồn ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian cho vay dài, khối lượng vốn tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ ) đạt ít nhất 25% (trường hợp đạt mức 100% là viện trợ không hoàn lại ).

2. Nguồn vốn FDI (Foreign direct investment):

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước ( nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác ( nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoà là các cơ sở kinh doanh.

Nguồn vốn FDI có tác dụng bổ sung nguồn vốn trong nước, đặc điểm cơ bản khác với nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận đầu tư nên nó có thể thúc đảy ngành nghề mới, đặc biệt là nhũng ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn.

Quốc gia/ Lãnh thổ

FDI

USA 1.818.000.000.000

UK 1.135.000.000.000

Hông công 769.100.000.000

Đức 763.900.000.000

Trung Quốc 699.500.000.000

Pháp 697.400.000.000

Bỉ 633.500.000.000

Hà Lan 450.900.000.000

Tây Ban Nha 439.400.000.000

( Bảng xếp hạng các nước có đầu tư trực tiếp nước ngoài)

3. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.

Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như nguồn vốn ODA nhưng bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không gắn liền với các điều kiện ràng buộc về kinh tế chính trị, xã hội.

4. Thị trường vốn quốc tế:

Hiện nay với xu hướng toàn cầu hoá mối liên hệ giữa các quốc gia ngày càng tăng bởi vậy hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu chủ yếu thông qua hệ thống thị trường chứng khoán. Thực tế cho thấy, mặc dù trong vòng 30 năm qua tất cả các nước khác đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng nguồn vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các nguồn vốn khác.

III. Vai trò của vốn đầu tư nước ngoài

1. Vai trò của vốn viện trợ quốc tế ODA

ODA có vai trò rất to lớn với sự phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam được thể hiện cụ thể như sau:

- ODA là một nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với nhiệm vụ xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, tăng trưởng kinh tế và phát triển nông thôn

Từ năm 1993 tới hết năm 2004, nguồn vốn ODA đã được tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, ưu tiên của Chính phủ, đó là: năng lượng điện (18.57%); ngành giao thông (22,42%); phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm cả thuỷ sản, lâm nghiệp, thủy lợi (14,37%); ngành cấp thoát nước (9,98%); các ngành y tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ - môi trường (10,73%).

Trong thời kỳ 2001 - 2005, nguồn vốn ODA đã bổ sung khoảng 11% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và nguồn vốn ODA cấp phát qua ngân sách nhà nước chiếm trung bình khoảng 17% tổng đầu tư từ ngân sách. Vốn ODA đã thực sự trở thành kênh vốn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Trong lĩnh vực phát triển nông thôn, các nguồn vốn ODA ưu tiên cho các vùng này đã phát huy được vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất nông nghiệp cũng như thúc đẩy cơ hội việc làm phi nông nghiệp. Kết quả là, đời sống của người nông dân được cải thiện, có thu nhập khá hơn. Cũng nhờ sự hỗ trợ của ODA, cơ sở hạ tầng ở nông thôn đã được cải thiện đáng kể (thuỷ lợi, lưới điện nông thôn, trường học, trạm y tế, giao thông nông thôn, cấp nước sinh hoạt, tín dụng nông thôn quy mô nhỏ...)

Nhìn chung, việc sử dụng vốn ODA trong thời gian qua là có hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam.

- Nguồn vốn ODA giúp cho Việt Nam điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cải cách hành chính, hỗ trợ xây dựng chính sách và thể chế

Nguồn vốn ODA cũng hỗ trợ đáng kể cho ngân sách của Chính phủ để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thực hiện chính sách cải cách kinh tế (ví dụ như quỹ Miyazawa, PRGF và PRSC). Nguồn vốn ODA có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự hỗ trợ này nhằm tăng cường các biện pháp cải cách hành chính và quản lý kinh tế.

- Nguồn vốn ODA giúp cho Việt Nam phát triển con người

Trong lĩnh vực giáo dục giai đoạn 2001 - 2005, Việt Nam đã tranh thủ được nguồn vốn ODA để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác dạy và học của tất cả các cấp học (dự án giáo dục tiểu học, dự án trung học cơ sở, dự án trung học phổ thông, dự án giáo dục đại học, dự án dạy nghề...), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, gửi sinh viên ra nước ngoài đào tạo đại học và sau đại học....

Trong lĩnh vực y tế, việc cải thiện và nâng cao chất lượng trang thiết bị cũng như trình độ khám chữa bệnh thông qua các dự án viện trợ không hoàn lại tại hai bệnh viện lớn là Chợ Rẫy và Bạch Mai. Các dự án hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản trong lĩnh vực y tế cũng đã góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ y bác sỹ cũng như trang thiết bị khám chữa bệnh, qua đó cải thiện đời sống của nhân dân, đặc biệt là dân nghèo thành thị.

Nguồn vốn ODA đã góp phần cho sự thành công của một số chương trình xã hội có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Nhờ vậy, thứ hạng của nước ta trong bảng xếp hạng các quốc gia đều đạt được cải thiện hàng năm.

- ODA với các chương trình cứu trợ khẩn cấp

Nhìn chung, nguồn vốn ODA hàng năm cho viện trợ khẩn cấp chiếm tỷ trọng nhỏ so với các lĩnh vực khác nhưng nó cũng đã góp một phần không nhỏ vào công tác phòng chống thiên tai, viện trợ nhân đạo cho những nạn nhân của lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long và các vùng hay gặp thiên tai.

2. Vai trò của khu vực FDI với nền kinh tế Việt Nam

Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI.

- FDI đối với vốn đầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế

Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển. Giai đoạn 1994 -1995, tỷ trọng của FDI trong đầu tư xã hội lên tới 30 - 31%, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2005, FDI thực hiện ước chiếm 16,3% trong tổng đầu tư xã hội.

Trong suốt một thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Năm 2005, khu vực FDI đóng góp 15,9% vào GDP so với tỷ lệ đóng góp 6,4% của khu vực này năm 1994. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất, tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước.

- FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu

FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng... Năm 2004, khu vực có vốn FDI đóng góp tới 35,68% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, trong khi tỷ lệ này chỉ là 25,1% năm 1995. Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành trong suốt giai đoạn 1995 - 2003, trừ năm 2001. Trong một thập kỷ trở lại đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước.

- FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực

Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử dụng khoảng 730 ngàn lao động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam, so với tỷ trọng này năm 1996 là 0,7%.

Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hoá trung gian giữa các doanh nghiệp này.

- FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô

Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục thuế, năm 2002, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà nước, tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tính riêng giai đoạn 1996-2002, khu vực này đóng góp vào ngân sách trung bình ở mức khoảng 6%.

Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung.

IV. Tình hình đầu tư nước ngoài tại VN trước và trong khủng hoảng 2007

1. Trước khủng hoảng.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và luôn được nhìn nhận như là một trong những trụ cột đóng góp có hiệu quả vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trong suốt thời kỳ tiến hành đổi mới kinh tế, FDI luôn chiếm khoảng 16%-20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam.

Năm 2007 đã để lại một dấu ấn quan trọng trong lịch sử kinh tế khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) vào ngày 11 tháng 1 năm 2007 sau khi gói đề nghị của Việt Nam được Đại Hội đồng của WTO chấp nhận vào ngày 7 tháng 11 năm 2006. Đối với giới lãnh đạo chính trị và dân chúng Việt Nam, trở thành thành viên WTO là cuộc vượt rào cản cuối cùng để Việt Nam hoàn toàn có thể hòa nhập với cộng đồng thế giới.

Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cùng với việc cải thiện mạnh mẽ khuôn khổ luật pháp về đầu tư và môi trường kinh doanh từ cuối năm 2006, Việt Nam đã có bước bứt phá ngoạn mục bằng làn sóng thứ hai về thu hút FDI với đỉnh cao của nó là năm 2008, lần đầu tiên đạt được con số thu hút FDI kỷ lục: hơn 74 tỷ USD vốn đăng ký và trên 11,4 tỷ USD vốn thực hiện. Tuy nhiên, chiều hướng này đã không thể tiếp tục khi thế giới từ nửa cuối năm 2008 đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu "trăm năm mới có một lần".

Biểu đồ tăng trưởng FDI trong nước giai đoạn 1988- 2006

Sau giai đoạn 1988-2004, những năm 2005, 2006 có tăng trưởng đột biến về FDI. FDI năm 2006 đã vượt rất nhanh, cao hơn đỉnh 1996 và cao nhất trong 19 năm gần nhất

2. Trong khủng hoảng

Cuộc khủng hoảng đã có ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) bởi lúc này các công ty đầu tư vào Việt Nam đã thận trọng hơn trong kế hoạch tài chính và đầu tư.

- Khả năng giải ngân vốn FDI và ODA trong năm 2008 đã giảm sút.

Hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết hoặc không thể giải ngân. Trong tháng 10-2008, tổng số dự án đăng ký mới là 68 dự án với tổng vốn đăng ký là 2,02 tỷ USD, thấp hơn nhiều so với các tháng đầu năm (9 tháng đầu năm có 885 dự án đăng ký với tổng số vốn đăng ký là 56,27 tỷ USD). Tổng vốn FDI thực hiện trong 10 tháng năm 2008 so với tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm chỉ đạt khoảng 15%.

Số vốn ODA giải ngân năm 2008 c ũng không đạt được như dự báo trước là 2,3 tỷ USD.

- Khủng hoảng tài chính thế giới có thể khiến dòng đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam suy giảm vì những lo ngại về bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu.

Về ngắn hạn, khủng hoảng ở Mỹ chưa có tác động lớn đến Việt Nam do dòng vốn đầu tư vào Việt Nam hầu hết bắt nguồn từ các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Xin-ga-po, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... Mỹ chỉ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực, tổng số vốn đăng ký 4,1 tỷ USD.

Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính đã không chỉ dừng lại ở Mỹ mà đã lan sang các nước phát triển khác, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia có đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các nước châu Á, nơi chiếm tới 80% dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, cũng đang chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng. Việc huy động vốn trên thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn do chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn. Hậu quả là các nhà đầu tư sẽ hạn chế tăng thêm đầu tư mới và thực hiện các dự án đã cam kết. Đã có xu hướng một số công ty mẹ ở chính quốc yêu cầu các chi nhánh tại Việt Nam phải giảm đầu tư để rút vốn về để tháo gỡ khó khăn cho các công ty mẹ. Do vậy, trong dài hạn, nếu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới không bị chặn lại thì chắc chắn nó sẽ tác động tới đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.

- Hiệu ứng tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu rất khác nhau lên cơ cấu đầu tư.

Từ năm 2008 trở về trước, tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng chiếm tới 55,1% tổng số vốn đăng ký thì nay, do khó khăn về thị trường đầu ra cho các sản phẩm chế biến, chế tạo, khu vực này không còn giành được vị trí ưu tiên hàng đầu. Trái lại, dịch vụ lưu trú và ăn uống trở thành lĩnh vực thu hút sự quan tâm nhiều nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với trên 4,57 tỷ USD (cả vốn cấp mới và tăng thêm) và cùng với lĩnh vực kinh doanh bất động sản vượt lên đứng vị trí thứ 2 với tổng số 3,65 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm, chiếm tới khoảng 80% tổng số vốn đăng ký được dự kiến của cả năm 2009. Đây có thể là hiện tượng bất hợp lý, thể hiện tính tăng trưởng chưa bền vững của nền kinh tế.

- Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu Việt Nam rất khó khăn do các nhà đầu tư hướng tới các kênh đầu tư an toàn.

Việc bán tháo chứng khoán khỏi thị trường Việt Nam là có thể, mặc dù xác suất không cao, do tính thanh khoản và quy mô của thị trường. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao.

Việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ khó khăn và chi phí tăng cao.

- Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi suất nhằm hưởng chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ giá ổn định.

Các giao dịch này thường mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá VND vào USD của Việt Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể dòng vốn này sẽ chảy vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh lệch. Trong những trường hợp thoái vốn, dòng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND.

- Dòng kiều hối có thể cũng sẽ suy giảm.

Ngoài mục đích hỗ trợ thân nhân và đầu tư vào kinh doanh, một phần không nhỏ của dòng kiều hối này được đầu tư vào chứng khoán và bất động sản - những lĩnh vực hiện nay không còn "nóng" như trước. Hơn nữa, một phần lớn nguồn kiều hối về Việt Nam lại từ nước Mỹ, nơi tăng trưởng kinh tế đang sa sút và tình trạng thất nghiệp gia tăng.

V. Các chính sách của VN nhằm thu hút ng vốn đầu tư nước ngoài

1. Trong ngắn hạn

Trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngay từ quý I năm 2008 Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa những hậu quả khôn lường của "Cơn bão tài chính". Trận bão vào quý I năm 2008 đã khiến Việt Nam kịp thời áp dụng các biện pháp hợp lý để phòng vệ. Các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô đã phát huy tác dụng, lạm phát giảm, tính thanh khoản giữa các ngân hàng được tăng cường, thanh khoản của thị trường được đảm bảo, thu hẹp cán cân thương mại, tăng cường ngân sách nhà nước, thắt chặt chi tiêu công, tăng dự trữ ngoại tệ. Sự chao đảo của thị trường thế giới khiến giá nguyên liệu giảm dẫn đến làm giảm gánh nặng trợ cấp giá nguyên liệu của ngân sách nhà nước. Các ngân hàng thương mại cũng được hỗ trợ bằng nhiều biện pháp của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, tiềm ẩn nguy cơ của khủng hoảng tài chính là rất lớn, cơn bão tài chính toàn cầu chưa có hồi kết, vì vậy việc tiếp tục thực hiện các biện pháp để ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu... cần phải được quan tâm chỉ đạo quyết liệt.

Lợi thế lớn của Việt Nam là nằm ở vị trí trung tâm trong vùng kinh tế của Trung Quốc và các nước Châu Á, nên rất thuận lợi cho giao thương quốc tế, Việt Nam có một nền chính trị ổn định và một xã hội an toàn, thân thiện; đồng thời với số dân hơn 80 triệu người, nguồn lao động có văn hóa, cần cù và cầu tiến, Việt Nam thực sự là một thị trường tiềm năng lớn trong khu vực. Mặt khác Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Trong bối cảnh cả thế giới đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, hơn lúc nào hết, Việt Nam cần tận dụng một cách tốt nhất các ưu thế của mình để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

- Tiếp tục ban hành chính sách cải thiện môi trường đầu tư: xem xét cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thế chấp quyền sử dụng đất, cho phép góp vốn bằng quyền sử dụng đất của doanh nghiệp Việt Nam. Xử lý nới lỏng các vấn đề về ngoại hối, hỗ trợ tín dụng, cầm cố thế chấp, đăng ký quyền sở hữu tài sản bảo lãnh tiền vay... kiến nghị sửa đổi thuế thu nhập cá nhân theo hướng mở rộng diện nộp thuế nhưng giảm thuế suất và tăng mức thu nhập bắt đầu chịu thuế để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng người Việt Nam vào các cương vị quản lý, điều hành, giảm chi phí không hợp lý cho các doanh nghiệp.

Một trong số những biểu hiện cụ thể của các chính sách cải thiện môi trường đầu tư đó là: đơn giản hóa các thủ tục hành chính công. với việc thực hiện đề án 30 đơn giản hóa tối thiểu 30% các quy định hiện hành về thủ tục tài chính đã giúp các nhà đầu tư không chỉ trong nước mà ở cả nước ngòai giành được những cơ hội đầu tư thuận lợi. Hơn nữa lại tiết kiệm các chi phí đầu tư. Từ đó góp phần cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam theo hướng tiến bộ và lành mạnh hơn.

- Đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, khả năng tiếp cận với khoa học công nghệ tốt nhằm đáp ứng được đòi hỏi trên thị trường lao động lao động của các doanh nghiệp nước ngoài.

Nước ta đông dân với cơ cấu dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động chiếm tỉ trọng cao là nguồn cung cấp lao động dồi dào cho thị trường. Không những vậy, những người Việt Nam còn chăm chỉ, cần cù chịu khó trong lao động- đây là những đức tính tốt, quý báu và cần được phát huy trong thời đại Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa hiện nay. Tuy có số lượng đông nhưng chất lượng cũng như tay nghề của người lao động còn chưa cao. Năm 2009, theo điều tra của Viện Công nhân - Công đoàn, có 67,2% tổng số công nhân có trình độ trung học phổ thông; 21,2% có trình độ trung học cơ sở; 3,7% trình độ tiểu học. Xét về trình độ học vấn của công nhân theo ngành nông, lâm, thủy sản, tỷ lệ có trình độ học vấn phổ thông trung học thấp nhất (47,9%).... Đó là một trong số những điểm yếu khiến chúng ta "mất điểm" trước những nhà đầu tư nước ngòai.

Nhận định và nắm bắt được vấn đề chính phủ nước ta đã đưa ra nhiều chính sách để nâng cao chất lượng trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể là vào ngày 23/6/2010, tại Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức Hội thảo "Nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, hiểu biết pháp luật cho công nhân lao động khu vực kinh tế ngoài Nhà nước - Thực trạng và giải pháp". Mục đích là tập hợp ý kiến từ các cấp công đoàn, người sử dụng lao động và người lao động để tìm ra giải pháp nâng cao trình độ cho công nhân lao động

- Tăng cường chất lượng cơ sở hạ tầng để giảm chi phí cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng là yêu cầu cấp bách không chỉ để thu hút thêm dự án FDI mới mà còn để giữ chân những dự án hiện hữu.

Cơ sở hạ tầng yếu kém và quá tải cũng là một yếu tố làm nản lòng các nhà đầu tư. Tình trạng mất điện đột ngột không được báo trước, nhiều tuyến giao thông huyết mạch thường xuyên tắc nghẽn, hàng hóa bị ách tắc ở cảng... là những điều đã được phản ảnh đi phản ảnh lại nhiều lần.

Thêm vào đó, với giá nhiên liệu biến động khó lường, có thể nhiều nhà đầu tư sẽ phải định vị lại địa điểm đầu tư lại gần những thị trường tiêu thụ chính để giảm chi phí vận chuyển, và khi ấy Việt Nam có thể không tận dụng được một số lợi thế sẵn có của mình.

Vào ngày 26/05/2010 tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp nước ngoài đã đưa vấn đề này ra thảo luận. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh gia kinh nghiệm đến từ các nước trên thế

giới:" Chừng nào Việt Nam chưa cải thiện cơ sở hạ tầng, Việt Nam còn lạc hậu". Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề ngày, mới đây Chính phủ đã thông qua Nghị định 108 (có hiệu lực từ ngày 15/1/2010) về các quy định mới liên quan đến các dự án cơ sở hạ tầng và sự tham gia của khu vực tư nhân. Bên cạnh đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng vừa đưa ra dự thảo quy định về "thí điểm thực hiện các dự án hợp tác công - tư (PPP). Dự án này đang được từng bước đưa vào thực hiện hứa hẹn đem lại kết qủa khả quan trong tương lai

- Đa dạng hoá các lĩnh vực và hình thức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua việc mở rộng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, cho phép các thành phần kinh tế hợp tác đầu tư với nước ngoài, cho phép khu vực dân doanh được góp vốn liên doanh hoặc mua cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất.

- Tăng cường vai trò công tác cán bộ, kể cả các cơ quan quản lý Nhà nước, không ngừng đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhằm đủ sức đóng góp vai trò quyết định trong việc đấu tranh bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam, khắc phục khâu yếu nhất trong các liên doanh thời gian qua là khâu cán bộ. Cùng với giải pháp trước mắt cho thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thì nhà nước ta cũng phải có 1 giải pháp trong lâu dài sao cho hợp lý.

- Nâng cao hiệu quả quản lý và năng lực điều hành của nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cụ thể là tập trung vào xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch thu hút đầu tư, đổi mới công tác xúc tiến vận động đầu tư. Đơn giản thủ tục hành chính, chuyển giao phần chủ yếu viêc quản lý trực tiếp cho chính quyền địa phương, các bộ tập trung vào nghiên cứu và xây dựng luật pháp, chính sách, cơ chế, hướng dẫn và kiểm tra giám sát.

- Nghiên cứu bổ sung 1 số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng hơn, đảm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền, tiến tới một khung pháp lý chung giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, hạn chế thành lập các khu công nghiệp mới, vận động đầu tư lấp đầy các khu công nghiệp, đảm bảo hạ tổng ngoài hàng rào...

- Tiếp tục thực hiện việc giảm chi phí đầu tư, bổ sung chính sách ưu đãi thiết thực, khuyến khích đầu tư đối với các dự án sản xuất và chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Miễn thuế thuê đất trong những năm đầu, mở rộng thúc đẩy thực hiện miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật tư sản xuất như luật đầu tư nước ngoài bổ sung mới đây đã đưa ra (quyết định 53/1999/QĐ-Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích đầu tư phát triển trực tiếp nước ngoài); áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi nhất....

b. Trong dài hạn:

• Cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước với đầu tư trực tiếp nước ngoài.

• Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ Chính phủ với các bộ tổng hợp, cán bộ quản lý các ngành, UBND trong quản lý hoạt động đầu tư tập trung nước ngoài theo thẩm quyền trách nhiệm. Triệt để kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng minh bạch thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính tạo chuyển biến căn bản mạnh mẽ về cải cách hành chính trong khu vực đầu tư.

• Quy định cụ thể trách nhiệm kinh tế, hình sự đối với các cá nhân, tổ chức trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, tránh tình trạng trốn trách nhiệm một cách chung chung đưa tới hậu quả nghiêm trọng. Hạn chế kiểm tra và can thiệp tuỳ tiện của các cơ quan công an, kiểm soát, thuế vụ tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế.

• Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ nhằm tạo môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn, thông thoáng. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng cần sửa đổi những ảnh hưởng xấu đến tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Luật đầu tư nước ngoài 3 lần sửa đổi bổ sung năm 1990, 1992, 1996 và vừa qua kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá X cũng đã thông qua luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm cải thiện môi trường pháp lý. Mặc dù khắc phục được một số hạn chế song vẫn còn một số quy định còn cứng nhắc, nhiều chỗ vẫn chưa thông thoáng so với một số nước trong khu vực như việc giải phóng mặt bằng còn khá khó khăn, thời gian kéo dài, cần được khắc phục dần dần. Bên cạnh đó cũng cần có sự thống nhất giữa các luật giữa luật đầu tư trực tiếp nước ngoài với bộ luật lao động để đảm bảo tuyển dụng lao động, với luật thuế để có chính sách thuế thích hợp.

• Đảm bảo ổn định pháp luật và chính sách, giữ vững nguyên tắc để tạo niềm tin

• Nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư. Quy hoạch đầu tư tốt sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội được nâng cao. Xây dựng hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài phải là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch đầu tư chung của cả nước. Quy hoạch phải gắn với an ninh quốc phòng để dễ kiểm soát, có như vậy thì mới tránh được đầu tư tràn lan, theo phong trào phung phí các nguồn lực.

• Đổi mới đẩy mạnh công tác vận động đầu tư với chính phủ. Cần có hình thức như mở hội nghị các nhà đầu tư, tài trợ, họp báo, tiếp xúc với nhà đầu tư, quảng cáo, cán bộ ngành cần tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách các nước, các tập đoàn để có chính sách vận động đầu tư.

• Bên cạnh đó cần giữ vững ổn định về chính trị, an ninh, xã hội, phát huy những nét đẹp văn hoá của dân tộc Việt Nam như tính cần cù, chịu khó, thông minh, không ngại khổ. Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào Việt Nam.

C. Tác động của chính sách thu hút vốn đầu tư đến nền kinh tế Việt Nam hiện nay

I. Đầu tư

Năm 2009

Nhiều tổ chức tài chính, chuyên gia kinh tế nước ngoài nhận định năm 2010 nguồn vốn FDI vào Việt Nam có nhiều triển vọng sáng sủa, gắn với sự gia tăng lòng tin và cơ hội kinh doanh mới của các dự án FDI.

Đứng ở vị trí thứ 12 trong xếp hạng chung Chỉ số niềm tin FDI, Việt Nam được báo cáo của A.T. Kearney xếp ở vị trí thứ 93 về mức độ thông thoáng của môi trường kinh doanh (Ease of Doing Business Ranking).

Trong số các nước Đông Nam Á lọt vào Top 25 của xếp hạng Chỉ số niềm tin FDI 2010, Việt Nam đứng trên Indonesia (vị trí 21), Malaysia (vị trí 20), và Singapore (vị trí 24).

Tổng lượng xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu khí) năm 2009 đạt 29,9 tỷ USD, bằng 86,6 % so với năm 2008. Nếu không tính dầu thô, khu vực đầu tư nước ngoài xuất khẩu 23,6 tỷ USD. Nhập khẩu của khu vực này đạt 24,8 tỷ USD. Nhìn chung, cả năm 2009, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu tổng cộng 5,03 tỷ USD.

theo số liệu tính đến 15/12, trong năm 2009 cả nước có 839 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 24,6 % so với năm 2008 nhưng đây là cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay

Trong năm 2009, có 215 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3% so với năm 2008. Riêng trong tháng 12, FDI vào Việt Nam đạt 1,78 tỷ USD Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong năm 2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 21,48 tỷ USD, bằng 30% so với năm 2008

Tỷ trọng FDI trong các ngành nghề năm 2009

5 tháng đầu năm 2010

Xu hướng phục hồi tiếp tục thể hiện trong các con số về thu hút đầu tư

Xuất nhập khẩu khu vực FDI tăng mạnh

FDI vào Việt Nam năm 2010 đang có những động thái tích cực mới, với sự cải thiện khá rõ về quy mô vốn đăng ký/dự án, cơ cấu vốn đăng ký và mức giải ngân thực tế...

Sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng cho thấy sự tăng trưởng trở lại đầy ấn tượng, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo.

Xuất khẩu của khu vực FDI kể cả dầu thô ước đạt 13,8 tỷ USD, tăng 25,9% so với cùng kỳ và chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (so với 25,83 tỷ USD). Nếu không kể dầu thô, khu vực này ước đạt kim ngạch xuất khẩu 11,7 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm, tăng 39,1% so với cùng kỳ.

"Giá trị kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI cũng gia tăng mạnh mẽ trong 5 tháng đầu năm, do nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi", báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài cho biết.

Nhập khẩu của khu vực FDI ước đạt 13 tỷ USD trong 5 tháng qua, tăng 50,5% so với cùng kỳ, chiếm gần 42% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước (so với 31,2 tỷ USD).

Như vậy, khu vực doanh nghiệp FDI xuất siêu 800 triệu USD trong 5 tháng đầu năm. Nếu không kể dầu thô, khối này nhập siêu 1,3 tỷ USD.

II. Giải ngân vốn

Năm 2009

Các quốc gia trên thế giới vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn thách thức của cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong bối cảnh như vậy, nguồn cung vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) của các nước thành viên tổ chức OECD- DAC dành cho các nước đang phát triển đã có phần suy giảm và không đạt được chỉ tiêu cam kết như dự kiến, trong khi nhu cầu về ODA lại rất lớn. Việt Nam cũng như các quốc gia khác, không tránh khỏi những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên theo đánh giá của các nhà tài trợ, Việt Nam đang đối phó tốt với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và nền kinh tế Việt Nam có khả năng trụ vững trong cơn bão suy thoái toàn cầu. Bên cạnh đó, môi trường thể chế, pháp lý của Việt Nam đã được cải thiện và tiệm cận với thông lệ quốc tế; quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế không ngừng được củng cố và phát triển. Đó là những tiền đề quan trọng để các nhà tài trợ tiếp tục đặt niềm tin vào Việt Nam.

tính đến ngày 17/11, tổng vốn viện trợ phát triển chính thức đã ký kết đạt trên 5,4 tỷ USD, trong đó, vốn vay đạt gần 5,23 tỷ USD; viện trợ không hoàn lại đạt hơn 173 triệu USD. Nếu so với kết quả đạt được của cùng kỳ năm ngoái, vốn ODA ký kết đến thời điểm này đã cao hơn 36,62%. Các nhà tài trợ có giá trị hiệp định ODA đã ký lớn là WB, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)và Nhật Bản. Tổng giá trị ODA dự kiến ký kết trong tháng còn lại của năm 2009 khoảng 449,5 triệu USD, trong đó vốn vay khoảng 356,5 triệu USD; viện trợ không hoàn lại 93 triệu USD. Như vậy, nếu không có thay đổi lớn, tổng vốn ODA ký kết ước cả năm 2009 dự kiến sẽ đạt khoảng 5,85 tỷ USD, trong đó vốn vay là 5,585 tỷ USD; viện trợ không hoàn lại là 266 triệu USD. Đây là mức ký kết ODA cao nhất từ trước đến nay.

Xét về cơ cấu vốn ODA ký kết, chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm 30,9%) là lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ với 1,67 tỷ USD vốn ODA ký kết. Tiếp đến là lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản kết hợp phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm nghèo với gần 1,37 tỷ USD (chiếm 24,7%). Sau đó là giao thông vận tải với 899 triệu USD, chiếm tỷ trọng 16,7%; năng lượng với 818 triệu USD, chiếm 15,2%; cấp thoát nước và phát triển đô thị với gần 679 triệu USD, chiếm 12,6%.

Năm 2009, mức giải ngân ODA đã được cải thiện đáng kể đó là nhờ sự điều hành sát sao của Chính phủ, nỗ lực to lớn của các ngành, các cấp và các nhà tài trợ trong việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA theo chủ trương kích cầu đầu tư của Chính phủ. Cụ thể là: Chương trình vay giảm nghèo từ Ngân hàng Thế giới (WB) và tài trợ không hoàn lại của một số nhà tài trợ khác, trị giá 350 triệu USD; Khoản vay khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế từ ADB, trị giá 500 triệu USD; Khoản vay kích thích kinh tế và tín dụng hỗ trợ giảm nghèo lần thứ 8 trị giá 54,9 tỷ Yên (tương đương 609 triệu USD) do Nhật Bản tài trợ... Đồng thời, công tác quản lý và thực hiện vốn ODA ở các Bộ, ngành và địa phương đã được cải thiện thông qua việc ban hành các quy chế nội bộ về vận động, thu hút và sử dụng vốn ODA tạo thuận lợi cho việc tinh giản quy trình, thủ tục và tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ngành hoặc đơn vị liên quan. Các cơ quan Việt Nam đã có sự phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ như WB, ADB... trong việc kiểm điểm tình hình thực hiện dự án, đặc biệt giữa Tổ công tác ODA của Chính phủ và Nhóm 6 Ngân hàng phát triển. Tổ công tác ODA của Chính phủ đã phát huy vai trò tích cực trong việc xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình chuẩn bị và thực hiện các chương trình và dự án ODA, đặc biệt các kiến nghị, giải pháp đưa ra trong chuyến công tác các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Hồng gồm các tỉnh Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hoá.

5 tháng đầu năm 2010

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giải ngân vốn FDI đạt khoảng 900 triệu USD trong tháng 4, nâng tổng số vốn FDI giải ngân trong 4 tháng đầu năm 2010 lên 3,4 tỷ USD, tăng tới 36% so với cùng kỳ năm 2009. Trung bình, giải ngân vốn FDI đạt khoảng 850 triệu USD/tháng. Đây là mức khá cao và tương đương giải ngân vốn FDI giai đoạn trước suy thoái kinh tế.

Kết quả thu hút đầu tư vẫn duy trì sự khởi sắc với nhiều vốn cấp mới được các nhà đầu tư nước ngoài cam kết đầu tư vào Việt Nam. Trong tháng qua, đã có 97 dự án được trao giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký trên 1,5 tỷ USD. Tính chung 5 tháng qua, đã có 360 dự án đăng ký cấp mới với tổng vốn cam kết đầu tư đạt trên 7,1 tỷ USD, tăng 40% so với cùng kỳ 2009.

Tuy nhiên, "số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư tăng thêm trong 5 tháng đầu năm 2010 thấp hơn nhiều lần so với cùng kỳ", báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài cho biết.

Trong tháng 5/2010, chỉ có 15 dự án đăng ký tăng thêm vốn với tổng giá trị cam kết đầu tư đạt 78 triệu USD. Tính chung 5 tháng đầu năm, đã có 107 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 403 triệu USD, bằng 8,6% so với cùng kỳ năm 2009.

Do số vốn tăng thêm quá "khiêm tốn" đã kéo số vốn FDI đăng ký trong 5 tháng đầu năm đi xuống. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 5 tháng đầu năm, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 7,5 tỷ USD, chỉ bằng 77% so với cùng kỳ 2009.

Như vậy, kết quả giải ngân vốn FDI đang đạt tỷ lệ khá cao so với vốn đăng ký (4,5 tỷ so với 7,5 tỷ USD), thể hiện việc các dự án đăng ký đầu tư trước đó đang tăng tốc giải ngân tại thời điểm này.

* Kết luận

Như vậy các chính sách của chính phủ có nhiều tích cực hơn trong việc thu hút vốn đầu tư, giải ngân vốn, tuy nhiên cũng có nhiều mặt tiêu cực

Nhiều biện pháp được đưa ra nhưng thực hiện còn chậm,chưa triệt để, chưa nhất quán.Các chính sách về thuế tuy ngày càng được cải thiện nhưng vãn chưa ưu đãi tốt cho các nhà đầu tư, chính sách thuế còn nặng nề,thủ tục hành chính còn phức tạp, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào kinh doanh

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: